THÀNH DUY THỨC LUẬN LIỄU NGHĨA ĐĂNG
Tỳ-kheo Tuệ Chiểu, chùa Đại vân, Truy châu soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 2

(PHẦN ĐẦU)

Nêu số luận, trong ngã ghi rằng: Ngã mà ông chấp v.v… kể ra tông lập lượng và nêu ra lỗi kia như Sớ, Xu Yếu, nhưng trong Xu Yếu cùng với lượng thứ nhất lập ra lỗi hữu pháp sai biệt tương vi nhân, lại giải thích cũng có lỗi hữu pháp tự tướng tương vi nhân, chấp ngã hữu pháp đã có tranh luận, hư không chẳng phải ngã. Lượng rằng: Ngã mà ông chấp lẽ ra chẳng phải là ngã, vì thừa nhận không có trước sau như hư không. Nay giải thích tuy đối với địch luận lập ra tranh luận ngã Hữu vi v.v… do không phải đồng dụ, nên phương tiện hiển bày ngã thường, kiến v.v… nếu thừa nhận thường biến tức là lìa thức có, chuẩn theo đây tức là có lỗi hữu pháp tự tướng tương vi, còn lại theo đó mà xét. Trong lượng thứ ba Xu Yếu ghi: “Nhân của tùy thân tùy nhất bất thành”. thì với đồng dụ trên hư không chẳng có, bất cộng bất định, tông của thường và biến lấy hư không làm đồng dụ, cái bình làm dị dụ, nhân tùy thân tạo nghiệp v.v… ở nơi đồng dị dụ cả hai đều chẳng phải có. Yếu Tập ghi: “Bất cộng bất định này tướng nó khó hiểu”, cùng thừa nhận thể của hư không là biến, là thường, không thể vặn hỏi, nay lấy làm dị dụ, kia không biết chữ bình, chữ cỏ, nghĩa là vặn hỏi chữ cỏ, nghĩa là Xu Yếu vặn hỏi hư không kia, trở lại làm dị, tức là vặn hỏi Xu Yếu rằng: “Không thể đem hư không làm đồng dụ”, lại vặn hỏi làm dị dụ.

Lại hai dụ không hợp nhau. Vì sao nói cả hai đều không có? Nên nói rằng trong đây là dụ có thể lập ra bất thành, lấy đây làm định, điều này chưa từng suy nghĩ, không biết đã nhầm, nên uổng phí lao nhọc. Lại nói rằng hoặc có thể hư không đồng dụ, các pháp khác như sắc v.v… lấy làm dị dụ, tùy thân làm thọ nhân, phẩm khác có chẳng có, nên thành lỗi tương vi. Nay cho rằng không như vậy. Nếu đứng về số luận, lẽ ra nói tùy theo nơi thọ khổ lạc, không được nói tạo tác nghiệp, vì tông khác không thừa nhận, trừ ngã ra còn lại chẳng phải thọ khổ lạc. Nếu luận sư Thắng luận chỉ có ngã tạo nghiệp và thọ khổ lạc, sắc v.v… cũng trái, vì sao nói là khác hữu phi hữu. Lại nói trước Xu Yếu nói hữu pháp sai biệt tuy là một sư, nếu nương theo sư khác đã nói ít khác, nghĩa là như pháp, hữu pháp nó hiển bày tông đều gọi là tự tướng, ý thừa nhận tướng trong tông, thông với các pháp khác, gọi là pháp sai biệt. Chỉ ở một pháp không thông với các pháp khác thì gọi là có pháp sai biệt. Vả lại, như ngài Hộ Pháp đối với Nan-đà v.v… ý thừa nhận muốn thành tựu Thức thứ tám dùng Thức thứ bảy làm Câu hữu y, mà không nói hiển bày Thức thứ bảy làm chỗ nương. Phương tiện lập rằng: A-lại-da thức nhất định có Câu sinh biệt y là thức tánh, giống như sáu thức, nhân này là hữu pháp sai biệt. Sai biệt lượng rằng: A-lại-da thức sẽ không phải chịu huân tập giữ gìn chủng tử, vì thức tánh, giống như Thức thứ sáu chịu huân tập giữ gìn chủng tử chỉ ở Thức thứ tám, cho nên có pháp sai biệt.

Nay cho rằng không như vậy, vả lại tác hữu duyên tánh lượng là hữu pháp sai biệt, là chỉ nhận lấy tác hữu hữu duyên tánh làm sai biệt, là cũng nhận lấy phi hữu hữu duyên tánh làm sai biệt, không phải chỉ hữu pháp trên. Nếu cũng lấy phi hữu hữu duyên tánh làm sai biệt thì phi hữu hữu duyên tánh không chỉ có ở trong pháp. Nếu chỉ nhận lấy hữu hữu duyên tánh làm sai biệt, sai biệt với ai, ai làm tương vi? Lại tác phi hữu hữu duyên tánh, cũng chẳng phải nói hiển bày. Vì sao chẳng phải sai biệt, nếu nói rằng nhận lấy sự sai biệt chỉ ở một pháp, như tha dụng chân thật, cũng chỉ một pháp, nên chẳng phải pháp sai biệt. Lại như luận số lập ra tư là ngã, ngã là nói hiển bày, gọi là tự tướng, thọ quả ngã không thọ quả ngã, trong ý đã thừa nhận, đây gọi là hữu pháp sai biệt, làm pháp sai biệt ư? Nếu nói rằng pháp sai biệt không thông với cái khác, nếu nói rằng hữu pháp sai biệt, tức là hiện ở pháp trên lại không được nói số luận chỉ được lập ra ngã làm tư, không được lập ra tư làm ngã, không phải nguyên do khác. Lại Lý môn ghi: “Quán chỗ lập kia lập ra pháp, hữu pháp chẳng phải đức, hữu đức”, ý đây tức là thừa nhận các pháp tự tánh và cùng sai biệt, tùy theo chỗ lập, gọi là pháp hữu pháp chẳng phải định tự tánh, thường gọi là hữu pháp. Các pháp sai biệt gọi là hữu pháp. Lại sáu thức dụ cũng trái với tự tướng chẳng phải A-lại-da, lẽ ra là trái với hai loại, không phải chỉ có sai biệt. Lại ghi: “Như luận sư Đại thừa đối với luận sư Tiểu thừa, ý thừa nhận muốn lập ra Thức thứ bảy, mà không nói hiển bày có Thức thứ bảy. Phương tiện lập rằng: Cực thành ý thức ắt co Câu sinh tăng thượng nương riêng, cực thành sáu thức tùy một nhiếp, giống như năm thức, nhân này là pháp sai biệt tương vi. Tương vi lượng rằng: Cực thành ý thức không dùng Thức thứ bảy làm Câu hữu biệt y, cực thành sáu thức tùy một nhiếp, như năm thức không lấy Thức thứ bảy làm biệt y, thông với Thức thứ tám là pháp sai biệt. Nếu chuẩn theo Nhân Minh là dụng khác vặn hỏi, đây cũng không thành, nên nói rằng lấy chẳng phải Thức thứ bảy làm câu hữu biệt y, năm căn nhãn v.v… chẳng phải Thức thứ bảy. Nếu nói không dùng Thức thứ bảy làm Câu hữu biệt y, chỉ ngăn ngại không biểu hiện, không có pháp khác và Thức thứ bảy tương vi cùng ai làm nhân? Điều này suy nghĩ kỹ mới hiểu.

Trong phá ngã ghi: “Chấp ngã thường, biến, lượng đồng hư không, nên không theo thân thọ khổ lạc v.v…” khổ này cùng lượng, tông, nhân đều có tùy nhất bất thành. Phật pháp không thừa nhận có ngã thường, biến. Nếu Phật pháp tự tỷ lượng, tông có tự vi, nhân có tự tùy nhất bất thành, cũng có tùy sở y bất thành, hư không không có tự thể, không có câu bất thành, nhận lấy hư không Vô vi nương theo Chân như có thể như vậy, nay là lượng khác, vì đứng về phá tha, lựa ra lỗi như Sớ.

Tây Minh ghi: Trong phá ngã của Thắng luận nói rằng nên không phải động chuyển. Tự hỏi rằng: Tông kia thừa nhận ngã cũng không phải động chuyển, nay thành tựu không phải chuyển đâu không phải lỗi tương phù?

Giải thích rằng: có hai thuyết: một là thể dụng đều không phải động chuyển, hai là dụng có động chuyển, cho nên lượng trước có hai nghĩa:

1. Nếu nương theo thuyết đầu luận chủ sẽ phá trước, nhất định tỷ lượng khác, nghĩa là ngã thể và dụng của tông ông sẽ không phải động chuyển, thể thường biến, như hư không. Nay cho rằng không như vậy, kia chấp thể dụng đều không phải động chuyển vì sao cần phải lượng lập? Đây là thi thuyết suông vì họ tự thừa nhận chỉ có thể được nhất định ở nơi tông, không phải mệt nhọc lập lượng.

2. Nếu nương theo dụng động chuyển là giải thích luận chủ thuật lượng của tông kia. Nêu bày họ tự trái kia, lượng rằng: “Ông chấp ngã dụng nên không phải động chuyển, thể thường, biến, như hư không”, đây thì không như vậy, vì thường biến là nhân, cho nên cả hai đồng thời bất thành, kia đã thừa nhận dụng động thể không động, tức là thừa nhận thể thì thường biến, dụng thì chẳng thường biến. Chuẩn theo phần sau luận rằng: “Dụng không lìa thể, dụng lẽ ra thường có”, nên biết họ thừa nhận dụng có động chuyển, chẳng thường chẳng biến nên nhân của thường, biến đối với dụng chẳng có. Vì sao lấy thể thường, biến làm nhân, trái với chấp kia? Nếu lẽ ra như luận lập, nên nói rằng ngã dụng của ông cũng lẽ ra thường biến, vì không lìa thể, giống như đi với thể, vì sao được dụng thường biến kia làm nhân? Nên lẽ ra nương theo Sớ chú đã nói rõ, chính là luận này nói rằng: “Ngã mà ông chấp nên không phải theo thân hay tạo ra nghiệp. Ông thừa nhận không phải động chuyển, như hư không”, do trong văn này có ba tỷ lượng, nhân có ba: một là Thường, hai là Biến, ba là Không có động chuyển.

Văn nói vì sao ý là không nghĩa, trên nói chữ “lẽ ra” hợp với hai chữ “thế nào”, văn nói liền nên ở trên nhân an lập, cho nên không thứ lớp, không được bản ý, còn lại rộng giải thích nó, cũng như văn của Nhân Minh luận. Nói tông trong đây, nghĩa là cực thành hữu pháp cực thành năng biệt tánh sai biệt, tùy theo tự lạc là được thành lập tánh, là gọi làm tông. Sau đó luận về “quỹ pháp” sư liền sửa đổi văn luận rằng: “Sai biệt là tánh, gọi nó là tạo tác”, nghĩa là lấy sai biệt làm thể tánh của tông, nếu như vậy trong phần nêu tông trong đoạn trước giải thích rằng: Sai biệt là tánh, tức là hiển bày tông xong, vì sao cần phải nói lại tên gọi làm tông? Văn nói dài dòng, vốn Bản luận nói rằng tánh sai biệt, có hai nghĩa. Vì sao? Một là thể sai biệt của tông tùy tự dưới lựa ra lỗi, nay nói cũ, ý lựa ra cổ sư do hữu pháp và pháp đều gọi là tông, nay lựa ra nghĩa của cổ sư. Vì tánh sai biệt hỗ tương trái phản là thể của tông, nếu nói là tánh không lựa ra lỗi xưa. Hai là nói rằng tông của cổ sư có năm lỗi, nay Bồ-tát Trần Na lại thêm bốn loại sau, lấy thành hữu pháp và pháp câu cực thành có thể làm tông y, vì tánh sai biệt là thể của tông, nương theo hữu pháp và pháp trên lập tên đó làm tông, mới biết tổng kết nó.

Lại ngã sở chấp là một là khác, nếu nói khác thể của nó lẽ ra tướng lẫn lộn. Yếu Tập lập lượng rằng: “Chân ngã mà trời cho cùng với ngã mà thần cho, thể lẽ ra lẫn lộn nhau, lại tướng biến đổi, như ngã trời cho”, nay cho rằng đây nói lý cũng ít vặn hỏi, kia thừa nhận ngã thần cho thể tướng lẫn lộn, trời cho đáng lẽ cũng có lỗi tương phù, không thừa nhận tướng lẫn lộn, dụ thiếu sở lập, vì sao thành tựu tỷ lượng?

Tây Minh ghi: “Nhân nói rằng lại cùng khắp lẫn nhau, không rơi vào lỗi. Hai nhân ngã trời cho và thần cho đều có nghĩa biến khắp các ngã khác, như nhân của tánh sở tác”. Yếu Tập ghi: “Có thuyết cho rằng thường biến là nhân, ắt mong hai pháp mới gọi là biến khắp”, điều này cũng không đúng lý vì trái với luận. Có thuyết giải thích rằng nghĩa của một ngã tương tợ gọi là biến khắp, điều này lý cũng không đúng vì một thể thì không thể nói cùng biến khắp vì trái với đạo lý. Yếu tập ghi: “Có giải thích cho là đúng, cho rằng ngã của trời cho lại biến khắp cùng với ngã khác, như nhân sở tác, nhất định mong năng tác, tuy không hiển bày chỉ duyên của thiệt v.v… mà nhân sở tác thành tựu”. Nay không cho là như vậy, vì sao? Nếu nói ngã trời cho v.v… tức có nghĩa cùng biến khắp với ngã khác, tức là lẫn lộn ngã khác. Nếu nói rằng tướng lẫn lộn thì lỗi của tương phù, nếu không phải tướng lẫn lộn thì dụ thiếu sở lập, dụ liền không thành. Ý của Sớ ghi: Ngã thần cho là thường, là biến khắp, nhưng thể là một, nên lập lượng rằng: “Ngã trời cho và ngã thần cho là hữu pháp, lẽ ra thể thành một là pháp, vì thường và biến khắp, nhân như ngã của thần cho, ngã của thần cho là một lại là thường biến, dụ đầy đủ hai lập được thành tựu tỷ lượng”, đây được ý của luận, bậc trí nên tin, còn lại đều không xét.

Lại như trước lượng rằng: Như thần cho v.v… khác, đối với trời cho lúc tạo tác các nghiệp cũng sẽ tạo tác nghiệp vì ngã là một, như trời cho v.v… người khác không hiểu được tỷ lượng này, nghĩa là đem ngã thần cho khác sánh ngang với ngã trời cho khi tạo tác nghiệp, tổng gọi là hữu pháp, liền lập tức vặn hỏi rằng: Vì sao lại lấy hữu pháp làm dụ, do không hiểu ý, ý nói rằng như thần cho khác là hữu pháp, đi với ngã trời cho khác tạo tác nghiệp, cũng tạo tác nghiệp là pháp, nêu ngã trời cho lúc tạo tác nghiệp thì ngã thần cho lẽ ra cũng tạo tác nghiệp, bởi vì thể là một. Nếu không nói lúc ở nơi ngã trời cho tạo tác nghiệp cũng sẽ tạo tác nghiệp, ngã trời cho chưa tạo tác nghiệp phá tăng v.v… có thể khiến cho ngã thần cho cũng tạo tác nghiệp phá tăng, tức là đồng dụ không có sở lập, là lựa ra lỗi này. Nói rằng lúc ở nơi ngã trời cho tạo tác nghiệp, cũng sẽ tạo tác nghiệp, dụ đầy đủ hai lập.

Hỏi: Người ngoài nương vào sắc đồng xứ chẳng lìa nhau lập ra lỗi bất định, lập lượng rằng: “Ngã mà tôi chấp thể nhất định chẳng phải là một, vì thừa nhận lại biến khắp, như sắc đồng xứ chẳng lìa nhau trong Đại thừa của ông”, đây có lỗi gì?

Đáp: Tỷ lượng có hai lỗi.

1. Có lỗi nhân trái nhau trong tự tướng của hữu pháp, ngã cũng đã tranh cãi, sắc đồng xứ chẳng lìa nhau, thể chẳng phải ngã, đây là nhân cùng biến khắp vì sắc đồng xứ làm đồng pháp, tức là ở nơi ngã dị dụ chuyển, lại không phải biến là ngã đồng dụ.

2. Có lỗi nhân trái nhau trong sai biệt của hữu pháp, ngã của hữu pháp chính là ngôn thuyết hiển bày, giả ngã thật ngã tức là ý thừa nhận, hữu pháp sai biệt, vì sắc đồng xứ chẳng lìa nhau trong Đại thừa tức là giả ngã, lại cùng biến khắp là dụ đầy đủ hai lập, lại không phải thật ngã, lại biến đồng dụ, nên lập lượng rằng: “Ngã mà ông chấp, lẽ ra là giả ngã chẳng phải thật ngã, vì thừa nhận lại biến khắp, như sắc đồng xứ chẳng lìa sắc”.

Yếu Tập ghi: Tam Tạng có ba thuyết:

Một nói rằng: Đồng xứ chẳng lìa nhau, luận Du-già theo Chuyển môn của Kinh bộ, chẳng phải chánh nghĩa của Đại thừa.

Hai nói rằng: Cũng là chánh nghĩa của Đại thừa, nhưng thức đã biến là giả chẳng phải thật, đều không lìa tâm nên được thể nhập, không đồng với tông kia nhãn v.v… thật có không được thể nhập.

Ba nói rằng: Bảy vật loại riêng đồng xứ không lìa, ngã loại không khác đồng xứ lẽ ra lẫn lộn, ý của ngài Tam Tạng giữ lại thuyết thứ hai. Yếu Tập ghi: “Nay tìm giải thích ban đầu có tha bất định. Theo giải thích thứ hai, tuy thức biển giả, bảy vật chẳng thành một, nên cũng bất định. Theo giải thích thứ ba, ngoại khí loại đồng chỉ có một, không phải lẫn lộn thành một nên cũng bất định”. Nên nay nhân nói rằng: “Đồng loại không phải tăng giảm, lại tướng biến đổi, không phải lỗi bất định, đồng loại lựa ra bảy vật không phải tăng giảm lựa ra ngoại khí, ngoại khí có tăng giảm, ngã tức là không như vậy”. Hoặc có thể nhân nói rằng: “Trời cho, thần cho hai ngã tùy theo một nhiếp lại tướng biến, cũng không phải bất định”, nay cho rằng giải thích này không xứng hợp với chánh lý, thêm văn của Túc luận. Sớ nói nên nói thường biến, tức là vặn hỏi: “Có trái với lỗi của luận”, nay thêm năm chữ, đâu không phải là lỗi.

Lại ghi: Hoặc có thể nói hai ngã tùy theo một nhiếp lại tướng biến, cũng thêm văn luận, lại trong hai giải thích đồng dụ đều thiếu pháp của sở lập, lỗi như trước hiển bày, lại có lỗi tỷ lượng tương vi quyết định nhân, nên nương theo Sớ.

Hỏi: Kể ra ba loại sau đã chấp ngã, luận Du-già quyển 65 v.v… chung có bốn loại, nhưng chỉ hai loại trước không nhiếp thứ ba, nếu như vậy vì sao luận kia nói nương theo ngã phân biệt chấp làm hữu, đều nhiếp ở trong bốn loại chấp này, trừ đây lại không có, vì sao không thâu nhiếp?

Đáp: Kia căn cứ theo tự tánh của ngã chấp, không vượt ngoài bốn loại kia, nay căn cứ theo hữu tình giải thích vọng nghĩa là ngã, nên nêu ra phá, kỳ thật là phá pháp chấp này.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao sau sinh ra hư không đoạn?

Đáp: Văn kia tổng nói chẳng phải thuộc riêng biệt, văn chung ý riêng, đây lệ thuộc vào văn. Lại trong Xu Yếu có một giải thích, do luận kia không chép.

Tây Minh ghi: Thứ nhất tức là uẩn, là ngoại đạo Thù-trưng-già, họ chấp các uẩn đều có tánh của uẩn, như trong tông nói, tất cả các pháp lấy Chân như làm tánh, họ chấp vào tánh của uẩn cho là thật, ngã, tức là lẽ ra luận Đại Bà-sa ghi: “Hai mười câu Tát-ca-gia kiến” nay cho rằng giải thích này, lý ít vặn hỏi rõ ràng, hai mươi câu chấp của thân kiến v.v… tức là năm uẩn sắc v.v… là ngã. Họ chấp theo tánh của sắc nói rằng: Vì sao nói tức là hai mươi câu? Nay vả lại giải thích, tuy đều tức là uẩn mà chấp có khác, một chấp vào sắc v.v… tức là làm ngã, một chấp vào tướng của sắc lấy làm ngã, tánh tuy chẳng phải ngay nói sắc nhưng là thuộc về uẩn, vì tánh của uẩn, hoặc chấp vào tánh của uẩn, chẳng phải ngay nơi uẩn nhiếp. Như Chân như của Đại thừa, tuy tánh của các uẩn chẳng phải là uẩn nhiếp, nên là thứ hai khác uẩn mà ở trong uẩn thuôc về câu, hoặc chấp tánh của uẩn, tánh là thế, chấp vào thể của uẩn này tức là ngã, vì họ không lập có năm uẩn. Nói năm uẩn là luận về pháp của Phật, hãy xem luận Bà-sa.

Tây Minh lại ghi: Trong ba loại sau, vì sao chỉ ba loại mà không phải vừa tức vừa ly? Giải thích rằng: Phi tức phi ly, tức là diệc, tức phi ly, nên không phải nói riêng, nghĩa nó như thế nào? Nếu biểu hiện tức là ly, thành tựu câu thứ ba, nếu ngăn ngại tức là ly thành tựu câu thứ tư, nghĩa là tức nên chẳng phải ly, ly nên chẳng phải tức, nên luận Hiển Dương, luận Bà-sa v.v… đều nói như vậy. Câu thứ ba, thứ tư do nghĩa có khác mà thể không khác. Song câu thứ ba này cùng với câu thứ tư, hoặc có đồng thể, hoặc có khác thể, tùy theo chỗ ứng mà biết. Nay cho rằng chưa nhất định đều là bốn câu, như nói biên kiến chỉ có đoạn thường, không lập ra bốn câu. Tư lương phi tư lương v.v… câu đều như vậy, vì sao ngã này chỉ tranh cãi bốn câu? Lại nữa, chấp ngã căn cứ theo có tự thể mà nói, câu thứ ba, thứ bốn đã không phải thể riêng nên không phải đây.

Tây Minh lại ghi: “Câu thứ bảy và câu thứ tư triển chuyển nhiếp nhau”, luận này câu thứ ba tức là kia câu thứ hai trước. Vì sao? Vì chẳng phải tức nên kia lìa uẩn, vì chẳng phải ly nên kia tức là uẩn, nên luận này nói rằng: Thừa nhận nương theo uẩn lập, nếu không như vậy liền trái luận Du-già, tất cả chấp ngã không có lỗi bốn loại.

Nay cho rằng không như vậy, nếu chuẩn theo đây giải thích, nhưng chỉ câu thứ ba một loại chấp ngã, tức là nhiếp vào luận Du-già, chấp của bốn loại, vì sao được nói hoặc ba hoặc bốn? Lại tức là hai câu trước, luận vì sao chỉ nói lấy làm câu thứ ba? Lập luận dài dòng như vậy có ích gì, nên phải nương theo lấy thuyết của Sớ, Xu Yếu là chính.

Yếu Tập ghi: “Có giải thích cho rằng Du-già bốn chấp chỉ có phân biệt”, trong đây thứ ba thuộc về Câu sinh, tự động ngã chấp không chấp vào tức, ly, nên sau nói đủ hai kiến. Theo uẩn, không có duyên ngã sinh, nếu pháp kế chấp không thông với hai chấp, không nên đồng mở bày hai chấp duyên theo uẩn. Yếu Tập ghi: “Nay cho rằng luận Du-già chỉ nói phân biệt”, luận này thông cả hai nghĩa này có thể như vậy, luận này thứ ba làm sao được biết chỉ là Câu sinh mà không phân biệt, chỉ bên trong chẳng phải bên ngoài? Truyền thuyết của ngài Tam Tạng, Độc tử chấp ngã tợ như chấp của Độc tử ngoại đạo, đã như vậy vì sao không phá được phân biệt của ngoại đạo, chỉ phá được Câu sinh của Tiểu thừa? Lại Độc tử kia lại luận chưa được Thánh thì chấp. Vì sao không thừa nhận trong thân sinh khác khởi phân biệt kiến? Do thứ ba này nêu chung phá được phân biệt, Câu sinh, đối với lý thì thù thắng. Nay cho rằng không như vậy, nếu chỉ phân biệt có thể thuận với văn của luận, kia lập ra năm tàng, ngã ở nơi thứ năm không thể nói tàng, đâu phải Câu sinh kiến lập ra là chấp ư! Lại không được nói Độc tử bộ thừa nhận lại luận xưa chấp chẳng căn cứ theo hiện tại chấp, lý cũng không như vậy. Trong luận Tông Luân hiện tại nêu nó đồng chấp vào ngã, Chánh Lượng bộ v.v… vốn chẳng phải ngoại đạo cũng chấp ngã. Lại luận Câu-xá quyển 29 dẫn kinh là vặn hỏi Độc Tử bộ rằng: “Kinh nói khởi ngã kiến vào đường ác kiến”, đồng với các ngoại đạo cho đến rộng nói Bộ kia chung cùng. Kinh này chẳng phải lượng, ở trong Ngã bộ chưa từng đọc tụng. Nếu như vậy vì sao Vô học lại khởi ngã chấp kiến?

Đáp: Như giải thích trước, hoặc có thể được nói chỉ bậc Hữu học, phàm phu lập ra Chân như là chấp, văn không lựa ra.

Trong lượng phá Câu phi ngã, Sớ nói nếu phá được câu đồng thời, tông khác cũng nói ngã chẳng phải câu đồng thời, phạm lỗi tương phù. Lại không phải đồng dụ, ý này họ lập ra phi tức là lìa ngã, cũng không được nói làm câu ngã phi ngã đồng thời, vì không thể nói. Như Đại thừa nói thể của Chân như, chẳng phải thuộc câu vừa hữu vừa vô đồng thời v.v… Nay nếu phá tông khác nói rằng lẽ ra không thể nói làm ngã phi ngã, nên phạm lỗi tương phù. Lại không phải đồng dụ, như lông rùa v.v… tuy không được nói làm ngã mà được nói làm phi ngã, nên chẳng phải đồng dụ, Hữu vi Vô vi làm dụ cũng như vậy. Lại nếu cả hai chấp lấy ngã phi ngã làm pháp, trong Hữu vi Vô vi, tùy nêu một pháp cũng được làm dụ, vì sao cần phải cả hai nêu lên làm Vô vi? Nay giải thích thêm rằng: Ý kia tuy không được nói làm ngã phi ngã, nhưng thừa nhận ngã ở nơi tàng không thể nói, không thể nói tàng trong ngã không được nói làm ngã phi ngã. Nay vặn hỏi, khiến cho nó đã không thể nói làm ngã phi ngã, cũng không nên nói có, không thể làm ngã phi ngã tụ, ngã ở trong tụ nghĩa. Vì sao? Như Hữu vi Vô vi, ngã của ông không được nói lập ra Hữu vi Vô vi, tức là không được nói có. Không thể nói Hữu vi Vô vi là không thể nói tàng, ngã của ông đã không được nói lập ra ngã phi ngã, vì sao liền lập ra có? Không thể nói ngã phi ngã tụ, là không thể nói tàng, nên nêu Hữu vi Vô vi lấy làm đồng dụ. Lại lẽ ra tuy không thể nói làm ngã phi ngã, nhưng thừa nhận chấp làm ngã, lẽ ra không thể nói lập ra vi Vô vi làm vi Vô vi. Song ý của Bản sơ ghi: Tông kia chấp ngã tuy không nói lập ra ngã phi ngã, thường vô thường, vi Vô vi, nhưng chấp làm ngã. Nên nói rằng vả lại lấy ngã phi ngã làm thí dụ, không nói cái khác. Lượng rằng: “Ngã mà ông chấp lẽ ra không thể nói là ngã”, căn cứ theo thuyết của bản chấp, tuy không được nói là ngã phi ngã nhưng chấp làm ngã, nên nay riêng phá. Lại lượng rằng: “Ngã mà ông chấp đối với ngã phi ngã tụ nghĩa, lẽ ra cũng không thể nói”, nên lập lượng rằng: “Ngã của ông ở trong ngã phi ngã tụ lẽ ra không được nói ở kia, vì không thể nói. Nhân như Hữu vi Vô vi, ý đây nói rằng không thể nói không phải là lìa lời, nên không thể nói. Nhưng lấy ngã trên không thể nói lập ra vi Vô vi, ngã phi ngã, không thể nói lấy làm nhân, như Hữu vi Vô vi là dụ, ý này chấp lấy ngã trên, có thể nói lập ra nghĩa của vi Vô vi làm dụ. Không chấp lấy riêng thể của vi Vô vi lấy làm đồng dụ, ý này nói chung, không nhất định nói ở trong ngã phi ngã tụ nghĩa. Chân như không được nói ở trong vi Vô vi, vì không thể nói, không chấp lấy thể của nó, nếu không như vậy ngã là hữu pháp, lại có pháp nào gọi là ngã phi ngã tụ? Nên lượng này đúng.

Tây Minh, Yếu Tập đều chấp lấy phi lượng của Xu Yếu là chính. Phi lượng lượng rằng: “Ngã mà ông chấp, không nên nói ngã, ngã chẳng phải tha ngã”, vì thừa nhận không thể nói, như Hữu vi Vô vi lấy nó làm chính. Vả lại Tây Minh ghi: “Ngã mà ông chấp lẽ ra không thể nói được vì là tự ngã chẳng phải tha ngã, không thể nói Hữu vi Vô vi, giống như hoa đốm trong hư không, Xu Yếu đều lấy làm chính. Lại kế chấp của họ tuy chấp có ngã, không được nói làm ngã phi ngã, vì thuộc trong tàng không thể nói, nếu nói lời làm tự ngã chẳng phải tha ngã. Vì sao gọi là không thể nói? Nếu nói rằng không thể nói lập ra Hữu vi Vô vi, nên ở trong không thể nói, Hữu vi pháp kia cũng không thể nói, lập ra Vô vi và ngã nên ở trong tàng không thể nói. Yếu Tập ghi: “Nói rằng tự ngã chẳng phải tha ngã”, chỉ phá được một Luận sư một ngã, chẳng cho rằng tất cả. Nếu như vậy vì sao ngoại đạo chấp vào ngã là tha ngã. Số luận thọ ngã là tự ngã chẳng phải tha ngã. Thắng luận chấp tác thọ ngã đều như vậy, nghĩa là Tam Tạng lượng rằng: “Tự ngã chẳng phải tha ngã là người khác lập ra”. Tam Tạng nêu tha ngã chẳng phải tự ngã chính là thích hợp, văn của luận đã nói “đã không thể nói Hữu vi Vô vi”, lẽ ra cũng không thể nói là ngã phi ngã, đều là nêu dụ, không phải lấy làm nhân vì sao nói lẽ ra không thể nói là ngã phi ngã, nói “vừa vừa” là ai nói? Cho nên Sớ là đúng.

Hỏi: Trong kinh Đại Niết-bàn cũng nói năm tàng, nghĩa là ba đời là ba, Hữu vi là một, gọi là Hữu vi tàng, Vô vi là một cũng gọi là không thể nói tàng, khác gì với đây?

Đáp: Luận có khác, chuẩn theo có thể biết.

Luận rằng: Lại các ngã kiến không duyên theo thật ngã v.v… Yếu Tập ghi: “Luận Quảng Bách lập lượng rằng: Ngã kiến quyết định không duyên theo thật ngã tướng của nam nữ v.v… đã lẫn lộn, như duyên theo thân v.v… khởi tướng của nam v.v… tâm đã lẫn lộn. Lại ngã kiến không duyên theo thật ngã, vì có sở duyên, như tâm khác v.v… lại cảnh của ngã kiến chẳng phải là thật ngã, tướng của nam v.v… là sở duyên của tâm, giống như thân v.v… do đây nên biết, tất cả ngã kiến đều không thật ngã lấy làm cảnh giới, chỉ duyên theo hư vọng thân v.v… làm cảnh tùy theo vọng tưởng của mình biết được tuệ sinh, như thấy sợi dây trong đêm tối nghĩ là con rắn. Theo Bản thích ghi: Lại các ngã kiến không duyên theo thật ngã, đây chẳng phải lập ngã kiến của ngã giải. Căn cứ theo ngã kiến không duyên tức có lỗi tương phù. Nay nói không duyên, đứng về kiến của duyên ngã thì nó là nhiễm tuệ. Đây đứng về kiến mà vặn hỏi khiến nó không duyên nên không phải lỗi tương phù.

Sớ ghi: Kỳ thật cũng có, chẳng phải không có bản chất vì là Câu sinh, nên đây nói năm thủ uẩn v.v… đều khởi ảnh tượng. Nói “vừa” là vì tướng phần cũng là bản chất, không có tướng hữu vô chấp là ngã, nên nói khởi tướng tự tâm, cũng có chẳng phải không có bản chất, nên nói duyên theo năm thủ uẩn.

Trong phần Tu đạo ở sau, nói thường thường tu tập mới có thể đoạn, nếu theo phục trừ hiện hành ở trong Đại thừa, lại bi, trí cả hai tăng, lại bố thí không bố thí phiền não có khác nhau, lại Thức thứ sáu Câu sinh ngã chấp, kiến phi kiến đoạn chung có năm giải thích, như Xu Yếu nói. Lại căn cứ theo chung riêng duyên theo uẩn sinh, thứ lớp đắc quả, sai biệt của đoạn cũng lập ra năm giải thích:

1. Nếu chung nếu riêng đều đắc phẩm đoạn thứ chín của Phi tưởng, nếu như vậy tức là có lỗi lại đoạn ở sau.

2. Chung là phẩm đoạn thứ chín của Phi tưởng, riêng là phẩm đoạn thứ chín của địa địa, đây có hai lỗi, nếu chung thì có lỗi đoạn lại ở sau, nếu riêng thì có lỗi Hậu đắc không đoạn.

3. Ngược với giải thích thứ hai trước, cũng đồng với lỗi trước đều có hai lỗi.

4. Chung riêng địa địa mỗi mỗi chín phẩm riêng đoạn, nếu như vậy tức là có lỗi Hậu đắc không đoạn hoặc.

5. Chung riêng đều đoạn ở nơi tự địa phẩm thứ chín. Giải thích này là chính, không phải hai lỗi trước, tu đoạn thường hay không thường chuẩn theo mà biết.

Hỏi: Thứ lớp Thanh văn nghĩa đó như thế nào?

Đáp: Các bộ của Tiểu thừa cùng nói bất đồng. Vả lại nương theo Đại thừa luận tiểu quả, nghĩa là có Thanh văn tánh thông với lợi, độn ở nơi kiến đạo trước không phục trừ tu hoặc, chỉ phục trừ kiến hoặc, lúc nhập vào kiến đạo liền đoạn được kiến đạo phiền não ba cõi, đắc được quả Dự lưu, ở trong kiến đạo đoạn được tức là lìa uẩn sở hữu ngã kiến, ba tâm kiến đạo đoạn, trước sau như thuyết của Xu Yếu. Từ kiến đạo này mười sáu tâm sau ở trong tu đạo, thứ lớp đoạn được tám mươi mốt phẩm tu sở đoạn hoặc trong ba cõi chín địa, như chỗ thích hợp đắc được ba quả sau, gọi là thứ lớp đắc, đoạn được mê lý sự. Năm giải thích như trước, thường đoạn thường tu cũng chuẩn theo năm thuyết.

Nói vi tế nên khó đoạn, tế có bốn nghĩa:

1. Phẩm loại đối, trong chín phẩm, phẩm thứ chín nhiếp, mong mê lý khác đều đồng với phẩm thứ chín, nếu nói tự loại cũng có chín phẩm.

2. Phân biệt Câu sinh đối, đây tự động khởi.

3. Kiến tu đối, đây chỉ tu đoạn.

4. Thượng hạ đạo đối, chỉ thượng đạo đoạn nên gọi là tế.

Trong thường tu đoạn Thanh văn, Duyên giác, Nhị thừa có khác nhau, trong Thanh văn thứ lớp vượt hơn, lại có hai loại khác nhau. Trước căn cứ theo người thứ lớp đắc quả mà nói, nếu vượt hơn người lại có ba loại, một chỉ vượt hơn Sơ quả, hai vượt hơn hai quả đầu, ba vượt hơn hai quả giữa. Vả lại vượt hơn Sơ quả nghĩa là có tánh của Thanh văn là lợi căn, lúc trước hàng phàm phu vui vẻ cầu sinh lên, vì khổ, thô v.v… sáu hành thế đạo, phục trừ được sáu thức Câu sinh mê sự thô hoặc trong cõi Dục, tức sáu phẩm trước, bèn ở lúc sau gặp duyên hướng đến cầu quả Thanh văn, tu bảy phương tiện, lấy làm gia hạnh. Lúc nhập vào kiến đạo, trong một sát-na tu hợp đoạn được quả thứ hai, vì sáu phẩm kia trước đã phục trừ, nên kiến đạo có thể đoạn, hoặc của mê lý tuy trước không phục trừ, phục trừ bạn loại kia. Lúc nhập vào kiến đạo, cũng một lúc đoạn, đạo, đoạn thường thường chuẩn theo nó có thể hiểu.

2. Vượt hơn hai quả đầu đắc được quả thứ ba, nghĩa là có tánh của Thanh văn là lợi căn, lúc trước hàng phàm phu sẽ dùng sáu hành phục trừ tu hoặc cõi Dục, chín phẩm mê lý, cho đến vô sở hữu sở chín phẩm sự hoặc, sau nhập vào kiến đạo, trước đã phục trừ và do không phục trừ, cũng cùng với kiến hoặc, hợp một lúc đoạn. tu, đoạn thường thường chuẩn theo có thể biết.

Hỏi: Hai loại trước, người vì sao không phục trừ được hoặc của mê lý?

Đáp: Do họ không hiểu được tu lý quán hoặc của mê lý không trái với sự quán, nên không thể phục trừ.

Hỏi: Vì sao không phục trừ được Hoặc của Hữu đảnh địa?

Đáp: Vì nó vi tế, không phải trên có thể vui vẻ làm ra sáu hành nên không thể phục trừ, lại hoặc vi tế kia không chướng ngại bậc hữu học, nên chỉ đoạn như vậy. Vượt hơn hai quả ban đầu, trước nương theo chánh nghĩa, bèn nói không chính, sợ dài dòng nên không nêu ra. Lại nói tướng kiến đạo đoạn là không ứng hợp với chánh lý, luận Du-già chỉ nói Thế gian đạo và xuất thế gian đoạn được hoặc của mê sự, không trừ được mê lý, lại không thể nói mê lý chân kiến trừ, hoặc của mê lý tướng kiến đoạn, cũng không nói tướng kiến đoạn, sau chỉ khởi riêng đạo đoạn. Luận Đối Pháp nói người vượt hai quả trước và thứ lớp đều là tâm thứ mười sáu kiến lập quả Thánh, không phải chỉ khởi đạo. Lại luận Du-già quyển 59 ghi: “Hỏi: Vị tri dục tri căn, ai làm sở y xứ?

Đáp: Chứng đắc được sơ quả, quả thứ hai quả thứ ba Sa-môn làm Sở y xứ.

Hỏi: Dĩ tri căn ai là Sở y xứ?

Đáp: Cho đến quả Kim cương dụ định, Vô học, Sa-môn, chứng được sở y xứ, nên tâm thứ mười thứ mười sáu đắc được ba quả đầu.

Lại quyển 79 ghi: Hỏi bao nhiêu căn đắc được quả Dự lưu?

Đáp: Hoặc một căn hoặc tám căn. Bao nhiêu căn đắc được quả thứ hai? Hoặc hai căn hoặc chín căn đắc được quả Nhất lai.

Hỏi: Bao nhiêu căn đắc được quả Bất hoàn?

Đáp: Hoặc mười một căn hoặc hai căn, sơ quả hoặc một căn, nghĩa là Vị tri đương tri căn, hoặc tám căn thêm tín v.v… năm căn và ý căn, xả căn. Đây là theo người quyết định thứ lớp. Quả Nhất lai hoặc hai căn hoặc chín căn, theo người vượt hơn như Sơ quả mà nói, thứ lớp tức là Dĩ tri căn. Hai tùy một đắc, không phải nhất định hai đắc, nên nói rằng hoặc hai, chín căn tín v.v… bảy định, vị tri căn v.v… hai tùy một bất định, dung chứa chín căn đắc, chẳng phải nhất định chín căn đủ cả, giống như bất định đặt ở đây hoặc nói, đã nương theo cận phần đầu tiên nên chỉ xả căn.

Hỏi: Có bao nhiêu căn đắc được quả Bất hoàn?

Đáp: Hoặc mười một căn, hoặc hai căn, đây theo người vượt hơn như Sơ quả mà nói, người thứ lớp nương Dĩ tri căn. Hai tùy một được nên nói hoặc hai căn, hoặc mười một căn. Ở trên chín căn trước, thân hỷ lạc, tùy theo nên được nương tựa thiền định nhập vào kiến đạo, cận phần của Sơ thiền và định thứ tư, tức là nương theo xả, hai căn đầu vốn hỷ, căn thứ ba tức là lạc, ba thọ tùy theo một, nên nói hoặc mười một căn chẳng phải ba thọ đủ cả, hoặc có thể đủ. Ba thọ tùy theo một, thêm một mạng căn, nam, nữ tùy một, nên thành tựu một mười căn. Nếu thân hỷ lạc, ba thọ không đủ, vì sao thành mười hai căn? Trước giải thích là chính, có giải thích tám căn là trừ Vị tri căn, thân mạng căn, chín căn là thêm hỷ căn. Mười một căn là thêm hỷ căn, ưu căn, giải thích này không đúng. Quyển 57 phần Sơ quả ghi: “Ưu căn tuy đạo sở y chẳng phải là đạo nhiếp”, nên trong đây không chọn. Trong quả Bất hoàn lại nói rằng: “Ưu căn đạo lý như trước nên biết”, nên không lấy ưu căn, nương theo căn bản ban đầu, thứ lớp cũng nhập vào, nương theo ba thiền trên chỉ vượt lên quả nhập vào.

Hỏi: Có bao nhiêu căn đắc được quả A-la-hán?

Đáp: Hoặc một căn, hoặc mười căn. Một căn nghĩa là Dĩ tri căn, mười căn nghĩa là trong mười một căn trừ Vị tri đương tri căn. Đây nói có thể đắc, chẳng nói đã đắc, nên trừ Cụ tri còn lại rộng phá những người đặt lời dài dòng. Vượt hai quả đắc được quả thứ tư, nghĩa là có tánh của Thanh văn là lợi căn, lúc trước ở phàm phu, chẳng phục được tu hoặc, trong bảy phương tiện chỉ phục được kiến hoặc, khi nhập kiến đạo đoạn hết kiến hoặc ba cõi, đều được Sơ quả, nhưng chưa đoạn tu hoặc, nhờ sức ý lạc nên kham nhẫn được, nương theo cận phần ban đầu dĩ tri, đương tri căn đắc được căn bản, nên tổng tướng ba cõi, sáu thức tu hoặc, trong chín Địa buộc làm chín phẩm, như phẩm đầu của cõi Dục cho đến Hữu đảnh, hoặc của phẩm đầu hợp làm một phẩm, tám phẩm còn lại chuẩn theo đây. Nếu Thức thứ sáu mê lý tế hoặc, trong địa địa tuy mỗi mỗi chín phẩm nay hợp với Thức thứ bảy đều lấy phiền não chung làm một phẩm, cùng với phẩm thứ chín, hoặc của mê lý, đồng thời liền đoạn, thành quả A-la-hán, đại đạo thường thường chuẩn theo đây cũng có thể biết.

Hỏi: Đã làm chín phẩm lúc đoạn sáu phẩm tu hoặc của cõi Dục, vì sao không đắc được quả thứ hai, đoạn chín phẩm của cõi Dục, vì sao không đắc quả thứ ba?

Đáp: Lúc đoạn sáu phẩm của cõi Dục hợp với hai cõi trên đều đoạn sáu phẩm, lại không phải ngừng cầu, chưa được xuất quán, nên không đắc được quả thứ hai, lúc đoạn chín phẩm của cõi Dục, hợp với Hữu đảnh hoặc cũng đều đoạn hết, tức là đắc được quả thứ tư, nên không chấp lấy hai quả giữa.

Hỏi: Là chỉ người sơ quả chưa được tiến lên đoạn hoặc được vượt lên hai quả giữa, là đoạn được phẩm khác, cũng có thể vượt lên ư?

Đáp: Chuẩn theo luận Đối pháp dẫn chỉ rõ đầu mối kinh, chỉ chưa đoạn cái khác có thể nói rõ Thánh chỉ, không nói cái khác do đắc quả rồi có công năng kham nhẫn thù thắng. Nếu ít tiến đoạn, tức là chẳng phải loại này, vì không có công năng thù thắng.

Người của Độc giác, có hai loại khác nhau: Một dụ cho Lân Giác, một là dụ cho ba ngàn cõi chỉ độc một người ra khỏi, đây là lợi căn. Lúc trước địa vị phàm phu, sáu hạnh phục trừ, Hoặc từ vô sở hữu trở xuống, trăm kiếp luyện căn, lúc nhập vào kiến đạo, từ Địa thứ tám trở xuống phục trừ loại kia, cùng với kiến hoặc đồng thời đoạn, ra khỏi kiến đạo đã riêng khởi chín vô gián, chín giải thoát, đoạn được Phi tưởng địa chín phẩm phiền não, nên người dụ Lân Giác này, không đầy đủ trăm kiếp tu luyện và từ vị Thanh văn quyết trạch, lúc định chưa sinh, đã qua làm Bích-chi đứng đầu trong chúng, tuy không đợi sư mà tự mình ngộ đạo, gọi là người Độc Giác, thừa nhận có xuất nhiều lần, nên gọi là Bộ Hành. Lại có một giải thích như bản Ký quyển 5, thông với định bất định tánh. Nếu trăm kiếp luyện căn, đắc được Bích-chi tức là chỉ định tánh, nghĩa còn lại chuẩn theo trước.

Hỏi: Vì sao biết thân kiến có hai, kiến đạo có một?

Đáp: Chuẩn theo kinh Lăng-già bộ bốn quyển, quyển 2 ghi: “Thân kiến có hai loại, nghĩa là Câu sinh và vọng tưởng”, cho đến nói cùng với hai thân kiến trước vọng tưởng đoạn, nên nghi pháp không sinh, chuẩn theo văn của kinh này, đã nói rằng cùng với hai thân kiến trước vọng tưởng đoạn nên nghi pháp không sinh, tức là rõ ràng nói thân kiến có hai. Sơ quả chỉ đoạn vọng tưởng thân kiến, không đoạn Câu sinh, không cần giải thích rộng.

Hỏi: Có thể có đoạn được phi tưởng sáu phẩm hoặc trước rồi, sau đó mới đoạn được ba phẩm hoặc sau của cõi Dục ư?

Đáp: Có, như người vượt lên hai quả giữa, chấp lấy quả thứ tư, tức là việc đó. Lại như người quả Tư-đà-hàm trụ nơi tự quả, đã đoạn sáu phẩm hoặc của cõi Dục rồi mới hồi tâm chấp lấy quả Duyên giác, không thể dần dần đoạn được cái khác, chưa đoạn chấp lấy quả Duyên giác vì quả Duyên giác ba mươi bốn tâm thành tựu Bồ-đề, lại cùng với thứ lớp bốn quả không khác. Giả sử nay đắc được hai quả rồi, không phải lại gom hợp trước hợp làm ba mươi bốn tâm, ba mươi bốn tâm chỉ căn cứ theo thuyết của từ phàm phu tức là lập ra, quả thứ hai này chỉ ở sau khởi chín vô gián, chín giải thoát đạo, đoạn được các hoặc khác tức là ba phẩm hoặc sau trong cõi Dục, vì từ vô sở hữu xứ trở xuống phiền não do thế đạo phục trừ, khởi sáu vô gián. Giải thích đoạn được phi tưởng phi phi tưởng xứ v.v… sáu phẩm hoặc trước đã đoạn, mới đoạn cõi Dục dưới, trước đã phục trừ, không đồng với kiến đạo, một phẩm đạo, hoặc các địa trước đã phục trừ, cùng với Phi tưởng địa, thượng thượng phẩm hoặc, một lúc liền đoạn. Trước đã phục trừ, nhưng trước nói người vượt lên quả thứ tư là đoạn được sáu phẩm hoặc Vô sắc trước xong, mỗi đoạn được các phẩm hoặc Địa dưới sau, chưa thấy được văn, hai thuyết mặc tình chọn.

Hỏi: Chuẩn theo thuyết của Tiểu thừa, ba mươi bốn tâm được thành tựu Bồ-đề, Đại thừa như thế nào?

Đáp: Chuẩn theo thuyết của Đại thừa có năm mươi bốn tâm, cả hai loại mười sáu tâm đều có chín vô gián, chín giải thoát đạo, thành năm mươi tâm. Trong ba tâm kiến đạo chỉ có hai tâm, nhưng chia ra hoặc chướng làm thượng hạ đoạn, không đoạn được tri chướng nên hợp với hai tâm của chân kiến, vô gián một tâm, giải thoát một tâm, hoặc có năm mươi tâm, trừ ba tâm trong kiến đạo, thượng hạ hai tâm vì hàng Nhị thừa không lập ra phi an lập quán.

Hỏi: Hướng đến quả Thanh văn, kiến đế tâm thứ mười sáu tức là kiến lập quả, vì sao hướng đến Duyên giác mà không kiến lập ư?

Đáp: Vì không trụ vào đạo, tâm kỳ hẹn khác.

Hỏi: Chuẩn theo Đại thừa luận Tiểu thừa không thấy được chân kiến, vì thô chỉ biết được tướng kiến. Vì sao trong tu đạo tức là thấy được chân vô gián, giải thoát?

Đáp: Kia tự đem ra làm chân vô gián, giải thoát Đại thừa luận kia chỉ thấy được gia hạnh trước.

Hỏi: Đại thừa luận Tiểu thừa, có chân, kiến tướng kiến đạo, vì sao

không nói Tiểu thừa có chân kiến tướng tu đạo?

Đáp: Trong kiến đạo gia hạnh trước rộng, thời gian dài học quán, ban đầu vào khó, vì mới đắc quả. Do đó quán lại có tướng kiến đạo, trong tu đạo không làm ra thời gian dài rộng nhiều hành tướng, vì chín địa phẩm riêng đoạn, lại sẽ đắc quả, nên không phải quán lại, do đó không nói có tướng tu đạo.

Hỏi: Đại thừa như thế nào?

Đáp: Đã có trí hậu đắc Vô lậu, quán lại như trước, có cũng không phải lỗi nhưng không phải quyết định, cần phải quán lại, nên không pháp lập riêng.

Hỏi: Sơ quả tức là ở nơi tướng thứ mười sáu, mới bắt đầu kiến lập quả, ba tướng sau vì sao ở nơi giải thoát kiến lập?

Đáp: Ban đầu được nhập vào kiến đạo, cần phải quán lại đế, tâm thứ mười sáu sự mới cứu cánh bản chất được lập quả, Hậu đắc trí của tu đạo không cần quán lại, ở nơi giải thoát đạo, sự đắc được cứu cánh, nên được lập quả.

Hỏi: Như hàng Thanh văn đắc được Vô học, đã trở lại hướng đến Duyên giác lúc sau luyện căn, nhập vào quán đạo nào? Đoạn được các chướng nào?

Đáp: Như cực quả nhân, lúc hướng đến Duyên giác, chỉ khởi chín vô gián, chín giải thoát, nghĩ dáng vẻ vô gián, giải thoát, chẳng phải chân vô gián v.v… chỉ duyên theo sự quán không nhập vào Sinh không quán, vì lại không phải hoặc có thể đoạn có thể chứng, nhưng tâm hành giải lập ra vô gián, giải thoát đạo, vài lần tư duy khiến cho cực quả kia tín v.v… năm căn dần dần rõ ràng lợi ích, lại không phải đoạn hoặc mà tức là đoạn quả. Hai nói rằng nếu nhập vào Sinh không, trừ được căn chướng, làm đạo của vô gián v.v… lý cũng không ngăn ngại, khiến cho trí rõ ràng lợi ích, không phải có thể đoạn được hoặc.

Hỏi: Bậc Vô học lúc hướng đến đoạn được căn chướng, đắc Vô vi riêng chăng?

Đáp: Đắc cùng với bất đắc.

Hỏi: Đều có lỗi gì?

Đáp: Cả hai đều có lỗi.

Hỏi: Nếu nói đắc, vì sao nói Tam thừa đồng ngồi giường giải thoát?

Đáp: Nghĩa đây không đồng, đồng đắc được giải thoát là đồng đắc được hoặc bất sinh giải thoát, không nói Vô vi cũng đồng.

Hỏi: Nếu nói bất đắc, vì sao luận Tạp Tập nói đoạn được hạ liệt thọ, đắc được hai Vô vi?

Đáp: Kia căn cứ theo vĩnh viễn đoạn, chỉ ở Đại thừa, chẳng phải Nhị thừa, vì không đoạn được nhưng phục trừ được định, căn cứ theo phiền não diệt đã giải thoát không riêng, như Sớ quyển 10 giải thích trong mười Chướng rất rõ.

Hỏi: Hàng Thanh văn chấp lấy tự quả, chuyển thành lợi căn, làm sự lý quán ư?

Đáp: Chỉ làm ra sự quán không làm ra lý quán, vì tu luyện căn không phải hoặc có thể đoạn, lại không đắc quả, nhưng làm sự quán không chỉ đều được Vô vi. Nếu Đại thừa Bồ-tát tu luyện căn, nhập vào pháp không quán đoạn được sở tri chướng, tức là khác với họ.

Hỏi: Pháp quán là tế Sinh quán là thô, pháp quán nhất định mang theo Sinh quán, sinh chấp là thô pháp chấp là tế, lúc đoạn pháp, sinh nhất định đoạn?

Đáp: Giả sử như vậy cũng đâu có lỗi gì!

Hỏi: Nếu như vậy vì sao luận quyển 9 trong đoạn nói ba tâm kiến đạo, tâm thứ hai bên trong sai khiến các pháp giả trí, chỉ đoạn được pháp chấp, không đoạn được sinh chấp ư?.

Đáp: Căn cứ theo thật đoạn pháp chấp ắt sẽ có thể đoạn được sinh chấp, vì tâm gia hạnh kia kỳ hẹn khác nhau, cũng không trái với lý.

Hỏi: Vì kiến đạo mong tu đạo tức là thừa nhận trong kiến đạo, đoạn pháp không đoạn nhân, cũng vì tu đạo mong kiến đoạn, trong tu đạo đoạn nhân không đoạn pháp chăng?

Đáp: Suy nghĩ có thể biết.

Hỏi: Hai chướng chướng kiến đạo, lúc nhập vào kiến đạo trước sau đoạn, hai chướng chướng Vô học, địa vị của Kim cương đạo hai tâm đoạn chăng?

Đáp: Kiến đạo trí ban đầu yếu, hai chướng trước sau đoạn, sức Kim cương đạo mạnh, hai chướng cùng thời đoạn.

Hỏi: Định chướng là thuộc về sở tri chướng, thừa nhận người Nhị thừa Sinh không quán đoạn, có thể không như vậy chăng? Đáp: Như vậy.

Hỏi: Sở tri chướng vi tế Sinh không thô, tức là thừa nhận Sinh không đoạn được tế chướng, cũng lẽ ra thô pháp không là tế, lúc Sinh không khởi mang theo pháp không, có giải thích không nêu ví dụ. Vả lại sinh chấp hướng đến pháp chấp, pháp chấp là thô, vì sao? Vì mê lý là tế mê sự là thô, lúc chứng được sinh lý, đoạn được ngã chấp, gần có thể đoạn được mê sự định chướng kia, nhưng pháp quán tế, nhất định mang theo Sinh quán, Sinh quán là thô không mang theo pháp quán, ý đây trả lời chấp lấy mê lý đủ cả, giải thích này không đúng. Định chướng đã cùng mê lý phiền não đều khởi, cũng tùy theo phiền não đều mê ở nới lý ư? Chuẩn theo văn quyển 6 ghi: “Tham, sân, kiến, nghi đều khởi”, cũng mê nơi lý, đồng một duyên, chuẩn theo biết định chướng cũng sẽ đồng với nó đều khởi đồng mê là thuộc về phiền não chướng, đoạn được trạch diệt, chỉ khởi định chướng là chịu thấp kém. Nhị thừa hàng phục mà không đoạn, thuộc về sở tri chướng, nên người của Nhị thừa hàng phục được định chướng này, lúc đắc được hai định, đắc được phi trạch diệt, không đắc được trạch diệt, nên không thể vặn hỏi. Sinh không là thô có thể đoạn được tế chướng, khiến cho Sinh quán khởi mang theo Pháp không.

Hỏi: Phân biệt ngã chấp thô nên dễ đoạn, lúc đầu kiến đạo, tức là có thể trừ diệt, Đại thừa đã có ba tâm kiến đạo, Nhị thừa có bao nhiêu?

Đáp: Lấy nghĩa chuẩn theo nó. Đại thừa là đoạn được hai chướng, đều chia ra hai phẩm, riêng chung đoạn nó, tức là lập ra ba tâm, vì tâm thứ hai chỉ đoạn được hạ phẩm, phân biệt pháp chấp. Nếu người của Nhị thừa chỉ có hai tâm, chỉ đoạn được ngã chấp, chia làm hai phẩm.

Hỏi: Hai chướng chia làm thượng phẩm hạ phẩm, hạ phẩm hai tâm trừ, cả hai chướng chia ra tế, thô; đoạn được tế cũng chia làm hai?

Đáp: Sơ đạo sức còn yếu, phẩm hạ hai tâm trừ, đạo sau có trội hơn, nên hợp một tâm đoạn.

Hỏi: Câu sinh trước chấp nhân Thức thứ bảy duyên theo Thức thứ tám không nói thủ vì giản lược, gián đoạn ngã kiến tức là nói thủ uẩn?

Đáp: Yhức thứ bảy chỉ duyên theo Thức thứ tám, hẹp không cần lựa ra, Thức thứ sáu đồng duyên với cái khác, nên thủ nói lựa ra.

Hỏi: Chung duyên theo uẩn chấp, uẩn thông với Vô vi, vì sao chỉ nói rằng duyên theo năm uẩn?

Đáp: Căn cứ theo tướng phần nói duyên theo thủ uẩn.

Thủ là chuẩn theo Tập luận v.v… tức là bốn loại thủ, đều chỉ nói tham. Thủ có bốn loại, nghĩa là dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã ngữ thủ, chấp vào thủ làm căn tranh cãi, chấp vào thủ sau có là nghĩa của thủ, cho đến nói rằng: Do tham chấp trước dục, trói buộc đắm nhiễm làm nhân. Người tại gia lấy làm tranh cãi căn, do tham chấp trước các kiến, trói buộc đắm nhiễm làm nhân. Người xuất gia lấy làm căn tranh cãi, nên thủ duyên theo bốn tham này gọi là thủ, đồng với ái tăng của luận Duy Thức gọi là thủ. Duy Thức lại ghi: Tuy trong thủ chi nhiếp các phiền não, mà ái nhuận thù thắng, nói là tăng, chuẩn theo đây các hoặc đều gọi là thủ. Theo luận Du-già quyển 89, tức là thông với tất cả pháp Hữu lậu, đều gọi là thủ. Nên luận kia ghi: Nên biết trong đây, dù sở thủ, năng thủ, sở vi thủ, tất cả đều gọi chung là thủ.

Hỏi: Thế nào là sở thủ?

Đáp: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ là sở thủ.

Hỏi: Thế nào là năng thủ? Bốn loại dục tham là năng thủ.

Hỏi: Thế nào là sở vi thủ? Là đắc được các dục và làm thọ dụng v.v…

Chuẩn theo các văn này, nếu thủ chỉ là ái, căn cứ theo tăng thượng mà nói, nếu căn cứ theo năng thủ chấp lấy hữu và hữu câu, thông với phiền não khác, nếu theo nhau là sở thủ, năng thủ và sở vi thủ. Cảnh của thủ, thể của thủ, nhân của thủ đều là thủ. Mỗi mỗi căn cứ theo một nghĩa đều không phải trái nhau, các thuyết không đồng, nên chuẩn theo đây mà biết. Nay nói thủ uẩn, tùy theo chỗ ứng, thủ được sinh, sinh ra thủ, sở thủ, năng thủ và sở vi thủ, đều được gọi là thủ uẩn.

Hỏi: Vì sao pháp chấp đồng duyên theo xứ, giới, ngã, chỉ duyên theo uẩn?

Đáp: Pháp chấp thông với Vô vi được duyên theo giới, xứ, ngã duyên theo Hữu vi không được thông với giới, xứ lại ngã chấp nhiều, một, thường; không duyên theo giới xứ, pháp chấp chẳng phải một, thường, nên thông với giới xứ, lại giải thích nương theo ảnh lược nói, giải thích này là chính.

Luận Biện Trung Biên nói uẩn, xứ, giới đều là phá ngã, nên biết ngã chấp đồng duyên theo ba khoa, đây duyên theo uẩn v.v… căn cứ theo sự luận Phật pháp, ngoại đạo không lập ra uẩn, xứ, giới v.v…

Lúc mới kiến đạo tức là có thể trừ diệt, có bốn giải thích:

  1. Kiến tu đối, là thấy ở ban đầu.
  2. Chân tướng đối là chân ở ban đầu
  3. Bốn đạo đối, chẳng phải thắng tấn.
  4. Vô gián giải thoát đối, ở vô gián nên nói sơ kiến đạo.

Nói thế gian Sa-môn, Bà-la-môn v.v… lấy cả bốn họ Sát-đế-lợi v.v… lại Đẳng-tràng-ma (Hán dịch là Bất cộng tử), Bổ-yết-sa (cai ngục), Chiên-đồ-la (Nghiêm xí hay đồ tể). Miệt-lệ-xa (ưa thích cấu uế), Đạt- hoạt (nhà dân nữ, nhà bán rượu), Yết-xỉ-la (quan coi ngục).

Luận nếu không phải thật ngã, vì sao có việc được nhớ biết v.v… Tây Minh rộng dẫn luận Đại Bà-sa quyển 11 có tám luận giải thích việc nhớ nghĩ. Nay cho rằng không như vậy, tức là trước đã kể ra cả hai ba loại chấp lời hỏi của ngoại đạo v.v… đâu cần nêu riêng, hiển bày có sai biệt nên nói như vậy.

Trong phần nêu tự nghĩa, hỏi: Do sức huân tập sau mới nhớ nghĩ, nghĩa là Dị thục, Vô ký tự nghĩa không thể huân tập, sau lẽ ra không nhớ nghĩ?

Đáp: Không phải cần tự nghĩa huân tập sau mới có thể nhớ nghĩ. Vì sao? Vì tâm thiện ác tuy có thể huân tập chủng tử, cũng không thể nhớ những việc không bỏ. Lại Viên cảnh trí của Phật há do trong nhân từng thấy, sau trí khởi nhớ nghĩ. Nếu phải do huân tập, Phật không thể nhớ nghĩ, vì ở trong nhân các Vô lậu yếu kém, tất cả Hữu lậu thảy đều đã xả, không huân tập thành chủng tử, từ đó về sau dụng đâu thể nhớ nghĩ? Nên biết không do tự loại huân tập rồi sau mới có thể nhớ nghĩ, tâm Dị thục này do tâm thiện ác huân tập, khiến cho nó nhớ nghĩ.

Hỏi: Giữa ba tánh tướng, do tâm thiện ác huân tập Dị thục có thể nhớ nghĩ, nhiều niệm Dị thục, sau làm sao nhớ nghĩ?

Đáp: Nếu không thể nhớ nghĩ, cũng đâu có lỗi gì! Chẳng phải tất cả tâm đều có thể nhớ nghĩ, hoặc từ chủng tử của bản hữu sinh ra có thể nhớ nghĩ. Lại như Xu Yếu, Pháp sư Tây Minh, Sớ kia giải thích rõ ràng.

Yếu Tập ghi: Bàn rộng sự nhớ nghĩ có hai loại: một là tâm năng nhớ nghĩ, hai là tâm sở nhớ nghĩ, nếu tâm năng nhớ nghĩ chỉ Thức thứ sáu và niệm tương ưng, nên có thể nhớ nghĩ nó. Như luận Duy Thức quyển 20 ghi: “Cùng với niệm tương ưng, ý thức có thể nhớ nghĩ, các thứ cảnh quá khứ của sở thọ, tuy diệt không có tự thể, niệm trước các thức lãnh nạp cảnh giới kia, huân tập thành chủng tử, không mất v.v… đối với cảnh bị nhớ nghĩ tức là có hai nghĩa, nghĩa là nhớ nghĩ sẽ thọ cảnh hoặc nhớ nghĩ sẽ có thể thọ tâm, tâm này tức là do sự của tự chứng phần, nên nay có thể nhớ nghĩ. Nay cho rằng, giải thích này chưa thể tận lý. Vì sao có tâm Dị thục không thể huân tập chủng tử, do ai làm nhân, lúc sau có thể nhớ nghĩ? Lại cảnh của Túc trụ trí duyên chẳng phải đều sẽ thọ, tám Thức của Phật quả đều có thể nhớ nghĩ trước, không chỉ Thức thứ sáu nên nghĩa không tận tường.

Nay giải thích năng nhớ nghĩ có hai vị: một là Phật, hai là những vị khác. Vị khác có tự tại, chưa tự tại. Chưa tự tại có hai: một là hiện hành, hai là chủng tử. Trong hiện hành có bốn: một là tự thể phần, hai là thế lực của tưởng, ba là niệm tương ưng ý thức thứ sáu, bốn là tổng tụ tâm tâm sở. Căn cứ theo niệm sau có thể nghĩ tâm trước, riêng nói tự chứng, căn cứ theo phần hạn sở nhớ nghĩ sai biệt riêng nói sức của tưởng, căn cứ theo vị tự tại tưởng nhớ lại quá khứ. Riêng nói niệm đều phân biệt ý thức, tận tường lý nói rõ, Thức thứ sáu tương ưng các tâm tâm sở, đây đều có thể nhớ nghĩ.

Nếu chủng tử tức là có thể huân tập trên, chỉ trừ Dị thục đã huân tập thành chủng tử, làm sao nhớ nghĩ nhân? Hoặc Thức thứ sáu cùng với niệm tưởng đều tương ưng tâm sở đã huân tập thành chủng tử, sinh ra hiện hành năng nhớ nghĩ. Nếu được tự tại có hai vị, nghĩa là định và tán, định căn cứ theo Hữu lậu, Vô lậu Sinh không, chỉ Thức thứ sáu, nếu nương theo Pháp không thông với Thức thứ bảy, Thức thứ bảy tùy theo Thức thứ sáu dẫn dắt cùng với nó đồng duyên, nhớ nghĩ cũng không lỗi. Nếu ở tán vị các căn đã thừa nhận đều được hỗ dụng, nên lẽ ra năm thức cùng duyên theo quá khứ, hoặc tuy hỗ dụng chỉ duyên theo hiện tại. Nếu ở Phật quả tám thức đủ cả khả năng, chỉ do huân tập, quả không phải chủng tử mới, nên luận chỉ nói do sức huân tập, được thức có nhớ nghĩ, không nói mỗi mỗi tự huân tập có thể nhớ nghĩ.

Giải thích tạo tác nghiệp thọ quả, Đại thừa tám thức do nói rõ hữu vô, Thức thứ sáu trước đầy đủ hai loại, Thức thứ bảy đều không, Vô ký nên không tạo tác nghiệp, nhiễm ô nên không thọ quả, Thức thứ tám thọ quả là Dị thục, không thể tạo tác nghiệp vì tánh Vô ký. Năm bộ Độc Tử, Chánh Lượng, Bản Kinh, Hiền Vị, Mật Lâm Sơn v.v… đồng nói năm thức, không thể tạo tác nghiệp thọ quả, Thức thứ sáu đều có thể, Đại Chúng bộ v.v… đồng nói sáu thức đều có thể tạo tác nghiệp thọ quả, luận Tát-bà-đa v.v… nói năm thức thọ quả mà không tạo tác nghiệp, Thức thứ sáu đều có thể, (giải thích này nghe chưa thấy chánh giáo).

Trong phần nêu Số luận, hỏi: Lấy xúc làm phong đại, phong đại thành bì căn, bì căn kia được xúc mà không được phong, nếu như vậy thể của xúc như thế nào?

Đáp: Do cứng chắc, ẩm ướt, bệnh ngứa, đói v.v… mà tạo ra đại phong đại, và thể của phong khác nhau. Như Thắng luận v.v… giải thích.

Hỏi: Bì không được phong, phong vì sao căn được?

Đáp: Tâm bình đẳng căn, không phải nhất định bì được.

Chuẩn theo điều đã nói trên, nói Số luận vốn do tiên Kiếp-tỷ-la tạo, về sau các môn đồ chia thành mười tám bộ. Vũ ngoại đạo tức là một bộ chủ, Kim Thất Thập luận hoặc Vũ chúng do người khác tạo, vì sao? Theo truyền thuyết của Bồ-tát Thiên Thân ghi: Sau khi Đức Phật nhập diệt hơn một ngàn một trăm năm có ngoại đạo Tần-xà-ha Bà-sa, Tần-xà-ha là tên núi, Bà-sa gọi là ở, vì ngoại đạo này ở trong núi này, nhân đó có tên này. Có một Long vương tên Tỳ-lô-sa-giá-na ở trong ao lớn dưới chân núi, giỏi về Tăng-khư luận, ngoại đạo này biết muốn đến Long vương học, Long vương biến hóa thân, làm hình dáng Tiên nhân ở trong hang, ngoại Đạo đến học, thành tựu rồi tìm cầu luận muốn quyết định phải trái, liền đến nước Du-xà đánh trống cầu tìm luận nghĩa, do đó lấy vàng vua thưởng để tạo luận, đến đó rồi qua ở núi này, dùng sức tụng chú để triệu tập Dạ-xoa nữ tên là Trù Lâm, xin rằng khiến cho tôi sau khi chết, biến đổi thân thành đá, vĩnh viễn không hoại diệt. Thần nữ thừa nhận. Ông ở trong hang đá, sau khi chết, thân biến thành đá. Do đó lời nguyện này, trước Long vương muốn phá diệt nghĩa của Số luận sư, ông theo Long vương xin rằng khi nào thân hoại diệt, mới khiến cho pháp diệt, Long vương nghĩ thầm rằng: “Thân há đâu còn mãi”, do đó liền chấp nhận. Nên nay biến thân thành đá khiến cho lâu dài, là lý do pháp của Số luận lưu chuyển cho đến nay. Sau Bồ-tát Trần-na phá bài xích nghĩa, lập ra tỷ lượng, viết ở trên đá này, đá chảy mồ hôi ra tiếng, không thể cứu được, do đây ngài Trần-na tạo ra Nhân minh, thịnh hành bốn chủ, tiếng tăm chấn động năm xứ Thiên Trúc là do việc này.

Có thuyết ghi: Kiếp này La Tiên làm ra Kim Thấp Thập luận, giữ lại thân làm đá, ở rừng Dư Cam, tợ như sai lầm. Nhưng truyện nói rằng: Sau một ngàn một trăm năm, ngoại đạo này xuất hiện tạo ra mười phái luận, lúc Thiên Thân xuất hiện, ngoại đạo đã diệt, tức là nói ngài Thiên Thân xuất hiện sau một ngàn năm. Sự lưu truyền này tợ như sai lầm, vì sao? Vì Trung Biên sớ của Tam tạng Chân Đế ghi xuất hiện chín trăm năm, ngoại đạo cũng trước chín trăm năm, nếu không như vậy vì sao ngoại đạo được giải thích luận kia? Có người nói rằng: Kinh Niết-bàn nói đời Thượng cổ có tiên tên là Xà-đề-thủ-na, vị tiên kia tạo ra luận tên là Tam-di-xoa, Hán dịch là Quán Sát, rộng nói rõ hai mươi lăm Đế. Chuẩn theo đây Quán sát tức là Trí tuệ, cùng với Số luận tên đồng, số là trí tuệ tức là luận này. Nói vị Tiên Xà-đề-thủ-na là đọc nhầm, tức là vị tiên Ca-tỳ-la.

Luận: Lại ba là riêng đại khái đồng như chung, dưới hợp phá hai mươi bốn Đế, có năm đoạn, như Sớ phân năm đoạn:

  1. Phá thể tướng cùng so sánh
  2. Phá lúc biến như chưa biến
  3. Phá lỗi thể tùy theo tướng
  4. Phá so sánh chung riêng lẽ ra chẳng phải một chẳng phải ba
  5. Phá mỗi loại có đủ ba thể.

Trong đoạn thứ năm ban đầu nêu, kế sau phá. Phá lại có năm:

  1. Phá tướng chung lẽ ra có ba
  2. Phá ba việc không khác
  3. Phá một đức có thể thành
  4. Phá Thể lẽ ra chẳng phải một
  5. Phá nhiều loại trái nhau.

Như thứ tự phối hợp Sớ, thứ lớp phân đoạn.

Hỏi: Luận nói đã có ba tướng lẽ nào thấy thấy là một? Tự tông của Đại thừa năng sở tạo ra sắc đều đồng một xứ, lẽ ra thể tướng khác nhau, vì sao thấy là một? Lại như một cảnh sinh ra nhiều đồng biến, cũng sẽ thấy khác, vì sao thấy là một?

Đáp: Không đồng với kia vì chẳng thật, tự thể hư ảo, đồng nghiệp chiêu lấy nên tợ như một.

Hỏi: Luận nói tức là lẽ ra một căn được tất cả cảnh vì ba đức thành tựu, pháp của Phật năm căn đều có bốn đại tạo ra tịnh sắc căn là thể, vì sao không phải một căn đắc được tất cả cảnh?

Đáp: Mỗi tự chủng tử sinh bốn đại xa tạo, không đồng với luận kia đều do ba đức thành tựu.

Trong phần nêu Thắng luận kế chấp, trong Sớ nói lấy đức hiển bày Địa, chỉ làm sở y của sắc, hương, vị, xúc, dùng đức của năng y kia để hiển bày thể của Địa này, nếu thiếu, ít đức tức là không gọi là Địa, còn lại nước, lửa v.v… chuẩn theo đây nên biết.

Do thần ngã có thể làm ra giác, lạc, thọ v.v… nhân duyên chín pháp hòa hợp, đã hòa hợp rồi có thể khởi trí tướng gọi là ngã, cũng do tướng kia hòa hợp v.v… hiển bày thần ngã này, ý thật nghĩa đồng.

Hỏi: Giác v.v… chín đức nhân duyên không hòa hợp gọi là ý, đâu phải ý thật kia không phải là ý căn kia, nếu là ý căn, tâm khởi nương theo nó, đâu thể nói nhân duyên không hòa hợp?

Giải thích rằng: Ý mong chín đức gần, không thể làm nhân duyên hòa hợp kia, nên gọi là nhân duyên không hòa hợp, không phải là khiến cho chín đức kia không hòa hợp.

Nhãn sở thủ một y gọi là sắc, sắc của một cực vi nương theo địa đại v.v… tức là nhãn chọn lấy gọi là sắc, sở còn lại chuẩn theo đây, vì năm căn kia tức là năm đại, sắc của cực vi nương theo căn loại đại là căn chọn lấy, gọi là một y gọi là sắc.

Một vi lượng chỉ hai vi quả trên, vì hai vi tế của cha mẹ kia hòa hợp sinh ra con, trên vi tế có vi lượng này, cho là căn chấp lấy sắc rất vi tế, không cùng với cha mẹ hòa hợp, vì chẳng phải căn cảnh.

Hợp và ly, chỉ chấp lấy ban đầu hợp, gọi là hợp, ban đầu lìa gọi là ly, sau tức là trái.

Xa giác đã đợi là tánh kia, vì tâm hay chấp lấy, thế xa chấp lấy nó gọi là bỉ.

Câu “hòa hợp” là khiến cho địa kia v.v… cùng với đức hòa hợp, cùng với ngã kia khác nhau, ngã chỉ khiến cho giác kia, lạc, khổ v.v… chín đức hòa hợp.

Thủ nghĩa là trước hợp sau lìa, căn cứ theo luận thượng hạ, hành tức là căn cứ theo ở Địa v.v…

Hỏi: Vì sao không lập ra thức của nhãn v.v…

Đáp: Tức là giác v.v… là phải, còn lại kế chấp của ngoại đạo cũng rất nhiều, chuẩn theo đây.

Trong các môn phân biệt, một nhiều phân biệt, bốn và nhiều, năm và một, vì ngã và ý nương một người nói, gọi là một. Nếu căn cứ theo nhiều người, tức là số nhiều. Ba loại hư không, thời gian, phương hướng, tất cả cùng có, lại không phải nhiều thể nên gọi nó là một.

Nói hương chỉ địa có, chuẩn theo thuyết của Nhân Minh chỉ là vô thường, là môn nhân quả của luận kia nói.

Tánh nặng thông với thường vô thường, nếu như vậy vì sao chỉ có hiện lượng? Chỉ có sự vi tế của cha mẹ là thường, chẳng phải hiện lượng.

Luận không có văn giải thích, nghĩa chuẩn theo nói thông với hiện lượng, tỷ lượng, không ngăn ngại. Lại hương chỉ có vô thường, làm sao thông với phi hiện lượng được.

Trong phần nêu kế chấp, nói phần nhiều thật có, nay lại giải thích thêm, “quân, rừng trong câu thật” v.v… giả như luận nói, phá thật có kia làm đồng dụ, đây đều ít giả, còn lại nhiều thật.

Văn phân đoạn như Sơ, nay thêm một đoạn tổng chia làm hai, phần đầu là phá thật có, đoạn từ “nhưng thật v.v… kia, chẳng phải duyên lìa thức” trở xuống là phá hiện lượng, vì theo văn trong phần nêu kế chấp nên chia làm hai đoạn.

Luận: Lại đất nước lửa gió sở chấp kia lẽ ra chẳng có ngăn ngại, nghĩa của câu thật nhiếp, vì đó là sở xúc của thân căn. Luận Yếu Tập ghi: “Có thuyết nói đất, nước, lửa, gió, cha mẹ cực vi, chẳng phải hiện lượng đắc, từ cực vi người con trở lên là hiện lượng đắc”. Phần sau trong phá Thuận thế và Thắng luận cho rằng Cực vi tu tập đầy đủ thành tựu căn cảnh thì dùng quả làm gì, nên biết như vậy. Có giải thích thật v.v… năm câu là cảnh của hiện lượng, hòa hợp chẳng phải hiện lượng. Nên phần phá sau ghi: Họ thừa nhận thật v.v… hiện lượng sở đắc, dùng lý suy tìm chứng cớ còn chẳng phải thật có, huống gì họ tự thừa nhận câu nghĩa hòa hợp chẳng phải hiện lượng đắc, mà có thể thật có, do đây mà biết cha mẹ cực vi cũng là hiện lượng đắc. Có giải thích cho rằng: Nay nói hai cực vi đã sinh ra con cực vi, cũng chẳng phải hiện lượng đắc. Thập Cú luận ghi: “Ba cực vi sinh ra con còn thô được hòa hợp”, phần sau lại nói “thô sắc lượng và đức hòa hợp”, là sắc căn đắc.

Yếu Tập ghi: “Nay cho rằng có giải thích là đúng, nghĩa là trong tông kia không nói sở thủ của sắc căn mới là cảnh của hiện lượng, có cảnh của hiện lượng chưa hẳn sắc căn đắc”, cho đến nói có thuyết dẫn phá trong Thuận thế, nhiều nhân cực vi hòa hợp, lẽ ra chẳng phải vi tế đủ thành tựu căn cảnh thì dùng quả làm gì, do đây mà biết từ cực vi người con trở lên là cảnh của sắc căn, cha mẹ trái là đây phá cảnh của sắc căn, chưa nói hiện lượng, dẫn chẳng phải cảnh của sắc căn để chứng minh chẳng phải hiện lượng đắc, đối với lý quá xa.

Nay xét kỹ ý này nói có thuyết cho rằng thưa xa là chưa ngộ được đến lý, vì sao? Thập Cú luận ghi: “Nghĩa là đến lúc thật sắc v.v… căn v.v… hòa hợp thì có liễu tướng sinh, gọi là hiện lượng”, đã nói rằng lúc căn v.v… hòa hợp thì có liễu tướng sinh gọi là hiện lượng, rõ ràng biết cực vi người con trở lên mới cùng căn hòa hợp, nên cực vi người con trở lên gọi là hiện lượng, là kế chấp của tông kia. Trong phần dẫn phá chống chế của Thuận thế v.v… nói rằng: Do quả nhiều phần hợp nên thành thô, nhiều nhân cực vi hợp nên chẳng phải tế, đủ thành tựu căn cảnh. Ý chấp lấy nhiều quả hòa hợp nên thành thô làm cảnh của sắc căn, nên lấy đây chứng minh từ cực vi người con trở lên là cảnh của hiện lượng, đối với lý làm gì có thưa xa mà vọng nói là lỗi. Nếu cho có giải thích là đúng, năm câu hiện lượng đắc cực thành kia đây. Nói cha mẹ vi tế là ngã hiện cảnh, chuẩn theo văn nào nói? Trong Thập Cú luận chỉ nói giác đức làm hiện lượng tỷ lượng. Lại nói lúc căn v.v… hòa hợp thì có liễu tướng sinh gọi là hiện lượng, không nói thần ngã làm thể của hiện lượng, lại không phải văn nói cha mẹ cực vi, ngã hiện lượng đắc. Nếu căn cứ theo tướng chung thì có giải thích không trái, nếu nghiên cứu kỹ luận có thuyết nói rất chính xác.

Luận: Sở chấp của họ có đến như thật đức v.v… Sớ và Xu Yếu đều cho rằng đây là lỗi Tương vi nhân của pháp tự tướng, vì bản lượng kia ghi: Tông của ta có tánh, nhất định lìa câu thật có riêng tự tánh, thừa nhận phi vô, nên như đức, nghiệp v.v… Lượng này bất định, thật làm dị dụ, vì thừa nhận nhân phi vô đối với thật chuyển, lại có lỗi khác, suy nghĩ chuẩn theo có thể biết. Nay vả lại cùng pháp tự tánh tương vi nói rằng: Tông của ông có tánh, lìa ngoài câu thật không có riêng tự tánh, vì thừa nhận phi vô, giống như câu thật. Trong lượng này tuy có tha bất định, câu đức, nghiệp v.v… họ thừa nhận bất định. Lại chính là phá họ, đối với tha bất định cũng có thể là lỗi, nên Xu Yếu phán phân chỉ thuộc về lỗi tỷ lượng trái nhau. Nếu chuẩn theo Sơ phán phân rằng: Lẽ ra lìa ngoài tám câu của thật v.v… không có riêng tự tánh, tức là không có bất định.

Yếu Tập ghi: “Chuẩn theo tương vi, lượng nói có tánh, lìa ngoài thật không có riêng tự tánh, vì thừa nhận phi vô, giống như câu thật, nên tỷ lượng tương vi”. Ý này Xu Yếu tự mình phán phân xong. Yếu Tập nêu ra lỗi rằng: “Đã riêng dùng dụ, làm sao tương vi đồng với bất định trước”, thuyết này cũng trái, vì sao? Vì riêng dụng dụ cũng là tương vi, như luận Nhân Minh pháp tự tướng tương vi nhân, bên ngoài lập âm thanh là thường, vì đã tạo ra tánh, giống như hư không. Lập ra tương vi, nói rằng âm thanh là vô thường vì đã tạo ra tánh, thí như bình v.v… nhân này dùng đồng cũ sửa đổi. Nay lượng nhân này cũng dùng nhân cũ, chỉ sửa đổi đồng dụ đồng với Nhân Minh, nói rằng: “Đã riêng dùng dụ làm sao là tương vi”, là lỗi vọng nêu ra, không giỏi Nhân minh.

Luận: Nếu lìa thật v.v… đến tất cánh vô v.v… Xu Yếu nói là lỗi tương vi của pháp tự tướng. Lại ghi: Nay nêu không có pháp làm dụ cũng thành tựu quyết định tương vi, tức là như luận nói.

Nói, nếu lìa hữu pháp đến có riêng vô tánh, Xu Yếu giải thích: “Thứ ba, thứ tư đều là tỷ lượng tương vi”, như văn sớ thuật. Yếu Tập ghi: “Có thuyết lượng rằng tông của ông câu thứ mười bên ngoài của vô pháp nên riêng lập tánh”. Nhân nói trừ sáu câu hữu của đại v.v… bên ngoài hữu vô hai pháp hỗ tương tương vi, như thật, đức, nghiệp, muốn lựa ra bất định, nhân nói trừ sáu câu của đại hữu v.v… có giải thích lượng rằng: Năm loại câu “vô” lẽ ra riêng có tánh tông, trong hai pháp hữu vô tùy theo một nhiếp, như thật, đức v.v… Lại lượng: ông nói thật v.v… nên không phải tánh khác, trong hai pháp hữu vô tùy theo một nhiếp, như tất cánh vô. Yếu Tập chỉ nêu lên hai nhà, không biết bị lỗi, chuẩn theo giải thích trước có lỗi bất định. Năm loại câu vô là như thật v.v… ngoài ba câu lẽ ra riêng có tánh là như đại hữu v.v… ngoài ba câu không riêng có tánh. Yếu Tập lại ghi: Có thuyết nói thể của vô tánh phi hữu, không phải trên không lập ra vô tánh, thể của hữu pháp phi vô, vì sao cần phải riêng hợp hữu tánh? Nếu họ chống chế, hữu pháp tuy phi vô vì không tự có, nên cần phải có hữu, lẽ ra vô pháp không phải tự vô, ngoài vô pháp riêng lập vô, (đây tức là mong nhau). Yếu Tập nay giải thích: Thể của hữu pháp phi vô, hữu nên có hữu tánh, thể của vô pháp phi hữu, vô nên không có vô tánh, hoặc cũng có thể. Phản đối rằng: Hữu vô do trái nhau, vô pháp không có vô tánh, hữu vô do đối nhau, hữu pháp có hữu tánh, đây đáp luôn khác nhau, làm sao phá được tông khác? Nên nay trong luận chỉ lập ra lượng phá, chẳng phải cần hợp nhau.

Nay cho rằng nếu hợp nhau cũng có thể phá tông khác. Vả lại như Yếu Tập giải thích không thể lìa lỗi, vì sao? Nếu nói rằng thể của vô pháp phi hữu, vô nên không có vô tánh, lẽ ra thể của hữu pháp tự có hữu nên không có hữu tánh. Thể của hữu pháp tự có, có nên lập ra hữu tánh. Thể của vô pháp là vô, vô nên lập ra vô tánh, phản đối nó trong hữu vô do đối nhau, hữu pháp lập ra hữu tánh, vô hữu do trái nhau, vô pháp lập ra vô tánh, hằng không lìa lỗi.

Luận rằng: Đừng cho đây cũng chẳng phải tánh thật đức nghiệp. Lập phá Tương vi nhân của tự tướng hữu pháp, ghi: chẳng phải tánh thật, đức nghiệp. Ý nói rằng chẳng phải thật đức nghiệp v.v… đồng dị sinh vì khác với thật như đức nghiệp, đức nghiệp khác với thật, không phải là tánh đồng dị.

Luận rằng: “Lại duyên thật trí” trở xuống là phá trí năng duyên. Sớ có hai giải thích, vì giả hợp sinh, ban đầu giải thích duyên theo nhiều pháp, sau giải thích trí khởi giả nhờ nhiều duyên, không chướng ngại năng duyên, duyên theo một hay nhiều kia. Nếu theo giải thích ban đầu chỉ phá được duyên chung, không phá được duyên riêng, sau giải thích thông với phá. Cảnh sở duyên, tuy có một hay nhiều trí năng duyên, phải nhờ nhiều duyên, rằng giả hợp sinh. Yếu Tập ghi: “Nay cho rằng giải thích sau của sư ban đầu cũng có bất định, duyên theo thật hiện trí làm Như hữu, Hòa hợp trí vì giả hợp sinh, duyên theo thật trí, là như duyên theo đức nghiệp, trí đồng dị, do giả hợp sinh nên chẳng duyên theo thật trí. Nay tường tận thuyết này, vọng nêu ra lỗi kia. Vì sao? Nếu căn cứ theo duyên chung, duyên theo hữu, hòa hợp, tức cũng là duyên theo thật, tức là ở trong pháp chính là sở phá, không phải lỗi bất định. Nếu phá được duyên riêng, duyên theo hữu, hòa hợp, tuy giả hợp sinh, tức là không duyên theo thật cũng là không có bất định. Lập hai giải thích, trước căn cứ theo cảnh nhiều trí mới được khởi, gọi là giả hợp sinh; sau căn cứ theo nhân nhiều trí mới được sinh gọi là giả hợp sinh, chẳng tránh được lỗi bất định.

Sớ ghi: Nhãn thức v.v… tuy duyên theo sắc v.v… cũng giả hợp sinh, chẳng duyên theo thật v.v… không có lỗi bất định. Có người nói:

Cũng có tự trái, trí duyên sắc v.v… lẽ ra chẳng phải sắc trí, giả hợp sinh nên như trí của âm thanh v.v… Yếu Tập ghi: “Đây cũng chẳng phải lỗi, nghĩa là bên trong phá được thật, đức bên ngoài v.v… nhiếp sắc bốn đại v.v… nên chẳng phải tự trái với uẩn v.v… đã nhiếp pháp của sắc v.v… Nếu người ngoài làm ra đây tỷ lượng phá, kia tức là có trái với lỗi của thế gian, hiện lượng, tự giáo v.v… nên không được lập. Nay cho rằng không như vậy, nếu chấp duyên theo lìa thức uẩn v.v… cũng đồng phá đây. Nay ý của luận này chỉ phá lìa thức thật có các pháp, nếu ngoại đạo vặn hỏi rằng: Duyên theo lìa thức sắc v.v… trí chẳng phải hiện lượng, tức là phạm lỗi tương phù, nếu chỉ nói rằng duyên theo sắc v.v… trí sẽ chẳng duyên theo sắc v.v… hiện lượng trí nhiếp, cũng có phần tương phù và lỗi tự trái, nếu chỉ lập ra lượng tức là chẳng phải lỗi của lượng trước.

Luận rằng: Nếu pháp có thể sinh nhất định chẳng thường.

Hỏi: Nếu thừa nhận pháp khác làm nhân năng sinh, trái với chấp của tông khác, vì chấp vào một nhân, không phải năng sinh khác, tức là thiếu đồng dụ, năng sinh làm sao vô thường?

Đáp: Trời là thân nhân năng sinh, còn lại là trợ duyên nên được làm dụ.

Hỏi: Nếu nói như vậy, vì sao được làm nhân? Nhân sinh duyên sinh hai loại khác nhau?

Đáp: Chuẩn theo pháp Nhân Minh, nhân không phải khác nhau, như tánh sở tác, nhân này và duyên đều hay sinh. Tây Minh giải thích: Chỉ một thường nhân hay sinh ra các pháp, lại không phải thường khác có thể là nhân sinh, nói rằng luận về một nhân không chướng ngại vô thường hay sinh ra các pháp, như Luận sư Thắng luận thừa nhận sáu câu thật, không ngăn ngại ở trong giả của quân, rừng v.v… Hai giải thích đều có lỗi trái văn, chấp vào một nhân. Phần sau trong đoạn Chuyển kế chấp nói: Đợi dục hoặc duyên, vặn hỏi rằng: Đợi dục hoặc duyên mới có thể sinh, trái với một nhân luận, nếu họ thừa nhận có duyên năng sinh khác và vô thường nhân, vì sao có thể được lập ra vặn hỏi này? Trong đây chỉ do thế gian kia cùng thừa nhận pháp của năng sinh, lấy làm đồng dụ. Lại giải thích vốn chấp tự tại thể là một, thường hay sinh ra các pháp, không có giả pháp khác trợ giúp mới có thể sinh, gọi là một nhân, không chướng ngại pháp khác, cũng có thể là nhân. Nay luận chủ vặn hỏi: Thể đã thường, biến khắp tất cả xứ, thời; hay sinh ra các pháp, nên trong Chuyển kế chấp nói: Tự tại đợi các thứ khác hoặc dục và duyên, mới có thể sinh quả. Luận chủ nói: Nếu như vậy trái với bản nhất, thường nhân vẫn có thể sinh quả, đợi dục duyên nên trái với một nhân luận.

Trong phá Thuận thế nói: “Nếu có phương phần lẽ ra giả chẳng thật, nếu không có phương phần như tâm, tâm sở”, chuẩn theo kế chấp kia, tuy có bốn đại mà cũng tạo ra tâm, nói như tâm, tâm sở thiếu không phải đồng dụ, ngoại đạo nói màu xanh vi diệu bốn đại tạo ra tâm vô ngại, thô đại tạo ra sắc nên ngại. Hai nói rằng tuy chỉ tạo ra sắc, chuẩn theo lý cũng hợp có tâm, tâm sở, như Số luận sư. Ba căn cứ theo Thắng luận có tâm, tâm sở nói làm đồng dụ.

Sớ ghi: Đây chỉ nên nói như hai cực vi lượng, do ba vi quả v.v…

nhân chẳng phải cực vi, ý này do thứ ba cực vi người con quả lượng đều ở nơi nhân, nhưng là thô sắc, không phải là cực vi.

Trong phần phá Tiểu thừa, đoạn đầu phá sắc tụ, trong sắc tụ lại có: một là chướng ngại hữu đối, hai là cảnh giới hữu đối, ba là sở duyên hữu đối. Nói chướng ngại hữu đối nghĩa là năm căn năm trần đối ngại nhau. Nói cảnh giới hữu đối nghĩa mười hai giới và ít phần pháp giới. Mười hai giới nghĩa là bảy tâm giới và năm căn giới, ít phần pháp giới đều có công năng của cảnh năng thủ làm cảnh tướng trói buộc khiến cho căn và tâm không phải chuyển khác nên gọi là cảnh giới hữu đối. Nói sở duyên hữu đối nghĩa là bảy tâm giới và ít phần pháp giới. Sở duyên nghĩa là tâm pháp này hay có sở duyên nên gọi là sở duyên, hữu đối do cảnh trói buộc tâm khiến cho không phải chuyển khác, gọi là sở duyên hữu đối.

Hỏi: Sở duyên, cảnh giới, hai đối này có gì khác nhau?

Đáp: Sở duyên căn cứ theo tâm, thể năng duyên lo nghĩ sâu xa đối với cảnh, hay oqr trong cảnh mà liễu biệt rõ ràng, tức là Sớ nói tâm, tâm sở pháp chấp theo đó mà khởi, nó đối với tâm v.v… gọi là sở duyên. Cảnh giới hữu đối hợp căn, căn chỉ có thể chiếu rõ không thể duyên, hành tướng liền cạn cợt, vì căn nhận lấy cảnh cùng thức đều khởi, không lấy thâm sâu rõ ràng, chỉ lấy công năng chiếu rõ cảnh do đồng căn chiếu rõ, tức là Sớ nói, nếu ở nơi pháp kia, đây có công năng, tức là nói nó làm cảnh giới của pháp này, nên hai đối khác nhau. Song luận Câu-xá giải thích đầy đủ, lẽ ra lại kiểm xét văn so sánh đây để quyết định nó.

Hỏi: Cảnh giới, chướng ngại đồng thời khác gì?

Đáp: Tướng, đối ngại biên gọi là chướng ngại hữu đối, lúc căn nhận cảnh, ngại không phải chuyển khác, không phải do đây chướng ngại nó khiến cho không được sinh gọi là cảnh giới hữu đối.

Hỏi: Luận Tát-bà-đa trong pháp xứ sắc có chướng ngại hữu đối không?

Đáp: Không có. Vì sao? Vì vô biểu sắc chẳng phải cực vi thành, chỉ do bốn đại xa năng tạo ra nó. Vả lại như hiện tại lúc tác pháp thọ giới tuy không phải vô biểu, đã có bốn đại xa tạo ra sắc của vô biểu vị lai kia. Chẳng phải ngay nơi bốn đại và cực vi nên chẳng phải hữu đối sắc.

Hỏi: Tân cổ hai Tát-bà-đa cực vi thành tựu thô có gì sai biệt?

Đáp: Vả lại cổ Tát-bà-đa do bảy cực vi thành tựu thô sắc, do nó gần gũi, tợ như thành tựu một tướng, căn cứ thật bảy vi mỗi mỗi tự thành tựu thô sắc, không nói giúp nhau. Nếu luận sư của tân Tát-bà-đa bảy cực vi đồng tụ, gần nhau giúp nhau cùng sức nhẫn nhục thành tựu tướng đại kia, không do tương tợ cùng hợp mới bắt đầu thành thô. Lại như sắc dài, ngắn v.v… có tướng dài cực vi, có tướng ngắn cực vi, nhưng trong tông này trong sắc dài được có sắc ngắn, không như pháp khinh trọng, trọng nhất định không khinh, khinh nhất định không trọng, không làm ra tướng hình, do thành tựu khinh trọng, nhưng nói không xứng hợp với nó gọi là khinh, có thể xứng hợp với nó. Vật tức gọi là trọng, nên nay trong đây, vả lại phá sư Kinh bộ luận Tát-bà-đa hữu đối sắc. Trước phá năng thành, sau phá sở thành. Vả lại hữu tông nói do bảy cực vi thành tựu một Noa sắc, nhưng không phải vào được, mỗi mỗi tướng cách nhau một vi, năng sở đều thật, tức là từ Noa sắc, bắt đầu từ thức đắc, nếu mỗi một vi chỉ ý thức đắc, chẳng phải cảnh của năm thức. Sở duyên của Kinh bộ, cảnh của năm thức đồng với thuyết của Hữu bộ, nhưng năng thành bảy vi là thật, sở thành Noa sắc là giả.

Hỏi: Hai bộ này bảy vi chỗ nào nhiếp?

Đáp: Nếu nói ý cảnh, hợp với pháp xứ nhiếp, nay là hữu tông nhiếp tế từ thô đồng thuộc về sắc xứ. Nếu sư Kinh bộ nhiếp thật từ giả, nhiếp thể từ tướng, cũng thuộc về sắc xứ.

Hỏi: Đã thừa nhận bốn đại tạo ra cực vi, trong một vi đã có bốn vi nếu chuẩn theo bảy vi có bốn đại, hợp thành hai mươi tám, vì sao chỉ nói bảy thành tựu một Noa sắc, hợp bốn đại, hợp thành có một trăm bốn mươi?

Đáp: Căn cứ theo thật mà luận lý có hai mươi tám, nhưng làm ý cảnh chẳng phải năm thức đắc. Nay chỉ nhận lấy năm thức duyên cảnh, nên bảy vi không nói năng tạo, lý cũng không lỗi, nếu nói giả bộ cực vi năng thành, sở thành đều thông với thật, giả. Lại cực vi giả thật lần ra bốn câu phân biệt một thô giả tế thật, sư Kinh bộ hai thô thật tế giả.

Đại thừa cực vi, pháp xứ đã nhiếp là giả tướng hợp, ba thô tế đều thật, luận Tát-bà-đa. Bốn thô tế đều giả, Nhất thiết nói giả v.v… Lại có bốn câu: một thô tế; hai đều giả Nhất thiết bộ, Câu nói giả về xuất thế, đều trái tức là Thanh Biện luận Thắng nghĩa đế. Lại luận vi tụ, chuẩn theo luận Câu-xá tụng rằng:

“Dục vi tụ không thanh

Không căn có tám sự

Có thân căn chín sự

Mười sự có căn khác”.

Ý này nói nếu có thân căn ắt có chín sự. Bốn loại khác tùy theo một tức là thành mười sự. Luận Câu-xá ghi: “Nếu nương theo thể nói tám, chín, mười sự v.v… thì quá ít, nếu nương tựa xứ nói tám, chín, mười sự v.v… thì qua nhiều?

Đáp rằng: Không lỗi. Đã nói sự là một phần nương theo thể mà nói, nghĩa là sở y đại chủng, nghĩa là năng y tạo ra sắc.

Lại vặn hỏi rằng: Nếu như vậy đại chủng sự nên thành nhiều, tạo ra sắc chỉ nương tựa một, bốn đại chủng?

Đáp rằng: Nên biết trong đây nương theo thể loại mà nói, vì các bốn đại chủng không khác.

Tác dụng Tát-bà-đa là trong Bà-sa hỏi quá khứ pháp nhiều hay vị lai pháp nhiều ư?

Một là luận sư nói quá khứ pháp nhiều, đã không phải bờ mé ban đầu, lưu chuyển vào quá khứ. Hai là nói vị lai pháp nhiều, vì vị lai vô tận. Ba là nói tương tợ. Phật nói pháp không phải quá khứ vị lai, vì sao ba đời do một pháp? Nếu đang tác dụng gọi là hiện tại, đã tác dụng gọi là quá khứ, chưa tác dụng gọi là vị lai, Luận sư Câu-xá phá rằng: Nên có lỗi của ba đời lẫn lộn. Ông nói rằng tác dụng gọi là hiện tại, do sinh dụng và quang minh, khổ, pháp nhẫn đều vị lai có dụng. Lại Đẳng vô gián duyên rơi vào quá khứ mới bắt đầu có dụng, đều lẽ ra là hiện tại, vì có tác dụng. Luận Chánh Lý chống chế: Ngã hiện tại là tác dụng, quá khứ, vị lai là công năng. Bồ-tát An Tuệ tạo ra Câu-xá giải thích, lại phá rằng: Tác dụng của ông cùng với công năng có gì khác nhau?

Luận: Nhất định có trên dưới bốn phương sai biệt, chấp bản tông kia, lý không phải phương phần, nay do lượng bức bách khiến cho phương phần kia trên dưới bốn phương đều là tướng nghĩ oai nghi. Nếu không có phương phần lẽ ra vào được, nên trong luận Bà-sa Đại đức Tôn giả nói, cực vi không phải phương phần, nhưng không đến với nhau được, lưu chuyển đến hiện tại, gần nhau gọi là đến, nghĩa là cực vi này ở đời vị lai, hai đời đều lìa nhau, lưu chuyển đến đời hiện tại, mới bắt đầu gần nhau nhưng cách lân hư, bên trong không gián đoạn gọi là đến, chẳng phải hợp gọi là đến. Bồ-tát Thế Hữu nói: Nếu như vậy, lẽ ra cực vi trước trụ đến niệm sau, tông kia tự chấp một sát-na trụ liền nhập vào quá khứ, nếu đến hiện tại mới bắt đầu gần nhau thì gọi là đến, tức là hai sát-na, nên cực vi này rơi rớt, lưu chuyển đến đời hiện tại, vì trụ ở đời hiện tại mới gần nhau. Bồ-tát Thế Hữu giải thích: Nghĩa là các cực vi đồng ở hiện tại đều cách lân hư, trong không kẽ hở, gọi nó là đến. Trong luận Câu-xá ngài Thiên Thân phá rằng: Vì sao duyên có thể ngăn ngại, khiến cho trong có kẽ hở, nhưng phương phần này có bốn câu phân biệt. Một là Kinh bộ thật cực vi có phương phần, hai là luận Tát-bà-đa thật cực vi không có phương phần, ba là Đại thừa giả cực vi cũng có phân biệt, cũng không có phương phần. Đã vậy, Đại thừa giả sắc trong không phải cực vi, nên nói không phải phương phần. Nhưng căn cứ theo giả chiết phục được thô, đến cực vi có thể nói có phương phần. Phương phần có hai: Một là phần của phương là phần của đại sắc kia, không phải là càng chiết phục cực vi này làm phần; hai là phương tức là phần, luận Du-già nói có phương không có phần, lại không có tế phần, vì tướng nghĩ nghi nên gọi là có phương, mà càng không thể chiết phục nên nói không có phần. Nếu càng chiết phục nó, tức là ý làm ra Không giải, nên biến đổi tợ như Không tướng. Thiếu câu thứ tư.

Luận: Năm thức đâu không phải sở duyên.

Hỏi: Trong hai mươi lăm loại sắc, năm thức duyên theo giả hay duyên theo thật sắc?.

Đáp: Có hai giải thích. Một là nói năm thức duyên theo thật không duyên theo giả, giả hợp ý thức đắc.

Hỏi: Thật sắc năm thức duyên, đây thuộc về sắc xứ, giả sắc chỉ ý thủ, đối căn pháp xứ nhiếp?

Giải rằng: Căn cứ theo ý luận duyên theo giả, đây có thể thuộc về pháp xứ, do nhiếp quả tùy theo chân trí minh sắc xứ nhiếp.

Lại hỏi: Năm thức không duyên theo giả, dài ngắn v.v… sắc chẳng phải nhãn đắc rít, trơn v.v… xúc chạm tức là quả, cũng sẽ không làm ra thân thức đắc?

Đáp: Dài, ngắn v.v… sắc tướng đợi thưa xa là do không làm ra nhãn thức đắc, rít v.v… các phần vị của xúc giả gần gũi. Do đó thân căn đắc, hoặc đồng giả sắc chỉ ý sở đắc. Hai là giải thích đồng duyên theo giả, thật, lúc năm thức duyên theo thật, giả nhất định duyên theo thật, do đó lúc duyên theo thật, cũng duyên theo giả.

Hỏi: Nếu như vậy cùng với Kinh bộ khác gì mà phá chấp kia?

Đáp: Một là giải thích lúc năm thức chấp lấy dài, ngắn, không lìa thật sắc của màu xanh v.v… vì giả thật hợp nhau, kia chỉ giả sắc, nên chẳng phải năm cảnh. Lại giải thích Kinh bộ sở chấp trần của tâm bên ngoài, nên chỉ là giả, không phải là duyên. Đại thừa đã không lìa thức, hai tông tự khác nhau. Đại thừa mong tự thật sắc, dài v.v… chẳng phải chân, hình năm sắc bên ngoài kia mà trở lại là thật, nên năm thức nhận lấy, lý cũng không ngăn ngại.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao gọi là năm thức đắc được cảnh của tự tướng?

Đáp: Tự tướng có ba: Một là xứ tự tướng nghĩa là mười hai xứ mỗi mỗi không đồng. Hai là sự tự tướng ở trong một xứ các sắc đều khác nhau. Ba là tự tướng tự tướng nghĩa là ở nơi màu xanh, chiết phục đến cực nhất vi. Nay căn cứ theo xứ tự tướng mà nói nên không trái nhau.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao năm thức đắc được cảnh của tự tướng chỉ nói tánh cảnh, không tùy theo tâm ư?

Đáp: Cũng duyên theo cảnh của tự tướng suy nghĩ nó.

Hỏi: Năm thức nếu duyên theo giả, vì sao nhĩ thức không duyên theo giáo, nếu chấp nhân duyên là lẽ ra do căn đối cảnh, tên gọi, cú không nêu ở pháp xứ nhiếp, nếu không duyên là nhãn thức cũng sẽ không duyên dài v.v… vì đều là giả. Lại dài ngắn v.v… nếu chẳng phải cảnh của nhãn thức, nên ở pháp xứ thâu nhiếp.

Đáp: Sắc của dài, ngắn v.v… tuy ý thức duyên, do giả từ thật không ở pháp xứ. Lại giải thích tên gọi v.v… nương theo âm thanh giả trái tức là lìa âm thanh, nhĩ thức không duyên, dài v.v… nương theo sắc tức là sắc tuy là giả sắc, nhãn thức nhận lấy.

Hỏi: Tên gọi v.v… nương tựa âm thanh giả cùng với âm thanh trái tức là lìa dài v.v… nương tựa sắc giả, vì sao trái tức là lìa?

Đáp: Dài v.v… tướng hình đợi nương theo sắc tức là không lìa, tên gọi v.v… không phải tướng hình, trọng giả trái tức là lìa. Vì nương theo âm thanh giả gãy khúc trên giả lập ra tên gọi v.v… là trọng giả, không đồng với dài v.v… Giải thích này trái với giải thích thứ hai ở sau. Chỗ kia nói lời tức là năng thuyên, đây cũng không như vậy, văn kia ngăn ngại khác, nói lời tức là năng thuyên, căn cứ theo thuyết tự tông, pháp, từ xứ khác nhau.

Lại sắc căn thấy chẳng thấy có bốn câu khác nhau, một là thức thấy căn chẳng thấy. Các bộ Đại Chúng, Nhất Thuyết, Thuyết Xuất Thế, Kê Dận nói năm sắc căn không thể thấy sắc. Luận sư Tát-bà-đa v.v… căn thấy thức không thấy. Luận sư Đại thừa v.v… căn, thức cả hai đều thấy. Bốn căn, thức đều không thấy, nghĩa là ở địa vị Thai tạng v.v…

Năm căn nghĩa do năm môn phân biệt: Một, nói rõ các tông. Hai, nêu rõ thể tánh. Ba, giải thích danh tự. Bốn, dị loại có. Năm, đáp sai biệt.

1. Nói rõ các tông: Như Pháp Uyển và Sớ nói rõ, nhưng kể ra Tiểu thừa nói khác nhau chút ít. Các bộ như Đại chúng v.v… do đã tạo ra bốn trần làm thể của năm trần, tuy không phải riêng tịnh sắc, nhưng thông với lậu Vô lậu. Phật quả và nhân hai vị khác nhau. Tông Luân luận nói thân của Như Lai, tất cả Vô lậu, nên luận Tát-bà-đa bốn đại tạo ra bốn trần, có sắc trần thanh tịnh khác làm thể là thật chẳng phải giả, chỉ lậu, Vô ký. Nếu sư Kinh bộ cho bốn đại tạo ra tịnh sắc là thể, là giả chẳng phải thật. Nếu Luận sư Thành Thật bốn trần tạo ra bốn đại, bốn đại thành năm căn, đã nói bốn đại thành năm căn, chẳng phải sáu trần, chỉ là bốn đại vì kinh đã nói đều chỉ chắc chắn v.v… làm năm căn. Luận Thành Thật là Sư tử trụ tạo ra. Sư tử trụ này vốn là Số luận bộ trong xuất gia, nay tuy quay về Phật thừa vẫn còn nêu bản nghĩa, nên chẳng phải chánh thuyết. Kinh bộ như Biệt chương giải thích, Thuyết xuất thế bộ năng tạo sở tạo đều thông với giả thật, thế gian là giả, vì hư vọng, xuất thế thật, vì chẳng phải vọng sinh. Chuẩn theo đây tức là thông với lậu và Vô lậu. Thuyết giả như Biệt chương, sư Nhất thuyết bộ cho tất cả các pháp chỉ có tên đều không có thể, không nói giả thật, lậu và Vô lậu trước nói rõ các tông. Đại thừa nêu ra thể, ba loại không đồng: Một là ngài Nan-đà v.v… chỉ nói chủng tử, gọi là năm căn, đây có bốn cách giải, như Biệt chương và Sớ giải thích. Hai là sư An Tuệ tức là lấy biến kế đã khởi tướng phần làm thể của năm căn, vì năng thủ sở thủ hư vọng khởi, nhưng mười tám giới chủng tử đều khác. Ba là Luận sư Hộ Pháp v.v… cho y tha khởi, chủng tử đều khác nhau, nhưng có hai thuyết: Một, nói rằng hiện hành. Hai, thông với chủng tử hiện hành, như Pháp Uyển giải thích. Giải thích tên và loại khác nhau, và trong hỏi đáp, lập thông với sai biệt, đều như Pháp Uyển giải thích. Sớ ghi: Nhãn căn v.v… chẳng phải tâm trí khác và phàm phu sáu thức hiện lượng đã đắc được ý, không chướng ngại Nhị thừa, phàm phu định tâm duyên theo nó là hiện lượng đắc.

Hỏi: Năm căn và năng y thức thân mỗi mỗi đắc được cảnh nào?

Đáp: Vả lại nhãn thức nương theo căn duyên theo cảnh trong thật giả không đồng, như trước nói rõ, bốn thức còn lại chuẩn theo nhãn thức mà biết, nhưng trong năm cảnh nói rõ giả thật, như phần năm cảnh trong Nghĩa Lâm nói rõ.

Hỏi: Nhãn, tỷ, nhĩ, căn vì sao đều là hai?

Đáp: Vì thiệt, thân hai căn đâu phải chỉ là một.

Hỏi: Thiệt, thân căn một loại có thể ở một xứ, ba căn đều có hai, vì sao đều gọi là một giới xứ? Vì sao trước nói nhãn nhĩ? Nhận lấy cảnh ly hợp và thức đồng, khác v.v… những câu hỏi đáp này đều được trả lời trong phần giới xứ của Nghĩa Lâm.

Nói về nghĩa của đại tạo, trong đại tạo có thân, sơ tạo. Thân tạo nghĩa là đồng giới địa, đồng với Hữu lậu v.v… gọi là thân tạo, nếu khắc giới địa Hữu lậu Vô lậu gọi là sở tạo. Như thân ở cõi trên, biến khởi vàng, bạc v.v… suy nghĩ chỉ dục sắc, mà khởi định quả sắc v.v… đây tức là cõi Dục đại sơ tạo, nhưng Hữu lậu được tạo ra Vô lậu, Vô lậu không được tạo ra Hữu lậu. Vì sao? Nếu Thức thứ tám duyên theo tự chứng phần đầy đủ đại tạo, Thức thứ sáu xúc chạm vào duyên chỉ từ kiến phần, vì tướng phần này chẳng phải thật sắc, không được gọi là Vô lậu tạo ra Hữu lậu.

Lại nay giải thích thêm, Vô lậu cũng được sơ tạo ra Hữu lậu, như duyên theo thân Phật gần gũi tướng phần v.v… nếu trong thân tạo Luận sư của luận Tát-bà-đa đại chủng năng tạo chỉ Vô ký, chỉ Hữu lậu, chỉ do xúc xứ bốn đại, năng tạo. Trong pháp xứ lại không phải lập riêng, có sắc khác, chỉ có vô biểu không phải là cực vi. Sở tạo thông với hai tánh, nghĩa là sắc, thanh hai trần. Nếu Đại thừa giả gọi là thiện, ác, Vô ký đại chủng là nói tên tạo. Căn cứ theo đại tạo thân là Vô ký tạo ra Vô ký, thiên tạo ra thiện, Vô lậu cũng như vậy, vì đại và sắc đều thông với Vô lậu. Xúc xứ, pháp xứ có năng tạo, vì quả sắc của định và thần thông gần gũi sở y khởi bốn đại vì cũng do định thần thông khởi, nhưng thông với giả thật, năng tạo suy nghĩ nó.

Nếu nêu ra thể thì năng tạo chỉ có bốn đại, nghĩa sở tạo là năm trần sắc, trong sắc của pháp xứ tự tại sở sinh và biến kế khởi, thọ sở dẫn sắc. Nếu chấp lấy vô biểu, tức là chẳng phải đại tạo, nương theo chủng tử, hiện hành của tư nên chẳng phải đại sở tạo. Nếu căn cứ theo sở duyên cũng có thể do đại tạo. Lại căn cứ theo y tha, Viên thành mà nói rõ thể tánh, không nói biến kế là chẳng phải vọng sở chấp, vì trí chủng tử sinh, các luận sư nói khác vả lại chấp lấy làm chánh nghĩa. Nếu thường vô thường chỉ có y tha, đại tạo ra Hữu vi vô thường, đây căn cứ theo môn thường vô thường. Lại nếu Hữu lậu y tha khởi, nếu Vô lậu thông với Viên thành, Vô lậu lìa điên đảo, dụng biến khắp, đây căn cứ theo môn lậu Vô lậu. Năm pháp phân biệt là đại tạo thông với tướng, tên gọi thông với phân biệt, chánh trí, vì thông với lậu Vô lậu, không thông với như như, vì là tánh của tướng. Nếu nhiếp tướng quy về tánh, cũng thông với như như. Ba tánh khác nhau là ở phàm phu chỉ Vô ký, nếu Phật quả chỉ tánh thiện, hàng Nhị thừa và Bồ-tát thông với Vô ký và tánh thiện, bất luật nghi ác thân, ngữ nghiệp v.v… Tùy chuyển môn thông với bất thiện. Căn cứ theo thật nghĩa là đại chủng, tạo chỉ vô gián, luật nghi thiện thân, ngữ, nghiệp v.v… Nếu địa vị Hữu lậu giả thông với tánh thiện, căn cứ theo thể Vô ký, thật thiện tánh là theo tư mà lập. Nếu từ Sơ địa trở lên thông với lậu Vô lậu và thiện Vô ký. Nếu luận Tát-bà- đa đại chủng chỉ là Vô ký, tạo sắc thông với ba tánh.

Đại chủng tạo sắc có nhiều giải thích không đồng:

Mot là chỉ từ tự chủng tạo ra gọi là đại tạo, luận Duy Thức quyển 20 ghi: “Thức trên công năng của sắc gọi là năm căn ứng hợp với lý”, công năng nghĩa chủng tử, năm căn là sắc được tạo ra.

Hai là chỉ nhận lấy bốn đại chủng, gọi là đại tạo sắc, sở y gọi là tạo, chẳng nói về thể, nghĩa là chủng tử của sắc phải nương theo đại chủng, lúc đại chủng khởi mới có thể được khởi, do mang theo cái khác, nên gọi là đại tạo sắc, tăng thượng và lực gọi là tạo.

Ba là hai loại đều nhận lấy. Nay tuy ba Luận sư nói không đồng, chỉ Luận sư thứ hai trội hơn. Vì sao? Theo luận Du-già quyển 3 ghi: “Đại chủng đối với chủng tử của sắc có năm thứ công năng, do đó biết trội hơn”. Năm thứ đó là gì?

1. Sinh khởi nhân, nghĩa là do đại chủng luôn mang theo sinh ra.

2. Y nhân, nghĩa là tạo ra sắc này nương tựa đại chủng.

3. An lập nhân, nghĩa là chủng tử của sắc này và đại chủng đồng an nguy, đại chủng hoại tạo sắc cũng hoại.

4. Trì nhân, nghĩa là sắc này ở trong đại chủng đều biến nhau, nên luận Du-già ghi: “Một là hòa tạp không lìa nhau, hai là đồng xứ không lìa nhau”.

5. Trưởng dưỡng nhân, nghĩa là sắc căn v.v… nương theo đại chủng sự đắc được tăng trưởng.

Hỏi: Chủng tử của sắc nương theo đại chủng khởi, tức là nói đại chủng làm Sinh nhân, năm thức do căn phát ra, cũng nói thể của căn làm khởi nhân?

Hỏi: Chủng tử của sắc do đại chủng sinh, tức là nói đại chủng làm khởi nhân, vô biểu sắc do biểu sắc khởi, nên nói biểu sắc là sinh nhân?

Giải thích vặn hỏi thứ nhất, chủng tử của sắc từ đại chủng khởi gần nên gọi là Sinh nhân, năm thức tuy căn phát ra, thưa xa nên không gọi là nhân. Lại giải thích năng sinh sở sinh là đầy đủ chất ngại, tức là nói đại chủng làm sinh nhân, tâm pháp sở sinh chẳng phải là ngại, không nói là căn pháp, làm sinh nhân. Lại nghĩa của sinh rộng thông, tâm sắc đều gọi là sinh, đại tạo là hẹp, sinh ra tâm chẳng phải tạo nhân.

Giải thích vặn hỏi thứ hai, đại chủng khiến cho sắc khởi, thật nên gọi là Sinh nhân, vô biểu mượn biểu khởi, từ giả nói giả nhân, như thân của Phật, vô biểu sắc cũng chẳng phải tạo nhân. Ánh sáng mặt trời v.v… cũng vậy.

Giải thích rằng: Phải do kia được khởi nên ánh sáng mặt trời cũng gọi là tạo. Thân của Phật vô biểu sắc xa phòng ngừa điều ác, nên cũng gọi là tạo nhân.

Vặn hỏi thứ hai, chủng tử của sắc trì đại chủng khởi, đại chủng khởi nói là y nhân, hương thơm của Cô Hành do chất khởi lìa chất, do đâu được nói y nhân? Hai cõi Dục, sắc giới từ đại chủng khởi có thể khiến cho có y nhân, diệu định của Vô sắc chẳng phải đại chủng khởi, vì sao nói nó có năm nhân?

Giải thích rằng: Căn cứ theo nó nương chất nói năm việc, cho nên bốn đại đầy đủ năm nhân, không nói các sắc đều đầy đủ năm nhân. Cô hành, diệu sắc không cói y nhân. Lại vặn hỏi định, đạo của sắc giới nương theo đại chủng khởi, nói đại chủng này làm sinh nhân; định, đạo của Vô sắc không có đại chủng nên nói chỗ kia không phải sinh nhân. Giải thích định đạo của sắc giới chẳng phải thật sắc, giả nói là sắc giả tạo nhân, định đạo của Vô sắc giả tên của sắc, từ giả nói có giả tạo nhân.

Vặn hỏi thứ ba, sắc đới chất đồng an nguy, có thể được nói làm An lập nhân, Vô sắc, Cô hành không phải bản chất vì sao nói có An lập nhân?

Giải thích rằng: Đại chủng tạo, tạo ra nó đầy đủ năm nghĩa, không nói sở tạo phải năm nhân, nên cũng không ngăn ngại.

Vặn hỏi thứ tư đồng vặn hỏi thứ năm, bốn đại có thể giúp sắc, tức là nói bốn đại trưởng dưỡng nhân, ẩm thực cũng giúp đỡ căn cũng được gọi là Trưởng dưỡng nhân. Giải thích đại chủng giúp nghĩa rộng, cho nên bốn đại gọi là Trưởng dưỡng nhân, ẩm thực bên trong giúp nghĩa hợp, cho nên không gọi là Trưởng dưỡng nhân.

Lại hỏi nếu như vậy vì sao miên, mộng, phạm hạnh, đẳng trì, nói bốn loại là dưỡng, không nói bốn chủng làm trưởng dưỡng?

Giải thích rằng: Miên v.v… trưởng dưỡng thông với trong ngoài, nêu chỉ nói bốn trưởng dưỡng nhân, đại chủng tạo dưỡng sắc không phải tự dưỡng, chỉ là dưỡng riêng chẳng phải trưởng nhân, nhưng có ba nghĩa: Một Dị thục, hai trưởng dưỡng, ba Đẳng lưu. Trong Đẳng lưu có bốn: Một Dị thục, hai trưởng dưỡng, ba biến hoại, bốn tự tánh Đẳng lưu. Đem sở tạo trước để ở ba môn này, có bao nhiêu loại đầy đủ ba, cho đến một, hai v.v… các pháp đều như vậy. Tất cả các pháp có hai là Hữu vi, Vô vi. Vô vi thường trụ chẳng phải nương theo đại chủng tạo. Trong pháp Hữu vi có ba là tâm, sắc, bất tương. Bất tương ưng là hai vị trước giả kiến lập, lại không phải nói khác. Trong hai loại trước, ban đầu nói có tâm pháp, ở trong ba môn mà nhờ lựa ra, tâm pháp đầy đủ Dị thục. Dị thục có hai: một là chung, hai là riêng. Nếu thức thứ tám tâm, tâm sở có chung, nếu sau khởi tức là riêng, trong sáu thức trước Dị thục chỉ có riêng, nếu căn cứ theo ban đầu khởi gọi là chung, đều được đầy đủ hai loại. Trong trưởng dưỡng chỉ tướng tăng thạnh mà không có xứ rộng biến khắp. Trong Đẳng lưu không có biến dị Đẳng lưu. Nghĩa khác nhau của tâm pháp chuẩn theo đó mà tư duy.

Hai là nói về sắc pháp, sắc pháp chia làm bốn loại: Sắc của năm căn, sắc của pháp xứ, sắc bên trong năm trần, sắc bên ngoài trần. Nếu sắc của năm căn đầy đủ Dị thục trưởng dưỡng. Trong Đẳng lưu chỉ có hai loại đầu. Phù trần bên trong có Đẳng lưu thứ tư, mà không phải thứ ba, tuy có suy biến mà cũng Dị thục, chẳng gọi là biến dị. Trần bên ngoài chỉ có biến dị và tự tánh Đẳng lưu, mà không phải trưởng dưỡng, Dị thục, gần tăng thượng nên chẳng phải Dị thục, chẳng phải sắc bên trong, nên chẳng phải trưởng dưỡng. Trong sắc của pháp xứ nếu định quả có tướng tăng thạnh, xứ rộng khắp, chuẩn theo văn của luận Du- già, chẳng phải là Dị thục. Trong Đẳng lưu trừ loại đầu và thứ ba, vô biểu sắc có tăng trưởng dưỡng mà không phải xứ rộng khắp. Chẳng phải nghiệp quả nên chẳng phải Dị thục, trong Đẳng lưu không phải Dị thục Đẳng lưu và biến dị Đẳng lưu. Cực lược, cực hướng khởi trong quán tâm của Đại thừa, chỉ có trưởng dưỡng tướng tăng thạnh, chẳng phải Dị thục Đẳng lưu, như nói vô biểu sắc. Nếu Tiểu thừa, ngoại đạo Dị thục tâm khởi chẳng phải nghiệp gần cảm, chẳng phải Dị thục, chấp vào sự tích lũy vi tế thành Địa, tức là đầy đủ ba Đẳng lưu sau, cần phải xét kỹ. Trần, đại chủng hỗ tương tạo ra bốn câu: một, chỉ năng tạo chẳng phải sở tạo, Nhất thiết hữu bộ bốn đại năng tạo; hai, chỉ sở tạo chẳng phải năng tạo, nghĩa là sắc căn của nhãn v.v… các bộ đều đồng chỉ có sở tạo; ba, cũng năng tạo cũng sở tạo tức là bốn đại của tông Sư tử và năm đại của Số luận. Thiếu câu thứ tư.

Giải thích sắc của pháp xứ, Tây Minh hỏi: Pháp xứ của Đại thừa thật sắc là có ngại chăng?

Đáp: Sắc của các pháp xứ đều là vô đối, như các cung điện v.v… của Vô sắc giới đều là vô đối, vì pháp xứ.

Hỏi: Biến khắp đại địa là vàng, nước làm tô, lạc v.v… vì sao là vô đối?

Đáp: Sắc sở biến của định có hai loại: một là hữu đối, hai là vô đối. Nếu sắc của pháp xứ, tức là vô đối, biến khắp làm sắc v.v… tức là hữu đối chưa rõ giải thích này. Vả lại định và thần thông khởi sắc v.v… năm trần, đối với năm thức riêng, tức là sắc v.v… này gọi là hữu đối, vì sao các luận không nói trong sắc v.v… có định v.v… khởi sắc? Lại nếu năm thức chấp lấy tên làm sắc v.v… căn, cảnh cùng so sánh đều là vô ngại. Vì sao trong Đại luận nói, ngang bằng tâm chư thiên biến khắp vạn ức thân? Cùng lập không lượng địa trên đầu sợi lông v.v… đã nói rằng cũng lập không lượng địa trên đầu sợi lông v.v… tức là đồng một xứ, hỗ tương không ngăn ngại nhau, đâu gọi là có ngại? Không đồng với đồng xứ không lìa sắc, do tùy thuận. Một nhân được dẫn đồng là một căn v.v… Đại thừa Tiểu thừa đồng thừa nhận như cảnh của năm căn. Dù tự dù tha, Đại thừa, Tiểu thừa đồng thừa nhận thể làm hữu đối, nay đã cùng lập đầu sợi lông đều có căn cảnh của tự và tha vì sao không ngại? Lại cũng không đồng ngoại khí thế giới thừa nhận cùng nghiệp cảm đồng xứ không ngại, căn chẳng phải cộng cảm, làm sao không ngại? Do đây mà biết, định v.v… khởi sắc là vô chất ngại, luận tự nói. Nếu như vậy định v.v… chuẩn theo luận đã nói là thuộc về pháp xứ, đâu thừa nhận năm thức duyên theo pháp xứ?

Đáp: Thừa nhận cũng đâu có lỗi gì! Trái với các luận nói căn cảnh tướng đối năm thức sở duyên là năm căn.

Hỏi: Vì sao luận này lại nói chớ cho tướng thức thô duyên theo tướng cảnh tế?

Đáp: Cũng không trái. Trước căn cứ theo tự lực nên nói vậy, nếu tha lực dẫn thì không quyết định. Nên thứ hai nói rằng: Sức của định, thần thông thì không phải quyết định.

Lại hỏi: Pháp xứ có thật sắc chăng?

Đáp: Thừa nhận có thật, tức là chỉ định v.v… sắc của sở duyên chẳng phải bốn loại khác, còn lại đều giả, đã định sinh v.v… thừa nhận có thật sắc.

Hỏi: Vì sao không phải chất ngại?

Đáp: Cũng không trái, vì nhân của định v.v… tự tại khởi, không đồng với nghiệp sắc, nói chất ngại nên gọi là sắc, căn cứ theo nghiệp sở sinh cảnh của năm căn nói, chẳng căn cứ theo định v.v… sở sinh sắc nói. Lại giải thích thật sắc cũng là hữu ngại, nói sắc của pháp xứ làm vô ngại, căn cứ theo giả sắc nói nghĩa này cũng vặn hỏi. Có bao nhiêu thức duyên theo ngại vô ngại, cần tìm văn mà đọc.

Luận rằng: Nhãn thức v.v… sở duyên bên ngoài, duyên theo lý chẳng có.

Sớ ghi: Tổng chẳng phải mười tám. Vì sao? Nếu nói rằng trừ Căn bản bộ, tức là lẽ ra còn mười bảy vì Nhất thiết bộ không có thật cảnh, nên trừ đi Nhất thiết bộ và Xuất thế bộ, vì Xuất thế bộ luận về thế gian đều hư vọng. Đây tuy có thể như vậy, Xuất thế bộ thì thế nào? Nên Sớ nói tùy người xưa nói tổng chẳng phải mười tám, căn cứ theo thật là hai mươi, nếu như vậy Nhất thiết bộ vì sao phá? Vì chấp có hư vọng, Sở duyên duyên bên ngoài, nên nay phá nó, nếu không như vậy, Nhất thiết bộ đâu biết Duy thức.

Luận rằng: Chớ cho rằng mặt trăng thứ hai năng sinh năm thức, chuẩn theo Nhị Thập Duy Thức của sư Cù-ba giải thích:

Một nói rằng: Chỉ ý thức đắc, trong đây làm dụ của năm thức, chẳng duyên theo nghĩa v.v… nên không có lỗi, vì năm thức là thuộc về hữu pháp, đồng dụ không có lỗi vô sở lập. Ý này lấy hòa hợp làm hữu pháp ở nơi năm thức, thiết lập sở duyên, chẳng phải duyên là pháp, tức là trong dụ có lỗi sở lập bất thành, vì sư Kinh bộ cũng không thừa nhận năm thức duyên theo mặt trăng thứ hai, nay đã hòa hợp ở nơi năm thức gọi là hữu pháp, thiết lập sở duyên chẳng phải duyên là pháp, năm thức đã ở nơi hữu pháp, mặt trăng thứ hai là sở duyên của Thức thứ sáu vì không có tự thể, không phải là nghĩa duyên, nên được làm dụ. Lỗi sở lập bất thành, giải thích đầy đủ như Sớ. Có giải thích: sư Cù-ba có hai giải thích: một, thừa nhận năm thức duyên theo mặt trăng thứ hai. Hộ Pháp không thừa nhận. Trong bình luận về hai thuyết, sư Cù-ba thuận văn trái lý, do duyên theo mặt trăng thứ hai nên thuận văn, mà hiện lượng thức duyên theo phi lượng cảnh nên trái với nghĩa. Nay cho rằng lý vặn hỏi nếu hiện lượng thức duyên theo cảnh phi lượng tức là trái lý, biến kế sở chấp Thánh là đật đến vô, được nói biến kế là cảnh của phàm thánh. Năm thức duyên theo cảnh của phi lượng, trái với chánh lý nào? Nếu thừa nhận chẳng phải lý cũng chẳng thuận văn. Quán Sở Duyên ghi: Thiết lập sở duyên chẳng phải duyên, nói chẳng phải thật thừa nhận nên ngài Hộ Pháp trội hơn.

Trong phá tông Kinh bộ, nghĩa của Sở duyên duyên, có giải thích rằng: Như nhóm thật vi để thành giả sắc, tức là lấy thật vi làm duyên, giả tướng làm sở duyên, chỉ khởi hành tướng nhiếp thực kiến phần, tức là lẽ ra Đại thừa thuộc về tướng phần, tha nhiếp tướng này làm hành tướng, nên nói làm kiến phần mười chín bộ đồng. Nay Kinh bộ chấp lấy giả tướng kia nên lìa thức thủ, nếu như vậy giả tướng chẳng phải năm thức duyên, thật vi là duyên. Vì sao phá kia nói rằng hòa hợp tương ưng chẳng phải năm thức duyên? Họ đã tự thừa nhận giả tướng chẳng phải duyên, nay phá lỗi tương phù. Nay giải thích rằng: Rộng nói Sở duyên duyên, tức là như họ giải thích. Căn cứ theo thật hòa hợp hay sinh ra thức tức là duyên, do đó phá nó.

Hỏi: Như Kinh bộ nói tích chứa vi là thô nắm cả nhiều pháp nên là giả chẳng thật, nương theo tông của Đại thừa. Vả lại như nhãn thức và đồng thời tâm sở, tướng phần sở đới đều mỗi mỗi huân tập thành chủng tử của bản chất, sau sinh ra hiện hành, là từ một mà khởi, là từ nhiều cộng thành? Nếu từ một khởi huân tập đồng thời thế lực lại bình đẳng, có Sinh không Sinh không ứng hợp với đạo lý, nếu thừa nhận đều sinh, tức là mỗi mỗi sai biệt, tâm vương tâm sở không phải một sở duyên. Nếu nhiều cùng sinh, như thế là chẳng phải giả?

Đáp: Không đồng với họ thừa nhận không do thể của chủng tử hòa hợp thành một, vì chỉ chủng tử riêng cùng sinh ra một loại hiện hành, do vốn đồng duyên với một chất, chủng tử ở một thức, sắc của sở duyên một thể thầm hòa hợp, nên không phải là giả. Lại nữa, họ thừa nhận lìa thật, không phải riêng hòa hợp tướng nên tướng là giả. Chủng tử hiện hành Đại thừa không phải nhất định một, cho nên là thật. Lại nếu thừa nhận là giả chẳng phải không có tự thể, giả nên năm thức duyên, vô thỉ kia giả nên chẳng phải năm thức duyên.

Phá luận Cổ Tát-bà-đa nói rằng: Chẳng phải các cực vi cùng hòa hợp vị, có thể cùng với năm thức đều làm ra sở duyên, thức trên này không phải tướng của cực vi. Yếu Tập ghi: “Gốc ngọn cả hai kế, luận Bà-sa, luận Câu-xá và luận Chánh Lý tự có thức chứng”, tướng thô thứ hai chưa từng thấy giáo nói. Có thuyết cho rằng mỗi mỗi đều phát ra tướng thô, không khác với hòa hợp nhóm họp, vặn hỏi này chuẩn theo mà biết. Nay cho rằng không như vậy. Vì sao? Chuẩn theo văn luận này, luận tân Tát-bà-đa đã nói triển chuyển giúp nhau có thể tương sinh, nên biết cổ sư bảy cực vi tụ, tuy không phải tướng giúp nhau có tướng thô khởi, nhưng do bảy tụ có tợ như tướng thô, không như vậy lẽ nào cho là năm thức duyên đồng với cực vi? Lại tân ngược với cổ, đã nói tướng giúp có tướng thô khởi, nói biết cổ sư tuy có tướng thô, không do tướng giúp nên gốc ngọn khác nhau. Luận kia ghi: “Thô tướng thứ hai chưa tùng thấy giáo nói”, tức là luận này nói có thể chẳng phải giáo ư? Nên điều mà Từ Ân, Tây Minh nói không lầm. Lại nói, có thuyết nói mỗi mỗi đều phát ra tướng thô, không khác với hòa hợp tập hợp, điều này khó biết. Nay cho rằng cực hiển, trước văn cổ sư cùng hòa hợp vị, có thể cùng với năm thức đều làm ra sở duyên, tức là có tướng thô, nhưng không phải tướng giúp. Luận Tân Tát-bà-đa, sau lại chánh giải, triển chuyển tướng giúp, có tướng thô sinh làm cảnh của năm thức, đối với văn rất rõ ràng, vì sao nói khó biết?

Hỏi: Phá luận Tát-bà-đa rằng: Cái bình, bồn nhỏ v.v… vật rất nhỏ v.v… duyên theo tướng kia thức lẽ ra không có sai biệt, làm duyên của năm thức, là không phải duyên ư? Nếu chẳng phải duyên của năm thức, vì sao trong phá cảnh của năm thức nói, nếu duyên của năm thức, tông kia không thừa nhận duyên của năm thức giả? Nếu cái bình v.v… chẳng phải giả, vì sao trước phá năng thành cực vi, thủ lấy làm dụ, phá chẳng phải thật có ư?

Tây Minh nói: Cái bình v.v… là giả, là ý thức duyên, nếu như vậy họ chống chế cái bình, cái bồn nhỏ rất nhỏ, thể tuy không khác mà vọng ý thức sinh ra giác giải. Như Luận sư Đại thừa, ý loạn sinh ra giải, đây cũng không như vậy. Đại thừa ý loạn, cảnh của sở duyên không có, như hoa đốm trong hư không v.v… kia có tự thể.

Lại hỏi: Nếu là cảnh của ý không có vì sao trong phá năm cảnh nói cảnh của ý lẽ ra là thuộc về pháp xứ?

Đáp: Như tông của Đại thừa, sắc của dài ngắn v.v… cũng là sắc xứ. Nay lại giải thích thêm cái bình, cái bồn nhỏ v.v… giả, năm thức tuy không duyên giả, luận kia chấp theo dài ngắn v.v… nương theo cái bình v.v… là có thể thật có, nên là cảnh của năm thức. Bởi vậy Quán Sở Duyên ghi: “Chẳng phải hình khác nhau nên khác”, nên biết chính vặn hỏi hình sắc của dài v.v… nêu lên sắc của dài v.v… sở y cái bình, cái bồn nhỏ. Vì nhờ vào cái bình, cái bồn nhỏ hiển bày được dài, ngắn v.v… chẳng phải chính làm dụ, như nói hoa đốm trong hư không, cái bình, cái bồn nhỏ làm thường, vô thường, hai dụ y v.v… nhưng không phải chướng nương theo thức loạn bất loạn, vì duyên theo cảnh hư thật. Có thuyết dẫn Luận sư Cù-ba nói rằng: “Thức loạn bất loạn năm thức và căn loạn bất loạn nên dẫn ba loại ý sinh”, đã nói thức, căn đều loạn bất loạn, nói năm thức cũng duyên theo mặt trăng thứ hai, có người sửa đổi ba loại là hai, ý duyên theo giả và thật hai cảnh. Tây Minh nói: “Ba loại ý thức duyên theo hai cảnh khác nhau”, nên nói ba ý nghĩa là một duyên theo giả hai duyên theo thật, ba duyên theo cả hai, nên nói rằng ba ý, đây chẳng phải nghĩa của luận Tát-bà-đa, không thể làm chứng. Nay lại giải thích luận kia thừa nhận năm thức duyên theo cái bình v.v… giả, vì có tự thể, nếu không như vậy vì sao nó lại thuộc trong phá năm cảnh?

 

 

(PHẦN CUỐI)

Nói chẳng phải tướng thức thô duyên tướng cảnh tế, Yếu Tập ghi: Có thuyết nói ông duyên theo thức của cái bình tướng thô tức là duyên theo thức của tướng vi tế, nếu thừa nhận như vậy, lượng nói rằng: Ông duyên theo thức của sắc, cũng sẽ duyên theo âm thanh, thừa nhận pháp tương vi đắc được câu duyên, như cảnh của thô tế, trong lượng này dụ là lỗi sở lập chẳng thành. Duyên theo tâm thô tế chẳng duyên theo âm thanh v.v… nên không thành dụ, cảnh của thô tế kia chẳng phải âm thanh v.v… Đây phá không như vậy, nêu lượng không nương theo Sớ đã nói. Sớ lượng rằng: Cảnh trong thanh v.v… khác của ông duyên theo thức của sắc cảnh khác lẽ ra cũng được duyên, thừa nhận pháp tương vi đều được câu duyên. Lượng này cho âm thanh khác v.v… cảnh là hữu pháp, duyên theo tâm của cảnh sắc khác là pháp, sắc cảnh chẳng phải pháp, hữu pháp. Nêu cảnh nhận lấy tâm, duyên theo tâm của sắc là trái với tâm duyên theo âm thanh, tương vi này tâm lẽ ra cũng được duyên, chính là pháp, thừa nhận tương vi pháp đắc được câu duyên nên nhân như dụ thô tế, có hai lập nên được thành tựu tỷ lượng. Chớ cho rằng thức của cảnh khác duyên với cảnh khác. Tây Minh nói: “Chớ tức là đừng, đừng tức là duyên thô, cũng duyên theo cảnh của tế, vì có lỗi tạp loạn”. Nếu không thừa nhận duyên theo cảnh tướng viên tế, vốn viên tế tương ưng chẳng phải năm cảnh. Nếu cho rằng trái với tông, một thức sẽ duyên theo tất cả cảnh, nếu duyên theo thức thô cũng duyên theo tướng thô, duyên theo màu xanh v.v… tâm sở duyên theo âm thanh v.v… tức là nhãn thức v.v… đồng duyên theo mười tám giới. Yếu Tập ghi: Có thuyết sau lượng, có giải thích hai lượng, đều có lỗi, do đây có giải thích chỉ lấy lý phá, chẳng phải lập ra lượng phá. Đây cũng không như vậy, lập ra lượng phá kia lỗi gì không đắc? Vả lại lập ra lượng rằng: Âm thanh cảnh của ông lẽ ra là thức tương vi khác duyên, thừa nhận pháp tương vi đắc được câu duyên, như cảnh của thô tế, âm thanh này cũng có thô tế, thức tương vi được duyên, nhân có ba tướng.

Giải thích Sở duyên duyên, luận Du-già quyển 72 lại có hai tướng khác: một là tướng bản tánh, hai là tướng ảnh tượng. Tướng bản tánh là gì? Nghĩa là trước phân biệt sinh và tướng sở sinh cũng được thành tướng. Tướng ảnh tượng là gì? Nghĩa là biến kế sở khởi, thắng giải sở hiện, chẳng trụ ở bản tánh.

Yếu Tập ghi: “Cộng sở thành là dụng của tăng thượng duyên, nghĩa là sức hay huân tập kiến phần”. Tướng phần hay huân tập chủng tử của Lại-da, kiến phần, tướng phần, chẳng phải như Dị thục tâm, tâm v.v… vì không thể huân tập. Tướng cũng không huân tập, nên nói trước phân biệt v.v… Nay giải thích, tướng mà quyển 72 kia nói chẳng phải chỉ có sắc tướng, nếu gọi là sở thuyên chung gọi là tướng, như hai thức trước cũng gọi là tướng bản tánh, đều làm Thức thứ sáu, duyên là chất. Trước phân biệt sở sinh tức là chủng tử của bản hữu, và tướng sở sinh và chủng tử mới huân tập cùng sinh ra bản chất. Nói rằng cùng được thành tướng, nếu không như vậy, bản chất căn cứ theo hiện hành mà nói, sau chủng tử sinh ra hiện hành kiến phần diệt từ lâu, vì sao được nói cùng được thành tướng, cũng không thể nói căn cứ theo tăng thượng mà nói? Luận nói trước phân biệt sở sinh và tướng sở sinh, nếu căn cứ theo tăng thượng nên nói rằng trước phân biệt và tướng sở sinh chính là hợp nghĩa, đã đều nói sinh, nói đều là chủng tử khác nhau.

Có thuyết nói Luận sư của Du-già tức là Y sĩ thích, sư có Du-già sư tức là Hữu tài thích, đây cũng là Y chủ mà chẳng phải Hữu tài, như phân biệt trước.

Yếu Tập ghi: “Tâm, cảnh tương ưng” nghĩa vả lại khó rõ. Nếu nói rằng tâm khởi nhất định nương gá vào cảnh; tâm thú hướng cảnh này, cảnh thuận theo tâm kia nên gọi là tương ưng. Cảnh lẽ ra đều thông với ba tánh, định tâm, tán tâm, nếu nói tùy theo tâm sở lạc, cảnh đó nhất định hiện hành, đối với tự tại kia gọi là tương ưng, vì giả tưởng tuệ phân tích tụ sắc, tuy giải thích vi mà không hiện vi, làm sao được gọi là Luận sư Du-già? Nếu nói tâm tức là không trái với cảnh giới, tự tánh các pháp nên gọi là tương ưng, đối với bản tụ sắc trước không có cực vi, làm ra giải thích cực, làm sao nói phá hoại được pháp tướng? Yếu Tập tự giải thích: Cảnh giới quán tâm cảnh sở duyên không chướng ngại quán tâm, khiến cho quán tâm kia các thứ hành giải, hoặc màu xanh, vàng v.v… cực vi v.v… tướng được tự tại chuyển, cho nên gọi là tâm cảnh tương ưng, chẳng phải cho rằng cảnh tướng tùy theo tâm hiện nên gọi là tương ưng. Đây cũng không như vậy, hoa đốm trong hư không tuy không có, cũng không chướng ngại tâm làm ra cái hiểu hoa đốm trong hư không. Như bệnh tổn hại nhãn chẳng phải màu vàng thấy cảnh của màu vàng, biến kế ngã v.v… đều không chướng ngại tâm, tâm tà vọng giải sinh đâu được gọi là tâm cảnh tương ưng. Nên biết nói là tương ưng, tâm xứng với cảnh biết gọi là tương ưng, tương phù thuận nghĩa, tụ tuy không có vi, vì gá vào Thánh giáo, giả tướng quán nói thuận nhập vào vô ngã, vô ngã lý cảnh và tên gọi giáo cảnh tương ưng với tâm. Đây là giải thích hay, nên kiểm xét luận Du-già giải thích, luận Hiển Dương quyển 20 nói rõ.

Du-già sao hỏi: Đối với sắc tướng thô, lúc dần dần trừ phân tích biến đổi cực vi, vì sao không riêng huân tập thành chủng tử?

Đáp: Vì không có bản chất.

Hỏi: Nếu như vậy danh ngôn huân tập và duyên theo cảnh đã qua, lúc huân tập thành chủng tử, đâu có chất ư?

Đáp: Như danh ngôn hướng thượng và duyên theo cảnh đã qua, vì hiện hành sẽ có cảnh kia có thể sinh, tức là huân tập thành chủng tử. Hoa đốm trong hư không chẳng có tuy duyên không thể riêng huân tập thành chủng tử, cực vi cũng như vậy vốn không phải chất kia, nên không phải riêng huân tập.

Hỏi: Hoa đốm trong hư không chất có thể không huân tập chủng tử, cực vi gá vào sắc vì sao không phải chủng tử sinh?

Đáp: Tuy đối với sắc tướng, như chấp vào ngã v.v… nên không thành chủng tử, không như chấp kia, quán cực vi chẳng chấp, vì sao lại so sánh?

Đáp: Tuy chẳng phải chấp tâm, không có chất nghĩa v.v… nên có thể so sánh. Nếu theo Pháp sư Tây Minh tức là thừa nhận thành chủng tử, như trước nói về lỗi.

Luận phá Chánh Lượng bộ ghi: Pháp Hữu vi diệt không đợi nhân.

Hỏi: Vì sao biết tướng diệt của Đại thừa không đợi nhân?

Đáp: Luận Đại Trang Nghiêm ghi: Lại như nấu nước đến cực ít thì sau đó nước không sinh, cũng chẳng phải lửa hợp với nước mới không có tự thể. Lượng rằng: Thừa nhận là diệt, như Vô vi diệt, chuẩn theo đây tợ như đem hữu pháp làm nhân, hữu pháp làm nhân tức là không có hữu pháp; lẽ ra là lỗi sở y chẳng thành. Giải rằng: Diệt có nhiều diệt, nhận lấy Hữu vi động diệt là tông, vì diệt khác là nhân, tùy nhận lấy ít phần, nên cũng không lỗi.

Hỏi: Vô vi diệt có thể đồng với Hữu vi không?

Đáp: Chỉ tổng nói thừa nhận diệt này, không cần chia riêng thể diệt tướng diệt, Vô vi đã không đợi nhân, Hữu vi cũng sẽ không đợi nhân nên nhân không được phân biệt. Lại như âm thanh vô thường tức là diệt, nhưng nói vô thường, không chỉ nói rõ diệt tướng. Luận Hiển Dương 14 ghi: “Tánh vô thường nghĩa là ba tướng Hữu vi cùng tương ưng, một sinh tướng, hai diệt tướng, ba trụ dị tướng, ba tướng gọi chung là vô thường, nói sinh lại làm nhân tánh, diệt này cũng như vậy. Yếu Tập ghi: “Có Sao lượng rằng, Pháp Hữu vi diệt nên không đợi nhân, vì gọi là diệt giống như Trạch diệt. Có thuyết lượng rằng: Diệt của ông diệt lẽ ra không đợi nhân, vì thừa nhận là diệt, như Vô vi diệt. Yếu Tập ghi: “Lượng của Luận sư này dụ có lỗi sở lập chẳng thành”, tức là ba Vô vi tuy không phải sinh diệt, đợi nhân hiển bày, đều gọi là đợi nhân, trong tông lẽ ra nói rằng: Không đợi diệt nhân, diệt nó.

Đây cũng không như vậy, thể Vô vi diệt không đợi nhân hiển bày mới gọi là diệt, tánh là diệt nên gọi nó là diệt. Nên nói lẽ ra không đợi nhân nên dụ được thành tựu, chẳng phải không có sở lập.

Luận: Chẳng hiển bày hương vị, lượng rằng: Sắc và hương, vị mà ông hiển bày lẽ ra chẳng phải là biểu vì chỉ có Vô ký, như đất, nước, lửa tuy tự tông có hương, vị thông với biểu nhưng là giả biểu, không thông với thiện ác, ý là phá được thật biểu nghiệp sắc khác lại là thiện ác, vì kia tự thừa nhận hương, vị, xúc ba loại chỉ Vô ký. Lại chuẩn theo luận sớ nên nói rằng: Biểu sắc này của ông cũng chẳng phải là hiển và cùng với hương, vị, không phải biểu thị nên như xúc, là vì họ thừa nhận.

Luận: Một sát-na âm thanh không có thuyên biểu, luận Tát-bà nói biểu này là thật, nay lại hỏi: Âm thanh của ông sinh ra tên gọi v.v… là một sát-na ban đầu âm thanh sinh ra tên gọi là thật thuyên biểu hay một sát-na sau âm thanh sinh ra tên gọi mới thật có thuyên biểu? Nếu ban đầu có thể sinh, sau thì không có dụng, nếu sau có thể sinh, tức là lượng rằng: Âm thanh một sát-na sau của ông, trừ Phật tâm, lẽ ra không thể thuyên biểu, vì là âm thanh, như thật tánh của một sát-na ban đầu, nếu nói tương tục, tức là như sau phá. Do bản kế kia trừ Phật, âm thanh của một sát-na không phải là năng thuyên, nên luận Bà-sa quyển 15 ghi: “Thanh văn nhiều sát-na âm thanh có thể nói một chữ, Phật âm thanh một sát-na hay nói một chữ; âm thanh trong một chữ vẫn chưa có danh cú tụ tập, nên không thể thuyên”.

Hỏi: Vì sao trong sắc chỉ lập riêng biểu sắc, trong thanh vì sao

không lập ra biểu thanh?

Đáp: Sắc pháp hiển hiện chỉ lập ra biểu, tướng của thanh khó biết, nên không phải lập riêng, vuông, tròn, dài, ngắn theo đó cũng có thể biết. Lại giải thích hình trong sắc, sắc có chẳng phải biểu, ở trong sắc, chỉ lập ra biểu; tình và danh trong thanh nhất định là biểu, vì không có phi biểu nên không lập riêng.

Hỏi: Thân biểu sắc nương theo thân, từ sở y kia gọi là thân biểu, ngữ biểu cũng nương theo thân, từ nương theo danh gọi là thân biểu?

Đáp: Hình sắc không lìa thân, tùy theo sở y kia gọi là thân biểu, tánh của thanh phát ra lìa chất xa, nên chẳng phải thân biểu.

Lại giải thích thân biểu ở ban đầu, từ nương theo danh thân biểu, ngữ biểu sau sẽ nói, vì sợ rằng lẫn lộn với phi thân biểu.

Luận: Nhưng nương tựa tư nguyện thiện ác phần hạn, phần dưới nêu chánh nghĩa, chia làm ba: Sơ đạo, định câu luật, bất luật nghi là câu chung trong xứ. Câu riêng là Phật thân vô biểu. Kế đó đoạn từ “gọi đây hoặc y” là giải thích khác, câu riêng trong xứ. “Hoặc nương định” trở xuống là câu riêng của định, đạo. Vì Phật không có tăng trưởng, trừ Phật còn lại giải thích khác v.v… tăng trưởng, định đạo nương theo hiện hành.

Hỏi: Sắc của vô biểu nương theo chủng tử của biểu lập ra, biểu có nhiều niệm nương theo niệm nào mà lập ra?

Đáp: Đối với sát-na ban đầu đang phát ra tư của thân, ngữ, hoặc đồng thời phát ra, hoặc trước sau phát ra, đồng thời cùng một loại, trước sau là loại riêng, đều ở trên ban đầu lập ra, sát-na thứ hai đã qua, chẳng phải nhân khởi, chỉ gọi là sát-na khởi, vì chẳng phải căn bản.

Hỏi: Trong định thừa nhận khởi hai nghiệp thân, ngữ, biểu nương theo đâu lập ra? Nếu động phát tư tức là định của hiện tại, là định đều vô biểu?

Đáp: Đã là giả lập thông với hai nghiệp ngại gì, nhưng luận Tát- bà-đa tùy tâm chuyển là đạo, định hai giới, có tâm tức là có, không tâm tức là không xả bỏ định này nhận lấy định khác tức là xả bỏ vô biểu này, được vô biểu kia, đạo cũng đồng như vậy, đều chỉ có thật sắc, gọi là vô biểu, không nhận lấy định, đạo, hai loại tương ưng tư. Lại định chỉ có Hữu lậu, Vô lậu tức gọi là đạo. Luận sư Đại thừa tùy chuyển nghĩa đồng, nhưng lập có khác, nương theo định, đạo đều hiện hành tự lập ra, định thông với Vô lậu, tuy là một tư, nhưng nghĩa mong có khác. Luận Tát-bà-đa tám giới phải từ cái khác mới đầy đủ chi, chỉ một ngày đêm,

Đại thừa đều thông, theo hay không theo sư, đầy đủ hay không đầy đủ, một ngày nhiều ngày, cũng đều không trái, vì nương theo tư nguyện phần hạn lập ra. Phật tùy chuyển môn, vả lại nói một ngày đêm, khiến cho dễ học. Đại thừa năm giới mười thiện, cũng thừa nhận một thời gian ngắn thiếu chi mà thọ, chỉ chúng xuất gia nương theo sư đầy đủ chi, thọ hết mới đắc, nhưng thiếu chi đều căn cứ trước khi nói Tam quy có mong cầu riêng, nên được thiếu giới. Nếu ba tụ mười vô tận v.v… bèn nương theo lời hỏi của ngài Văn Thù trong kinh Bát-nhã, thọ mười giới tức là đồng với mười giới của Sa-di, nhưng cùng tận đến vị lai thọ, lại đắc giới này có bốn phân biệt:

1. Hữu tâm đắc, nghĩa là phát ra thiện tâm tăng thượng mong cầu.

2. Hữu tâm bất đắc, nghĩa là không phát khởi cầu nguyện, nếu khởi mong cầu thọ biệt thoát giới của chúng xuất gia chỉ thời gian ngắn phần hạn thiếu chi ý nguyện đều không đắc giới.

3. Vô tận đắc, nghĩa là Na-hàm Sa-di khởi tâm cầu giới, tác bạch rồi sau liền nhập vào vô tâm định, lúc vô tâm này tác pháp Yết-ma xong, mong cầu đầy đủ nên cũng được đầy đủ giới.

4. Vô tâm bất đắc, nghĩa là không có tâm mong cầu, tức vị vô tâm khác.

Hỏi: Biệt thoát, vô biểu nương theo động chủng tử tư trên lập ra, như nhập vào Kiến đạo đắc được biệt thoát giới, đã không phải thân, ngữ, nương theo tư nào lập ra?

Đáp: Nhập vào Kiến đạo trước có tâm mong cầu, vận động phát khởi thân, ngữ, sau nhập vào Kiến đạo nương theo chủng tử nào lập ra, không như vậy tức không có.

Hỏi: Định, đạo vô biểu nương theo thẩm, quyết tư; lúc khởi thân, ngữ, nương theo tư nào trên lập ra thân nghiệp nói nghiệp?

Đáp: Nếu ở định khác khởi thân, ngữ, tức là thông với quả, cũng là định trước gia hạnh có tâm mong cầu, muốn khởi thân, ngữ, nương theo định dẫn chung, tuy không ở rải rác, không phải chính ở định, cũng động phát tư khởi nơi thân, ngữ.

Hỏi: Lúc khởi gia hạnh chỉ có thẩm, quyết tư; chưa khởi phát động, làm sao nương theo vị?

Đáp: Căn cứ theo thật định trong khởi động phát tư, như từ Địa thứ tám trở lên thường ở định tâm, tức là nghĩa nói nó không đồng với tán vị.

Trong ý nghiệp, mười thiện mười ác phát ra vô biểu chăng? Biệt chương có hai giải thích, nhưng Yếu Tập ghi: “Có thuyết nói Tam Tạng giải thích: quyển 53 chỉ căn cứ hiện hành, nói ý biểu nghiệp, chuẩn theo đây vô biểu nương theo chủng tử lập ra”. Nay tìm kiếm ý của Tam Tạng, thân ngữ biểu thị cái khác nên gọi là biểu nghiệp. Chủng tử cử tư không phải biểu thị, cho nên nói vô biểu. Ý nghiệp chỉ tự biểu, nên được nói là biểu, chủng tử không biểu hiện tự, nên cũng gọi là vô biểu. Pháp Uyển quyển 2 ghi: “Một là phát ra vô biểu, hai là không phát ra”. Loại thứ hai là đúng. Ý của Tam Tạng giữ lại giải thích trước. Đây nói không đúng, hai thuyết của Pháp Uyển cho rằng nhờ vào ý là dụng, không đoạn được nghĩa nói sau là quyết định. Nay ý chuẩn theo định phát ra vô biểu, đã Bồ-tát giới đầy đủ ngăn ngại ba nghiệp, thù thắng đối với Nhị thừa, tận đến bờ vị lai, vì sao không phát ra vô biểu thù thắng? Hai thuyết trước căn cứ theo xứ mà nói, chẳng theo luật nghi. Lại Yếu Tập ghi: “Lại năng khởi luật nghi thể chẳng phải luật nghi, do sinh luật nghi, từ quả làm danh thuyết gọi là luật nghi, nên không có vô biểu, chỗ nào trái nhau? Nên nay lấy không phát khởi vô biểu. Nay cho là không đúng, đã lấy không phát khởi, vì sao nói năng khởi luật nghi thể chẳng phải luật nghi? Nếu đặt ra rằng năng khởi thân, ngữ luật nghi chẳng phải ý luật nghi, mong Nhị thừa ý không phải luật nghi, căn cứ theo Đại thừa mà nói, mười thiện giới v.v… cũng là luật nghi, vì sao nói thể chẳng phải luật nghi? Từ quả làm tên nên không có vô biểu, vì vậy không thể làm được.

Yếu Tập hỏi: Định, đạo, ý vô biểu nương theo pháp nào lập ra?

Giải thích rằng: Biểu nương theo tư hiện hành, vô biểu nương theo chủng tánh, nên đầy đủ hai loại, không đồng với định đạo, thân, ngữ, vô biểu.

Hỏi: Nếu như vậy nêu ra định tâm sau đã có chủng tử nên lập ra vô biểu?

Đáp: Không như vậy, là tùy tâm giới nêu dụng của định vi tế nên không lập ra vô biểu, hoặc ở nơi tư một hiện hành có biểu vô biểu, đối với lý không trái. Nay cho rằng định, đạo ý đều vô biểu, quyết định lấy hiện hành, không thể gọi là Hoặc, tức là định đạo giới là tùy tâm, chủng tử thì có tâm thì không, vì chẳng phải tùy tâm.

Nhưng nương theo tư nguyện thiện ác, phần hạn v.v… Tây Minh nói nguyện tuy có nhiều nhưng ở trong đây nói tư là nguyện. Định, đạo hai giới là tư chẳng phải nguyện, biệt giải thoát giới vừa tư vừa nguyện, là nhiếp được định vị và tán vị vô biểu, nên nói là tư nguyện. Đây cũng bất định, vì sao biết nguyện này chỉ có tư, chẳng nương theo dục, thắng giải? Do có ít dục mới khởi tâm mong cầu, nói nguyện chỉ tư, tức là quá hạn hẹp. Yếu Tập ghi: “Tán tâm vô biểu có cần mong cầu”, nói nương theo tư nguyện, định, đạo vô biểu không phải mong cầu nên chỉ tư chẳng phải nguyện. Nhưng có thuyết cho rằng nguyện là hiển bày thành tựu tướng của vô biểu, đây nói ít hạn hẹp không thông với định, đạo. Nay cho rằng không lỗi là nói chung, ý hiển bày biệt thoát cùng với định, đạo khác nhau, tùy phần hạn của nguyện, nếu không như vậy nương theo chủng tử, chủng tử hiện hữu làm sao duyên giới xả bỏ? Lại các lời nguyện đều không thông với định, đạo, nay nói nguyện này hiển bày thành tựu tán vô biểu, vì sao chỉ nói hạn hẹp? Tây Minh giải thích vô biểu nói rằng: Ở bảy loại trên giả lập ra bảy chi, vì nó chỉ dụng có bảy loại.

Hỏi: Nếu như vậy, khi nhãn thức duyên theo màu xanh v.v… thì lẽ ra thành nhiều loại, thừa nhận cũng không lỗi. Như chánh thể, hậu đắc thể là tuệ huân tập thành hai. Nay chưa rõ, đã một hiện hành vì sao chủng loại có hai, nếu công đức khác, hậu đắc kiến phần công năng vô lượng, tự chứng phần thứ tư đều lẽ ra chủng loại khác nhau. Công năng khác nhau nên chủng lại sẽ càng nhiều, vì sao chỉ nói hai loại? Lại nếu huân tập nhiều, sau sinh ra một hiện hành và sinh ra nhiều nếu sinh ra nhiều hiện hành, tức là nhiều tâm đều khởi. Nếu trước sau sinh chẳng ứng hợp với lý, nếu cùng sinh ra một, đã hay huân tập thể một sở sinh cũng một vì sao tùy theo kiến phần huân tập thành nhiều chủng tử? Tùy theo thể thành một lý lẽ ra phải lâu dài.

Pháp sư Từ Ân lập ra tán vô biểu. Vả lại như Bí sô luật nghi, ở lúc nào đắc, nương theo chủng tử nào lập ra? Khi Yết-ma thứ ba xong, tùy theo năng thọ, hữu tâm, vô tâm hoặc ba tánh tâm, đều thừa nhận được thành tựu biệt thoát vô biểu, vì nương theo phát ra hai nghiệp thân, ngữ, tâm mong cầu thọ tư được huân tập thành chủng tử, làm giới sở y, chánh phát ra thân ngữ. Tư của động phát, chẳng phải lúc Yết-ma thứ ba khởi, đây chỉ trước lúc sư trước im lặng, vì tâm mong cầu kia, nay thời được thích ứng, ở trên chủng tử, công năng tăng gấp đôi gọi là đắc vô biểu. Tuy có nhiều cách giải, Sớ tự phán phân nhận lấy dụng tăng trưởng chẳng phải thể, nhưng Pháp sư Bạch Mã lập ra năm lỗi:

  1. Hiện hành không thành.
  2. Không huân tập chủng tử tăng.
  3. Phật quả tăng giảm.
  4. Trái hại tự giáo.
  5. Trợ giúp dị tông.

Rộng như Sớ thuật. Pháp sư vận dụng thuyền trí nơi biển khổ, khai

mở mặt trời trí tuệ nhật ở cõi nước tối tăm, chỉ thẳng con đường trước của diệu thật, diễn bày lời sau trong minh châu, nêu hết năm lỗi, bày phen giảng bày, dẫn hạt châu trí cho người học, mở con mắt pháp cho lớp sau, bèn duyên theo nghĩa này, giác giải liền sinh, lại từng vì những người học cạn nương theo luận này, pháp trở về phân biệt, thật cao quý đẽo mài, nên nương theo năm lỗi lược làm mười lỗi. Tuy biết lửa của bó đuốc không xoay vần nơi ánh sáng mặt trời soi sáng, cơ mầu hiển lộ há níu được gió mát? Nhưng Diệu cao phát nguồn từ một vi, biển lớn đầy tràn từ nhiều giọt, nên chớ khinh thường kẻ học cạn mà hãy khen hiểu biết vượt trội của hậu sinh, liền nhờ vào nghiên cứu sâu của pháp hiếm có, tổ thuật lại khoa này vậy. Những đúng sai khác thì không bàn đến, riêng mười lỗi ấy gồm có những gì? Một là không biết tà chánh, hai là hiện dụng không tăng, ba là vọng cho chủng tăng, bốn là Phật lẽ ra không có giới, năm là vọng cho là trái với giáo, sáu là giả thật không rạch ròi, bảy là trái giáo hiện hành, tám là vọng cho là trợ bạn khác nhau, chín là cho rằng tông lẽ ra đồng dị, mười là chủng tử phòng lỗi lầm.

1. Lỗi không biết tà chánh: là nói thể của chủng tử tăng, giả làm giải thích này, phần Tự đoạn trong Sớ ghi: Định, đạo, vô biểu đã không phải thể tăng, biệt thoát vô biểu so sánh lẽ ra cũng vậy, nên đoạn lấy công năng tăng gấp đôi kia làm chánh nghĩa. Nay lại trọng phá, phá rồi phá lỗi, nếu cho là chánh không rõ được bản giải, nghĩa là lấy bất chánh làm chánh, tức là không biết tà chánh.

2. Lỗi hiện hành dụng không tăng, nói rằng: một là nêu lỗi hiện hành không thành, định, đạo đều là tư cũng gọi là vô biểu, chỉ có niệm niệm hay ngăn ngừa, không riêng tăng gấp đôi thể dụng, nhưng được thành tựu vô biểu luật nghi, thể không phải tăng gấp đôi, tự tha cùng thừa nhận, không thừa nhận định, đạo niệm niệm dụng tăng thì hậu định, đạo không thể đoạn được hậu hậu phẩn hoặc, vì định đạo này công dụng không tăng đồng với định đạo trước, không thể đoạn được hậu hậu phẩm hoặc. Nếu thừa nhận có thể đoạn được trái với lỗi tỷ lượng, hậu hậu định, đạo sẽ không phục trừ được đoạn hậu hậu phẩm hoặc, vì không phải công năng thù thắng, vì công năng v.v… như định, đạo trước đầy đủ có văn làm chứng, nhiều không thể dẫn, dưới đều chuẩn theo mà biết.

3. Lỗi vọng cho rằng chủng tử tăng, nói rằng không có lỗi chủng tử huân tập tăng. Đối với Đại thừa đây tất cả chủng tử bất luận mới cũ đều nhờ vào huân tập phát ra, cho đến không do huân tập phát ra, thể dụng của chủng tử tăng rộng gấp đôi, nếu không huân tập tăng gấp đôi là trái với lý này, chính là giải thích dụng tăng không lấy thể tăng, vọng đồng với lỗi trước, nếu luận về công năng thể của vô biểu tăng, không do huân tập, chỉ do tác pháp, tác pháp sự rõ ràng, sự tương ứng vốn cầu mong kỳ hạn, phát ra thân, ngữ, tư được huân tập thành chủng tử, nên thành tựu vô biểu, công năng tăng gấp đôi, nên Di-lặc Sở Vấn kinh luận quyển 3 ghi: “Như thí chủ bố thí vật, nương theo sức công năng thọ dụng, tuy thí chủ hai lòng nhưng nương theo bản tâm niệm tu tương tục thể nhỏ nhiệm chuyển thù thắng, vì chuyển thù thắng ở đời vị lai, mà được thành tựu quả nhiều phước điền” cho đến nói “Ta nương theo tâm, thân nghiệp, khẩu nghiệp, có công đức thiện ác, nương theo bản tâm tạo tác, không mất bản tâm”. Có tự thể của tương tục, điên cuồng, ngủ nghỉ v.v… thường được tăng trưởng, đã nói điên cuồng, ngủ nghỉ v.v… thường được tăng trưởng, há có hay huân tập mới tăng trưởng chăng!

4. Lỗi Phật lẽ ra không có giới, nói lỗi quả Phật tăng giảm, vì nếu bảy chi niệm niệm tăng gấp đôi, tức là từ lâu thành Phật giới thì tăng thêm nhiều, sau thành Phật thì giới giảm ít, làm sao gọi là Đẳng giác? Nếu thừa nhận nhân tăng quả không tăng thì tiểu quả thứ tư lẽ ra cũng không tăng, vì tự vị cứu cánh, nghĩa này không đúng. Phật quả có thể không tăng, tiểu quả có hơn kém, nếu chấp vào địa vị tiểu quả thứ tư, đầy đủ đức không tăng thì không nên chia ra tuệ câu thoát v.v… Lại cho nhân lệ thuộc quả tăng quả lệ thuộc nhân không tăng, đầy đủ cùng với không đầy đủ khác nhau, vì sao được hỗ tương lệ thuộc? Nếu thấy nhân vị tăng mới gọi là biệt thoát giới, vặn hỏi quả vị không tăng, Phật lẽ ra không có giới thì sẽ do hiện hành huân tập tăng, mới được căn bản, quả vị Phật không có huân tập lại không có gia hạnh thì lẽ ra phương tiện căn bản đều không có, nên giải thích tăng gấp đôi. Căn cứ theo nhân vị mà nói, đắc giới nhiều loại, rộng như biện luận khác.

5. Lỗi vọng cho trái với giáo: nói trái với tự giáo là giáo môn của Đại thừa, phải do hiện hành huân tập phát ra, mới huân tập chủng tử thế lực mạnh mẽ quyết định cảm được quả, gọi là tăng trưởng, cho đến nói rằng, nay lập ra chủng tử không do huân tập phát ra, niệm niệm tăng gấp đôi, đâu không trái với các giáo của Đại thừa? Đây không ứng hợp với lý, không nói thể của chủng tử, niệm niệm tăng, để làm chánh nghĩa, đây giả nêu giải thích. Như trước đã nói, nếu công năng của giới đều do huân tập tăng, quyết định cảm được quả, tức là xả giới rồi sẽ không cảm được quả, vì xả công năng; nếu công năng không xả thì mạng chung v.v… do thành tựu luật nghi, không gọi là xả giới, vì có công năng, nên do động phát ra mong cầu, hiện hành tư huân tập thành chủng tử, đó tác bạch v.v… xong, chủng tử trên do sức mong cầu, ngăn ngại ngăn ngừa các ác, công năng vô biểu, bội tăng gấp đôi, do đây khiến cho tư có cảm được quả dụng, công năng quyết định, chẳng phải ngay nói vô biểu giả có thể cảm được quả. Nên dưới luận nói rằng: Giả pháp như vô chẳng phải nhân duyên, nếu xả giới rồi, nhân tuần hoàn trụ như cũ, thế lực héo hết, vì mong cầu hết. Nhưng quyển 54 ghi: “Do bất luật nghi tư thường thường hiện hành, cho nên chẳng phải phước vận vận tăng” là nói nghiệp đạo, vì ban đầu phải mong cầu chỉ được bất luật vô biểu, chưa thành tựu nghiệp đạo, lại biệt thoát vô biểu do thọ phát ra, tác pháp xong đắc, bất luật chẳng thọ, phải tác pháp mới đắc, nên nói bất luật nghi tư thường thường hiện hành, chẳng phải phước tăng trưởng, luật, bất luật khác nhau. Lại có giải thích riêng, như chương biểu vô biểu của Đại sư biện giải. Luận Thành Nghiệp ghi: “Do tự sai biệt, được huân tập thành chủng tử”, nghĩa là từ đây về sau không tạo tác nhân sinh, không tạo tác nhân sinh tức là công năng, giả sử nói chủng tử khác, vì giả từ thật, nên không trái nhau.

6. Lỗi giả thật không rạch ròi, vì dẫn luận Tạp Tập quyển 7 ghi: Sau hai tư hoặc tác hoặc tăng nhất định thọ Dị thục, là nói nghiệp đạo, chủng tử thật cảm được công năng của Dị thục, chẳng phải vô biểu sắc, nếu công năng của nghiệp cùng với vô biểu không khác nhau, vô biểu như nghiệp, lẽ ra thuộc về hành uẩn, nhiếp xứ đã khác nhau, nói rõ giả thật khác nhau, nay dẫn công năng của thật, vặn hỏi công năng của giả, tức là lỗi giả thật không rạch ròi.

7. Lỗi trái với giáo hiện hành, nói người thọ giới ở trước đại chúng phát ra thân, khẩu, tâm cầu giới đã xong, cho đến Yết-ma lần thứ ba chưa xong. Niệm niệm khởi tâm, thường được huân tập chủng tử thành phương tiện giới, cho đến lúc Yết-ma lần thứ ba xong, tâm thức năng duyên nếu khởi hiện tiền, liền lập tức huân tập chủng tử thành căn bản giới, luận không nên nói hoặc nương tựa phát khởi thân, ngữ thù thắng, chủng tử của tư tăng trưởng vị lập ra, vì lễ sư cầu thọ có động thắng tư phải kỳ vọng phần hạn được huân tập thành chủng tử, tác pháp xong rồi vô biểu bèn sinh. Nói ban đầu chỉ phương tiện, Yết-ma lần thứ ba xong được huân tập chủng tử trên lập ra căn bản luật nghi vô biểu, bấy giờ chỉ khởi duyên tâm, không phát ra thân ngữ, nương theo chủng tử này lập ra cùng với luận trái nhau, nên làm không thể được. Nhưng căn cứ theo nghiệp đạo phương tiện căn bản và do sau khởi, từ tác bạch lần thứ ba cho đến Yết-ma xong, thành tựu căn bản nghiệp đạo và vô tác giới, trở về sau tức là gọi quyến thuộc của ba nghiệp, chẳng phải biệt thoát giới. Tuy lúc biệt thoát giới lần thứ ba Yết-ma xong, ban đầu đều sau cũng gọi là giới, chẳng phải ở lúc sau không gọi là giới, chỉ gọi là sau khởi giống như nghiệp đạo.

8. Lỗi vọng cho trợ bạn khác nhau, nói rằng ở tông khác v.v… niệm ban đầu chỉ có một đầy đủ bảy chi, đến niệm thứ hai liền sinh ra bảy chi, cho đến nói rằng hoặc thể hoặc dụng cũng khiến cho niệm niệm bảy chi tăng gấp đôi, liền trái với tự huân tập phụ giúp cho tà tông. Đây cũng không cho như vậy, vốn không huân tập chủng tử, do có công năng vẫn còn giả thật khác nhau, không trợ bạn với lỗi kia, huống gì trước huân tập thành chủng tử cho đến Yết-ma xong, nhân duyên pháp đầy đủ công năng mới khởi, nương theo chủng tử của tư lập ra, đâu đồng với kia. Không chướng ngại sau huân tập tăng trưởng, nhưng không thừa nhận Yết-ma xong lúc ý nghiệp chủng tử của tư lập ra căn bản vô biểu.

9. Lỗi lẽ ra đồng với tông khác, vì lập ra chủng tử, lúc duyên đầy đủ, công năng tăng gấp đôi, tức là lỗi trợ bạn cho tà tông, Tiểu thừa lập ra vô biểu, Đại thừa cũng khiến cho lập ra, Tiểu thừa lập ra uẩn v.v… nay Đại thừa không lập, lẽ ra đều đồng lỗi kia. Nếu cho rằng do huân tập giả thật có khác, không đồng lỗi kia, nay nương theo chủng tử trên, công năng tăng gấp đôi không lỗi cũng như vậy.

10. Lỗi chủng tử phòng lỗi lầm: nói nếu từ tự tông tức là đạo, định, câu tư; nếu hiện hành hoặc gọi là biểu, vì có hiện hành biểu hiển bày, hoặc gọi là vô biểu vì không như sắc biểu hiển bày, được thành chủng tử, vẫn có thế lực của ngăn ngại ngăn ngừa, chỉ gọi là vô biểu, thế nào là vô biểu? Nếu tùy tâm chuyển vô biểu, hiện hành định đạo tâm không có, nếu biệt thoát vô biểu, há lúc khởi định đạo, tức là đắc được biệt giải thoát ư? Lại nếu rộng không được biểu hiển bày gọi là vô biểu, tức là chủng tử ở nơi tất cả đều ứng hợp lập ra vô biểu, nên không phải hiện hành đạo định, thế lực chủng tử ngăn ngừa lỗi lầm. Nếu như vậy lẽ ra ba tiểu quả người trước hoặc vĩnh viễn không hành, vì chủng tử hay ngăn ngừa đồng với hiện hành. Nếu chẳng phải vô biểu giới, lập ra vô biểu làm gì?

Biểu vô biểu hai tông của Tiểu thừa Đại thừa đã lập không đồng. Vả lại luận Tát-bà-đa hai định, hai giới, đối với căn bản, hiện tùy chỉ ngăn ngừa căn bản, không ngăn ngừa phương tiện và sở khởi sau, đồng ngăn ngừa quá khứ, vị lai. Nếu như vậy vì sao không ngăn ngừa hiện tiền, tùy? Khi chưa có tâm, lúc định, đạo không khởi, nếu khởi tâm rồi, tức là hay ngăn ngại ác, không nhờ vào gia hạnh, nếu xuất định rồi, không thể ngăn ác, cho nên không ngăn ngừa hiện tiền, tùy. Nếu biệt giải thoát không ngăn ngừa quá khứ, vị lai, chỉ lúc hiện tại, căn bản hiện tiền, tùy đều phòng hộ. Nếu nói về giới đắc, đạo, định đắc đều thông với ba đời. Biệt giải thoát chỉ có câu, vô pháp sau đắc trước vì sắc tánh độn. Nếu lúc xả giới, sau giới rơi rớt lại không có đắc đắc, nghĩa là vô pháp đắc sau, nhưng thuộc về hành là thân, vả lại như xả giới tuy không có đắc đắc, do tự thuộc về thân, nhưng có thể lúc sau chiếu lấy quả Dị thục. Nếu Sư của Đại thừa, đạo, định, biệt giải đều phòng hộ ba đời, và phòng hộ ba thời, nếu lúc xả có huân tập chủng tử trước hay chiêu lấy quả sau, không phải riêng nói có pháp đắc trước sau. Nếu căn cứ theo chủng tử, nghĩa nói trước sau, tuy cũng có thể đắc, nhưng không phải văn nói. Nếu thân, ngữ biểu nghiệp, cần phải sắc mới thành, tuy không thể nói nhưng vận động v.v… khiến cho cái khác được giải thoát, biểu vô biểu sắc mười môn phân biệt như chương đó nói rộng.

Đứng về môn thứ năm trong đắc xả, ban đầu nói đắc, sau nói xả, trong phần nói đắc chia làm hai, trước nói biểu sau nói vô biểu. Biểu giới không phải từ cái khác thọ, nhưng cần phải đối với cái khác, vì khởi thân ngữ tức gọi là biểu, nhưng luận Tát-bà-đa phải từ cái khác thọ, vì lúc Yết-ma lần thứ ba cùng với vô biểu giới đồng thời đắc được. Vô biểu thông với hai. Lại Phật và Độc giác không phải từ cái khác thọ, chỉ thuần thọ tự nhiên.

Hỏi: Độc giác có hai, ban đầu chúng xuất gia cũng thấy được Phật, kinh ghi: “Đức Phật Thích-ca lúc thành đạo, năm trăm vị Bích-chi đến chỗ Phật”, vì sao không theo chỗ khác thọ?

Đáp: Chúng xuất gia tuy đến chỗ Phật, do bất lạc trợ giúp, không như hàng Thanh văn thích tôn thờ Phật, bởi vì thuần tự thọ chẳng phải tha.

Hỏi: Như quả Tu-đà-hoàn lúc người nhập vào kiến đế, đắc Phật biệt giải thoát giới, là từ tha thọ, hay là tự thọ?

Đáp: Đây từ xa nói cũng là từ tha.

Hỏi: Nếu từ tha thọ biệt giải thoát rồi, đắc được Thánh hồi tâm sau trải qua nhiều thời do thọ biến dị, cho đến thành Phật, mới xả bốn thân giới, đâu không phải theo chỗ khác thọ? Lại chỉ như từ Thập địa trở về trước đắc giới cũng như vậy.

Đáp: Vả lại Tiểu thừa luận Tát-bà-đa ghi: Tất cả biệt giải thoát của thân Phật trong ba mươi ba tâm trước vẫn gọi chưa từng đắc, tất cả biệt giải thoát trước sau trong tâm thứ ba mươi bốn đều xả vì đắc thắng xả yếu kém, chỉ có một tâm vô tác biệt giải thoát sinh, nhưng cũng là sắc. Đại thừa có hai giải thích:

1. Chuyển diệt xả nghĩa là chủng tử của Vô lậu có ba phẩm tâm, nghĩa là Kiến đạo ban đầu đắc hạ phẩm, trong Tu đạo đắc được trung phẩm, Phật thời đắc được thượng phẩm, xả liệt phẩm trước chỉ có thượng phẩm, thượng phẩm này đâu phải từ tha thọ.

2. Có chuyển tế xả, như nhập vào Tu đạo, chuyển đổi hạ phẩm đắc trung phẩm, nếu đắc được thượng phẩm chuyển đổi trước phẩm đắc được thượng phẩm, thực hành phẩm này đâu phải cũng từ tha thọ, nên Phật và Bích-chi đều không phải từ tha thọ. Lại biệt giải thoát nói rõ đắc, bất đắc chia làm hai nghĩa là Tiểu thừa và Đại thừa đầy đủ như Biệt chương giải thích. Nhưng trong mười hai bộ, Tây Sơn Trụ, Bắc Sơn Trụ, Chế Đa Sơn, ba bộ đồng nói rằng Hòa thượng không phải thanh tịnh cũng đắc giới, nên luật nói tăng chúng cầu giới không nói rằng Hòa thượng, nhờ vào đâu ba bộ này làm ra kế này? Vì ba bộ trước là bạn của ngoại đạo, thấy không có lợi dưỡng, nên đều đến cùng tăng đồng ở. Lúc sau người thế tục do muốn phân biệt nên về sau họ đều cạo đầu. Lại bị quốc vương muốn lựa chọn người không thọ giới, nên đều không chấp nhận ở. Các người này đều nói rằng ta thọ giới, chúng tăng đồng trách, ở bên người nào thọ, họ tự chỉ những người giống mình cho là Hòa thượng. Đại chúng nói Hòa thượng của ông không thanh tịnh, làm sao đắc giới được? Bèn khởi kế này, mười bảy bộ khác đều không thừa nhận nó, phải cần thanh tịnh. Trong phần nói về xả, luật Tỳ-ni Mẫu ghi: “Người phạm giới trọng mất giới”. Kinh Niết-bàn ghi: “Nếu nói mất giới, không hiểu được ý Ta, nếu không mất giới cũng không hiểu được ý Ta”. Nghĩa đó thế nào?

Đáp: Có hai giải thích: Một là người phạm giới trọng không mất giới, như kinh Thập Luân v.v… giải thích. Nếu như vậy vì sao luật nói như chặt đầu người, đá bị chẻ?

Đáp: Nhưng chuẩn theo giải thích của luận Du-già, Bồ-tát giới tăng thượng phẩm buộc người phạm xả giới đầu, trung phẩm, hạ phẩm không xả. Đại luận trước căn cứ theo thượng phẩm, kinh Thập Luân căn cứ theo trung phẩm, hạ phẩm, nên kinh Niết-bàn ghi: “Các đệ tử của Ta nói người phạm giới trọng, xả giới, không hiểu được ý Ta”. Lại “các đệ tử nói người phạm giới trọng mất giới cũng không hiểu được ý Ta”, nhất định nếu thật xả nói xả hiểu được ý của Phật, nếu thật không xả nói không xả hiểu được ý của Phật, đã nói “đều không hiểu ý của Ta”, nên biết xả căn cứ theo tâm của thượng phẩm, không xả căn cứ theo người phạm phẩm hạ, phẩm trung, nên chỉ thuần nói xả hay không xả là không hiểu ý của Phật.

Thứ hai giải thích rằng: Người phạm giới trọng xả giới. Vì sao? Luận Du-già chỉ nói Bồ-tát giới chỉ căn cứ theo thượng phẩm, trung phẩm, hạ phẩm không nói biệt giải thoát, nên biết xả giới, vì sao kinh Thập Luân nói không xả giới? Căn cứ theo hóa tướng mà nói. Nếu nói người phạm liền không trồng được nhân tốt, không cung kính chúng xuất gia, nên nói rằng không phạm. Kinh Niết-bàn căn cứ theo hóa tướng, nói xả không hiểu được ý Ta, theo thật nói không xả không hiểu được ý Ta. Luận sư thứ nhất vặn hỏi: Nếu như vậy vì sao kinh Đại Phương Quảng Đà-la-ni ghi: “Nếu có người phạm giới trọng vẫn còn ở trong già-lam gọi là tặc trụ, và nhận của người khác bố thí một trái cây, nhất định đọa vào địa ngục”. Ngài Văn Thù hỏi: “Vì sao được sinh mà không tội?” Đức Phật liền thuyết chú, người tụng chú này, giới tử lại thanh tịnh. Nếu người đều xả, vì sao nói trở lại thanh tịnh? Nên biết người phạm giới trọng có khinh giới và trọng giới, không thể hoàn toàn phán phân đều làm xả, không xả; cho nên giới kinh nói như trước sau cũng như vậy, hãy xem kỹ, phần dẫn có văn của kinh.

Vô lậu luật nghi, hàng Tiểu thừa nếu kiến đoạn đối trị, chỉ sáu địa của sắc giới nếu người thứ lớp chỉ có cận phần ban đầu, nếu người siêu việt, trong sáu địa đều được nhập vào kiến, Tu đạo Vô lậu chỉ thông với chín địa, nhưng ở trong Vô sắc không lập ra Vô lậu và định luật nghi, vì ngăn cách cõi, không phòng hộ dục phi nên không lập ra.

Nếu trong Đại thừa Kiến đạo Vô lậu, sắc giới thông với năm địa mà vào, Kiến đạo của Đại thừa nương theo Định thứ tư, Độc giác cũng như vậy, đây đều vô biểu cũng tùy theo sở ứng. Nếu Tu đạo trị đạo Vô lậu, thông với ba địa dưới của Vô sắc, nếu Phi tưởng địa, tuy có Vô lậu mà chẳng phải đoạn đạo. Nếu nói pháp Vô lậu, cũng phòng hộ lỗi bảy chi, Phi tưởng cũng có Vô lậu luật nghi, định cũng thừa nhận như vậy.

Luận: Không phát ra là vô, chỉ nói phi sắc. Phi sắc là gì? Kinh Niết-bàn quyển 18 phần giải thích sáu niệm ghi: “Niệm giới là tuy không phải hình sắc mà có thể hộ trì, tuy không phải xúc đối mà có thể tu tập”. Quyển 36 phần Tranh luận ghi: “Vô tác giới là chẳng phải dị sắc nhân, không tạo tác quả của dị sinh nhân, là gọi vô tác giới”. Nói chẳng phải dị sinh nhân là chẳng phải các đại tạo là nhân thân tạo, không tạo tác quả của dị sinh nhân, chẳng phải đại tạo nhân thừa nhận quả, nên biết vô tác giới chỉ nương theo tư mà lập, nên xem văn kia.

Lại nghiệp và nghiệp đạo nên lập ra bốn câu, giả thật hai nghiệp và thông sinh du lý, tự chuẩn theo có thể biết. Nhưng luận Tát-bà-đa chỉ lấy du lý gọi là nghiệp đạo, tức là ý tư là nghiệp, mà không phải là đạo. Đại thừa chỉ nghiệp tức đều là đạo.

Nói đắc, phi đắc v.v… trở xuống phá Bất tương ưng hành, trừ Kinh lượng bộ và Nhất thiết bộ chỉ phá được bộ khác. Vì sao? Kinh bộ đắc v.v… đều là giả có, như luận Câu-xá phá Hữu bộ. Nói là Nhất thiết bộ, đã nói các pháp chỉ có năng thuyên, không phải thật sở thuyên, tất cả pháp thể nên cũng không lập ra Bất tương ưng hành, nên đây nói trừ. Nhưng Yếu Tập ghi: “Trong đây Đại thừa, Kinh bộ cũng phá được sư Tát-bà-đa”, lý nhất định không như vậy, lẽ nào Tiểu thừa và Hộ pháp v.v… tạo ra Duy thức? Tuy có thể cùng với luận Câu-xá kia trong phá nghĩa tương tợ, đây chẳng phải cùng đạo. Nay đây dưới phá chỉ nương theo tỷ lượng phá, nó được lập không có hiện lượng và chí giáo lượng phá, vì nó thật có. Luận Chánh Lý quyển 13 ghi: “Lại các tướng đây, đâu phải như cái bình v.v… có hiện lượng, tỷ lượng”. Hoặc chí giáo lượng chứng được thể giả có, đã ngăn ngại thật có, nên họ nhất định thừa nhận sinh v.v… tướng thể là giả có. Pháp thứ ba nhất định không có lý có. Ý này không thừa nhận sinh v.v… thật có, tức là lẽ ra định nói sinh v.v… giả có, do nhất định không thừa nhận có pháp thứ ba, cũng thật cùng giả, rộng như luận kia nói. Do hai nhà này hiện lượng, chí giáo không có thành thật chứng, chỉ có thể tỷ lượng đều làm lập phá, nên Tiểu thừa kia tuy dẫn Thánh giáo, nay Luận chủ nói: Kinh không nói dị sắc, tâm v.v… có thật thể dụng là chứng không thành tựu, nhưng tỷ lượng phá, ở đây vốn nói văn này có ba:

  1. Vặn hỏi thật có, nêu riêng thể tướng và nhân của tác dụng.
  2. Đây nhất định chẳng khác trở xuống kết hợp vặn hỏi thể dụng.
  3. Hoặc tâm, tâm sở trở xuống chỉ vặn hỏi thật có.

Tây Minh giải thích rằng: “Đây nhất định chẳng khác” trở xuống, lượng đầu giải thích thể dụng trên chẳng thật, kế hai lượng sau lại giải thích lỗi trước, ban đầu phá được thật có, sau lập ra giả có. Đây không cho là như vậy, văn tự lập lượng thẳng là phá tha, vì sao cần giải thích trên và lặp lại giải thích lỗi? Đã nói lại giải thích, vì sao lại nói, ban đầu phá được thật có, sau lập ra giả có? Lại hai lượng sau chuẩn theo văn phá thật, chưa phải là lập ra giả; nhưng vả lại phá tha. Do họ lập ra rằng: Bất tương ưng hành khác với sắc, tâm v.v… có thật thể dụng, nên nay đối phá ngăn ngại họ là luận, chưa phải tức là phản lại thành tịnh bất tương ứng hành giải, vì trong phần Thuật chánh ở sau mới lập giả. Yếu Tập ghi: “Đây nhất định chẳng khác sắc, tâm, tâm sở, có thật thể dụng, vì thừa nhận uẩn nhiếp, như sắc, tâm v.v…”, đây cùng với tông ngoại đạo làm ra tỷ lượng tương vi, nhưng tỷ lượng này có lỗi. Nếu chỉ lập ra hai lượng đều có lỗi bất định, nghĩa là bất tương ưng hành khác sắc, không phải thật thể dụng, vì thừa nhận uẩn nhiếp, như sắc khác tâm, không thể lượng có thể chuẩn theo mà biết. Đây tức là lỗi bất định, nếu hợp lập ra tức là lỗi pháp tự tướng tương vi, và lỗi pháp sai biệt tương vi nhân. Tự tướng tương vi nói rằng: Bất tương ưng hành khác với sắc, tâm v.v… có thật thể dụng, vì thừa nhận uẩn nhiếp, như sắc tâm v.v… dụ này có hai nghĩa:

  1. Sắc bên ngoài không phải tâm thể riêng, tâm bên ngoài không phải tâm thể riêng.
  2. Sắc bên ngoài có tâm thể riêng, tâm bên ngoài có sắc thể riêng.

Như sắc tâm v.v… nói bao hàm hai nghĩa, nên Luận chủ nhận lấy nghĩa trước, người bên ngoài nhận lấy nghĩa sau. Lại pháp sai biệt tương vi lượng rằng: Bất tương ưng hành, định là thật có, vì thừa nhận uẩn nhiếp, như sắc, tâm v.v… thẳng nói định thật có thể, không nói khác sắc, tâm v.v… nên chẳng phải nói hiển bày, thuộc về trong sai biệt. Vả lại trước nói rằng: Có lỗi pháp tự tướng tương vi là không như vậy, đã hợp lập lượng, cả hai làm nhân, dụ, nếu người ngoài nói rằng khác với sắc tâm v.v… có thật thể dụng, tức là sắc tâm v.v… là dụ của pháp khác, thừa nhận uẩn nhiếp, nhân đã chuyển khác là nó tự thành tựu lỗi pháp tự tướng tương vi, vì sao được nói Luận chủ tương vi? Luận chủ đã nói rằng: Định không khác với sắc, tâm, có thể tức là tâm sắc v.v… làm đồng pháp dụ, nhân đối với kia chuyển, sắc, tâm v.v… không khác với sắc, tâm v.v… có thật thể dụng, bèn chánh đồng dụ, cho nên không lỗi. Lại lỗi pháp sai biệt cũng không thành tựu. Đã nói rằng định thật có thừa nhận uẩn nhiếp, tâm, sắc là dụ. Đại thừa tâm, sắc đồng có giả thật, có tha bất định, cái bình cái bồn v.v… giả cũng thuộc về uẩn có cộng bất định, không thể nói cái bình v.v… chẳng phải thuộc về uẩn. Vì chẳng phải Vô vi lại chẳng phải hỗ tương không, định thuộc về uẩn. Lại như nhãn v.v… nhất định là dụng của tha, ý bao hàm chân giả, thành tựu chân dụng khác; gọi là pháp sai biệt. Nay nói rằng bất tương ưng hành, ắt nhất định khác với sắc, tâm v.v… có thật thể dụng, tức là nói trong hiển lập, ý kia thừa nhận bất tương ưng hành khác với sắc, tâm v.v… có thật thể dụng, cùng với ai làm sai biệt? Lại nữa, nhất định không khác với sắc, tâm, tâm v.v… có thật thể dụng, hợp gọi là pháp. Nay chỉ riêng lấy định thật có thể làm pháp sai biệt, lẽ nào thành lỗi? Lại nhân bất định, nên phân biệt này chỉ lập luống công, còn lại chuẩn theo có thể biết.

Nói mười pháp của Vô học, tên như Sớ liệt kê. Tám Thánh đạo, chánh kiến nghĩa là Hậu đắc trí, Hữu tông Kiến đạo khởi, Đại thừa Tu đạo khởi, nên là Hậu đắc trí. Luận Trung Biên ghi: Phân biệt chi nếu như vậy đã là thể của pháp luân, cũng ở trong Kiến đạo, vì sao chỉ Hậu đắc?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Các pháp Vô lậu đều gọi là pháp luân, không phải chỉ tám đạo, ở nơi Kiến đạo tuy không phải tám đạo, cũng gọi là pháp luân.

2. Luận Trung Biên căn cứ theo hiển thắng mà nói ở nơi Tu đạo, luận Du-già nói ở nơi Kiến đạo.

Nếu nương theo giải thích trước luận Du-già tùy chuyển nói ở Kiến đạo, hai thuyết nhờ vào hữu tình. Chánh tư duy lấy tư làm thể, theo luận Thập Địa thì người tịnh giác tức là cho rằng giác là tầm, xét Phạm bản không lấy tầm tứ làm thể, như quyển 7 Luận sớ giải thích. Vô sân, si đã phát ra thân, ngữ gọi là chánh ngữ, chánh nghiệp, vô tham đã phát ra gọi là chánh mạng, giải thoát là thắng giải tâm sở, trí là duyên theo trí của Vô vi, thể còn lại như tên gọi. Luận Tạp Tập quyển 10 ghi: “Mười pháp của Vô học nương theo giới uẩn của Vô học, cho đến trí kiến uẩn, Vô học chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là giới uẩn. Chánh niệm, chánh định là định uẩn. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn là tuệ uẩn, ba loại này nương theo tự tánh và quyến thuộc mà nói. Chánh giải thoát là giải thoát uẩn. Chánh trí là Vô học giải thoát trí kiến uẩn.

Luận cũng nói Luân vương thành tựu bảy báu, lẽ đâu phải tức là thành tựu thân khác chẳng phải hữu tình. Tây Minh nói: “Hữu bộ cho như vậy tức là trái với Hữu tông”. Ngoại đạo vặn hỏi rằng: Đại thừa giả đắc, vì sao một lập một không lập, so sánh đồng như sở phá?

Giải thích rằng: Chẳng phải so sánh, thật đắc có dụng nên thông với trong ngoài, đều có thật đắc, ngã lập ra giả đắc, nên Luân vương thành tựu bảy báu giả, cũng không thành chẳng phải tự thân. Nay cho rằng giải thích này không đúng. Đại thừa đắc v.v… đã là giả lập, thông với tình phi tình, tự tha lỗi gì? Vì kinh nói có thành tựu lỗi, nếu không như vậy thì đồng với họ, không thể lìa vặn hỏi.

Hỏi: Nếu như vậy Châu luân có thể nói thành tựu, tự thức biến, còn lại hữu tình nương vào đâu giả lập nói thành tựu ư?

Đáp: Cũng thừa nhận biến đổi phù trần khác, thọ dụng nên cũng là tự thức, lại do nghiệp cảm, nương theo nghiệp giả lập cũng lại không trái.

Nói chưa được đã mất nên vĩnh viễn không sinh, chưa được có thể biết, pháp đã mất, vị lai lẽ ra sinh thiếu duyên không khởi, cũng gọi là đã mất, đây nhất định không sinh, đắc được phi Trạch diệt, như thay đổi giới địa v.v… pháp đã xả gọi là đã mất, tức là thừa nhận có thể sinh, đây không có trước đắc. Nay căn cứ theo loại này, đã không phải trước đắc, nên vĩnh viễn không khởi.

Nói nếu đợi nhân khác đắc liền không có dụng, có giải thích tâm đợi bốn duyên, sắc đợi hai duyên, đủ để sinh pháp, đâu cần khởi nhiều, nên đắc không có dụng. Đây phá không đúng, có thể pháp phi tăng thượng được sinh khởi. Nhưng Yếu Tập ghi: “Đắc chẳng phải bốn nhân và năm sinh”, lý dễ biết, nên xem luận Câu-xá dẫn đầy đủ. Lại đầy đủ thiện, ác Vô ký đắc, trong đây đều vặn hỏi quá khứ đã xả, tuy không có hậu đắc, vị lai đã mất, bèn không có trước đắc, đều có câu đắc, vặn hỏi khiến cho đắc sinh cũng đắc. Nhưng chuẩn theo bản ý, chỉ vặn hỏi không mất, hiện tại thành trước đắc, pháp của ba tánh sẽ đốn ngộ hiện tiền, cho nên nói: Nếu đợi nhân khác đắc liền không có dụng. Nếu vặn hỏi đã xả và đời vị lai duyên thiếu không sinh, tuy có câu đắc, họ thừa nhận không có dụng vì không thể sinh, liền thành tựu lỗi tương phù, nên vặn hỏi không mất. Hiện tiền thành tựu đắc, đây tuy có hai thuyết, theo luận Câu-xá ghi: “Ai nói đắc này làm ra pháp sinh nhân”? Trong luận Chánh Lý, chỉ có không mất, không phải nhân năng sinh, nên luận kia nói: Do được thừa nhận đắc là đã đắc pháp vì không mất nhân. Hai thuyết của luận Bà-sa, chánh nghĩa cũng chỉ làm không mất nhân.

Luận: Nên đắc đối với pháp đều là vô dụng. Hai nói rằng: Thức đã biến không lìa hữu tình, tức là pháp phi tình cũng không lìa hữu tình, vô pháp gọi là lìa pháp của hữu tình, ban đầu nó có đắc, sau tức là không đắc.

Hỏi: Đã nói vô pháp tức là vô thể, lại nói pháp nào, được gọi là lìa?

Đáp: Do vô pháp kia, giả gọi là lìa, chẳng có vô thể, gọi là lìa hữu tình, luận không có bản tánh, không căn cứ theo thức biến là vô nên gọi là lìa.

Giải thích ba loại thành tựu, vả lại pháp có hai: một là hữu thể, hai là vô thể. Chỉ đối với hữu pháp, lập ra thành tựu, không ở nơi vô pháp. Vô pháp không có tự thể nên không thể thành tựu. Trong hữu pháp lại có hai loại: một là Hữu vi, hai là Vô vi. Vả lại trong Hữu vi lại có hai loại: một là tự thức biến, hai là tha thức biến. Trong tự thức biến lại có hai loại: một là chủng tử, hai là hiện hành. Chủng tử ẩn thì khó biết, cho nên chia nó làm hai: một là chủng tử thành tựu, hai là tự tại thành tựu. Hiện hành hiển bày thì dễ rõ, cho nên chung hợp làm một gọi là hiện hành thành tựu. Trong chủng tử lại có ba loại: một là thiện, hai là bất thiện, ba là Vô ký. Trong thiện có hai: một là Vô lậu, hai là Hữu lậu. Trong Hữu lậu thiện lại có hai loại: một là phương tiện, hai là sinh đắc. Vô lậu thiện trước và phương tiện đều gọi là tự tại, vì thành tựu đây nhất định ở nơi sinh tử, nên đắc được tự tại. Lại do dẫn sinh, gia thêm công dụng, mới bắt đầu khởi, tức là thông với bản, thỉ, còn lại nghĩa chuẩn theo tư. Sinh đắc thiện là sinh liền tức đắc, nhân xoay vần mà sinh, không có công năng thù thắng. Chủng tử vốn có chỉ gọi là sinh đắc pháp của bất thiện, cũng chỉ gọi là chủng tử thành tựu, vì hữu pháp này, chìm đắm trong sinh tử, đối với Giải thoát phần không có công năng kham nhận thù thắng.

Tuy kinh Giải Thâm Mật ghi: Bồ-tát Thập địa khởi phiền não, hơn hàng Nhị thừa khởi Vô lậu, kia do bi trí Vô lậu, chẳng phải phiền não kia tự có công năng kham nhận, nên không gọi là tự tại thành tựu. Trong pháp Vô ký lại có hai loại: một là Hữu phú, hai là Vô phú. Tánh hữu phú là đồng với thuyết của phiền não. Vô phú vô ký lại có bốn loại: một là Dị thục, hai là oai nghi, ba là công xảo, bốn là biến hóa. Dị thục Vô ký chỉ có chủng tử thành tựu, oai nghi công xảo mỗi mỗi đầy đủ hai loại. Như voi đi, nay chạy, kinh doanh, làm ruộng, dệt vải, ghi sổ sách v.v… gọi là chủng tử thành tựu. Nếu voi chúa đi, ngỗng đầu đàn bước in thành lằn, vẽ thành tranh v.v… gọi là tự tại thành tựu. Vì thêm công mới đắc, chẳng phải nhân xoay vần khởi. Biến hóa Vô ký chỉ có tự tại thành tựu, vì nhất định công dụng khởi, lại thành tựu đây đắc được tự tại, nên luận Du-già ghi: “Nếu gia hạnh đã sinh thiện và một phần Vô ký tăng thạnh chủng tử, gọi là tự tại thành tựu”. Luận Đối Pháp cũng ghi: “Gia hạnh thiện pháp nghĩa là tất cả công năng của thế gian và xuất thế gian”. Một phần Vô ký nghĩa là công xảo xứ biến hóa tâm v.v… nên trên nói tự thức biến cũng thông với phi tình, có nói thành tựu bảy báu, nếu tha thức biến chuẩn theo trong phần thứ hai, biến đổi căn trần khác, luận từ hai thuyết. Trong quyển 7 giải thích Sở duyên duyên, cũng thừa nhận duyên theo chủng tử của tha sở biến. Lại nói: Luân vương thành tựu bảy báu, tuy theo sở biến không được gọi là thành tựu, tự thức nương biến, cũng có thể giả nói ba loại thành tựu. Nhưng Tây Minh nói: Chuẩn theo luận Hiển Dương ghi:

  1. Chủng tử sở nhiếp của các hành tánh tương tục sai biệt.
  2. Tự tại sinh khởi tánh tương tục sai biệt.
  3. Tự tướng sinh khởi tánh tương tục sai biệt

Nói cùng với luận Du-già riêng chủng tử lập ra một, hiện hành tức là chia làm hai, gia hạnh thiện v.v… gọi là tự tại sinh khởi tướng, chẳng phải gia hạnh sinh khởi, chỉ gọi là tự tại sinh khởi. Nay lại giải thích cùng đồng với luận Du-già. Nói hai tự tại sinh khởi tương tục tánh sai biệt là do gia hạnh v.v…

Chủng tử của thiện pháp, có công năng thù thắng, khởi hiện hành rồi thì đắc được tự tại, gọi là tự tại sinh khởi. Nếu hai loại hiện hành gọi là tự tại sinh khởi, do khởi hiện hành gọi là tự tại sinh khởi, pháp của Vô vi lập ra thành tựu, như Sớ nói.

Lại giải thích thêm rằng: Chuẩn theo quyển 2 ghi: Vô vi có hai: một là nương theo thức biến, hai là nương theo Chân như lập, cũng lập ra được chăng, cũng có ba loại chăng?

Đáp: Đã giả lập ra được hai loại câu hữu, cũng có chủng tử khác của tự tại v.v… Vả lại nương theo thức biến Vô vi lập ra được, đều nương theo kiến phần kia, chủng tử trên lập ra, chủng tử là hay khởi tướng của Vô vi, hoặc nương tựa kiến phần hiện hành, vì lúc tâm khởi biến đổi tướng kia. Ba là sai biệt, phương tiện thiện tâm biến huân tập thành chủng tử gọi là tự tại thành tựu, hiện hành tâm biến tức là hiện hành thành tựu. Còn lại tâm biến chủng tử thành tựu, không gọi là tự tại, nếu nương theo Chân như lập ra, căn cứ theo năng chứng mà nói, nương theo chủng tử tức là tự tại, hiện chứng tức là hiện hành, nếu sau được duyên, tức là đồng với trước nương theo thức sở biến mà nói. Nhưng Phi Trạch diệt tuy chẳng phải trí chứng, nếu tạm thời phục trừ hoặc đắc phi Trạch diệt, đồng với Hậu đắc trí mà nói, nếu chẳng phục trừ hoặc chỉ duyên thiếu hiển bày, nương theo nghĩa chủng tử không khởi, tự tại chủng tử v.v… chuẩn theo tánh có thể biết.

Lại nói rõ ở trong đắc sở y, Đại thừa Tiểu thừa không đồng, như Sớ thuật. Nhưng nói hai loại thuộc sở y, nghĩa là Thức thứ tám như rốt ráo đắc pháp Phi Trạch diệt và trong Phật thân, tà lý không sinh v.v…

Hỏi: Đã nói rốt ráo tà lý không sinh, lẽ ra gọi là Trạch diệt, vì sao gọi là phi Trạch diệt?

Đáp: Nếu do trí đoạn, rốt ráo không sinh, tức gọi là Trạch diệt, Phật thân tà lý không do trí đoạn, chỉ do đoạn được vô minh kia v.v… tà lý không sinh như nhập vào Kiến đạo, thân của Bắc châu v.v… đắc được phi trạch. Lại giải thích đây đều là hiện hành, tuy lại rốt ráo không sinh, chủng tử vẫn còn, cũng chướng ngại được sở nhiếp, lúc cảnh trí sinh, mới bắt đầu chủng tử diệt, tức là đắc được Trạch diệt, được thuộc về cảnh trí, nếu như vậy cảnh trí lẽ ra hay lìa nhiễm. Như thật nghĩa, lúc cảnh trí khởi, chẳng phải sở y kia, Hữu lậu đều xả, chẳng phải tác ý đoạn, không gọi là Trạch diệt, cũng không thể nói quán sát trí đoạn, vì chẳng phải vô gián, gọi là Diệu giác. Nếu do đoạn nhiễm lẽ ra đồng với vô gián, gọi là Đẳng giác. Đã không như vậy, nên cảnh trí sinh nó v.v… tự diệt đắc được phi Trạch diệt, đắc thuộc về cảnh trí nhưng Sớ nói thuộc về Thức thứ tám. Căn cứ theo sở y vương thông với thuyết của nhân quả, nếu ở Phật quả tức là nương theo cảnh trí, giải thích này tôi đích thân nghe nên sao chép lại.

Lại nói rõ Đại thừa Tiểu thừa, đắc sở thuộc khác nhau. Vả lại luận Tát-bà-đa đắc có hai loại: một là pháp Hữu vi đắc, hai là pháp Vô vi đắc. Nếu pháp Hữu vi đắc, nhất định thuộc về sở đắc. Nếu sở đắc là ba tánh, năng đắc cũng có ba tánh, ba cõi, chín địa, sắc, tâm, bất tương ưng, cũng tùy theo sở đắc phán phân thuộc về giới địa v.v… Vô vi đắc là Vô vi có ba, như Sớ phán phân nhưng thông với lậu Vô lậu. Nếu sáu hành đạo đắc chỉ có Hữu lậu, Kiến đạo đắc chỉ có Vô lậu, Tu đạo không cả hai. Vì thừa nhận Tu đạo cũng có Hữu lậu, Vô học Vô lậu, đoạn được phi tưởng hoặc, chỉ có Vô lậu đạo, được quả xả hướng. Xả lậu trước khởi Vô lậu đắc, sở đắc Vô vi thuần là Vô lậu, Phi Trạch diệt đắc chỉ là Dị thục, thuộc về tánh Vô ký, vì vi, Vô vi, hai hữu thể pháp. Nếu khởi đắc, đắc thuộc về hành, vì có thể, tùy theo chỗ ứng, được thuộc về sở đắc và năng đắc đạo. Nay đây phi Trạch diệt này thiếu duyên không sinh, pháp đã không sinh nên không thể thuộc về sở bất sinh pháp, vì chẳng phải hữu tình, chỉ thuộc về sở y chúng đồng phần, nếu nó phi đắc chỉ thuộc về sở y chúng đồng phần lập ra, định chỉ Dị thục tánh Vô ký. Nếu đắc được pháp Trạch diệt, còn có thể sinh lại, như thoái lui quả, nếu đắc được Phi trạch, rốt ráo không sinh, vì thiếu duyên. Nếu nương theo Đại thừa, pháp Hữu vi đắc, cũng đồng với luận Tát-bà-đa, định thuộc về sở đắc. Các tánh giới địa, hoặc sắc hoặc tâm và lậu Vô lậu chủng tử hiện hành, tùy theo chỗ ứng, đều tùy theo sở đắc, phán phân thuộc về pháp kia, vì nương theo trên các pháp này, giả kiến lập. Nếu Trạch diệt đắc, đồng với Hữu bộ kia, thuộc về năng đắc đạo, nhưng chỉ có Vô lậu, vì không thừa nhận sáu hành là đoạn đạo, chỉ nương theo Thánh đạo, vĩnh viễn hoại diệt chủng tử, vì đắc được Trạch diệt. Lại sáu hành đạo chỉ nương theo Vị chí, chẳng phải Căn bản địa, phục trừ được hoặc mà chẳng phải đoạn, vì chủng tử còn tồn tại, đắc được phi Trạch diệt. Lại theo đạo khởi, đắc được phi trạch thời phần, Đại thừa Tiểu thừa không đồng, như luận Tát-bà-đa, khổ pháp trí nhẫn làm Vô gián đạo, tuy đoạn được phiền não, cùng với hoặc được đủ cả, chưa đoạn được trói buộc, chưa gọi là đắc được Trạch diệt, khổ pháp trí khởi làm Giải thoát đạo mới đoạn được trói buộc, tuy chưa duyên theo chứng Trạch diệt Vô vi. Nương theo giải thoát này lập ra Trạch diệt đắc, xa khởi đắc, đắc được Trạch diệt kia, nên Trạch diệt đắc thuộc về năng đắc đạo. Do khổ nhẫn trí, chỉ duyên theo Khổ đế mà chưa duyên với diệt, vì Trạch diệt này là Diệt đế, chứng được Vô vi này, chỉ diệt trí thấp, tuy diệt trí thấp, diệt pháp trí nhãn chính là Vô gián đạo, cũng chưa khởi đắc, đắc được Vô vi kia. Lúc diệt pháp trí, đoạn được mê kia, diệt phiền não hoặc đắc, bắt đầu đắc được Vô vi, mới khởi đắc đắc, vì Giải thoát đạo trọng tức là chứng, còn lại đều chuẩn theo mà biết.

Nếu tông của Đại thừa, khổ pháp trí nhẫn, trong Vô gián đạo, chưa lập ra Trạch diệt đắc, tuy chính đoạn hoặc chứng được chưa từng đắc, vốn đoạn được chủng tử của hoặc. Ở trong Giải thoát đạo, mới khởi đắc đắc, nương theo đây giả lập ra Trạch diệt đắc. Phần sau ghi: “Đoạn hoặc chứng diệt tâm mong khác nhau”. Hoặc căn cứ Vô gián cũng giả lập đắc, vì chứng diệt, phần sau đứng về tâm mong cầu. Nhưng tông của Đại thừa, bốn Đế như khổ v.v… bốn Đế đều có ba loại lý, sự, thật. Thật tuy không nhiều nương theo thuyên thiết lập, nên nói bốn Đế, ban đầu khổ pháp trí nhẫn, tức là ở nơi khổ đế sự lý chứng riêng, nhưng sở chứng như bốn Đế không khác, vì sao không gọi là chứng ở nơi diệt đế? Vì ở nơi Diệt đế sự lý cả hai đều chứng, chưa chứng riêng pháp trí giải thoát chứng được hai chướng kia, không sinh giải thoát, chẳng phải là địa vị này, mới bắt đầu chứng chân, tự sau các tâm chuẩn theo đây mà biết. Trên đây tướng kiến nghĩ chân Kiến đạo, nghĩa luận bốn Đế khác, căn cứ theo chân kiến bốn Đế cụ thời chứng không có trước sau.

Trái với đây giả lập không thành tựu, ở trong nhiễm pháp lược làm sáu cặp đối, nương theo Yếu Tập, nếu phục trừ công năng cũng gọi là chẳng thành, thể của chủng tử tồn tại, cũng tức gọi là thành.

  1. Kiến tu đối.
  2. Thế gian, xuất thế gian đối.
  3. Hiện hành chủng tử đối.
  4. Thức thứ sáu, thứ bảy đối.
  5. Phiền não sở tri đối.
  6. Chủng tử tập khí đối.

Một, Kiến tu đối: nghĩa là ba Thừa Kiến đạo ba cõi phân biệt, tất cả hai chướng, tùy theo chỗ ứng, hoặc là chủng tử hoặc là hiện hành, gọi là chẳng thành tựu, ba cõi Tu đoạn, tùy theo chỗ ứng, gọi là thành chẳng thành, Nhị thừa Kiến đạo, tùy theo chỗ phục trừ trước, Tu đạo phiền não đoạn, gọi là chẳng thành, chưa phục trừ không đoạn, trừ là cũng gọi thành, chẳng phải đối trị, không chướng ngại kiến, Tu đạo chuẩn theo mà biết.

Hai, Thế gian xuất thế gian đối: nghĩa là thế đạo chỉ phục trừ Câu sinh mê sự biệt đầu khởi tham, sân, si, mạn khiến không hiện khởi gọi là chẳng thành, mê lý và tế đều chẳng phải được phục trừ, tức gọi là thành tựu, xuất thế gian như trước.

Ba, hiện hành chủng tử đối: tất cả hiện hành, nếu chưa được sinh khởi đều gọi là chẳng thành, nếu lúc sinh khởi tức gọi là thành tựu. Hai chướng chủng tử nếu chưa tổn phục, tức gọi là thành, nếu đã đoạn trừ, tức gọi là chẳng thành. Nếu ở phàm phu, thể tồn tại gọi là thành, hoặc có phục trừ, tổn hại phục dụng nên cũng gọi là chẳng thành. Nếu ở Nhị thừa đã biết chủng tử thành, Bồ-tát tùy theo sẽ có thành chẳng thành.

Bốn, Thức thứ sáu, thứ bảy đối: Vả lại phiền não chướng như hàng Nhị thừa, tồn tại nơi Kiến đạo, sáu tương ưng hoặc phân biệt chẳng thành. Câu sinh thông với hai loại, Thức thứ bảy gọi là thành, nếu có quả siêu việt, không đoạn được bảy hoặc, trong Tu đạo tám mươi mốt phẩm, tùy theo chỗ ứng có thành chẳng thành, nếu hoặc Thức thứ bảy thành, đoạn được tám mươi mốt phẩm, mới gọi là chẳng thành, đoạn được tám mươi phẩm trước, vẫn gọi là thành. Căn cứ theo có chủng tử mà nói, nếu căn cứ theo công năng, thế đạo gọi là thành, xuất thế chẳng thành. Nếu căn cứ theo Bồ-tát Thức thứ sáu phân biệt Kiến đạo chẳng thành, Câu sinh gọi là thành, vì không có quả siêu việt. Ở trong Tu đạo, thân kiến của Thức thứ sáu, bốn Địa vĩnh viễn bị chiết phục gọi là chẳng thành, trước đó gọi là thành. Căn cứ công năng mà nói, nếu đứng về chủng tử thể vẫn gọi là thành, ngã kiến của Thức thứ bảy, Kim cương vô gián gọi là chẳng thành, trở về trước gọi là thành. Căn cứ theo thể của chủng tử, không theo dụng nói, theo dụng nói có thành chẳng thành, vả lại lược nói như vậy.

Năm, phiền não sở tri đối: chướng của sở tri, Nhị thừa gọi là thành chẳng thành. Vì Nhị thừa kia tuy đoạn được định chướng, hiện hành không khởi, chủng tử tồn tại. Bồ-tát Địa thượng hai chướng phân biệt, Kiến đạo chẳng thành, Tu đạo Câu sinh phiền não chướng chủng tử, Kim cương vô gián trở về trước gọi là thành, vì không đoạn chủng tử. Nếu thuộc về sở tri chướng, chủng tử hiện hành đều thành chẳng thành, Kim cương vô gián hai chướng chủng tử hiện hành đều gọi chẳng thành.

Sáu, chủng tử tập khí đối: tập khí của Nhị thừa hai chướng đều thành, vì không đoạn tập khí. Bậc Bồ-tát, phiền não chủng tử Câu sinh gọi là thành, tập khí của hai chướng và chủng tử của sở tri, gọi là thành chẳng thành. Vì trong mười Địa tùy theo phần đoạn, địa vị của Giải thoát đạo, chủng tử tập khí của hai chướng đều gọi là chẳng thành, lược nói như vậy, nói kỹ sợ dài dòng.

Trong pháp Vô ký, vả lại Dị thục Vô ký đứng về giới phân biệt, tùy theo xứ sở sinh, chủng tử hiện hành đều thành tựu, xứ bất sinh khác chủng tử thành hiện hành không thành, vì không có khởi đối với dị địa Dị thục. Lại nếu đoạn, hoặc là người, trời Dị thục Vô ký đến Kim cương Vô gián hoặc Giải thoát đạo, mới gọi là chẳng thành, địa vị khác gọi là thành, căn cứ theo thành Phật mà nói. Nếu hàng Nhị thừa, vô dư chẳng thành, nếu căn cứ theo duyên trói buộc, tùy theo chỗ ứng, Kim cương vô gián đoạn hết hoặc nên gọi là chẳng thành. Nếu là ba đường, huỳnh môn, nữ nhân, trời Trường thọ, trời Vô tưởng v.v… nhập vào Kiến đạo rồi rốt ráo không sinh, gọi là chẳng thành, trở về trước gọi là thành. Trước căn cứ theo hiện hành và công năng mà nói, nếu luận về thể của chủng tử, ba đường Dị thục, nhập vào Kiến đạo chẳng thành thể cũng không có, chủng tử của nữ nhân v.v… thể có gọi là thành, oai nghi, Vô ký tâm thông với cõi Dục, cõi Sắc, tuỳ sinh hai cõi. Sinh cõi Vô sắc chủng tử thành hiện hành đều được gọi là thành. Phật quả chẳng thành, duyên trói buộc tùy ứng, nếu rộng khởi oai nghi, tha thọ, biến hóa, đã khởi oai nghi cũng được gọi là thành, duyên trói buộc chẳng thành giả tâm nói có, không thật năng phát. Nếu thật oai nghi từ Địa thứ tám trở lên hiện hành cũng chẳng thành, thường hằng Vô lậu thiện, chẳng phải Vô ký, công xảo Vô ký chỉ ở cõi Dục, chủng tử hiện hành gọi là thành. Nếu sinh về hai cõi trên, chủng tử thành, hiện hành chẳng thành, kia tuy có ngữ, căn cứ theo công xảo mà nói, hàng Nhị thừa đều thành, Phật đều chẳng thành. Từ Địa thứ tám trở lên chủng tử thành hiện hành chẳng thành. Nếu căn cứ theo duyên tâm oai nghi, công xảo, tùy theo nên chuẩn mà biết, thông quả Vô ký, cõi Dục, sắc giới thành, địa pháp sắc giới, dưới giữ gìn chủng tử và hiện hành kia, tùy theo chỗ ứng gọi là thành chẳng thành. Nếu đến Phật quả chủng tử mới chẳng thành. Nếu căn cứ theo duyên trói buộc, hàng Nhị thừa Vô học cũng gọi là chẳng thành, chủng tử của Địa thứ tám thành.

Trong Hữu lậu thiện, sinh đắc khác nhau, trong phương tiện thiện ba tuệ khác nhau. Căn cứ theo giới địa, hiện hành chủng tử thành chẳng thành v.v… đều chuẩn theo tư, Vô lậu thiện trong phàm phu. Vô tánh chẳng thành, hữu tánh chủng tử thành. Hàng Tam thừa Thánh, chủng tử hiện hành đều thành. Hàng Nhị thừa vô dư chủng tử hiện hành chẳng thành, người còn lại thiện căn lúc Niết-bàn thì hết.

Hỏi: Trước nói rõ đắc y, phi đắc y như thế nào?

Đáp: Hữu vi phi đắc hiện hành chẳng thành, tức là nương theo chủng tử lập. Lại giải thích nương theo Thức thứ tám ngược với thành tựu kia, lập ra chẳng thành tựu, hiện hành thành tựu không nương theo chủng tử, phi đắc trái với kia, vì sao nương theo chủng tử? Lại giải thích nương theo chủng tử, nếu do ngược với kia hiện hành thành, không nương theo chủng tử, tức là chẳng thành cũng không nương theo, như chủng tử thành nương theo chủng tử lập, chẳng thành lại nương theo gì? Căn cứ theo thể chẳng thành, tức là vô thể, hai giải thích mặc tình.

Nếu tự tại và chủng tử thể tự tại không thể gọi là phi đắc, cũng nương theo chủng tử lập, nếu như vậy cùng với hiện hành phi đắc khác gì? Đây căn cứ theo không công năng, kia theo chưa khởi, nên có sai biệt. Nếu căn cứ theo thể vô gọi là phi đắc, đồng với Trạch phi trạch hai loại đắc mà nói. Trong nương theo chủng tử, như tánh của Thánh phi đắc có hai nghĩa:

1. Tương vi phi đắc, tức là Dị sinh tánh, nương theo chủng tử của hai chướng.

2. Tương thuận, nương theo công năng mà nói tà kiến đoạn được thiện, hoặc chưa nhập vào Kiến đạo.

Nếu có chủng tử chưa khởi công năng, cũng gọi là chẳng thành, tức là nương theo chủng tử của Vô lậu giả lập, hiện hành chẳng thành cũng nương theo chủng tử lập. Vô vi phi đắc, Trạch diệt Vô vi, người không chủng tánh và chưa nhập vào Kiến đạo đều nương theo chủng tử của hai chướng mà lập, nhập vào Kiến đạo đã qua, tùy theo chỗ chưa đoạn được Câu sinh của hai chướng lập ra Trạch phi đắc, vì chẳng đắc được sở chướng Trạch diệt kia, phi trạch phi đắc tùy theo chỗ ứng, nương theo các pháp Hữu vi kia, chủng tử hiện hành mà lập, vì thành tựu pháp kia, không đắc được Phi trạch.

Luận giả lập phi đắc gọi là Dị sinh tánh, Dị sinh tánh này có ba môn khác nhau:

  1. Giải thích tên gọi.
  2. Nêu ra thể.
  3. Luận về sai biệt.

Một là giải thích tên: là trước lìa sau hợp. Dị có hai: một, biệt dị gọi là Dị, nghĩa là Bậc thánh chỉ sinh về hai đường; trời, người đều thông với năm đường, không đồng với bậc Thánh, đây căn cứ theo đường khác, cũng nhiếp bốn loài, bốn loài bất đồng. Hai, biến dị gọi là dị, đây chuyển biến là tà kiến v.v… Bậc thánh đều đồng có chánh kiến, đây căn cứ theo kiến dị, đây cũng nhiếp cảnh, duyên cảnh có khác nhau. Sinh nghĩa là sinh khởi sinh loại, tức là thú kiến loại, biệt dị, sinh khởi. Tánh là thể tánh, do tánh này khiến cho thú, kiến dị, trên lìa giải thích khác với sinh loại của bậc Thánh, gọi là dị sinh. Sinh là chung, dị là riêng. Tánh của dị sinh gọi là Dị sinh tánh, đều là Y chủ thích. Lại luận Tát- bà-đa quyển 45, nội dung đồng với thuyết này, nên Tôn giả Thế Hữu nói: “Có thể khiến cho hữu tình khởi Dị loại kiến, Dị loại phiền não, tạo ra Dị loại nghiệp thọ Dị loại quả, Dị loại sinh, gọi là Dị sinh”.

Hai là nêu ra thể: trước nêu dị thuyết, sau nêu Đại thừa là Độc tử bộ thuyết, cõi dục Kiến đạo, sở đoạn, mười phiền não lấy làm thể tánh. Nhất thiết hữu bộ riêng có thể tánh, chỉ là Vô ký, thông với ba cõi trói buộc bất tương ưng, Kinh bộ không lập có thể tánh riêng, nhưng đối với từng chưa sinh về Thánh pháp, tương tục phần vị lai biệt, giả lập gọi là Dị sinh tánh, Đại thừa tuy cũng còn bất tương ưng, chẳng khác với sắc tâm, có thể tánh riêng, nhưng đối với kiến đoạn chủng tử của hai chướng, trên chưa vĩnh viễn đoạn vị, giả lập Dị sinh tánh, không phải là chỉ theo có thể chứng được tự thừa đã có pháp Thánh, không sinh hiện hành vị, lập ra Dị sinh tánh. Người không chủng tánh không phải chướng khác, chỉ căn cứ theo chưa đoạn kiến hoặc chủng tử lập ra, do chẳng thành tựu Thánh pháp, hoặc dụng hoặc thể đều gọi là chẳng thành. Người có chủng tánh, không thành tựu công dụng, không chủng tánh cũng không thành tựu thể. Nên luận Du-già quyển 52 ghi: “Ba cõi kiến sở đoạn chủng tử, tuy chưa vĩnh viễn hoại lượng gọi là Dị sinh tánh”, tức là thông với chủng tử của hai chướng trên giả lập. Luận này cũng nói: Đối với ba cõi kiến, sở đoạn chủng tử, chưa vĩnh viễn hại vị, giả lập chưa được gọi là Dị sinh tánh, cũng không được nói mỗi mỗi chướng được tự Thánh chủng tử hiện hành, nhưng nói rằng đối với các pháp Thánh, chưa được thành tựu. Sai biệt là năm Thừa sai biệt có hai: trước lập ra sai biệt, sau hỏi đáp phân biệt. Vả lại quyết định Đại thừa, đầy đủ nương theo hai chướng, chưa được vĩnh viễn đoạn, vị phân biệt chủng tử, lập ra Đại thừa Dị sinh tánh. Nếu sở tri chướng rốt ráo không thể hại, chẳng phải phiền não, nương theo phiền não này, một phần lập làm định tánh, Dị sinh tánh của Thanh văn, một phần lập làm định tánh, Dị sinh tánh của Độc giác, vì thích quán bốn Đế mười hai Nhân duyên, ngộ chứng, y đãi hai tánh khác nhau, nếu đều không thể đoạn, nương theo đây lập làm vô tánh, Nhị thừa Dị sinh tánh.

Bất định là nếu có đủ đợi quán đế, duyên khởi, được xuất thế là nương theo tất cả phân biệt phiền não, lập làm bất định, Nhị thừa Dị sinh tánh. Nếu có quán đợi bốn Đế, sáu Độ được xuất thế, nương theo đây lập làm bất định Thanh văn Dị sinh tánh.

Nếu có quán đợi duyên khởi, sáu Độ, được xuất thế, nương theo đây lập làm bất định Duyên giác Dị sinh tánh. Nếu đủ quán đợi có thượng trung hạ Vô lậu căn tánh, lập làm bất định Thanh văn, Duyên giác Dị sinh tánh, vì kinh Lăng-già nói năm loại Thừa, tánh nhập vào pháp, luận Du-già lại nói lập làm Bất bát Niết-bàn tánh, Thanh văn tánh v.v… tướng ngược lập nên có sai biệt này.

Chuẩn theo nghĩa này làm bốn câu khác nhau:

1. Chỉ có Dị sinh tánh, không thành tựu Thánh tánh, nghĩa là người vô tánh.

2. Chỉ thành tựu Thánh tánh, cũng thành tựu Dị sinh tánh, Đại thừa Kiến đạo trở đi.

3. Cũng thành tựu Thánh tánh, cũng thành tựu Dị sinh tánh, căn cứ theo ba Thừa Kiến đạo trước.

4. Chủng tử của Vô lậu, cũng thành tựu Thánh tánh, chưa khởi hiện hành gọi là chẳng thành.

Không phải căn cứ theo chủng tử nói, hoặc chỉ nương theo đó, hay sinh ra dụng của hiện hành lập làm Thánh tánh, vì ngược nhau. Nếu không như vậy chỉ có chủng tử Dị sinh thành tựu Thánh. Nếu chỉ hiện hành nói, Thánh là Vô lậu, lúc không khởi hiện hành lẽ ra chẳng phải dị sinh, cũng chẳng phải Thánh. Nếu nương theo thuyết này, định tánh của ba Thừa Kiến đạo trở về trước cũng chỉ là câu thành tựu Dị sinh tánh. Hàng Nhị thừa đắc Thánh và hồi hướng đến Đại thừa chưa nhập vào Sơ địa gọi là cũng thành tựu dị sinh, cũng thành tựu Thánh tánh. Hàng Nhị thừa vô dư là câu câu phi.

Trong phần hỏi đáp biện rõ, hỏi: Định tánh Đại thừa và Bất định tánh hay hướng đến Đại thừa, nương theo chủng tử của hai chướng lập ra Dị sinh tánh, định tánh Nhị thừa là nương theo hai chướng chăng? Đáp: Có hai giải thích.

Một, chỉ nương theo chủng tử của phiền não lập, vì nó không đoạn và không chướng.

Hỏi: Nếu không phải chướng đoạn, tức là không nương theo lập, người của vô tánh hai chướng không đoạn, không chướng ngại thừa kia, nên không phải nương lập?

Đáp: Vì cực trọng chướng.

Hỏi: Nếu như vậy hàng Nhị thừa, người của định tánh, không được hướng đến Đại thừa, sở tri chướng kia cũng gọi là cực trọng chăng? Nếu gọi cực trọng lẽ ra nương theo lập, nếu không gọi trọng do không chướng ngại quả tự thừa kia, vô tánh cũng như vậy?

Đáp: Định tánh có thể đắc Thánh, tuy có sở tri không gọi là trọng, vô tánh không đắc Thánh nên hai chướng gọi là trọng.

Hỏi: Phiền não có thể đoạn được tự thừa, phiền não không gọi là trọng, sở tri chẳng phải đoạn không được Đại thừa, chướng của sở tri cũng gọi là trọng, nếu do sở tri không chướng Tiểu thừa, hai chướng không chướng phàm phu chăng?

Đáp: Chỉ có Thánh pháp, gọi là Thánh tánh, định chướng sở tri không chướng khinh. Vô tánh rốt ráo không phải Thánh pháp, hai chướng kia gọi là trọng.

Hỏi: Nếu mong tất cả Thánh pháp gọi là Thánh tánh, do không chướng nên được gọi là khinh, lẽ ra tất cả chướng pháp gọi là Dị sinh, tùy theo đắc được Thánh tánh, lẽ ra đều xả?

Đáp: Hai trí đều có thể chướng lý, chỉ có Thánh pháp gọi là Thánh tánh, sở tri định tánh lúc không đoạn, không chướng Thánh pháp, chẳng phải Dị sinh, nếu nương theo đó lập được Thánh thừa nhận đoạn, tức là trái với các luận nói sở tri chướng chỉ Đại thừa riêng đoạn, nếu không thể đoạn, đã thừa nhận chướng còn, há đắc được Thánh tánh? Do đây nên biết, chỉ nương theo một lập ra, như sở tri chướng ở nơi thân của Nhị thừa, không gọi là chướng, không ngăn ngại quả kia gọi là Vô phú.

Hỏi: Nếu như vậy vô tánh đã có hai chướng ngại, cũng không chướng ngại kia, nên không gọi là nhiễm?

Đáp: Trời người đồng dị sinh, không chướng ngại có thể không nhiễm, đối với Thánh gọi là dị sinh, không đắc nên gọi là nhiễm. Lại giải thích không chướng ngại nhân, phàm phu. Vì cảm được sinh nên gọi là nhiễm, sở tri không chướng ngại Tiểu thừa, không chiêu lấy Sinh không nhiễm. Lại giải thích định tánh Nhị thừa cũng nương theo hai chướng lập ra Dị sinh tánh, văn không lựa ra, hay chướng ngại Đại thừa, nhất định không đắc, như vô tánh chướng, nhất định không được Thánh, nương theo hai chướng lập.

Hỏi: Nếu như vậy Nhị thừa đoạn được sở tri Dị sinh tánh này chăng?

Đáp: Có hai giải thích:

Một là cũng đoạn.

Hỏi: Nếu như vậy lẽ ra đoạn được sở tri chướng?

Đáp: Thừa nhận cũng không lỗi.

Hỏi: Như đoạn được định chướng, đây cũng không như vậy, định chướng trừ hiện hành không đoạn được chủng tử, vì đây nương theo chủng tử?

Đáp: Tuy nương theo chủng tử lập ra, không phải nhận lấy chủng tử, nương tựa chủng tử giả lập. Nói không đoạn được sở tri, căn cứ theo thể của chủng tử mà nói, nói đoạn được Dị sinh tánh là căn cứ theo giả công năng, giả thật đã khác nhau, nên không phải ngược nhau. Nếu nương theo giải thích này, bất định Nhị thừa chỉ cũng gọi là Thánh. Vì Dị sinh tánh được Thánh xả.

Hai là không đoạn mong tự thừa mà nói, tên đắc được Thánh tánh, sở tri chưa đoạn được kia tánh vẫn còn, nếu như vậy lẽ ra nên gọi vừa phàm phu vừa Thánh, thừa nhận cũng lỗi gì? Có lỗi tạp loạn.

Đáp: Nếu lấy Thánh tánh làm Dị sinh tánh, có thể có tạp loạn.

Hỏi: Hai tánh khác nhau làm sao thành tạp loạn, hai tánh tuy chẳng tạp loạn, phàm thánh là tạp loạn chăng?

Đáp: Mong nghĩa có khác nhau, cũng không phải là lỗi, như Bất định tánh Nhị thừa Thánh, chưa đạt đến Sơ địa, cũng là tên khác Tiểu thừa, nên giải thích sau là chính.

Hỏi: Vì sao không đồng nương theo Câu sinh chướng lập?

Đáp: Căn cứ theo toàn năng chướng kiến, tu, Vô lậu, Câu sinh lập toàn năng chướng ngại hai Vô lậu, nên không phải nương lập. Luận Du-già quyển 56 ghi: “Nương theo chưa sinh khởi phần vị của tất cả pháp Thánh xuất thế, kiến lập Dị sinh tánh”. Luận này cũng nói chủng tử kiến sở đoạn chưa vĩnh viễn hại vị, giả lập chẳng phải đắc gọi là Dị sinh tánh.

Hỏi: Nương chủng tử kiến đoạn lập Dị sinh tánh làm gì? Tổng nương ba cõi chủng tử kiến đoạn lập làm gì?

Đáp: Có hai giải thích:

Một là chỉ chấp lấy hiện hành của Thức thứ tám, đồng địa chủng tử của kiến đoạn lập, không nương theo tất cả chủng tử của phân biệt lập. Nếu không như vậy một cõi thành ba cõi, lẽ ra gọi là Dị sinh ba cõi. Nếu nhận lấy chủng tử hiện hành sinh, tức là đã đắc được định trên, khởi hoặc của địa trên, cũng gọi là dị sinh.

Hai là đồng nương theo ba cõi, chủng tánh của kiến sở đoạn, văn không lựa ra, đồng là dị sinh, nên không phải tạp loạn, không đồng với thể tánh của dị, thú, sinh v.v… dị, thú, sinh v.v… hiển bày giới, thú khác nhau, đây khác với bậc Thánh nên không phải tạp loạn, giải thích trước là chính. Luận Du-già quyển 56 ghi: “Ba cõi Dị sinh tánh, tánh thuộc vô sinh, sinh đã khác giới, nên sinh cũng khác”.

Hỏi: Do bậc Thánh hướng đến phàm phu, Vô lậu đều là Thánh tánh, do phàm phu hướng đến bậc Thánh, Hữu lậu đều là dị tánh chăng?

Đáp: Hữu lậu bậc Thánh vẫn khởi, nhưng lậu chẳng phải Dị sinh, Vô lậu chuẩn theo phàm phu đều không có, nên gọi chung là Thánh tánh.

Hai là đối với Tiểu thừa nói sẽ sai biệt, vả lại đối với Hữu bộ có sáu môn sai biệt:

1. Y xứ sai biệt, Hữu bộ chỉ nương theo Chúng đồng phần và cùng với mạng căn, Đại thừa tức là nương theo chủng tử của hai chướng lập ra.

2. Giả thật sai biệt, có thể biết.

3. Xả vị sai biệt, Hữu bộ có ba thuyết: một là Thế đệ nhất pháp xả; hai là khổ pháp trí nhẫn sinh tướng thời xả, tức là lúc kia diệt, đoạn được phiền não; ba là hai chủng tử cùng xả, như đoạn được phiền não, Vô gián, Giải thoát, hai đạo đoạn được hoặc. Nếu Luận sư của Đại thừa chân kiến vô gián, lúc khởi chánh diệt, tức là khổ pháp trí nhẫn có tướng Kiến đạo, giả nói là xả, thật chân Kiến đạo, nương theo chủng tử của chướng lập ra.

4. Năng đắc sai biệt, Hữu bộ chỉ lập ra đắc, đắc được phi đắc, vì Dị sinh tánh là phi đắc, riêng có đắc đắc. Đại thừa tức là tánh của dị sinh này mong Thánh tánh gọi là phi đắc, căn cứ theo Dị sinh tánh tức gọi là đắc, như ba thành tựu không khác với ba biệt lập thành tựu.

5. Tánh sai biệt, Hữu bộ chỉ là Vô phú vô ký, Đại thừa thông cả ba, bất thiện hữu phú và do Vô lậu, vì định tánh Nhị thừa sở tri mong kia là Vô phú, thông với ba cõi, vì nương hai chướng.

6. Phi đắc sai biệt, Hữu bộ phi đắc mong tất cả Thánh pháp. Luận Câu-xá quyển 4 ghi: “Không phải được Thánh pháp làm sao được gọi là Dị sinh tánh”, nghĩa là không phải được tất cả không phải nói riêng, đây không được nói lìa mà được. Nếu khác đây chư Phật Thế Tôn cũng không thành tựu Thanh văn, Duyên giác. Chủng tánh Thánh pháp, nên gọi là dị sinh. Nếu như vậy luận kia sẽ nói thuần, không cần phải nói. Trong một câu này bao hàm nghĩa thuần, như nói loại này thực thủy thực phong, lại được Thánh pháp rồi càng không hồi tâm làm ra thừa khác, nên mong tất cả. Đại thừa không như vậy, trông mong không thể được nói trí hai Không, không có Thanh văn v.v… tuy gọi là Thánh trông mong hồi hướng Đại thừa chưa nhập Kiến đạo cũng gọi là dị sinh. Vì chưa đắc được pháp Không, sở tri vẫn còn, cho đến Sơ địa. Lại nói rằng đắc được Thánh tánh, lại Hữu bộ kia Tam thừa chỉ đoạn được phiền não chướng, nếu sở tri chướng Tiểu thừa không đoạn, đã nương theo chướng lập, lúc nhập vào Sơ địa đoạn được hai phân biệt. Tuy không được thành tựu Thánh tánh của Nhị thừa, nhưng gọi là dị sinh, vì đã đoạn được hai chướng, chứng được trí hai Không, chỉ lược nói như vậy.

Trong phá Đồng phần, nêu ngoại đạo chống chế rằng: Pháp bên ngoài chẳng phải thú sinh, nên không lập ra Đồng phần. Lẽ ra vặn hỏi rằng, thú là theo thú hướng đến nghĩa, pháp bên ngoài có thể chẳng phải thú, không do thú hướng đến, giải thích Đồng phần, vì sao được lấy thú để ví dụ Đồng phần? Thú là thú hướng đến nghĩa, pháp bên ngoài không phải Đồng phần, Đồng phần tương tợ nghĩa pháp bên ngoài tương tợ lập ra Đồng phần. Lại vặn hỏi, ông vốn nói pháp bên trong là thú sinh, hữu tình lập ra Đồng phần, pháp bên ngoài chẳng phải tình thú, pháp bên ngoài không phải Đồng phần. Ông vốn do có đồng trí, pháp bên trong có Đồng phần, pháp bên ngoài có đồng trí, làm sao được không phải đồng phần, làm sao chống chế rằng pháp bên ngoài chẳng phải thú sinh, nên không lập đồng phần? Trên đây vặn hỏi xưa, dưới vặn hỏi sư Chánh Lý, còn lại chuyển vặn hỏi chống chế đều như Sớ thuật trong phần Thuật chánh.

Hỏi: Đồng phần của Đại thừa nương theo phi tình bên ngoài lập chăng?

Đáp: Căn cứ theo tương tợ nghĩa, giả lập Đồng phần, thông với trong ngoài, mười môn phân biệt như Xu Yếu nói.

Hỏi: Nếu thông với tất cả, lập ra Đồng phần. Vì sao được dẫn kinh nói rằng trời này đồng phần, người này đồng phần, không nói cõi khác?

Đáp: Kinh căn cứ theo hiển thù thắng, nói hữu tình đã căn cứ theo tương tợ, giả thiết lập thông với bên ngoài, lập có lỗi gì? Chuẩn theo đây đã phá được cái khác ngược với kia nên bên ngoài giả lập.

Luận: Lại nếu mạng căn dị thức thật có nên như thọ v.v… chẳng thật mạng căn. Tỷ lượng như văn.

Hỏi: Đã cho khác thức là nhân, vặn hỏi chẳng phải thật mạng căn, họ do không lìa nhân của thức, vặn hỏi chẳng phải mạng căn vì sao lý vặn hỏi có thể khiển trừ?

Đáp: Mạng căn của Đại thừa chẳng phải như gọi định, dù cho sắp sinh v.v… vặn hỏi chẳng phải giả mạng căn, cũng là lỗi tương phù. Vì Đại thừa lập chỉ giả danh tự có công năng này. Lại có giải thích rằng: Cùng với họ làm ra lỗi trái giáo, nói trụ nơi diệt định v.v… thọ không lìa thức, cũng không thành vặn hỏi, họ cũng thừa nhận thọ không lìa thức. Do văn của luận này chỉ nói rằng: Khác với thức thật có nên chẳng phải mạng căn.

Tây Minh nói: Họ nếu vặn hỏi Đại thừa rằng: Luận chủ đã nói thọ v.v… sẽ chẳng phải thật thọ v.v… vì lìa thức thật có, như tướng v.v… Giải thích rằng: Bên ngoài lỗi trái với giáo, họ thừa nhận thọ v.v… là thật có. Nếu không như vậy do lìa thức thật có, nên nhân cả hai đều chẳng thành lỗi. Tiểu thừa Đại thừa đồng thừa nhận thọ v.v… không lìa thức, dụ không có lỗi năng lập. Trên tuy nói lẽ ra so sánh lìa thức không khác mạng căn là thiết lập để ngăn phá, chẳng phải họ đã thừa nhận mạng căn lìa sắc, tâm có thật tự thể, họ chỉ nói khác với sắc tâm có thể, không nói lìa.

Tây Minh nói: Luận Tát-bà-đa lượng rằng: Mạng căn thật có, vì hay giữ gìn thân, như nghiệp, nếu không như vậy nhân này có lỗi tha tùy một bất thành. Vì Sư của Đại thừa không thừa nhận mạng căn hay giữ gìn thân. Nếu thừa nhận giữ gìn thân, dưới phá được Kinh bộ loại, giữ gìn, huân tập, giả không thể giữ gìn, có lỗi bất định.

Yếu Tập ghi: “Lẽ ra nói mạng căn lìa thức của ông không thể giữ gìn thân, tức là không có lỗi trái tông, mạng căn của Đại thừa thừa nhận giữ gìn thân, cùng thừa nhận Đồng phần không giữ gìn thân, cũng không như vậy, đồng với lỗi trước”. Các luận chỉ nói hay khiến cho tương tục trụ thời quyết định. Ở trong phần vị này, giả lập ra mạng căn, không nói hay giữ gìn, nếu có chỗ nói hay giữ gìn thức, do nghiệp dẫn chủng tử hay sinh ra hiện hành thức, tương tục không đoạn công năng sai biệt, hay kiến lập nghĩa giữ gìn. Giả gọi là mạng trì, chẳng phải là nhiếp thọ trì của chấp trì, cũng không phải là chấp lấy chánh năng sinh dụng. Sau phá giả trì, căn cứ theo nhiếp thọ chấp trì, nay họ nói rằng mạng căn hay giữ gìn thân tức là nghĩa của nhiếp trì nên làm ra phá trước.

Luận: Như bốn chánh đoạn nghĩa riêng nói ba, bốn chánh đoạn theo nghĩa nói bốn thể là tinh tấn, mạng căn v.v… tuy có ba theo nghĩa sai biệt thể là một thức.

Ngoại đạo vặn hỏi: Thọ v.v… theo nghĩa mà nói, một thể chia ra ba uẩn, chánh đoạn căn cứ theo nghĩa phần, một tinh tấn thông với nhiều uẩn?

Đáp: Mạng căn theo nghĩa có riêng thù thắng riêng, nên phân làm ba xứ, chánh đoạn theo nghĩa phần không có thù thắng riêng biệt, nên thuộc về một xứ, lại tuy không phải hoàn toàn tương tợ, chấp lấy dụ của thiểu phần.

Luận rằng: Thức chuyển diệt kia chẳng phải A-lại-da.

Ngoại đạo vặn hỏi: Nhàm chán tâm nhập vào vô tâm chỉ có tế tâm, nhàm chán sắc nhập vào Vô sắc chỉ có tế sắc?

Đáp: Tế tâm chẳng phải đã nhàm chán, diệt định tâm không phải vô, định sắc chẳng phải đã nhàm chán.

Trong Vô sắc giới có vặn hỏi: Nhàm chán sắc nhập vào Vô sắc, chỉ có tế sắc, nhàm chán y nhập vào vô y, chỉ có nơi tế y?

Đáp: Có xả vô thường sắc đắc được thường sắc.

Vặn hỏi: Hàng Nhị thừa đều nhàm chán thô tâm, sắc nhập vào vô tâm, sắc đồng với Đại thừa có, Nhị thừa nhàm chán y nhập vào vô y, đồng với Phật chẳng phải không có?

Đáp: Bồ-tát nhàm chán thô không nhàm chán tế, có bi trí, có tế thân, Nhị thừa thô tế đều đã nhàm chán, không thương xót nhập vào tịch tĩnh, thân chẳng có.

Lại có hai giải thích, như Xu Yếu nói.

Phần thuật chánh luận về mạng căn, các giáo pháp của Đại thừa có sáu loại không đồng:

1. Chỉ nói chủng tử của Thức thứ tám, như luận này.

2. Đồng nói hiện hành, luận Du-già Quyết trạch ghi: “Chủng tử hiện hành của tám căn nhất định thành”, mạng căn ở trong đó.

3. Chỉ có sáu xứ bên trong, luận Hiển Dương quyển 1 ghi: “Mạng căn nghĩa là nghiệp trước đã dẫn Dị thục, sáu xứ trụ thời quyết định tánh”.

4. Thông với năm uẩn, Tập luận quyển 1 ghi: “Những gì là mạng căn? Nghĩa là ở trong Chúng đồng phần, nghiệp dẫn quyết định”. Luận Tạp Tập giải thích: Đồng phần là ở trong một đời, các uẩn tương tục v.v…

5. Là nương theo tướng chung mà nói, luận Du-già quyển 52 ghi: “Thế nào là mạng căn? Đối với xứ kia được sinh ra tự thể, đã có trụ thời, hạn lượng, thế lực, phần vị nên gọi là thọ.

6. Nương theo Dị thục mà nói, quyển 56 ghi: “Đối với nghiệp sở dẫn lúc Dị thục trụ, quyết định vị kiến lập mạng căn”. Kết hợp với văn của luận Hiển Dương, như trong Sớ giải thích.

Quyết trạch tám căn như Xu Yếu tổng hợp từ các văn khác không trái với ba giải thích trước. Nhưng văn của luận Hiển Dương lại có giải thích rằng: Tuy Tướng phần, Kiến phần khác nhau, nhưng không lìa thức, thức này tướng phần chung gọi là thức này. Lại nói rằng: Ý kia căn năng trì, năm căn sở trì, năng sở riêng nói rằng sáu xứ. Luận này năng, sở hợp nói gọi là chủng tử của thức này, cũng không trái nhau. Tuy có các giải thích, Sớ đoạn chỉ chấp lấy chủng tử của thức kiến phần, gọi là mạng căn, không chấp lấy tướng phần, giải thích này là chính.

Giải thích lúc ứng với Vô sắc cho đến đây vì sao như vậy? Sớ tự xưa đã không luận, cho đến nói rằng: Ngã nghĩa tâm pháp thông với năng yểm, tức là nói tâm pháp, gọi là Vô sắc, sắc pháp chỉ sở yểm, nên nói chủng tử của tâm gọi là vô tâm. Ở đây đáp thêm rằng: Tâm pháp thông với năng yểm, nói chủng tử của tâm gọi là vô tâm, sắc pháp chỉ sở yểm, tức là nói tâm pháp, gọi là Vô sắc, tức là tâm pháp thông với năng yểm. Chỉ có chủng tử của tâm gọi là vô tâm, sắc pháp chỉ sở yểm, chỉ có tâm pháp gọi là Vô sắc. Đây lại lần lượt thuật ra trọng, hiển bày văn trước, càng giải thích thêm, nhàm chán sắc nhập vào Vô sắc, tâm làm năng yểm gọi là Vô sắc. Nhàm chán tâm nhập vào vô tâm, chủng tử của năng yểm tâm gọi là vô tâm. Ông đã nhàm chán tâm nhập vào vô tâm, không ở nơi năng yểm, gọi là vô tâm. Chỉ lập ra phi sắc phi tâm gọi là vô tâm. Nhàm chán sắc nhập vào Vô sắc, không ở nơi năng yểm lập ra Vô sắc, chỉ có phi sắc phi tâm, gọi là Vô sắc. Nhàm chán sắc nhập vào Vô sắc tức là ở nơi tâm của năng yểm gọi là Vô sắc, nhàm chán tâm nhập vào vô tâm tức là ở nơi chủng tử tâm của năng yểm gọi là vô tâm.

Luận: Lúc tâm nhỏ nhiệm huân tập Thức Dị thục, thành tựu chủng tử của yểm tâm. Vì sao không ngay ở địa vị này lập ra vô tâm định, đợi sát-na sau mới gọi là vô tâm định, trước, sau v.v…?

Tây Minh nói: Tam tạng Chân Đế chỉ nói nương theo chủng tử lập, tức không lìa vấn nạn trước. Nay nói hai định nương theo chủng tử giả lập, nên tuy thành chủng tử mà duyên chưa đầy đủ, không lập ra hai định, phải đợi tâm diệt mới lập ra hai định. Như luật nghi vô biểu lúc đầu thành tựu chủng tử, duyên chưa đầy đủ nên không thành tựu vô biểu. Nay cho rằng Chân đế giải thích cũng không khó, vô tâm nương theo chủng tử, ban đầu có hay huân tập, chưa phải là vô tâm, nên nói rằng nương theo chủng tử, vốn là nhàm chán tâm, có tâm chưa lập, địa vị sau mới lập.

Luận: Vô tưởng định trước cầu vô tưởng quả, nên đã huân tập thành chủng tử, chiếu lấy Thức Dị thục kia. Sớ có hai giải thích: Tự đoạn được chính trước, tuy vô tưởng Dị thục giả chẳng phải thật cảm, nhưng là cầu được quả kia, tu được Vô tưởng định. Nếu lúc hữu tâm là hay cảm lấy quả của Vô tưởng kia, tu được hữu tâm định, vì sao giả vô tâm? Vì vô tâm định trước tâm nhỏ nhiệm đã huân tập thành vọng tưởng, ngăn ngừa tâm không khởi, mới gọi là Vô tâm định, tức là nói giả pháp hay ngăn ngừa thật tâm, lúc sau được quả tuy là giả, nhưng do nhàm chán tâm sức của công năng, tướng v.v… không khởi, giả nói là cảm đối với lý trái gì? Nếu đều thật chủng tứ làm ra năng cảm nên đồng với Thức thứ tám, không gọi là vô tâm. Lại nữa luận này chỉ nói nên được huân tập thành chủng tử, chiêu lấy thức Dị thục kia, nương theo nó thô động tưởng v.v… không phải hành giả lập Vô tưởng, không nói thành chủng tử, chiêu lấy Vô tưởng kia. Lại nữa là giả, vì sao chủng tử chiêu cảm được?

Hỏi: Lúc được quả, chủng tử của tâm nhỏ nhiệm tức là từ lâu đã diệt, nhưng có chủng tử tương tục của vô tâm, không phải chủng tử của hai loại, làm sao có thể nói hữu tâm cảm được hữu tâm?

Đáp: Tuy không phải chủng tử riêng, tức là tâm cuối cùng và chủng tử đồng thời tu, có hay cảm được sức của Dị thục chung kia, vì chưa thuần thục, quả không được khởi, sau khi thuần thục sinh quả thì sẽ hiện hành thành tựu chủng tử, lúc mong đắc quả, nói hữu tâm cảm, nên cũng không trái.

Tây Minh nói: Chuẩn theo biết đây nhờ vào gia hạnh thì chủng tử nhỏ, và nhỏ nhiệm đều cảm được quả chung, hữu tâm Dị thục chính là địa vị vô tâm, căn bản thật chủng tử, chiêu lấy quả riêng của vô tâm, định lực của vô tâm ngăn ngại tâm không sinh, lý quyết định như vậy, không phải lao nhọc mới chiêu cảm.

Đây tuy giải thích khác, căn cứ theo thời có thể cảm, không vượt ngoài giải thích của Sớ, nhưng lại có lỗi, vì sao tự thừa nhận cõi trời kia chẳng phải quả sở sinh, giả không phải thể riêng? Không nên nói làm chủng tử thật cảm, nếu thừa nhận thật cảm, vì sao nói định lực của vô tâm ngăn ngại tâm không sinh, lý quyết định như vậy, đâu cần mệt nhọc giải thích.

Yếu Tập ghi: Có thuyết nêu hai giải thích, giải thích sau nói trái với quyển 56. Sớ tự phán phân giải thích sau chẳng đúng, vì sao dẫn lại rườm rà? Nhưng nói rằng chư Thiên kia tổng báo Thức thứ tám, và sau sinh đắc tâm v.v… nhất định làm chủng tử của hữu tâm nhỏ nhiệm chiêu cảm. Nếu không phải hiện hành tư, chủng tử không thể chọn lấy quả, giả Dị thục vô tưởng biệt báo kia tức là tùy theo sở y, đồng thời nói cảm, không phải chia ra chiết phục hữu tâm, vô tâm. Chủng tử của hai vị, chỉ cảm lấy hai quả, đã đồng thời cảm được, vì sao một hữu tâm một vô tâm lại cùng thời cảm được? Tức là lẽ ra vô tâm cùng với Dị thục chung, cùng thời mà đắc, vì sao có trước sau? Nếu nói rằng ai nói có trước sau, tức là trái với luận nói tâm, tâm sở diệt, đã nói tâm tâm sở diệt, rõ ràng biết ban đầu khởi hiện hành. Cũng không thể nói rằng, luận Du-già 56 đã nói khởi, nghĩa là hay dẫn dắt tư của phát Vô tưởng định, hay cảm được quả Dị thục kia, nói rõ là đồng thời không phải lại phân biệt hai quả chung riêng, đây cũng không như vậy. Nếu chấp thẳng vào luận nói, cũng lẽ ra chỉ hiện hành tư, không được thông với chủng tử. Sau nói, nghĩa là hay dẫn dắt tư của phát Vô tưởng định, hay dẫn dắt tức là hiện hành tư, lại không nói chủng tử. Nếu nói do nghĩa thông với chủng tử, cũng do nghĩa lấy lời cảm được tổng báo, nương theo tổng báo này, sáu thức không hiện hành, giả lập ra vô tưởng. Cho nên luận này nói: Nên chủng tử đã huân tập thành, chiêu lấy thức Dị thục kia nương tựa nó thô động tưởng v.v… không hành, giả lập ra vô tưởng.

Luận: Vô tưởng định trước đến chiêu lấy thức Dị thục kia, nói rõ sở y, nương theo thô động dẫn đến giả lập vô tưởng, nói rõ năng y.

Hỏi: Vô tưởng Dị thục diệt, bao nhiêu thức được lập ra?

Đáp: Diệt được một thức lập ra, vì hai thức tỷ, thiệt chỉ ở cõi Dục, ba thức nhãn, nhĩ, thân chỉ ở định ban đầu, ở định thứ tư, thô chỉ ở Thức thứ sáu, không thể khởi Địa dưới, Dị thục có ba thứ nhãn v.v… nên chỉ ở Thức thứ sáu.

Hỏi: Nêu ra Dị thục kia, tâm duyên theo Địa nào?

Đáp: Tùy theo Địa sở sinh lấy làm sở duyên, vì thuận sinh ái nhất định cùng với sở sinh, đồng một đạo, không nói Địa khác ái thấm nhuần Địa khác sinh.

Hỏi: Vô tưởng Dị thục tức là nương theo sở yểm để lập ra, hai định vì sao nương theo năng yểm lập ra?

Đáp: Dị thục là sở cầu, ở nơi sở cầu lập ra Dị thục, hai định cũng sở cầu tức là ở trên hai định lập ra hai định, nên không vặn hỏi lỗi.