THÀNH DUY THỨC LUẬN LIỄU NGHĨA ĐĂNG
Tỳ-kheo Tuệ Chiểu, chùa Đại vân, Truy châu soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 5

(PHẦN ĐẦU)

Sư thứ hai giải thích, Mạt-na thông với bốn thọ đồng thời.

Hỏi: Vì sao cõi Dục không phải cùng với khổ đồng thời, cho đến Nhị thiền vì sao không cùng với lạc thọ?

Đáp: Sớ đã lựa ra xong.

Vì sao cùng với ưu hỷ đồng thời?

Đáp: Vả lại cùng với hỷ đều có ba giải thích:

1. Hỷ cùng theo Thức thứ sáu đồng thời, Thức thứ bảy cùng với sáu đồng thời nói: Cùng với hỷ tương ưng, nếu không như vậy, vì sao nói rằng duyên theo hữu hỷ địa nghiệp thiện đã dẫn quả, không duyên theo Thức thứ sáu, nên giải thích này trái.

2. Quả theo nhân, hoặc theo hỷ thọ tương ưng tư, đã cảm được Thức thứ tám này, Thức thứ bảy duyên theo dẫn nghiệp quả này, tên gọi duyên theo hữu hỷ v.v… cùng với hỷ thọ đồng thời.

3. Tương thuận cho nên đồng thời, như nói năm thức duyên theo Tướng phần trước, tướng này theo năm thức trước huân tập mà thành, năm thức duyên sau nói duyên theo tướng trước, nghĩa này cũng như vậy. Quả này theo hỷ và tương ưng tư được chiêu cảm, tuy duyên theo cảnh này thuận theo duyên kia, nên nói cùng với hỷ đồng thời, còn lại thọ tương ưng ba giải thích, chuẩn theo đây.

Hỏi: Sớ ghi: Nếu bốn thọ đồng thời thì tâm Kim cương chẳng phải liền đoạn lỗi, nói cùng với thọ đồng thời, đâu không phải dần dần đoạn, vì thay đổi địa xả?

Đáp: Nếu hỷ v.v… đồng thời, nhất định tùy theo Địa riêng, nhiễm pháp đều đoạn, như sáu thức, nếu xả thọ đồng thời, tức là có thể liền đoạn, như Thức thứ tám, xả đồng thời liền đoạn, lý đó rất thành tựu, nên không có lỗi.

Hỏi: Luận rằng: Duyên bên trong chấp ngã, ngã kiến này là chỉ Kiến phần, gọi là ngã kiến, Tự chứng phần cũng thuộc về ngã kiến?

Đáp: Thiết lập đều lỗi gì!

Hỏi: Đều có lỗi, nếu không gọi là ngã kiến, tham sân cũng như vậy, tự chứng phần kia sẽ chẳng phải tham v.v… nếu gọi là ngã kiến sẽ thừa nhận duyên bên ngoài, vì sao gọi là duyên bên trong, cũng sẽ chẳng phải lượng nhiếp?

Đáp: Chỉ Kiến phần gọi là ngã kiến, chẳng phải Tự chứng phần ngã kiến Tự chứng phần chỉ gọi là nhiễm tuệ, vì sao không đồng với tham v.v…?

Đáp: Tham v.v… xứng hợp với cảnh cũng được sinh tham, như năm thức đồng thời v.v… ngã kiến không xứng hợp với cảnh, Tự chứng phần chẳng phải ngã kiến.

Hỏi: Vì sao không xứng hợp, tức là chẳng phải ngã kiến, chỉ gọi là nhiễm tuệ?

Đáp: Như duyên theo Vô vi, duyên theo cõi khác v.v… lúc Kiến phần không xứng hợp với Vô vi, cõi khác, chỉ Kiến phần gọi là Vô vi duyên, cõi khác duyên, Tự chứng phần không được gọi là Vô vi duyên v.v… ngã kiến cũng như vậy. Lại nếu tự thể của kiến gọi là ngã kiến tức là được nếu duyên theo ngã nên gọi là ngã kiến, tự chứng tức là trái, tham v.v… cũng như vậy, nếu duyên sắc khởi tham, gọi là tham v.v… Tự chứng tức là trái, không duyên sắc, tham tự chứng nên gọi là tham v.v… Tự chứng cũng phải.

Luận: Tương ưng này chỉ là xả thọ.

Hỏi: Thức thứ bảy duyên theo Thức thứ tám, tùy theo duyên chỉ là xả thọ Thức thứ sáu duyên theo Thức thứ bảy, thứ tám, tùy theo nó chỉ là xả thọ.

Đáp: Thức thứ bảy thường duyên bên trong, theo cảnh chỉ là xả thọ, Thức thứ sáu duyên theo trong ngoài, không phải chỉ là xả thọ.

Hỏi: Thức thứ sáu là năng dẫn, Thức thứ bảy là sở dẫn, tùy theo năng dẫn kia thành tựu Vô lậu, Thức thứ bảy là sở dẫn Thức thứ sáu là năng dẫn, nên tùy theo năng dẫn thông với ba thọ.

Đáp: Lúc Vô lậu khởi khó, tùy tha khởi Vô lậu, duyên cảnh thường mặc tình, nên không thông với ba thọ.

Hỏi: Thức thứ bảy Vô lậu, tha dẫn sinh, không tùy theo năng dẫn thông với ba thọ, Thức thứ bảy Vô lậu do tha dẫn, không tùy theo năng dẫn đồng với một Địa.

Đáp: Lúc tịnh pháp khởi khó, tùy theo năng dẫn khác đồng một địa xả thọ mặc tình khởi, không theo năng dẫn, thông với ba thọ.

Hỏi: Thức thứ bảy mặc tình khởi, không theo năng dẫn thông với ba thọ.

Đáp: Năm thức dễ thoát khởi, tùy thông với ba thọ, Thức thứ bảy duyên theo một loại, không theo ba thọ khác.

Hỏi: Năm thức mặc tình dẫn sinh kia, tức là theo năng dẫn thông với ba thọ, Thức thứ bảy một loại dẫn khởi kia, tức là tùy theo năng dẫn thông với ba thọ.

Chất vấn đáp rằng: Năm thức tuy dẫn nó, không theo năng dẫn tầm tứ, đồng thời, bình đẳng tuy dẫn nó không tùy theo năng dẫn, thông với ba thọ.

Luận: Nếu cùng với tàng thức có khác v.v…

Yếu Tập ghi: Có thuyết nói, có giải thích ba vị vô nên không phải nghĩa hằng chuyển, cũng không hợp với lý, chưa đoạn diệt, đến thường nối nhau khởi, đồng với Thức thứ tám, chưa nhập vào bốn vị, thường gọi là Lại-da, nên nương theo hữu giải thích, vô nên không nói, hoặc tướng đồng không nói. Nay cho rằng không đúng, Lại-da nếu nhập vào bốn vị, chưa thành tựu được Vô lậu, nên nói hằng chuyển, không phải theo tên gọi nói hằng chuyển như dòng nước, Mạt-na ba vị chuyển thành tựu Vô lậu chuyển thay đổi chẳng phải hằng, nên không như dòng nước.

Luận: Ý này tâm sở vì sao tánh nhiếp? Sớ có hai giải thích, ban đầu nói cả hai hỏi cả hai trả lời, tâm vương do tâm sở thành ra ba tánh, ban đầu nêu tâm vương được hiển bày, nên luận nói: Ý này tương ưng bốn phiền não là nhiễm pháp. Kế đến hiển bày do tâm vương tâm sở thành ra Hữu phú. Luận nói: Đây đều là nhiễm pháp, sở y vi tế, nên cả hai hỏi đáp.

Hỏi: Thức thứ bảy nương theo Thức thứ tám làm ngã, tùy theo cảnh trói buộc một cõi, Thức thứ sáu duyên theo ba cõi làm ngã trói buộc ba cõi?

Đáp: Tự địa hỗ tương tăng ích, tùy theo tự tự địa trói buộc, địa khác không phải tướng khác tăng ích không tùy theo địa khác trói buộc.

Luận: Nhiễm ý của vị này, Sớ ghi: Thông với hai chấp mà nói, Yếu Tập v.v… nói, chỉ nói nhân chấp, không nói pháp chấp, vì sao? Nếu nói pháp chấp, vì sao luận nói hàng Tam thừa Thánh đạo có nghĩa phục, diệt? Hàng Nhị thừa Vô học không phải vĩnh viễn xả.

Lại Hộ Pháp giải thích: Ba vị vô là nơi nương theo nhiễm ý, nên biết pháp chấp không gọi là nhiễm ý. Nay cho rằng chỉ nói đối với luận không trái là bản ý, tuy định tánh Nhị thừa không thể phục đoạn, trông mong nó chẳng phải nhiễm không gọi là nhiễm ý, đối với Đại thừa tánh bất định và định tánh, pháp chấp gọi là nhiễm. Nhưng bất định tánh Sinh không Thánh đạo cũng không thể phục, nên luận nói: Hàng Tam thừa Thánh đạo có nghĩa hàng phục, diệt, nếu chỉ nhân chấp, nên nói hàng Tam thừa Thánh đạo đều có thể phục diệt, nếu chỉ có nhân chấp, lẽ ra nói Tam thuqà thánh đạo đều có thể phục diệt, đâu cần phải nói có? Ba vị không có nhiễm cũng lại không lỗi, pháp chấp mong định tánh của Nhị thừa, không gọi là nhiễm, trong ba vị chẳng phải không có, nếu trong mong Bồ-tát ba vị không có, văn bao hàm nghĩa ẩn, còn lại không hẳn như thế.

Luận: Lại như chưa chứng Bổ-đặc-già-la.

Tây Minh lượng nói: Chưa khởi Pháp không sẽ có pháp chấp hằng hành, vì chưa khởi đối trị, giống như địa vị của ngã chấp. Trong lượng dụ đó lập không thành tựu.

Xu Yếu ghi: “Pháp chấp chưa chứng được địa vị pháp không, nên hằng hành, hai chấp tùy một nhiếp, giống như sinh chấp. Có người vọng nêu ra lỗi nói: Nhân có pháp tự tướng tương vi, dẫn lầm Xu Yếu, giải thích trong văn luận tông, nhân sở lập liền đều có lỗi.

Hỏi: Trụ diệt định là Thế Tôn nhập vào diệt định chăng?

Đáp: Có ba giải thích:

1. Không nhập, nếu như vậy vì sao đầy đủ các công đức? Đáp: Thành tựu diệt định mà không hiện khởi.

2. Nhập, nếu như vậy, vì sao quở trách Bồ-tát nhập vào? Đáp: Quở kẻ đam mê lạc, các kinh cũng có khuyên Bồ-tát nhập vào.

Hỏi: Tức là nhập vào diệt định, sáu thức không hiện hành, vì sao có thể lợi ích chúng sinh?

Đáp: Do gia hạnh nguyện lực của ý, không khởi diệt định, hiện ra oai nghi giáo hóa chúng sinh. Phật thì mặc tình, không mượn gia hạnh.

3. Tuy tợ như nhập vào mà thật không nhập vào.

Tương truyền kinh Tư Ích nói nhập vào lý diệt định, thức tức là không hành, nhập vào sự diệt định, thức tức là còn khởi. Nói tợ như nhập vào, tức là sự diệt định.

Nhưng kiểm văn trong ba giải thích, giải thích thứ hai trội hơn, nên luận này vặn hỏi, nếu Bình đẳng trí nương theo Thức thứ sáu nên có gián đoạn, thừa nhận Phật hằng hành như cảnh trí, nếu không nhập vào diệt, nếu nhập vào không diệt, tức là Thức thứ sáu hằng hành, làm sao thành tựu vặn hỏi?

Nói tông nhân sở lập liền đều có lỗi. Sớ nói có tự pháp tự tướng tương vi quyết định, sửa đổi nhân kia, nói: Trừ Thánh đạo v.v… ý thức không phải Câu hữu y, là ý thức, như ba vị ý thức, nhân sửa đổi trước, nhân trước cũng sẽ trừ ba vị, thuộc về sáu thức, không có lỗi bất định.

Xu Yếu ghi: “Lại nhân có tự pháp tự tướng tương vi, Vô lậu Vô học ý bất định làm đồng pháp”, ý của lượng này nói: Vì bậc Vô học nhập vào hằng, không phải Thức thứ bảy. Nói là bất định là trừ ở diệt định, không phải Thức thứ sáu lúc nhận lấy không nhập vào định, ý Thức thứ sáu làm đồng pháp, nhưng dùng lý luận tông trong đây có hai: một là cùng lập ra ý thức thứ sáu; hai là lựa ra bỏ ba vị nhận lấy Thức thứ sáu khác. Nhân cũng có hai: một là nhân chung thuộc về sáu thức, hai là nhân riêng cũng lựa ra ba vị, chẳng phải ba vị sáu thức khác nhiếp, tùy theo chỗ ứng, do hai nhân đều thành hai tông, lỗi suy nghĩ có thể biết.

Luận: Ban đầu tất cả dị sinh tương tục. Tây Minh có hai giải thích: Một, nói rõ chấp tương tục; hai, nói thân của tương tục, ý lấy giải thích này. Yếu Tập cũng ghi: “Đây nương theo thân của năm uẩn gọi là tương tục, chẳng phải chấp chẳng phải tâm”. Nay cho rằng không đúng. Ý của văn này hiển bày ba vị sai biệt có tương tục có gián đoạn, trước tổng nói rõ, sau lại giải thích khởi, bất khởi, nên trước tương tục. Nói đây đều ý có gián đoạn có tương tục, không nói rõ thân đó, nếu dùng thân năm uẩn làm sở y thì gọi là tương tục, vả lại như ngã chấp cũng nương theo thân của Thánh, vì sao không nói tương tục? Bình đẳng tánh trí cũng nương theo Bồ-tát, vì sao cũng không nói tương tục?

Luận: Dụng của ngã pháp hai kiến, tuy có khác đồng, nương theo một tuệ, Yếu Tập v.v… nói: Nhất định không phải chủng tử riêng, định của Sở tri chướng, trước đã được rõ ràng, nay lại hiển bày, nếu không phải chủng tử riêng các bậc La-hán v.v… khởi pháp chấp, thì có thể huân tập chủng tử chăng? Nếu nói không huân tập, có thể huân tập bốn nghĩa ít vì sao không huân tập, nếu nói thừa nhận huân tập, đâu chẳng phải chủng tử riêng, có thể huân tập chỉ là Sở tri chướng. Lại nữa tự nói dụng của một tuệ, chia ra huân tập thành hai loại, tức là chủng tử riêng, vì sao nói ắt sẽ đồng? Nói là phiền não, là căn cứ theo căn bản và phần nhiều.

Luận: Pháp chấp câu ý đối với Nhị thừa v.v… đồng lấy phàm phu, tức là Nhị thừa phàm phu.

Tây Minh v.v… nói: Lấy luôn Bồ-tát Sinh không trí, vì không chướng ngại trí kia, cũng gọi là bất nhiễm.

Yếu Tập ghi: “Sau nói là thắng”, nếu đồng với phàm phu, Bồ-tát cũng có, vì sao không đồng? Nay cho rằng trước là thù thắng.

Luận nói: Đối với chư Bồ-tát, tức là thông với phàm, Thánh. Nếu mong Bồ-tát Sinh không, không nhiễm, khởi Sinh không, thì có thể chẳng phải Bồ-tát. Lại lẽ ra nói đối với chư Bồ-tát, trừ Sinh không trí cũng gọi là nhiễm, câu trước nói chung, văn lại không trừ, nên biết cùng trông mong không đồng với Bồ-tát lúc khởi Sinh không, nhưng đối với Bồ-tát không nói đồng, vì thuộc về các lời, trước ảnh sau đều không có lỗi.

Luận là Dị thục sinh nhiếp, vả lại Dị thục sinh tâm cho đến biến hóa, Đại thừa Tiểu thừa khác nhau, Tiểu thừa bốn tâm, định chỉ Vô ký, nhưng biến hóa tâm thông với cõi Dục, cõi Sắc, tâm oai nghi rộng, ba thứ khác không nhiếp, đều nhập vào oai nghi, chỉ một chẳng phải hai. Hỏi: Thọ giới đồng phát khởi oai nghi, đâu chẳng phải là thiện?

Đáp: Ý của tông khác nói: Muốn được thọ giới tâm này là thiện, khởi lễ bái v.v… tức là Vô ký, nhưng lập ra giới thể, không nương theo phát khởi thân, ngữ, nghiệp, tư nương theo sắc, thanh lập ra. Đại thừa biến hóa chỉ có bốn thiền định thông với thiện, Vô ký và lậu, Vô lậu, ba thứ khác thông với tánh, lậu Vô lậu, như trước đã nói rõ, nhưng được hòa hợp khởi, như đi giữa đường ca múa đánh trống, hoặc trước sau tâm phát khởi cùng thời cũng được, hoặc nghiệp quả tâm không thể đều phát khởi. Nếu chẳng phải nghiệp quả và thiện ác, có thể nói nghĩa của bốn tâm, chẳng phải nhiều tâm hợp lại.

Đại luận nói: Thế tục này có. Nói Vô ký là căn cứ theo thuyết khác. Luận nói ý thức của tâm. Luận Tát-bà-đa ghi: “Nghĩa của năm môn khác nhau”.

1. Tên gọi môn: Chỉ cùng đặt ra tên.

2. Nghĩa môn: Tập khởi gọi là tâm, liễu biệt gọi là thức, tư lương gọi là ý.

3. Nghiệp dụng môn: Xa biết gọi là tâm, khai đạo gọi là ý, thọ sinh gọi là thức.

4. Thế môn: Quá khứ gọi là ý, hiện tại gọi là thức, vị lai gọi là tâm.

5. Thi thiết môn: Ở nơi uẩn gọi là thức, ở nơi xứ gọi là ý, ở nơi giới gọi là tâm, đều thông với sáu thức, chẳng phải lìa sáu thức bên ngoài riêng có tâm ý. Sau kiểm nghiệm văn chú, Đại thừa tức là riêng.

Kinh Giải Thoát ghi: “Nhân đạo đoạn chướng được giải thoát, nên gọi là kinh Giải Thoát”. Yếu Tập ghi: “Như chư thiên thỉnh hỏi v.v… không gọi là kinh Giải Thoát”. Nay cho rằng không đúng, vì sao kinh không khiến cho Tu đạo đoạn chướng, nếu không như vậy, vì sao được nói Dẫn đối trị, nên nói là Phật nói, nên trước nói là phải, nhưng chư Thiên thỉnh hỏi là tên riêng, nói giải thoát là tên chung để gọi chư Bồtát không nhập vào quả A-hàm .

Nhiễm ô ý hằng thời v.v… các bộ luận giải thích khác nhau. Vả lại Hữu bộ nói: Nhiễm ô ý nghĩa là Thức thứ sáu, hằng thời là chẳng phải không đoạn nên gọi là hằng thời, như thường ban bố thức ăn, thường thọ vui v.v… Câu sinh diệt, chẳng phải gọi là đồng thời, gọi là câu, sinh diệt câu hữu nên gọi là câu, tức là các hoặc đều có sinh diệt, nếu giải thoát là Đối trị đạo khởi chẳng phải từng, chẳng phải sẽ có, chỉ bỏ được đó lìa duyên trói buộc, chẳng phải không có thể tánh.

Thượng tọa bộ nói: Nhiễm ý hằng thời, nghĩa là ý thức vi tế, không phải gián đoạn, các hoặc câu sinh nói rằng đều sinh diệt, quá khứ, vị lai vô, chẳng phải từng, sẽ có.

Hỏi: Nếu ý thức vi tế, như thọ sinh v.v… hằng thời tương tục cùng với bốn hoặc đồng thời, vì sao Nhiếp luận quyển 3 ghi: “Nương theo nhiễm ô thì không có gián đoạn”, lấy đây làm vặn hỏi, lại chín tâm chuyển, vì hữu phần tâm là thọ sinh tâm, chỉ là Vô ký? Lại sau luận Dugià ghi: “Địa ngục vô gián có Dị thục sinh”, là nghĩa của Thượng tọa bộ, chuẩn theo đây chẳng phải nhiễm ý vi tế sinh thọ, nên chẳng phải giải thích kia.

Đáp: Trong Thượng tọa bộ có bản mạt kế, Vô ký thọ sinh là bản kế, nhiễm ý vi tế sinh là mạt kế, sư Kinh bộ cũng có bản mạt kế, giải thích kinh chuẩn theo đây.

Nói rõ bất cộng vô minh, Nhiếp luận quyển 5 ghi: “Đối với năm thức này không dung chứa nói có, là xứ không có năng đối trị, nếu xứ có năng đối trị, thì xứ này có sở trị, chẳng phải trong năm thức có năng trị kia, vì ở nơi Kiến đạo này, không phải sinh khởi”. Ý này năm thức ở nơi địa vị Kiến đạo, chưa thành Vô lậu, nếu có bất cộng vô minh, tức là ở địa vị Thánh cũng gọi là say, trái với giáo, vì nói Dị sinh mà không nói bậc Thánh cũng thường hằng khởi. Lại căn cứ Bồ-tát khởi Kiến đạo mà nói, lúc ấy Thức thứ bảy cũng Vô lậu, chẳng cho rằng hàng Nhị thừa đã khởi Kiến đạo, cũng chẳng phải Thức thứ tám lập ra Thức thứ bảy.

Hỏi: Người vô tánh tức là không phải đối trị, nên tổng không có?

Đáp: Là dị sinh, lại ý vặn hỏi này, vả lại căn cứ lúc hữu tánh khởi Kiến đạo, nếu không như vậy thừa nhận năm thức có thành sự trí, nên có bất cộng.

Hỏi: Nhiếp luận lại nói cũng chẳng phải nhiễm ô. Trong ý thức, cùng với phiền não khác, cùng tương ưng thời, bất cộng vô minh gọi là chẳng thành, tức là như vậy, vì sao cùng với bốn hoặc câu, nên sư ban đầu trội hơn.

Đáp: Luận kia vặn hỏi rằng: Bất cộng vô minh cũng không thành tựu, cùng với thân kiến v.v… thường hằng tương ưng.

Tự giải thích rằng: Ông vặn hỏi không sòng phẳng, chẳng phải tôi nói nó cùng với phiền não khác không tương ưng, nên gọi là bất cộng, nhưng nói nó hoặc chỗ khác không nên gọi là bất cộng, thí như mười tám pháp bất cộng của Phật, trước nói cùng với phiền não khác tương ưng, gọi là không thành tựu, quán xét cái mà họ lập, hiển bày lỗi kia. Ý này chính là luận Tát-bà-đa v.v… nói: Cùng với câu khác không gọi là bất cộng, hiển bày nó tự trái, nên làm vặn hỏi này. Chẳng phải tôi nói cùng với hoặc câu thời khác, không gọi là bất cộng.

Luận: Thức này nếu không nương theo kia lẽ nào có, Đại thừa hiển bày Tiểu thừa, nếu không phải Thức thứ bảy, nghĩa của kinh không thành, nên vặn hỏi người ngoài rằng: Nhãn v.v… trong sáu thức nhiếp có đều khởi căn gọi là hai duyên, ý cũng thâu tóm trong sáu thức, nên nương theo ý hiện tại gọi là hai duyên. Ngoại đạo vặn hỏi Đại thừa rằng: Ý thức hai duyên sinh, duyên không phải ý được khởi, ngăn gì hai duyên sinh, căn không phải ý cũng khởi, Kinh bộ cùng Đại thừa đồng thừa nhận quá khứ vị lai vô, duyên không phải cũng thừa nhận khởi, nên làm ra vặn hỏi này?

Đáp: Giữ gìn tự hữu vô đều là pháp, duyên không hiện ra tướng hai duyên sinh, quá khứ diệt ý hiện ra chẳng có, căn của ý thức đều sẽ khởi. Nếu luận Tát-bà-đa thành tựu tông của Đại thừa, làm ra vặn hỏi trước cũng được, Kinh bộ diệt vô, giả lập tên của ý, chính là Đại thừa vặn hỏi: Năm thức mười hai duyên duyên theo thật căn cũng thật, ý thức mười hai duyên duyên giả căn cũng giả, nhưng sau phá Kinh bộ kia, trước giả nêu Hữu bộ là vặn hỏi, cũng chính là Đại thừa.

Đáp rằng: Căn pháp là sở y, ý câu chẳng phải là giả. Lại giải thích thận cận tướng nhau là duyên sinh, chất không có cũng là thật đồng với năm thức mười hai duyên, căn của sở y không giả. Ngoại đạo lại vặn hỏi rằng: Kinh nói mười hai duyên, căn giả thức không sinh, thức nương gá vào mười hai duyên, cảnh giả nên không khởi.

Đáp: Thế lực của sở duyên gần xa, thiết lập giả thức được sinh, sở y trội hơn tăng thượng, thế lực gần giả không khởi, nhưng vì gần gũi Tướng phần giống như căn, hiện ra thật nên tốt.

Không thể nói sắc là sở y kia, phá Thượng tọa bộ rằng: Năm thức nương theo sắc căn, năm thức không phải phân biệt, ý thức nương theo sắc căn, ý thức không phải phân biệt, chất vấn kia vặn hỏi Đại thừa rằng: Thức thứ tám nương theo ý căn, Thức thứ tám không phải phân biệt, vì sao ngăn cản Thức thứ sáu nương theo sắc căn, ý thức có phân biệt.

Đáp: Tánh của sắc pháp là chậm chạp, năm y không phải phân biệt, ý pháp là thắng y, cần suy nghĩ mới phân biệt. Ngoại đạo vặn hỏi Thức thứ sáu nương theo ý căn, Thức thứ sáu có phân biệt, Thức thứ tám nương theo ý căn Thức thứ tám có phân biệt.

Đáp: Tự tánh của Thức thứ tám không phải rõ ràng, tuy nương theo ý căn không phải phân biệt, tự tánh của Thức thứ sáu có nhiều khả năng, lại được ý y nên phân biệt.

Hỏi: Hiện tại gọi là ý, đã diệt rồi nương theo đây lập ra tên ý, hiện tại cũng gọi là thức, đã diệt rồi nương theo hiện tại nên gọi là thức.

Đáp: Tên của ý thông với hai nghĩa, đã diệt nương theo được tên ý, thức là chỉ rõ biết đã diệt không thể không gọi là thức.

Luận: Do ngã chấp nên sai khiến trong sáu thức v.v… Sớ có hai giải thích, lấy sau giải thích chính. Tây Minh lấy trước, Yếu Tập cũng đồng. Nay cho rằng phần sau giải thích là trội hơn, do ngã chấp nên không thể mất tướng nói: Ngã có thể hành thí, đâu phải ngã của Thức thứ bảy duyên theo thí v.v… sinh ra ngã năng thí, nên ý của Sớ, ngã của Thức thứ sáu do ngã của Thức thứ bảy làm chỗ nương, hành tướng tăng thêm rõ ràng, chẳng phải nói ngã thí là ngã của Thức thứ bảy, nếu chấp theo tướng của tam luân, là ngã của Thức thứ bảy. Từ Địa thứ bảy trở về trước có lúc chưa hàng phục, huống gì Địa tiền đã không thể phục, thí v.v… tam luân vì sao có thể mất tướng?

Nói tướng trói buộc, có hai loại:

1. Thông với tất cả tướng, do ngã của Thức thứ bảy.

2. Chấp theo tướng của tam luân, tuy cũng do Thức thứ bảy, chính là nói Thức thứ sáu.

Nhưng Nhiếp Đại thừa căn cứ theo chỗ nương nói: Tự mình cho

ngã hay tu hành bố thí v.v… chẳng phải lìa vô minh ngã chấp tuy theo thỏa thích, chẳng phải lìa chỗ nương mà có vô minh v.v… Nếu nói ngã chấp của Thức thứ bảy thì không thể mất tướng, nên nói chẳng phải lìa vô minh, ngã chấp tự tướng mà có thể chấp tướng v.v… vì sao cần phải nói chẳng phải lìa vô minh ngã chấp đuổi theo? Chẳng phải lìa chỗ nương nên nói nguyên nhân, chẳng phải nói tức là phải. Nhưng luận này dẫn luận Du-già làm chứng, là thông với chứng, chẳng phải chỉ chứng tướng của tam luân kia. Nếu nói do Vô lậu không phân biệt, nói có thể hàng phục được tướng này, tức là Kiến đạo trước nên chẳng phải Ba-la. Địa trước tu Hữu lậu gia hạnh, Vô phân biệt trí có thể hàng phục Thức thứ sáu nên thành tựu mật-đa.

Hỏi: Nói tướng trói buộc làm Phiền não chướng làm Sở tri chướng?

Đáp: Nếu như vậy vì sao có lỗi? Cả hai đều có lỗi, nếu do Phiền não chướng, hàng Nhị thừa Vô học Hữu lậu tâm vị sẽ không phải tướng trói buộc, ngã chấp đoạn, nếu do Sở tri chướng, Sinh không hậu trí sẽ có tướng trói buộc. Có hai giải thích:

1. Do Sở tri chướng, nếu như vậy Sinh không hậu đắc được nên trói buộc? Đáp: Không phải thuận theo nhau, nương theo giải thích của An Tuệ, đây tức là chính.

2. Phiền não chướng làm thể của tướng trói buộc, nếu như vậy hàng Nhị thừa Vô học Hữu lậu, tâm thiện, Vô ký lẽ ra không phải tướng trói buộc.

Đáp: Do thể của Tướng phần này là Hữu lậu là chỗ dẫn dắt kia huân tập thành chủng tử. Nay tuy đoạn thể của ngã chấp kia cuối cùng do có tướng trói buộc, nhưng thể của pháp chấp chẳng phải chính tướng trói buộc, chấp có tướng là y giúp ngã chấp kia khởi là giúp tướng trói buộc, bậc Vô học phân tán tâm thiện và Vô ký, cũng có giúp đây, chưa lìa tướng trói buộc, Sinh không hậu đắc được, tuy có giúp, không có tướng của Hữu lậu xưa đã huân tập, chính là tướng trói buộc, nên được nói rằng không; giải thích này là chính, nhưng chấp tướng của tam luân, chỉ Thức thứ sáu, Thức thứ năm, thứ tám mặc tình, Thức thứ bảy duyên bên trong. Nếu tướng của Hữu lậu gọi là tướng trói buộc, tức là thông với tám thức.

Đáp: Luận kia căn cứ theo tam luân, nay Thức thứ sáu do chấp ngã sáu thức trước đều là tướng câu nệ, không rõ được huyễn; Thức thứ bảy duyên theo Thức thứ tám cũng là tướng câu nệ, vì gốc của tướng trói buộc đều là tướng trói buộc. Nếu Thức thứ bảy chấp ngã, không gọi là tướng trói buộc, sáu Thức vì sao được gọi là tướng trói buộc?

Lại luận này nói: Nói tướng trói buộc nghĩa là đối với cảnh tướng không thể liễu đạt được việc như huyễn, do Kiến phần Tướng phần đây câu nệ không được tự tại, nên gọi là tướng câu nệ, vì đây nên biết thông với tám thức.

Hỏi: Nếu như vậy hàng Nhị thừa, Vô học, Thức thứ năm, Thức thứ tám sẽ có tướng trói buộc, vì không rõ được huyễn?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Nhiễm ý diệt nên Thức thứ năm, Thức thứ tám không trói buộc.

2. Tức là duyên theo Hữu lậu được sinh ra Tướng phần, là phân biệt tướng, giống như là tướng trói buộc.

Như tợ Hữu lậu xưa do Thức thứ bảy lậu đều thành lập, nhiễm Thức thứ bảy không phải thời hai Thức thứ năm và thứ tám, vẫn nhiếp Hữu lậu; tướng trói buộc lẽ ra như vậy.

Hỏi: Tướng trói buộc đối với Kiến phần nói tướng gọi là trói buộc, Kiến phần trói buộc tự chứng phần gọi là Kiến phần trói buộc v.v…

Đáp: Như Xu Yếu giải thích, cũng thừa nhận gọi là trói buộc. Có người nói đồng loại chẳng trói buộc, khác loại là trói buộc.

Yếu Tập ghi: Nay cho rằng Kiến phần có tam luân, chẳng phải như huyễn v.v… nên nói tướng trói buộc, phần khác không như vậy nên không nói trói buộc. Có thuyết nói trái với văn, chỉ ở nơi thí v.v… không mất tướng. Có người nói rằng trái với lý, đồng loại sinh ra quả, phân chia năng duyên sở duyên, vì sao không thừa nhận nói năng trói buộc sở trói buộc? Nay cho rằng Yếu Tập trước sau tự trái, vì sao vặn hỏi có nói, tức là nói trái với văn? Văn chỉ nói thí v.v… không mất tướng, tức là không thừa nhận phần khác gọi là trói buộc. Vặn hỏi có người nói: Tức là năng duyên sở duyên, nếu thừa nhận năng duyên sở duyên là trói buộc thì vặn hỏi tam luân trước sai, nếu chỉ tam luân gọi là trói buộc tức là năng và sở đều trói buộc là sai.

Nếu nói: Vặn hỏi có nói, căn cứ theo lời của tướng trói buộc, vặn hỏi có nói căn cứ theo lời của năng duyên và sở duyên trói buộc. Nếu nói như vậy năng duyên sở duyên trói buộc có thể chẳng trói buộc ư? Tức là tự thừa nhận trói buộc, vì sao vặn hỏi có nói, có nói tổng hợp luận nói tam luân, văn căn cứ dễ rõ được lời.

Lại luận về trói buộc là có nhiều loại, hoặc nói hai thứ trói buộc: 1. Tương ưng trói buộc 2. Sở duyên trói buộc.

Lại nói hai thứ trói buộc: 1. Năng duyên trói buộc 2. Sở duyên trói buộc.

Lại nói hai thứ trói buộc: 1. Tướng trói buộc 2. Thô trọng trói buộc

Năng duyên tâm vương tâm sở và hoặc câu thời không được tự tại, vì làm sở trói buộc của pháp tương ưng, tương ưng tức là trói buộc, giữ gìn nghiệp là tên gọi, tâm năng duyên vương tâm sở là cảnh được câu nệ gọi là sở duyên trói buộc; thông với pháp chấp tâm. Năng duyên trói buộc tức là đã trói buộc cảnh làm tâm của năng duyên trói buộc, như tên của A-lại-da; tướng trói buộc nghĩa là tâm là tướng đã câu nệ tên gọi làm tướng trói buộc. Tướng trói buộc có ba:

1. Tất cả Tướng phần đều gọi là trói buộc, tức là sư An Tuệ căn cứ theo pháp chấp mà nói, năng thủ sở thủ, tuy biết như huyễn, không thể không phải tự tánh, hoặc đồng với luận Hộ Pháp chỉ căn cứ theo ngã chấp không rõ như huyễn, chẳng căn cứ theo pháp chấp. Lại nói Ý này lúc chưa diệt thức trói buộc cuối cùng không thoát, ba vị tức là không phải Mạt-na, tức là không phải tướng trói buộc.

2. Chỉ tướng của Hữu lậu tức gọi là tướng trói buộc, chỉ trừ Vô lậu thông với tám thức. Một là căn cứ theo pháp chấp, không rõ huyễn nêu chấp làm có; hai là căn cứ theo ngã chấp, chỉ không rõ huyễn tức là làm tướng trói buộc, nên thông với pháp chấp, nếu căn cứ không rõ như huyễn, trói buộc ở nơi sinh tử gọi là tướng trói buộc, chỉ ở nơi ngã chấp.

3. Căn cứ theo hành sáu độ, tướng của tam luân, chỉ ở nơi Thức thứ sáu ngã chấp tương ưng với tướng của thức sở duyên, do đây không thể thành tựu đến bờ bên kia. Nếu nói như vậy tâm thiện đều không phải ngã chấp, hành sáu độ là thiện nên không phải tướng trói buộc?

Đáp: Căn cứ theo gián đoạn tạp, nói không thể mất tướng.

Hỏi: Nếu không phải ngã lẫn lộn tức gọi là vô tướng. Xảo tiện tối thắng cùng với thanh tịnh tối thắng, hai thứ mỗi mỗi có gì khác nhau?

Đáp: Xảo thiện căn cứ theo không chấp, thanh tịnh căn cứ theo vô hối, các thuyết nói tướng trói buộc không có lỗi này. Thô trọng trói buộc, là nhiếp chung các văn, thô trọng có bốn:

  1. Hiện hành Hữu lậu các tâm tâm sở, tức là Tạp Tập nói hai mươi bốn thô trọng.
  2. Hiện hành hai chướng.
  3. Hai chướng chủng tử.
  4. Hai chướng tập khí.

Hoặc có thể hiện hành đồng nói Hữu lậu, ba tánh, tâm pháp, chủng tử sẽ như vậy, vì thiện, Vô ký, chủng tử, nghĩa của thô trọng ít ẩn, các thuyết lược không nói. Nay nói tướng trói buộc, căn cứ theo ngã chấp dẫn dắt và sáu độ mà nói, nương theo cộng để đối trị, Tiểu thừa, nên nương theo chấp mà nói, căn cứ theo tự nghĩa, nên theo sáu độ mà nói, nói thô trọng đây luận không rõ, dẫn kinh tụng có, tùy theo chỉ ứng đó, đều tu chỉ quán, mới có thể trừ được, đồng nói không lỗi.

Vì Hữu lậu nói biểu hiện lậu đồng thời, Hữu lậu có ba:

1. Thể là lậu là có hữu gọi là Hữu lậu, tức là trong ba lậu nói Hữu lậu, là có ba hữu, đây nói thân bên trong giới trên là hữu, vì hai cõi trên duyên theo thân khởi ái, lìa cảnh tham bên ngoài, lậu của hữu gọi là Hữu lậu, tức là hai cõi phiền não gọi là Hữu lậu, lậu là sở hữu.

2. Có tha lậu nên gọi là Hữu lậu, tức là nói năng hữu.

3. Là lậu tánh hợp gọi là Hữu lậu, cũng là tự thể của phiền não, do lậu này ở trong sinh tử, tức là thể có dụng gọi là Hữu lậu. Nay trong đây biểu hiện lậu đồng thời, nhận lấy thể của năng hữu gọi là Hữu lậu, không nhận lấy phiền não, nên trước riêng vặn hỏi.

Lại lúc tâm thiện, Vô phú, Vô ký, nếu không phải ngã chấp nên chẳng phải Hữu lậu. Luận Du-già chỉ nói có tha lậu, Tạp Tập đồng nói.

Hỏi: Nếu cùng lậu câu mới thành Hữu lậu, tức là cùng với luận Tạp Tập quyển 3, luận Du-già quyển 5 đều trái nhau; văn của hai lậu kia, không chỉ lậu đồng thời gọi là Hữu lậu, hai lậu nói như thế nào? Vả lại Đối Pháp nói: Lậu tự tánh, lậu tương thuộc, lậu sở phược, lậu sở tùy, lậu tùy thuận, lậu chủng loại.

Lậu tự tánh tức là thể của phiền não, lậu tánh hợp gọi là Hữu lậu, do tự thể này, lậu ở trong sinh tử, gọi là lậu tánh hợp. Năm thứ khác do tự thể này gọi là Hữu lậu. Lậu tướng thuộc là cùng với lậu tương ưng và lậu sở y, tức là nhiễm ô tâm, tâm sở, gọi là tương ưng, biến hành, biệt cảnh và năm thức trước cùng với hoặc câu là năm căn nhãn v.v… gọi là lậu sở y. Sở phược nghĩa là Hữu lậu thiện pháp. Do thế lực của lậu chiêu lấy hữu sau, trong đây cũng nhiếp cảnh bên ngoài của sáu thức, Vô ký tâm. Vả lại căn cứ theo thiện mà nói nếu chuẩn theo luận Dugià, quá khứ, vị lai Hữu lậu pháp thiện, Vô ký tâm đều chẳng phải sở phược, và hiện ra cảnh bên ngoài chẳng phải hiện lượng duyên, cũng chẳng phải sở phược, luận kia căn cứ theo lời chất vấn quá khứ vị lai vô, thiện, Vô ký tâm chẳng phải lậu tương ưng, lậu tâm trói buộc thì ở quá khứ, vị lai, hiện ra sắc, nếu chẳng phải hiện lượng tâm duyên, không phải thân cận trượng chất vấn nói chẳng phải sở duyên. Luận Đối Pháp căn cứ theo gần gũi Tướng phần và riêng sở duyên, nói cũng thành tựu sở duyên, đồng với quyển , đoạn duyên trói buộc mà nói, đều căn cứ một nghĩa, nên không phải trái nhau. Luận sớ tùy nghĩa là pháp của địa khác, không phải hỗ tương tăng. Lậu tùy thuận là thuận theo phần quyết chọn, địa khác không tăng, đồng với địa được tăng, dung chứa lậu đồng thời. Nếu Vô lậu chẳng phải tùy thuận, Hữu lậu tuy tăng ích trái với hữu; nhưng cùng lậu đồng thời, nếu không như vậy lậu đồng thời chẳng phải nhân của lậu, hoặc tuy lậu đồng thời mà không phải tăng ích, gọi là tổn sức, tăng ích có thể chuyển, nhưng thành tựu Hữu lậu nói là tăng ích, căn cứ theo lậu khác mà nói. Lậu chủng loại là các uẩn của bậc Vô học, trước sinh ra phiền não đã khởi, luận Du-già quyển 5 nói Hữu lậu sai biệt, do năm tướng nghĩa là sự tùy miên, tương ưng, sở duyên, sinh khởi. Sự nghĩa là thanh tịnh các sắc, ba tánh, tâm, tâm sở, đây là năng hữu thể sự của các lậu, tùy theo chỗ ứng đó. Do bốn tướng khác nói gọi là Hữu lậu nghĩa là tùy miên, tương ưng, sở duyên, sinh khởi, tức là các pháp phiền não trước chưa đoạn sở hữu chủng tử, gọi là thùy miên, kia do chủng tử này, gọi là Hữu lậu, các nhiễm tâm, tâm sở do tương ưng, nên nói gọi là Hữu lậu nếu các hữu sự, hiện lượng sở hành. Nếu Hữu lậu đã sinh tăng thượng đã khởi, như là sở duyên của tất cả lậu, gọi Hữu lậu, hiện tại gọi là hữu sự, nếu nương theo thanh tịnh sắc, thức sở hành gọi là hiện lượng sở hành. Đây căn cứ theo tham v.v… có thể hiện lượng duyên theo cảnh của sắc v.v… kia, gọi là lậu sở duyên, còn lại chẳng phải sở duyên. Luận nói: Chỉ do tự phân biệt được khởi tướng khởi các phiền não, chẳng phải các pháp làm rõ ràng cảnh sở hành này, nên như trước tổng hợp. Do sinh khởi nên thành tựu Hữu lậu, tùy miên chưa đoạn thuận theo phiền não, cảnh hiện tại trước, đây căn cứ theo hoặc để dẫn.

Lại nói: Theo tất cả bất thiện phiền não, các quả Dị thục và quả Dị thục tăng thượng được dẫn việc sinh khởi bên ngoài cũng sinh khởi nên gọi là Hữu lậu, quả của Hữu lậu này là nương theo mà được sinh cũng gọi là Hữu lậu.

Pháp của năm tụ ở trong địa vị Hữu lậu vô tánh, nương theo Tạp Tập quyển và luận Du-già quyển 5 đều đầy đủ bao nhiêu nghĩa, gọi là Hữu lậu. Như Xu Yếu quyển hạ giải thích năm mươi hai chi ba đoạn, luận Trung Biên chuẩn theo hai chi này, không chỉ lậu đồng thời gọi là Hữu lậu?

Đáp: Đây căn cứ theo chánh nhân, kia căn cứ theo nghĩa khác nên không trái nhau.

Nói hỗ tương tăng ích.

Hỏi: Thức thứ bảy và thứ sau làm tạp nhiễm y, tăng ích đối với Thức thứ sáu, sáu thức vì sao tăng ích Thức thứ bảy?

Đáp: Có hai nghĩa: Một là tăng trưởng, hai là bất tổn.

Nếu Thức thứ sáu phát lên nghiệp hoặc, Thức thứ tám làm duyên của y kia được tương tục trụ, nên gọi là tăng ích, lúc khởi Hữu lậu, nếu tuy không thể tăng trưởng Thức thứ bảy mà không tổn hại cũng gọi là tăng ích, chẳng như Vô lậu khởi ắt sẽ tổn hại kia không gọi là tăng trưởng, cũng như thùy miên, tuy ở nơi nhãn căn không thể tăng trưởng mà không tổn hại, cũng gọi là trưởng dưỡng, đây lẽ ra như vậy.

Giải thích ý thức được tên.

Hỏi: Thức thứ năm, Thức thứ tám đều nương theo Thức thứ bảy, vì sao Thức thứ sáu gọi là bất cộng y, chỉ được gọi là ý thức, chẳng phải là Thức thứ năm, thứ tám ư?

Đáp: Nếu nhiễm tịnh y và Câu hữu y, Thức thứ bảy mong Thức thứ năm, thứ tám đều là sở y, nhưng gần gũi thuận theo sinh ra. Bất cộng y tức là chỉ Thức thứ sáu, nay nói ý của bất cộng, hiển bày gần gũi thuận theo sinh ra.

Vì sao chủng tử của Thức thứ sáu ắt sẽ tùy theo chủng tử của Thức thứ bảy? Chủng tử của Thức thứ bảy sinh ra hiện ý thức theo sinh ra, như chủng tử của nhãn thức nương theo chủng tử của nhãn căn, đây cũng như vậy, Thức thứ năm, thứ tám không nói nương theo chủng tử của Thức thứ bảy, nên đây được tên, không có lỗi tướng lạm tràn.

Nếu như vậy Thức thứ bảy nương theo thức tám sinh ra, vì sao không gọi là tâm? Thức thứ tám nương theo Thức thứ bảy sinh ra, vì sao không gọi là ý?

Đáp: Luận nói thức được tên, tâm, ý chẳng phải ví dụ, lại Thức thứ bảy thứ tám tự tương tục, nên thể được tên, sáu thức gián đoạn, theo y, duyên, nhân, hoặc chuẩn theo giới, xứ, đều gọi là tâm ý, Thức thứ bảy gọi là tâm ý, Thức thứ tám gọi là ý tâm, lý cũng không lỗi, nhưng không có thật văn.

Luận: Nếu được tự tại các căn hỗ tương dụng. Xu Yếu có hai thuyết: Đối với sư thứ nhất tự có hai giải thích:

Một là năm thức mỗi mỗi có thể duyên theo các cảnh đều được tự tướng, không hoại căn, cảnh lỗi, nói lìa hợp là căn cứ theo địa vị của nhân mà nói, không chướng ngại quả vị, được tự tại. Lại như Thức thứ tám tuy duyên theo các cảnh đều được tự tại, không có lỗi hoại, vì ở nơi quả vị, thể có nhiều khả năng, không phải thể chuyển biến làm thể của pháp khác. Không được vặn hỏi rằng: Thấy sắc gọi là nhãn, cũng thừa nhận nghe âm thanh v.v… năng tạo gọi là đại, sắc v.v… cũng có thể tạo tác, thể kia chuyển biến thay đổi đây là công năng, chẳng phải là thể chuyển biến, nhưng ý của Pháp sư giữ giải thích thứ hai. Nếu sư thứ hai đều trở lại tự căn duyên theo tự tướng không gọi là hỗ dụng.

Yếu Tập ghi: Tương truyền xưa có ba sư. Một là một thức đồng nương theo sáu căn; đều nhận lấy căn đã được tụ cảnh. Hai là một thức đồng nương theo sáu cảnh, đều nương theo tự căn, vì cảnh là cùng đồng, yếu kém được thông với thứ khác. Ba là một thức đồng nương theo sáu căn, đồng duyên theo sáu cảnh, chưa biết xác quyết thế nào. Căn, thức bất cộng, cảnh tức là cộng, không muốn hoại tự căn, thức sở hành, nếu một thức đồng nương theo các căn, tức là hoại căn thức, nên dùng cảnh khác, không dùng căn khác, nay còn chưa rõ ràng, nay cho rằng có khác, vì sao cảnh là cộng thủ, vốn tự cộng thành. Nếu không muốn hoại tự căn, thức sở hành đồng nương theo các căn, tức là hoại căn, thức, nên dùng cảnh khác không dùng cảnh khác. Nay nương theo tự căn, nhận lấy cảnh khác, không chia ly hợp được cảnh thật giả, đâu không còn có lỗi hoại căn cảnh, vì thức, căn còn lại nhận lấy cảnh khác, tức là không phải giải thích đồng, nêu nương theo Xu Yếu.

Hỏi: Cảnh của Phật năm thức duyên năm căn làm định sinh chăng? Nếu định đã sinh nên thuộc về pháp xứ, năm căn cũng như vậy?

Đáp: Có hai giải thích, chuẩn theo quyển 5 sau ghi: Một là pháp xứ chỉ có ba cõi, thành tựu Vô lậu. Hai là hễ định đã biến đổi, chưa nhất định ở nơi pháp xứ được thâu tóm. Nếu cõi Vô sắc định lực đã khởi tức là thâu tóm pháp xứ, vì không phải sở căn, cảnh của sở y khác nhau. Nếu ở nơi cõi Sắc, định thông với lực sinh, đồng thuộc về tự xứ, như thiên nhãn, nhĩ, chẳng phải ở pháp xứ, hoặc nương gá theo chất biến năm cảnh để thâu tóm, nếu chỉ ảnh khởi tức pháp xứ nhiếp, hoặc ở địa vị Phật, pháp như vậy Vô lậu năm trần cảnh thâu tóm. Tân sở huân tức là pháp xứ nhiễm, vì pháp như vậy không do định thông nhau, nếu tân huân là do định, thần thông khởi.

Hỏi: Năm thức ba tánh thừa nhận được dung chứa đồng thời. Vả lại thiện nhãn thức cho đến Đẳng lưu mà thôi, bất thiện nhĩ thức sở duyên, duyên đến khởi tâm chợt hiện, bấy giờ ý thức cũng đồng nghe âm thanh, làm chợt hiện này, làm tâm Đẳng lưu, nếu tâm Đẳng lưu sẽ cùng nhãn thức đồng là thiện tánh, chựt hiện Vô ký, chưa chuyển y vị ba Vô ký trước, không thể hai tánh, một tâm đều khởi, nếu là Vô ký, nhãn thức bấy giờ vì sao thành thiện, vì không có thiện ý thức làm năng dẫn?

Đáp: Vả lại thông với vặn hỏi ban đầu, nói nghĩa của năm tâm, thiện Đẳng lưu ý và nhĩ đồng duyên, tuy là thiện tánh, cũng gọi là chợt hiện, vì cảnh của âm thanh mới rơi xuống tâm, không thể nói là tâm của Đẳng lưu, trước chưa nghe âm thanh, không được chỉ có chợt hiện, vì cũng cùng với nhãn thức vẫn đồng duyên, nên có thể thông với hai, nhưng là thiện tánh. Nói ba tâm trước, chưa chuyển y vị chỉ là Vô ký hoặc căn cứ hoàn toàn chưa chuyển y, không được tự tại, riêng biệt năm tâm, nhiều phần mà nói. Nếu đã chia được chuyển y, được tự tại, năm tâm đồng thời có thể thông với ba tánh. Nếu không như vậy vì sao luận nói: Chẳng phải lúc nhận âm thanh, tức là liền xuất định, lãnh nạp âm thanh thọ rồi, nếu có hy vọng, lúc sau mới xuất, đây nói hy vọng tức là tâm tìm cầu, đâu thể nói lúc muốn hy vọng, tức là liền xuất định.

Luận nói: Nếu có hy vọng sau mới xuất định, cũng không được nói định trước gia hạnh lập ra mong cầu rằng: Nếu nghe khác âm thanh, tức là liền xuất định, tìm cầu cảnh sự, nên nói hy vọng, chẳng phải ở trong định làm ra tìm cầu, vì sao lúc hy vọng âm thanh là ở bên trong của định, làm rồi xuất định? Nếu ở bên trong định, tâm của hy vọng tức là tìm cầu, tâm của tìm cầu cùng với dục đồng thời, nếu hy vọng này chẳng phải tìm cầu vì sao tâm nhiếp? Nếu nói hy vọng tức là đã xuất định, thì trái với văn của luận.

Luận nói: Nếu có hy vọng lúc sau mới xuất.

Tây Minh giải thích: Nếu nương theo bản chính, chẳng phải tức là định kia tương ưng, ý thức có thể nhận lấy âm thanh này, do nhà giải thích này, hai giải thích không đồng, nay cho rằng không đúng, trái với văn của luận, đã dẫn nhà giải thích, chẳng phải kinh luận, nên không thể làm chứng.

Vặn hỏi sau giải thích, luận nói năm thức, do ý thức dẫn dắt, thành thiện nhiễm, căn cứ khởi ban đầu mà nói, chẳng phải căn cứ lúc theo tương tục thiện nhiễm, hằng do ý dẫn dắt. Nên sau luận ghi: “Các xứ chỉ nói năm câu ý thức cũng duyên theo năm cảnh”, không nói đồng tánh.

Tây Minh nói: Chỉ có chợt hiện, nhiễm tịnh, Đẳng lưu ba tâm cùng với năm thức đồng thời, tìm cầu quyết định chỉ duyên theo quá khứ, tâm của tỷ lượng không cùng với năm thức đồng thời.

Hỏi: Như quyển trước ghi: “Gặp chẳng phải thắng cảnh có thể thừa nhận tâm chợt hiện, năm thức của tâm sau gián đoạn, gặp thắng cảnh vị tâm chợt hiện, năm thức của tâm sau không gián đoạn”, đâu không phải trung gian khởi tầm cứu rồi mới khởi quyết định nhiễm tịnh, Đẳng lưu? Nếu có tầm quyết định, vì sao không cùng với năm thức đồng thời?

Giải thích rằng: Gặp thắng cảnh, vị tuy nhiều sát-na, tâm chợt hiện không gián đoạn mà không phải tâm khác.

Hỏi: Nếu như vậy tâm chợt hiện chỉ là Vô ký, như Phẩn khuể thiên, tức là thắng cảnh, có thể chỉ Vô ký, không thấy phẩn khuể vì thành Vô ký?

Giải thích rằng: Thừa nhận ban đầu khởi chợt hiện Vô ký, theo tâm này sau khởi đối với nhiễm tịnh, Đẳng lưu, hai tâm, vì bất thiện.

Hỏi: Nếu như vậy năm thức thành tựu thiện, nhiễm ắt sẽ ý dẫn dắt sinh, nếu không phải tìm cầu, vì sao khởi phẩn khuể, nếu khởi tìm cầu, vì sao chẳng phải đồng thời với năm thức?

Giải thích rằng: Tam Tạng có một giải thích nói: Thừa nhận năm đồng thời ý đồng có tỷ lượng, nhưng Tập Lượng nói năm câu hiện lượng, không nói chỉ có, như duyên theo giáo v.v… có tỷ lượng, lại giải thích không thừa nhận.

Hỏi: Nếu như vậy trước vặn hỏi còn chưa có thể thông?

Giải thích rằng: Năm đồng thời chợt hiện, tuy đồng với Vô ký không khởi tìm cầu, do phần sức của thế trước, ý thành tựu thiện nhiễm, dẫn dắt năm câu thành tựu thiện, nhiễm, đây cũng không như vậy.

Hỏi: Nếu do sức trước, vì sao không phải ban đầu gặp do sức trước, tức là thành tựu, thiện, nhiễm?

Giải thích rằng: Có thể như vậy, đây cũng không như vậy, thừa nhận chợt hiện, tâm chỉ là Vô ký.

Hỏi: Thế nào là thiện, nhiễm? Nếu nói trừ niệm ban đầu, tỷ lượng trái nhau, nếu tâm trước đã gặp bất thiện, có thể do sức trước, trước hoặc Vô ký sức mạnh mẽ bỗng nhiên khởi ở nơi phẩn khuể, lẽ nào trước có khuể chăng?

Nay giải thích rằng: Chợt hiện, tìm cầu cũng thừa nhận năm đồng thời, nói duyên theo quá khứ là căn cứ theo gián đoạn, nay nói đồng thời là căn cứ theo tương tục, nên không duyên theo quá khứ, không có lỗi hiệm lượng tỷ lượng đồng thời.

Hỏi: Trong định không phải năm thức, gặp âm thanh nhĩ thức sinh, khi ngủ năm thức không có, khi gọi mới khởi trong giấc ngủ chăng?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Không ví dụ, hữu tâm định có ý là nương theo nhĩ thức sinh ra, khi ngủ ý hoặc không có, không nương theo nhĩ không khởi.

2. Trong khi ngủ giả sử có ý, mê muội nên nhĩ không sinh, trong định ý rõ ràng nghe âm thanh nên nhĩ thức khởi.

Tây Minh nói: Ngủ khởi nhĩ thức, như định nghe âm thanh, định không phải văn chướng.

Hỏi: Trong định thân thức cũng khởi chăng?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Không được, chuẩn theo quyển 3 trước ghi: “Nghĩa là nếu ở định v.v…, đúng ra có rất nhiều thân thọ sinh khởi v.v…” nên không phải thân thức. Nếu như vậy trước nói: Các định đều không phải năm thức thân, vì sao trong định thừa nhận có nhĩ thức? Đáp: Trước căn cứ theo tông khác, nếu như vậy do có tỷ lượng trái nhau.

2. Thừa nhận khởi không lỗi, nếu các Bồ-tát năm thức đều khởi, hàng Nhị thừa bất định.

Hỏi: Ở vô sở hữu xứ định, lúc ý duyên theo âm thanh và nhĩ đồng huân tập âm thanh của cõi Dục, làm vô sở hữu xứ?

Đáp: Định tâm sở biến thuộc về tâm năng duyên, không đồng với nhĩ thức.

Luận: Nêu sáu chuyển thức ba tánh dung chứa đồng thời.

Sớ không nói trong cõi Dục có thông với quả Vô ký. Yếu Tập ghi: “Luận Câu-xá quyển từ thông quả tâm, vô gián sinh ra hai, nghĩa là tự giới: một tức là thông quả tâm; một tức là gia hạnh thiện”. Đây nói cõi Dục thông quả tâm, chỉ là biến hóa. Theo quyển ghi: “Lại từ cõi Dục Vô ký tâm, vô gián cõi Sắc, thiện tâm sinh, như cõi Sắc giả cõi Dục biến hóa tâm, cho đến lại nói tâm này là cõi Dục”, nên biết là ảnh tượng loại kia, chẳng phải tự tánh.

Ý của Yếu Tập nói: Ban đầu nói từ cõi Dục, Vô ký tâm, vô gián, cõi Sắc, thiện tâm sinh đồng với luận Câu-xá, như quả của cõi Sắc, sau có hai thuyết: một đồng với Sớ; hai cũng đồng với luận Câu-xá. Nay cho rằng không đúng, văn đầu tức là cùng với văn sau, hai văn không khác. Nói lại từ cõi Dục, Vô ký tâm, vô gián, cõi Sắc, thiện tâm sinh là căn cứ theo tợ như cõi Dục gọi là cõi Dục chẳng phải tự tánh, lại nữa tức là tâm này, từ nơi cõi Sắc thiện tâm được sinh.

Luận giải thích chung rằng: Lại nói tâm này là cõi Dục, nên biết là ảnh tượng loại kia, chẳng phải tự tánh, văn trước lại nói: Các thần cảnh trí, hoặc gia hạnh đắc, hoặc sinh đắc. Nói Sinh đắc nghĩa là sinh ra sắc v.v… cho đến nói lại có cõi Dục chư thiên và người một phần phước quả đã dẫn đến, không nói có gia hạnh đắc, nếu thừa nhận cõi Dục có theo định dẫn dắt biến hóa tâm, tức là gia hạnh đắc, vì sao không nói có gia hạnh đắc?

Quyển 5 ghi: “Cõi Dục Vô phú Vô ký có biến hóa tâm”. Nói đây chỉ là sinh đắc, nghĩa là trời, rồng v.v… Lại nói: Nhưng không phải tu quả tâm, nhưng luận Hiển Dương chỉ nói cõi Dục có biến hóa, hoặc là nghiệp quả, hoặc là cõi trên, tợ như cõi Dục, nên gọi là cõi Dục, chẳng thừa nhận cõi Dục có định đã dẫn dắt biến hóa Vô ký.

Trong thọ chia làm hai, khổ thông với Vô lậu, ưu căn không thông. Tây Minh giải thích: Năm thức tương ưng với thọ khổ, từ Hậu đắc trí sức của đại bi, thân cận đã dẫn sinh, nên thông với Vô lậu.

Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng. Nay cho rằng giải thích này đồng với giải thích của quyển 2 trong Sớ, theo đâu là thắng?

Trong nói rõ ba đoạn, có giải thích rằng: Trong khổ thọ cầu không đoạn, nên cũng chẳng đoạn, lìa dục xả nên đã đoạn nói chẳng phải sở đoạn. Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng, nay làm ra giải thích này, vì cầu không đoạn, cũng chẳng đoạn, vì sao nói là thắng? Còn lại như loại này, vạch ra nên biết, không thể nêu đủ.

Lại thân tâm thọ vì sao năm đồng thời gọi là thân thọ? Thức thứ sáu đều gọi là tâm thọ.

Đáp: Có hai giải thích:

1. Thân là nghĩa của tích tụ, năm thứ sắc căn đều tích tụ nương theo năm căn kia đều gọi là thân.

2. Thân chỉ thuộc về thân căn, bốn thứ khác nương theo thân theo nhau gọi là thân, nên năng y thọ được gọi là thân thọ.

Hỏi: Năm thức chỉ nương theo căn, thọ của tương ưng được tên thân, Thức thứ sáu chỉ nương theo ý, thọ của tương ưng nêu tên của ý?

Đáp: Năm căn đều tích tụ thọ, từ sở y được tên thân, đối trị sắc nói rõ nơi tâm, Thức thứ sáu tương ưng chẳng phải ý thọ.

Hỏi: Sắc tâm dùng tướng để đối trị Thức thứ sáu không đồng, năm thức gọi là thân thọ, thân nhãn cả hai mong nhau, nhãn không đều thân lập ra thân thọ?

Đáp: Thân, nhãn đồng thời sắc, đều được gọi là thân, đối trị sắc tâm khác với Thức thứ sáu gọi là sắc thọ. Lại thọ nương theo thân, tức gọi là thân thọ, thọ nương theo ý nên gọi là ý thọ. Vả lại chất vấn trả lời rằng: Sáu thọ nương theo ý, nương theo ý gọi là ý thọ, năm thọ nương theo nhãn v.v… nên gọi là nhãn v.v… thọ, căn cứ theo môn nói riêng, thân tâm đối nhau gọi là thân tâm thọ, không thể bắt lỗi như nhau.

Tam học phân biệt, Tập luận quyển 2, Tạp Tập quyển đều nói, từ cầu giải thoát v.v… trong thân đã có Hữu vi thiện pháp, gọi là học Vô học, tức là lựa ra không vì cầu giải thoát, tuy có pháp thiện, không gọi là học Vô học pháp. Luận Du-già quyển ghi: “Nghĩa là Dự lưu v.v… Bổ-đặc-già-la xuất thế pháp Hữu vi, dù pháp thiện của thế gian cũng gọi là học”.

Luận Du-già quyển 5 ghi: “Dự lưu v.v… đều có một phần mười hai hữu chi là phi học phi Vô học”, căn cứ theo lúc chưa hướng đến cần giải thoát đã tạo nghiệp thiện, chẳng phải học Vô học, nếu tư lương, gia hạnh làm hữu chi, có thể là học pháp, nên nói một phần. Nếu không như vậy, nên nói đã có hữu chi, đều phi học pháp, vì sao nói một phần? Nói tư lương v.v… chẳng phải hữu chi, căn theo Vô lậu mà nói. Lại giải thích hoặc tuy Hữu lậu, nhàm chán trái với hữu, chẳng phải hữu chi nhiếp. Nói một phần căn cứ theo Dự lưu bảy lần trở lại có và một lần đến v.v… gọi là một phần, chẳng phải học Vô học, còn lại như lý suy nghĩ?

Luận: Năm thức câu khởi mặc tình tham si v.v…

Tây Minh có một giải thích, không phát khởi nghiệp nói không lựa ra năm thức, chỉ có tùy chuyển, không làm chuyển nhân, có thể phát khởi nghiệp, ý tùy chuyển này không làm chuyển nhân, nói chẳng phải bất thiện, vì không phát khởi nghiệp.

Thứ hai lại giải thích rằng: Cũng thông với bất thiện, do ý đã dẫn dắt lý nên có thể phát khởi, không có văn ngăn ngại, nhưng ý nhận lấy giải thích trước. Yếu Tập cũng xác quyết, Tây Minh trước trội hơn, nay cho rằng không đúng, nếu do năm thức chỉ tùy chuyển nhân chẳng phải chuyển nhân, nên chẳng phải bất thiện, sân thông với năm thức, cũng ứng với Hữu phú chẳng phải bất thiện ư?

Lại luận bản tụng ghi: “Thiện bất thiện đều trái”, nếu chẳng phải bất thiện trái với thuyết của bản luận, nên tuy tùy chuyển khởi ác nghiệp cũng là bất thiện. Lại luận Du-già quyển 8 ghi: “Nên biết trong đây có thể khởi tất cả pháp bất thiện”, tham gọi là tham bất thiện căn, sân, si cũng như vậy; ba thứ bất thiện căn tức là thông với năm thức, rõ ràng biết tùy chuyển, khởi pháp bất thiện, cũng gọi là bất thiện. Lại quyển luận này ghi: “Ba thứ tham, sân, si đều sinh ra phân biệt, tất cả dung chứa cùng với năm thọ tương ưng”, rõ ràng biết ba thứ phân biệt này, khởi thông với năm thức có, nếu chỉ ý câu, chỉ bốn thọ đồng thời, không phải thọ khổ đều, thuần chỗ thọ khổ ý mới có khổ, vì ba đường ác không phải phân biệt, tức là luận thừa nhận năm thức có phân biệt hoặc, sau môn ba tánh nói: cõi Dục trói buộc phân biệt khởi là chỉ thuộc về bất thiện, phát ra hạnh ác, năm thức tức là chẳng phải chuyển nhân phát nghiệp, vì sao được nói: Chỉ thuộc về bất thiện, phát ra hạnh ác? Nên biết năm câu mặc tình tham, si không làm ra tùy chuyển phát nghiệp, tức là Hữu phú nếu tùy chuyển phát khởi tức là thuộc về bất thiện.

Lại thứ hai nói: Tập khí của Dị thục nghĩa là trong sáu thức Hữu lậu thiện v.v… lại tập khí của Đẳng lưu nói trong bảy thức, tức là đều thừa nhận có. Tức là nói: Trong sáu thức, nói sáu chuyển thức đều có Dị thục, tập khí, tuy không thể làm ra tập khí của dẫn nghiệp, mà làm ra mãn nghiệp, không nên tùy chuyển có thể làm ra mãn nghiệp, chỉ tánh Hữu phú, nên không nói phát nghiệp, cũng lựa ra trong năm thức vốn nói là thắng, nhưng nói quyển , quyển 8 cho rằng không phát ra nghiệp si v.v… là Vô ký, hoặc truyền chép sai lầm nên nói: quyển 5, quyển 58 cho rằng vì văn kia nói đều sinh thân kiến, chỉ là Vô ký, nghĩa chuẩn theo biên kiến và si, mạn, ái một phần Tu đạo cùng với thân kiến đều cũng là Vô ký, không thể phát ra nghiệp.

Nói hai thứ đầu cận phần gọi là tâm vui vẻ, chuẩn theo luận Dugià quyển 5 có mười một căn, văn sau của luận này hai thứ đầu gần gũi phần định không có lạc căn, nên chỉ có mười một, như Sớ đã nói. Nhưng nghĩa của Sớ chỉ dẫn theo văn kinh ly sinh hỷ lạc, cho rằng kinh nói hỷ tức là chứng có hỷ, kinh đã nói lạc vì sao không có lạc, chuẩn theo đạo lý này hợp có lạc căn, chỉ chưa rõ nói đủ mười một căn, chẳng phải ở trong đây thừa nhận có hai giải thích, văn sau nhất định phán phân không có lạc căn.

Hỏi: Khổ, lạc thông suốt thân tâm, hai thọ tức là chia làm hai, xả thọ thân tâm biến đổi, vì sao không phân ra nhiều?

Đáp: Khổ, lạc thông với lớn nhỏ cho nên mỗi mỗi phân làm hai, xả thọ chỉ một loại, cho nên không chia ra nhiều phần. Lại giải thích xả thọ tướng không khác, thân tâm đều gọi là xả, bức bách vui vẻ tướng có khác nhau, khổ lạc đều chia làm hai.

Hỏi: Vì sao không nói ưu hỷ xả cả ba thứ nhiếp khổ lạc?

Đáp: Ưu, lạc có Dị thục, thể chẳng phải là Dị thục; khổ, lạc có Dị thục. Lại thể là Dị thục, lại khổ lạc thông với ba tánh, ưu chẳng phải nhiễm Vô ký. Lại ưu ly dục xả, còn lại chẳng phải lý dục xả, thể của khổ lạc rộng rãi, nên nhiếp hết ưu hỷ.

Hỏi: Hai căn đầu gốc vui ngọn cực khổ, vui ở nơi thân tâm, chia ra hỷ lạc, trong cực khổ có bức bách, ngọn cực khổ, bức bách ở nơi thân tâm, chia ra ưu khổ?

Đáp: Nhị thiền không có năm thức, ý vui vẻ căn, chia ra hỷ lạc, Trung hữu sáu thức đồng thời, không ở nơi ý ưu, chia ra ưu khổ.

Hỏi: Nếu như vậy Sơ thiền tức là có ba thức, nên không phải ở nơi ý chia ra hỷ lạc?

Đáp: Cũng không có khắp, hai căn không có thức. Lại giải thích định hỷ thích vui vẻ trội hơn, biến khắp thân tâm, chia ra hỷ lạc, Trung hữu chưa cùng cực bức bách chẳng phải trội hơn, không phải ở nơi ưu thọ chia ra ưu khổ. Lại đầy đủ năm thức, đều bức bách căn, không mượn ý ưu chia khổ.

Hỏi: Hai ý ban đầu chỉ có hỷ, từ hỷ chia ra lạc, lẫn lộn thọ ý chỉ ưu, từ ưu lìa xuất khỏi khổ?

Đáp: Hỷ lạc thuận nhau được đồng bại, nên có thể từ hỷ chia ra lạc, ưu khổ trái nhau, chủng tử không đồng, không được nói ưu chia ra khổ, lại hai giải thích đồng với trước.

Hỏi: Hỷ của ý câu chia làm hai loại, hoặc đồng, sinh hiện riêng là một, không được hai thọ đều riêng mà sinh, không phải trong một tâm có hai thọ, tức là ở nơi một thân, chia làm hỷ, lạc, nên lẽ ra phải là giả?

Đáp: Ưa thích vui vẻ thân tâm, nghĩa có khác nhau, không phải bên tâm vui vẻ tức gọi là lạc, ưa thích bên thân tức gọi là hỷ cho nên thật có giống như hai trí.

Hỏi: Hai chấp theo nghĩa mà chia ra nói, làm thế tục hữu, hai thọ căn cứ nghĩa nói, vì sao được thể thành thật?

Đáp: Chấp nương theo biệt cảnh tuệ, nói làm thế tục hữu, hỷ lạc không nương theo thứ khác, đồng trí làm thật hữu.

Hỏi: Đồng từ loại sinh, vì sao vui vẻ căn gọi là lạc chẳng phải hỷ.

Đáp: Ý có phân biệt, căn không phân biệt. Xu Yếu có hai giải thích ưu căn: một là không thông với Vô ký, hai là tuy không phải văn nói, lý thông với Vô ký. Hối ắt sẽ ưu đồng thời, nó đã là Vô ký, ưu đâu có ngăn ngại gì! Luận Du-già nói chẳng phải Vô ký là Tùy chuyển lý môn, nhưng Yếu Tập ghi: “Xu Yếu cho rằng hối ắt ưu đồng thời”. Nay có hai giải thích, nên nói thừa nhận ắt sẽ ưu đồng thời, vì sao? Tức là luận Du-già nói: Nếu thông với tất cả thức thân là biến cùng khắp tất cả căn tương ưng, nếu không thông với tất cả thức thân, ý địa tất cả căn tương ưng, nói tất cả là không phải lựa ra riêng, tức là thừa nhận Câu sinh thân biên kiến v.v… cũng cùng với ưu đồng thời, nó đã là Vô ký ưu cũng nhất định như vậy, vì chữ “hối thừa nhận” ít gần gũi, ở đây người chép có sự nhầm lẫn. Lại giải thích nên nói: Hối ắt có ưu đồng thời, chuẩn theo luận 2 quyển , hai sư đều nói: Hối ưu thọ đồng thời, không nói thân kiến v.v… cùng với ưu thọ đồng thời. Luận Du-già tự lựa ra rằng: “Đều ở nơi ba thọ, hiện hành có thể được, không nói năm thọ”, sau tức là giải thích trước, nên chỉ ba thọ. Nhưng Yếu Tập ghi: “Hai sư sau đều không thừa nhận hối được cùng với ưu đồng thời”, là xác quyết thuyết này lỗi. Đây cũng không thể vậy, quyển sau hai sư đều thừa nhận hối cùng với ưu như nhau. Sư trước nói: Có nghĩa ác làm ra ưu, bỏ tương ưng không nói khổ thọ, sư sau gia thêm khổ. Sư thứ hai nói: Có nghĩa bốn loại này, cũng là khổ thọ đồng thời, vì sao được nói hai đồng thời mà không nói hối và ưu đồng thời? Nhưng chuẩn theo giải thích sau, hối thông với tịnh Vô ký, không thông với nhiễm Vô ký, thân kiến biên kiến v.v… tức là nhiễm Vô ký, nên không được như nhau, chỉ có thể khổ đồng thời, nên biết chứng ưu là Vô ký, nhận lấy thừa nhận đồng thời trước, nếu không như vậy thì trái nhau. Nhưng luận Du-già ghi: “Nếu mặc tình sinh đều ở nơi ba thọ hiện hành có thể được, cũng nhiếp ưu, hỷ” là nói chung. Đối với phân biệt hoặc có câu, bất câu mới nói riêng, nên luận kia ghi: “Không phải mặc tình sinh, tất cả các phiền não, tùy theo sự thích hợp các căn tương ưng, tôi nay sẽ nói, tham ở nơi một lúc, lạc hỷ tương ưng, hoặc ở một lúc ưu khổ tương ưng”. Nếu ở trong đây, chỉ nói ba thọ, vì sao không mặc tình, tức là đồng nói ưu hỷ, cho nên nghĩa này chuẩn thông với Vô ký, nhưng không nhất định phán phân giải thích này là chính.

Hỏi: Vì sao ưa thọ chẳng phải nhiễm Vô ký?

Đáp: Có người nói rằng, vì chẳng chấp nên không thông với Vô ký. Nếu như vậy oai nghi, công xảo cũng chẳng phải là chấp, vì sao thông với Vô ký? Nay giải thích sáng tối hai tướng khác nhau, nên không thông với Vô ký.

Hỏi: Nếu như vậy hỷ cũng sáng suốt nhanh nhạy, vì sao được Vô ký?

Đáp: Địa trên có hỷ vì do định lực, hoặc tuy sáng suốt hiển bày, nhưng đều là Vô ký, nên được nhiễm đồng thời, dục không phải định hàng phục, hoặc sáng suốt nhanh nhạy, tức là chẳng phải Vô ký. Phần sau nói: Nhờ vào khổ yếu kém, uẩn ưu tương ưng là phân biệt hoặc, vì ắt bất thiện. Đối với sự Vô ký mà khởi ưu là tịnh Vô ký, như sợ không sống được v.v… tuy duyên theo sự giúp đỡ đầy đủ Vô ký mà sinh, do phân biệt ngã khởi nên bất thiện.

Hỏi: Địa ngục nghiệp ác chiêu cảm, nhất định thành tựu nhãn v.v… khiến cho thọ khổ, vì sao không phải định thành tựu hai hình khiến cho thọ khổ?

Đáp: Hình căn thọ dục đầy đủ, không rảnh thọ dục có thể không có hình, năm thức năm căn nương, không căn không phải thức phải thành tựu.

Luận: Tạp thọ xứ vô Dị thục lạc khác.

Tây Minh quyển 3 giải thích có ba nghĩa, hữu thứ ba tạp thọ xứ Đẳng lưu, Dị thục hai lạc đều có. Như luận Duy Thức quyển 20 ghi: “Các cõi bàng sinh sinh thiên ắt sẽ có thể cảm, nghiệp của khí lạc kia sinh ra định kia thọ khí sở sinh lạc”. Lại Nhiếp luận ghi: “Trong các đường ác, toàn là khổ xứ”, tức là nói dung chứa có lạc thọ. Luận Du-già v.v… nói đến căn cứ theo một nghĩa, nên không trái nhau, nay cho rằng không đúng, trái với văn của hai luận. Đại Luận nói định là không phải thành tựu, luận này lại nói, còn lại tạp thọ xứ không phải Dị thục lạc, gọi là thuần khổ, chỉ thừa nhận tạp thọ có Đẳng lưu lạc, chẳng phải là Dị thục. Nói trong đường ác là lựa ra dục nhân v.v… Nếu theo tổng hợp trước là lý của tùy chuyển, lựa ra tạp thọ còn lại, chẳng phải nói thừa nhận Dị thục lạc, nếu như vậy luận Duy thức quyển 20 làm sao thông?

Đáp: Luận kia nói nghiệp cảm khí sở sinh lạc, không nói rằng nghiệp cảm sở sinh thọ lạc, nếu thừa nhận có nghiệp cảm Dị thục lạc, lẽ ra phải nói nó nhất định có lạc của nghiệp cảm, vì sao cần phải nói rằng khí? Như duyên theo cảnh bên ngoài, thông với ba tánh tâm, chẳng phải chỉ Dị thục, đây lẽ ra như vậy, khí tuy nghiệp cảm, sao lại phế bỏ lạc của Đẳng lưu.

Nói Vị chí định có hai mươi mốt căn, nghĩa là năm thứ tín v.v… ba Vô lậu căn, hỷ xả, ý căn, do không sinh, nó không phải sắc căn mạng, vì sao có ý? Ý tức là Thức thứ bảy, tùy theo sinh trói buộc?

Đáp: Lược làm hai giải thích:

1. Căn cứ theo hàng Tam thừa thông với ý căn mà nói, tức là thứ lớp diệt.

2. Căn cứ theo hàng Đại thừa có Thức thứ bảy khởi Vô lậu mà nói.

Hỏi: Hữu lậu năm thức, định thư tư không có, Vô lậu nói có, Hữu lậu lạc, hỷ định thứ tư không có, Vô lậu hỷ lậu định thứ tư có?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Vì nghĩa đều nhau cũng thừa nhận được hữu, như năm thức kia, nếu không thừa nhận năm thức thông với Tứ thiền, lại không phải vặn hỏi này. Lại như Kiến đạo của Đại thừa ắt định thứ tư, Sơ địa đã nói cực hỷ, nên có hy tho; lạc chuẩn theo đây.

2. Không cùng giải thích, Phật thành sự trí không cùng với hỷ câu, tướng thô động nên định thứ tư vô. Khởi lên nương theo sắc căn trong định thứ tư có năm sắc căn, nên có năm thức, nhưng Yếu Tập không thừa nhận Vô lậu năm thức thông với Tứ thiền, nếu không như vậy không phải văn ngăn ngại.

Hỏi: Vì sao nói rõ biến hành, chỉ nêu xúc v.v… không nói tác ý?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Vì thuận theo trước, trước chỉ nói thọ, tưởng, tư v.v… sở y là nghiệp, không nói tác ý.

2. Thuận theo sư Kinh bộ, lập ra tâm sở khác; vì tác ý v.v… là phần vị của tư, nêu tư nhiếp Mạt-na, nên không phải trình bày hết.

Nói sự sở duyên không đồng, lược có hai giải thích:

1. Chẳng phải thể và tướng, lúc duyên theo vô pháp nó không có thể. Vô phân biệt trí không có tướng trạng, chỉ duyên theo nghĩa của cảnh sai biệt, giải thích này không đúng, đâu phải lúc duyên theo cảnh, không được tự tướng.

2. Thể sự, nếu như vậy vô pháp vì sao có thể sự?

Đáp: Duyên theo vô tâm không khởi, vô pháp không gọi là sự, duyên theo vô tâm tức là sinh, hữu vô đều thể sự, đều được gọi là pháp đều giữ gìn tự tánh, vì sao chẳng phải là sự?

Luận: Tư khiến cho tâm chấp lấy tướng của chánh nhân v.v… Tây Minh nói: Đây khiến cho tâm chấp lấy tướng của chánh nhân, đâu không phải tâm vương cũng chấp lấy tướng khác? Giải thích rằng, không như vậy. Tư có hai dụng, nghĩa là có thể chấp lấy tướng của tự chánh nhân v.v… cũng khiến cho tâm vương chấp lấy chánh nhân v.v… tâm chỉ chấp lấy mình không thể khiến cho người khác chấp lấy chánh nhân v.v… nên không được nói tâm chấp lấy tướng khác. Lại giải thích nếu thừa nhận chấp lấy khác nhau, nghĩa cũng không lỗi, nhưng nói tâm vương chỉ chấp lấy tướng chung, căn cứ theo chánh dụng mà nói nên không trái nhau, lấy trước nói trội hơn. Nay cho rằng trước nói cũng ít vặn hỏi giải thích. Vả lại tướng của chánh nhân v.v… làm tướng chung làm tướng riêng ư? Nếu là tướng riêng tâm không nên nhận lấy, vì trái với các luận. Nếu là tướng chung trái với thuyết trước, trước giải thích tâm sở đều nói rõ ràng. Luận này tự giải thích nói, đây biểu hiện tâm sở cũng duyên theo tướng chung, đều lấy riêng để nêu chung, tướng của chánh nhân v.v… rõ ràng tức là riêng, nếu không như vậy lẽ ra không có tướng riêng sở liễu.

Luận: Khi cầu không hợp ly thì tự thể đáng vui chẳng phải nhàm chán, chẳng phải là chỉ vui vẻ tự thân, chỉ là vị vô xứ của sở nhàm chán kia gọi là tự thể.

Hỏi: Tiểu thừa nói căn và tác ý, có thể thù thắng phát khởi do giải thích kia trội hơn. Vặn hỏi rằng: Lẽ ra có lỗi vô cùng. Nếu họ vặn hỏi, tông của ông tác ý sẽ cũng đợi cái khác cũng có lỗi vô cùng?

Đáp: Vì họ chống chế nói, căn và tác ý làm phát khởi thù thắng, lại do giải thích thù thắng, tức là có hai lớp, nên ứng lại có, nên có lỗi vô cùng. Đại thừa tác ý, có thể răn bảo chỗ khác, lại không phải răn bảo, nên không thể vặn hỏi sẽ có vô cùng. Nếu gắng vặn hỏi, trái lại ví dụ tác ý khiến cho tâm hướng đến cảnh khác, tác ý cũng sẽ đợi thứ khác mới có thể hướng đến cảnh khác.

Giải thích nhân năng ghi nhớ, rộng như trước nói.

Yếu Tập ghi: Kinh Chánh Pháp Niệm quyển 1 liệt kê đầy đủ mười đại địa và kinh Bát-nhã quyển 2 ghi: “Định sau là mười đại địa trong định tâm sở”. Tổng hợp nói: Kinh Chánh Pháp Niệm, nghĩa của Chánh lượng bộ, Niết-bàn tùy theo chuyển kia, chẳng phải lý chân thật, nên chẳng phải sở y.

Luận: Ngăn đẳng dẫn, định có bảy tên:

1. Tam-ma-tứ-đa, Hán dịch là Đẳng dẫn, Tam-ma là Đẳng, tứ-đa là Dẫn.

2. Tam-ma-địa, Hán dịch là Đẳng trì.

3. Tam-ma-bát-đề, Hán dịch là Đẳng chí.

4. Đà-na-diễn-na, Hán dịch là Tĩnh lự.

5. Chất-đa-ế-ca-a-yết-la-đa, Hán dịch là Tâm nhất cảnh tánh, chất-đa là Tâm; ế-ca là Nhất; a-yết-la là Cảnh; đa là Tánh.

6. Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ.

7. Hiện pháp lạc trụ.

Đẳng dẫn thông với hữu vô tâm, chỉ có định không tán loạn.

Luận Du-già quyển 11 ghi: “Chẳng phải ở nơi cõi Dục tâm nhất cánh tánh”. Đẳng trì có tâm thông với định và tán, nhưng trong kinh luận thành tựu thù thắng. Vả lại nói không vô tướng nguyện, gọi là Tam-mađịa. Đẳng chí chỉ thông hữu vô tâm định, nhưng trong kinh luận thành tựu thù thắng chỉ năm nói, năm hiện kiến v.v… tương ưng với các định, gọi là đẳng chí. Tĩnh lự, thông nhiếp với hữu vô tâm định, lậu và Vô lậu, nhiễm và bất nhiễm, nương theo sắc bốn địa chẳng phải xứ hữu khác, các nơi căn cứ theo phần trội hơn nhiều nói sắc địa có tâm thanh tịnh công đức, gọi là tĩnh lự. Tâm nhất cảnh tánh tức là Đẳng trì, vì Tâm nhất cảnh tánh giải thích là Đẳng trì. Xa-ma-địa chỉ có tâm tịnh định, không thông với tán vị. Hiện pháp lạc trụ, chỉ ở tĩnh lự, căn bản chẳng khác, tịnh không thông với tán, nhưng đẳng dẫn rộng, thông nhiếp tất cả các công đức hữu vô tâm vị , nên trong luận Du-già riêng lập ra tên Địa. Đẳng chí thì không như vậy.

 

THÀNH DUY THỨC LUẬN LIỄU NGHĨA ĐĂNG

QUYỂN 5

(PHẦN CUỐI)

 

Luận: Đối với thật, đức, năng thâm sâu nhãn lạc, dục tâm tịnh là tánh.

Trong luận Tạp Tập lược nêu đồng với đây, căn nghiệp ít khác. Luận Hiển Dương nói cảnh giống nhau, Câu-xá luận nói, ở nơi hữu thể, hữu đức, hữu năng, vả lại thành tựu hữu thể, không nói duy. Nếu không như vậy tín duyên theo pháp quá khứ vị lai v.v… đâu phải hữu thể ư? Nhân quả tự tánh chính đồng với luận này. Luận kia ghi: “Nhẫn khả, thanh tịnh, hy vọng là thể”. Luận Hiển Dương lược bớt quả, Ngũ Uẩn đồng với đây, nhưng nói nhân quả đầy đủ. Luận kia ghi: “Cực chánh phù thuận tâm tịnh là tánh”. Nói phù thuận thông với hai thứ nhãn, dục, nên luận này ghi: “Nếu ấn thuận tức là thắng giải, nếu lạc thuận tức là dục”.

Hỏi: Nhân quả này làm câu của trước sau?

Đáp: Hoặc câu thời, hoặc nhân trước quả sau, cũng không nhất định, cảnh cũng đồng với đây. Luận kia ghi: “Nghĩa là ở đối với nghiệp quả các đế, bảo trung, nghiệp quả tức là đế, chung là thật sự, thật lý của luận này. Trong nghiệp, luận Tạp Tập chỉ nói lạc, dục, sở y là nghiệp, không nói trị nghiệp. Luận Hiển Dương năm nghiệp, ban đầu một trị nghiệp, bốn thứ còn lại tức là lạc này thiện là nghiệp. Trong phần mở rộng, luận Ngũ Uẩn, Hiển Dương đều không có, luận Tạp Tập nêu rộng thể, luận này đầy đủ rộng, tùy ý người soạn đều không trái nhau.

Sớ ghi: Chẳng phải tàm tàm, tín là vô tàm, chẳng phải tín tín tàm là bất tín, hiển bày thể đều khác, chẳng phải do tín khiến cho tâm tịnh, tàm là bất tín, chẳng phải do tàm khiến cho tâm thiện, tín là không tàm, các thứ khác rộng lược tánh, nghiệp, đồng khác chỉ giải thích mà biết. Nhưng trong Tây Minh giải thích, nói tự, pháp, lực đồng như Tạp Tâm luận:

1. Tự cảnh thượng, nghĩa là người ở phẩm thượng, thẹn với thân mình, không làm các việc ác.

2. Pháp tăng thượng, nghĩa là người ở phẩm trung là ủng hộ Thánh giáo, không tạo các việc ác.

3. Thế gian tăng thượng, nghĩa là người ở phẩm hạ giữ gìn danh lợi của đời, không tạo các việc ác.

Nay cho rằng không đúng. Luận Hiển Dương, Ngũ Uẩn và trong luận này chỉ nói rằng hai thứ tự và pháp, không nói thế gian. Nếu nói rằng hạ phẩm thuộc về quý không ở nơi tàm, đây cũng không như vậy, đâu phải người ở thượng phẩm trung phẩm khởi tàm, không có quý ư? Nên không được đồng Tạp Tâm giải thích.

Mười một pháp thiện đã có tướng riêng, luận mỗi mỗi tự nói, như tín lấy tịnh làm tướng, tàm v.v… tuy thiện chẳng phải lấy tịnh làm tướng, tàm lấy sùng kính trân trọng, quý lấy khinh miệt chống đối v.v… Nhưng Yếu Tập ghi: “Ba thứ thật, đức, năng là tướng riêng của tín, hoặc có thể là cảnh, vì tướng quyết định là tướng khác của tín. Nay cho rằng không đúng, ba thứ thật, đức, năng nhất định là cảnh của tín, không cần nhọc công giải thích.

Luận nói: Đối với thật, đức, năng, tâm thanh tịnh là thể, nếu thật, đức, năng là tướng riêng của tín, đâu phải ở nơi tướng khác tự sinh ra tướng ư? Nếu lấy quyết định làm tướng khác của tín, thắng giải khác gì? Nếu nói: Đây nói đã nhận lấy cảnh tướng trái, nói có thể nhận lấy tự tướng, vì sao nói rằng, hoặc có thể ba thứ này là thể của tín cảnh, chẳng phải tướng khác của tín?

Lại nói: Có thể tàm có thể tín làm hai sở duyên, chuẩn theo sau nên nói: Tín lẽ ra có thể tín, thọ lẽ ra có thể thọ, tàm tức là có thể tôn sùng, quý vì có thể chống cự, đây làm tướng riêng, còn lại chuẩn theo nên biết, đây cũng vặn hỏi mà biết. Ba thứ thật, đức, năng tức là sở duyên của tín, thuận nghịch đều chẳng phải là thọ đã lãnh nạp. Các pháp tàm, quý v.v… văn sau đã nói tùy theo duyên vào cảnh nào, lẽ đâu đối với khổ, tập tông sùng, diệt, đạo có thể chống cự ư? Nếu nói: Luận nói đều có nghĩa của tông trọng và khinh rẻ chống cự, vì sao trước nói: Có thể tàm, có thể quý là hai sở duyên, đâu phải không duyên theo thể của diệt v.v… ư? Nay giải thích, tự tánh đều khác cảnh hoặc rộng hẹp, như hai thứ tàm quý và vô tham sân, đều nói rằng tùy theo duyên vào cảnh nào, còn lại có thể khác, tức là quyết định sở lạc v.v… Nhưng trong tâm sở, các luận trên dưới có nói tướng riêng của cảnh sở duyên tức là có thể định biết, nếu không nói tức là chưa thấy văn, không thể đoán định.

Hỏi: Lấy hai thứ hổ, thẹn làm thể của tàm quý, nghĩa của một thể phân chia thì thành giả, hai chấp bản sau đều đồng tuệ, dụng của một thể phân chai nên không thật, ban đầu ý của hai Tĩnh lự gọi là hỷ lục, là hỏi cũng như vậy chăng?

Đáp: Đồng nương theo một tuệ, không phải lập riêng, căn cứ theo nghĩa dụng riêng nên là thật, tàm quý đồng thể tức là lập riêng, như vong niệm v.v… nên sẽ là giả.

Hỏi: Nếu thừa nhận tàm quý nhất định đều khởi, vì sao quyển 53 ghi: Nếu có tàm chính hiện tiền, nhất định cũng có quý, chẳng có quý nhất định có tàm, cho nên tàm pháp rất là mạnh mẽ thù thắng ư?

Đáp: Luận kia căn cứ theo nghĩa khác, người thọ giới là theo ủng hộ tâm người khác, trông mong họ khởi quý, trông mong mình khởi tàm, vì ở nơi chỗ mình lúc xấu hổ, ắt sẽ nhìn lại người khác mà sinh ra quý, vì nhìn lại mình tăng thêm ắt sẽ xấu hổ với người. Nếu ở chỗ người khác lúc xấu hổ chưa nhất định sinh ra tàm, vì nhìn lại mình yếu kém, hoặc tùy theo tăng mà nói, các lỗi lầm chuẩn theo đây.

Hỏi: Tín nói khiến cho họ thanh tịnh, xả cũng khiến cho họ yên tĩnh, tàm v.v… này có thể khiến cho họ tông sùng, khiến cho họ chống cự ư?

Đáp: Luận đã không có văn, nếu lại không thể cũng đâu có lỗi gì, vì các tâm sở công dụng khác nhau. Vả lại như tác ý khéo cảnh giác người khác, chẳng phải khiến cho sở cảnh giác cũng có thể cảnh giác. Nếu khiến cho họ cũng tông sùng, chống cự v.v… cũng có lỗi gì, vì tâm, tâm sở dụng có rộng hẹp, pháp tánh như vậy, nhưng chẳng phải ắt sẽ đều ví dụ.

Hỏi: Căn bản sáu hoặc và hai mươi tùy. Chỉ ngược mười một làm thiện mười một, mười lăm thứ khác vì sao không ngược?

Đáp: Tây Minh giải thích rằng: Sở dĩ không ngược vì: một là không phải định thuộc về một thiện; hai là hoặc thuộc về thuần tịnh thiện; hoặc nhập vào tạp loại thiện, nay cho rằng không đúng. Vả lại phẩn hận v.v… định thuộc về vô sân, nhập thuần tịnh thiện, chẳng phải ở tạp loại, nên như luận. Một là tướng dụng có khác nhau, hai là biến khắp sáu thức, ba là chướng ngại thắng nhân, vì phẩm v.v… kia không khác tướng dụng, không biến khắp sáu thức chẳng phải chướng ngại thắng nhân, không riêng ngược lập làm thiện giáo, như bất phóng dật đối trị phóng dật, do bất phóng dật thành tựu đầy đủ tất cả thiện của thế xuất thế gian, ngăn ngừa ác tu thiện, vì thù thắng này sai biệt lập ra nó, còn lại không lập ra nên chuẩn theo đây mà biết.

Luận: Chẳng phải kiến sở đoạn, Sớ nói nó không nói thiện pháp đoạn duyên trói buộc, gọi là kiến đoạn, tuy Vô tưởng định đã chiêu lấy Dị thục nhập vào bậc Thánh gọi là đoạn, định chẳng phải kiến đoạn, nếu không phải như vậy, Tu đạo phiền não phát ra nghiệp, cũng chiêu lấy đường ác riêng quả báo khổ, quả tuy Kiến đạo, Tu đạo phiền não đâu phải Kiến đạo ư? Tức là có thể trói buộc hiện tại, chỉ căn cứ theo Kiến đạo, không sinh gọi là đoạn, chẳng phải theo đoạn trói buộc, không chướng ngại kiến, vì đây chứng biết thiện chẳng phải kiến đoạn.

Hỏi: Đây dẫn văn của hai mươi hai căn, ba đoạn trong quyển 5, nếu không duyên theo trói buộc gọi là kiến đoạn, bảy thứ sắc, mạng căn vì sao gọi là kiến đoạn? Đoạn có bao nhiêu thứ?

Đáp: Đoạn có bốn thứ: một là tự tánh đoạn; hai tương ưng đoạn; ba duyên trói buộc đoạn; bốn bất sinh đoạn. Nói tự tánh đoạn nghĩa là vốn là tùy theo hoặc, tánh là nhiễm, và bất thiện nghiệp, nghiệp tức là tư, như tợ năm kiến, chẳng phải tương ưng đoạn. Tương ưng đoạn là tám thức của Hữu lậu, năm biến hành hoàn toàn biệt cảnh bất định cả hai đều thiểu phần, tự tánh chẳng phải nhiễm, do cùng hoặc câu, lúc đoạn tương ưng tâm v.v… giải thoát, nên quyển 5 ghi: “Lại nữa tự tánh của các thức chẳng phải nhiễm”. Kinh Niết-bàn cũng ghi: “Đoạn tương ưng tham v.v… gọi là tâm giải thoát”. Lại quyển 5 ghi: “Theo tương ưng kia và sở duyên nên phiền não có thể đoạn”, nhưng sở duyên đoạn hoặc không sinh đoạn nhiếp, không phải là cảnh trói buộc, gọi là sở duyên đoạn, nên kia ghi: “Tương ưng đoạn rồi, không phải lại duyên theo cảnh, nên theo sở duyên cũng gọi tên đoạn”. Duyên trói buộc đoạn là tất cả Hữu lậu pháp không nhiễm ô. Bất sinh đoạn là nẻo ác Dị thục, Vô tưởng định v.v… trong quyển 8 lại sẽ phân biệt.

Hỏi: Trước nói đoạn là nương theo đoạn nào mà nói?

Đáp: Nương theo bất sinh vô duyên trói buộc đoạn. Mười bốn thứ, một phần kiến sở đoạn, căn cứ theo bất sinh mà nói, hoặc thông với tương ưng đoạn cùng với kiến hoặc đồng thời nên nói kiến đoạn, nhưng không hết lý, có chẳng phải đoạn. Một phần tu đoạn căn cứ theo duyên trói buộc mà nói, mười hai thứ một phần tu sở đoạn, một hướng theo duyên trói buộc đoạn, văn quyển 8 lại nói bốn đoạn ít đồng với đây, nên nói một phần tu đoạn, vì năm thứ tín v.v… Vị tri, Đương tri thông với lậu Vô lậu. Vô lậu tức là chẳng phải sở đoạn, ưu khổ hai thọ tánh chẳng phải Vô lậu, vì dẫn Vô lậu và Vô lậu dẫn nói là phi đoạn, thật chẳng phải Vô lậu.

Hỏi: Nếu như vậy ý hỷ lạc xả cũng thông với Vô lậu, vì sao chỉ nói đoạn? Vô tưởng định v.v… chuẩn theo Thức thứ tám nói cũng thông với kiến đoạn, ở đây vì sao không nói?

Đáp: Đây sau hỏi trong Sớ giải thích xong, giải thích vặn hỏi trước, ý, hỷ, lạc, xả Vô lậu là thật thông với phi đoạn, vì ý và xả tám thức đồng nơi, chẳng phải đều Vô lậu. Vả lại căn cứ nói hoàn toàn.

Hỏi: Thân của Nhị thừa Vô lậu chẳng phải hoàn toàn, ở thân Phật, bảy sắc căn trừ nữ, năm thọ trừ ưu khổ, ba Vô lậu trừ hai, đều thông với Vô lậu, vì sao chẳng hoàn toàn không nói phi đoạn?

Đáp: Căn cứ theo Tam thừa đồng, nếu căn cứ theo Nhị thừa được thông với phi đoạn.

Hỏi: Các pháp Hữu lậu chẳng phải tánh nhiễm, thân của Nhị thừa, không phải năng duyên hoặc, nói làm tu đoạn, nhưng pháp còn tồn tại, nếu trong thân Phật đều diệt, không có là đoạn nhiếp gì?

Đáp: Không sinh đoạn nhiếp.

Hỏi: Vì sao biết?

Đáp: Trong Tập luận nói bậc Vô học sau uẩn không phải chủng tử đã sinh, chuẩn theo đây nhân không quả không phải sinh.

Hỏi: Như tám nạn, thân v.v… đã khởi lòng tin v.v… nhập vào Kiến đạo rồi thân kia không thọ, tín v.v… khởi chăng? Nếu không khởi thì thuộc về đoạn nào? Nếu thừa nhận khởi, không phải thân của sở y, vì sao được khởi?

Đáp: Có hai giải thích: một là không khởi không sinh đoạn nhiếp, vì sở y vô. Hai là được khởi nương theo thân hiện tại, nhưng sẽ phân biệt. Sinh đắc là không sinh không tạp loạn. Phương tiện là khởi thừa nhận tạp loạn, giới trói buộc định, thân bất định. Hoặc dụng chứa sinh đắc, giới tuy không phải tạp thú thừa nhận tạp như trong loài người tạo tác, nghiệp sinh lên cõi trời v.v…, thông với sinh đắc, quyển 3 trước ghi: “Không tán loạn là căn cứ theo giới địa mà nói”.

Hỏi: Vì sao liệt kê trong phiền não, luận Du-già Thức quyển 8, quyển 58 đều nêu năm kiến ở trước; kế liệt kê tham, mạn vô minh, nghi.

Đáp: Lợi thuần trước sau, luận này, luận Hiển Dương và luận Tạp Tập v.v… vì chính ngược với thiện, trước nói rõ tham v.v…

Hỏi: Vì sao luận này sau nghi nói mạn, còn lại mạn sau si?

Đáp: Câu sinh phân biệt lợi thuần trước sau. Năm uẩn v.v… Câu sinh phân biệt, nghi ở sau kiến, luận này v.v… căn cứ theo lợi thuần 3 khác nhau, nghi ở trước kiến.

Luận: Đối với hữu có đủ. Sớ ghi: “Đại thừa thừa nhận tham duyên theo diệt đạo”, quyển 58 v.v… không nói. Văn sau tự tùy theo tướng thô mà nói, đây thừa nhận được duyên. Nói tham cùng với kiến, mạn, dung chứa đều khởi. Ý này kiến mạn kiến mạn tức là chấp vào Phật tánh, lấy nó làm ngã, đều dung chứa tham đồng thời.

Yếu Tập xác quyết rằng: Tà kiến phát ra vô, không phải cùng với tham đồng thời, nếu phát ra hảo sự, tà kiến, sân đồng thời, ý này phát ra diệt, đạo là hảo sự, chẳng phải đạo chấp đạo, bất tử, kiểu loạn đều duyên theo pháp khác, chẳng phải diệt đế, Đạo đế. Nếu định pháp ái chẳng phải tà kiến đồng thời, thân kiến câu tham chỉ duyên theo khổ đế, vì sao kiến câu tham được duyên theo diệt, đạo? Nên chẳng phải hữu câu. Đây giải thích không như vậy, chuẩn theo trên nên biết. Lại hoàn toàn giới phiền não đều có thể kết hợp sinh, tức là thừa nhận phiền não có thân cận duyên, vì sao chẳng phải hữu câu?

Mạn có chín. Sớ ghi: Quá mạn, mạn, ty mạn như lần lượt khởi ban đầu ba loại; nghĩa là đồng chấp mình thắng khởi ngã thắng mạn loại, đối với thắng chấp mình v.v… tuy cũng là quá mạn. Nay nói ngã thắng trừ kia. Đối với đồng chấp đồng khởi ngã v.v… các loại, không nói nơi yếu kém chấp trội hơn. Nói ngã v.v… nương theo ty mạn khởi có ngã liệt mạn loại, ty mạn, mạn, quá mạn như lần lượt khởi trong ba loại. Đây nương theo ty mạn khởi hữu thắng ngã mạn loại, đối với đồng chấp đồng khởi hữu v.v… các loại, đối với đồng chấp thù thắng khởi hữu liệt ngã loại mạn, quá mạn, ty mạn như lần lượt khởi ba thứ sau, đối với đồng chấp đồng khởi vô thắng loại, đối với đồng chấp thù thắng khởi vô v.v… các loại, nương tựa ty mạn khởi vô liệt mạn loại. Như luận Câu-xá quyển 1, luận Bà-sa quyển 1 giải thích.

Hỏi: Vả lại ngã thắng mạn, vì sao chỉ nương vào đồng chấp trội hơn không nói ở nơi trội hơn chấp v.v…

Đáp: Nay đã nói ngã thắng, nói chẳng phải ở nơi thắng chấp theo mình v.v… còn lại chuẩn theo nên biết.

Hỏi: Vì sao không ở nơi mạn quá mạn khởi?

Đáp: Căn cứ theo nhiều phần mà nói, không phải nhiều ở thắng chấp mình là thắng, đây nương theo luận Phát Trí mà nói, nương theo Phẩm Loại Túc luận cũng đối với nó khởi, nên luận Bà-sa quyển 1 ghi: “Đây nương theo bản luận đã giải thích như vậy, nương theo Phẩm Loại Túc luận trong ngã thắng mạn loại nhiếp theo ba loại. Nếu yếu kém nghĩa là mình thắng, tức là mạn, đối với đồng nghĩa là mình thắng tức là quá mạn, đối với thắng nghĩa là mình thắng là mạn quá mạn, tám mạn còn lại như lý nên biết. Căn cứ theo đây luận Phát Trí nương theo nhiều phần mà nói. Phẩm Loại Túc luận nương theo lý tận cùng mà nói nhưng chín loại này ba loại ở nơi quá mạn khởi; nghĩa là ngã thắng, hữu liệt, vô đẳng ba thứ ở nơi mạn sinh ra nghĩa là ngã đẳng, hữu đẳng, vô thắng, đều ở trung phẩm xứ sinh ra. Ba thứ còn lại nương theo hạ phẩm xứ khởi vì đối với thù thắng của người khác chấp yếu kém của mình.

Hỏi: Mạn loại về mạn có gì sai biệt?

Đáp: Có hai nghĩa: một là cần nương theo ngã kiến, sau sinh và đều hai loại phần nhiều không hoàn toàn, theo Phẩm Loại Túc tức lại có lỗi, như tợ quá mạn đối với thắng, nghĩa là mình đồng chấp mình trội hơn, ngã thắng chỉ đối với đồng chấp mình trội hơn, nên không phải toàn phần. Theo Phẩm Loại Túc, ngã thắng nương theo ba sinh, nghĩa là đối với liệt, đẳng, thắng, đều chấp mình thắng, nên tức là lỗi.

Hỏi: Ba thứ ngã, liệt, loại nương theo ty mạn khởi, tức là hoàn toàn chẳng phải phần và bảy thứ khác gì?

Đáp: Có một nghĩa ban đầu.

Hỏi: Vì sao ngã kiến đều sau khởi làm mạn, đâu không thừa nhận bảy mạn nương theo ngã kiến đều sau sinh?

Đáp: Không chướng ngại bảy mạn, sau đồng thời ngã kiến mới sinh, chỉ hành tướng riêng ngay thẳng, chấp ngã sau khởi làm mạn, chấp ngã thắng v.v… sau khởi mạn, tức là mạn. Hoặc không nương theo ngã mạn, cũng được sinh, loại ắt sẽ nương theo ngã, lại do phần và lỗi là bảy loại kia, lẽ ra nói: Ngã kiến sau khởi là mạn, ngã sở sau khởi là loại, chấp ngã có liệt thắng, liệt thắng thuộc về ngã đẳng, tuy chẳng phải tức là ngã sở, hành tướng tợ như nó.

Tây Minh nói: Chín loại, ba loại nương theo ba phẩm sinh ra, ba loại nương theo thượng phẩm sinh ra, ba loại nương theo trung thượng phẩm sinh ra, trong ngã thắng loại nhiếp theo ba loại mạn, nghĩa là đối với yếu kém chấp là thù thắng, đối với đồng cho rằng mình trội hơn, đối với thắng cho rằng mình trội hơn, như lần lượt mạn, quá mạn, mạn quá mạn tám mạn loại còn lại, lẽ ra như lý suy nghĩ. Ngã v.v… mạn loại nương theo trung thượng phẩm, sinh nhiếp theo hai mạn, ngã liệt chỉ nương theo thượng phẩm, sinh nhiếp theo một mạn, hữu thắng mạn loại đồng với ngã liệt này, vô liệt cũng đồng, hữu đẳng loại đồng với ngã đẳng, hữu liệt, vô thắng, vô đẳng loại đây ba loại cũng đồng với ngã thắng. Nay cho rằng tơ như sai lầm. Xu Yếu ghi: “Ba loại nương theo ba phẩm sinh ra”, lại nói: “Hữu liệt, vô thắng, vô đẳng cũng đồng với ngã thắng”, tức là bốn loại nương theo ba phẩm sinh ra, vì sao được nói là ba loại? Chuẩn theo nên vô thắng đồng với ngã đẳng kia trong thượng phẩm sinh ra. Lại nữa ngã liệt đẳng ba mạn loại nương theo hạ phẩm sinh ra, vì sao được nương theo thượng phẩm? Vì chấp mình yếu kém, ty mạn có thể thành tựu. Có cao xứ, vô liệt ngã mạn cao xứ là gì? Nghĩa là đối với như vậy tự mình đã thọ lạc, trội hơn hữu tình nhóm họp và ngoái nhìn thân mình, tuy biết rất yếu kém mà tự tôn trọng, tức là nói: Tuy biết rất yếu kém mà tự tôn trọng, rõ ràng chẳng phải thượng phẩm.

Luận: Do dự là tánh. Sớ ghi: Tức là duyên theo lý sự đều là nghi.

Tây Minh nói: Nương theo đế môn, giải thích gọi là đời khác v.v…mà không có việc nghi nói làm nhiễm ô, như nghi khúc gỗ là người, đều là việc trong nghi, không ẩn mất Vô ký, Dị thục sinh nhiếp. Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng, luận này đoạn sau ghi: “Ba kiến và nghi, độc đầu vô minh gần gũi mê đế”, quyển 58 đồng. Nếu có việc nghi, đồng với kiến thủ v.v… duyên theo kiến khác v.v… mà luận không nói, nay cho rằng không đúng. Quyển 58 ghi: “Nghĩa là đối với đời khác tác dụng nhân quả v.v…”. Lại quyển trước ghi: “Vả lại nghi đời khác là Hữu vi vô, đối với nó có tướng dục, thắng giải gì?” Nương theo nghi đời khác v.v… là sự chẳng phải lý. Nói mê muội lý sự. Sớ không nói nghi khúc gỗ là người, cũng là phiền não nghi, nếu dùng đế nhiếp, pháp nào chẳng phải đế? Sân còn lại ái v.v… mê muội sự khác sinh ra, lẽ ra là lý, sân, ái, sở duyên cũng đế nhiếp.

Nghi tuệ là thể, Tây Minh giải thích: Ba nhân thành tựu. Yếu Tập ghi:” Căn cứ theo sư sau phá”, có giải thích thuận văn, nay cho rằng không đúng. Trong Huấn Thích Chứng ghi: “Mạt-để, Bát-nhã nghĩa không khác chuyển đổi giải thích Mạt-để, nếu không như vậy có nghi tỳ trợ Mạt-để, vì sao được là tuệ”, nên chuyển giải thích rằng: Mạt-để, Bát-nhã nghĩa không khác nếu đem Bát-nhã làm nhân thứ ba có nguyên nhân gì?

Tát-ca-na-kiến các giải thích v.v… Yếu Tập ghi: “Đại thừa di chuyển”, ý đồng với Thế Thân chẳng cho rằng hữu vô bất định hoặc khác với hai tông, gọi là di chuyển lý đã định nên gọi là bất thuận. Nay cho rằng không đúng, không được bản ý. Sớ ghi: Nay Đại thừa ý tâm trên đã hiện tợ như tướng của ngã, thể chẳng phải thật có, là giả pháp lại thể chẳng phải hoàn toàn vô, tánh y tha khởi thành tựu Sở duyên duyên, nói chẳng phải thật có cũng chẳng phải hư ngụy, chỉ là pháp của y tha di chuyển, sở y của ngã, đây đồng Nhiếp luận.

Lại nói: Lại nương theo sở chấp, có thể nói hư ngụy nên gọi là do chuyển. Ý này không nói rằng khác với hai tông, nên gọi là di chuyển, chỉ nói rằng các pháp của duyên sinh di chuyển, không đồng với thật của Hữu bộ, chẳng phải như Kinh bộ giả hòa hợp tướng, không cho hai tông hữu vô bất định gọi là di chuyển.

Luận: Kiến chấp này sai biệt hai mươi câu v.v…

Tây Minh nói: Phân biệt hành duyên uẩn, cũng phân biệt sơ khởi xứ mà nói. Tam Tạng có hai giải thích: một là ngã sở làm sở khởi xứ, chấp sắc làm ngã v.v… đều nương theo ngã sở mà chấp ngã. Hai là lấy ngã làm sở khởi xứ, vì nương theo thể của ngã nên có các ngã sở. Sớ tự xác quyết rằng: Nay lấy giải thích ban đầu, đây nói rõ ngã, ngã sở kiến chấp hành tướng, không muốn nói rõ ngã ngã sở. Nay cho rằng khó biết, chỉ ngã sở kiến nương theo ngã kiến sinh ra, ngã kiến không nương theo ngã sở kiến khởi, lại lúc chấp vào sắc v.v… là ngã, không chấp là sở, đâu thể nói đều nương theo ngã sở, mà chấp ngã.

Hỏi: Hai mươi câu này là một người khởi, hay nhiều người khởi?

Đáp: Căn cứ theo tất cả mà nói, nếu chấp sắc ngã thì chẳng khác còn lại chỉ ngã sở.

Hỏi: Do đâu mỗi mỗi chấp làm ba sở?

Đáp: Luận Tạp Tập quyển 1 ghi: “Tương ưng ngã sở, tùy chuyển ngã sở, chẳng lìa ngã sở”. Tương ưng sở nghĩa là ngã có sắc cho đến có thức do ngã và nó tương ưng nên nói có, đây do ngã đều nói làm tương ưng. Tùy chuyển nghĩa là nếu nó do sức đây tự tại chuyển, hoặc xả hoặc dịch, đều do thuộc về ngã, tùy theo ngã chuyển. Chẳng lìa ngã sở nghĩa là ngã ở bên trong biến khắp thể tùy hành, đều do ngã ở bên trong không lìa nó, còn lại đều chuẩn theo mà biết.

Sáu mươi hai kiến, luận Du-già quyển , luận Hiển Dương quyển trong phá thường luận, nói rõ bốn biến thường bốn phần. Phần một và hai, có tưởng không tưởng chỉ chẳng phải trong ngã có sắc tưởng v.v… có khổ thọ v.v… hữu biên hai giải thích. Luận Du-già quyển , luận Hiển Dương quyển 10 nói rõ năm hiện Niết-bàn, biên vô biên, kiểu loạn, hai vô nhân, bảy đoạn. Luận Du-già quyển 5 có phẩn khuể vong niệm, không nói phần thường. Trong quyển 58 có tên biến thường v.v… mà không phải giải thích riêng, nhưng có các hoặc mê Đế xa gần, quyển 8 nêu đủ. Luận Bà-sa quyển 1, ban đầu nói rõ năm hiện Niếtbàn, kế bốn Kiến phần thường, hai vô nhân, hữu biên v.v… vô tử bốn. Quyển thứ 200 có tưởng v.v… mười sáu, vô tưởng đều trái, tám thứ đều bảy đoạn diệt.

Hỏi: Sáu mươi hai kiến do nhân gì khởi?

Đáp: Như chương này nói có hai nhân khởi, một Phật thuyết sở nhân, hai kiến khởi sở nhân.

Lại luận Du-già quyển 8 ghi: “Các ác kiến thú do sáu nhân duyên mà được kiến lập”. Một là do nhân duyên; hai là do nương theo giáo; ba là nương theo thiền định; bốn là nương theo thế gian; năm là nương theo các kiến; sáu là do sinh ra xứ. Nhân duyên tức là Tát-cada-kiến, giáo tức là ngoại đạo, thầy trò trao cho nhau. Tĩnh lự tức là túc trụ, thiên nhãn. Thế tức là nương theo quá khứ và hiện tại, vị lai chấp đời trước đời sau. Kiến tức là ngã kiến, sinh tức là sinh xứ, một thân cận nương theo Tát-ca-da-kiến khởi biên kiến, lấy chấp ngã làm đoạn thường là biên kiến, gần ý khởi tà kiến, vì ngã kiến không cần chấp ngã mới khởi tà kiến. Ban đầu sức của nhân nương theo sức của giáo duyên là thông với nhân, nương theo Tĩnh lự sau là biệt khởi nhân, nương theo Tĩnh lự khởi bốn biên thường kiến bốn phần thường kiến, bốn hữu biên v.v… hai vô nhân kiến, bốn bất tử luận. Luận đều nói nương theo Tĩnh lự khởi. Nương theo thế nhân lại chẳng phải khởi riêng. Căn cứ theo phần tiền hậu tế, nương theo kiến sinh ra hai mươi bốn nghĩa là ngã có sắc v.v… bốn hữu biên v.v… bốn sinh có tưởng vô tưởng đều trái, nương theo sinh khởi có tám nghĩa là trong bốn tưởng có một tưởng v.v… trong bốn ngã có lạc v.v… Trong văn không nói bảy đoạn, năm hiện, nghĩa chuẩn theo bảy đoạn nương theo thế và kiến. Năm hiện, thứ nhất nương theo tà kiến khởi, các hiện còn lại nương theo Tĩnh lự mà sinh, được hiện pháp lạc sau mới khởi kiến này, nhưng trong vô nhân chỉ nói nương theo định, không nói nương theo tầm tứ mà khởi, nghĩa chuẩn cũng nương theo thế và tà kiến.

Hỏi: Các kiến này khởi, là đầy đủ sáu nhân duyên mới khởi hay không đầy đủ?

Đáp: Đồng nói rõ kiến khởi, không có lỗi sáu nhân, chẳng phải mỗi mỗi kiến đều đều sáu nhân này, như nương theo tầm tư bất tử kiểu loạn, chưa hẳn nương theo định sau mới khởi.

Hỏi: Sáu mươi hai kiến hết chăng?

Đáp: Không hết, như mười bốn loại không thể ghi nhớ, cũng có đoạn thường là Câu sinh v.v… đều không nhiếp.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao chỉ có sáu mươi hai kiến?

Đáp: Tùy theo tăng mà nói, như bất tương ưng và tùy hoặc v.v… thật chẳng phải nhiếp hết.

Hỏi: Căn cứ theo luận Bà-sa quyển 1, bốn hữu biên v.v… chấp

ngã thế gian đều là hữu biên, vì sao chẳng phải biên kiến?

Đáp: Không chấp đoạn thường nên chẳng phải biên kiến.

Hỏi: Vì sao chẳng phải ngã kiến?

Đáp: Nương theo chấp của tông khác, hữu biên thường kiến, vô biên đoạn kiến nếu đều đồng thời là một phần đoạn kiến, chẳng phải hữu biên vô biên, chỉ là Tát-ca-da-kiến, nương theo Đại thừa mà nói, nương theo ngã kiến sau chấp hữu biên v.v…, hữu biên v.v… kiến không phải là ngã kiến, hoặc có thể. Đại thừa và luận kia có khác với luận Du-già, luận Hiển Dương đều không nói ngã chỉ chấp vào thế giới, nên thuộc về tà kiến. Luận Bà-sa trong ba thuyết, thuyết thứ nhất, thứ hai thiên nhãn thông, thứ ba bao gồm thần cảnh, thứ tư ngăn ngại trước, trong thuyết thứ hai căn cứ theo tự thế gian kia ban bố khắp trên dưới, lại không phải riêng ba ngàn thế giới, chỉ nương theo thiên nhãn kia nói kiến lập ra hữu biên, kiến bên không biên. Trong thuyết thứ ba chỉ căn cứ theo ngã thể hữu biên vô biên, do có chấp ngã rộng hẹp bất định, nên biết tông khác nhau, không cần hòa hội.

Hỏi: Bốn biên thường kiến vì sao trói buộc địa giới? Vì sao địa giới khởi?

Đáp: Có hai giải thích: một là Sắc giới thông với bốn Tĩnh lự. Luận Du-già quyển nói nương theo thượng, hạ, trung Tĩnh lự khởi túc trụ tùy niệm hoặc nương theo thiên nhãn chấp đời hiện tại, chuẩn theo đây tuy không phải ở định, được định sau khởi ở địa trên. Hai là tuy định sau khởi, là phân biệt Kiến thế đạo không hàng phục, khởi sau không có lỗi, nhưng chẳng phải chưa được định, nhưng khởi là thông với cõi Dục cõi Sắc. Lại giải thích chỉ cõi Dục, luận nói nghĩa là như có một, nếu Sa-môn nếu Bà-la-môn khởi thấy biết như vậy, lập ra luận như vậy, Sa-môn, Bà-la-môn chỉ là người trong cõi Dục. Lại luận Du-già quyển nói rõ trong bốn hữu biên, Sa-môn, Bà-la-môn, nương theo Tĩnh lự khởi kiến như vậy, cho đến nói rằng nên biết trong đây, vì nói nhân duyên và năng kế, không được thông với cõi trên, nhưng trước nói trội hơn, nói khởi kia là căn cứ theo nhiều phần mà nói.

Trong bốn phần thường, thứ nhất và thứ hai hệ địa và năng khởi, như biến thường nói; phẩn khuể vong niệm kiến đã khởi có thể thông với cõi trên dưới. Năng khởi chỉ cõi Dục, vì sinh ra trong cõi người khởi túc trụ, sau khởi kiến này. Lại biến phần thường một chỉ khởi một, nương theo thượng trung hạ, túc trụ khác nhau, nhờ vào thiên nhãn sau.

Trong hữu tưởng mười sáu, hữu tưởng và thọ hoặc một người khởi, vì sao biết? Chuẩn theo luận phá rằng: Ngã của sở chấp do tưởng sở tác và thọ sở tác là có biến đổi là không biến đổi, cho đến nói nếu nói vô là có một tưởng mà thôi, hậu chủng chủng tưởng, tiểu vô lượng tưởng, không hợp với đạo lý, lại thuần có lạc mà thôi. Sau thuần có khổ v.v… không hợp với đạo lý. Chuẩn theo chỗ phá này, nếu một chỉ khởi một, phá thành ra tương phù, không thừa nhận lại có tưởng thọ khác. Trong biên kiến, hữu biên có bốn câu. Một chỉ khởi một, vì sao biết? Luận ghi: “Vì đối trị đây tức là do câu khác văn khác mà khởi chấp”, kia chấp ngã chẳng phải sắc chẳng phải phi sắc. Trong giải thích thứ hai cũng ghi: “Vì đối trị đây chỉ do văn khác không do nghĩa khác mà khởi chấp”, kia chấp chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên, hệ địa và khởi tùy theo chỗ chấp pháp hữu vô mà nói hoặc năng khởi chỉ ở cõi Dục.

Hỏi: Trong tà kiến hữu biên v.v… bốn thứ trói buộc cõi nào? Có thể khởi như thế nào?

Đáp: Như bốn biên thường giải thích.

Bất tử kiểu loạn thông với cõi Sắc, cõi Dục, trói buộc thông với hai địa khởi. Bà-la-môn đối với Thích tử hành siểm loạn, hoặc trói buộc năng khởi chỉ là cõi Dục. Bà-la-môn đối với Thích tử chỉ là hành siểm không phải là tà kiến.

Hai vô nhân luận đồng chấp cõi Sắc cõi Dục, hai cõi có thể khởi vì sao? Nương theo Tĩnh lự và nương theo tầm tứ, đều được khởi nhưng nương theo tầm tứ khởi chỉ ở cõi Dục.

Hỏi: Bảy đoạn diệt cõi nào trói buộc, địa nào khởi?

Đáp: Tùy theo chấp bảy đoạn, tức là địa kia trói buộc khởi dưới không thấy trên.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao phá các Luận sư ngoại đạo lại nói rằng do giáo lý khởi, như là kiến ư?

Đáp: Căn cứ theo năng kế phá các ngoại đạo nếu kiến của sở khởi và kiến của năng khởi tức là tùy theo địa kia. Lại giải thích kiến và khởi, chỉ ở cõi Dục, do các ngoại đạo nương theo giáo và lý khởi, như là kiến, căn cứ theo phá đây, đây đáp trong chương thứ nhất hỏi. Lại giải thích sáu mươi hai kiến đều cõi Dục khởi trói buộc tùy theo chỗ hợp. Các luận Đại Tiểu đều nói ở đây, nếu như vậy biên kiến trong hai cõi trên đều không khởi ư?

Đáp: Rộng chấp đoạn thường, hai cõi trên khởi, chẳng phải sáu mươi hai kiến.

Hỏi: Vì sao biến thường nhớ nghĩ về hai mươi, bốn mươi, tám mươi kiếp không tăng giảm?

Đáp: Vì nương theo sức của thế Tĩnh lự ba phẩm sai biệt pháp, vì sao không chấp sinh?

Hỏi: Hoặc tức là nhiếp diệt, thành tức là nhiếp sinh, nhưng ngoại đạo chỉ chấp là ẩn hiện, vì sao không phải tiện trí?

Đáp: Tông nói riêng.

Hỏi: Trong một phần thường, vì sao không chấp sắc hai định trở lên chết sinh ra đây?

Đáp: Trên không có tầm tứ, không phải vua thần, không phải siểm cuống, do cuống nên nói ngã là hay sinh ra các ngươi, do siểm nên chấp vua là cha thường hay sinh ra.

Hỏi: Cõi Dục vì sao không chấp địa cư và ở một phần của tiên thú thường?

Đáp: Địa cư cảnh hai cõi này chẳng phải thù thắng. Cõi tiên không phải riêng hướng đến cảnh cũng chẳng phải thù thắng. Căn cứ theo đâu mà được biết phẫn khuể vong niệm ở nơi Không cư thiên? Đáp: Sớ đã dẫn văn, lại luận Xuất Diệu trong phẩm Niệm ghi: “Xưa Đức Phật còn tại thế có Không giới thiên tên là Hoan Lạc Quá, do quá vui thích, từ đó chết đi nên đến sinh cõi này, từ Hỷ phệ thiên”, văn cũng đồng với đây, đã nói Không giới thiên, rõ ràng chẳng phải Địa cư.

Hỏi: Vì sao biến phần gồm cả thường kiến, lập lấy tên của thường kiến, hữu tưởng v.v… luận cũng là thường kiến, không nên lên tên của thường kiến, lập ra tên của hữu tưởng v.v…

Đáp: Trong biến phần thường sinh xứ không khác, người kia ở ban đầu nên nêu tên gọi thường, hữu tưởng v.v… kiến sinh xứ có khác, lại ở sau nên lập ra tên hữu tưởng v.v… lại nếu gọi là thường tướng lạm dụng không tiện.

Hỏi: Vì sao không chấp ác đạo của Địa khác làm đoạn diệt ư?

Đáp: Ở trong nẻo ác không phân biệt kiến, hiện tại sinh cõi người không thể chấp nó sau khi chết đoạn diệt, trừ nẻo ác, bên ngoài đều có chấp khác.

Hỏi: Vì sao vô nhân chỉ ở Vô tưởng?

Đáp: Ở Vô tưởng thiên từ lâu không có tâm, còn lại cõi trời có tâm biết sinh nhân trước, tuy sinh trở xuống cũng không thể nhớ sinh nhân trước kia, do sức thế phần không chấp vô nhân, Vô sắc chết rồi đến tái sinh không có túc trụ thông, không biết từ sự chết kia, không ở nơi sau Vô sắc chấp làm vô nhân, rộng vô nhân chấp cũng thông cõi trời khác, như tầm tứ khởi.

Hỏi: Vì sao Vô sắc căn vốn cận phần và thiền định cận phần, không chấp làm hiện Niết-bàn? Luôn cận phần vui vẻ cầu chưa được an trụ, Tĩnh lự thứ tư lìa các lỗi họa, thân tâm đều an ổn, chấp làm Niết-bàn, Vô sắc tâm an ổn, không có thân an ổn, không chấp làm hiện Niết-bàn, Vô sắc căn vốn chấp sau sanh nó cũng làm Niết-bàn, không chấp làm hiện.

Hỏi: Vì sao người Lục dục thiên làm một Niết-bàn, đoạn diệt khai mở ư?

Đáp: Đồng với trụ dục trần lạc nên làm một Niết-bàn, thô tế hướng đến chỉ bảy đoạn riêng khai mở.

Hỏi: Vì sao sắc hợp làm một, Vô sắc làm bốn đoạn diệt?

Đáp: Tướng của sắc dễ biết nên hợp làm một, Vô sắc khó rõ, nên mở ra làm bốn.

Hỏi: Đây đồng các kiến bao nhiêu ở uẩn, ngã kiến sau khởi, bao nhiêu ở nơi lìa uẩn ngã sau khởi?

Đáp: Căn cứ theo luận nói: Mạng tức là thân, chấp ngã hữu biên mạng là thân khác, chấp ngã vô biên v.v… chuẩn theo đây hữu tưởng tám luận tám vô tưởng đều trái, nói hữu sắc hữu biên tức là uẩn, nói Vô sắc vô biên là lìa uẩn, câu “đồng thời” là lìa, hữu tưởng còn lại tám đều là uẩn. Lại giải thích Vô sắc cũng tức là uẩn ngã, chỉ chấp phi sắc tức là thọ tưởng v.v… nên cũng là uẩn, hữu biên v.v… là lìa uẩn, vì Đại luận quyển ghi: “Chấp ngã tùy thân lượng không định, đều thông với tức, lìa. Nói thiểu sắc v.v… vả lại căn cứ theo tức uẩn mà nói, lý thật thông với hai thứ, chuẩn theo hữu ngã có sắc tức là chấp sắc làm ngã. Đã nói ngã một tưởng v.v… tùy theo tức là chấp kia làm ngã, trong bốn biến thường nêu y-sư-ca, tức là tăng-khư loại, lẽ ra lìa uẩn ngã. Bảy đoạn diệt lẽ ra tức là uẩn nga;, thắng, số lìa uẩn đều chấp thường, phần thường bất định.

Hỏi: Vì sao không nói kiến, giới và ngã sở kiến đều là tà kiến khác làm sáu mươi hai kiến trong kiến số?

Đáp: Ngã không phải nhiều tranh chấp, chấp thường đoạn v.v…

có nhiều tranh chấp, lỗi tăng nhiều khởi, trong tà kiến cũng căn cứ theo lỗi tăng nhiều khởi, nói hai thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, nương theo chấp kia chẳng phải căn bản.

Hỏi: Vì sao chỉ lập ra trước sau hai tế, không lập hiện tại là trong tế kiến ư?

Đáp: Như hiện Niết-bàn là chấp hiện tại vì vị lai trước, quá khứ sau, nên không lập riêng, vì trước giải thích vặn hỏi, hoặc có văn của luận. Hoặc không văn, đều nói như đây, sau tìm văn lại.

Luận: Như vậy trong mười phiền não chung riêng, vốn nói hoặc chung hoặc riêng chỉ có mười loại, như tham, sân v.v… đều có chung riêng sai biệt hành tướng, nếu là mê Đế và tự hành tướng, không ngoài chung riêng. Lại Yếu Tập quyết đoán chưa rõ ràng là thắng, nhưng do chưa hết mạn và ba kiến gọi là chung. Sáu thứ còn lại gọi là riêng, đây cũng không như vậy, mười phiền não này đều thông với chung riêng, nên chỉ nói chung.

Luận: Học hiện quán v.v… vốn giải thích như Sớ.

Tây Minh nói: Quyển 88 ghi: “Nhưng lúc đối với tu tập đế hiện quán, do ý vui vẻ, e rằng ở nơi Niết-bàn ngã sẽ không có v.v…”, chuẩn theo đây chưa nhập vào Kiến đạo.

Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng, nay ý nghi ngờ nói căn cứ theo quyển 88 là chưa nhập vào kiến, văn kia nói do sức tăng thượng tùy miên Tát-ca-da-kiến này. Đối với các hành, khởi tà phân biệt, nghĩa là ngã sẽ đoạn, liền ở nơi Niết-bàn phát ra sinh đoạn kiến, do nhân duyên này ở nơi bát Niết-bàn tâm trở lại, không thích hướng vào, tức là cũng với luận này dẫn văn không đồng, nghi ngờ dẫn văn này, lại là văn khác. Sớ vọng không dẫn, nhưng trong Sớ chỉ có tám mươi tám, nghi và sở v.v…, lại chỉ chứng là đoạn kiến tức là được, không chứng Câu sinh. Văn nói: Khởi tà phân biệt nghĩa là ngã sẽ đoạn, không rõ ràng nói là Câu sinh, hoặc văn này đều chẳng phải nhất định phàm thánh, nếu không như vậy vì sao văn không phải tương tợ? Nhưng chuẩn theo dẫn của luận, Sớ giải thích chính, vì sao? Ý chứng câu sau thông với đoạn kiến, dẫn dắt Kiến đạo sau khởi, có thể chứng thành thật, nếu Kiến đạo trước, sao biết là Câu sinh đoạn kiến?

Luận: Nghĩa là cầm thú v.v… có thể tạo nghiệp chăng? Như Xu Yếu nói, Yếu Tập ghi: “Thuần trong nẻo khổ và cầm thú v.v… loại của ngu thuần, không khởi phân biệt”, luận có văn thật, đối với khổ tạp thọ, như rồng, quỷ v.v… những loài có trí sáng suốt cũng được nghe pháp, các thứ chấp hết nên có phân biệt. Như trong kinh nói, quỷ vỗ vào đầu của ngài Xá-lợi, thân vùi vào địa ngục, đủ biết được trong quỷ tạo tác đến nghiệp nẻo ác, người ngu độn làm việc sát sinh v.v… ắt sẽ có thể tạo tác đến nghiệp nẻo ác, nghĩa đồng với cầm thú. Nay cho rằng không đúng, trong ba đường ác tạo tác cảm được nghiệp thiện ác quả báo khác nhau, đây tức là có thể như vậy, quả báo chung không tạo, không phân biệt, khổ của cầm thú vi tế không lựa ra người ngu sáng suốt, đều không thể khởi. Nếu do quỷ đánh trên đầu của ngài Xá-lợi, tức là minh chứng tạo ra chung, cảm được nghiệp nẻo ác. Trong kinh cũng nói, loại rồng quỷ nghe kinh, thấy kỹ càng được đắc quả, đâu thừa nhận thật ư? Thừa nhận tức là trái với luận, không thừa nhận là trái với kinh, nên trong kinh căn cứ theo hóa tướng nói nhập vào Kiến đế v.v… cảm được nẻo thiện ác, căn cứ theo trợ cảm mà nói.

Luận: Cùng với thân tà kiến một phần cũng như vậy.

Tây Minh giải thích: Chấp cực khổ uẩn làm ngã, tức là không phải mạn đồng thời, chẳng phải cực khổ uẩn cũng được mạn đồng thời, nên văn sau nói: Nương nhờ vào khổ liệt uẩn, ưu tương ưng. Nay cho rằng giải thích trước là chính, thừa nhận mạn và chấp khổ uẩn kia, thân kiến như nhau, ở đây muốn nói một phần căn cứ vào nhiều phần, nên đoạn sau sư thứ nhất cũng thừa nhận duyên khổ đồng thời với uẩn khởi, mạn ưu đồng thời. Sư thứ hai cũng nói: Cũng khổ câu khởi. Tây Minh nếu nói chấp cực khổ uẩn làm ngã không phải mạn, mạn lẽ đồng thời với khổ nào? Không thể cùng với cái khác đồng thời, không thừa nhận thân kiến hợp nhau, vì không có nhân khác.

Hỏi: Căn cứ theo nhiều phần mà nói, thật lý làm sao đồng thời?

Đáp: Căn cứ theo phân biệt mạn không cùng với chấp khổ uẩn, một phần ngã kiến đồng thời. Sau căn cứ theo Câu sinh, nên được đều khởi.

Lại mạn có bảy, ty nạn được đồng thời, nên luận Du-già quyển 5 ghi: “Nếu mặc tình sinh ra tất cả phiền não, đều ở nơi ba thọ, hiện hành có thể được”. Nếu phân biệt lược có hai mạn: một cao cử mạn, hai ty hạ mạn. Cao cử mạn có ba: một là xứng lượng; hai là giải liễu; ba là lợi dưỡng. Cao sử mạn này hỷ căn tương ưng, nếu ty hạ mạn ưu căn tương ưng.

Hỏi: Luận nói: Tham, sân, si ba Câu sinh phân biệt tất cả, dung chứa năm thọ tương ưng, ý địa phân biệt, thuần khổ thú không có, trong tạp thọ nhân năm thọ tuy có khổ, lại không phải phân biệt, vì sao được nói tất cả đều dung chứa cùng với năm thọ tương ưng?

Đáp: Căn cứ theo quyển 5 thừa nhận năm thức có phân biệt phiền não, tuy chẳng phải tự lực, do ý dẫn sinh, vì sao biết? Luận kia ghi: “Không phải mặc tình sinh, tất cả các phiền não các căn tương ưng”. Ta nay sẽ nói, tham ở nơi một lúc, lạc, hỷ tương ưng, ngã ở nơi một lúc ưu khổ tương ưng, trong khuể cũng nói khuể ở nơi một lúc ưu khổ tương ưng, hoặc ở một lúc hỷ lạc tương ưng.

Hỏi: Vì sao như vậy?

Đáp: Nghĩa là như có một lẽ tự nhiên là khổ bức bách cắt thân tâm, bèn khổ ở bên trong tác ý suy nghĩ phát ra tâm tức giận v.v… hỷ lạc tương ưng, ý cũng đồng với đây. Chuẩn theo ý của văn này, đối với chỗ cực khổ, ý tuy có khổ nhưng không phân biệt, phân biệt khởi mạn, không nói khổ đồng thời. Trong cõi người, năm tạp xứ đã có khổ nên được cùng đồng thời. Luận lại ghi: “Bèn khổ ở bên trong, tác ý suy nghĩ phát ra tâm tức giận v.v…”, do đó cho nên khuể ưu tương ưng, nên do ý dẫn năm thức khởi phân biệt. Do hai luận này đều làm ra định thuyết, nếu không như vậy thì trái nhau.

Luận: Kiến chẳng phải tuệ đồng thời vì không khác với tuệ.

Hỏi: Năm kiến không khác với tuệ, không được cùng với tuệ đồng thời, vì sao quyển trước nói thứ bảy tuệ đồng thời, ngã kiến hằng hành không khác với tuệ?

Đáp: Có hai giải thích: một là một đồng thời hữu gọi là đồng thời, hai là tương ưng gọi là đồng thời. Trước thì căn cứ theo Câu hữu, đây thì đứng về tương ưng, tha tánh tương ưng chẳng phải tự tánh; như phú, cuống v.v… là phần của tham si, phần của tham tuy là tham đồng thời, nói cùng với si tương ưng, nếu không như vậy đâu phải ở phần tham lập ra phá v.v… lúc không có si ư? Lại giải thích không như vậy. Các thuyết nói đồng thời là giải thích tương ưng môn. Căn cứ theo nghĩa nói trước, nên nói: Kiến tuy tức là tuệ, như trong tâm sở nghĩa riêng nên khai mở, nay căn cứ theo thể riêng, kiến chẳng phải tuệ đồng thời không chướng ngại phần của nghĩa, nói cùng với tuệ hợp nhau. Nếu như vậy vì sao tha tánh tương ưng? Nếu thừa nhận nghĩa riêng, gọi là tha tương ưng, phần của tham phú, cuống lẽ ra tương ưng với tham, luận đã không thừa nhận trước nói là thắng, đối với tương ưng môn nghĩa nói đều khởi, đây cũng lỗi gì?

Luận: Nên biết Câu sinh thân biên hai kiến chỉ Vô ký nhiếp không phát ra ác nghiệp.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao toàn giới phiền não đều có thể phát nhuận?

Đáp: Có hai giải thích: một là căn cứ theo nói chung, hai là đây căn cứ theo thân phát. Vô ký không thể được, nếu thông với trợ chánh, toàn giới có thể phát, thuyết này là chính.

Luận: Nếu được Căn bản định của Địa kia rồi.

Hỏi: Nương theo cận phần định hàng phục chín phẩm sau, chưa nhập vào căn bản, chưa khởi hoặc kia, người mạng chung vì sao hoặc nhuận sinh?

Đáp: Có hai giải thích: một là giải thích như Sớ; hai là thừa nhận Địa trên loại nhuận.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao không phải dụng dưới nhuận?

Đáp: Đã chiết phục chủng tử hiện tại không thể được.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao quyển 5 ghi: “Một triền và tùy miên kết sinh tương tục nghĩa là các dị sinh; hai chỉ tùy miên kết sinh tương tục, nghĩa là thấy được dấu vết của đế?”

Đáp: Đây căn cứ theo nhiều phần như nói Kiến đế, tùy miên, nhuận sinh không ngăn ngại, hai quả ban đầu, cũng khởi triền hiện tại, tuy nói dị sinh hiện ra chủng tử cùng nhuận, thì đâu ngăn ngại chỉ chủng tử?

Hỏi: Vì sao được biết hai quả ban đầu khởi triền hiện tại, nhuận sinh?

Đáp: Luận Du-già quyển 1 ghi: “Lại các dị sinh lúc sắp mạng chung, ngã ái hiện hành do sức này, nên liền yêu mến thân mình, do đây kiến lập thân Trung hữu, sinh báo”. Nếu Dự lưu một lúc đến ngã ái cũng lại hiện hành, tuy nói chế phục, không nói chẳng nhuận.

Luận Tạp Tập quyển 5 ghi: “Do thế lực này các dị sinh đông”, nay do trong vô gián có tương tục, chưa lìa dục Thánh cũng như vậy, lúc sắp mạng chung cho đến chưa đến không phải rõ ràng tưởng vị, trong đó có thể khởi ái này hiện hành, nhưng sau tuy nói đối trị nhiếp phục không nói chẳng phải nhuận, lìa dục Thánh là văn tự nói lời, đối trị sức mạnh, ái không phải hiện hành, do sức của tùy miên, khiến cho sinh tương tục. Lại giải thích Thánh chỉ là loại nhuận, phàm chỉ là loại hiện, nếu như vậy văn của hai luận làm sao thông được?

Đáp: Đều nói chế phục không nói năng nhuận, giả sử nhuận là trợ, văn của quyển 5 căn cứ theo chánh nhuận mà nói, cũng không trái nhau, như thật nghĩa, hai quả của phàm phu đều loại, hiện nhuận, văn như nói trước. Nếu như vậy vô tâm, lúc ngủ, buồn bực, bị giết, tức là không phải ái hiện tại, dụng chánh nhuận làm gì?

Đáp: Lúc lâm chung có tâm ắt sẽ định khởi luôn ái, chẳng phải một sát-na tức là có thể giết.

Hỏi: Ở nơi địa vị nhuận sinh, thân Trung hữu sinh khác nhau, lại khởi ái duyên theo thân mình cảnh riêng, là ở nơi hai vị đều khởi hai ái là không như vậy?

Đáp: Trong nhuận có khởi tự thể ái, nhuận sinh hữu khởi cảnh giới ái, vì ở nơi tử hữu không thấy Trung hữu, nghĩa là ngã không có khởi tự thể ái, ở nơi địa vị Trung hữu thấy sinh xứ nên khởi cảnh giới ái. Cho nên luận Du-già quyển 1 ghi: “Ngã ái hiện hành do sức này”, nghĩa là ngã sẽ là vô mà liền yêu mến tự thể, do đây kiến lập tự thể của sinh báo, cho đến nói mình đối với nghiệp kia đã được sinh xứ, trở lại thấy chủng loại hiện tượng như vậy, hỷ lạc trì thú tức là ở nơi sinh xứ cảnh sắc đã ngăn ngại, thân Trung hữu bèn diệt, sinh hữu nối tiếp khởi.

Hỏi: Trung hữu mạt tâm gọi là chết chăng?

Tây Minh nói: Không phải gọi là chết, nói thân Trung hữu mất là căn cứ theo Thức thứ sáu mà nói, Thức thứ tám tương tục, nay cho rằng không đúng. Đối Trị, Du-già đều ghi: “Trung hữu trụ lâu nhất là bảy ngày, hoặc có chết non, cho đến trải qua bảy lần trở lại”, lại không mắc lỗi. Nếu chuẩn theo văn này thừa nhận Trung hữu chết, nếu nói chỉ là Thức thứ sáu không hiện hành, vì sao bảy ngày mới ngày không hiện hành, lúc sáu ngày v.v… vì sao duyên không diệt? Nếu nói cũng thừa nhận tức là gặp duyên ngăn ngại Thức thứ sáu không khởi, vì sao nhất định bảy ngày đến bốn mươi chín ngày? Lại nữa thân Trung hữu đổi sinh ra đường khác, đâu phải Thức thứ tám không bỏ liền đến chỗ kia ư? Nếu như vậy sẽ thành tựu lỗi thú sinh tạp loạn. Lại đâu được nói hoặc có thân Trung hữu chết yểu? Nên thừa nhận thân Trung hữu có chết. Tạp Tập, Du-già đều nêu đủ. Nếu như vậy, vì sao chẳng gọi là tử hữu? Thức thứ tám sau nói chung gọi là sinh chi?

Đáp: Phương tiện của thú sinh tuy có sinh tử, chẳng phải riêng lão chi.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao gọi là sinh chi?

Đáp: Nương theo bốn hữu nói là trái, mười hai chi căn cứ không sửa đổi hướng đến.

Hỏi: Nếu Trung hữu mai một chỉ thú sinh, tức gọi là tử chi, vì sao cần phải lập ra bốn hữu này?

Đáp: Nghĩa sai biệt, nêu chuẩn theo tên có thể biết.

Hỏi: Tức là nương theo sáu hành, có thể hàng phục được hạ hoặc mới được định trên, sáu hành hàng phục hoặc nghĩa đó như thế nào?

Đáp: Lược có bốn nghĩa rõ ràng:

  1. Nói rõ sáu hành tướng.
  2. Căn cứ theo bảy tác ý mà nói.
  3. Căn cứ theo bốn đại.
  4. Đối trị.

Nói sáu hành, quán dưới là thô, khổ, chướng; quán trên là tĩnh, diệu, ly; năng quán chỉ là tuệ; thô, tĩnh sáu tương tức là cảnh sở quán, hành nghĩa là hành giải hành tướng, thông với năng sở quán, như mười sáu hành, nhưng năng quán thù thắng chỉ được tên hành, lúc quán ở địa dưới làm tướng thô, tầm, tứ sáu sự. Luận Du-già quyển 33 ghi: “Làm sao hiểu rõ tướng thô của cõi Dục? Nghĩa là chánh tầm tứ cõi Dục sáu sự; một là nghĩa; hai là sự; ba là tướng; bốn là phẩm; năm là thời; sáu là lý”. Nghĩa là tổn hại, bệnh ôn dịch bệnh hủi, tai hại v.v…; sự là đối với cảnh khởi tham trong ngoài; tướng là đối với cảnh thuận theo thọ sinh, tưởng tâm thấy điên đảo, vốn tùy theo hoặc, chỗ của sở y; phẩm là các dục đã sinh lỗi hoạn rất nhiều chủng loại; thời là ba đời thường sinh ra lỗi hoạn; lý là tầm, tứ nương theo ba lượng, quán các dục kia sinh ra lỗi, đã tu tướng tĩnh lặng ngược với trên nên biết. Vả lại thành tựu cõi cõi Dục gọi là quán các dục, nhưng lúc đoạn hoặc, quán ba tướng sau tùy theo một tướng trước, ba tướng trước cũng như vậy, chẳng phải mỗi mỗi đầy đủ ba tướng, cũng không tùy theo quán trên dưới chỉ một, cần phải trên dưới đều là một, vì nhàm chán dưới, ưa thích trên. Nên Tạp Tập luận quyển ghi: “Thấy trong cõi Dục lỗi loạn, nên liễu đạt được tướng thô trong Sơ thiền, tướng này vô gọi là tĩnh tướng, là gọi liễu tướng tác ý”. Trong Thắng giải tác ý cũng nói: Như là tánh của tầm, tứ, thô, tĩnh tướng, gọi là thắng giải tác ý, năm thứ khác chuẩn theo nên mỗi mỗi quán hai tướng, do có khả năng khác, trong các luận lược không nói, nếu không như vậy, hoặc còn lại vì sao hành đoạn, chẳng phải đạo xuất thế? Nhưng vô gián, giải thoát mỗi mỗi một hành tướng, mỗi mỗi một sát-na vì thời gian nhanh chóng, nhưng vô gián quán thô, Giải thoát đạo quán tĩnh lặng, còn lại đều chuẩn theo mà biết, chưa thấy văn luận kinh của Đại thừa nói. Chuẩn theo luận Câu-xá quyển 2 ghi: “Các vô gián duyên đạo theo tự lần lượt địa dưới các pháp Hữu lậu, làm ra khổ, thô v.v… trong ba hành tướng tùy theo một hành tướng, các duyên Giải thoát đạo theo lần lượt địa trên các hữu pháp, làm ra tĩnh, diệu v.v… trong ba tướng tùy theo một tướng. Lại thô, khổ, chướng ba loại cảnh, tướng làm tĩnh, diệu, ly, như lần lượt ngược với nó, lại thô, tĩnh tướng hai loại mỗi mỗi là chung, hai loại còn lại hai thứ mỗi mỗi là riêng”. Nên Tạp Tập Luận quyển ghi: “Như vậy tướng thô lược có hai loại: một là trụ nơi trọng khổ, không phải tịch tĩnh trụ, hai là mạng hành dần dần ít, thọ mạng ngắn ngủi, tức là sở quán chướng”.

Tĩnh tướng nghĩa là đối với tất cả địa trên cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ cùng với tướng thô trái nhau, luận Du-già quyển 33 văn rất đồng với đây, cả hai căn cứ theo bảy tác ý nói rõ, chín phẩm hoặc của cõi Dục đoạn ba phẩm ban đầu, đều dùng liễu tướng, thắng giải, hai thứ tác ý mà làm gia hạnh, mới khó đoạn, hoặc ba phần đồng một gia hạnh thắng tấn. Duy Thức quyển 10 ghi: “Lúc Nhị thừa căn độn tiệm đoạn chướng, vô gián, giải thoát ắt sẽ đều khởi khác nhau, gia hạnh, thắng tấn, hoặc chung hoặc riêng, trung, hạ cũng như vậy, mà làm gia

hạnh, xa lìa tác ý làm Vô gián đạo, nhiếp lại tác ý làm Giải thoát đạo và thắng tấn”.

Quyển 33 ghi: “Từ đây trở về sau ái lạc đoạn, ái lạc xa lìa ở trong các đoạn thấy được công đức thù thắng, xúc chứng được tiểu phần xa lìa hỷ lạc, đối với thời thời gian vui vẻ tác ý mà thâm sâu mừng vui, đối với thời thời gian nhàm chán xa lìa tác ý mà thâm sâu nhàm chán lo lắng”. Chuẩn theo đây xúc chứng được tiểu phần, tức là Giải thoát đạo vui vẻ tác ý tức là Thắng tấn đạo, mà thâm sâu nhàm chán lo lắng tức là gia hạnh đạo, trong ba phẩm hoặc trở lại dụng nhiếp lạc mà làm bốn đạo phẩm trung dễ trừ, chẳng phải trừ tác ý mà làm gia hạnh, ba phẩm hoặc hạ quán sát tác ý làm gia hạnh đạo sẽ muốn ra khỏi giới tế khó đoạn. Một làm gia hạnh, lại không đồng với ban đầu mới rất khó đoạn, gia hạnh cứu cánh, tác ý làm Vô gián đạo, gia hạnh cứu cánh quả tác ý là Giải thoát đạo, nên luận Du-già quyển 33 ghi: “Liễu tướng tác ý ở nơi sở ứng đoạn có thể chính rõ biết, tâm sinh ra ít nguyện, Thắng giải tác ý là đoạn là đắc chánh chứng được gia hạnh, Viễn ly tác ý có thể bỏ được sở hữu phẩm thượng phiền não, Nhiếp lạc tác ý có thể bỏ được sở hữu phẩm trung phiền não, Quán sát tác ý có thể ở nơi sở đắc lìa được tăng thượng mạn, an trụ tâm; Gia hạnh cứu cánh tác ý có thể bỏ được sở hữu phẩm hạ phiền não, Cứu cánh quả tác ý có thể chính lãnh thọ các tác ý kia, khéo tu tập quả”, đã nói có thể chính lãnh thọ, tức là chứng nghĩa cho nên giải thoát. Lại giải thích riêng khởi giải thoát, chẳng phải Thức thứ bảy tác ý. Luận Du-già quyển 11 ghi: “Do chứng phương tiện cứu cánh quả của tác ý phiền não đoạn rồi, mới được căn bản Tam-ma-địa”. Gia hạnh cứu cánh quả tác ý, quyển 33 nói là căn bản định đều hành tác ý, quyển 11 lại ghi: “Do chứng quả phiền não đoạn rồi mới được căn bản”, nên biết khởi riêng, cả hai thuyết đều được, sau sẽ giải thích.

Hỏi: Đã có chín phẩm, vì sao chỉ nói ba?

Đáp: Từ phẩm loại chung nói chỉ chia ra ba phẩm.

Hỏi: Căn cứ theo đoạn chín phẩm hoặc, có chín vô gián, chín Giải thoát đạo, vì sao chỉ nói ba tên là đoạn?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Ba tác ý này mỗi mỗi đoạn ba, hành tướng phẩm loại đều tương tợ nhau luận không phải nói riêng.

2. Hoặc tuy chín phẩm, chỉ ba phẩm đoạn, vì thế đạo có ba phẩm, các luận đều chỉ nói ba phẩm đoạn, chẳng phải chín phẩm.

Hỏi: Nương theo trong lời trước đoạn phẩm hoặc hạ, lại chia ra ba phẩm, đoạn phẩm thứ ba có thể gọi là cứu cánh, đoạn hai phẩm ban đầu 52 và trung, vì sao gọi là cứu cánh?

Đáp: Chẳng phải mong ba phẩm tự loại mà nói, mong ba phẩm chung hợp mà đoạn, hạ ba phẩm chung là phẩm hạ nên gọi là cứu cánh, nếu không như vậy vì sao luận Du-già, Tạp Tập đều chỉ nói cứu cánh đoạn được phẩm hoặc của hạ ư? Nương theo giải thích thứ hai tức là không phải ngăn ngại đây.

Hỏi: Trong đoạn hạ phẩm, hai phẩm hoặc trước, dụng vì sao tác ý làm Giải thoát đạo?

Đáp: Một là dung nhiếp lạc tác ý làm hai phẩm giải thoát, quyển 2 nói thông với bốn đường. Luận Du-già quyển 33, Tạp Tập quyển đều nói Thức thứ bảy tác ý là căn bản định đều tác ý. Lại đoạn phẩm hạ này lúc Vô gián đạo chưa nhập vào căn bản. Hai tức là Thức thứ bảy tác ý, nói căn bản định đều tác ý căn cứ theo đoạn hạ hạ Giải thoát đạo mà nói. Ba tức là gia hạnh cứu cánh tác ý, làm ba vô gián hai Giải thoát đạo, vì tên thể đồng, luận không nói riêng, đây lẽ ra tốt, như nhiếp lạc là đoạn ba phẩm trung, có thể làm bốn đạo.

Hỏi: Nếu cho nhiếp lạc là đoạn bốn đạo của phẩm trung, luận vì sao không nói?

Đáp: Vì cảnh hiển, hai phẩm thượng hạ đều nói gia hạnh và Giải thoát đạo, nên ở phẩm trung lược mà không nói, lại đoạn phẩm trung đồng một tác ý, tuy có bốn đạo, lại không nói riêng.

Hỏi: Vì sao được biết nhiếp lạc thông với bốn đạo?

Đáp: Quyển 2 nói Nhiếp lạc tác ý bốn loại đạo nhiếp.

Hỏi: Vả lại đoạn phẩm hoặc thứ chín của cõi Dục, khởi Giải thoát đạo tức là căn bản làm cận phần ư?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Tức là nhập, quyển 33 Tạp Tập luận quyển đều ghi: “Là tên Gia hạnh cứu cánh tác ý”, từ vô gián này, do nhân duyên này, chứng nhập vào căn bản Sơ thiền định, tức là Sơ thiền này định đều tác ý, gọi là Gia hạnh cứu cánh quả tác ý, Thức thứ bảy tác ý là giải thoát kia, tức là nhập vào căn bản.

2. Hoặc có không nhập, nên luận Du-già quyển 11 ghi: “Ở trong Hữu lậu phương tiện, trước nói giải thoát, sau nói Tam-ma-địa, do chứng được phương tiện cứu cánh, quả của tác ý phiền não rồi, mới được căn bản Tam-ma-địa”, tức là nói do chứng được quả rồi mới được căn bản Tam-ma-địa, nên Giải thoát đạo chẳng phải là căn bản, chuẩn theo hai văn này, theo lợi độn khác nhau, hai giải thích đều đúng, đều không trái nhau.

Hỏi: Nếu Nhiếp lạc tác ý đoạn phẩm hoặc trung, vì sao quyển 33 nói vì trừ được hôn trầm v.v…?

Đáp: Căn cứ theo gia hạnh quán tịnh, diệu tướng, sách lệ giữ gìn tâm, chẳng phải Vô gián đạo.

Hỏi: Nếu Quán sát tác ý là đoạn phẩm hạ, gia hạnh đạo, vì sao chỉ nói tăng thượng mạn?

Đáp: Vì đoạn ít được nghĩa là làm nhiều được tăng thượng mạn, tiến tu gia hạnh đoạn những thứ hoặc chưa được đoạn, có thuyết cho rằng đoạn chín phẩm. Sau phẩm vô gián tức là Giải thoát đạo của vô gián trước, nghĩa này tuy được nhưng trái với luận Thành Duy Thức. Luận kia quyển 10 ghi: “Nhị thừa căn độn tiệm lúc đoạn chướng, vô gián, giải thoát, ắt sẽ đều khởi riêng hoặc có thể không trái” luận kia căn cứ theo thật đoạn, đây căn cứ theo hàng phục mà nói. Căn cứ theo bốn đạo, sáu hành gia hạnh này, thắng tấn đều được làm đủ, vì thời gian dài, vô gián giải thoát đều một hành tướng. Quyển 2 ghi: “Các cận phần định, nếu phương tiện đạo, nếu Vô gián đạo, nếu Giải thoát đạo, hoặc làm đoạn diệt, hoặc làm chứng đắc mà tu tập, hoặc quán lỗi dưới quán vắng lặng trên, nếu Thắng tấn đạo sẽ biết kia là biến khắp đầy đủ sở y”. Lại quyển 33 v.v… đối với Liễu tướng, Thắng giải hai loại tác ý đều nói quán thô, tĩnh. Luận Câu-xá cũng đồng, như đã dẫn trước.

Căn cứ theo đối trị, có bốn đối trị: Một là Yểm hoạn đối trị; hai là Đoạn đối trị; ba là Trì đối trị, bốn là Viễn phần đối trị. Trước căn cứ theo tác ý để nói rõ sáu hành, nay căn cứ theo tác ý phối hợp với bốn đối trị, tức là có thể chuẩn theo mà biết. Luận Du-già quyển ghi: “Nên biết trong đây từ Liễu tướng tác ý cho đến Thắng giải tác ý, gọi là Yểm loạn đối trị tu, từ Viễn ly tác ý cho đến Phương tiện cứu cánh tác ý, gọi là Đoạn đối trị tu, Phương tiện cứu cánh quả tác ý, gọi là Trì đối trị tu”. Từ đây trở lên bảy loại tác ý, tùy theo chỗ nhiếp Thắng địa Địa thượng, nên biết tất cả gọi là Viễn phần đối trị tu. Đây căn cứ theo một tướng, theo thật nhiếp lạc thông với bốn đối trị, quán sát cũng thông với yểm hoạn đối trị, nghĩa như nói trước.

Hỏi: Căn cứ theo quyển 33, Tạp Tập luận quyển , đều thông nói Quán sát tác ý làm năng đoạn hoặc, vì sao văn này nói Đoạn đối trị tu?

Đáp: Hai tác ý ban đầu hoàn toàn chưa có đoạn, tác ý thứ bảy căn cứ theo địa dưới, lại không thể đoạn giữa quán sát trước sau có đoạn, nên theo nhau nói, gọi là Đoạn đối trị.

Hỏi: Dưới khởi trên, giữa; thân kiến biên kiến là định hay là sinh?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Định phiền não được túc trụ thông, hoặc lại thiên nhãn thấy Phạm vương kia chấp ngã chấp thường tức là định loại.

2. Sinh hoặc, đây đối với thân khác khởi hai kiến này, là sinh loại kia gọi là sinh hoặc, nhưng định hoặc chỉ phân biệt khởi sinh hoặc thông với hai loại, nhưng chánh nhuận sinh không nhận lấy hai kiến, ở nơi địa vị này, khởi cũng lại không lỗi, nhưng là duyên chung, chẳng phải là duyên riêng, vì vị lai vô, chỉ duyên ngã kiến không phải đã giúp chất.

Luận: Sinh trên khởi dưới, vả lại như phỉ báng diệt.

Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng, Trung hữu, bản hữu, dù sắc, Vô sắc đều được khởi chê bai và khởi các hoặc, đều sinh ra thân kiến biên kiến, tuy không cùng với nhuận sinh ái đồng thời nhưng trước sau khởi, ở nơi lý không ngăn ngại, nhưng lý khó thấy. Nay cho rằng, Trung hữu, bản hữu, dù sắc, Vô sắc đều được khởi chê bai. Căn cứ vào đầu mà nói? Nếu tăng thượng mạn được ba định đầu, lúc sắp chết sinh về cõi trên, chưa chứng quả vô sinh ở trong Trung hữu, bản hữu đều không nên chê bai, nếu đắc được định thứ tư nghĩa là quả thứ tư, tức là sinh về Trung hữu thứ tư, khởi chê bai. Luận có văn thật, không nói sinh về bản hữu, cũng không nên sinh về Vô sắc khởi chê bai, vì sao? Đắc được định thứ tư, chấp làm quả thứ tư, ắt sẽ không phải lại tu định của cõi Vô sắc, vì sao? Tức là chấp vào định Hữu lậu thứ tư, làm thể của quả, lại tu định của Vô sắc, sẽ làm ra pháp gì? Nếu làm ra công đức thù thắng, tức là không nên chấp vào định thứ tư làm, nếu các ngoại đạo sinh về cõi Sắc chê bai là sắc tà kiến, không nói ngoại đạo khởi, sau chê bai hủy diệt đọa vào địa ngục, nếu sinh về cõi Vô sắc, nhàm chán trái với dưới kia không duyên theo dưới, vì sao có thể nói chê bai giải thích Niết-bàn? Nếu chê bai kia chấp vào chỗ được Niết-bàn chẳng phải là thật Niết-bàn, bèn là chánh kiến chẳng phải tà kiến. Lại nữa vốn chấp cõi trời kia làm quả, được chê bai gì? Nếu nói dựa trên tà kiến chê bai địa dưới, đây cũng không như vậy, vốn giải thích sinh về cõi trên khởi dưới, không luận sinh về cõi trên khởi cõi dưới lại. Nếu sinh về cõi trên khởi cõi trên chê bai cõi dưới cũng chẳng phải Vô sắc, luận chỉ nói lời Bồ-tát Xá-da, Thanh văn quảng tuệ, vì tâm của Vô sắc rõ được tất cả pháp, không nói còn lại. Các thứ khởi nhiều ít, không phải văn nhất định phán quyết, tùy theo sự lấy bỏ.

Hỏi: Trên duyên theo ở dưới kiến thủ, giới cấm thủ, vì sao được duyên theo dưới mong trên không được tên thắng?

Đáp: Nhớ xưa cõi dưới đã khởi kiến thủ giới cấm thủ chấp làm thắng tịnh, mong cõi dưới nói là thắng là tịnh, không hình ở trên.

Tây Minh giải thích trên duyên theo tham, tổng hợp các điều trái nói: Hoặc nương theo duyên riêng nói chung riêng. Vả lại nói năm loại có ba câu:

1. Chỉ chung chẳng phải riêng nghĩa là Tát-ca-da-kiến và biên tà kiến Câu sinh, phân biệt.

2. Chỉ riêng chẳng phải chung nghĩa là sân tuy không phải chánh văn phân biệt, Câu sinh nghĩa cũng không ngăn ngại.

3. Thông với chung riêng, nghĩa là tham, mạn, nay cho rằng sân hoặc cũng được chung duyên, cùng với kiến, mạn câu, tà kiến chung phát ra, mạn cũng chung… sân tức là thừa nhận đồng thời, vì sao không duyên chung thân kiến, biên kiến cũng riêng, như bốn phần thường luận duyên theo Phạm vương và đại chủng v.v… kia, nếu chẳng chấp ngã làm đoạn thường, chẳng phải biên kiến, nhưng tuy được định trên mới chấp vào Phạm vương, kiến đã khởi chưa nhất định cõi trên.

Luận: Nhưng mê Đế tướng có chung có riêng. Luận Tạp Tâm ghi: “Cõi dưới khổ đầy đủ tất cả, hai hành kia ba kiến, đạo trừ được hai kiến, cõi trên không hành khuể. Nay Đại thừa tụng: “Dục mê bốn có mười; tùy hành ba, tám loại; tu lục thông hành mê, thượng kiến tu trừ khuể”.

Nhưng mê Đế tướng có chung có riêng. Chung có bốn câu:

  1. Số tổng hành biệt
  2. Hành tổng số biệt
  3. Số tổng hành tổng
  4. Số biệt hành biệt

Số tổng hành biệt, mỗi Đế có mười, đều mê tự Đế, nhưng nương theo một Đế, duyên theo mê nhiều Đế, gọi là hành tổng, nếu số tổng hành tổng Đế mỗi mỗi có mười gọi là số tổng, hành tổng là mê hai, ba Đế v.v… đều gọi là tổng. Bốn Đế có sáu tức là có sáu mươi, hai cõi trên, Đế mỗi mỗi trừ sân, sáu lần chín là năm mươi bốn hợp thành một trăm lẻ tám. Ba cõi chung có một trăm sáu tám, nếu chín hợp thành có bốn câu, cõi Dục có bốn mươi, ba cõi trên Đế mỗi mỗi có ba mươi sáu, hợp thành một trăm mười hai, nếu bốn Đế hợp ba cõi bốn Đế có hai mươi tám, nếu số biệt hành biệt tức là trong tụng trước, đều mê tự Đế.

Hỏi: Trong đây y biệt duyên biệt, theo đâu mà nói mê?

Đáp: Theo sở duyên mà mê y chẳng phải duyên.

Hỏi: Nếu như vậy lẽ ra là Đế hoặc của sở duyên, vì sao nói y?

Đáp: Nhờ nó sinh, nương theo nó khởi.

Hỏi: Một trăm hai mươi tám nương vào đâu mà lập?

Đáp: Nương theo số tổng hành biệt đều Tu đạo hoặc, nếu nương theo câu khác, tức là có tăng giảm, suy nghĩ có thể biết.

Hỏi: Y duyên khác gì?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Duyên nghĩa là duyên hết, tức là sở y, gọi là duyên.

2. Y tức là nương gá, duyên cảnh sở duyên, như khởi vô minh, mê ở nơi khổ tập, nhân đây khởi nghi, nghi rồi tức là sinh ra tà kiến, chung phát ra không phải bốn Đế, tức là đã nghi phát ra làm sở duyên, vô minh tức là nhân y.

Hỏi: Theo gì đoạn, là theo sở y, theo sở duyên mà nói đoạn ư?

Đáp: Từ y, duyên đoạn đều không lỗi, vì trong Đại thừa kiến hoặc liền đoạn, không đồng với Hữu bộ trước sau đoạn riêng. Lại có bốn câu có mê mà không duyên nghĩa là hai thủ, có duyên mà không mê nghĩa là trí Vô lậu, có đều duyên mê, nghi tà kiến v.v… có chẳng phải duyên mê duyên theo lông rùa v.v… chẳng phải Đế nhiếp.

Hỏi: Mười phiền não này mê Đế thân cận, sân, mạn, tà kiến, nghi và vô minh gần gũi mê dễ biết. Hai kiến thân kiến, biên kiến đều không duyên lý, vì sao gần gũi mê?

Đáp: Tuy không duyên lý, chính mê muội ở nơi lý không vô ngã kia hành tướng thâm sâu mê gọi là gần gũi mê. Nếu mê muội Đế khác, theo thông với không vô ngã ngược với hành tướng kia, và chấp Đế dưới hoặc khác cho là ngã nên cũng gọi là mê hành tướng của hai thủ tuy thâm sâu, cũng duyên theo Đế dưới hoặc khác, nhưng chẳng phải chính, ngược với lý của không vô ngã, không gọi là gần gũi mê.

Hỏi: Sân, mạn, ghét diệt, đạo, có thể được thân mê, gần gũi mạn diệt, đạo, vì sao được gần gũi mê.

Đáp: Luận nói: Tham, sân, mạn ba kiến, nghi đều sinh, tùy theo nên như kia, tham hai kiến câu nên được thân mê phẩn y đối trị hiện tiền, không lợi ích cảnh.

Tây Minh hỏi: Phẩn tức là duyên theo diệt, vì sao đây nói nương theo cảnh hiện tiền?

Giải thích rằng: Theo nhiều làm luận, luận này, Hiển Dương đều nói duyên theo hiện tiền, thật cũng duyên theo diệt. Nay nói giải thích này có trái với văn sau, sư trước mười chung không duyên theo trên, sư sau ghen ghét v.v… cũng duyên theo trên không nói phẩn còn không duyên trên, vì sao duyên theo diệt. Sau thừa nhận ghen ghét v.v… gần gũi mê muội diệt đạo, không nói phẩn này duyên theo diệt đạo. Nếu như vậy chuẩn theo sau nói phẩn cũng duyên theo sát-na quá khứ, chẳng phải chỉ cảnh hiện tiền. Nay vì sao nói hiện tiền? Nếu thấy oan gia nói diệt đạo v.v… đâu không phải ở nơi kia cũng khởi phẩn ư?

Từ Ân giải thích rằng: Thừa nhận cũng không lỗi, đây thành tựu tướng thô. Nói không phải gần gũi duyên tức là sân tuy nhiên chưa thấy chánh văn, mặc tình lấy bỏ. Nhưng Tây Minh nói: Phẩn cần phải nương gá bản chất, chuẩn theo tức là được duyên theo sát-na quá khứ cũng không chỉ nương gá ở nơi bản chất.

Hỏi: Siểm cuống chỉ định ban đầu, định ban đầu ý thọ mà nói là hỷ, căn vui vẻ gọi là lạc, vì sao siểm cuống được cùng với lạc đồng thời?

Đáp: Chỉ căn vui vẻ gọi là chánh lạc, là ý tương ưng hỷ, nên được cùng hợp nhau.

Hỏi: Trong địa ngục nghiệp tướng đều hiện, vì sao có nói đối cùng với khổ đồng thời?

Đáp: Tuy nghiệp tướng hiện mà cùng khởi nói dối, lại kiểm luận Thập Địa, địa ngục có nói dối nghiệp đạo chăng?

Hỏi: Phẩn v.v… nương theo phần sân, sân được thân biên đồng thời phẩn v.v… vì sao không như vậy?

Đáp: Vì thô tế khác nhau.

Hỏi: Phẩn v.v… thô mạnh mẽ đều khởi gọi là chủ, cùng với mạn

v.v… đều đâu còn tên chủ?

Đáp: Vì tự loại chẳng phải đều nói là chủ.

Hỏi: Năm thức được pháp tự tướng, vì sao được cùng với phân biệt hoặc đồng thời?

Đáp: Tự không phải phân biệt, do tha dẫn sinh, chứng được cảnh rõ ràng, nên được tự tướng.

Hỏi: Tán loạn v.v… vì sao được cùng với định hợp nhau?

Đáp: Trong muội định tâm thảm ưu, nên cùng được tương ưng, lại tham sân chuyên chú duyên theo cảnh, cũng có nhiễm định, nên tán loạn hợp nhau.

Luận: Tùy theo sức của sở y duyên chung riêng hoặc.

1. Tùy theo sở duyên y kia, ở nơi bốn Đế, chung riêng hoặc khởi, như phiền não kia đều thông với bốn Đế.

2. Mê Đế phiền não hoặc y hoặc duyên, chia thành bốn câu, hữu y một Đế duyên nhiều, hữu y nhiều duyên một, hữu y một duyên một, hữu y nhiều duyên nhiều, hành tướng tư chuẩn theo, tùy hoặc tùy theo kia.

Hỏi: Từ đâu mà nói đoạn?

Đáp: Tùy theo sở y duyên, đều không ngăn ngại.

Luận: Vì một môn chuyển. Tây Minh nói: Một ý căn môn chuyển, nay cho rằng không đúng, đã có sắc căn, vì sao không phải y chuyển? Tức là nên giải thích rằng: Do không phải năm thức, không làm ra là giải thích, lại không phải nhân khác. Nếu nói do mê muội khinh suất, định tức là rõ ràng rộng rãi, vì sao không nương theo năm sắc căn môn kia? Lại văn sau nói rõ năm câu ý, chẳng phải chuyên là rõ được sở duyên của năm thức, lại đối với sở duyên kia, có thể rõ ràng thủ, nên biết một môn chuyển, rõ ràng chỉ một ý thức, nếu một căn môn, nên nói nương theo một môn chuyển.

Luận: Như cái triền khác, Yếu Tập ghi: Có thuyết nói không lập lượng, Tây Minh có hai lượng:

1. Thùy miên chẳng phải không có dụng của thể vì là cái triền, như cái triền khác, nay cho rằng lượng này cũng một phần trái với lỗi của tông vì sao? Thùy miên giả thật thông với tâm, nay nếu thành lập giả thùy có thể, tức là trái với lỗi của tông, giống như nói không lựa ra, lập lượng nên nói, thật thùy miên chẳng phải địa vị của vô tâm, nhân, dụ có thể biết, nói thật thùy miên lựa ra địa vị vô tâm giả gọi là thùy miên, không hiển bày có riêng thật thể, do Luận sư Kinh bộ xúc, thọ, tưởng bên ngoài, cùng tư phần vị đều là gia, chấp lấy dụ của cái triền, tức là có một phần sở lập chẳng thành, ý lựa ra Luận sư Kinh bộ, ở địa vị vô tâm, thật lập ra thùy miên.

2. Lại lượng rằng: Thật thùy miên là tâm tương ưng, nhân, dụ có thể biết. Trong luận thứ hai tông pháp nhân, dụ dưới an ổn, trong văn chữ “cho nên” lẽ ra cái triền dưới chấp trước, là nhân cần có, tánh tướng là văn, chẳng nương theo thứ lớp. Trước nói Hữu vô tâm vị là lập lượng nên nói chẳng phải vô tâm vị, trong văn lược không phải hữu pháp trong tông, văn trước đã nói rõ ràng, nên lược không nói. Sớ ghi: Chẳng phải tức là vô tâm, nhất định là tâm sở, là tông pháp thứ hai, như cái khác tức là chỉ cho dụ. Lại nói: Chẳng phải pháp của vô thể, là tông pháp thứ ba, tỷ lượng chuẩn theo mà biết, nên lược không đầy đủ, nhưng trong văn của luận hai câu ban đầu sơ có các thứ trái, hai câu sau phá Dị thục.

Luận: Phi tư tuệ tưởng triền tánh kia, Sớ như lượng ban đầu nói, nhiễm tư tuệ một phần là hối, nhiễm tư tưởng một phần là miên, nên chẳng phải làm tánh của triền vì là tư tuệ tưởng. Lượng thứ hai làm ác tác v.v… một phần chẳng phải nhiễm tư tuệ tưởng là hữu pháp, chẳng phải ác tác v.v… tánh của hai pháp kia là tư tuệ tưởng.

Yếu Tập ghi: “Có thuyết nói giải thích ban đầu ít không thuận theo văn. Văn nói chẳng phải tư tuệ tưởng là tông pháp, chẳng phải là hữu pháp, cũng chẳng phải nhân”. Nay cho rằng giải thích ban đầu cũng không có lỗi, vì tánh tướng là văn. Vả lại trừ đi chữ “phi” thêm một chữ “nhiễm”, nói một phần của nhiễm tư tuệ tưởng làm hối miên làm hữu pháp chấp lấy chữ “phi” ban đầu và chữ “triền tánh” tức là tông pháp, chấp lấy chữ tư tuệ tưởng trước là chữ “tánh cố” sau làm nhân. Văn nói kia tức là tịnh Vô ký tư tuệ tưởng, vì tông hữu pháp chấp lấy nương theo nhiễm tư tuệ tưởng, hối miên, đồng dụ chấp lấy chẳng phải hối miên ngoại trừ tư tuệ tưởng. Nhân nói tánh của tư tuệ tưởng chung thông suốt với tông, nêu đều đầy đủ.

Luận: Suy lường không sâu và suy lường sâu.

Sớ phần đầu ghi: “Không thâm sâu tức là không phải suy lường, vì Đối Pháp nói không phải suy lường”.

2. Tuy không như tuệ có suy lường thâm sâu, cũng suy lường cạn cợt hợp với Đối Pháp. Nói không phải suy lường là không phải suy lường thâm sâu. Yếu Tập ghi: “Tuy có hai lời hợp làm giải thích ban đầu, trái với văn của Đại luận”. Nay cho rằng đoạn này quá mạnh mẽ ư? Vì hợp với thuyết của Đối Pháp đồng với luận Du-già, theo đâu mà nói là trái? Tây Minh thứ nhất nói khi tầm, tứ không phải suy lường, thì chỉ tư là tánh, vì không phải tuệ, lúc suy lường thâm sâu cho tuệ là tánh giải thích này chính là trái với luận Du-già đã nói, không phải nói suy lường thâm sâu. Thứ hai nói tầm, tứ ắt sẽ dụng hai pháp, giả hợp làm tánh, nghĩa là một sát-na hai dụng đều khác nhau, không phải suy lường sâu xa là dụng của tư, suy lường sâu xa là dụng của tuệ, nghĩa này không rõ, tầm tứ không đồng thời, vì sao hai dụng phần của một sát-na, không suy lường thâm sâu, nếu cho rằng lúc tầm có tư, lúc tứ có tuệ, trái với luận đã nói. Nếu nói lúc khởi tầm hoặc lúc khởi tứ đều nương theo tư, tuệ hai pháp, phần của dụng, tầm tứ khác gì? Nên biết tầm suy lường cạn cợt, tư suy lường thâm sâu, nên luận này nói thô chuyển tế chuyển.

Lại nói: Hai loại đều khác nhau. Lại quyển trước suy lường cạn cợt, thâm sâu thô tế phát ra lời, tuy đều nương theo hai loại, lúc tầm tư tăng gọi là không phải suy lường sâu, lúc tư tuệ tăng gọi là suy lường cạn. Nên luận Ngũ Uẩn ghi: “Tìm cầu ý nói tư, tuệ sai biệt, khiến cho tâm thô là tánh, tứ quán sát ý nói, tư tuệ sai biệt, khiến cho tâm tế làm tánh. Luận này lại ghi: “Tư tuệ hợp thành mà luận”. Hiển Dương ghi: “Tầm hoặc do tư đối với pháp tạo tác, có lúc do tuệ ở nơi pháp suy cầu, căn cứ theo tướng tăng mà nói, tư tạo tác thù thắng, tuệ suy lường thù thắng. Luận Du-già quyển 5 cho rằng, không phải sở duyên suy lường thâm sâu, tư làm thể tánh, căn cứ theo tầm mà nói, nếu sở duyên suy lường sâu xa thâm sâu làm thể tánh, căn cứ theo tứ mà nói đều theo tăng thêm. Thật tầm tứ cả hai đều nương theo tư tuệ. Nếu như vậy vì sao Tạp Tập Luận quyển 1, tầm tư đều nói suy lường, không suy lường?

Đáp: Căn cứ theo ý của luận này, giải thích luận kia rằng: Tầm nói suy lường, suy lường cạn cợt, không suy lường là không thâm sâu, tứ nói suy lường là thâm sâu, không suy lường là cạn cợt.

Hỏi: Nếu như vậy khi tứ suy lường cạn cùng với tầm khác gì? Lại vì sao luận này nói không thâm sâu và suy lường thâm sâu khác nhau?

Đáp: Tứ nói không suy lường, trông mong tầm còn thâm sâu, chỉ mong tự tứ tuệ tăng thêm suy lường sâu, tư tăng không phải suy lường sâu nên cũng không có lỗi. Nên Tạp Tập Luận tầm tứ đều nói: Nương theo tư nương theo tuệ, đối với địa vị suy lường không phải suy lường, như thứ lớp không được riêng, vì suy lường cạn phối hợp với tầm, suy lường sâu phối hợp với tứ.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao luận Tạp Tập lại ghi: “Tầm tứ hai thứ tướng loại của hành tướng”, cho nên thô tế kiến lập sai biệt?

Đáp: Cũng không trái nhau, tầm tứ đồng thời, đối với ý nói suy lường tướng loại của hành tướng, chẳng phải ở tướng loại cạn sâu thô tế, luận kia theo thô tế của tha dụng mà kiến lập, luận này căn cứ theo tự hành tướng. Luận này cũng nói, tầm khiến cho tâm thô chuyển, tứ khiến cho tâm tế chuyển, đều căn cứ theo một nghĩa, tận lý nên nói, tầm tứ đối với cảnh suy lường cạn sâu, khiến cho tâm ở nơi cảnh thô tế mà chuyển, như sai biệt dưới đây.

Luận: Tầm tứ cùng thức câu bất câu môn.

Sớ ghi: Tự tánh có hai:

1. Tầm tứ không làm thể, tức là Tạp Tập luận quyển 2 đã nói tự tánh phân biệt, tức là bảy thứ phân biệt, tướng của Trung hữu phân biệt.

2. Chẳng phải tầm tứ làm thể tức là luận này thứ năm và Nhiếp luận quyển 1 thừa nhận năm thức có tự tánh phân biệt, nhưng không thừa nhận có tùy niệm, kế độ phân biệt.

Hỏi: Luận không nói năm thức, Trung hữu, tự tánh phân biệt, chỉ phá ý thức khác nên không phải hai loại tùy niệm, kế độ chăng?

Đáp: Luận tuy không nói năm thức có, nhưng phá không thừa nhận có tùy niệm, kế độ, ý tức là thừa nhận có tự tánh phân biệt, nếu

không như vậy vì sao hai luận đều phá hai thức phân biệt. Nhiếp không vặn hỏi tự tánh, lại có hai nghĩa: một là nương theo biến nghĩa, tức là luận Du-già nói có phân biệt chẳng phải tầm tứ. Và Duy Thức Luận, Nhiếp luận thừa nhận năm thức có tự tánh phân biệt. Hai là bất biến nghĩa, tức là luận Du-già nói nghĩa là các tầm, tứ nhất định là phân biệt. Đối Pháp căn cứ theo ba loại phân biệt này nói rằng: Chỉ một ý thức do ba phân biệt nên có phân biệt. Lại luận Du-già quyển 5 ghi: “Hoặc có phân biệt chẳng phải tầm tứ”, nghĩa là mong thế gian trí, được tất cả ba cõi tâm, tâm sở khác, đều là phân biệt mà chẳng phải tầm tứ, tức gọi là phân biệt, lại chẳng phải tầm tứ, nếu chẳng phải tự tánh gọi là phân biệt, đâu do loại khác ư? Không phải định chấp hai luận, tự tánh tức là tầm tứ, thừa nhận năm thức kia có, chỉ là tùy chuyển, tuy phá Tiểu thừa, không phải luận nói.

Hỏi: Tức là căn cứ theo tự tánh, tám thức đều có mặc tình phân biệt Thức thứ bảy thứ tám vì sao không có?

Đáp: Căn cứ theo Tam thừa không nói Thức thứ bảy, thứ tám.

Hỏi: Bảy phân biệt nghĩa nó như thế nào?

Đáp: Lược ba môn rõ ràng:

  1. Liệt kê tên
  2. Nêu ra thể
  3. Các môn

Liệt kê tên, luận Du-già quyển 1 ghi: “Nghĩa là Hữu tướng phân biệt, Vô tướng phân biệt, Nhậm vận phân biệt, Tìm cầu phân biệt, Tự sát phân biệt, Nhiễm ô phân biệt, Bất nhiễm ô phân biệt”. Luận Tạp Tập quyển 2 cũng có bảy phân biệt, tên đồng với luận Du-già, nhưng Nhậm vận phân biệt được liệt kê thứ nhất, còn lại nương theo thứ lớp. Nêu ra thể, luận Du-già quyển đều lấy tầm tứ làm thể, nên luận Du-già quyển 5 ghi: “Tầm tứ sai biệt, có bảy thứ sai biệt tức là bảy phân biệt”. Lại nói: “Các tầm tứ đều sai biệt, có phân biệt chẳng phải tầm tứ”, nghĩa là mong trí xuất thế, còn lại tất cả ba cõi, tâm, tâm sở. Nếu Đối Pháp có bảy thứ trừ nhậm vận, còn lại cũng tầm tứ làm thể, nên Đối Pháp quyển 2 lấy ba nhiếp bảy trừ nhậm vận, đều do ba loại nhiếp. Ba loại chỉ có Thức thứ sáu, tức là luận Du-già quyển 1 ý không cùng nghiệp tầm tứ làm thể; nhậm vận một loại. Luận này tổng hợp: Tức là năm Thức. Đối Pháp lại ghi: “Nghĩa là năm thức thân, tức là năm thức làm thể của nhậm vận, ba phân biệt thể, tùy niệm, kế độ cũng tầm tứ làm thể”. Tự tánh một loại, có hai thuyết, chuẩn theo Tạp Tập Luận chỉ ở ý thức, tức là tầm tứ làm thể, chuẩn theo Nhiếp luận chỉ thức thừa nhận năm thức có, nếu tùy chuyển môn cũng lấy tầm tứ làm thể, nếu nghĩa của chân thật, tức là năm thức làm tánh. Trên là từ tướng chung nêu ra, nếu riêng nêu ra thể, rộng như Từ Ân, Đối Pháp, Sớ giải thích rõ.

Các môn phân biệt: Một là căn cứ theo ba, bảy tướng nhiếp; hai là căn cứ theo thức, địa hữu vô; ba là lậu Vô lậu; bốn là nương theo hỏi đáp phân biệt.

Tướng nhiếp có hai: Một lấy ba nhiếp bảy; hai lấy bảy nhiếp bảy. Lấy ba nhiếp bảy có hai: một Nhiếp luận Tạp Tập bảy, hai Nhiếp luận Du-già bảy. Nhiếp luận Tạp Tập bảy là trước hiển bày ba hành tướng phân biệt, sau mới nói rõ nhiếp.

Luận Tạp Tập ghi: “Tự tánh phân biệt”, nghĩa là ở hiện tại đã thọ tự các hành, tự tướng, hành phân biệt. Tùy niệm phân biệt nghĩa là ở quá khứ đã thọ các hành, nhớ lại hành phân biệt, kế độ phân biệt nghĩa là ở quá khứ, vô lượng nay không phải hiện tại, kiến, sự, tư cấu hành phân biệt, ban đầu nương theo tự tướng của cảnh hiện tại mà duyên, kế duyên theo quá khứ, sau thông với ba đời, ở nơi cảnh sở duyên, tướng khác phân biệt. Kế nói rõ nhiếp, nương theo bất biến hành tướng, ba phân biệt trong luận Tạp Tập không nhiếp Nhậm vận. Luận kia giải thích nhậm vận nghĩa là năm thức thân, nói rõ ba phân biệt, chỉ ý thức, luận kia nói rằng ở trong sáu thức có bao nhiêu phân biệt?

Đáp: Chỉ một ý do ba phân biệt nên có phân biệt, là đây không nhiếp một loại đầu trong bảy loại. Hữu tướng một loại tức là tự tánh, tùy niệm hai phân biệt nhiếp, vì tự tướng duyên theo hiện tại, tùy niệm duyên theo quá khứ, hữu tướng một loại đồng nương theo quá khứ, hiện tại, nên hai loại này nhiếp. Luận kia nói: Hữu tướng phân biệt nghĩa là tự tánh, tùy niệm chấp lấy các thứ tướng cảnh của hiện tại. Ý này do hữu tướng các thứ tướng cảnh của hiện tại. Hai thứ nhiếp kia, vô tướng phân biệt chỉ duyên theo vị lai kế độ phân biệt đồng duyên theo ba đời. Văn tuy không nói cùng ba tướng nhiếp thật kế độ nhiếp, vì duyên theo vị lai chẳng phải hai nhiếp ban đầu, tiểu phần của kế độ nên kế độ nhiếp, bốn thứ sau đều là kế độ nhiếp. Luận kia giải thích rằng: Còn lại phân biệt đều là dụng kế độ phân biệt cho là tự tánh, vì sao? Vì tư độ, có lúc tìm cầu, có lúc tư sát, có lúc nhiễm ô, hoặc bất nhiễm ô, trong ba thứ căn cứ theo chung hợp làm một, trong bảy thứ căn cứ theo riêng nên lìa làm bốn, lấy đây làm chuẩn mà biết. Bốn thứ sau đều đồng duyên theo ba đời chỉ là tầm tứ. Luận kia ghi: “Vì tư độ nên ba thứ không định trước, rộng hẹp mà nói, bảy thứ rộng ba thứ hẹp”. Căn cứ theo biến hành tướng, Duy thức v.v… ghi: “Nhậm vận tức là thuộc về tự tánh, Hữu lậu, tâm, tâm sở nhân xoay vần lấy cảnh Vô lậu khác, gọi là phân biệt”. Tâm, tâm sở này vốn tự tánh, nên gọi là tự tánh, tự tánh tức là phân biệt. Lại nói tự tánh cũng thông với cảnh mà nói.

Luận Tạp Tập ghi: “Như tướng của sở duyên, không phải phân biệt khác. Ở nơi tự cảnh giới mặc tình chuyển, tức là phân biệt của tự tướng, gọi là tự tướng phân biệt”, nên biết nhậm vận cũng là tự tánh nhiễm, kế ba thứ nhiếp bảy thứ của luận Du-già kia, nương theo bất biến tương ưng, chỉ là ý thức. Bất cộng nghiệp, tức là hoàn toàn tướng nhiếp vì ba, bảy thứ đều dùng hai pháp tầm tứ làm thể, tức là tầm tứ đều phân biệt cú, hữu tướng tức là tùy niệm nhiếp. Luận Du-già giải thích hữu tướng rằng: “Ở trước đã nhận nghĩa, các căn thuần thục, khéo đặt tên”, ở trước tức là duyên theo cảnh quá khứ, nên tùy niệm nhiếp, vô tánh tức là tự tánh và tùy niệm nhiếp, duyên theo quá khứ, hiện tại, nên luận kia ghi: Vô tướng phân biệt nghĩa là tùy theo sở dẫn trước và anh nhi v.v… không khéo đặt tên là sở hữu phân biệt; nhậm vận phân biệt cũng tự tánh nhiếp, vì duyên theo hiện tại. Nên luận kia ghi: “Tùy theo thế lực của cảnh mặc tình mà chuyển sở hữu phân biệt, nên tự tánh nhiếp”. Bốn thứ còn lại đồng với trước kế độ nhiếp, đồng duyên theo cảnh. Nương theo tướng của biến hành, ít phần của tự tướng nhiếp nhậm vận, tức là luận Du-già quyển 5 đã nói, hoặc có phân biệt chẳng phải câu của tầm tứ. Kế do bảy thứ nhiếp bảy thứ vì luận Tạp Tập bảy thứ nhiếp bảy thứ của luận Du-già, nhậm vận của luận Tạp Tập không nhiếp luận Du-già, chẳng phải tầm, tứ; ít phần của tự tướng, nhiếp hữu tướng của luận Du-già, nó duyên theo quá khứ, hiện tại. Hữu tướng của luận Du-già chỉ duyên theo quá khứ, luận nói rằng nghĩa là trước đã nhận nghĩa, tức là nói trước thọ, nên chỉ quá khứ, hoặc thông với hiện tại, quá khứ. Luận ghi: “Ở trước đã nhận nghĩa, các căn thành thục khéo đặt tên” là đã khởi phân biệt, loại của trước thọ cũng nói: Thành thục khéo tên lời là sở khởi phân biệt, loại của thọ trước gọi là thọ trước tức là hoàn toàn nhiếp. Vô tướng nhiếp ít phần của tướng kia, luận Du-già đồng duyên với đời, luận Tạp Tập chỉ có vị lai, hoặc vô tướng của luận Du-già cũng là hữu tướng của luận Tạp Tập được nhiếp. Luận kia giải thích rằng: Tùy theo trước sở dẫn, và anh nhi v.v… không phải tên của thiện là được hữu phân biệt, nhưng căn cứ theo thiện bất thiện chia ra hữu vô tướng, duyên theo cảnh không khác, hữu tướng nhiếp trước giải thích là thù thắng, nhậm vận căn cứ đồng nhiếp với ít phần kia, vì nương theo tầm, tứ và tự tánh phân biệt.

Căn cứ theo bất biến mà nói, nhậm vận phân biệt của luận Tạp Tập không nhiếp nhậm vận của luận Du-già, vì thể tánh khác nhau, còn lại đều như tên tự loại nhiếp nhau, nói không khác nhau. Căn cứ theo thức, địa phân biệt, ban đầu theo thức, sau theo địa, theo thức rõ ràng, vả lại ba thứ phân biệt căn cứ theo tướng của biến hành, tự tánh phân biệt thông với tám thức hữu. Kế độ phân biệt thông với sáu thức, bảy thức, tầm, tứ là thể, Thức thứ bảy không có, hằng thẩm tư lương hư vọng kế độ Thức thứ bảy có, nếu không như vậy chấp ngã là phân biệt gì? Thể chẳng phải tầm, tứ mà nương theo tư tuệ, lập ra phân biệt này, hành tướng của bất biến chỉ ở Thức thứ sáu, như luận Tạp Tập nói chỉ Thức thứ sáu, lại không thông với loại khác. Bảy thứ trong luận Tạp Tập, nhậm vận phân biệt tức là thông với Thức thức năm, thứ tám, còn lại chỉ Thức thứ sáu. Trên căn cứ theo phi biến, biến hành tướng là chẳng phải các phân biệt đều là tầm, tứ làm thể, luận Du-già quyển 5 ghi: “Có phân biệt chẳng phải tầm tứ, hữu tướng cũng duyên theo hiện tại, lại nhiếp theo tự tánh có thể thông với sáu thức, nhậm vận tức là duyên theo cảnh hiện tại, đồng với tự tánh, có thông với bảy thức, chỉ trừ Thức thứ bảy, vì thường hằng kế độ”. Năm thứ ở nơi Thức thứ sáu trừ một thứ vô tướng, bốn thứ còn lại thông với Thức thứ bảy vì kế độ nhiếp. Căn cứ theo giải thích của luận Du-già, hành, cảnh không trái với Thức thứ bảy, bảy thứ trong luận Du-già, hành tướng của bất biến chỉ Thức thứ sáu, nói là bất cộng nghiệp của Thức thứ sáu. Nếu biến hành tướng, hữu tướng, vô tướng là cảnh chợt hiện dẫn đến Đẳng lưu, gọi là thọ sinh trước, tùy theo sở dẫn trước tức là hữu tướng, vô tướng, nhậm vận nhiễm ô và bất nhiễm ô thông với sáu thức trước. Nếu là cảnh của quá khứ gọi là sở thọ trước, tùy theo sở dẫn trước tức là trừ hai thứ đầu không thông với năm thức, ba thứ thông với năm thức, nhiễm ô đồng duyên theo cảnh của ba đời. Đối với cảnh hiện tại chấp trước, đều hành khởi phân biệt, hoặc tùy theo cùng một bản tùy phiền não, tương ưng đã khởi pháp chấp, tức là thông với trong năm thức có chấp trước đều hành đã khởi phân biệt, nên thông với năm hữu, cùng với tín v.v… đều gọi là bất nhiễm ô, nên cũng thông với năm thứ. Nương theo địa phân biệt, chuẩn theo cuộc hành tướng tầm, tứ làm thể thì trói buộc cõi Dục và quả Sơ thiền, nếu căn cứ theo y khởi được thông với năm địa, trên được khởi pháp tầm, tứ dưới, chín thứ nhuận sinh tâm dung chứa đều khởi. Nếu thông với hành tướng chuẩn theo sở y thức, tùy theo địa hữu vô, lậu Vô lậu phân biệt là chuẩn theo luận Du-già quyển 5, các phân biệt đều Hữu lậu.

Luận: Nghĩa là mong trí xuất thế, còn lại tất cả ba cõi tâm, tâm sở đều là phân biệt.

Lại giải thích, hoặc thông với Vô lậu. Nói mong trí xuất thế là căn cứ theo Vô phân biệt trí gọi là xuất thế hậu trí tức gọi là thế xuất thế gian trí, vì duyên theo thế tục nên cũng gọi là thế gian, tức là như kinh luận nói khởi tâm thế gian là phải tức gọi là phân biệt. Chánh tư duy ở nơi nhân dùng tầm tứ làm thể, luận Biện Trung Biên gọi là phân biệt chi, Đại luận lại ghi: “Các tầm, tứ đều phân biệt, nên thông với Vô lậu”.

Nương theo hỏi đáp phân biệt, hỏi: Chuẩn theo luận Du-già quyển 1, tầm tứ là ý nhiếp bất cộng nghiệp bảy thứ phân biệt tầm tứ làm thể, vì sao được thông với thức khác địa khác?

Đáp: Căn cứ theo luận Du-già quyển 5 ghi: “Nếu tầm tứ đều phân biệt có phân biệt chẳng phải tầm tứ”, chuẩn theo hai câu này, chỉ nói tầm tứ nhất định là bảy phân biệt, không nói bảy phân biệt đều nhất định là tầm tứ, nếu không như vậy làm câu trả lời như thế này, do có phân biệt chẳng phải đều tầm tứ. Nhiếp luận, Duy thức thừa nhận một thứ tự tánh thông với sáu thức hữu. Luận Tạp Tập thừa nhận nhậm vận phân biệt tức là năm thức thân, nếu không như vậy thì trái nhau.

Hỏi: Giả sử nếu phân biệt đều là tầm tứ, lỗi gì không thừa nhận?

Đáp: Một là trái với thuyết của luận, có phân biệt chẳng phải tầm tứ, lại có ba lỗi: một là địa không biến đổi, hai là thức không biến đổi, ba là hành không biến đổi, không biến đổi chín địa. Hai là ở trong địa không biến đổi thức, ba là ở trong thức không biến đổi hành, không phải tầm tứ thì chẳng phải phân biệt.

Hỏi: Ba, bảy phân biệt cùng với trong năm pháp phân biệt khác gì?

Đáp: Căn cứ theo tướng biệt hành, trong năm pháp phân biệt rộng, thông với các Hữu lậu, ba, bảy phân biệt chỉ Thức thứ sáu đồng thời hai pháp tầm, tứ và năm thức nhãn v.v… nếu thông với hành tướng, ba, bảy, năm pháp rộng hẹp tương tợ nhau, hoặc, ba, bảy hẹp, thông với Vô lậu.

Lại năm pháp phân biệt nghĩa chung, ba bảy phân biệt nghĩa riêng.

Luận nói: Tợ như ưu nên nói chung là ưu.

Hỏi: Luận quyển 5 ghi: “Có phân biệt nên ưu, không phân biệt nên khổ”, làm sao được nói tợ như ưu?

Đáp: Phân biệt trước chẳng phải phân biệt, vả lại căn cứ theo sáu thức thì năm vô sáu hữu, cùng hiển bày nên nói ở trong ý thức phân biệt ý thức, được cùng với khổ ưu đồng thời, đều phân biệt nên cùng theo tên ưu.

Luận: Vì danh thân v.v… nghĩa là cảnh, lấy luôn cú, văn, nghĩa thông với hai loại: một là cảnh nghĩa; hai là đạo lý nghĩa, tức là nhận lấy tên gọi v.v… và nghĩa của sở thuyên, đều là cảnh của ý, chẳng phải năm thức duyên, căn cứ theo chưa tự tại nhưng văn tức là tự, chẳng phải chánh năng thuyên, làm hai sở y, nương theo mà nói, có nghĩa của năng thuyên, các luận chỉ nói danh thuyên tự tánh, cú thuyên sai biệt, không nói riêng tự là năng thuyên.

Luận: Trong bốn Vô ký, hối chỉ có trong hai.

Hỏi: Dị thục, thông quả, đều dung chứa được khởi oai nghi, công xảo, hối tức là dung chứa đồng thời trong hai tánh, nên thông với bốn thứ?

Đáp: Tuy cõi Sắc khởi thần thông, tâm đến chỗ Phật, khởi thân oai nghi và ngữ công xảo, lại bậc Thánh khởi thần thông quả tâm, nói năng co duỗi không làm lợi lạc, đều là Vô ký, đây đều là cõi trên và Dị thục tâm khởi, chẳng phải riêng lẻ bốn Vô ký, nên đều không đồng thời. Nay căn cứ theo riêng lẻ khởi oai nghi công xảo, dung chứa cùng với hối đồng thời.

Hỏi: Hối chẳng phải nhiễm Vô ký đồng thời, như Sở tri chướng mong Bồ-tát, người tức là nhiễm ô, đâu chẳng phải kia đồng thời.

Đáp: Căn cứ theo Phiền não chướng chẳng phải nhiễm Vô ký, nương theo Sở tri chướng thông với nhiễm Vô ký, nên không trái nhau, nhất định luận tầm tứ mười một đồng thời, tăng thêm khinh an.

Sớ ghi: Nói người nói: Tam Tạng nói Tây phương có hai thuyết:

1. Vị chí định có tầm tứ, chẳng phải Căn bản địa, nếu không như vậy tầm tứ chỉ chẳng phải Vị chí, luận có thật văn, sơ thiền. Ý này không phải là không thừa nhận tầm tứ thông với cận phần địa, nhưng nói lập ra thiền chi, không nương theo cận phần, phá vọng kia truyền Tam Tạng. Nói rằng Tây phương có hai giải thích:

2. Tầm, tứ lúc Vị chí định chẳng phải Căn bản địa, các đức không phải thảy đều vọng bài xích, nên tầm đây nói rõ được gốc là chân.

Hỏi: Vì sao được biết, Tĩnh lự chi lập ra chỉ nương theo Căn bản?

Đáp: Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: “Lìa pháp dục, ái bất thiện, hữu tầm hữu tứ ly sinh hỷ lạc sơ thiền cụ túc trụ”. Giải thích rằng: Cụ túc nghĩa là tu tập viên mãn, trụ nghĩa là ở nhập trụ xuất, tùy theo ý tự tại, nếu các chi này ở cận phần lập ra, vì sao gọi là viên mãn xuất nhập tự tại, nếu phần hữu cũng được lập chi, Vô sắc nên lập, vì sao quyển của luận Đối Pháp không nương theo Vô sắc, nên chỉ là căn bản.

Luận: Lại nói kia là nói nhân, giải thích như Sớ.

Tây Minh giải thích rằng: Chính dẫn thỉnh văn thứ nhất trong mười địa trong ba thỉnh. Trường hàng giải thích rằng: Chỉ khen ngợi tịnh giác, tịnh giác là nói nhân, giác gọi là giác quán, tức là khẩu ngôn hành.

Tam Tạng giải thích rằng: Nên nói tầm tứ, nói giác quán là nhà giải thích sai lầm. Nay sư Hộ Pháp dẫn làm thật chứng, e rằng truyền bá sai lầm, vì sao? Luận chủ của Sớ nói đích thân theo ngài Tam Tạng nói: xét bản tiếng Phạm nói Tăng-ma-đằng-ba, chỉ là tư duy, không có chữ “chánh”, huống gì là tầm nói giác là giác quán, đây nói giác là quán, nhà giải thích tăng thêm. Nay Tây Minh nói: Tam Tạng giải thích rằng, nên nói tầm tứ, nói giác quán là nhà giải thích sai lầm, kinh chỉ nói tịnh giác, giác tức là tầm, vì sao được nói sẽ nói rằng tầm tứ, nên biết truyền sai lầm?

Hỏi: Giả sử chỉ là quán, quán tức là tầm, tầm là nhân của ngữ, Luận sư sau vì sao không phải dẫn làm chứng?

Đáp: Thể hánh tư duy có hai loại: Một thông với bộ nhân quả của Nhị thừa, và nhân hậu đắc vị của Đại thừa, thể liền chỉ là tầm; hai là chỉ có Đại thừa, và nhân quả Hậu đắc, thể tức là tư và tuệ. Luận Du-già quyển 2 ghi: “Nếu tâm hướng đến nhập vào các chỗ tầm tứ, chỉ tầm tứ kia như vậy tướng trạng đã có tầm tứ. Cho đến nói khởi lên thiện tư duy, phát khởi các thứ như pháp ngôn luận, là gọi chánh ngữ”. Chánh ngữ là quả tư duy ngữ nhân. Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: “Tìm cầu cực tìm cầu hiện tiền tìm cầu giác liễu, tính toán quán sát, tư duy tánh của tư duy”. Lại luận Du-già 2 ghi: “Nếu được kia rồi dùng tuệ để an lập, như chứng mà giác ngộ, lập chung hai loại này, gọi là chánh kiến”, chuẩn theo biết đây đồng thời chánh tư duy chi, đều là thể ban đầu. Luận Đối Pháp quyển 10 nói tuệ uẩn nhiếp chánh kiến, chánh tư duy, chánh cầu. Quyển 8 ghi: “Nếu ra khỏi thế gian lấy chánh trí làm tự tánh, trừ các giới chi, an lập chẳng an lập Chân như làm sở duyên”.

Luận Du-già 2 ghi: “Do tám chi nhiếp hành tích chánh đạo, có thể không đoạn được tất cả phiền não khác, có thể ở nơi giải thoát, cứu cánh làm chứng quả, nên gọi là tám chi Thánh đạo”, nên biết trong đây, nếu giác chi thời được chân giác, địa vị căn bản này nếu được kia rồi, lấy tuệ để an lập như chứng mà giác ngộ. Hậu đắc vị này nói: Như chứng mà giác ngộ, những thứ này đều là thể của tám chi sau, không nói tầm. Sư sau nương theo Đại thừa thông với nhân quả bản sau, chánh tư duy chi chẳng phải là tầm, nên sở dĩ không dẫn.

Hỏi: Thân, ngữ, tâm hành có biến phi biến, định thứ tư địa tuy không phải ra vào nghỉ ngơi, có tư biến hành, thân nghiệp được chuyển, ở nơi địa vị Phật quả, tức là không phải tầm, tứ, biến hành của ngữ, ngữ nên không chuyển?

Đáp: Như Sớ và Xu Yếu nói.

Hỏi: Tức là nói ngữ nghiệp lảm ngữ biến hành, định thứ hai địa trên pháp có ngữ, đồng với thân hành.

Đáp: Theo Phật có thể như vậy, ngữ không phải giả tầm, trừ Phật đã ngoài ngữ, ắt tầm dẫn trở lên không có.

Hỏi: Nói pháp hợp cơ, ngữ mượn tầm tứ, nói rộng như vậy vì sao mượn tầm tứ, giống như năm thức phần nhiều do kia khởi, cũng có năm thức chẳng phải tầm, tứ sinh ra, như Vô sắc định khởi tai nghe âm thanh v.v…?

Đáp: Hai định trở lên khởi ngữ thì khó, giống như năm thức ắt sẽ mượn tầm tứ.

Hỏi: Thân ở cõi Dục và sơ thiền, khởi ngữ thì dễ, nên đồng với năm thức.

Đáp: Ngữ đều suy luận khởi ắt sẽ tầm tứ, năm thức không như vậy nên không ví dụ. Lại nếu giải thích, cõi Dục nói rộng, hai định trở lên hoặc có ngữ ngôn, chẳng phải tầm tứ phát ra chỉ dùng tư sinh, các luận chỉ nói tầm tứ khởi, tùy theo tướng thô mà nói, như tư duy chi.

Hỏi: Chánh tư duy lấy tầm làm thể, Phật thân thiếu lỗi, các Tĩnh lự chi tức là nói tầm tứ, Phật không có lỗi, đều là công đức.

Đáp: Đạo chi chỉ Vô lậu, Phật không thể thành lỗi, thiền chi lậu vô tướng, dầu cho thiếu cũng có lỗi, nếu không như vậy tức là công đức khiến cho đầy đủ. Chư Phật sẽ thành tựu Hữu lậu thiền chi là công đức. Lại như Sớ giải thích, nương theo tư tuệ, nếu như vậy không phải thô tế, vì sao thành tựu đối trị chi?

Đáp: Cũng nương theo tư tuệ chia làm thô tế và đối trị chi, như chánh tư duy cũng không có lỗi.

Nói tâm, tâm sở, câu bất câu v.v… các môn phân biệt, rộng như Bách Pháp ngài Huyền Tán đã nói.

Luận: Làm lìa tâm thể có riêng tự tánh v.v… vốn giải thích như Sớ, Yếu Tập ghi: “Diệu âm không lập so sánh văn không được, Lănggià, Trung luận, Bách luận v.v… ngài Hộ Pháp tạo luận, không thiếu địa này, các Luận sư đã vặn hỏi, luận Trí Độ v.v… rộng nói rõ tâm sở lại người nào, hoặc có thể Hộ Pháp giả nêu ra khách và chủ?

Nay cho rằng: Bản ý nói các sư Lăng-già, Trung luận, Bách luận chẳng nói địa này, bản ý nói các sư Lăng-già, Trung luận, Bách luận

chẳng nói địa này, chỉ nói Tây quốc, như luận Lý Môn ghi: “Phá sư Cổ Nhân Minh, sư Cổ Nhân Minh không thiện, chẳng phải Vô Trước v.v…”. Luận sư Lăng-già v.v… đạo lý cũng như vậy, tuy luận Trí Độ rộng nói rõ tâm sở, ngại gì có nói tức là phần vị của tâm, như luận Trí Độ rộng nói rõ các pháp; ngăn ngại gì Thanh Biện nói Thắng nghĩa không tục vọng là có, không ngăn ngại Hộ Pháp, nương theo chấp của kia v.v…, giả lập khách chủ, khởi đầu mối hỏi đây.

Tâm viễn độc hành, Nhiếp luận tức là nói không phải thứ hai nên gọi là xúc hành, tợ nương theo nghĩa của một ý thức để giải thích, chuẩn theo dẫn vặn hỏi này, không chỉ nương theo Kinh bộ.

Luận: Sĩ phu sáu cói, giải thích như Sớ dẫn.

Hỏi: Bốn đại và tâm thể tánh có thể biết, không thể là gì?

Đáp: Căn cứ theo luận Tạp Tập quyển 2 phế lập hai mươi lăm loại sắc, nghĩa là tác sở y, tác tướng, tức là lập ra nguyên do của huýnh sắc và biểu sắc, biểu tức là co duỗi, chính là động tác, nên luận Du-già quyển 1 ghi: “Biểu sắc nghĩa là nghiệp dụng là tác, động chuyển sai biệt, tác sở y này tức là huýnh sắc kia”. Huýnh sắc là luận Tạp Tập nói: Nghĩa là lìa ngại xúc khác, phương sở có thể được”.

Hỏi: Vì sao chẳng phải không khác nói là huýnh sắc; tức là nói rằng huýnh sắc lại vì sao gọi là không?

Đáp: Sĩ phu giới chẳng phải hư không, hư không lìa ngại xúc, phương sở lại gọi là không.

Hỏi: Nếu nhận lấy huýnh sắc, huýnh sắc tức là lìa bốn đại hữu, vì sao bộ khác nói chỉ bốn đại thông lập ra sở tạo?

Đáp: Vì kia không rõ, tông chấp khác, không thể chê trách, Kinh bộ có sư không lập ra tâm sở. Đại thừa nói khác cũng lại đồng với luận kia, cùng dẫn kinh này, không phải chỉ Kinh bộ, luận Du-già chỉ nói: “Có một Sa-môn hoặc Bà-la-môn”, muốn khiến cho trong tên gọi chỉ tâm thật có chẳng phải các tâm sở, hoặc cũng giả nêu ra, chẳng phải nhất định luận kia vặn hỏi.

Luận: Nương tựa thế tục này hoặc nương theo thắng nghĩa v.v… vốn giải thích như Sớ.

Yếu Tập ghi: “Định này không nương theo tục thứ nhất, Chân như ba, chân tục thứ tư, thức tâm, tâm sở nói rõ sai biệt”. Văn sau các chân tục đối nhau mong thứ tư, chân tục v.v… dần dần lần lượt môn, vì lìa trọng ngôn. Nay cho rằng không đúng, vả lại dùng tâm cùng tâm sở, căn cứ theo hai Đế để biện, cũng lệ thuộc vào thức, dưới trong tám thức tâm sở đồng với tâm vương, tụ tập tướng khác nhiếp kiến tướng thảy đều quay về thức, vì tông của Duy thức, nên đoạn dưới nói: “Tám thức tự tánh, không thể nói định một, hành tướng, sở duyên, tương ưng khác nhau, tức là căn cứ theo duyên, y tương ưng rõ ràng khác”, nên biết không khác cũng nói hành tướng, y, duyên, tương ưng, nếu không như vậy nên chẳng như huyễn sự v.v… vì có tánh của định, trước riêng sau chung, tướng mong đối rõ ràng, đều bốn chân tục cũng không có lỗi của trọng ngôn.

Luận: Trung hữu kia ắt sẽ khởi v.v…

Xu Yếu ghi: “So sánh có thân Trung hữu không phải thân Trung hữu”.

Đáp: Bản kế không có, mạt kế có. Lại từng nghe giải thích, theo bản kế mà nói rằng không phải Trung hữu, nay căn cứ theo mạt kế nên có Trung hữu. Lại nói: Bản kế có hai: một, lý là lượng; hai, giáo là lượng. Do đó chia ra hai tranh luận, lý là lượng tức là lập ra Trung hữu, nay luận theo đây nên nói: Hữu nếu dẫn kinh là lượng tức là lập ra Trung hữu, nhưng Yếu Tập ghi: “So sánh luận Tông Luân, Thượng tọa bộ lại gọi là Vân Sơn, lập ra tám nghĩa riêng, còn lại đồng với Nhất thiết hữu bộ”, tức là nói lập ra Trung hữu, Đại chúng bộ v.v… bốn bộ đều không phải Trung hữu. Nay cho rằng bất định, Nhất thiết hữu bộ bản tông đồng với văn Trung luận, không nói định có Trung hữu. Nói mạt tông nghĩa khác, loại vô biên, Vân Sơn đồng với luận kia đâu có Trung hữu, mà nói: Đại chúng bộ v.v… văn của luận không nói định không phải Trung hữu mà nói Bồ-tát lúc vào thai làm ra hình bạch tượng. Chuẩn theo đây tức là tợ như lập ra Trung hữu, nên Yếu Tập ghi không phải chuẩn theo định.

Luận: Trời kia chỉ ở Tĩnh lự thứ tư, rộng như Sớ. Lại nói cõi Vô sắc chẳng phải cảnh của thiên nhãn, nếu lúc vô tâm tức là không phải sắc thân, ai là người có thể chứng được Niết-bàn. Lại nữa, địa pháp không phải Vô tưởng định, nên Dị thục này không phải ở chỗ khác.

Luận: Tức là năng dẫn phát Vô tưởng định tư.

Yếu Tập ghi: “Có thuyết nói, có giải thích đều có ba giải thích, thuyết thứ ba kia là thuyết thứ nhất này, thứ nhất kia là thứ ba này”, kia đây nghĩa thứ hai tức là không đồng, nay nhận lấy có giải thích thứ ba làm chính, tức là có nói thứ nhất, tức là có giải thích thứ ba, vì sao chỉ nhận lấy có giải thích thứ ba mà làm giải thích chính? Có thuyết nói sớ văn không đoạn thứ ba làm lời chính, nhưng vì lý chuẩn theo trái, cực yểm tâm chiêu lấy tổng báo kia, chủng tử của cực yểm tâm chiêu lấy biệt báo kia, vì sao trái nhau? Lại chủng tử của tâm nhỏ nhiệm là năng dẫn, phát ra Vô tưởng định tư, hay cảm lấy quả kia, thuận theo quyển 5, nếu không như vậy một nhân vì sao có thể cảm lấy hữu tâm vô tâm ràng buộc, hai quả trái nhau? Lại Tây Minh nói: Tâm nhỏ nhiệm và tâm vi tế tương ưng tư dẫn dắt tổng báo, vì hữu tâm, tức là hai loại kia, đến địa vị vô tâm dẫn dắt biệt báo, vì vô tâm, nay cho rằng không đúng, đâu phải ở nơi chủng tử của vi tâm cũng lập ra vô tâm định ư?

Luận: Khiến cho thân an hòa nên cũng gọi là là định.

Tây Minh nói: Tuy chẳng phải tâm sở chuyên chú một cảnh, khiến cho thân an hòa nên cũng gọi là định. Yếu Tập ghi: “Có giải thích ban đầu giải thích là thù thắng”, nay cho rằng không đúng. Vô tâm thùy miên cũng chẳng phải tâm sở chuyên chú một cảnh, vì sao không phải an hòa? Cũng gọi là định, nên biết do định lực của gia hạnh trước, khiến cho thân an hòa, vì vô tâm thì an hòa, cũng hữu tâm kia thì an hòa, đồng được tên của định nên vốn giải thích chính.

Luận: Lại chỉ là thiện v.v…

Vốn nói luận kia đã dẫn, giải thích chỉ là thiện, Địa dưới Địa trên là không có, nói rõ thuộc về địa nhân. Tây Minh nói: Luận kia đã dẫn thông với hai nghĩa, nay cho rằng không đúng, thiện của gia hạnh định dẫn dắt nên thiện, không cho thiện định dẫn dắt là thuộc về định thứ tư. Ở văn tự giải thích, Địa dưới Địa trên vô do nói trước, chỉ đồng vô tưởng báo đã nói ở trước.

Luận: Bốn nghiệp thông ba trừ thuận hiện thọ, lược luận nghĩa đó tổng có hai giải thích: một là định cảm quả; hai là không phải định cảm quả, nên luận Du-già quyển ghi: “Thuận định thọ nghiệp nghĩa là nên suy nghĩ rồi hoặc làm hoặc tăng trưởng nghiệp, thuận bất định thọ nghiệp nghĩa là nên siêng năng rồi làm mà không phải tăng trưởng nghiệp”. Ý này tức là do thẩm xét quyết định tư làm phương tiện, gọi là cố tư duy, nên quyển 0 ghi: “Cố tư duy tạo nghiệp nghĩa là tư lương trước, đã tùy tầm tứ, đã tùy tư sát, đã khởi thân, ngữ gọi là tác nghiệp, khiến cho chủng tử tăng trưởng gọi là tăng trưởng nghiệp”. Luận Tạp Tập quyển ghi: “Tác nghĩa là khởi tạo các nghiệp, khiến cho hiện hành”. Tăng trưởng nghĩa là khiến cho tập khí tăng ích, trừ đây ra rồi, nếu có cố tư duy không khởi thân, ngữ v.v… và tuy khởi thân ngữ v.v… mà không khiến cho chủng tử tăng thượng, không khiến cho chủng tử tăng trưởng nghiệp, tức là có mười loại. Du-già quyển ghi: “Tăng trưởng nghiệp tức là trừ mười loại:

  1. Việc làm trong một mộng
  2. Việc làm không biết
  3. Việc làm không phải cố suy nghĩ
  4. Không lợi không thường làm
  5. Việc làm cuồng loạn
  6. Việc làm mất niệm
  7. Việc làm chẳng phải lạc dục
  8. Tự tánh Vô ký
  9. Hối đã tổn hại
  10. Đối trị đã tổn hại

Trừ được mười loại này gọi là tăng trưởng nghiệp. Không tăng trưởng nghiệp nghĩa là mười loại này, nhưng tăng trưởng là Dị thục định và thời báo, không tăng trưởng đều bất định nhiếp. Luận Tạp Tập quyển căn cứ theo định thọ nghiệp nói có ba loại, tức là hiện, sinh, hậu. Ở nơi từ định v.v… tạo ra nghiệp thiện ác, là thuộc về hiện thọ, năm vô gián v.v… gọi là sinh thọ nghiệp, nếu sinh tạo này qua sinh mới thọ gọi là hậu thọ. Giả sử có một nghiệp hoặc hiện hoặc sinh thọ báo không hết cùng nhiều sinh thọ từ hiện sinh, không gọi là hậu thọ, nên quyển 8 ghi: “Ở trong nghiệp này, từ địa vị Dị thục ban đầu kiến lập tên của thuận hiện pháp thọ v.v… không chỉ thọ một vị Dị thục này”. Luận Tạp Tập quyển trong định và bất định chia làm ba, luận kia ghi: “Như kinh nói quyết định nghiệp”, nghĩa là tạo tác nghiệp quyết định thọ Dị thục, quyết định phần vị định, tạo tác nghiệp thông với định bất định. Định thọ là bất định, lý như giải thích sau. Phần vị là định, vì thời, báo đều là định. Luận Du-già quyển căn cứ theo định bất định, tổng nói bốn nghiệp. Luận kia nói lại có bốn nghiệp, một là Dị thục định, hai là thời bất định, ba là cả hai đều định, bốn là cả hai đều bất định. Thứ ba là định, ba thứ còn lại bất định. Thứ nhất căn cứ theo báo thọ, tuy là định, nhưng thời bất định. Thứ hai thời định mà báo bất định, nên đều là bất định. Luận Tạp Tập quyển căn cứ theo định bất định nói có năm nghiệp, luận kia ghi: “Cho nên suy nghĩ tạo tác nghiệp lược có năm loại”, nghĩa là họ đã chỉ bảo, họ đã khuyên mời, không phải đã có biết, căn bản chấp trước, điên đảo phân biệt, năm câu như thứ tự. Ba câu đầu không tăng trưởng, xem nhẹ nên không nhất định thọ Dị thục, tức thời định báo bất định và đều bất định. Hai câu sau tăng trưởng, nặng nên nhất định thọ Dị thục, tức là báo định thời bất định, và thời báo đều quyết định, nên văn dưới nói thọ Dị thục quyết định như trước đã nói, cho nên siêng năng tạo nghiệp. Nếu định này thọ thời báo đều định, tức là phần vị quyết định, vì sao được nói riêng? Nên định của phần vị dưới nói: Như do nghiệp này, ở trong pháp hiện tại ắt nhất định thọ Dị thục.

Sinh, hậu chuẩn theo đây. Lại Vô tưởng định này chính là điên đảo phân biệt. Vọng chấp Niết-bàn tức là thông với bốn nghiệp, biết rõ hai loại sau chẳng phải chỉ thời, báo đều quyết định.

Luận Hiển Dương quyển căn cứ theo định bất định chia làm năm, luận kia ghi: “Như vậy nghiệp có năm loại quyết định: một là hiện thọ quyết định, hai là sinh thọ quyết định, ba là hậu sai biệt quyết định, bốn là thọ báo quyết định, năm là tác nghiệp quyết định”. Ba loại thời định hoặc thời, báo đều định; thứ tư báo định thời bất định, thứ năm thông với báo định và thơi, báo định, vì ở loại thứ năm quyết định thọ báo, đều quyết định tác nghiệp cùng với trước có khác. Luận Tạp Tập quyển ghi: “Tác nghiệp quyết định là do sức của nghiệp đời trước cảm được quyết định Dị thục tương tục, tương tục tức là thân”. Ở trong đời này, quyết định tạo tác nghiệp này tức là nói cảm được quyết định Dị thục, không nói thời định nên biết là thông, nếu không như vậy đối với báo định kia chẳng phải thời, Dị thục trong thân đâu không phải tạo tác nghiệp ác? Lại thọ báo định mà thời bất định và báo định kia, chẳng phải chỉ biệt báo, tức là thông với tổng báo, đâu phải khiến cho hiện pháp thọ? Tuy có tổng báo, nếu đối với hiện pháp thọ dung chứa thọ biệt báo sẽ tổng báo kia, đây đồng các khai hợp có khác, không ngoài bốn nghiệp mà luận này nói.

Sớ ghi: “Luận Hiển Dương ở trong bất định, báo, thời, định, bất định riêng nêu ra”. Yếu Tập ghi: “Luận Hiển Dương đều nói quyết định không nói bất định, do hai loại sau này, không gọi là bất định, nghiệp, báo tương đối vì nói rõ quyết định”. Căn cứ theo thật bốn loại trước tức là thời và báo đều định trong luận Du-già quyển 0. Nay cho rằng không đúng, bốn loại trước thọ báo quyết định, chỉ là quả chẳng phải nghiệp, tức là không được nói nghiệp có năm loại, nếu nói rằng cũng nghiệp, báo quyết định là câu cú, tức là ba loại trước, vì sao cần nói riêng? Lại báo định thọ thời bất định là thuộc về câu nào? Tên sẽ không thâu tóm, trái với tướng nhiếp, không thấy lý này, nên nương theo gốc giải thích, lý giáo không trái nhau.

Hỏi: Căn cứ theo tu vô tưởng, tức là điên đảo phân biệt trong năm nghiệp của luận Tạp Tập quyển , luận kia nói định thọ, đây nói thông với ba loại đều là bất định thọ, đâu không phải trái nhau?

Đáp: Căn cứ theo tạo tác bất thiện nói làm chánh pháp v.v… nên là định thọ, đây theo tu thiện, nên thông với bất định.

Hỏi: Tu định này tức là thừa nhận sinh, sắc cũng được khởi sau, sinh ra tư của định sở tu kia có thể thọ báo, nếu thừa nhận thọ báo tức là

chỉ sinh thọ, không thể sinh hai nghiệp sau đồng chiêu lấy, nếu chỉ xưa tu có thể cảm được quả sau, cái khởi sau, vì sao không cảm được?

Đáp: Sinh khởi kia chẳng phải mạnh mẽ lợi lạc, yếu kém nên không thọ, nếu không như vậy tu lại cũng có thể cảm riêng nên sinh lại nó, vì xưa trong cõi người hậu báo thọ.

Hỏi: Nếu xưa trong cõi người được rồi thoái mất, nhưng không thoái ba Tĩnh lự định dưới, mạng chung sinh về cõi kia được khởi lại chăng?

Đáp: Tức là hai sư nói đều không đồng nhau. Nếu sư đầu giải thích thoái và bất thoái, sinh về ba cõi trời sau không được khởi lại sinh về vô tưởng là ban đầu tu thoái sau sinh khởi lại, cũng gọi là hậu báo. Như sư thứ hai, cõi Dục tuy là thoái sinh về Tĩnh lự sau cũng được khởi lại. Quyển 5 ghi: “Trước ở đây khởi sau ở cõi Sắc thiền định thứ tư sẽ thọ quả kia”, như văn của Sớ giải thích. Nếu nói ở cõi Dục giả sử không phải thoái mất cũng có sinh về trong ba Tĩnh lự sau mà được khởi lại, ba Tĩnh lự sau không như vậy, dị sinh nhuận sinh phải hồi hướng, nên không thoái mất vô tưởng, ba Tĩnh lự sau lìa nhiễm, nên vì sao được sinh? Nếu thừa nhận được sinh tức là không phải sáu hành chế phục được hoặc sinh lên trên.

Hỏi: Xưa định đã mất sinh ra trên tu lại, vì sao đã mất định sau trở lại có thể cảm được quả?

Đáp: Do định lực sau giúp nó có thể đồng với địa pháp.

Nói diệt tận định v.v… Sớ giải thích, Tây Minh đều như Sớ nói rõ. Yếu Tập ghi: “Có thuyết nói: Trong đây chỉ căn cứ theo Nhị thừa học Vô học mà nói, nếu chư Bồ-tát văn dưới mới nói”. Có giải thích rằng: Đây thông với hàng Tam thừa hữu học Vô học, nói người đều được diệt định, phải đoạn hoặc ba cõi là nói rõ đầu khởi, sau khởi, trước nói hàng Nhị thừa, sau nói rõ Bồ-tát, nếu không như vậy người đắc được diệt định, không nói Như Lai, lý có không tận. Nay cho rằng đoạn này hoàn toàn không tương ưng, vốn giải thích ý giải thích lựa ra người không đắc, trừ chỗ lựa ra này hiển bày đều là được, vì sao nhiếp không hết? Vọng làm kế chấp, các văn như vậy, đoạn sau nêu sơ lược, không thể mỗi mỗi nêu đủ các lỗi, người tìm đọc nên tư duy kỹ.

Nhưng Tây Minh giải thích, trong có thể được người, Bồ-tát hai loại, tiệm ngộ như Thanh văn, trong bốn vạn, hai vạn, mười ngàn kiếp cũng nhập vào diệt định, từ tín vị cho đến Đẳng giác có năm mươi mốt bậc Hiền thánh, nay cho rằng không đúng. Các kinh chỉ nói có bốn mươi hai bậc Hiền thánh, trừ Đẳng giác và Diệu giác còn có bốn mươi. Nếu bốn vạn, hai vạn, mười ngàn hợp lại là một, trở lại bốn mươi mốt, nếu mở thêm làm ba, tức là bốn mươi ba, vì sao có năm mươi mốt? Nhân Vương Bát-nhã tuy nói mười tín, trong bài tụng chỉ nói thai của bậc Thánh ba mươi, không nói bốn mươi, nên nay chính giải thích. Hàng Nhị thừa như luận kia, Bồ-tát có hai, đốn ngộ Bồ-tát hoặc mười, hoặc bốn. Sơ địa, Địa thứ bảy hai thuyết khác nhau, tiệm ngộ Bồ-tát hoặc bảy mươi bốn, trong bốn vạn có bảy mươi hai; hai vạn, bảy ngàn đều làm một người, thành ra bốn mươi bảy. Trong bốn vạn kiếp chia ra bốn mươi lăm, hai vạn mười ngàn hoặc bốn mươi bảy, vì trong luận này có hai thuyết, lấy đây trải qua bốn mươi bậc Hiền thánh kia hoặc bảy mươi bốn và bốn mươi bậc Hiền thánh, hoặc bốn mươi bảy và bốn mươi bậc Hiền thánh, trong tiệm ngộ hàng phục được phẩm Ly hoặc, căn vị khác nhau, tùy theo thô như vậy, tế càng có khác, như hai quả đầu, hồi tâm rồi cũng dung chứa được khởi, dưới chỉ ngăn phàm phu chưa đoạn được Kiến hoặc.

Lại nói phải đoạn dục tu hoặc v.v… căn cứ theo Nhị thừa mà nói không chướng ngại hồi tâm, tuy không đoạn dục, phiền não vốn có, nhưng hàng phục hoặc đắc được Tĩnh lựu thứ tư, nương theo biên tế định, thọ thân biến dị, đã có khả năng này, ngại gì không đắc được chín thứ lớp định. Lại không đắc được chín thứ lớp định, đều không thể chứng được biên tế định, nên luận Tạp Tập quyển ghi: “Thiền định, Vô sắc, biên tế” là muốn dẫn công đức của phẩm phát khởi, được tự tại v.v… tu kham nhậm định đạt đến cứu cánh. Luận sau ghi: “Hoặc có bảy địa mãn tâm đồng khởi”, căn cứ theo quyết định nói, như biến dị sinh không như vậy, vì sao có Sơ địa? Do luận này chỉ nói hoặc Thánh hữu học, chỉ lựa ra phàm phu quyết định không được, hữu học có được, không phải chỉ thân chứng, hồi tâm là được, trừ ra không nói là căn cứ theo chẳng phải hồi tâm, nếu lập thuyết này lẽ ra phù hợp với diệu lý.

Luận: Định này mới khởi chỉ ở trong cõi người.

Vốn giải thích Dục thiên cũng được mới khởi, vì có thân chứng. Có giải thích chỉ cõi người chẳng phải ở Dục thiên, luận này nói duy chỉ. Tập luận quyển 5 ghi: “Phải ở trong loài người mới có thể dẫn phát”. Luận Tạp Tập quyển giải thích: “Nói dẫn phát là nghĩa mới khởi”, nay nói rõ thêm Dục thiên thừa nhận có thân chứng nào có lỗi gì, nếu không thừa nhận có thân chứng, tức là chỉ tuệ giải thoát, đây đồng trở về nhập vào Sơ địa, sau có thể chẳng phải mới khởi. Chuẩn theo cõi Sắc này, bậc Thánh hồi tâm chẳng phải đều là thân chứng và câu giải thoát. Do đó, luận Tạp Tập quyển lại ghi: “Các Thánh đệ tử vì muốn an trụ

Tịch tĩnh trụ nên ở trong cõi người dẫn diệt định này khiến hiện tiền”, đã nói như vậy thì rõ ràng các loại kia đều là mới khởi. Ở đây nói “duy chỉ” là căn cứ theo tự Thừa, từ phần nhiều mà nói, hoặc tùy theo tướng thô, không chướng ngại hồi tâm đối với loại kia đều mới khởi, như tợ Kiến đạo. Luận Hiển Dương nói chỉ là trời người cõi Dục, tuy nói duy chỉ nhưng cũng thừa nhận bậc Thánh nhị Thừa cõi Sắc sau khi hồi tâm nhập vào Kiến đạo Đại thừa. Diệt định chỉ có cõi người, mới khởi cũng chuẩn theo đó.

Luận: Trước nói tuy thuộc Hữu đảnh, vượt Đẳng chí.

Sớ có hai giải thích, nay lại giải thích thêm. Vả lại theo sư trước nương theo tâm gia hạnh, cũng được nói vượt. Căn cứ theo định thứ lớp còn lại phi tưởng phi, phi tưởng, định sau làm gia hạnh vào nay tùy theo tâm nào, hoặc dùng cõi Dục tâm hoặc sơ thiền tâm, làm gia hạnh vào, chẳng phải cần định sau khác, nên được gọi là vượt. Thuộc Hữu đảnh là căn cứ theo mới khởi mà nói, theo sư thứ hai, tùy theo địa nào tâm sinh tức là có thể vào, đây không cần gia hạnh, như tợ Như Lai mặc tình có thể vào chẳng khởi gia hạnh.

Hỏi: Nếu tâm trước khởi hàng phục rồi vào diệt kia vốn không khởi, vì sao được nói tâm nhỏ nhiệm, hậu yểm tâm, công năng không khởi vị lập?

Đáp: Luận kia nương theo mới tu làm ra lời như vậy, chẳng phải tự tánh.

Hỏi: Nếu như vậy tâm kia đối với lúc định khác xưa nay không khởi, nên thường gọi là nhập diệt chăng?

Đáp: Có định tâm khác chẳng gọi là nhập định, định tâm khác không phải định này mới hiển bày, trong hai thuyết, thuyết sau trội hơn.

Luận: Kinh Ô-đà-di là thật chứng này, Vô sắc cũng gọi là Ý thành thiên.

Yếu Tập xác quyết vốn giải thích rằng: Ý của Xá-lợi tử ở sau Sắc khởi, chưa nói Vô sắc xuất hiện. Ý thành thiên nghĩa là Phi tưởng. Không rõ được ý của Xá-lợi tử cho nên bị quở trách, nương theo nghĩa của văn nào chứng được cõi Vô sắc cũng nhập vào diệt định? Nói đây thật chứng nên chẳng phải khéo giải thích. Nay cho rằng Yếu Tập không rõ được Sớ giải thích cho rằng chẳng phải khéo giải thích, tức là Ô-đà-di đời sau. Nói Ý thành thiên vượt qua đoạn thực, Xá-lợi tử nói có thoái lui định. Sắc giới sau khởi, xuất hiện không rõ, nghĩa là Phi tưởng, nên biết hai cõi trên đều gọi là Ý thành. Luận Câu-xá dẫn kinh lại nói: Tùy theo thọ một xứ Ý thành thiên thân, có thể ra vào định này, nên thông với Vô sắc, kinh không ngăn ngại luận kia, nói tùy theo một xứ. Lại luận Du-già quyển 5 nói lại hiện ở trước, gá vào sở y của sắc mới được hiện tiền, nếu đã kiến lập ở nơi tất cả xứ, đều được hiện ở trước. Nói tất cả xứ không lựa ra ba loại dưới, sư sau của luận này cần phải đoạn ba loại dưới mới khởi đây, chưa nhất định là chính, nên chỉ quở trách Sa-di không rõ được ý, vì sao chẳng phải khéo giải thích làm thật chứng ư?

Tây Minh nói: Nhưng tông của Đại thừa chia thành hai thuyết. Nan-đà đồng nói, cõi trên Địa thứ tám khởi diệt tận định nên gọi là Ý thành thiên. Giác Sư Tử giải thích, từ Tĩnh lự thứ tư trở lên Địa thứ năm mới khởi diệt định gọi là Ý thành thiên, Hộ Pháp đồng với giải thích thứ hai, chuẩn theo đâu được biết Nan-đà cũng nói? Giác Sư Tử nói chỉ năm địa trên gọi là Ý thành thiên. Nếu chuẩn theo luận Tạp Tập quyển , Giác Sư Tử giải thích, trong bốn câu, thừa nhận Tĩnh lự thứ tư lại khởi, không nói ba Địa dưới chẳng phải Ý thành thiên, đâu phải khéo giải thích ư? Nếu so sánh Hộ Pháp đồng với thuyết thứ hai, vì sao giải thích văn của quyển 5 kia ở tất cả xứ đều được hiện khởi? Nếu nói rằng ít phần tất cả, luận Tạp Tập không nói duy chỉ.

Luận: Đối với tàng thức giáo v.v…

Sớ nói kiến lập là nghĩa tín có, chẳng phải nghĩa thành lập, trong định tánh có ngu pháp là không tin không vào, không ngu pháp là tuy tin theo Đại thừa, không phải đem lại cứu cánh, do tin có nên sinh nhập vào định. Yếu Tập ghi: “Đã tin Đại thừa” vì sao chẳng phải cứu cánh?

Đây không hiểu ý, vốn giải thích ý rằng: Tuy tin Đại thừa không đem lại cứu cánh, chỉ có Nhất thừa tin có ba Thừa, như cầu Thanh văn tin có Độc giác, không đem lại cứu cánh chỉ một Độc giác không phải Thanh văn thừa. Lại chỉ tin tánh Đại, nhưng tự không có sức để chứng được Đại. Luận Pháp Hoa là tin các Thừa khác, chỉ nói một thừa. Tây Minh nói: Kinh không phải là nói không cầu Nhất thiết trí, nay là nói khiến cho nhập vào diệt định. Nay hỏi họ vì sao khiến cho nhập trong đại giáo? Vì nói luận A-tỳ-đạt-ma, Giải Thâm Mật v.v… đều không phải vì họ mà nói, đến kinh Niết-bàn chỉ nói là Đại. Kinh A-hàm v.v… đã mật thuyết, nên biết kiến lập là tin có nghĩa. Thế nên luận này nói, người chưa tin thọ ở tàng thức giáo, Vô sắc không khởi đã tin; sinh cõi kia cũng được hiện tiền, không nói thành lập tàng thức sau đó tin mới khởi.

Luận: Bất hoàn nhuận sinh chỉ chủng tử chẳng hiện.

Yếu Tập ghi: “Quyển 55 ghi: Chỉ tùy miên nhuận, Kiến đế tích”.

Quyển 52 ghi: “Kiến thánh tích là đối với hậu hữu ái đắc phi Trạch diệt”, hai văn cùng nêu bày, nên biết hai thánh đầu cũng chỉ chủng tử nhuận. luận Đối Pháp quyển 5, luận Du-già quyển 1 nói ly dục hoặc ít hoặc gấp bội hoặc hoàn toàn ly dục đều gọi là ly dục. Nay cho rằng không đúng. Nói Kiến đế tích, bốn quả đều đúng, nói ly dục chẳng phải chẳng phải ít phần lìa được tên ly dục. Giáo lý của Đại thừa Tiểu thừa nói ly dục chẳng phải hai loại đầu. Đối Pháp quyển 5 ghi: “Tự thể này ái chỉ là Câu sinh”, cho đến nói do thế lực này các Dị sinh khiến cho trong vô gián có tương tục, bậc Thánh chưa ly dục cũng như vậy. Lúc sắp mạng chung, cho đến chưa đến không rõ được tưởng vị, trong đó có thể khởi ái này hiện hành. Luận Du-già tuy nói “chế phục mà không chấp trước”, không nói rằng không khởi. Luận Đối Pháp nói “nhưng có thể nhiếp phục”, chẳng không phải sinh khởi. Nay nói không khởi, đâu không phải trái ngược? Nên nương theo bản giải và Tây Minh giải thích.

Lại hỏi: Luận Tạp Tập quyển 5 ghi: “Trung hữu mai một, tâm thường nhiễm ô, giống như tử hữu”, chuẩn theo văn đồng nói quả Bất hoàn chăng?

Đáp: Đây cũng bất định, nói như tử hữu, đâu phải quả Bất hoàn, hữu tử tâm thường nhiễm ô ư? Nên chỉ đồng nói lẽ ra có thể lựa chọn.

Hỏi: Lúc nhập vào diệt định có hai gia hạnh: một là duyên theo diệt thọ tưởng, hai là duyên theo vô tướng giới, đối với lúc xuất định duyên theo cảnh nào, xúc chạm vào xúc nào?

Đáp: Luận Du-già quyển 12 ghi: “Lúc ra khỏi diệt định, xúc chạm vào ba thứ xúc: một là bất động xúc; hai là vô sở hữu xúc; ba là vô tướng xúc”, nghĩa là lúc xuất định, phần nhiều do ba cảnh mà ra khỏi định: một là do hữu cảnh; hai là do cảnh cảnh; ba là do diệt cảnh. Do ba cảnh này, lúc ở xuất định như thứ lớp đó. Xúc chạm ba thứ xúc như Xu Yếu nói, lại nói nương theo sơ học, duyên theo diệt thọ tưởng mà nhập, duyên theo hai cảnh đầu mà xuất, đồng là Hữu vi. Nương theo học lâu, duyên theo vô tướng mà nhập, duyên theo cảnh thứ ba mà xuất, đồng là Vô vi.

Nếu tự tại, trước tùy theo cảnh nào mà nhập, sau tùy theo cảnh nào xuất? Lại chưa được tự tại, xuất ắt sẽ định tâm, ở phương tiện trước, nương theo không đẳng trí mà nhập, nay nương theo không đẳng trì mà xuất, duyên theo hữu cảnh, xúc chạm vào bất động xúc, nương theo quán năm uẩn vô ngã trong thân cho là Không nhập, khiến cho không phải ngã kiến chấp bên trong làm ngã gọi là bất động, không làm ngã

kiến nó đã chuyển động, nương theo vô nguyện đẳng trì, nhập duyên theo cảnh cảnh, xuất xúc chạm vô sở hữu xúc, là cảnh của năm căn cảnh, gọi là cảnh cảnh. Ở trong sáu trần cảnh, không có tham, sân, si nên gọi là vô sở hữu xúc; nương theo vô tướng đẳng trì, nhập duyên diệt cảnh, xuất xúc chạm vô tướng xúc, do diệt tánh này gọi là diệt cảnh, không phải mười tướng đó gọi là vô tướng. Duyên sự là thứ nhất và thứ hai, duyên lý là một loại sau, nhưng ba Đẳng trì thông với định và tán. Chưa được tự tại chỉ nương theo định mà xuất, nếu được tự tại đồng nương theo định tán, hoặc nương tựa không mà nhập, nương theo vô tướng mà xuất. Đây nói xúc là chẳng phải xúc trần, xúc nghĩa là xúc đối, tức là xúc tâm sở năng khiến cho căn cảnh thuận sinh ra tâm sở, vì lúc xúc chạm vào cảnh không khởi ngã kiến, không khởi tham v.v…, không làm ra tướng trạng, như thứ lớp tức là ba xúc được tên.

Luận: Hoặc đây đều là xúc xứ ít phần.

Hỏi: Trong cõi Vô sắc tức là nói: Vô sắc, tử, sinh vì sao là thuộc về muộn tuyệt?

Đáp: Tức là nương theo giải thích trước, phần vị của bốn uẩn giả lập muộn tuyệt, cũng không có lỗi, đây đều cộng thành.