THÀNH THẬT LUẬN
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 2

Phẩm 13: LẬP LUẬN

Nay muốn luận giải Phật pháp lợi ích thế gian, vì Phật đem tâm đại bi làm lợi ích cho tất cả thế gian nên nói pháp nầy rộng không biên giới. Như hoặc có người chỉ vì dòng họ Bà-la-môn mà nói kinh giải thoát. Phật nói kinh đều vì độ thoát 4 phẩm loại chúng sinh cho đến loài súc sinh cũng không giới hạn.

Hỏi: Không nên tạo luận để luận giải lời Phật. Sở dĩ vì sao? Nếu Phật tự luận thì nên gọi là luận, nếu Phật không luận thì người khác không nên luận. Sở dĩ vì sao? Vì khó hiểu thấu ý thú của bậc Nhất thiết trí, không biết nói việc ấy để làm gì. Nếu không hiểu được ý Phật, mà nói ra tức là tự hại. Như trong kinh nói: Có 2 hạng người hủy báng Phật, một là vì không tin, ganh ghét nên hủy báng, hai là tuy có tin lời Phật nói, nhưng không thể lãnh thụ chắc chắc cũng là hủy báng Phật. Dù có chân trí mà không hiểu ý Phật, còn không nên luận giải lời Phật nói, huống là chưa được chân trí mà muốn tạo luận luận giải ý Phật ư? Sở dĩ vì sao? Như trong Kinh Dị Luận, Phật vì xúc nên nói việc như vậy. Các Tì-kheo có nhiều luận nghị khác nhau đều không đúng ý Phật.

Lại như trưởng lão Đại Ca-chiên-diên bảo các Tì-kheo rằng: Như người đốn cây đại thụ, bỏ hẳn thân gốc, mà chỉ lấy cành lá. Các người cũng vậy, bỏ rời Như Lai mà hỏi ta ư? Như Đại Ca-chiên-diên trong luận nghị mà thí dụ mình như cành lá huống chi người khác làm sao hiểu được lời Phật.

Lại Phật hỏi Xá-lợi-phất: Thế nào là học nhân? Thế nào là số pháp nhân? Ba phen hỏi mà không đáp được.

Lại nữa, Phật là cội gốc của tất cả các pháp, duy Phật mới hiểu, các người khác không thể hiểu được.

Lại khi A-nan bạch Phật rằng: Trong đường đắc đạo gặp thiện tri thức là được nửa phần lợi ích. Cũng có lý. Sở dĩ vì sao? Vì phải nhờ 2 nhân duyên chính kiến mới được sinh, một nghe từ người khác, hai tự mình chính niệm. Phật bảo A-nan: Chỉ gặp được thiện tri thức, thế là đầy đủ lợi ích đắc đạo cho mình rồi.

Lại như Phật nói: Nếu ta vì ông nói pháp, mà người ấy không hiểu ý ta nên sinh việc tranh luận. Nay các luận sư, mỗi người đều chấp theo ý mình. Hoặc cho quá khứ vị lai có pháp, hoặc có người cho là không. Phải biết các luận sư ấy chấp như vậy là vì không hiểu Như Lai tùy cơ thuyết pháp nên sinh tranh luận.

Lại như A-nan vì Tam-ma-đề mà nói các thụ đều là khổ. Bấy giờ, Phật bảo các Tì-kheo rằng: Các ông xem A-nan hãy còn lờ mờ nghĩa ấy.

Lại có các luận sư bảo: A-la-hán nên thụ cúng dường trước. Có Tì-kheo không hiểu liền đến hỏi Phật. Phật bảo: Ở trong pháp ta, người xuất gia trước nên thụ cúng dường. Việc ăn uống là thường mà còn không biết huống chi ý Như Lai nói pháp vi diệu. Vì các lẽ nói trên, cho nên không nên tạo luận.

Đáp: Không phải vậy. Sở dĩ vì sao? Vì có nhân duyên nên có thể biết ý người khác, như trong kệ nói: Có thể biết ý người thuyết giả hướng về nơi nào, cũng biết thuyết giả muốn nói việc gì. Có 2 thứ đạo: Thánh đạo và Thế gian đạo. Vấn đề này sau sẽ nói rộng. Nhờ 2 đạo này nên được biết ý thuyết giả.

Lại nữa, trong Kinh Dị Luận Phật cũng vẫn cho tạo luận.

Lại như Ca-chiên-diên và các vị đại luận nghị, đã lĩnh hội được ý Phật, nên Phật đều khen ngợi.

Lại các Tì-kheo như Ưu-đà-di, Tì-kheo-ni Đàm-ma-trần-na đều muốn xin tạo luận Phật pháp. Phật nghe liền cho ngay. Bởi Phật pháp thâm diệu, ai hiểu thì tạo mà không hiểu thì thôi. Như vậy ngoài ra các câu hỏi, Phật là cội gốc các pháp đều lấy đây làm câu trả lời chung.

Lại nữa, cần nên tạo luận. Sở dĩ vì sao? Vì, nếu kinh mà có tạo luận thì ý nghĩa dễ hiểu, Pháp Bảo được tồn tại ở đời bền lâu.

Lại Phật đã cho tạo luận, như trong kinh nói: Phật bảo Tì-kheo tùy ý tạo luận nhưng nên khéo thụ trì. Cho nên trong Tu-đa-la lấy nghĩa mà lập luận, riêng gọi là Dị Bộ, cho nên phải tạo luận.

Lại như Phật vì các chúng sinh đáng độ nên nói các môn luận nghị thế gian, như bọn Sa-đề không hiểu nổi nên tâm họ mê loạn. Nghĩa là bọn Sa-đề Tì-kheo chủ trương sinh tử vãng lai thường là một thức. Phật mới nói các pháp như vậy. Nếu không luận nghị làm sao giải thích được? Bởi các duyên nói trên, nên phải tạo luận.

Phẩm 14: CÁC MÔN LUẬN

Luận có 2 môn: 1. Thế giới môn. 2. Đệ nhất nghĩa môn. Do thế giới môn nên nói có ngã. Như trong kinh nói: Ta thường tự đề phòng, làm thiện tự được thiện, làm ác tự được ác.

Lại trong kinh nói: Tâm thức là thường.

Lại nói: Trọn đêm tu tâm, chết được sinh lên cõi trên.

Lại nói: Tác giả khởi nghiệp, tác giả tự chịu.

Lại nói: Chúng sinh nào đó sinh về nơi nào đó v.v… Như vậy đều do thế giới môn mà nói.

Đệ nhất nghĩa môn, là đều nói Không, nói Vô. Như trong kinh nói: Trong 5 ấm nầy không có ta và vật sở hữu của ta. Tâm như gió như ngọn lửa, sinh diệt từng mỗi niệm, tuy có các nghiệp và quả báo của nghiệp, nhưng tác giả và thụ giả đều bất khả đắc. Như Phật do nhân duyên 5 ấm liên tục tiếp nối nên nói có sinh tử.

Lại có 2 thứ luận môn: 1. Thế tục môn. 2. Hiền thánh môn. Thế tục môn, là do thế tục nên nói tháng hết. Kỳ thật tháng không hết. Như bà mẹ Ma-già-la xưng với con dâu là mẹ nhưng kỳ thật không phải mẹ. Như trong kinh nói: Lưỡi có khả năng biết vị, nhưng đó là do thiệt thức biết vị chứ không phải cái lưỡi biết vị. Như nói người giáo đâm là người bị khổ. Thực ra đấy cũng là thức biết khổ, chứ không phải người thụ khổ. Như người bần tiện mà đặt tên là Phú Quý. Phật cũng tùy người mà gọi Phú Quý.

Lại Phật gọi ngoại đạo Bà-la-môn cũng gọi Sa-môn.

Lại như các dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Phật cũng tùy tục gọi họ là tôn quý.

Lại như một đồ vật, tùy theo mỗi nước mà có tên gọi khác. Phật cũng tùy theo mà gọi.

Lại như Phật nói: Đây là lần chót ta thấy thành Tỳ-da-ly. Những lời nói như vậy đều tùy theo thế tục mà nói gọi là Thế tục môn.

Hiền thánh môn, là như trong kinh nói: Do nhân duyên sinh thức, mắt v.v… các căn giống như biển cả.

Lại như kinh nói: Chỉ có ấm, giới và nhập các duyên hòa hợp, chứ không có tác giả và thụ giả.

Lại nói tất cả khổ. Như trong kinh nói: Người đời nói vui, thánh nhân nói khổ. Trái lại thánh nhân nói khổ, người đời nói vui.

Lại có thuyết, nói không, vô tướng gọi là Hiền thánh môn. Và còn có Ba thời luận môn là nếu trong điều này nói là sắc, nếu sắc đã từng có, sẽ có, nay có, đều gọi là sắc. Thức cũng như vậy, nếu thức đã từng biết, sẽ biết, nay biết, đều gọi là thức. Các điều như trên, đều gọi là Ba thời luận môn.

Lại nữa, hoặc có luận môn, là nếu có xúc chắc chắn do 6 nhập, chứ không phải tất cả 6 nhập đều làm nhân cho xúc. Nếu có ái chắc chắn do nơi thụ, không phải tất cả thụ đều làm nhân cho ái. Hoặc nói nhân đầy đủ, như xúc là nhân duyên cho thụ. Hoặc nói nhân không đầy đủ, như thụ làm nhân duyên cho ái mà không vô minh. Hoặc có dị thuyết, như trong kinh nói: Tâm hoan hỷ thì thân khoan khoái. Tam thiền không hỷ, thân cũng có khoan khoái.

Lại nói khoan khoái là thụ lạc. Tứ thiền có khoan khoái mà không có thụ lạc. Đó gọi là dị thuyết.

Lại có thông suốt và bế tắc 2 thứ luận môn. Như trong kinh nói: Nếu có người khởi hành đi đến tháp để cúng dường, giữa đường bị chết, liền được sinh lên trời. Đó gọi là thông suốt.

Lại kinh khác nói: Người gây nghịch tội không được sinh lên trời. Đó gọi là bế tắc.

Lại trong kinh nói: Người thụ các thứ dục không điều ác nào không gây. Đó gọi là thông suốt. Bậc Tu-đà-hoàn tuy còn thụ các thứ dục, mà không hay gây nghiệp nhân đọa ác đạo. Đó gọi là bế tắc.

Lại trong kinh nói: Do mắt duyên sắc mới sinh nhãn thức. Đó gọi là thông. Nếu vậy thì nên duyên tất cả sắc đều sinh nhãn thức, nhưng không phải vậy.

Lại trong kinh nói: Do tai duyên tiếng sinh nhĩ thức, mà không sinh nhãn thức. Đó gọi là tắc.

Lại nữa, đã nói thông, tắc đều có đạo lý không hoại pháp tướng.

Lại có 2 thứ luận môn: Một quyết định, hai không quyết định. Quyết định là như nói Phật bậc Nhất thiết trí. Lời Phật nói ra gọi là chân diệu pháp. Chúng đệ tử của Phật gọi là người chính hạnh.

Lại nói tất cả pháp hữu vi v.v… đều vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt, Niết-bàn. Các pháp môn như thế thì gọi là quyết định. Không quyết định, là như nói ai chết cũng đều sinh. Thế là bất định; vì có ái thì sinh, hết ái thì diệt.

Lại trong kinh nói: Nếu được tâm định đều sinh thật trí. Đây cũng bất định, vì thánh nhân được định có thể sinh thật trí mà ngoại đạo được định thì không thể sinh trí.

Lại như kinh nói cầu gì đều được. Đấy cũng bất định. Hoặc được hoặc không được. Như nói 6 nhập chắc chắn có thể sinh xúc, cũng là bất định. Hoặc khi có sinh hoặc khi không sinh. Các điều như thế gọi là Bất định môn.

Lại như hữu vi không phải luận môn. Như nói hoa thơm cỏ lạ không xông nghịch gió.

Lại nói hoa Câu-tì-la có thể nghịch gió nghe mùi, vì là hoa người nên nói nghich gió không nghe, vì là hoa trời nên nói xông nghịch gió.

Lại nói có 3 sự cảm thụ là cảm thụ khổ, cảm thụ vui và cảm thụ không khổ không vui.

Lại các kinh khác nói có bao nhiêu cảm thụ đều là khổ. Có 3 thứ khổ là Khổ khổ, hoại khổ, và hành khổ. Vì nghĩa nầy nên mới nói có bao nhiêu thụ tất cả đều khổ.

Lại nói khổ này có 3 thứ là mới, cũ, vừa. Thụ mới thì vui, lâu chán thì khổ, vừa thì không khổ không vui.

Lại nói vì người đã đắc đạo nên gọi là đạo nhân, người chưa đắc đạo cũng gọi là đạo nhân. Có những nhân nương nhau như vậy mà được tên gọi.

Lại còn có Cận luận môn, như Phật bảo Tì-kheo: Ông dứt hý luận thì được Nê-hoàn. Tuy chưa được liền, nhưng vì gần được nên cũng gọi là được.

Lại có Đồng tướng luận môn, như nói một việc mà các việc khác đồng nhau, đều gọi là đã nói.

Lại như Phật nói tâm là nhẹ nhàng tức là đã nói các tâm số pháp khác.

Lại có Tùng đa luận môn, như Phật nói: Nếu người không biết tướng sinh diệt của 2 thứ kiến chấp, người ấy còn gọi đều có tham dục, nếu ai biết được thì gọi được ly dục. Người Tu-đà-hoàn cũng biết tướng sinh diệt của 2 kiến mà còn tham dục, nhưng bởi là người biết được phần nhiều là người ly dục.

Lại nữa, có thứ luận môn trong nhân nói quả, như nói thí thực là cho 5 việc: Mạng sống, sắc đẹp, sức mạnh, niềm vui và biện tài. Kỳ thật không cho mạng sống v.v… 5 việc kia chỉ cho cái nhân.

Lại như nói ăn tiền. Tiền không thể ăn được, chỉ nhờ tiền mà được cái ăn, nên gọi là ăn tiền đó thôi.

Lại như kinh nói: Nữ nhân cấu uế. Kỳ thật không phải cấu uế, bởi tham đắm các cấu uế phiền não, do đó mà gọi cấu uế.

Lại nói 5 trần là dục, mà thật không phải dục; vì nó hay sinh dục, mới gọi nó là dục.

Lại nhân duyên vui, gọi là vui. Như nói lấy pháp tập hợp người, người này là vui.

Lại nhân duyên khổ, gọi đó là khổ, như nói ở chung với người ngu, gọi đó là khổ. Như nói quá khổ quá vui.

Lại nói mạng sống là nhờ vật mạng, như trong kệ nói: Của tư sinh đều là ngoại vật của mạng sống, như cướp vật của người, gọi là cướp mạng.

Lại nói lậu nhân gọi là lậu, như Kinh Thất Lậu nói: Trong đây 2 thứ là thật lậu, ngoải ra 5 thứ kia là nhân duyên cho lậu mà thôi.

Lại trong quả nói nhân, là như Phật nói: Ta phải chịu nghiệp đời trước. Nghĩa là lãnh lấy nghiệp quả. Như thế có rất nhiều luận môn đều cần phải biết hết.

Phẩm 15: KHEN NGỢI

Nên học luận nầy. Sở dĩ vì sao? Vì học tập luận nầy được pháp của người trí. Như trong kinh nói: Đời có 2 hạng người, một là người trí, hai là người ngu. Nếu không khéo phân biệt các pháp ấm, giới, các thứ nhập, 12 nhân duyên và nhân quả gọi là người ngu. Nếu khéo phân biệt được các pháp ấm, giới nhập thì gọi là người trí. Nay trong luận nầy chính là phân biệt giải rõ các pháp ấm, giới, nhập, cho nên nhờ luận nầy nên không gọi là phàm phu.

Lại có 2 hạng người: một là phàm phu, hai là không phải phàm phu. Như nói tuy cạo râu tóc, mặc pháp phục, thụ oai nghi Phật, mà còn cách xa Phật pháp là vì không thành tựu các căn như tín v.v… Nếu người có thể thành tựu các căn như tín v.v… tuy là cư sĩ tại gia mà không gọi là phàm phu. Như trong kinh nói: Có 4 hạng người. Có người vào Tăng oai nghi mà không vào Tăng số, có người ở trong Tăng số mà không có Tăng oai nghi, có người vào Tăng oai nghi và vào Tăng số, có người không có Tăng oai nghi, cũng không phải Tăng số. Hạng đầu gọi là xuất gia phàm phu, hạng tiếp theo gọi là tại gia thánh nhân, hạng thứ 3 gọi là xuất gia thánh nhân, hạng thứ tư gọi là tại gia phàm phu. Do đó mới biết lìa các căn tín v.v… thì không vào Tăng số. Cho nên phải vì các căn tín v.v… siêng tu tinh tiến. Muốn được tín v.v… các căn cần phải đối với Phật pháp nghe học lãnh thụ đọc tụng như thuyết tu hành. Cho nên cần phải học tập luận Phật pháp nầy.

Lại nữa, từ luận nầy được 2 thứ lợi là tự lợi, lợi tha. Như trong kinh nói: Có 4 hạng người là có người tự lợi không lợi tha, có người lợi tha không hay tự lợi, có người lợi cả hai, có người không lợi cả hai. Nếu có thể tự đầy đủ các công đức giới mà không thể làm cho người trụ trong giới, đều gọi là tự lợi. Như vậy 4 hạng, nếu người tuy có khả năng tự lợi lại làm cho người khác tu bố thí v.v… được quả báo lớn, cũng gọi là lợi tha. Trong đây ý Phật không nói lợi nầy. Nếu người chỉ vì người khác nói pháp thì gọi là lợi tha. Người ấy tuy không tự tùy pháp hành, nhưng vì người nói pháp nên mình cũng được lợi. Như trong kinh nói: Vì người nói pháp được 5 thứ lợi. Trong đây ý Phật cũng không nói lợi nầy. Trong nầy chỉ nói lợi đệ nhất cao tột, nghĩa là như thuyết tu hành sẽ được hết các thứ lậu. Cho nên nói pháp có thể làm lợi cho người khác. Vì là gồm lợi, nên gọi là hơn cả trong mọi người, như vị đề hồ so với các vị khác.

Lại nữa, người nầy đang ở chỗ sáng, sau cũng vào chỗ sáng. Chúng sinh trong thế gian, phần nhiều từ chỗ tối, vào chỗ tối. Nếu tu chút ít Phật pháp, người nầy cũng có thể từ tối vào sáng. Sở dĩ vì sao? Vì tu bố thí được lợi không bằng lợi nghe Phật pháp. Nếu được nghe chút ít lời Phật nói có thể được đạt tuệ, phá các suy não, được lợi ích vô lượng. Như trong kinh nói: Có 4 hạng người, có người từ tối vào tối; có người từ tối vào sáng; có người từ sáng vào sáng; có người từ sáng vào tối.

Lại có 4 hạng người, có người thuận dòng; có người nghịch dòng; có người trụ giữa dòng; và có người được qua khỏi dòng. Nếu người nhất tâm nghe Phật pháp, người ấy liền trừ được 5 thứ ngăn che, tu 7 thứ giác ý. Cho nên người nầy ngăn được dòng sinh tử, gọi là nghịch dòng, cũng gọi là trụ, cũng được gọi là qua khỏi dòng.

Lại có 4 hạng người, có người chìm luôn, có người tạm ngoi đầu lên rồi chìm lại, có người được ngoi lên xem, và có người được vượt qua. Nếu không thể sinh các công đức đức tùy thuận Nê-hoàn như tín v.v… thì gọi là chìm luôn. Hoặc sinh các công đức thế gian như tín v.v… mà không thể bền chắc, vừa sinh liền lại lui mất, gọi là tạm ngoi lên liền chìm, sinh khởi các công đức tùy thuận Nê-hoàn như tín v.v… và phân biệt thiện ác, gọi là ngoi đầu lên xem, và đầy đủ tu tập các công đức tùy thuận Nê-hoàn như tín v.v… thì gọi là người được vượt qua. Nếu người có thể hiểu chính nghĩa Phật pháp, hoàn toàn không chìm mất, giả sử có tạm thời thoái lui cũng không mất vĩnh viễn, là vì người nầy gọi là người tu công đức. Nếu người không tu thân giới tâm tuệ dù làm ác nghiệp ít cũng bị đọa ác đạo. Nếu người có tu tập thân giới tâm tuệ, dầu gây nhiều ác, vẫn không vào ác đạo. Người tu thân, nhờ văn tuệ mà tu thân thụ tâm pháp. Vì tu thân nên dần dần có thể sinh các phẩm giới, định, tuệ, có thể diệt các nghiệp. Vì các nghiệp diệt nên sinh tử cũng diệt theo.

Lại như trong kinh nói có 4 hạng người: Có hạng kết sử nhạy bén mà không sâu. Có hạng sâu mà không nhạy bén. Có hạng cũng sâu cũng nhạy bén và có hạng không sâu không nhạy bén. Hạng đầu tiên gọi là có tăng thượng kết, vì thường thường đến. Hạng kế gọi là nhuyễn trung kết, thường đến ở tại tâm. Hạng 3 gọi là như tăng thượng kết, thường đến ở tại tâm. Hạng 4 gọi là như nhuyễn trung kết thỉnh thoảng mới đến.

Nếu người được nghe chính luận Phật pháp, thì dứt được 2 thứ kết sâu mà nhạy bén và hiểu rõ chính nghĩa Phật pháp thì không những không não hại mình mà cũng không não hại người khác nữa. Ngoại đạo giữ giới tức là tự não hại thân, nếu lạc vào tà kiến tức hại người khác nữa, vì cho rằng không có tội phúc nghiệp nhân quả báo gì cả. Nếu tu bố thí thì cũng hại mình hại người, như trong các miếu thờ trời, sát hại biết bao nhiêu bò dê. Nếu hiểu được nghĩa Phật pháp thì được lợi ích là không hại mình và không hại người khác, như người được thiền định tu hạnh từ bi. Cho nên cần phải học tập luận Phật pháp nầy.

Lại như người học luận nầy, là có thể cùng trao đổi, vì đã hiểu đúng nghĩa. Như trong kinh nói: Nếu khi luận nghị, cần phân biệt là nên cùng nghị luận hay không nên cùng nghị luận. Nếu người không trụ trong pháp của người trí, không trụ trong xứ phi xứ, hoặc không trụ trong phân biệt và không trụ trong đạo thì những người ấy đều gọi không nên cùng nghị luận. Nếu trái lại các thứ trên gọi là có thể cùng nghị luận. Không trụ trong pháp của người trí, là luận giả lấy chính trí tuệ khéo giải nghĩa thú, nhiên hậu mới chấp dụng. Người ấy không biết thì không chấp. Như các phái Ni-kiền tử tự nói: Thầy ta là người đáng tin. Nhưng đó chỉ theo lời nói suông mà thôi. Không trụ xứ phi xứ, là không trụ trong dụng nhân. Các ngoại đạo đối với 2 thứ nhân là nhân chung và nhân khác. Nếu có người hỏi nhân chung, thì họ lấy nhân khác đáp. Hoặc có người hỏi nhân khác, thì lại lấy nhân chung đáp. Thế là không trụ trong 2 thứ nhân như vậy. Không trụ trong phân biệt, là không trụ trong thí dụ. Không trụ trong đạo là không trụ đạo luận nghị. Như nói luận giả đừng thốt ra lời thô ác, đừng bỏ nghĩa tông, chỉ nên nói lời phương tiện thiệt lợi khuyến dụ khiến người tỏ ngộ tự tâm vui mừng gọi là Thánh ngữ pháp. Trong đây nếu luận giả là người hiểu biết chính nghĩa Phật pháp mới nên cùng luận, ngoải ra đều không phải.

Lại có người không nên cùng nghị luận. Có lối nên dùng quyết định để đáp câu hỏi thì lấy bất định đáp, nên dùng phân biệt đáp câu hỏi thì lấy bất phân biệt đáp, nên chất vấn lại để đáp câu hỏi thì không chất vấn lại mà đáp, nên bỏ không đáp câu hỏi mà đáp chứ không bỏ. Trái lại với các thứ trên thì gọi là nên cùng nghị luận.

Nên định đáp câu hỏi, là duy có một nhân. Như Phật Thế Tôn người đời không sánh bằng. Cứ như đây mà suy rộng ra.

Nên phân biệt đáp câu hỏi, là lại có các nhân duyên như chết rồi lại nối tiếp nhau.

Nên chất vấn lại đáp câu hỏi, là như có người hỏi mình, mình hỏi lại bắt người ấy đáp.

Nên bỏ không đáp câu hỏi, là như pháp không có thật thể, chỉ có giả danh. Nếu hỏi pháp này là một hay là khác, là thường hay là vô thường v.v…, đó là nghĩa không đáp, vì duy có người nào hiểu Phật pháp mới có thể biết được. Cho nên phải cần học tập luận Phật pháp nầy.

Lại có 3 hạng người: chính định, tà định và bất định. Người chính định quyết vào Nê-hoàn, người tà định quyết không vào Nêhoàn, ngoài ra gọi là bất định. Nếu người có thể hiểu nghĩa Phật pháp, thì quyết vào chính định.

Lại có 4 hạng người: thuần tội, nhiều tội, ít tội và không tội. Thuần tội là như người chỉ có bất thiện mà không có một pháp thiện, nhiều tội là nhiều ác ít thiện, ít tội là nhiều thiện ít ác, và không tội là chỉ có thiện pháp mà không có bất thiện. Nếu người nào có thể hiểu chính nghĩa Phật pháp quyết được vào 2 hạng ít tội và không tội.

Lại nữa, nếu người hiểu nghĩa Phật pháp thì chịu khổ có hạn, vì quyết sẽ được đến Niết-bàn.

Phẩm 16: BỐN PHÁP

Lại nữa, nếu học tập luận nầy được thượng nhiếp pháp. Như trong kinh nói: Có 4 nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng lợi. Bố thí là áo cơm các vật, đem các vật nầy bố thí để thâu nhiếp chúng sinh, nhưng vẫn bại hoại. Ái ngữ là tùy theo ý mà nói, mà cũng có lỗi vì thủ lấy ý người kia. Lợi hành là mình cầu lợi vì người khác, như có cơ hội giúp người thành sự, cũng bị hư hoại. Đồng lợi là như đi chung một thuyền, buồn vui cùng nhau, cũng hoặc có khi hoại. Nếu người đem pháp mà bố thí, mà ái ngữ, mà lợi hành và đồng lợi để nhiếp hóa chúng sinh thì không thể hư hoại, vì đem pháp mà nhiếp hóa là học tập luận nầy.

Lại nữa, học tập luận này sẽ được chỗ y chỉ cao. Như trong kinh nói: Y theo pháp không y theo người. Có người tuy nói: Tôi theo Phật nghe pháp, hoặc theo Tì-kheo nhiều tri thức mà nghe, hoặc theo nghe hai ba Tì-kheo, hoặc nghe trong đại chúng, hoặc ở bên các Đại đức tôn túc mà được nghe. Không nên tin những người nầy mà liền lãnh thụ những lời nói của họ. Nếu lời nói của họ ăn nhập trong Tu-đa-la, không trái pháp tướng, tùy thuận Tì-ni nhiên hậu mới nên lãnh thụ. Nói ăn nhập trong Tu-đa-la là đúng vào trong liễu nghĩa khế kinh. Liễu nghĩa khế kinh là nghĩa lý không trái với pháp tướng. Pháp tướng là tùy thuận Tì-ni. Tì-ni gọi là Diệt. Như quán pháp hữu vi là Thường, là Lạc, là Ngã, là Tịnh thì không diệt được tham sân si v.v… Nếu quán pháp hữu vi là vô thường, khổ, không vô ngã thì diệt được tham v.v…. Biết được vô thường v.v… gọi là biết pháp tướng. Cho nên y pháp không nên y người. Như nói y pháp thì đã gồm hết tất cả pháp. Cho nên tiếp theo nói y kinh liễu nghĩa chứ không y kinh không liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa tức là đệ tam y nghĩa là y nơi nghĩa, không y nơi lời nói. Nếu lời nghĩa nầy ăn nhập trong Tu-đala, không trái với pháp tướng, tùy thuận Tì-ni, ấy là y chỉ. Y trí bất y thức, nói thức là biết sắc v.v… các pháp. Như trong kinh nói: Có thể biết nên thức trí là thông đạt thật pháp. Như trong kinh nói: Như thật biết sắc, thụ, tưởng, hành và thức cho nên nói là trí. Như thật tức là không. Cho nên thức có chỗ sở đắc, vì thế không nên y. Nếu y nơi trí, tức là y nơi không. Muốn thông đạt pháp thượng y chỉ đây, nên cần phải học tập luận nầy.

Lại như trong kinh nói: Trời, người có 4 điều có thể tăng trưởng thiện pháp: 1. Ở chỗ thiện. 2. Y người thiện. 3. Tự phát chính nguyện. 4. Đời trước đã trồng thiện căn. Ở chỗ thiện là ở giữa nước, được xa lìa 5 nạn. Y người thiện là sinh được gặp Phật ra đời. Đời trước đã trồng thiện căn là không bị điếc, câm và các tật khác. Tự phát chính nguyện là chính kiến. Nhờ theo học nghe Phật pháp mà sinh chính kiến. Cho nên cần phải học tập chính luận Phật pháp nầy.

Lại nữa, người nào tụng tập luận nầy, trong tuổi thọ được lợi ích lớn và kiên cố. Như trong kinh nói: Có 4 kiên pháp: Thuyết kiên, định kiên, kiến kiên, giải thoát kiên. Thuyết kiên là như nói tất cả pháp hữu vi đều là vô thường, khổ, tất cả vô ngã, tịch diệt Nê-hoàn thì gọi là thuyết kiên, đây là văn tuệ đầy đủ. Nhờ đây mà được định, đây là tư tuệ đầy đủ.

Lại nhờ định nầy mới quán pháp hữu vi là vô thường, khổ v.v…

mới được chính kiến, gọi là tu tuệ đầy đủ. Được quả của 3 tuệ thì gọi là giải thoát kiên.

Lại như được học nghe chính luận Phật pháp thì được lợi lớn. Như trong kinh nói 4 pháp lợi ích lớn là gần gũi người thiện, lắng nghe chính pháp, tự chính nghĩ nhớ, tùy thuận pháp hành. Nếu gần người thiện thì được nghe chính pháp, vì chính pháp ấy ở nơi người thiện. Nghe chính pháp rồi thì sinh chính niệm. Đem vô thường v.v… chính quán các pháp. Nhờ chính quán nầy, có thể tùy pháp hành, tức được kiến giải vô lậu.

Lại được nghe luận nầy thì đủ 4 thứ đức xứ là tuệ đức xứ, thật đức xứ, xả đức xứ, tịch diệt đức xứ. Nghe pháp sinh tuệ là tuệ đức xứ. Nhờ trí tuệ nầy thấy được chân đế không, là thật đức xứ. Vì thấy chân không, nên được lìa phiền não là xả đức xứ. Vì hết phiền não tâm được tịch diệt là tịch diệt đức xứ.

Lại nữa người được nghe chính luận Phật pháp thì trồng được 4 thứ thiện căn tùy thuận Nê-hoàn đó là noãn pháp, đảnh pháp, nhẫn pháp, và thế gian đệ nhất pháp. Vì khi đem vô thường v.v… các hạnh quán 5 ấm sinh tùy thuận Nê-hoàn là hạ noãn thiện căn, có thể khiến tâm nóng nên gọi là noãn pháp. Noãn pháp tăng trưởng thành trung thiện căn gọi là đảnh pháp. Đảnh pháp tăng trưởng thành thượng thiện căn gọi là nhẫn pháp. Nhẫn pháp tăng trưởng thành thượng thượng thiện căn gọi là thế gian đệ nhất pháp.

Lại có 4 thứ thiện căn là thoái phần, trụ phần, tăng phần và đạt phần. Lìa các thiền định mà lễ kính đọc tụng, các thiện căn nầy gọi là thoái phần. Được các thiện căn thiền định, gọi là trụ phần. Từ nghe nghĩ v.v… sinh các thiện căn gọi là tăng phần. Vô-lậu thiện căn, gọi là đạt phần. Nếu được nghe Phật pháp thì hẳn lìa thoái phần được 3 phần thiện căn sau.

Phẩm 17: BỐN ĐẾ

Nếu người được nghe nghĩa Phật pháp thì có thể biết phân biệt rõ 4 đế là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Khổ đế là 3 cõi. Cõi Dục là từ địa ngục A-tì đến cõi Tha Hóa Tự Tại. Cõi Sắc là từ cõi Phạm Thế đến cõi trời A-ca-ni-tra. Cõi Vô sắc là 4 Vô sắc.

Lại có 4 sắc xứ là sắc, thụ, tưởng, hành. Các ngoại đạo hoặc cho thức nương nơi Thần mà tồn tại. Do đó nên Phật nói thức nương 4 chỗ này.

Lại có 4 loài sinh là loài sinh trứng, sinh thai, sinh do ẩm ướt, sinh do biến hóa. Tất cả trời và địa ngục là hóa sinh. Ngạ quỷ thuộc 2 thứ là thai sinh và hóa sinh. Ngoải ra gồm đủ 4.

Lại có 4 cách ăn gọi là sủy thực, xúc thực, ý tư thực, thức thực. Sủy thực là hoặc thô hoặc tế, như cơm v.v… là thô, dầu mỡ hương khí và các thứ uống là tế. Xúc thực là lạnh, nóng, gió v.v…. Ý tư thực là hoặc có người nhờ nghĩ muốn mà mạng được sống. Thức thực là thân trung ấm và địa ngục, vì các chúng sinh nầy không có thân sắc chất; những người vào diệt tận định, tuy không hiện thức, mà thức vẫn tồn tại nên cũng gọi là thức thực.

Lại có 6 đạo. Thượng tội là địa-ngục. Trung tội là súc sinh. Hạ tội là ngạ quỉ. Thượng thiện là thiên đạo; trung thiện là nhân đạo, hạ thiện là A-tu-la đạo.

Lại có 6 thứ, là địa, thủy, hỏa, phong, không và thức. Bốn đại bao vây nhau trống không, có thức nương ở trong đó, thường gọi là người.

Lại có 6 xúc nhập, là mắt v.v… 6 căn cùng với thức hòa hợp, gọi là xúc nhập.

Lại có 7 chỗ của thức. Trong đó vì sức điên đảo nên thức ham thích trụ ở đó.

Lại thế gian có 8 pháp là lợi, suy, xưng, cơ, hủy, dự, khổ và lạc. Người thế gian chắc chắn phải chịu các điều này nên gọi là thế pháp. Còn có 9 chỗ chúng sinh ở. Chúng sinh đều bởi sức điên đảo cho nên có thể ở nơi đây.

Lại có 5 thứ để phân biệt các pháp, là 5 ấm, 12 nhập, 18 giới, 12 nhân duyên và 22 căn. Năm ấm là nhãn sắc là sắc ấm. Nương đây sinh thức có thể thủ tiền sắc gọi là thức ấm. Ngay khi tâm sinh nghĩ tưởng nam, nữ người oán người thân đều gọi là tưởng ấm. Nếu phân biệt biết oán thân hay người không phải oán thân, rồi sinh 3 thứ thụ gọi là thụ ấm. Trong 3 thứ thụ nầy sinh 3 thứ phiền não gọi là hành ấm. Bởi điều này mà sinh 3 thứ phiền não gọi là hành ấm. Bởi điều này mà sinh khởi nhân duyên thụ thân gọi là 5 thụ ấm. Do 4 duyên thức mới được sinh, là nhân duyên, thứ đệ duyên, duyên duyên và tăng thượng duyên. Lấy nghiệp làm nhân duyên, thức là thứ đệ duyên. Do thức thứ lớp sinh thức nên sắc là duyên duyên, nhãn là tăng thượng duyên. Trong đây thức do 2 nhân duyên sinh, như nhãn sắc cho đến ý pháp gọi là 12 nhập. Trong đây thêm thức gọi là 18 giới, nghĩa là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới v.v…

Ấm nầy và các pháp làm sao sinh được?

Ở trong 12 nên gọi là 12 nhân duyên. Trong đây vô minh là phiền não, hành là nghiệp. Nhân 2 điều này thứ lớp sinh thức, danh sắc, 6 nhập, xúc, thụ, ái, thủ, 2 pháp gọi là phiền não. Còn hữu gọi là nghiệp. Lúc ban đầu lãnh thụ thân thức trong đời vị lai, gọi đó là sinh, ngoài ra gọi là lão tử. Mười hai nhân duyên nầy hiển thị có quá khứ vị lai và hiện tại. Nhưng vì các duyên nương nhau sinh khởi nên không có ngã.

Lại vì sinh tử vãng lai hoàn diệt nên nói có 22 căn. Tất cả chúng sinh, khi ban đầu thụ thân lấy thức làm gốc. Thức nầy có 6 thứ. Từ nhãn v.v… sinh nên gọi là 6 căn, như nhãn căn cho đến ý căn. Có thể sinh 6 thức nên gọi là 6 căn. Có thể phân biệt tướng nam nữ nên gọi là nam căn nữ căn. Có người cho đó là phần ít của thân căn. Sáu căn này hoặc gọi là 6 nhập. Do 6 thứ nầy sinh 6 thứ thức nên gọi là thọ mạng. Sở dĩ vì sao? Là 6 nhập, 6 thức nầy được liên tục sinh nên gọi là thọ mạng. Dứt sự liên tục này gọi là chết. Cho nên Điều này gọi đó là thọ mạng.

Trong đây những gì làm căn? Đó gọi là nghiệp. Vì do nghiệp nên 6 nhập 6 thức mới được liên tục sinh. Ở trong thọ mạng nầy nghiệp gọi là mạng căn. Nghiệp nầy từ các thứ lãnh thụ sinh. Các thứ thụ tức là lạc v.v… 5 căn. Do 5 căn nầy sinh tham ái v.v… tất cả phiền não và thân, khẩu nghiệp. Nghiệp nhân duyên nầy lại chịu lấy sinh tử, ấy là pháp cấu uế, có thể khiến nhân duyên sinh tử nối nhau. Vậy lấy nhân duyên gì có thể sinh tịnh pháp?

Chắc chắn phải do tín v.v…. Tín v.v… 4 pháp nhân duyên thành tuệ. Tuệ có 3 là chưa biết, muốn biết, đã biết. Như khi tu tập hay ra làm việc gì, căn này đều là sai biệt của trí tuệ. Phật lấy sinh tử, vãng lai, hoàn diệt, cấu tịnh nên nói có 22 căn. Các pháp như vậy đều thuộc về khổ đế. Người nào có thể biết đây thì gọi khéo biết khổ đế.

Tập đế là nghiệp và phiền não. Về nghiệp, sẽ nói trong Phẩm nghiệp. Phiền não cũng sẽ nói trong Phẩm phiền não. Các nghiệp phiền não là nhân duyên của thân sau, nên gọi là tập đế.

Diệt đế là cũng sẽ nói rộng hơn trong nhóm diệt đế, là giả danh tâm, pháp tâm, không tâm. Diệt 3 thứ tâm này nên gọi là diệt đế.

Đạo đế là 37 phẩm trợ Bồ-đề pháp, là 4 niệm xứ, 4 chính cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 Bồ-đề phần, và 8 Thánh đạo phần.

Bốn niệm xứ, là thân, thụ, tâm, pháp. Trong chính an niệm và từ niệm sinh tuệ, quán thân vô thường v.v… rồi an trụ trong cảnh duyên, gọi là thân niệm xứ. Do niệm và tuệ nầy lần lượt tăng thêm có thể phân biệt để lãnh thụ, gọi là thụ niệm xứ. Và càng tăng thêm tâm thanh tịnh có thể phân biệt, gọi là tâm niệm xứ. Có thể đem chính hành phân biệt các pháp, gọi là pháp niệm xứ.

Bốn chính cần, là nếu ác pháp bất thiện đã sinh, thấy có tội lỗi, vì để dứt trừ nên mới sinh muốn siêng có thể tinh tiến. Đoạn phương tiện gọi là tri kiến. Do ác pháp bất thiện chưa sinh. Vì để không sinh nên mới sinh muốn siêng năng tinh tiến. Để không sinh phương tiện tức là tri kiến. Do thiện pháp chưa sinh, vì muốn sinh mới sinh siêng năng tinh tiến. Sinh phương tiện tức là tri kiến. Do thiện pháp đã sinh, vì để tăng trưởng nên muốn siêng năng tinh tiến. Vì 3 lực thượng, trung, hạ phương tiện thứ lớp và bất thoái chuyển.

Bốn như ý túc, là muốn thành tựu diệu hạnh Tam- muội, nên tu như ý phần. Vì muốn sinh Tam-muội, gọi là dục Tam-muội. Muốn tinh tiến, tín, hỷ, ức niệm, an tuệ, tư, xả, hết v.v… các diệu pháp nầy cộng thành, gọi là diệu hạnh thành tựu. Công đức tăng trưởng nên gọi là như ý túc. Vì muốn tăng trưởng nên gọi là tinh tiến. Đó gọi là thứ 2. Có hành giả muốn có tinh tiến nên mới tu tập định tuệ. Được tâm Tam-muội, tức là định. Tư duy Tam-muội tức gọi là tuệ.

Năm căn, là nghe pháp sinh lòng tin, gọi là tín căn. Tin rồi vì muốn dứt cấu pháp để chứng tịnh pháp nên mới siêng năng phát khởi tinh tiến, gọi là tinh tiến căn. Tu 4 niệm xứ, gọi là niệm căn. Nhờ niệm căn thành Tam-muội, gọi là định căn. Nhờ định sinh tuệ, gọi là tuệ căn. Năm căn nầy tăng trưởng có sức mạnh, gọi là 5 lực.

Tám thánh đạo phần, là từ nghe sinh tuệ có thể tin 5 ấm là vô thường, khổ v.v… gọi là chính kiến. Tuệ này hoặc từ suy nghĩ mà sinh, gọi là chính tư duy. Do chính tư duy dứt các pháp bất thiện, tu tập các thiện pháp, phát sinh hạnh tinh tiến, gọi là chính tinh tiến. Từ đây mới lần lượt đi xuất gia, thụ giới được 3 thứ đạo phần là chính ngữ, chính nghiệp và chính mạng. Nhờ chính giới nầy làm thành niệm xứ và các thứ thiền định. Nhân nhờ niệm định nầy được trí như thật gọi là 8 Thánh đạo phần. Theo thứ lớp là như vậy. Và trong 8 Thánh đạo phần, giới phải đứng đầu. Sở dĩ vì sao? Vì nghĩa trong phẩm giới định tuệ là thứ lớp như vậy. Chính niệm, chính định, gọi là định phẩm. Tinh tiến thường đi khắp tất cả chỗ. Tuệ phẩm là cận đạo nên sẽ nói sau. Tuệ này có 2 thứ, hoặc thô hoặc diệu. Thô là văn tuệ tư tuệ, gọi là chính tư duy. Diệu là tu tuệ tức là vào trong các pháp noãn đảnh. Có thể phá giả danh và pháp 5 ấm, gọi là chính kiến. Do chính kiến này mà thấy 5 ấm diệt, gọi là sơ nhập đạo. Từ đây tiếp được 7 pháp Bồ-đề phần. Niệm Bồ-đề phần là người học nếu mất niệm thì khởi phiền não nên phải buộc niệm ở chỗ thiện. Mà buộc được niệm thì trước tiên là được chính kiến, đó gọi là trạch pháp. Không bỏ trạch pháp gọi là tinh tiến. Lúc tu tinh tiến, phiền não giảm thiểu, tâm sinh vui mừng, nên gọi là hỷ. Vì tâm vui nên thân được khoan khoái, nên gọi là sảng khoái. Thân sảng khoái được vui, vui thì tâm định. Định nầy khó được nên gọi là kim cương định. Được quả không chấp đắm, dứt buồn vui v.v…, thì gọi là xả. Đây gọi là thượng hành, không chìm đắm, không bộc phát, tâm được bình đẳng nên gọi là xả. Bồ-đề gọi là vô học trí. Tu 7 pháp này có thể được Bồ-đề, gọi là Bồ-đề phần.

Tu 37 phẩm nầy được 4 quả Sa-môn. Quả Tu-đà-hoàn là thông đạt được pháp không. Do không trí nầy có thể dứt 3 kết sử. Quả Tưđà-hàm là cũng tu đạo nầy được làm mỏng phần phiền não trong cõi Dục, chỉ còn 2 lần sinh tử nữa là xong. Quả A-na-hàm là có thể dứt tất cả phiền não của cõi Dục. Quả A-la-hán là dứt tất cả phiền não. Nếu ai tu tập được chính luận Phật pháp này thì có thể thông đạt 4 đế, được 4 quả Sa-môn. Cho nên cần phải tu tập chính luận Phật pháp nầy.

Phẩm 18: CÁC NHÓM PHÁP

Lại nữa người học tập luận nầy thì thông đạt được các nhóm các pháp khả tri. Vì thông đạt nên tà luận của ngoại đạo không thể tấn công được, và cũng có thể mau diệt được phiền não, tự mình lìa khổ và cũng cứu độ được người khác. Các nhóm các pháp khả tri là pháp tri, pháp khả thức, gồm: Pháp sắc, pháp vô sắc. Pháp thấy được, pháp không thấy được. Pháp có đối, pháp không đối. Pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Pháp hữu vi, pháp vô vi. Pháp tâm, pháp phi tâm. Pháp tâm số, pháp phi tâm số. Pháp tâm tương ưng, pháp tâm không tương ưng. Pháp tâm cộng hữu, pháp tâm không cộng hữu. Pháp tùy tâm hành, pháp không tùy tâm hành. Pháp bên trong, pháp bên ngoài. Pháp thô, pháp tế. Pháp trên, pháp dưới. Pháp gần, pháp xa. Pháp thụ, pháp phi thụ. Pháp xuất, pháp phi xuất. Pháp chung với phàm phu, pháp không chung với phàm phu. Pháp theo thứ tự, pháp không theo thứ tự. Pháp có thứ tự, pháp không có thứ tự. Các pháp như vậy là đi từng đôi 2 pháp.

Lại có pháp đi theo bộ 3 như: Pháp sắc, pháp tâm, pháp tâm không tương ưng. Pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại. Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký. Pháp học, pháp vô học, pháp phi vô học. Pháp kiến đế đoạn, pháp tư duy đoạn, pháp vô đoạn. Các pháp như vậy là đi theo bộ 3.

Lại có các pháp đi theo bộ 4 như: Pháp buộc cõi Dục, pháp buộc cõi sắc, pháp buộc cõi vô sắc, pháp không buộc.

Lại có 4 đạo là khổ khó tu đạo, khổ dễ tu đạo, vui khó tu đạo, vui dễ tu đạo.

Lại có 4 ý vị là xuất vị, ly vị, tịch diệt vị, chính trí vị.

Lại có 4 chứng pháp là tâm chứng pháp, niệm chứng pháp, nhãn chứng pháp, tuệ chứng pháp và 4 thụ thân, 4 nhập thai, 4 duyên, 4 tin. 4 thánh chủng. 4 ác hành. Như vậy v.v… là loại 4 pháp. 5 ấm. 6 chủng. 6 nội nhập. 6 ngoại nhập, 6 sinh tính. 6 hỷ hành. 6 ưu hành. 6 xả hành. 6 diệu hành. 7 tịnh. 8 phúc sinh. 9 thứ tự diệt. 10 thánh xứ. 12 nhân duyên.

Các nhóm các pháp khả tri như vậy nhiều vô lượng vô biên không thể nói hết. Nên tôi nay chỉ lược nêu cương yếu mà thôi. Pháp khả tri là đệ nhất nghĩa đế. Pháp khả thức là thế đế. Pháp sắc là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Pháp vô sắc là tâm và vô tác pháp. Pháp có thể thấy là sắc nhập. Pháp có đối là sắc pháp. Pháp hữu lậu là nếu pháp ấy có thể sinh các thứ lậu, như phi A-la-hán tâm trong pháp giả danh. Pháp hữu vi là do các duyên sinh khởi, tức là 5 ấm. Pháp vô vi là diệt sạch 5 ấm. Pháp tâm là có thể duyên. Pháp tâm số là nếu thức được cảnh duyên tức thì thứ tự sinh tưởng v.v… Pháp tâm tương ưng là thức được cảnh duyên thứ tự ắt sinh khởi, như tưởng v.v… Pháp tâm cộng hữu là pháp và tâm đôi bên có chung, như sắc và tâm không tương ưng hành. Pháp tùy tâm hành là nếu pháp có tâm thì sinh, không tâm thì không sinh, như thân, khẩu vô tác nghiệp. Pháp bên trong là 6 thứ nhập bên trong của thân thể. Pháp thô tế là đối đãi với nhau mà có, như quán 5 dục sắc định là tế, quán vô sắc định thì sắc định là thô. Pháp trên dưới cũng như vậy. Pháp gần xa là hoặc phương khác cho nên xa, hoặc không tương tự nên xa. Pháp thụ là từ thân sinh ra pháp. Pháp xuất là pháp thiện. Pháp chung với phàm phu là pháp hữu lậu. Pháp thứ tự là từ cái khác mà thứ tự sinh ra. Pháp có thứ tự là có thể sinh thứ tự. Pháp sắc là sắc v.v… 5 pháp. Pháp tâm là như trước đã nói. Pháp tâm không tương ưng hành là vô tác nghiệp. Pháp quá khứ là pháp đã diệt rồi. Pháp vị lai là pháp sẽ sinh. Pháp thiện là pháp làm lợi ích các chúng sinh và chân thật trí. Trái với pháp trên đây là pháp bất thiện. Trái với cả 2 điều trên là pháp vô ký. Pháp học là pháp người học tâm vô lậu. Pháp vô học là pháp đệ nhất nghĩa tâm của người vô học. Ngoài ra gọi là phi học phi vô học. Pháp kiến đế đoạn, là pháp Tu-đà-hoàn đoạn được hiện tướng ngã mạn và từ đấy sinh ra. Pháp tư duy đoạn, là pháp Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm đoạn được ngã mạn không hiện tướng và từ đây sinh ra. Pháp không đoạn là vô lậu. Pháp hệ thuộc cõi Dục là nếu pháp đem lại quả báo địa ngục A-tì cho đến trời Tha Hóa Tự Tại. Pháp hệ thuộc cõi Sắc là từ cõi Phạm Thế cho đến cõi trời A-ca-ni-tra. Pháp hệ thuộc cõi Vô sắc là 4 cõi Vô sắc. Pháp không hệ thuộc là pháp vô lậu. Khổ khó tu đạo là người độn căn được định để tu đạo. Khổ dễ tu đạo là người lợi căn được định để tu đạo. Vui khó tu đạo là người độn căn được tuệ để tu đạo. Vui dễ tu đạo là người lợi căn được tuệ tu đạo. Xuất vị là xuất gia cầu đạo. Ly vị là thân tâm xa lìa. Tịch diệt vị là được thiền định. Chính trí vị là thông đạt 4 đế. Pháp niệm chứng là 4 niệm xứ. Nhờ niệm xứ nầy nên có thể sinh 4 thứ thiền, gọi là thân chứng. Thông đạt 4 đế, gọi là tuệ chứng.

Bốn thân chịu là có người tự hại mình mà người khác không hại được, có người bị người khác hại mà mình không tự hại, có người tự hại, người khác cũng hại mình được, có người không hại, người khác cũng không hại được.

Bốn nhập thai, là người không tự niệm vào thai, cũng không tự niệm trụ thai, xuất thai. Có người tự niệm vào thai trụ thai mà không tự niệm xuất. Có người tự niệm vào thai, trụ thai, xuất thai. Vì tâm điên đảo tán loạn nên không tự niệm nhớ. Tâm minh chính không loạn nên có thể tự niệm nhớ.

Bốn duyên, là nhân duyên, sinh duyên, tập nhân, và y nhân. Sinh nhân là nếu pháp khi sinh có thể cùng làm nhân cho cái khác, như nghiệp làm nhân cho quả báo. Tập nhân là như tập luyện tham dục thì tham dục ngày càng tăng trưởng. Y nhân là như tâm và tâm số pháp nương sắc hương v.v… gọi là nhân duyên.

Thứ đệ duyên là như tiền tâm pháp diệt nên hậu tâm mới được thứ lớp sinh.

Duyên duyên là như từ duyên sinh pháp, như sắc có thể sinh nhãn thức.

Tăng thượng duyên là các pháp duyên khác giúp cho pháp ấy khi sinh.

Bốn tín, là tin Phật là bậc chân trí. Đối với Phật quyết định sinh tâm thanh tịnh, vì trí Phật đối với chúng sinh là cao cả. Tin chân trí nầy tức là tin Pháp. Người được trí nầy đối với tất cả chúng sinh rất là đệ nhất, gọi là tín Tăng. Được giới thánh sở ái, tức là đem thâm tâm không gây các ác nghiệp, tự biết mình nhờ giới nầy có thể tín Tam Bảo, vì tin sức mạnh của giới nên gọi là tín giới.

Bốn Thánh chủng, là nhờ 4 thứ Thánh chủng nầy nên không bị ưa muốn áo mặc làm ô nhiễm, không bị những ưa muốn uống ăn, chỗ nằm cho thân làm ô nhiễm nên gọi là 4 Thánh chủng.

Bốn ác hành là vì tham nên sân, nên khiếp sợ nên si, nên bị đọa trong ác đạo.

Năm ấm, gồm sắc ấm là sắc v.v… 5 pháp. Thụ ấm là pháp có thể duyên. Tưởng ấm là pháp có thể phân biệt giả danh. Hành ấm là pháp có thể sinh thân sau. Thức ấm là duy chỉ có thể biết trần pháp.

Sáu chủng gồm địa chủng, là sắc, hương, vị và xúc hòa hợp. Tướng cứng nhiều gọi là địa chủng. Tướng ẩm ướt nhiều gọi là thủy chủng. Tướng nóng nhiều gọi là hỏa chủng. Tướng nhẹ nhiều gọi là phong chủng. Không có sắc tướng gọi là không chủng. Có thể duyên pháp, nên gọi là thức chủng.

Sáu nội nhập, gồm nhãn nhập là 4 đại hòa hợp làm chỗ nương cho nhãn thức gọi là nhãn nhập. Nhĩ, tỹ, thiệt, thân nhập cũng như vậy. Ý nhập là tâm.

Sáu ngoại nhập, gồm sắc nhập là cảnh bị duyên của nhãn thức vậy. Thanh, hương, vị, xúc và pháp nhập cũng như vậy.

Sáu sinh tính, là người hắc tính có thể tập luyện hắc pháp nhưng cũng tập luyện bạch pháp và hắc pháp nữa. Người bạch tính cũng như vậy.

Sáu hỷ hành, là y nơi lòng tham.

Sáu ưu hành, là y nơi lòng sân.

Sáu xả hành, là y nơi lòng si.

Sáu diệu hành, là thật trí tuệ.

Bảy tịnh, gồm: Giới tịnh là giới luật nghi. Tâm tịnh là được thiền định. Kiến tịnh là đoạn được thân kiến. Độ nghi tịnh là đoạn được nghi kết. Đạo phi đạo tri kiến tịnh là đoạn được giới thủ. Hành tri kiến tịnh là tư duy đạo. Hành đoạn tri kiến tịnh là vô học đạo.

Tám phúc sinh, là người giàu sang trong loài người cho đến sinh ở cõi Phạm Thế. Trong đây được các vui phúc báo nhiều hơn hết, nên nói 8 phúc sinh.

Chín thứ tự diệt, là vào được sơ thiền diệt ngôn ngữ; vào nhị thiền diệt giác quán, vào tam thiền diệt hỷ, vào tứ thiền diệt hơi thở ra vào, hư không xứ diệt sắc tướng, thức xứ diệt vô biên hư không tướng, vô sở hữu xứ diệt vô biên thức tướng, phi tưởng phi tưởng diệt vô sở hữu tưởng, và vào diệt tận định diệt được thụ và tưởng.

Mười Thánh xứ, là Thánh nhân đoạn 5 pháp, thành tựu 6 pháp, giữ 1 pháp, y 4 pháp, diệt ngụy đế, bỏ các cầu mong, không suy nghĩ vẩn đục, lìa các thân hành, khéo được tâm giải thoát, khéo được tuệ giải thoát, việc làm đã xong, và cô đơn không bạn bè. Đoạn 5 pháp là đoạn 5 phần thượng kết, được quả A-la-hán, vì tất cả kết đều dứt hết, tu 6 pháp diệu hành, nhãn v.v… các tình thức đối với sắc v.v… các trần cảnh không buồn không vui, cũng không ngu si. Giữ một pháp là buộc quán niệm nơi thân. Y 4 pháp là khất thực v.v… pháp 4 y.

Lại có người nói y 4 pháp là Thánh nhân có pháp viễn ly, có pháp thân cận, có pháp trừ diệt, có pháp nhẫn thụ. Thanh tịnh trì giới, nên có thể đạt thật tướng, gọi là lìa ngụy đế. Dứt tất cả kiến hoặc gọi là được sơ quả. Bỏ các cầu mong là dục cầu, hữu cầu và Phạm hạnh cầu. Được sơ quả nên mới biết các pháp hữu vi đều là hư dối. Muốn bỏ 3 thứ cầu, được Kim cương Tam-muội rồi, mới bỏ việc học đạo. Bấy giờ mới gọi là bỏ được hết các thứ cầu mong, không suy nghĩ vẩn đục là diệt được 6 thứ giác, tâm được thanh tịnh, có thể làm mỏng 3 độc, chứng quả thứ 2, diệt trừ được tham ái, chứng quả thứ 3, gọi là không suy nghĩ vẩn đục. Lìa các thân hành là trừ được mấy thứ kết ở cõi Dục, được 4 thiền, gọi là lìa thân hành. Được tận trí, nên gọi là khéo được tâm giải thoát. Được vô sinh trí, nên gọi là khéo được tuệ giải thoát. Các bậc Thánh nhân tâm an trụ 10 chỗ nầy, nên gọi là 10 Thánh xứ. Việc làm Phật pháp chắc chắn phải hết khổ, nên gọi là việc làm đã xong. Xa lìa phàm phu và các bậc học nhân, gọi là không bạn bè. Tâm lìa các pháp, an trụ tất cánh không, nên gọi là cô đơn.

Mười hai nhân duyên, tức vô minh nghĩa là theo giả danh, do tâm điên đảo nầy mới có thể nhóm các nghiệp, cho nên gọi là vô minh duyên hành. Vì thức theo nghiệp, nên có thể thụ thân, gọi là hành duyên thức. Sau khi thụ thân gọi là danh sắc, 6 nhập, xúc, thụ. Các chi phần nầy tùy thời tăng trưởng. Khi lãnh thụ các thụ, nương dựa giả danh nên có thể sinh ái. Bởi ái sinh bao nhiêu phiền não, nên gọi là thủ. Ái thủ làm nhân duyên cho hữu, đây gọi là 3 chi phần. Do các nghiệp nhân duyên phiền não nầy, trong đời sau mới sinh. Từ nhân duyên sinh mới có già chết v.v…. Trong đây như nói vô minh và các hành nghiệp là nói rõ có đời quá khứ để khiến dứt chấp thường kiến, biết từ vô thủy sinh tử qua lại, do nghiệp phiền não nhân duyên mà thụ thân. Như nói sinh tử là nói rõ có đời vị lai để khiến dứt chấp đoạn kiến. Nếu không được chân trí thì sinh tử không có giới hạn, chỉ có quả báo đau khổ. Như nói 8 chi phần trung gian là rõ pháp hiện tại, chỉ do các duyên nối nhau mà sinh chứ không có pháp chân thật. Trong đây vô minh và các hành nghiệp là nhân duyên đời trước. Kết quả của nhân duyên nầy là thức, danh sắc, 6 nhập, xúc và thụ. Do 5 thứ nhân duyên nầy mới sinh khởi ái, thủ và hữu, là cái nhân đời vị lai. Kết quả của nhân duyên nầy là sinh, lão và tử. Nếu như lãnh thụ các thứ thụ, trở lại sinh ái và thủ. Vì vậy cho nên 12 chi phần nầy luân chuyển vô cùng tận.

Có thể được chân trí thì không tụ tập các nghiệp. Các nghiệp không tụ tập thì không có sinh. Sinh gọi là bắt đầu khởi thành. Nếu người nào học tập chính luận nầy thì biết các pháp tự tướng đều trống không, không tu tập các nghiệp. Các nghiệp không tụ tập thì không có sinh, nên lão, tử, ưu bi, khổ não đều dứt hết. Cho nên mưốn tự lợi lợi tha, chúng sinh dần thành Phật đạo.

Nếu người muốn đốt cháy tự pháp và diệt tha pháp phải học tập luận nầy.

Phẩm 19: MƯỜI LUẬN: TRƯỚC TIÊN LÀ TƯỚNG CÓ

Hỏi: Kinh của ông trước nói rộng học tập các dị luận, vì muốn luận nghĩa Phật pháp. Vậy những gì là các dị luận?

Đáp: Trong 3 tạng có nhiều các dị luận. Có điều là những người ưa khởi tranh luận như có 2 đời, không có 2 đời. Tất cả là có, tất cả là không. Có trung ấm, không có trung ấm. Tứ đế thứ tự được, nhất thời được, có thoái, không thoái. Kết sử cùng tâm tương ưng, không tương ưng. Tâm tính vốn tịnh, tính vốn bất tịnh. Đã thụ báo nghiệp hoặc có, hoặc không. Phật ở trong Tăng số, không ở trong Tăng số. Có người, không người. Có người nói pháp 2 đời là có, có người nói không.

Hỏi: Vì nhân duyên gì nói có? Vì nhân duyên gì nói không?

Đáp: Người nói có là nếu có pháp, trong ấy sinh tâm, vì pháp trong 2 đời có thể sinh tâm, thì phải biết là có.

Hỏi: Chính ông trước thường nói có tướng?

Đáp: Tính biết đi được chỗ nào, gọi chỗ đó là có tướng. Người ấy hỏi vặn rằng: Tính biết cũng đi đến chỗ không có chỗ. Sở dĩ vì sao? Vì như tin hiểu rồi quán, không phải màu xanh mà thấy xanh.

Lại như làm ra trò ảo hóa cũng không mà thấy có.

Lại như đem cái biết vào chỗ không có, nên gọi là vào định Vô sở hữu xứ.

Lại như đem ngón tay giụi vào mắt thấy có 2 mặt trăng.

Lại như trong kinh nói: Ta biết bên trong không tham dục.

Lại kinh nói: Biết trong sắc đoạn dứt tham gọi là sắc đoạn.

Lại như trong chiêm bao không mà vọng thấy. Do các duyên cớ nầy nên biết cái biết cũng đi đến chỗ không có chỗ. Không nên có tính biết đi đến chỗ nào nên gọi chỗ đó là có.

Đáp: Không có tính biết đi đến chỗ không có chỗ. Sở dĩ vì sao? Vì cần nhờ 2 pháp nhân duyên, nên thức mới được sinh. Một nương 2 duyên. Như không có cảnh duyên mà thức vẫn sinh thì cũng nên không có chỗ nương, thức cũng được sinh. Vậy thì 2 pháp kia vô dụng? Như vậy cũng không có giải thoát, vì thức thường sinh. Cho nên biết thức không đến nơi không.

Lại như vì có sở thức nên gọi là thức. Nếu không sở thức thì thức cũng không.

Lại như nói thức có thể biết trần, nghĩa là nhãn thức biết sắc, cho đến ý thức biết pháp. Nếu nói có thức không duyên cảnh, vậy thức này sở thức gì ư?

Lại nếu, nói có thức mà không duyên cảnh là sai lầm. Như có người nói: Tôi cuồng nên tâm loạn, thế gian không có gì hết, mà tôi đều thấy có.

Lại nếu biết không có gì hết, thì không nên sinh nghi, vì có chỗ biết nên mới sinh nghi.

Lại như trong kinh nói: Thế gian không có gì hết mà ta biết ta thấy, đó là vô lý.

Lại nữa, lời ông nói tự mâu thuẫn nhau, nếu không có gì thì biết cái gì ư?

Lại như trong kinh nói: Ba sự hòa hợp nên gọi là xúc. Nếu không có pháp, thì hòa hợp cái gì?

Lại biết không cảnh bị duyên thì làm sao thành được? Nếu biết thì không không, nếu không thì không biết. Cho nên không có cái biết mà không có cảnh duyên.

Lại như ông có nói câu: Tính biết đi đến chỗ không có chỗ, như tin hiểu quán màu không phải xanh mà thấy xanh, đó là vô lý. Sở dĩ vì sao? Vì trong màu không phải xanh nầy thiệt có tính xanh. Như trong kinh nói: Trong cây nầy có tính tịnh.

Lại như lấy tướng xanh, do sức của tâm chuyển rộng ra, thì tất cả đều xanh, không một tướng nào không xanh.

Lại như Kinh Huyễn Võng nói: Có người huyễn thuật và vật để làm trò huyễn thuật, thì trong không chúng sinh, mà thấy giống chúng sinh, nên gọi là huyễn.

Lại như ông nói câu: Vì biết không có nơi chỗ, nên gọi là vào định Vô sở hữu xứ là vì sức Tam-muội, nên sinh vô tướng nầy chứ không phải là không có. Như thật có sắc hư hoại là không tướng.

Lại vào trong Tam-muội nầy vì pháp bị thấy ít, nên coi là không có, như muối ít nên nói là không muối, tuệ ít nên nói là không tuệ.

Lại như nói: Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Trong đây tuy thật có tưởng, mà cũng nói phi hữu phi vô.

Lại ông nói: Đem ngón tay giụi vào mắt, thấy có 2 trăng. Thấy mà không nghĩ xét, nên cho một là hai. Nếu nhắm một mắt thì không thấy hai.

Lại như ông nói: Ta biết bên trong không tham dục. Vì người nầy thấy pháp ngũ cái trái nhau với pháp thất giác, nên liền sinh ý niệm rằng: Ta biết không tham dục, chứ không phải biết không có.

Lại như ông nói: Biết trong sắc đoạn tham, gọi là đoạn sắc. Đó là vì thấy chân thật tuệ cùng với vọng giải trái nhau, nên gọi là tham đoạn. Lại như ông nói: Trong chiêm bao không mà thấy có. Đó là vì trước đã từng thấy nghe nhớ nghĩ phân biệt và đã tu tập nên mới thấytrong chiêm bao, và do khí lạnh nóng thịnh nên tùy theo chiêm bao mà thấy, hoặc do nghiệp duyên nên thấy chiêm bao, như Bồ-tát có những đại mộng, hoặc các thiên thần đến hiện trong chiêm bao. Cho nên trong chiêm bao thấy có, chứ không phải biết không.

Ông lại hỏi vặn rằng: Ông nói cần phải có 2 pháp nhân duyên, thức mới được sinh. Điều này không phải, vì Phật muốn phá thuyết Thần ngã nên mới nói 2 pháp nhân duyên sinh thức, chứ không phải đều như vậy.

Lại như ông nói: Vì có sở thức, nên gọi là thức. Thức pháp có thì biết có, không có thì biết không có. Nếu việc ấy không, vì không việc ấy, nên gọi là thấy không.

Lại như 3 tâm diệt, nên gọi là diệt đế. Nếu không có không tâm thì diệt cái gì ư?

Lại như ông nói: Nhãn thức biết sắc cho đến ý thức biết pháp. Đó là thức nầy chỉ có thể biết pháp trần mà không biện biệt là có hay không.

Lại như ông nói: Nếu có thức biết, mà không cảnh duyên, vậy là sai lầm. Thì có cái biết, biết cái không có, như người bị bệnh cuồng thấy không có gì hết.

Lại như ông nói: Nếu biết không có gì hết, thì không nên sinh nghi. Nếu nghi là có hay là không có, thì có cái biết không cảnh duyên.

Lại như ông nói: Như trong kinh nói thế gian không có gì hết mà ta biết thấy, đó là vô lý. Kinh nầy không luận pháp tướng, hình như không phải lời Phật nói. Hoặc Tam-muội như vậy, là vào Tammuội chỗ thấy đều có, đó là Tam-muội, nên nói như vậy.

Lại như ông nói: Lời nói ông tự trái nhau …. Tôi nói: Duyên nơi không có, không phải trái nhau.

Lại như ông nói: Tâm, tâm số pháp có thể duyên tất cả pháp. Duyên nầy là có tâm, tâm số pháp mà không có cảnh bị duyên. Cũng có tâm, tâm số pháp không thể thật duyên, nên không gọi là duyên.

Lại nữa, vì thật tướng của các pháp, lìa các tướng, nên không gọi là duyên.

Lại như ông nói: Các trần là nhân sinh thức, nếu không có gì lấy gì làm nhân? Tức là lấy cái không có, làm nhân.

Lại như ông nói: Ba sự hòa hợp, gọi là xúc. Nếu 3 sự có thể có được, thì có hòa hợp, chứ không phải tất cả chỗ đều có 3 sự.

Lại như ông nói: Nếu biết không không, nếu không không biết, nếu có cảnh duyên mà biết, cũng đồng lỗi nầy.

Lại như ông nói: Như trong cây có tịnh tính. Điều này không phải, vì có lỗi là trong nhân có quả.

Lại như ông nói: Lấy tướng tâm chuyển rộng ra. Điều này không phải. Vốn tướng xanh ít, mà thấy cả đại địa tất cả đều là màu xanh, tức là vọng kiến. Như vậy, vì quán chút màu xanh mà có thể thấy cõi Diêm-phù-đề v.v… đều màu xanh là không phải vọng kiến sao?

Lại như ông dẫn câu: Kinh Huyễn Võng nói: Có nhà huyễn thuật làm trò huyễn thuật, trong chỗ không có chúng sinh mà thấy giống như có chúng sinh làm các việc chúng sinh. Điều này thật không có mà thấy, tức là cái biết không có cảnh duyên.

Lại như ông nói: Vì sức Tam-muội nên sinh vô tướng nầy. Như thật có sắc hư hoại là không. Vậy nếu sắc thật có mà hoại là không thì điên đảo.

Lại như ông nói: Thấy không nghĩ xét. Điều này không phải. Như người bị bệnh mắt, thấy giữa không trung có những sợi như lông. Kỳ thật là không có.

Lại như ông nói: Thấy ngũ cái trái nhau với pháp thất giác liền sinh ý nghĩ: Ta biết không . Pháp thất giác khác, không tham cũng khác, làm sao là một?

Lại như ông nói: Thấy chân thật tuệ cùng với vọng giải trái nhau, gọi là tham đoạn. Vọng giải gọi là quán hư vọng. Cho nên biết tham dục đoạn, nên sắc đoạn. Chân thật tuệ là quán vô thường.

Lại như ông nói: Trong chiêm bao thấy thật. Điều này không phải. Như chiêm bao thấy nhà sập, mà thật nhà không sập. Cho nên có cái biết, biết cái không có. Không nên cho cái tính biết đi đến đâu là đó có tướng.

Phẩm 20: TƯỚNG KHÔNG

Hỏi: Nếu đó không phải tướng có, thì nay nói ấm, giới, nhập là pháp nhiếp thuộc, lẽ ra phải là có?

Đáp: Đó cũng không phải. Sở dĩ vì sao? Vì người nầy nói pháp phàm phu nhiếp thuộc ấm giới nhập, không thuận với pháp tướng. Nếu vậy có người nói như các pháp vô vi lẽ ra cũng phải có, mà thật ra pháp đó không có. Cho nên biết ấm giới nhập các pháp nhiếp thuộc không phải tướng có.

Hỏi: Như có người cho pháp hiện biết, tin là có sở đắc, gọi là tướng có.

Đáp: Đó cũng không phải tướng có, vì pháp khả tín nầy, quyết định phân biệt không thể nói được. Cho nên có kinh nói nên dựa vào trí, chứ không nên dựa vào thức, vì tính là đắc, sắc v.v… các trần là bất khả đắc. Sau sẽ nói rộng. Tướng không nầy không hoại, thì tướng có sở đắc làm sao thành lập được?

Hỏi: Có, là cùng với pháp hợp lại nên gọi là có?

Đáp: Sau sẽ phá chấp cái gọi là có này.

Lại nữa, trong có, không có cái có, thì làm sao cùng với pháp hợp lại mà gọi là có? Do nhân duyên nầy, nên cái tướng có, quyết định phân biệt không thể nói được. Nhưng vì thế đế nên mới nói có, chứ không phải đệ nhất nghĩa đế.

Hỏi: Nếu vì thế đế nên có, nay lại lấy thế đế nên nói quá khứ vị lai là có hay không?

Đáp: Không. Sở dĩ vì sao? Nếu sắc v.v… các ấm ở đời hiện tại có thể có sở tác, có thể được thấy biết. Như trong kinh nói: Não hoại là sắc tướng. Nếu ở hiện tại thì có thể não hoại, chứ không phải quá khứ vị lai. Thụ v.v… cũng vậy, cho nên biết chỉ có 5 ấm hiện tại, chứ 2 đời kia không có.

Lại nữa, nếu pháp vô tác thì không có tự tướng, như lửa quá khứ không thể đốt được, không gọi là lửa. Thức cũng như vậy, nếu ở quá khứ không thể biết được gì thì không gọi là thức.

Lại nữa, nếu không nhân mà có, việc ấy không đúng. Pháp quá khứ không nhân có thể có. Cho nên không phải. Lại nữa, phàm có các pháp, là đều do các nhân duyên sinh. Như có đất, có giống, nước v.v… nhân duyên thì nảy mầm. Có giấy bút nhân công thì chữ được thành. Hai pháp v.v… hợp lại thì có thức sinh. Trong đời vị lai mầm hạt, chữ viết, thức nhận biết v.v… nhân duyên chưa hội hợp làm sao được có? Cho nên 2 đời kia không thể có được.

Lại nữa, nếu pháp vị lai mà có, thì là thường, vì từ vị lai đến hiện tại vậy. Như từ một nhà đi đến một nhà thì không có vô thường. Cho nên điều này không thể được.

Lại như trong kinh nói: Mắt sinh không từ đâu đến, diệt đi không đến đâu. Cho nên không nên phân biệt quá khứ vị lai.

Lại nữa, nếu vị lai có nhãn, sắc, thức tức phải có người làm, quá khứ cũng vậy, nhưng thật không phải vậy. Cho nên biết không có pháp quá khứ vị lai.

Lại như sắc quá khứ vị lai có, thì phải có đối có ngại, nhưng thật không phải vậy. Cho nên là không có.

Lại như cái bình v.v… các vật vị lai mà có, thì thợ gốm sứ v.v… không nên làm, mà hiện là có làm, chứ không phải vị lai sẽ có.

Lại Phật nói pháp hữu vi có được 3 tướng sinh, diệt, trụ dị. Sinh là nếu pháp trước không có mà nay hiện có làm. Diệt là làm rồi lại trở lại không. Trụ dị là nối nhau nên trụ, biến khác nên gọi là dị. Ba tướng hữu vi này đều có ở hiện tại, chứ không phải quá khứ vị lai.

Phẩm 21: CÓ 2 ĐỜI

Hỏi: Thật có quá khứ vị lai. Sở dĩ vì sao? Nếu pháp nầy có, trong ấy sinh tâm như pháp hiện tại và pháp vô vi.

Lại như Phật nói Sắc tướng, cũng nói sắc quá khứ và vị lai và nói có bao nhiêu sắc, như hoặc nội hoặc ngoại, hoặc thô hoặc tế, hoặc quá khứ vị lai và hiện tại, gọi chung là sắc ấm.

Lại nói sắc quá khứ vị lai hãy còn vô thường, huống chi hiện tại. Vô thường là tướng hữu vi. Cho nên phải nói có.

Lại như hiện thấy từ trí sinh trí vì tu tập. Như từ nhỏ lúa sinh hạt lúa. Cho nên phải có quá khứ. Nếu không quá khứ, thì quả không có nhân.

Lại như trong kinh nói: Nếu sự thật quá khứ mà có ích thì Phật cũng vẫn nói.

Lại như nói quán quá khứ vị lai tất cả vô ngã.

Lại ý thức duyên vị lai là nương ý quá khứ, nếu không có quá khứ thì thức nương chỗ nào?

Lại như biết nghiệp nhân quá khứ mới có quả báo vị lai, đó là chính kiến.

Lại như Phật có 10 lực biết các nghiệp nhân quá khứ vị lai.

Lại như Phật tự nói: Nếu không có gây tội nghiệp quá khứ, người nầy không đọa các ác đạo.

Lại như người học nhân, nếu còn trong tâm hữu lậu, thì không phải có tín v.v… các căn vô lậu.

Lại như các bậc Thánh nhân không nên quyết định ghi trước việc vị lai.

Lại nếu không quá khứ vị lai thì người đời không nên ghi nhớ 5 thứ trần. Sở dĩ vì sao? Vì ý thức không biết 5 thứ trần hiện tại.

Lại như nói 18 ý hành đều duyên quá khứ.

Lại nếu không quá khứ, vị lai, thì A-la-hán không nên tự xưng rằng ta được thiền định. Vì ở trong định không thể nói như vậy.

Lại như trong 4 niệm xứ, không nên quán nội tâm nội thụ được. Sở dĩ vì sao? Vì hiện tại không được quán quá khứ.

Lại cũng không nên tu 4 chính cần. Sở dĩ vì sao? Vì trong đời vị lai không có ác pháp, còn 3 thứ kia cũng vậy.

Lại nếu không có quá khứ vị lai, thì cũng không có Phật.

Lại cũng không nên có người tu giới đã lâu và người mới tu. Cho nên không phải vậy.

Phẩm 22: KHÔNG CÓ 2 ĐỜI

Đáp: Không có quá khứ vị lai. Tuy ông nói trong pháp có thì tâm sinh, điều đó trước tôi đã đáp rằng không pháp, tâm cũng thể sinh được.

Lại như ông nói sắc tướng, sắc số, sắc khả tướng, Điều này không đúng. Quá khứ vị lai không phải sắc, vì không có não hoại. Cũng không nên nói đó là tướng vô thường, mà Phật chỉ tùy theo vọng tưởng phân biệt của chúng sinh nên mới nói cái tên đó thôi.

Lại như ông nói trí sinh trí, là nhân cùng quả làm nhân duyên lẫn nhau rồi diệt, như hạt giống và mộng làm nhân cho nhau rồi diệt. Phật cũng nói: Điều này sinh nên việc kia sinh.

Lại như ông nói thật mà có ích thì Phật cũng nói. Đó là Phật nói điều này gốc ở khi hiện tại, không phải Phật nói cũng có. Như nói quá khứ diệt hết thì biết không có.

Lại như ông nói quán vô ngã. Đó là vì chúng sinh đối với pháp quá khứ vị lai chấp có ngã, nên Phật mới nói như vậy.

Lại như ông nói đó là chính kiến. Là vì thân nầy khởi nghiệp, nghiệp nầy cùng quả làm nhân rồi diệt. Về sau lại tự chịu báo nên mới nói quả.

Tóm lại, trong Phật pháp mà nói hoặc có, hoặc không đều là phương tiện, vì muốn chỉ rõ nghiệp tội phúc nhân duyên, chứ không phải đệ nhất nghĩa. Như vì nhân duyên nên nói có chúng sinh, thì quá khứ vị lai cũng vậy. Như nói nương ý thức quá khứ đó là nương phương tiện, chứ không phải như người nương dựa nơi vách tường, và cũng nói rõ là tâm sinh, chứ không phải nương nơi thân mà sinh. Vì nhân tâm trước nên tâm sau mới được sinh. Nghiệp lực cũng vậy. Phật biết nghiệp nầy tùy diệt mà có thể cùng với quả làm nhân, chứ không nói quyết định biết như biết chữ trên giấy. Tội nghiệp cũng vậy, do thân nầy gây nghiệp, nghiệp này tuy diệt hết mà quả báo không mất.

Lại như ông nói không nên có các căn vô lậu. Nếu người học nhân đã được căn vô lậu, được lúc hiện tại, tuy quá khứ diệt, vị lai chưa đến, vì đã thành tựu rồi nên không được nói là không.

Lại như ông nói Thánh nhân không nên ghi nhận trước việc vị lai. Với trí lực Thánh nhân, tuy pháp chưa có mà có thể huyền ký trước, như pháp quá khứ tuy đã diệt hết mà vì niệm lực nên có thể biết được.

Lại như ông nói không nên nhớ 5 thứ trần. Vì là người phàm phu si mê vọng niệm nên trước lấy tướng quyết định, về sau tuy đã diệt hết, mà còn sinh lòng nghĩ nhớ, vì pháp nghĩ nhớ là như vậy, chứ không phải như nhớ lông rùa sừng thỏ… 18 thứ ý hành cũng như vậy, hiện tại thủ sắc, quá khứ tuy diệt, vẫn tùy theo mà nghĩ nhớ.

Lại như ông nói không nên tự xưng ta được thiền định. Là định được ở hiện tại, vì sức nghĩ nhớ nên tự nói ta được.

Lại như ông nói không nên được quán nội tâm nội thụ. Có 2 thứ tâm: một là niệm niệm sinh diệt, hai là thứ lớp nối nhau. Dùng tâm hiện tại, quán tâm nối nhau, chứ không phải niệm hiện còn.

Lại như ông nói không nên tu tập 4 chính cần. Đó là đề phòng nhân duyên ác pháp đời vị lai, đồng thời cũng phát khởi nhân duyên thiện pháp đời vị lai.

Lại như ông nói thì không có Phật. Phật là tướng tịch diệt, tuy còn hiện ở đời mà không thuộc vào có hay không, huống là khi đã diệt độ? Chúng sinh qui mạng nơi Phật cũng như người đời thờ phụng cha mẹ vậy.

Lại như ông nói cũng không nên có người tu giới lâu hay mới. Không vì thời gian mà giới có sai khác. Sở dĩ vì sao? Vì thời gian không thật, chỉ do các pháp hòa hợp sinh diệt nên mới có thời gian. Cho nên ông đã nói bao nhiêu nhân đều không đúng.

Phẩm 23: TẤT CẢ CÓ KHÔNG

Luận giả nói: Có người nói tất cả các pháp có. Có người nói tất cả pháp không có.

Hỏi: Do nhân duyên gì nói có. Do nhân duyên gì nói không?

Đáp: Người nói có là căn cứ Phật nói 12 nhập gọi là tất cả. Đó là tất cả có địa, hỏa, phong, không, thời, phương, thần và ý v.v… các Đà-la-phiêu, tức chỉ tất cả vật. Số v.v… các Cầu-na, tức nương dựa. Nêu cử các nghiệp dưới đây. Các pháp tổng tướng biệt tướng hòa hợp và bản tính Ba-cư-đế v.v…, cùng những việc trong thế gian như sừng thỏ, lông rùa, chân rắn, mùi thơm của muối, và màu sắc của gió v.v…, đó gọi là không.

Lại như trong kinh nói: Hư không không dấu vết, ngoại đạo không Sa-môn, phàm phu ưa hý luận. Như Lai thì không có.

Lại như tùy theo chỗ thụ pháp, cũng được gọi là có. Như Đàla-phiêu v.v… 6 sự, phái Ưu-lầu-khư cho là có, 25 đế phái Tăng-khư cho là có, 16 nghĩa phái Na-da-tu-ma cho là có.

Lại nếu như có đạo lý có thể thành xong sự việc, cũng được gọi là có, như 12 nhập.

Lại nữa, trong Phật pháp dùng phương tiện nên mới nói tất cả có, tất cả không, chứ không phải đệ nhất nghĩa. Sở dĩ vì sao? Vì nếu quyết định có, tức rơi vào bên thường, nếu quyết định không, thì rơi vào bên đoạn. Lìa được 2 bên mới là con đường trung đạo của Phật.