THÀNH DUY THỨC LUẬN CHƯỞNG TRUNG XU YẾU
Chùa Đại từ ân, Sa-môn Khuy Cơ soạn thuật.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỄN HẠ

(PHẦN 1)

Quyển 51 ghi: “Cho đến chưa đoạn, đoạn thì trọn đoạn không còn gì, chứ chẳng phải lìa phược đoạn”.

Giải: Trong xúc có ba đoạn:

  1. Nêu lược
  2. Biện rộng
  3. Phá bác bỏ.

Trong biện rộng có hai phần: Thứ nhất nêu rộng đoạn trước, luận Du-già nói cùng thọ tưởng tư v.v…. Thứ hai tổng hợp trái ngược. Trong nêu rộng đoạn trước có hai phần: Trước nêu rộng thể, sau nêu rộng nghiệp tức là đoạn từ “đã tợ thuận khởi tâm” trở xuống. Trong nêu rộng thể có hai phần: Trước nêu rộng ba hòa hợp phân biệt biến dị, sau kết nêu rộng khiến tâm tâm sở xúc cảnh làm tánh, tức là đoạn từ “hòa hợp tất cả” trở xuống. Trong phần trước lại có hai phần: Trước giải thích rộng ba hòa hợp, phân biệt biến dị; sau kết hợp Tập luận, tức là căn biến dị lực v.v…. Trong đoạn trước lại có ba phần: một là giải thích ba hòa hợp, hai là giải thích biến dị, ba là giải thích phân biệt. Do ba hòa hợp biến dị đều chẳng phải khả năng của mình, nên nói riêng trước, sau mới giải thích phân biệt.

Trong đây, do tưởng khởi ngôn thuyết, vì sao chẳng nói là ngôn ngữ? Nhân là dùng tầm tứ gần, tưởng xa. Tư khiến tâm là lấy chánh nhân v.v… Nhân gì nói tín v.v… tức là tự tánh thiện. Trong đây, ba hòa hợp đều có sinh công năng của tâm sở gọi là biến dị. Vô vi không có biến dị. Vì sao có sinh công năng của tâm sở? Nay giải thích, đây căn cứ Hữu vi duyên ba biến dị. Nếu Vô vi duyên tâm hai biến dị, vì Vô vi không có công năng biến dị. Lại giải thích, y Vô vi có ẩn có hiển phần vị biến dị, vì chẳng đồng Hữu vi thể có biến dị, Vô vi có vị Dị nên gọi là công năng, vì thể không có công năng. Như Thức thứ bảy lấy Thức thứ tám làm căn, lại làm cảnh y, nói xúc là hai hòa hợp.

Trong giải thích nghiệp, trước giải thích tổng văn, đoạn từ “kinh Khởi Tận ghi” trở xuống là dẫn kinh chứng thành. Trong tổng hợp trái ngược có hai đoạn: trước kết hợp với Du-già, sau kết hợp với Tập luận.

Trong giải thích tương ưng: thời, y đồng, sở duyên, sự v.v… nếu đứng về bản chất, hoặc pháp không bản chất, tất cả gọi là đồng duyên một cảnh, cùng sự chẳng đồng. Nếu tướng ảnh tượng tương tợ gọi là đồng, sự gì một chủng? Trí không phân biệt duyên như không có ảnh, chẳng thể tương tợ, chẳng đồng nhất. Nên biết, có bản chất là ảnh tượng gọi là tương tợ, anh chất gọi là đồng nhất. Nếu không có bản chất là Hữu vi duyên tương tợ gọi là đồng nhất. Vô vi duyên cảnh một gọi là đồng nhất. Đây căn cứ thật duyên nên chẳng trái nhau.

Che lấp tâm có hai:

  1. Tâm pháp tánh.
  2. Tâm y tha.

Trong so sánh tâm sở, sư thứ nhất chẳng so sánh Dị thục v.v… lẽ ra là tư, mỗi mỗi chẳng nêu nguyên do vì nghĩa chẳng đồng. Vì sao xúc, tác ý, tư cả ba đều nói ở tâm v.v… thọ, tưởng chẳng như vậy? Thắng nghĩa bất thiện, nghĩa là sinh tử lưu chuyển. Tại sao cùng Vô lậu làm y? Vì nói thiện, nhiễm trái ngược nên lẽ ra chẳng cùng cả hai làm y.

Trong so sánh tâm sở, sư thứ ba nói dùng sáu nghĩa so sánh. Nay quán sát ý vặn hỏi của sư thứ tư, chẳng so sánh liễu biệt cùng thọ đồng thời thì so sánh sáu môn, tuy có vặn hỏi nói xúc cùng xúc đồng thời. Chấp thuận năm pháp đồng thời là so sánh đồng. Ba giải thích đều lấy chỗ chẳng xả tàng của A-la-hán sau, chỉ tâm vương xả tàng, là chẳng phải gọi tâm sở xả tàng là nguyên do. Trước so sánh như vậy, nếu không như vậy tại sao giữa đường so sánh? Đây thì y cứ giải thích một và hai làm chánh và giải thích thứ tư. Trong vặn hỏi có mười đoạn:

  1. Tổng nêu các lỗi.
  2. Lại vặn hỏi.
  3. Vặn hỏi khiến chẳng thọ huân.
  4. Mặc tình vặn hỏi thọ huân.
  5. Kẻ khác chống chế.
  6. Lại vặn hỏi.
  7. Họ giải thích.
  8. Chánh vặn hỏi.
  9. Chuyển hỏi.
  10. Bày rõ tông.

Trong đoạn thứ tư mặc tình thọ huân có năm đoạn:

  1. Mỗi mỗi thành lỗi sáu thể.
  2. Lỗi nhiều nhân một quả.
  3. Lỗi năm thứ vô dụng.
  4. Lỗi thế lực v.v… chẳng phải thứ lớp.
  5. Lỗi chóng sinh sáu giả.

Lại, “chỗ kia nói” là chuyển hỏi. “Do đây v.v…” là bày rõ tông. Ba dụ trong Hằng chuyển gồm:

  1. Dù chìm nổi giữa hai nẻo.
  2. Dụ gặp duyên nổi sóng.
  3. Dụ trôi chảy vật trong ngoài, chẳng phải Phật, làm sao có thể dừng.

Có bốn Tát-bà-đa, trong đây có bốn thứ: Loại, tướng, vị, đãi dị. Thứ ba y cứ tác dụng lập thế gian là tối thiện, như luận Câu-xá quyển 20 giải thích.

Trong phá nghĩa nhân quả v.v… của sư Thượng tọa có hai đoạn: Một là thuật tông, hai là chánh phá. Trong thuật tông có ba đoạn: một là nêu chung, hai là nêu riêng, ba là tổng kết, tức là đoạn từ “nhân quả như vậy v.v…” trở xuống.

Trong nêu riêng có ba đoạn:

  1. Nêu cực mau để nói rõ về thời.
  2. Nêu một thể mà thành hai.
  3. Nêu hai thể mà làm rõ đều có. Trong chánh phá có bảy đoạn:
  4. Tổng nêu các lỗi mà khởi trưng bày.
  5. Hiển trái nhau mà phá thế gian.
  6. Định có không mà phát hỏi.
  7. Mặc tình diệt có mà hỏi vặn.
  8. Thuật trái nhau mà thể là một.
  9. Theo một và khác mà lý trái nhau.
  10. Tổng kết bày ý vặn hỏi.

Bát-nhã hủy Bồ-tát chẳng khiến vào diệt định, Du-già nói bốn người chẳng thành Lại-da, Bất thoái cũng vào, há chẳng trái nhau? Thuận trong ba thuyết đây, Địa thứ tám chẳng vào. Sư thứ nhất lấy đây làm thể, nên chẳng thừa nhận lấy ngay đến Địa thứ tám, vì là chỗ Phật quở trách, nên xa hợp gọi là Bất thoái. Thứ hai nói rõ ngay đến gọi là Bất thoái, tức có hai nghĩa: Một nói là Du-già làm chánh, Phật quở trách đắm ngoan không, không có lợi ích thù thắng, chẳng phải họ chẳng thể nhập. Lại giải thích kinh là chánh, Du-già y cứ Bất thoái là đứng về thành thục mà nói, trước đã từng vào, sao quở trách nên chẳng vào? Do tự tại nên cũng nói Bất thoái vào định, kỳ thật là chẳng vào.

Xét những tên gọi như Bồ-tát địa, hạnh nhỏ, hạnh lớn, hạnh rộng v.v… kinh Giải Thâm Mật quyển 3, luận Du-già quyển 78 ghi: “Bồ-tát Quán Tự Tại thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Các vị Bồ-tát ở trong các Địa phát sinh phiền não, phải biết là tướng gì, lỗi gì, đức gì?

– Này thiện nam! Tướng không nhiễm ô. Tại sao? Các vị Bồ-tát ở trong Sơ địa, thật đối với tất cả các pháp, pháp giới đã khéo thông đạt. Do nhân duyên này, Bồ-tát cần biết mới khởi phiền não, chẳng phải là chẳng biết, cho nên gọi là tướng không nhiễm ô, ở trong tự thân chẳng hay sinh khổ, nên không lỗi lầm. Bồ-tát sinh khởi phiền não như vậy, ở hữu tình giới khéo đoạn nhân khổ, cho nên Bồ-tát đó có vô lượng công đức rất kỳ đặc.

– Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-đề vô thượng mới có công đức lợi lớn như vậy, khiến các Bồ-tát sinh khởi phiền não, còn hơn tất cả thiện căn của hữu tình Thanh văn Độc giác, huống gì là vô lượng công đức khác, làm sao tâm thông các vị thì nói tùy nghĩa nên nói, Dị thục cũng thông các vị chẳng nói tùy nghĩa, đã riêng nói xả, sao phải nói lại?”

Theo luận Vô Tướng và kinh Đồng Tánh thì thức vô cấu là tự tánh tâm thức thì lý Chân như, nên biết vô cấu thông cả hai thứ. Nhưng bản thức có mười tám tên. Bài tụng ghi:

Không mất, bản, trạch, tạng

Chủng, vô cấu, trì, duyên

Hiển, hiện, chuyển, tâm, y

Dị, thức, bản, sinh, hữu.

“Cõi Vô thỉ đến nay, tất cả pháp thảy y, do đây có các nẻo, và Niết-bàn chứng đắc”, luận Vô Tánh và Nhiếp Đại Thừa ghi: Cõi Vô thỉ đến nay là hiển bày thức tánh đây ở khoảng đầu tiên là không. Cõi là nhân thì chủng tử thức là nhân chủng của ai? Nghĩa là tất cả pháp sở y khéo nhậm trì vậy, chẳng phải nhân tánh. Nghĩa năng nhậm trì là nghĩa sở y, chẳng phải nghĩa nhân tánh. Sở y, năng y, tánh đều khác nhau, nếu không như vậy là giới, tiếng đã rõ sao mượn lời khác? Ý hai câu đây, cõi Vô thỉ đến nay là hiển tánh thức đây không có câu “khoảng đầu tiên thông”. Cõi của tất cả pháp, nghĩa là cũng lấy pháp Hữu lậu làm nhân duyên, cùng Vô lậu pháp v.v… làm sở y. Do tất cả pháp giới, nên có các nẻo, do đẳng làm sở y, có Niết-bàn chứng đắc, có chút phần tương tợ với Duy Thức quyển 2 nhưng hơi sai biệt, như văn có thể biết.

Trong phần do nhiếp tàng tất cả chủng tử thức của các pháp có ba giải thích:

1. Trong đây chỉ nêu năng tàng gọi là A-lại-da, chẳng phải là nghĩa tàng đầy đủ, vì đối thắng tánh làm rõ năng tàng vậy.

2. Ba tàng trong đây tất cả đều đủ, nêu năng nhiếp tàng hiển bày tánh sở tàng, chủng tử tạp nhiễm hỗ tương làm duyên. Do đây trì năng chấp bên trong làm ngã thì là nghĩa chấp tàng nên đủ ba tàng.

Hai giải thích trên đây trong luận thể văn trường hàng có nói.

3. Căn cứ thật Lại-da chỉ lấy chấp tàng, nay căn cứ năng tàng có đại tự tại tợ thường và một. Riêng tợ ở ngã, hiển làm nghĩa sở chấp tàng của ngã ái, ý muốn dùng sở chấp tàng nên gọi là A-lại-da. Nếu lấy năng tàng giải thích A-lại-da thì Phật quả xứng với tên gọi này, nếu dùng nghĩa năng tàng sở tàng để giải thích thì hàng Nhị thừa vô học, Địa thứ tám trở đi nên được tên đây, nên chỉ có chấp tàng gọi là A-lại-da, thiếu thì liền thành lỗi. Nay nêu năng tàng để nói rõ tàng tạp nhiễm. Phật chỉ có một năng tàng. Hàng Nhị thừa vô học, Địa thứ tám trở lên có cả năng tàng sở tàng, ngoài ra thì đều có đủ ba tàng, nên lấy chấp tàng gọi là A-lại-da.

Trong phần “Ta chỉ khai mở cho người thù thắng”, luận văn chỉ y cứ cứu cánh chứng quả mà nói nên lập chánh danh, chánh danh cũng thông cả hàng Địa tiền v.v…. Bất định tánh đúng lý cũng ở trong đó. Địa thượng, Địa tiền tùy ứng mà nhiếp. Quyết định Nhị thừa sinh cõi Vô sắc tin có Thức thứ tám vào được diệt định, rõ ràng cũng vì nói, nhưng chẳng phải chánh, cứu cánh chẳng thể đắc quả lớn, trong đây chọn lựa đó.

“Ta đối với phàm phu chẳng vì chỉ bày”, Vô Tánh giải thích: Hàng chấp ngã kiến, chẳng vì họ chỉ bày, sợ họ phân biệt kế chấp làm ngã, đâu thể chấp nhận phân biệt kế chấp kia, tận cùng khoảng sinh tử, hành tướng một loại không cải chuyển. Vì hiển bày Nhị thừa định tánh phàm phu, kiến của Câu sinh chưa trừ, chẳng được vì họ nói, sợ tăng thêm phân biệt kiến, chẳng phải hàng đắc Thánh nên chẳng vì họ nói. Nay vặn hỏi nếu vì phàm phu có Câu sinh kiến chẳng vì họ nói, hàng Nhị thừa đã đoạn cũng nên vì họ nói. Nếu vì hàng chẳng ngu pháp nói, thì phàm phu định tánh cũng có chẳng ngu, tại sao chẳng nói? Nên biết chẳng vì phàm phu chánh nói, Vô Tánh tuy nói hàng chấp ngã kiến chẳng vì chỉ bày là chẳng phải lời nói tận lý. Lại, luận đây nói chướng sinh Thánh đạo, phàm quyết định tánh có thể vậy, đồng với Vô Tánh, chẳng phải thân bậc Thánh lại chướng Thánh đạo. Lại, tuy bậc Thánh Nhị thừa chẳng vì họ nói là phần nhiều chẳng ngu pháp vậy, chẳng phải đồng với Dị sinh. Ý đây chẳng vì chánh nói, chẳng phảộní chung.

“Thành Đại thừa là trong lời Phật nói” luận có mười lượng, trong bốn cặp trước, lại thêm chữ “lạc Đại thừa thừa nhận”, chọn lựa tùy một chẳng thành. Dùng chí giáo nhiếp làm tông nên thành bốn nhân. Trong bảy nhân chứng, trong phần “trước chẳng thọ ký” lại có ba lượng: một, nếu Đại thừa là trụ trong tự pháp là rộng hoại chánh pháp, nói Phật nên trước dự ghi trí Vô công dụng Phật hằng có, như Diệt Pháp Sự giải thích. Lại, hằng chánh cần giữ chánh pháp, lại biết vị lai trí không chướng ngại. Lại có một lượng nói là: Hữu pháp như trước, pháp nói là Phật nên trước phân biệt dự ghi riêng, thời sau hoại chánh pháp là sở khởi v.v… vậy, như Chánh Pháp Diệt Sự giải thích, và giáo pháp lừa đội lốt sư tử có bảy tỷ lượng. Luận Hiển Dương quyển 20 dùng mười nhân nói ngôn giáo Đại thừa là điều Phật nói:

  1. Trước chẳng khởi, tức nhân đầu tiên ở đây.
  2. Nay chẳng thể biết, tức nhân thứ hai ở đây.
  3. Có nhiều chỗ làm.
  4. Cực trọng chướng là chỗ không có trong đây.
  5. Chẳng phải cảnh tầm tư vậy, tức nhân thứ ba ở đây.
  6. Chứng đại giác, tức “nếu có nhân Đại thừa” trong nhân thứ năm.
  7. Không có lỗi của Thừa thứ ba.
  8. Đây nếu không có nên không có Nhất thiết trí, tức “không có nhân Đại thừa” trong nhân thứ năm.
  9. Có đối trị tức nhân thứ sáu.
  10. Chẳng nên như nói lấy ý, tức nhân thứ bảy.

Trong bảy nhân đây, mỗi mỗi lại lấy Tư để làm tỷ lượng. Các sư Thượng tọa bộ lập chín tâm luân:

  1. Hữu phần.
  2. Năng dẫn phát.
  3. Kiến.
  4. Đẳng tầm cầu.
  5. Đẳng quán triệt.
  6. An lập.
  7. Thế dụng.
  8. Phản duyên.
  9. Hữu phần.

Nhưng thật chỉ có tám tâm, vì bao quát mà nói tổng có chín, nên thành chín tâm luân. Vả lại, như mới đầu lúc thọ sinh chưa thể phân biệt, tâm chỉ nhậm vận duyên ở cảnh gọi là tâm hữu phần. Nếu lúc có cảnh đến tâm muốn duyên bèn sinh cảnh giác, gọi là năng dẫn phát. Tâm đó đã ở trên cảnh đây chuyển kiến chiếu soi nó. Đã thấy nó rồi, bèn đồng tầm cầu xét thiện ác đó. Đã xét nó rồi, bèn đồng quán triệt nhận thức thiện ác đó mà an lập tâm, khởi nói phân biệt nói thiện ác đó, tùy thiện ác đó bèn có tác động dụng tâm sinh. Động tác đã dấy khởi sắp muốn ngừng phế bèn lại phản duyên việc chỗ làm trước. Đã phản duyên rồi bèn trở về hữu phần nhậm vận duyên cảnh, gọi là chín tâm, mới thành nghĩa luân. Trong đó, tâm kiến thông nơi sáu thức. Ngoài ra, chỉ ý thức. Tâm hữu phần thông sinh tử, tâm phản duyên chỉ được tử. Nếu người lìa dục chết thì tâm hữu phần. Đã không ngã ái, không chỗ phản duyên chẳng sinh lưu luyến. Người chưa lìa dục vì tâm phản duyên mà chết, có luyến ái. Nếu có cảnh đến thì tâm có thể sinh. Nếu không cảnh khác, luôn làm hữu phần, nhậm vận tương tục. Nhưng, kiến và tầm cầu trước sau chẳng định. Luận Vô Tánh và Nhiếp Đại Thừa quyển 2 ghi: “Năm thức đối với pháp không chỗ rõ biết, trước nói tâm kiến. Lại nói, kiến chỉ chiếu soi tức tổng kết tâm trước.

Ngũ dục chẳng phải xứ đắm chấp là, sinh hai cõi trên cũng khởi ngã thức.

Trong chứng thứ nhất, tâm tập khởi là giải thích lại chỗ tập chủng. Chỗ khởi sinh pháp, nhân nên gọi là tâm.

Trong phá sắc chẳng tương ưng và tâm sở, cũng nên có chẳng phải chỗ tâm tập khởi chủng nhiễm tịnh, vì lược nên không nói. Chấp thuận loại là giả chẳng năng trì thật chủng pháp bên trong. Quyển 1 trước nói, như đê đường v.v… giả ngăn nước thật, ở đây vì sao chẳng vậy? Tạm dứt diệt ngăn giả định có thể vậy. Rốt ráo trọn trì ở lý chưa thể. Nếu vậy, thân Phật, giới biệt giải thích thoát v.v… cũng rốt ráo ngăn. Nghĩa gì chẳng đồng? Ngăn là nghĩa dứt, có thể giả ngăn thật. Trì là nghĩa giữ gìn nên giả chẳng trì.

Phá Tợ tỷ lượng của luận sư Thanh Biện, tông có một phần sở biệt chẳng thành. Trung Đạo thắng nghĩa trong luận cũng có lỗi của một phần trái ngược tông, chẳng thành như trong sớ giải thích. Đồng dụ như huyễn là, y Tục đế, như huyễn có hai trưng bày: một là thật sự như huyễn, chẳng phải duyên sinh nên năng lập chẳng thành; hai là tợ sự như huyễn, tông đây chẳng phải không lập nên chẳng thành, y Thắng nghĩa đế. Tất cả pháp hai tông đây kia đều chẳng thể nói, chẳng phải không, chẳng phải chẳng không, chẳng phải duyên sinh, chẳng phải phi duyên sinh, đâu thể dùng hoa đốm hư không v.v… làm dụ được? Đồng dụ cũng có lỗi câu bất thành gọi là Tợ tỷ lượng.

Trong Chứng thứ hai, thân khí lìa tâm chẳng phải có thì nghiệp quả chứng thứ năm trong tám Chứng.

Trong thú sinh, nói năm nẻo là luận Phật Địa ghi: “Vì A-tố-lạc nhiều dối trá nên nói là phi thiên”. Có trong các kinh mở làm sáu nẻo, thật thì cõi trời nên năm nẻo các kinh khác cũng nói cùng thuộc nẻo quỷ, vì tùy thuận lý, hoặc luận Phật Địa đứng về nghĩa nhiều phần, thật thông hai nẻo, như Pháp Hoa sao quyển 1.

Khởi không có tạp là giới địa có thể vậy, như năm thú bốn loài ở Dục giới. Tại sao? Phiền não, nghiệp, quả định thuộc nẻo đây sinh, mà nói khởi tạp, như chuyển trọng khiến khinh, cũng có quả nẻo ác thọ trong loài người và sáu cõi trời. Người trời cũng khởi phân biệt phiền não v.v… cũng có nẻo ác thọ quả thiện nghiệp biệt báo, như rồng voi ngựa v.v… quỷ có phước đức v.v… ở trong trời người, đều không nhất định thuộc, nay nói khởi các thứ khác có thể gọi là tạp luận. Nay giải thích chẳng như vậy, kia không nhất định thuộc, chỉ Thức thứ tám nẻo sinh nhất định chẳng thể chuyển thọ, chuyển thọ chỉ là biệt báo, nên các thứ khác gọi là tạp, chẳng biết nẻo nào sinh loại nào, nên nếu khởi đó bèn gọi là tạp. Thức thứ tám không như vậy, nên gọi là không có tạp.

Sinh đắc thiện và ý thức nghiệp quả khởi không có tạp là như sinh đắc thiện, tuy Dục giới đây cũng có định thuộc, thú sinh gọi là không tạp thì không như vậy, chỉ ý nghiệp quả không tạp, đây là tên cùng theo, chẳng phải thật không tạp, giải thích đây là chánh, thông năm nẻo được quả. Ý Dị thục là sư đây chẳng thừa nhận các thú chuyển thọ, chỉ bản xứ, hoặc nhiều phần, cũng có thật Dị thục nương Dị thục chuyển thọ. Nghiệp quả trong ý là văn của Bồ-tát Hộ Pháp, sinh đắc thiện là nghĩa của các sư khác, hợp đó lại một xứ, nhưng chẳng phải chuẩn đúng. Thật chỉ có Dị thục và tâm sở kia gọi là chánh thú sinh, hỏi: Thể của thú sinh là một hay là nhiều? Nếu là một, y sáu biệt thật tâm và tâm sở để lập chung là một, như bình, bồn v.v… thú sinh nên giả. Nếu thừa nhận giả là trái với văn trên. Nếu thật một, tại sao y nhiều thật pháp mà lập thể một thật ư? Nếu là nhiều, nên như một người, sáu người riêng nẻo, chỗ sáu loài nhiếp, nên là lỗi lớn. Nghĩa này nên tư duy. Thú sinh là giả các sư Kinh bộ vặn hỏi, y sáu căn lập mạng căn, mạng căn nên là thú sinh, tổng thành một giả, cốt yếu y thật pháp mới có thể kiến lập, chẳng trái với trên, sở y lập. Giải thích sau là chánh. Hoặc chỉ tâm vương là thể thú sinh, tâm sở cùng theo thật chẳng phải thú sinh, nên chỉ là một. Hoặc đồng tại một tụ đều nói không lỗi, là thật, chẳng phải giả, nên xét giả thật trong Du-già. Chánh thật thú sinh là chánh, là nghĩa bản thức, vì thú sinh là bản, ngoài ra năm uẩn Biệt báo y cùng theo đây mà gọi là thú sinh, không như vậy nên là tạp loạn, một nẻo khởi nẻo khác. Trong đây chỉ lấy chánh cảm chỗ nghiệp sau chiêu thức v.v… làm thể thú sinh.

Ắt trụ tán tâm, chẳng phải không tâm và định thì Tiểu thừa và Đại thừa cùng đồng, kinh Ma-ha-ma-da nói Phật vào diệt định mới vào Niết-bàn, đồng với Du-già quyển 80. Văn trong đây hoặc phân sáu đoạn: một là phá Kinh bộ, như ngủ không mộng, chuyển thức không vậy, các bộ khác chẳng như vậy; hai là phá Tát-bà-đa v.v…; ba là hiển chân Dị thục. Ba đoạn còn lại như văn tự nêu bày.

Trong thọ sinh mạng chung, hành tướng sở duyên của sáu thứ chuyển thức có hẳn có thể biết, Tát-bà-đa v.v… nói có hành tướng ý thức có thể biết, nên nay vặn hỏi đó là: Như có thể biết, nên như các vị khác phân minh có thể biết, đã chẳng phân biệt, rõ ràng chẳng phải ý thức.

Danh sắc hỗ tương làm duyên, như Tâm Kinh Tán giải thích.

Át-bộ-đàm, Hán dịch là Mụt nước, vì tạm đông đặc như mụt nhọt. Bế hộ là ngưng kết, luận kia gọi là Nhiệt huyết, cũng nói là Bế hộ. Kiện nam, Hán dịch là Sâu dày, vì tạm ngưng sâu dày, đồng kinh Ngũ Vương. Bát-la-xà-khư tức là Cụ căn, tức ba mươi lăm ngày.

*********

* Phần cuối bốn thực chứng ghi: “Nói là hữu tình nương ăn uống mà sống là đều nương vào thị hiện. Phẩm Phá Như Lai trong luận Trung Quán ghi: “Như Lai là cũng gọi là chúng sinh”. Lại, luận Đại Trí Độ quyển 30 ghi: “Ở trong loài chúng sinh hai chân, bốn chân v.v… rất là tôn thắng, nói là hữu tình đều là thị hiện”. Lại nói: “Tôn quý trong chúng sinh, thân Phật sao hẳn là chúng sinh, vào thành khất thực v.v… đều gọi là nương ăn uống mà sống, cũng thị hiện”. Luận Đối Pháp quyển 5 ghi:

1. Bất tịnh y chỉ trụ thực, nghĩa là Dị sinh ở Dục giới, do đủ thứ trói buộc.

2. Tịnh bất tịnh y chỉ trụ thực, nghĩa là Hữu học và Sắc, Vô sắc giới các loài dị sinh trong đó có các sự trói buộc khác.

3. Thanh tịnh y chỉ trụ thực, nghĩa là A-la-hán v.v… giải thích thoát tất cả trói buộc.

4. Thị hiện y chỉ trụ thực, nghĩa là chư Phật và các Bồ-tát đã chứng uy đức lớn.

Do chỉ thị hiện thực lực trụ, Nhiếp luận quyển 10 cũng đồng, chỉ thị hiện thực, chỉ nói là Phật, Thế Tôn thật chẳng thọ thực cũng chẳng mượn ăn uống. Luận kia đứng về bốn cách ăn làm luận nên chẳng nói Bồ-tát. Dị thục thức thực kia chẳng phải thị hiện, nên luận Đối Pháp y cứ ba cách ăn mà làm luận. Hằng Vô lậu đồng thời thật không ba cách ăn, nên xưng là thị hiện, thật chẳng trái nhau. Lại, luận đây y cứ Bồ-tát từ Địa thứ tám trở đi thật là hữu tình chẳng phải là thị hiện, tuy hiện ba cách ăn cũng chẳng nói đó. Phật thị hiện hữu tình nên không chẳng làm so sánh, hoặc nghiêng về y đoạn thực. Địa thứ tám đã qua thật chẳng đợi tư lương.

Hỏi: Vì sao trong bốn cách ăn, một vào trưởng dưỡng, còn ba kia chẳng phải. Bốn thứ trưởng dưỡng, ba chẳng phải thực ư? Du-già tự giải thích vặn hỏi sau, vặn hỏi trước như thế nào?

Trong diệt định, luận Thành Nghiệp ghi: Tâm có hai thứ:

  1. Tâm tập khởi, nơi vô lượng chủng tử tập khởi.
  2. Tâm chủng chủng, hành tướng sở duyên sai biệt chuyển.

Vị diệt định v.v… khuyết tâm thứ hai, nên gọi là không tâm, như ngựa bốn chân khuyết một nên cũng gọi là không chân, nghĩa là hành tướng nhãn thức v.v… thô động khởi hẳn lao lự v.v… là theo thông nghĩa của ba Thừa, căn cứ thật Bồ-tát địa thứ tám đã qua, không tâm Hữu lậu, sao hẳn phải lao lự?

Phá Tát-bà-đa, trong phần Diệt định thứcc chẳng lìa thân có hai đoạn: Trước nêu kế chấp, sau chánh phá. Trong phá có năm đoạn:

  1. Vặn hỏi như tưởng khởi diệt.
  2. Vặn hỏi thọ chẳng lìa thân.
  3. Vặn hỏi lẽ ra chẳng phải hữu tình.
  4. Vặn hỏi căn thọ không trì.
  5. Vặn hỏi kinh nói không thuộc.

Tát-bà-đa ghi: Thọ tưởng trước nghiêng về nhàm chán. Tâm hành nói là không có, Thức thể chẳng phải tâm hành, Diệt định nên nói có. Nếu vậy, vặn hỏi: Thức thể chẳng phải tâm hành, diệt định thật không mà nói có. Thọ v.v… chẳng phải tâm hành. Trong định thật không mà nói có. Nên luận ghi: Thọ, noãn, các căn lẽ ra cũng như thức, bèn thành lỗi lớn.

Trong phá bản kế của Kinh bộ có hai đoạn: Trước nêu bốn vặn hỏi, sau tổng kết. Bốn vặn hỏi là:

  1. Không nhân quả chẳng sinh.
  2. Không thể chẳng phải nghĩa nhân.
  3. Các thứ khác chẳng phải thọ huân v.v…
  4. Do lượng thành có thức.

Thứ hai, do lý đây hướng đến sau kết.

Bảy đoạn phá trong tâm sở. Đoạn thứ tư phá chống chế có tám đoạn:

  1. Do nói đồng tâm hành.
  2. Thẩm định biến chẳng phải pháp biến hành để khởi vặn hỏi sau. Trong đây có ba: một là tổng nêu, hai là hiển tùy có không, ba kết chánh.
  3. Vặn hỏi tư như thọ tưởng cũng nên đồng diệt.
  4. Vặn hỏi tín v.v… cũng không có.
  5. Thọ tưởng sánh như tư nên có.
  6. So sánh xúc nên có.
  7. Thọ so sánh nên như vậy.
  8. Tưởng so sánh đồng đây.

Đoạn thứ bảy, trong phá có năm phần:

  1. Tổng chống chế lỗi.
  2. Dẫn kinh phá so sánh.
  3. Kết thành nghĩa.
  4. So sánh có thọ tưởng.
  5. Lỗi trái với giáo.

Vặn hỏi không trong tâm sở có năm hỏi đáp. Trong vặn hỏi thứ nhất có bảy đoạn:

  1. Vặn hỏi tâm đồng sở không.
  2. Vặn hỏi pháp tùy biến hành diệt.
  3. Vặn hỏi thọ chẳng phải đại địa.
  4. Vặn hỏi thức chẳng phải tương ưng.
  5. Vặn hỏi lẽ ra không y duyên.
  6. Vặn hỏi như kinh có xúc.
  7. Vặn hỏi thọ v.v… hẳn chung cùng.

Vặn hỏi tâm diệt định nhiễm Vô ký là các nhiễm khác tâm Vô ký hẳn có tâm sở, tâm trong đây hẳn có tâm sở, là tông, thêm đó diệt định vị tâm, văn ngôn mới đủ, chẳng như vậy thì có lỗi tương phù cực thành, vì tâm nhiễm Vô ký là nhân, như các nhiễm khác tâm Vô ký là dụ. Nhân không có chữ “cho nên”, dụ thiếu chữ “như”, các thứ khác đều đủ văn, hãy đọc lấy nghĩa.

Trong Chứng thứ mười lấy tâm làm gốc. Câu chung của các bộ, pháp Hữu vi, Vô vi, nhiễm tịnh đều lấy tâm làm gốc. Tát-bà-đa v.v… cho là Vô vi do tâm hiển, Hữu vi do tâm nên khởi. Do tâm khởi pháp nhiễm tịnh lực dụng rất thắng mạnh, nên nói là gốc. Do đây, kinh ghi: “Nếu tâm nhiễm tịnh thì hữu tình nhiễm tịnh”, ý các sư Kinh bộ tuy cũng như vậy, nhưng tâm thọ huân ưu thắng so với căn v.v… vì khắp cùng các cõi nên nói tâm là gốc. Tuy câu chung của Hữu vi và câu riêng của Vô vi nhân tâm mà sinh, nghĩa là sắc, chẳng tương ưng do tâm làm đồng loại, câu hữu, Dị thục nhân v.v… mới bắt đầu sinh. Các pháp tâm sở, lý tuy cũng vậy, thân gần nơi tâm, y tâm mới trụ. Hai câu trên đây riêng đối Tát-bà-đa. Hai câu dưới đối Kinh bộ, như văn có thể rõ. Trong sớ chỉ thuật bốn giải thích của Đại thừa, trong đây tổng giải thích, nhưng quán xét ý của văn sau thảy đều phá bộ kia nên nêu giải thích này.

Nghiệp quả giới địa qua lại sau khởi lẽ ra không có nhân. Nhiếp luận quyển 3 ghi: “Nếu có ở đây chẳng phải thảy đồng dẫn địa lúc mất rồi sinh, y trong có vị ý khởi ý thức nhiễm ô kết sinh tương tục, ý thức nhiễm ô này đối với diệt trong Trung hữu. Ở trong bào thai mẹ thức Yết-la-lam lại cùng hòa hợp. Nếu vậy thì ý thức cùng hòa hợp sau đã hòa hợp rồi y chỉ thức này, ở trong bào thai mẹ có ý thức chuyển. Nếu vậy, tức nên có hai ý thức ở trong bào thai mẹ đồng thời mà chuyển, cho đến nói rộng.

Thời phần cách biệt không có duyên là đối Tát-bà-đa, vì sắc trong thức vị là Dị thục, gọi là hành duyên thức:

  1. Thời kiếp số xa vời.
  2. Trái cách, vốn không có quả thức có thể gọi là chi thức.

Vì sao gọi là cảm sắc trong thức vị? Các sư Kinh bộ ở đời vị lai không có mà nói cảm là thời phần vời xa, thời lâu cách tuyệt. Thế nào gọi là cảm? Lại nếu nói cảm gọi là sắc vị, thức gọi là duyên, thì cách thức chi, nên nói cùng danh sắc làm duyên, chẳng phải cùng thức làm duyên.

Mười Chứng nhiếp tám Chứng là Dị thục thứ hai đây là thứ sáu kia. Chấp thọ thứ tư đây là chấp thọ thứ nhất kia. Tâm sinh tử thứ sáu đây là mạng chung thứ tám kia. Diệt định thứ chín đây là diệt định thứ bảy kia, trì chủng thứ mười đây là chủng tử thứ tư kia.

Trong Năng biến thứ nhất, tại sao tâm sở thứ tám sánh đồng tâm vương nói cũng như vậy? Năng biến thứ hai, thứ ba chỉ nêu tương ưng chẳng nói sánh đồng? Sợ đây lẫn lộn với kia nên ở đoạn thứ bảy chỉ lập tên ý v.v…, tại sao Thức thứ sáu chẳng chỉ gọi ý, Thức thứ bảy cũng là thức vậy? Thứ bảy trì nghiệp, hai nghĩa để nói rõ thể của thức. Thứ sáu y chủ, lấy tha để rõ tự, nếu thứ sáu nêu một ý chẳng nói thức là chẳng khéo hiển tự. Thứ bảy thêm thức sợ lạm y chủ, nên thứ bảy chỉ nêu tên ý, sợ đây lạm kia. Thứ sáu thêm thức, hiển y tha nên được tên.

Vì sao trong bốn duyên, thứ ba gọi là sở y? Sở duyên duyên thể chẳng gọi là sở y. Thắng, gọi là y, thế cùng thân gần, sở duyên duyên xa cho nên chẳng lập, nhân thì có thể vậy, nghĩa y thì chẳng phải. Chỉ có trong y, thứ hai là nghĩa của luận sư An Tuệ, Kiến phần Tướng phần kia tuy là sở chấp, thể tánh đều không có, cũng có tướng của tợ sắc, như chỗ mộng thấy. Thời nay núi sông tất cả đều vậy, nên có tạng thức chỗ biến căn cảnh làm duyên sở y nên không có lỗi.

Trong y và sở y khác nhau, sở y đủ bốn nghĩa, thân căn mong bốn thức, khuyết ở nghĩa nào mà chẳng phải sở y? Có nghĩa giải thích là không có nghĩa quyết định, vì y thân dưới khởi nhãn trên v.v…. Đây cũng chẳng phải như vậy, năm thức dưới cùng khởi ý thức trên, nên chẳng phải năm y, cũng bất định. Lại, có giải thích thiếu nghĩa có cảnh. Phàm lập có cảnh là hẳn căn đồng phần khởi dụng có cảnh, căn đồng phần kia chẳng phải là sở y, chỉ là y nhiếp do thân căn đây hẳn không cùng bốn đồng phần có cảnh. Giả sử tự thân thức chưa hẳn cùng khởi làm bốn thức y, do nói y dụng gọi là có cảnh chẳng phải y thể, đây cũng chẳng phải như vậy. Văn luận sau nói, tuy có Sắc giới cũng y sắc căn mà chẳng nhất định có, chẳng phải thuộc về sở y. Nếu thừa nhận y dụng để gọi là có cảnh, năm căn ở tám khởi thức chẳng khởi đều gọi là có cảnh. Vì y thể nói, chẳng trừ có cảnh, chỉ không có quyết định. Nếu y dụng nói cũng nên nói là không nghĩa có cảnh, chẳng phải tất cả thời hằng khởi thức. Hoặc thức thứ bảy, thứ tám chẳng phải Thức thứ năm, thứ sáu nhất định đồng phần. Do đây nay giải thích có nghĩa riêng đó, phàm chỗ nương gá đều gọi là y. Đủ bốn nghĩa là tối thắng trong y lập làm sở y, yếu kém thì chẳng lập.

Trong đủ quyết định, sao gọi là quyết định? Chẳng phải nhất định cùng có gọi là quyết định. Quyết định có bốn:

  1. Thuận lấy sở duyên quyết định, phần sau gọi là đồng cảnh.
  2. Minh liễu sở duyên quyết định, phần sau gọi là phân biệt.
  3. Phân vị sai biệt quyết định, phần sau gọi là nhiễm tịnh.
  4. Năng khởi làm y quyết định, phần sau gọi là căn bản.

Có cảnh đó là chủ cũng mỗi mỗi có bốn. Bốn quyết định này có cảnh, là chủ, cũng tùy có một thứ, tức là quyết định, có cảnh, là chủ. Năm căn ở năm thức, có thuận lấy sở duyên quyết định, có cảnh, là chủ. Ý thức ở năm thức, có minh liễu sở duyên quyết định, có cảnh, là chủ. Thứ bảy ở năm thức có phần vị sai biệt quyết định, có cảnh, là chủ. Thứ tám ở năm thức có năng khởi làm y quyết định, có cảnh, là chủ, nên năm thức đây đủ bốn sở y. Năm căn khéo thuận năm thức lấy sở duyên. Ý thức khéo hỗ trợ năm minh liễu sở duyên vậy, nghĩa nói minh liễu cảnh của phân biệt, chẳng như vậy, định tâm nên chẳng phải năm y. Bảy thức khéo khiến năm phần vị riêng biệt. Lúc Thức thứ bảy rốt ráo thành Vô lậu, năm định Vô lậu, chẳng như vậy, Hữu lậu nhân Thức thứ bảy tuy chuyển, chẳng phải rốt ráo. Thứ tám ở năm chủng tử hay khởi hiện hành làm y. Gồm nói thứ tám là năng khởi y, chuẩn cứ chứng đây v.v… nên biết tùy đủ thì được tên kia. Nếu quyết định, có cảnh, là chủ, duy chỉ một thứ chẳng thông bốn thì lẽ ra năm thức không bốn thứ căn, do nghĩa đây nói. Thức thứ bảy đối với Thức thứ sáu và Thức thứ tám chỉ có phần vị sai biệt quyết định, có cảnh, là chủ. Thức thứ tám đối với Thức thứ sáu và thứ bảy chỉ có năng khởi làm y quyết định, có cảnh, là chủ, nghĩa bốn y sau đều thông ba trước. Bản ý của luận tùy ứng sớ nêu ra. Thể của sở y đã đủ ba nghĩa, khiến quả sở sinh thủ sở duyên của chính mình. Bốn nghĩa đây ưu thắng đều tùy năng trong ba có thể đủ tức gọi là sở y, ngoài ra là chẳng lập. Ở quả sở sinh chẳng phải thù thắng. Vả lại, năm căn trong sắc uẩn mong năm thức khác và Thứ thứ sáu, bảy, tám. Năm trần, pháp xứ, sắc mong tất cả thức. Bất tương ưng hành và Vô vi mong tất cả thức, chẳng phải chủng tử thức mong tất cả thức đều chẳng đủ ba, không trước tùy ứng nghĩa trong ba, nghiên cứu kỹ đều không có. Tất cả tâm sở tùy mong thức nào? Chỉ có quyết định, có cảnh, bốn thứ tùy ứng có thể đủ chỉ không có là chủ. Các chủng tử đó mong tự thức đó, có thể có phần vị sai biệt quyết định, vi chủ hai nghĩa, chỉ không có cảnh. Năm thức trước đó tự hỗ tương mong nhau và mong Thức thứ sáu, bảy, tám. Và Thức thứ sáu mong thứ bảy, thứ tám, tất cả đều không, không có bốn nghĩa trong ba tùy chỗ ứng. Ngoài ra, tâm, tâm sở tất cả hiện hành, sắc, bất tương ưng mong các chủng tử tất cả đều không có. Các pháp tâm sở mong chủng tử của chính nó, thiếu không có làm chủ. Do có phần vị sai biệt quyết định, có cảnh, nhiễm, tịnh đồng. Thể là bề tôi nên không làm chủ, cũng không khiến quả lấy chỗ tự duyên. Có thể có nghĩa phần vị sai biệt quyết định, có cảnh, làm chủ. Trong đó, đủ khuyết tùy nghĩa nên biết. Đã lược sơ điệp, sau đọc nên xót, nhưng trong văn dưới, năm căn mong thứ tam. Chỉ trừ định có, chẳng trừ các thứ khác là: Nêu chỗ không đầu sánh không sau vậy, chỉ nêu không một thì chẳng thành sở y, đâu cần thuật đủ.

Thức chủng không thể hiện lấy tự cảnh có thể có nghĩa y, trong sớ có hai nghĩa: Một là thức chủng của sư trước thừa nhận y bản thức. Bản thức đủ ba nghĩa, có thể cùng chủng làm sở y. Chủng quả không thể hiện lấy tự cảnh, quả không tự sở duyên. Dị thục thức cùng nó làm y, vì chẳng phải sở y, nên nói chủng có y, chẳng nói có sở y.

Lại giải thích thức chủng đây không thể cùng hiện hành làm sở y, có thể có phần vị sai biệt quyết định, là chủ, không có cảnh. Có thể có nghĩa thức y mà chẳng phải thức sở y. Từ trước đến đây, phần vị sai biệt tức nhiễm tịnh y, riêng cùng làm tên, gọi là phần vị sai biệt. Thân căn mong bốn thức, bốn nghĩa đều không có, nên không có lỗi.

Thứ ba, Đẳng vô gián duyên trong y. Lại, Dị thục tâm y ý nhiễm tịnh. Thiên Thân giải thích là Thức thứ bảy, văn luận chỉ nói phiền não câu hành ý. Vô Tánh cũng ghi: Hoặc có thuyết nói cùng bốn phiền não tương ưng tâm, gọi là ý thức nhiễm ô, nên biết Thiên Thân nói là Thức thứ bảy. Lại nói, duyên này vị lai làm cảnh, chẳng phải hẳn là Thức thứ bảy, cùng Vô Tánh đồng. Nếu như sớ giải thích nói là Thức thứ bảy thì tại sao Thế Thân nói là Thức thứ bảy, Vô Tánh nói là Thức thứ sáu? Thiên Thân lấy Thức thứ sáu tướng hiển nên lược mà chẳng luận. Thức thứ bảy tướng ẩn, cũng hay trợ nhuận, nên nói rõ y đó. Vô Tánh căn cứ duyên sẽ có làm cảnh, chẳng phải lực của Thức thứ bảy, nên ẩn chẳng nói, chỉ nói Thức thứ sáu, mỗi một Thức căn cứ một nghĩa cũng chẳng trái nhau. Lại, thứ ba của Vô Tánh cũng đồng với thứ bảy của Thiên Thân, như trước trong câu hữu y đã dẫn xong.

Trong sớ có hai giải thích, năm hạng Pháp sư và sáu ngàn công đức trong luận Pháp Hoa, phàm phu chưa được Vô lậu, trong năm căn cũng nói được hỗ dụng, có hai giải thích:

1. Các căn hỗ dụng, nghĩa là giả sử Tiểu thừa sắc tâm trước sau có Đẳng vô gián thì Nhiếp luận quyển 3, Kinh bộ của Thượng tọa chấp sắc tâm triển chuyển trước làm chủng sau. Nay vặn hỏi thì A-la-hán tâm sau chẳng thành. Vô Tánh ghi: “Cho nên sắc tâm trước sau cùng sinh, chỉ nên chấp nhận có Đẳng vô gián duyên, không có nhân duyên.

Tại sao Thức thứ bảy duyên kia tức có bốn thuyết, chánh nghĩa duyên Kiến phần? Thuyết kia chỉ có hai sư hiện hành chủng tử, vì y hiện hành làm chánh, nhưng chẳng riêng nói bốn phần y, sao nay giải thích tự thể y có thắng lực, Kiến phần có dụng của tác thọ, vì vậy duyên đó. Chẳng lìa thể nên tổng gọi duyên kia. Lại giải thích y ba phần, gồm có lực. Chỉ duyên Kiến phần, chỉ tác, thọ. Hoặc sở duyên kiến là nghĩa năng duyên, tức y, duyên đồng. Ba phần đều gọi là kiến. Do đó luận ghi: “Hằng cùng các pháp làm sở y”.

Nói trong sáu tùy biến, không trạo cử là trái nhau đây.

Hỏi: Trạo, hôn trái nhau chẳng thừa nhận cùng quyết định loạn phản ngược nhau nên chẳng đều sinh?

Đáp: Kia chẳng trái ngược nên câu khởi, đây phản ngược nhau nên riêng sinh.

Hỏi: Hai hai hành tướng mỗi mỗi trái nhau, tại sao chẳng đồng?

Đáp: Chảy tràn là tán loạn. Một hành được định đồng thời, cao thấp gọi là hôn, trạo, nên hai hành phản ngược nhau. Do hành tướng riêng biệt, thể đó cũng không có, là ý của sư này.

Trong sư thứ ba, Tát-bà-đa cho là tham, khuể, mạn chỉ là độn. Năm kiến, nghi chỉ lợi. Si thông cả lợi độn. Nay, Đại thừa cho là kiến, nghi chỉ là lợi, bốn thông cả lợi độn, tùy ứng thừa nhận cùng kiến, nghi chung cùng. Chẳng được dùng kiến cùng tham v.v… chung cùng cũng gọi là độn, không có độn riêng, kia có độn riêng. Do đây, tham v.v… thông mê cả lý và sự. Nghi chỉ mê lý, kinh Nhân Vương ghi: “Năm địa đoạn nghi, do dự trong sự, A-la-hán nghi dơi và rắn cũng vậy, đều Dị thục sinh, nên loại pháp chấp, bền chặt dính trước tức chấp”.

************

Đây cùng biến thứ nhất có đồng và chẳng đồng, kệ tụng nói và chẳng nói. Sở chỉ như Xu Yếu như trong quyển 10 giải thích.

Bình đẳng tánh trí chỉ xả thọ chung cùng nghĩa là quán trí là Sơ định. Bình đẳng trí, thuộc Sơ định, quán trí hỷ lạc chung cùng. Bình đẳng trí tùy hỷ lạc, có hai giải thích:

1. Giải thích về đắc: nhưng nay nói thủ đến Phật vị chỉ xả một định, chưa tự tại tùy quán trí. Tự tại thì không như vậy. Nếu như vậy, bảy thức nhân xả chung cùng. Tịnh do tha hỷ, lạc, trong nhân không có tầm tứ, quả do tha dẫn sinh ư? Hành tướng tầm tứ thô, chẳng phải do tha dẫn chuyển, lẽ ra hỷ lạc chẳng phải một loại. Tha dẫn chẳng tùy sinh, nên nghĩa thứ hai tất cả là xả. Tại sao địa đồng? Thọ đó tức riêng biệt, hỷ lạc dễ thoát nên hằng chỉ xả thọ, vì định chẳng trái nhau. Theo năng dẫn, nếu năng y của Hữu lậu vị thông chín Địa, sở y thuộc một Địa. Tùy sở sinh, nếu đến Phật vị, năng y thông chín Địa, sở y chỉ là Định thứ tư, cùng tịnh thứ tám y tương tục không lay động, mười Địa vô lậu, năng y sở y chung cùng định đồng Địa, tùy tha dẫn vậy, chưa động. Đây nói phẩm Pháp quán, chẳng phải phẩm Sinh quán, vì vẫn còn Hữu lậu.

Trong Mạt-na trói buộc, hỏi: Sở duyên một Địa trói buộc, năng duyên trói buộc tùy cảnh. Sở duyên chín Địa trói buộc, năng duyên trói buộc thông cả chín, như tổng duyên ngã kiến v.v… ư?

Đáp: Hiện hành làm cảnh hiển, năng duyên tùy nó trói buộc, chủng v.v… cảnh chìm ẩn, năng duyên trói buộc chẳng tùy.

Hỏi: Hiện hành tướng hiển có thể duyên khởi kiến, chủng tử tướng chìm, nên chẳng sinh kiến ư?

Đáp: Cảnh thông ẩn hiển, chủng tử hiện hành chung cùng cảnh, tùy nghĩa trói buộc hiển, chẳng tùy chủng trói buộc.

Lại hỏi: Năng duyên duyên Địa kia, năng sở một Địa trói buộc, cảnh là năng duyên duyên, năng sở chung cùng Vô phú ư?

Đáp: Tánh y cứ loại khác, tánh năng sở riêng biệt. Trói buộc y cứ nghĩa phược, chẳng thể trói buộc riêng.

Hỏi: Thức thứ bảy duyên hiện hành kia, năng sở thuộc một cõi. Thức thứ tám duyên chủng ba cõi, nên tùy ba cõi trói buộc?

Đáp: Thức thứ bảy, thứ tám hỗ tương tăng trưởng, năng sở một cõi trói buộc, tám cảnh chẳng hỗ tương tăng trưởng, kiến cảnh mỗi trói buộc riêng. Lại, Thức thứ tám là nghiệp kia chiêu lại, chẳng tùy cảnh giới trói buộc, Thức thứ bảy chẳng phải chỗ nghiệp cảm, tùy cảnh một Địa trói buộc.

Hỏi: Phiền não trói buộc ba Thừa. Sở chấp gọi là tàng, pháp chấp trói buộc Bồ-tát, sở chấp lập tên tàng ư?

Đáp: Trói buộc có hai: một là trói buộc ở trong sinh tử; hai là trói buộc chẳng được chủng trí. Do đây được tên tàng, chẳng phải là Bồ-tát hằng khởi pháp chấp. Lập lượng là: Pháp chấp, chưa chứng quả vị pháp không nên hằng hành. Hai chấp tùy một nhiếp, như sinh chấp, chỗ lập tông nhân bèn cùng chung có lỗi, như sớ nói mỗi mỗi có hai lỗi. Lại nhân có tự tướng tự pháp trái nhau, vì vô học, Thánh đạo ý là đồng pháp. Đồng phẩm nhất định có thể thành hại đối với tông pháp, nên thành pháp tự tướng trái nhau.

A-la-hán vĩnh viễn đoạn nhiễm trong Mạt-na, chỉ nói tất cánh đoạn nhiễm gọi là xả, chẳng nói tất cánh phục là xả, nên chẳng nói thẳng đến Bồ-tát Bất thoái, cũng xả thứ tám bốn người trái nhau. Do tâm từ cảnh thật cũng nên xả, chủng chẳng phải trọn không, nên lược chẳng nói, kỳ thật cũng xả, thì thuộc môn Thánh đạo xả, nên chẳng nói. Lại, Địa thứ tám trở đi, pháp chấp vẫn còn, Mạt-na chẳng được tên xả. Lại-da y cứ phiền não mà được tên. Địa thứ tám v.v… gọi là xả, chẳng trái nhau.

Bồ-tát Hộ Pháp lập Mạt-na trong tranh cãi thông pháp chấp, có mười đoạn:

  1. Lỗi trái với kinh.
  2. Lỗi trái với lượng.
  3. Lỗi trái với Du-già.
  4. Lỗi trái với Hiển Dương.
  5. Lỗi Thức thứ bảy, thứ tám so sánh nhau.
  6. Lỗi bốn trí chẳng ngang bằng.
  7. Lỗi Thức thứ tám không có y.
  8. Lỗi hai chấp chẳng đều.
  9. Lỗi Thức thứ năm, thứ sáu chẳng đồng.
  10. Tổng kết hợp.

Hoặc tổng phân ba đoạn:

  1. Lập lý dẫn chứng.
  2. Tổng kết.
  3. Tổng hợp trái ngược.

Trong phần thứ nhất có chín đoạn, tức chín đoạn trước, cho nên nhất định có kết sau. Nói kia không là sau hợp trái ngược.

Trong ba Sai biệt, lấy tâm đối cảnh, cảnh có ba vị, đó là ngã ái chấp tàng v.v… tâm lẽ ra cũng có ba:

  1. Bổ-đặc-già-la chấp vị, gọi là nhiễm Mạt-na.
  2. Pháp chấp vị, gọi là chẳng nhiễm Mạt-na.
  3. Tư lương vị, chỉ gọi là Mạt-na, cùng ba cảnh trước tương ưng chẳng rộng chẳng hẹp.

Nay, phần thứ ba nói Bình đẳng trí, không nói tư lương vị là nay hiển Thức thứ bảy có hai vị riêng biệt: một là Hữu lậu, hai là Vô lậu. Vô lậu không riêng biệt. Trong Hữu lậu vị có nhiễm và chẳng nhiễm. Lại phân làm ba. Lại ba vị trước, tâm cảnh tuy tương ưng mà vô cấu trong cảnh chẳng riêng hiển rõ. Nay đối cảnh kia, tuy rộng hẹp chẳng đồng nghĩa Vô lậu v.v… nên nói bình đẳng mà không nói là Mạt-na, căn cứ tên gọi bản thức lẽ ra cũng có bốn. Đây thêm tư lương, đối lại với chấp trì kia. Kia nếu chỉ nói hai tên Dị thục và Vô cấu, đây chỉ gọi là Vô phú, Bình đẳng trí; kia chỉ gọi là Chấp trì, đây cũng chỉ gọi là Mạt-na, vì chung cùng nhiễm tịnh, nay đây nói riêng biệt nên có ba tên.

Kiến đạo toàn sinh bình đẳng trí là trong sớ chỉ có một tâm Kiến đạo giải thích, bày ba tâm Kiến đạo, hai tâm sau có trí đây, trước một tâm không có, vì nhiều phần có. Chỗ luận tổng nói chẳng phải trong đó chỉ khởi Bình đẳng trí. Lại, đọc dài luận văn Kiến đạo pháp không trí khởi, mới có bình đẳng trí, không chỉ có Tu đạo.

Hỏi: Như có Bồ-tát vô phân biệt trí vào pháp quán, ý lạc, tức vào Hậu đắc trí pháp quán ư?

Đáp: Chẳng được. Bồ-tát Hậu đắc hẳn do Phân biệt trí làm dẫn trước. Luận Phật Địa ghi: “Quán của Đẳng lưu cùng căn bản quán đồng”.

Hỏi: Nếu vậy, tại sao nói xa Đẳng lưu tức được, gần tức chẳng được?

Đáp: Thế gần khó vào, xa thì dễ vào. Lại giải thích tổng không có Hậu đắc vào Biệt quán, hẳn mỗi mỗi lại khởi Vô phân biệt trí dẫn nó sinh.

Hỏi: Trước khởi chưa tự tại, sau được do trước dẫn, lâu khởi tự tại sinh, ngại gì sức tự chuyển?

Đáp: Tức y nghĩa đây, bèn có ý lạc, hậu đắc, chẳng đồng Vô phân biệt trí, hai quán riêng biệt. Luận Phật Địa và luận này căn cứ đa phần đó và chưa tự tại.

Bình đẳng tánh trí không có phân biệt, Diệu quán trí dẫn tức duyên Chân như. Nếu Diệu quán trí tướng Kiến đạo dẫn bình đẳng trí, tức duyên tướng tợ Chân như. Diệu quán vào sinh không, tự chẳng thành bình đẳng, chỉ duyên Thức thứ tám, tướng đây có thể biết. Nếu Thức thứ sáu vào vị pháp quán, lắng nghe chánh pháp v.v… vào riêng du quán tâm, Bình đẳng tánh trí duyên cảnh giới nào? Chẳng thể duyên Chân như và duyên Thức thứ tám, thứ sáu vì chẳng phải hạnh đây. Nếu duyên duyên bên ngoài lắng nghe chánh pháp v.v… và duyên ba nẻo ác v.v… là trong nhân đã có hành tướng đây ư? Nếu nó chẳng duyên, tại sao duyên tợ Chân như v.v…? Tức thừa nhận tha dẫn, đây chẳng thừa nhận tùy tha dẫn ư?

Trong sở tri chướng, buông bất thiện chẳng ngăn che, Nhị thừa gọi là Vô phú, chướng Bồ-tát gọi là Hữu phú. Lại giải thích trong tâm bất thiện cũng chỉ có Vô ký, chẳng trái với phiền não chướng.

Hỏi: Trí chướng chẳng chướng ở Nhị thừa tức gọi là Vô phú. Hoặc chướng chẳng chướng Bồ-tát nên gọi là Vô phú ư?

Đáp: Thanh văn chỉ cầu một quả, trí chướng nên gọi là Vô phú. Bồ-tát cầu cả hai quả. Hoặc chướng nên chẳng phải Vô phú.

Hỏi: Trí chướng chướng Bồ-tát, tức chỉ gọi là Hữu phú, hoặc chướng ba Thừa, nên chẳng phải là bất thiện ư?

Đáp: Trí chướng chỉ chướng chân kiến, chỉ gọi là Hữu phú. Hoặc chướng khiến ở sinh tử, nên thông bất thiện, lại vì tổn tự tổn tha.

Luận Du-già quyển 16 dẫn kinh ghi: “Ý nhiễm ô luôn luôn cùng các hoặc sinh diệt, nếu giải thoát các hoặc, chẳng phải trước cũng chẳng phải sau”. Luận kia tự giải thích rằng: “Chẳng phải trước là cùng các phiền não luôn chung cùng sinh. Chẳng phải sau tức cùng hoặc kia chung cùng thời diệt”.

Bất cộng vô minh có hai: một là cùng căn bản chung cùng hằng hành tất cả phần, chỗ các thức khác không gọi là bất cộng; hai là chẳng chung cùng với căn bản, gọi là bất cộng. Nhưng lại có hai:

1. Cùng tiểu, trung, đại tùy phiền não chung cùng, chẳng cùng căn bản hoặc chung cùng, gọi là bất cộng.

2. Chẳng cùng tiểu tùy hoặc và căn bản chung cùng, cùng trung đại tùy chung cùng, gọi là bất cộng.

Tùy chỗ ứng đó, hai loại sau cũng thông cõi trên, nhưng cùng tương ưng nhiều nhỏ cõi trên dưới riêng biệt, nhưng phân làm ba câu:

  1. Chỉ kiến đoạn, nghĩa là riêng hành bốn đế.
  2. Chỉ tu đoạn, nghĩa là Thức thứ bảy.
  3. Thông cả kiến tu, nghĩa là phẩn v.v… tương ưng.

Trong vặn hỏi thứ ba, đã diệt y đây giả lập tên ý, tại sao chẳng y hiện hành gọi là tâm thức, chỉ tợ ý ư? Ý có hai nghĩa: một là y chỉ, hai là tư lương, đủ cả mười bốn nghĩa, ngoài ra chỉ là y chỉ, quá khứ y chỉ tợ Thức thứ bảy. Tư lương cũng tợ Thức thứ bảy gọi là ý, chẳng tợ tâm thức, gọi là tâm thức.

Hỏi: Đã diệt làm y v.v… tư lương cũng gọi là tợ. Thức thứ sáu, thứ tám hiện hành làm y, tợ Thức thứ bảy có tư lương, nên đều được gọi là ý, căn cứ thật các thức khác đều được tên ý. Đã diệt tợ hiện hành Thức thứ bảy, chỉ nói đó là ý.

Mạt-na là gốc của thức trói buộc, nay quán ý đây, nếu duyên trói buộc thể chỉ căn cứ phiền não chướng, nếu tướng trói buộc thể, căn cứ pháp chấp nói, nên diệt rồi đây tướng trói buộc giải thích thoát. Đây nếu có lúc khởi nên bố thí v.v… chẳng thể mất tướng, nếu y phiền não nói có tướng trói buộc, thân A-la-hán nên không có tướng trói buộc, vì y duyên trói buộc, gọi là lúc tàng, không thời gọi là xả tàng, chẳng gọi là xả tướng trói buộc, lúc không pháp chấp, gọi là xả tướng trói buộc.

Nếu vậy, sinh không trí cùng pháp chấp chung cùng, nên gọi là tướng trói buộc. Do vậy, tổng hiển tương ưng trói buộc của sở duyên, cả ba Thừa đoạn. Tướng trói buộc là chỉ Bồ-tát đoạn, nếu do pháp chấp, tức Nhị thừa sinh không quán lẽ ra cũng có tướng trói buộc. Lại, luận chỉ nói nhiễm ô Mạt-na là thức y chỉ, lúc nó chưa diệt cùng liễu biệt trói buộc chẳng được giải thích thoát, nên chỉ do sinh chấp thành liễu biệt trói buộc. Cho nên, chỉ như trong sớ giải thích. Do có Mạt-na nên bố thí v.v… chẳng mất tướng, tức chẳng phải trong bảy nghĩa chỗ vô tướng trí nhiếp thọ, tại sao trước Kiến đạo và Địa thượng Hữu lậu bố thí v.v… thành bố thí v.v… ư? Nay hiển khác Vô lậu, tướng đó chẳng mất, chỗ vô tướng trí đó nhiếp thọ, nghĩa là không chấp trong Thức thứ sáu gọi là vô tướng trí, chẳng phải Thức thứ bảy chấp. Nếu chẳng như vậy sẽ không có nghĩa Ba-la-mật. Lại, tướng trói buộc kiến gọi là tướng phược, kiến trói buộc tướng gọi là kiến phược. Kiến chẳng minh chứng, chẳng tự tại, nên do tướng phược. Tướng không có thể chứng lực tự tại, làm sao nói kiến trói buộc ở tướng? Nếu chẳng như vậy, tại sao sở thủ năng thủ trói buộc? Văn sau nói tuy do phiền não dẫn nghiệp bố thí v.v… mà chẳng cùng chung khởi, chẳng phải chánh nhân Hữu lậu, tức hiển duyên trói buộc v.v… chẳng phải chánh thể Hữu lậu. Quyển 65 ghi: “Chỗ hiện lượng hiện hành có duyên trói buộc, sắc thanh tịnh đó chẳng tương ưng thiện và một phần Vô ký tâm tâm sở, chẳng phải có duyên trói buộc, chỉ do tùy miên gọi là Hữu lậu. Cùng phiền não chủng chung cùng là đây y cứ nghĩa riêng biệt, cũng chẳng trái nhau v.v… rộng nói rất tinh, nên lấy kia hợp, tức hiển năm cảnh có chỗ duyên trói buộc, ngoài ra, căn tâm v.v… tức không nghĩa đó, chỉ hiển cùng đây bày Hữu lậu chung cùng, nói là tương thuận, nhưng cùng năm mươi chín đoạn hai phược nghĩa trái nhau. Do đây, chỗ duyên trói buộc có hai: một là thân gần tức chỉ chỗ hiện lượng hiện hành; hai là thưa xa tức tịnh sắc v.v…

Tâm cảnh triển chuyển hỗ tương tăng thêm. Nói tịnh sắc, thiện tâm, một phần Vô ký v.v… chẳng phải có chỗ duyên trói buộc là căn cứ Tướng phần thân gần, nên phàn sau luận này nói Thức thứ tám v.v… nói hai phược đoạn là y cứ nghĩa sơ mà nói. Nếu chẳng như vậy liền cùng hai luận trái nhau. Lại xét hòa hợp, đã nói tuy do phiền não dẫn nghiệp bố thí v.v… mà chẳng phải chánh nhân, ngã năng hành bố thí, rõ chỉ tướng phược, chẳng phải Hữu lậu nhân, như đoạn duyên trói buộc. Tuy đoạn Kiến đạo và Thức thứ tám trước Tu đạo, vì chưa toàn tận, chẳng gọi là đoạn. Hữu lậu nên như vậy, như duyên một sắc, năm thức và ý hai chỗ duyên trói buộc và vì Thức thứ bảy cùng lậu chung cùng, nên cần phải đến Kim cương mới có thể đoạn tận. Đây như chỗ đoạn của phẩm đầu Tu đạo tuy cũng là tám phẩm hoặc sau trói buộc, nhưng được gọi là đoạn, vì tự lực mạnh. Hữu lậu cũng vậy, duyên trói buộc tương ưng hai lực, tăng thượng nên nói chưa đoạn, Thức thứ bảy cũng gọi là đoạn. Nếu vậy, tại sao hai Thức trước đã thù thắng, tại sao chẳng làm chánh nhân Hữu lậu mà lấy lậu chung cùng, hoặc lại trói buộc căn cứ hai trói buộc? Hữu lậu căn cứ lậu chung cùng, đoạn y cứ hai trói buộc, nên có thể nói đoạn, chẳng đứng về lậu chung cùng nói đoạn, cũng chẳng trái nhau. Chủng tử Pháp nhĩ từ vô thỉ chẳng từng hiện khởi chung cùng với Thức thứ bảy, tại sao được thành Hữu lậu? Chẳng cần hiện hành cùng hoặc Thức thứ bảy chung cùng mới gọi là Hữu lậu. Hoặc chủng tử hoặc hiện hành từ vô thỉ đều cùng, hoặc Thức thứ bảy chung cùng, hỗ tương tăng ích, cùng tùy thuận vậy, đều thành Hữu lậu, chẳng phải Vô lậu chủng cũng hay tương thuận. Lại nói Pháp nhĩ chẳng cần Thức thứ bảy chung cùng, chẳng phải Pháp nhĩ là hẳn chung cùng tăng ích, nhưng nghĩa của Hữu lậu, Vô lậu trong quyển 65 như quyển 8 sau giải thích.

Tùy cảnh lập danh, y năm sắc căn chưa tự tại v.v…, hỏi: Một cảnh nhiều thức nắm lấy, quả vị chỉ tùy căn, một căn nắm lấy nhiều cảnh, chẳng thể xứng hợp tùy căn ư?

Đáp: Một thức cảnh thành nhiều, chẳng thể xứng hợp tùy cảnh, sở y căn chỉ một, tùy căn lập tên thức, nghĩa này rất khó nên tư duy.

Các căn hỗ dụng có hai thuyết khác nhau. Sư thứ nhất giải thích: thật năng duyên các cảnh, trong đó có hai nghĩa: một nghĩa nói mỗi mỗi thức thể chuyển dụng thành nhiều, chẳng phải chuyển pháp thể, nên chẳng phải thọ v.v… cũng thành tưởng v.v… dụng của thủ chấp ảnh tượng, tất cả không ngăn ngại, chẳng thể vặn hỏi lấy đại chủng làm tạo, vì đây là thể chuyển của nó, như Thức thứ tám duyên năm trần, cũng được tự tại, chẳng thể vặn hỏi hoại căn chẳng hoại cảnh v.v… Nghĩa thứ hai giải thích sợ hoại pháp tướng, chỉ chọn lấy tự cảnh đều là thật cảnh, chỗ chọn lấy cảnh khác đều là giả cảnh, vì dụng của thức rộng lớn chẳng phải được các tự tướng khác. Sợ nhãn nhĩ căn lúc được ba trần, nếu đến năng thủ hoại căn chẳng hoại cảnh nếu chẳng đến năng thủ, hoại cảnh chẳng hoại căn, ngoài ra, ba căn thủ sắc thanh cũng vậy, đều có lỗi này. Sư thứ hai giải thích: mỗi mỗi căn xứ khắp có các căn, mỗi mỗi tự khởi dụng, chẳng phải do một căn được tất cả cảnh, vì dụng của các căn có khắp tất cả nên gọi là hỗ dụng. Nếu không như vậy bèn thành hoại pháp tướng. Tâm vương lẽ ra cũng có tâm sở dụng, mà chọn lấy tướng riêng biệt v.v…

Sở y, kệ tụng ghi: “Năm bốn sáu có hai, bảy tám một câu y, và khai đạo nhân duyên, mỗi mỗi đều tăng hai”. Năm, bốn là năm thức mỗi thức có bốn y: một là thuận thủ y, hai là minh liễu y, ba là phần vị ý, bốn là y khởi y. Sáu có hai là ý thức có hai sở y: một là phần vị, hai là y khởi. Bảy tám một là hai Thức thứ bảy và thứ tám mỗi thức có một y. Bảy có một, đó là y khởi. Tám có một đó là phần vị. Câu y là hiển chỗ trên nói rõ thuộc về Câu hữu y. Khai đạo tức là Đẳng vô gián y, nhân duyên tức là chủng tử y và là nói các thức đây lại thêm hai y. Mỗi mỗi đều tăng hai đó là năm thức có sáu, Thức thứ sáu có bốn, Thức thứ bảy và thứ tám mỗi thức có ba, như quyển 4 trước giải thích.

Sở duyên, kệ tụng ghi: “Nhân kiến mỗi tùy ứng, năm ba sáu có hai, sáu mỗi mỗi chẳng định, tự tại thảy phân biệt”. Nhân là chọn lựa tự tại vị. Kiến là ở trong nhân chọn lấy Kiến phần trừ Tự chứng phần. Mỗi mỗi là hiển nghĩa riêng biệt. Tùy ứng là hiển thức năng duyên chẳng phải quyết định, tùy chỗ đó ứng thức duyên các pháp. Năm, ba là sắc v.v… năm giới chỗ ba thức duyên. Một là năm thức, hai là Thức thứ sáu, ba là Thức thứ tám. Thức thứ tám thuộc về ý giới. Sáu có hai là đó là nhãn v.v… năm giới, chỗ hai Thức thứ sáu và thứ tám chọn lấy. Ý giới cùng làm thể, thức thứ sáu thứ bảy chọn lấy. Luận Du-già v.v… ghi: “Thức thứ bảy thứ tám thuộc về ý giới”. Sáu một là đó là nhãn v.v… sáu thức giới chỉ một ý thức duyên. Thức thứ bảy thứ tám chẳng gọi là ý thức giới. Một chẳng định tức là pháp giới. Nếu chẳng phải chỗ dẫn của lực tha định, thần thông v.v… chỉ ý thức duyên. Nếu là tha dẫn năm thức, Thức thứ tám, thứ sáu chung cùng năng dẫn đó. Trong đó lại có Dị sinh, Nhị thừa, Bồ-tát là sở dẫn, mỗi mỗi có sai biệt. Tự tại phân biệt đó là hoặc Sơ địa hoặc Địa thứ tám, Như Lai vị mỗi vị có sai biệt, mỗi vị là tám thức khác duyên. Thảy phân biệt đó là nếu pháp giới tâm sở trong nhân đều là Tự chứng phần, chứng Tự chứng phần, ở trong bảy tâm giới, xứ xứ thêm bản thân nó và mười tám giới trong quả là chỗ bảy tâm giới và pháp giới biết rõ, như lý nên biết. Ba nghiệp hóa là, thân hóa có ba:

1. Hiện thần thông hóa, nghĩa là hiện các thứ công xảo v.v… dẹp phục các chúng sinh kiêu mạn, tức là bi, tuệ, bình đẳng vận đạo, như hiện thần thông độ Ca-diếp v.v…

2. Hiện thọ sinh hóa, nghĩa là đến xứ kia thị hiện đồng loại nhưng ở vị tôn quý nhiếp phục tất cả chúng sinh khác loại.

3. Hiện nghiệp quả hóa, nghĩa là thị hiện lãnh thọ bản sự bản sinh các hạnh khó tu, như Tỳ-thấp-phạn-đát-la v.v… tất cả bản sinh sự gọi là bản sinh sự, y bản sinh này, các thứ khổ hạnh trước đây tu hành, gọi là hạnh khó tu.

Hoặc ở đời nay nương thân biến hóa, trước tu khổ hạnh, sau xả hạnh kia, ở nơi tu hạnh mới được Bồ-đề, gọi là hạnh khó tu. Như nói Đức Như Lai ở đời Phật Ca-diếp nói lời trách mắng: Sa-môn xứ nào cạo bỏ râu tóc có đại Bồ-đề, Bồ-đề Vô thượng rất khó được, do ác nghiệp ấy, nay chịu quả khổ. Đây là ngăn hành ác hạnh, thị hiện tạo tác để giáo hóa.

Ngữ hóa cũng có ba:

1. Dùng lời tốt đẹp an ủi để giáo hóa, nghĩa là tuyên dương các thứ văn nghĩa khéo hay, tùy vui thích chúng sinh tiểu trí mới nghe sẽ tin.

2. Dùng lời phương tiện để giáo hóa, nghĩa là tập học xứ, hủy phá các phóng dật, tán thán chẳng phóng dật. Lại còn kiến lập tùy người tin hiểu, tùy pháp hạnh v.v…

3. Dùng lời luận bàn xiển dương để giáo hóa, nghĩa là đoạn vô lượng nghi hoặc của chúng sinh.

Ý hóa có bốn:

1. Quyết trạch có hóa, nghĩa là chọn lựa tám vạn bốn ngàn hạnh sai biệt kia, như trong sớ giải thích, trong kinh Hiền Kiếp quyển 2 ghi: “Bồ-tát Hỷ Vương ngồi yên tư duy” v.v…

2. Tạo tác ý hóa, nghĩa là quán hạnh mà chúng sinh hành, hành và chẳng hành, hoặc được hoặc mất, vì khiến thủ xả tạo tác đối trị.

3. Phát khởi ý hóa, nghĩa là vì muốn nói đối trị, hiển bày danh, cú, tự thân mà họ vui thích.

4. Lãnh thọ ý hóa, tức nương vào bốn thọ ký. Bốn thọ ký có hai: một là bốn thọ ký của nhân; hai là bốn thọ ký của pháp, như Biệt sao giải thích.

Từ định khởi, Du-già sao giải thích:

  1. Khởi nhĩ thức gọi là khởi.
  2. Khởi định tâm cùng Nhĩ thức duyên tiếng gọi là khởi.
  3. Xuất định, gọi là khởi.

Khởi đầu nối tiếp vị trước, rộng như kinh luận Phật Địa quyển 6 giải thích.

Bồ-tát khởi năm thức trong Hậu trí cũng đẳng dẫn vị khởi, Tạp Tập nói căn cứ Nhị thừa thiếu, Dị sinh toàn vẹn.

Hằng y tâm khởi v.v… giải thích tâm sở cần đủ ba nghĩa, gọi là tâm sở, không chỗ chọn lựa riêng biệt, ngoài ra như Sớ giải thích.

Tưởng chung riêng của tâm, tâm sở, nên nói Vô vi duyên đồng, Hữu vi duyên riêng. Trong Hữu vi duyên có bản chất duyểngiêng, không bản chất cảnh cũng riêng. Tướng là nghĩa, chẳng phải thể chẳng phải tướng.

Từ căn gọi là ý và đó gọi là thọ, mới gọi là tâm thọ. Nay giải thích gọi căn cứ cận y nên gọi là ý thức. Thọ đối nơi sắc nên nêu tên tâm. Nếu lúc chẳng đối, có thể gọi là ý thọ, nhưng không có văn này. Hai Thức thứ bảy, thứ tám đó vì đối thân nên có thể gọi là tâm thọ. Lại, thọ từ tâm tương ưng gọi là tâm. Thức thứ sáu chung cùng theo sở y nên Thức thứ bảy gọi là ý. Tâm thông Thức thứ sáu, bảy, tám.

Năm thức mặc tình tham si là Vô ký, hãy xem trong kinh Duyên Khởi.

Năm thọ chia làm hai, đó là thân và tâm. Văn luận chỉ lấy riêng nghĩa duy để giải thích, như Đối Pháp sao quyển 1 giải thích. Tại sao Thức thứ sáu gọi là thức? Trong ba thọ, tại sao chỉ nói khổ lạc mà không nêu ưu hỷ? Vì khổ đối lạc chung cùng thông ba tánh, vì ưu đối hỷ, lý thì chẳng như vậy, vì rộng nhiếp hẹp chỉ gọi là khổ lạc. Lại, khổ và lạc hành tướng mạnh nhanh, vì sáng nhiếp tối, ưu hỷ chẳng đồng. Lại, khổ và lạc đều là Dị thục, đều có Dị thục. Ưu đó và hỷ chẳng thể đầy đủ. Lại, quả nhân đủ nhiếp chẳng đủ. Lại có giải thích khác: vì khổ đối lạc chung cùng thông sáu thức, vì ưu đối hỷ chỉ tại trong ý. Lại, nói khổ, lạc chán thích hành tăng, ưu hỷ chẳng như vậy, nên nêu khổ lạc. Lại, khổ đối lạc chung cùng thông vô học vì ưu đối hỷ, lìa dục bèn trừ, nên nói khổ lạc. Lại, vì khổ đối lạc chung cùng Địa thượng xả, vì ưa đối hỷ đều Địa hạ trước trừ nên nói là khổ lạc.

Ba thọ chia làm hai, nghĩa là thân và tâm, văn luận chỉ lấy riêng duy để giải thích đó, y năm căn thọ, tùy căn mỗi riêng biệt, do đâu tổng lấy thân thọ làm danh?

Đáp: Do năm căn này thể đều là sắc.

Hỏi: Nếu vậy, nhãn v.v… nên đều gọi là thân chăng?

Đáp: Tự thể sinh thức, tướng trạng khác.

Hỏi: Nếu do tướng khác chẳng đều gọi là thân, tùy riêng thọ sinh, nên chẳng phải thân thọ ư?

Đáp: Do nhãn v.v… bốn thứ chẳng lìa thân, đều từ sở y, nên gọi chung là thân thọ.

Hỏi: Ý căn cũng vậy, nếu chẳng lìa thân đều nên gọi là thân chẳng gọi là tâm thọ ư?

Đáp: Hai giới nhãn v.v… đều chẳng lìa thân. Vô sắc, ý căn lìa sắc mà chuyển, làm sao kiến lập thân thọ chẳng phải tâm. Thể tướng đã khác, nên phân hai thứ.

Hỏi: Trong luận những gì chẳng thông tất cả thức thân thì ý địa tất cả căn tương ưng, đã nói là căn, tại sao chứng ý có khổ căn?

Đáp: Trước nói Câu sinh tất cả phiền não đều ở ba thọ hiện hành có thể được, nên biết căn tức là khổ căn. Ưu căn định chẳng phải tánh Vô ký. Lại, nêu ưu căn tuy thông và đều cùng, chỉ có thân kiến thì không như vậy. Nên trong địa ngục ý có khổ căn, mà cùng câu, nên thuộc về năm căn. Ưu tuy không thật chứng, nay dùng lý giải thích nói ưu thông Vô ký, rốt cùng có lỗi gì? Hối ắt ưu chung cùng, nó đã Vô ký, đâu ngại gì định. Luận Du-già nói chẳng phải Vô ký là tùy chuyển lý. Do hai giải thích đây hỗ tương có ngắn dài, mặc tình thủ xả, nghĩa ba tánh ba thọ câu và chẳng câu, xem Du-già sao quyển 51.

Địa ngục tám căn, hiện hành, chủng tử, định chung cùng thành tựu, mạng căn đã là chủng tử, làm sao thành hiện hành?

Đáp: Một tổng nói tám gọi là thành, đâu cần mạng có hiện hành, chủng tử trong thức có thể là mạng thể gọi là chủng. Hiện hành năng làm căn gọi là hiện. Lại, thể là chủng tử, dụng là căn gọi là hiện hành. Lại, năng trì gọi là chủng tử, sở trì gọi là hiện hành.

Hỏi: Tại sao định thứ ba, cận phần, căn bản đồng là lạc căn, trong hai định trước có hỷ có lạc, phương tiện chỉ có hỷ mà không có lạc, chẳng đồng thứ ba, cả hai cùng chung tương tợ ư?

Đáp: Ba định chung cùng rất trùng không phân biệt. Bản, nhân, chung cùng là lạc. Phương tiện thứ nhất và thứ hai không có hỷ căn, chỉ đồng căn bản mà nói có hỷ.

Hỏi: Ba định phương tiện dẫn căn bản, tức là nói hai Địa chung cùng hỷ ưu thắng đồng lạc. Hạ địa phương tiện dẫn căn bản, cũng nên chung cùng gọi là hỷ năm căn?

Đáp: Phương tiện, căn bản, hỷ sai biệt, ba định không khác. Phương tiện, căn bản cùng chung gọi là lạc, phương tiện hạ Địa căn bản có sai biệt, cùng chung có sai biệt đều gọi là hỷ, trong hai định căn bản sau chẳng do vô phân biệt nên gọi là lạc, chỉ vì hỷ căn gọi là lạc.

Hỏi: Lẽ ra định thứ ba chẳng do vô phân biệt, hỷ tâm gọi là hỷ?

Đáp: Dưới có phân biệt hỷ căn gọi là lạc, trên không phân biệt hỷ tâm gọi là lạc, nghĩa này nên tư duy.

Hỏi: Như khổ cùng cực nên ý có khổ căn, căn của địa ngục xoay thọ trong người, như kinh Hiền Ngu quyển 12 ghi: “Ương-quật-ma-la đắc quả A-la-hán trong cõi người rồi bị lửa đốt giết”, vậy căn rất khổ ấy có trong cõi người không? Có giải thích trong địa ngục, cõi người chỉ thọ bốn xứ hoặc năm xứ, chẳng thọ quả sáu thức. Mười Chứng trong Duy thức ghi: “Nghiệp quả trong ý, tuy khởi không tạp mà có gián đoạn, tức nói chẳng ở các nẻo khác thọ, theo văn này chỉ xoay thọ quả bốn xứ hoặc năm xứ. Năm căn sáu thức đều chẳng được. Lại giải thích, luận căn cứ chẳng phải sám hối và vào Thánh là thú sinh không tạp, vì từ nhiều phần. Chẳng phải xoay thọ là, nên sáu thức đều có thể thông xoay thọ, vì trong sáu thức đều thọ khổ.

Hỏi: Luận sư Hộ Pháp nói ưu, khổ, chủng tử là đồng hay là khác?

Đáp: Nếu vậy thì chẳng có lỗi.

Hỏi: Nếu nói đồng, tại sao địa ngục khổ căn cũng chẳng gọi là ưu? Nếu khác, tại sao hai định đầu gọi hỷ lạc. Địa ngục ưu khổ chẳng thừa nhận hai tên. Nếu một khổ căn cũng gọi là ưu, ba căn chẳng thành lại là tự hại, thì căn thứ ba tức là ưu căn chẳng thành?

Đáp: Nay chủng tử hai căn ưu khổ nhất định khác, cùng chung hành bức bách, do không phân biệt có phân biệt. Hai căn hỷ lạc, hoặc đồng hoặc khác, như Vô phân biệt trí và hậu sở đắc, Địa thứ tư trở về trước mỗi do chủng riêng sinh. Địa thứ năm trở lên hoặc đồng hoặc khác. Hai chủng tử sinh một hiện hành, một chủng tử sinh hai năng cũng không có lỗi. Bên trong của hiện hành không có hai tuệ, hành chẳng trái nhau, một niệm cùng chung nói, hỷ lạc cũng vậy, nên chẳng đồng ưu khổ.

Hỏi: Luận sư An Tuệ nói ưu khổ chủng tử cũng vậy, tại sao địa

ngục ưu căn cũng chẳng gọi là khổ, như hỷ hai định sau? Tại sao khổ cực chẳng gọi là khổ như lạc định thứ ba?

Đáp: Ưu khổ hành tăng, cả hai chẳng chung cùng, hỷ lạc chẳng trái ngược nên một niệm sinh.

Hỏi: Tại sao đẳng thuận khác với trái ngược?

Đáp: Khổ cực chẳng phải ý. Trái ngược ở thuận, lạc cực tại tâm, do có phân biệt không phân biệt. Sư đây cho là địa ngục thừa nhận khởi phân biệt phiền não. Sư trước chẳng như vậy. Nghĩa này tư duy, rất khó giải thích.

Thiện v.v… ba tánh, sáu thức là nhân xa khởi, sát-na đều khởi phân biệt. Bốn Vô ký v.v… mấy thứ có ba nghiệp? Dị thục tâm v.v… năng phát nghiệp không? Chẳng phải nghiệp quả tâm định được phát nghiệp và tùy chuyển. Nghiệp quả là tuy chưa thấy văn nhưng lý thật khó, phán các thứ khác là được. Mới đầu khởi khổ lạc thọ đó, như thiện và bất thiện cùng khó vậy, hẳn do tâm nhiễm tịnh dẫn mới tùy Đẳng lưu. Lìa dục khổ căn đã không có ưu dẫn, tại sao mới đầu khởi tánh thiện ác bức vặn hỏi. Mới đầu sinh tánh tùy ý, khổ lạc chẳng phải tánh riêng biệt, xả dẫn tức tùy sinh.

Giải thích trong dục, sư thứ nhất nói có thể nhàm chán sự tức không có dục. Vô lậu tâm đó có lúc không có dục. Vô lậu thứ bảy duyên nhân thứ tám cũng nên không có dục. Lý đây chẳng phải trái ngược. Sư thứ hai cho rằng nếu có cầu mong tư cụ, những vật mong muốn như lúa thóc v.v… há không có dục ư? Nên đều chẳng đúng.

**********

Nhẫn, lạc, dục riêng biệt trong tín, ở trong ba cảnh, tùy nghĩa tăng nói. Hai loại sau chỉ là thiện, cũng chỉ là lạc dục làm tên, loại trước thông nhiễm tịnh, nên nêu tên nhẫn, kỳ thật ở Diệt đạo cũng lạc dục vậy, ở hai loại sau cũng có thể có nhẫn. Trong hữu năng, nghĩa là ở tất cả thiện thế gian và xuất thế gian, tin sâu có lực năng được năng thành. Đối Pháp chỉ nói, nghĩa là ngã có lực năng được năng thành. Nếu theo giải thích đây, tin hai thiện đó tức được Vô vi năng thành giác giả, tức tin thật có, tin có dụng. Hoặc tin đức nhiếp, nhiếp trong pháp. Nay lại giải thích tin hai thiện đây năng đắc Niết-bàn, năng thành Đại giác v.v… là tin có năng, có công năng.

Mặc giáp gia hạnh v.v… luận đã tự giải thích. Có thế lực v.v… không có văn giải thích. Thế nghĩa là uy thế, cần nghĩa là sách tấn. Dõng nghĩa là dõng mãnh. Kiên mãnh nghĩa là tiến vững chắc. Chẳng xả thiện ách nghĩa là trọn chẳng lùi chẳng ngừng. Thiện pháp lập ít, nhiễm pháp lập nhiều là nhiễm pháp từng huân thời gian dài, pháp rộng nên nói nhiều về nó. Thiện pháp khởi thiếu thời ngắn, pháp lược nên ít nói. Nếu tại Phật vị, do nhân rộng nên quả thiện vô biên, muốn khiến người nghe hoan hỷ mong cầu, do đó nói nhiều.

Trong thiện pháp tu đoạn và chẳng đoạn, nên thuật sáu mươi lăm nghĩa của duyên phược, và năm mươi chín nghĩa của hai đoạn, đến quyển 8 sau sẽ rộng phân biệt. Oai nghi, công xảo, biến hóa đã thông thiện tánh, trong thiện đủ bao nhiêu, mỗi mỗi nên tư duy.

Hai mươi câu trong Tát-ca-da-kiến trong quyển 65 chuẩn cứ chấp ngã trước, lược có ba thứ: một là tức uẩn, hai là lìa uẩn, ba là cùng uẩn chẳng tức chẳng lìa. Câu này chỉ là mới đầu tức uẩn chấp, không có hi chấp sau. Lìa uẩn tổng nói mà làm một ngã. Uẩn riêng có ba, như vậy ngã sở có mười lăm câu. Đã nói cùng uẩn chẳng tức chẳng lìa, chẳng thể định nói uẩn là ngã sở, nên không có câu. Nhưng theo Du-già quyển 6 và 64, lìa uẩn có ba:

  1. Dị uẩn trụ tại trong uẩn.
  2. Dị uẩn trụ trong pháp lìa uẩn.
  3. Dị uẩn chẳng phải trụ trong uẩn, chẳng phải trong dị uẩn.

Tất cả uẩn pháp đều chẳng tương ưng. Như vậy ba thứ đều có mười lăm ngã sở, hợp thành bốn mươi lăm câu ngã sở và ngã tổng có bốn mươi tám câu. Nói tướng sở hành, mỗi loại có khởi, xứ, duyên, đó là duyên lịch, y khởi, sở duyên ba nghĩa đều được, nếu duyên xứ là chẳng phải phân biệt xứ, lại có bốn mươi tám, nếu phân biệt là một xứ có ba mươi ba ngã sở, một ngã, hợp thành ba mươi bốn, mười hai lần ba mươi bốn, hợp thành bốn trăm lẻ tám, mươi hai ngã kiến, ba trăm chín mươi sáu ngã sở kiến, mười tám giới v.v… theo đó mà biết.

Du-già quyển 8 nói có bảy đảo, đó là: Tưởng đảo, kiến đảo, tâm đảo và tịnh, ngã, lạc thường. Bốn vọng tưởng phân biệt kia là tưởng đảo. Ở trong sở vọng tưởng phân biệt kia thì nhẫn, dục lạc, kiến lập, chấp trước là kiến đảo. Phiền não ở sở chấp trước tham v.v… gọi là tâm đảo. Phiền não có ba:

1. Đảo căn bản, nghĩa là vô minh.

2. Đảo tự tánh, nghĩa là Tát-ca-da-kiến, một phần biên chấp kiến, kiến, giới thủ và tham.

3. Đảo Đẳng lưu, nghĩa là tà kiến và một phần biến chấp kiến, khuể, mạn và nghi.

Tát-ca-da-kiến là vô ngã ngã đảo. Một phần biên kiến là vô thường thường đảo, kiến thủ là bất tịnh tịnh đảo, giới thủ là ở khổ lạc đảo, tham thông cả hai thứ, vì thông hai đảo tịnh và lạc, như sớ giải thích.

Lại giải thích tùy thuận môn nên thuộc về hai thủ, chẳng nói kiến giới có sở y duyên và hai nghĩa chẳng đủ, chẳng phải thuộc hai thủ. Nếu đơn duyên kiến và câu duyên đồng thời năm uẩn và bạn loại trước sau làm thắng, năng tịnh là kiến thủ. Nếu đơn duyên câu đồng thời và năm uẩn trước sau cùng tất cả pháp làm thắng, năng tịnh, hoặc thắng chẳng phải tịnh, hoặc năng tịnh chẳng phải thắng đều duyên kiến và câu duyên đồng thời năm uẩn làm thắng chẳng phải năng tịnh, làm năng tịnh chẳng phải thắng, đều chẳng phải kiến thủ, giới thủ cũng vậy. Nếu duyên kiến tăng tùy thuận giới kém cũng gọi là kiến thủ, giới tăng tùy thuận kiến kém cũng gọi là giới thủ, nếu duyên hai câu tăng, hành tướng cũng câu tăng là hẳn chẳng phải hai thủ, vì hai thủ chẳng tương ưng, chỉ là pháp chấp nhiễm tuệ, chẳng phải thuộc hai kiến. Hai kiến nhiếp là hẳn tìm cầu sâu, hành tướng riêng thù thắng. Chẳng làm giải thích như trước v.v… bèn trái với đây và văn Du-già. Hai nghĩa chẳng đủ, giả sử hai nghĩa đủ, chẳng phải kiến giới là chẳng phải gọi sở mục, nên chẳng phải hai thủ.

Ba đường ác cực khổ xứ, chẳng tạo qua nghiệp đường ác, không phân biệt hoặc. Có thể tạo nghiệp người trời ư? Đáp: Chẳng chướng ngại, chỉ nói không phân biệt phiền não, chẳng nói không nghiệp trời người. Nếu tự chẳng khởi, chẳng cùng vô minh, làm sao tạo nghiệp trời người? Nên cũng chẳng tạo. Đây luận tổng báo, biệt báo có thể tạo, thiện ác cùng chung được.

Sinh tại địa ngục, khởi bao nhiêu phiền não Vô sắc giới? Chỉ khởi ở sáu hoặc bảy, nghĩa là kiến thủ, mạn, nghi, ái, si và ngã kiến. Hoặc định hoặc sinh chẳng qua đây. Lại có thể khởi giới thủ kia, vì chấp định kia là nhân thù thắng, không khởi tà kiến và biên kiến, văn không đồng Sắc giới có ba mươi hai kiến. Sinh Dục giới khởi Sắc giới định có năm là thân, biên, mạn, ái, nghi, hai thủ trong tán tâm, chẳng biến khởi tướng của tà kiến. Cả hai luận không có nhân cũng là định sau khởi tà kiến kia, chín loại đều chấp nhận khởi, và khởi giới thủ, vì chấp định kia là nhân thù thắng, nhưng không có văn nói sinh Vô sắc giới trừ hạ nhuận sinh ngã, tham, mạn, hai kiến, si, ngoài ra lại chẳng được khởi. Luận kia không có Trung hữu, có thể nói khởi báng v.v…. Sinh Vô sắc giới chỉ khởi hạ Câu sinh, không khởi tướng phân biệt, không có Trung hữu khởi báng.

Đầu quyển 62 nói năm thứ ái duyên thượng, nghĩa là hoặc chứng đắc Đẳng chí, kế chấp làm thanh tịnh, khả hân, khả lạc, khả ái, khả ý, tùy niệm ái vị. Hoặc chưa chứng đắc, hoặc đã chứng đắc, vì sức vị lai ái vị tăng thượng, tấn cầu hân lạc mà sinh ái vị. Hoặc đã chứng đắc tính chấp làm thanh tịnh, khả hân, cho đến rộng nói hiện hành ái vị. Nếu từ định ra có thể sinh ái vị. Nếu chánh tại định không có ái vị. Ái vị là ở trong đó sinh khắp tham trước, văn sau nói hai thứ, nghĩa là chưa đắc định là có nhiễm ô, đó là mong thượng sinh, sinh ái trước sâu. Chẳng nhiễm ô ái duyên thượng định, đó là mới cầu lìa dục sinh, rộng như quyển 62 giải thích.

Ngã kiến duyên riêng chẳng duyên Địa khác là Tu đạo ngã kiến có hai hành tướng: một là duyên chung được Địa khác, hai là duyên riêng chẳng được.

Kiến đoạn ngã kiến cũng có hai loại: một, kiến là tha ngã thì được; hai, kế chấp là tự nội ngã tức chẳng được. Nay nói chẳng được, tùy nghĩa nên biết.

Hoặc không phân biệt ngã kiến duyên địa khác là Phạm vương đều tức định ngã kiến. Trong trên dưới duyên nhau, Địa dưới duyên Địa trên, hai cõi đều đồng, không có văn ngăn ngại. Trong trên duyên dưới, trong Vô sắc giới không duyên riêng mạn, duyên chung cũng có mạn. Ngoài ra, như trước đều có kiến, giới hai thủ lý nhất định chẳng được, trừ duyên chung hành tướng không có thể riêng.

Tham sân si Câu sinh cùng ba thọ đồng thời, Du-già quyển 55 ghi:

“Câu sinh thông tất cả thức thân, là tương ưng với tất cả căn. Phân biệt đó là luận Du-già nói tham trái duyên với ưu khổ đồng thời, sân gặp cảnh thuận hỷ lạc đồng thời. Nay văn đây thông tất cả, chẳng ngăn ngại Câu sinh phân biệt, cả hai dẫn đều đồng, rộng như luận đó giải thích.

Mạn có hai thứ: một cao cử, hai ty hạ. Cao cử có ba: một là xứng lượng, hai là giải thích liễu, ba là lợi dưỡng. Vì ty hạ mạn cùng ưu tương ưng, cao cử chẳng như vậy, nên chỗ trước nói chẳng cùng Thân thức và một phần A-lại-da đồng thời, đây cùng ưu đồng thời, căn cứ ty hạ nói cũng chẳng trái nhau.

Chánh nghĩa, như địa ngục không có phân biệt phiền não, lẽ ra không có sức nhân đoạn thiện là lúc chết tiếp tục v.v… Giải thích la thế lực chẳng sinh, vì chẳng phải nhân tà kiến. Quyển 59 ghi: “Đối với lợi dưỡng v.v… tha dẫn do dự nghi cùng ưu tương ưng, đối với đường ác v.v… tha dẫn do dự hỷ căn tương ưng, tà kiến trước làm diệu hạnh, ưu căn tương ưng, trước làm ác hạnh, hỷ căn tương ưng, hai thủ tùy cảnh nên bốn thọ đồng thời. Trong quyển 59 chỉ y cứ nghi, tà kiến v.v… ở Dục giới mà nói, đây thông tất cả Địa, nên tương ưng với lạc.

Cần phải được căn bản định phiền não mới khởi, hữu y chưa đến đoạn Dục chín phẩm rồi, chẳng được căn bản mạng chung, người này tại sao hiện hành nhuận sinh? Có giải thích không có điều này, hẳn được mới mạng chung. Như Thức thứ bảy sinh Dự lưu không có mạng chung. Chẳng được ứng quả là tâm được căn bản định mới mạng chung. Có giải thích cũng có như vậy, chỉ vì tùy miên nhuận sinh, như Kiến đế do tùy miên, vì cũng có hiện hành nhuận. Đây lẽ ra cũng như vậy, phục tu chẳng phục kiến, Kiến hoặc đã bất thiện, sao chẳng chiêu cảm đường ác mà sinh cõi trên ư? Nếu do thế lực chẳng hiện hành, sao chẳng gọi là phục? Nay lấy nghĩa giải thích, do thế chẳng hiện hành, chẳng khéo phát nghiệp, giả sử có là nhẹ chẳng phải nặng, chẳng phải quyết định nghiệp, chẳng chiêu cảm Dục giới sinh. Nếu chánh chỗ sáu hành nhàm chán, vì gọi là phục, nếu không như vậy bèn thoái lùi, vì phiền não mạnh, định thế lực kém yếu. Vì không có bạn tu, yếu nên chẳng có thể.

Tất cả hữu sự vô sự phiền não chẳng qua ba thứ:

1. Chỗ các kiến duyên vốn là vô sự, ngoài ra là hữu sự. Nhân đây, hành tướng kiến vốn không có quyết định. Ngoài ra, chẳng nhất định như vậy, như Đối Pháp quyển 7 giải thích.

2. Hành tướng mê sâu vô ngã, gọi là duyên vô sự, ngoài ra gọi là hữu sự. Chỗ gọi là hành tướng cảnh sâu, vì ắt hẳn mê vô ngã, ngoài ra hẳn chẳng nhất định. Quyển 59 ghi: “Kiến, mạn gọi là vô sự. Tham, khuể gọi là hữu sự. Vô minh, nghi thông cả hai thứ”. Đối Pháp quyển 5 đồng giải thích như đây.

3. Chỗ Kiến đạo duyên gọi là duyên vô sự, tu gọi là hữu sự, Kiến đạo các hoặc phân biệt mạnh nhanh vì nhiều hoành chấp, Tu đạo ít. Du- già ghi: “Kiến sở đoạn gọi là duyên vô sự, ngoài ra gọi là hữu sự, trừ duyên hiện tại, Vô vi là pháp hữu thể”. Duyên quá khứ, vị lai các thứ gương ảnh v.v… gọi là duyên gọi là duyên vô sự. Ngoài ra các thứ khác, gọi là duyên hữu sự, vì vốn cảnh có. Đối Pháp ghi: “Chẳng phải có sở duyên, đó là tâm điên đảo, tâm sở và duyên quá khứ vị lai v.v… ngoài ra gọi là duyên hữu sự, bản chất hoặc không, gọi là duyên vô sự, ngoài ra hẳn có, gọi là duyên hữu sự”. Quyển 59 ghi: “Duyên vô sự nghĩa là vô sự phiền não, duyên hữu sự nghĩa là hữu sự phiền não”, cùng Duy thức đồng. Nay quán nghĩa đây, môn thứ nhất và thứ hai gồm:

a- Bản thể có gọi là hữu sự.

b- Không có thể dụng trong không có chất ảnh tượng gọi là vô sự, trong ảnh tượng có quyết định chấp gọi là vô sự. Chỉ năm kiến, chẳng nhất định gọi là hữu sự. Si, ái, mạn tuy cũng có chấp, cì chẳng quyết định. Hai chấp gọi là vô sự, hai chẳng chấp gọi là duyên hữu sự, nên kiến, mạn, ái v.v… đây gọi là vô sự. Ngoài ra gọi là hữu sự.

4. Tương thuộc Kiến đạo gọi là vô sự, Tu đạo gọi là hữu sự, tùy các văn trước căn cứ thật có hai môn hữu sự vô sự tức hết. Một là bản chất, ảnh tượng. Hai là bên trong ảnh tượng có thể không thể, như duyên quá khứ, vị lai v.v… gọi là vô sự. Hiện tại pháp hữu thể và Vô vi gọi là duyên hữu sự. Nhưng trong nghĩa lại phân riêng ba thứ:

a- Quyết định, chẳng quyết định.

b- Chấp, chẳng chấp.

c- Tương thuộc kiến, pháp Tu đạo, tức ba lớp trước trong năm lớp.

Như Đại Luận quyển 11, trong năm Cái, nói hai tướng riêng hôn trầm, thùy miên rất rõ ràng.

Trong Tùy phiền não, siểm, cuống, phú v.v… si phần là cũng chẳng phải sân đồng thời, y cứ nhiều tướng thô mà nói, căn cứ thật cũng đồng thời, như sân nên dối cuống tha dẫn siểm, che giấu tội mình là lý cũng nên như vậy, tướng tế ẩn nên luận lược không nói, ngoài ra giải thích như sớ.

Trong Tùy phiền não, phẩn v.v… tùy sở y, duyên chung riêng hoặc lực đều thông bốn bộ. Hữu y ít Đế duyên nhiều Đế, hữu y nhiều Đế duyên ít Đế, hữu y nhiều duyên nhiều, hữu y ít duyên ít. Hai hành tướng sau có thể biết, hai trước là Đế hoặc nào? Là từ sở y phán phân Đế, là từ sở duyên, đều bất định. Do đây nên nói, sở duyên tức sở y, duyên nghĩa là duyên nhờ, chẳng phải cảnh sở duyên, vì cảnh chẳng định. Có nghĩa sở y tức cảnh sở duyên, vì cảnh sở duyên làm sở y nương tựa, y từ sở duyên phán phân Đế, vì y bất định. Có nghĩa y và duyên riêng biệt, như trong sớ giải thích. Hai câu đầu thế nào? Có giải thích hẳn không có điều này. Có giải thích tùy tăng thuộc Đế, y tăng duyên kém, thân gần dẫn nên thuộc y, duyên tăng y kém thuộc duyên, vì dẫn thưa xa.

Các bản tùy hoặc, bao nhiêu Dị thục sinh, thông oai nghi công xảo? Che giấu tội mình là phú, che giấu kẻ khác là phú là không đúng. Tỳ-kheo ni này che giấu tội thô kẻ khác cũng gọi là phú, Bồ-tát nói tội kẻ khác là tội là phước, ưu não Câu sinh thế lực phục có thể trừ. Thiện và phân biệt phiền não, thế gian lìa dục, tâm nào là của ông? Nên ác tâm đều là phú. Trong đây tạm nói tự che giấu, không có ác tâm đều là thiện, nghĩa là tánh chẳng thực hành sức của thế lực.

 

THÀNH DUY THỨC LUẬN CHƯỞNG TRUNG XU YẾU

QUYỂN HẠ

(PHẦN 2)

 

Y đối với tầm tư có nhiễm và lìa nhiễm, lập ba Địa riêng biệt. Chẳng y chủng tử hiện hành kia khởi có không, nghĩa là Du-già Thích Lược có ba giải thích, nghĩa là có ba Địa căn cứ hai tương ưng trước sau kiến lập, nghĩa là cõi Dục địa và Sơ tĩnh lự thô tâm, tâm sở, trước sau tương tục có thể có tầm tư cùng tương ưng, gọi là Hữu tầm hữu tứ địa. Thô tâm, tâm sở khoảng giữa tĩnh lự trước sau tương tục, định không có tầm, chỉ có thể có tứ cùng tương ưng, gọi là Vô tầm duy tứ địa. Thứ hai, các tâm tâm sở của các Địa từ Tĩnh lự trở lên, trước sau tương tục quyết định chẳng cùng tầm tư tương ưng, gọi là Vô tầm vô tứ địa. Nếu cõi Dục địa và Sơ tĩnh lự, tế tâm tâm sở khoảng giữa tĩnh lự chẳng cùng tầm tứ cùng tương ưng là, tất cả sắc chẳng tương ưng hành, các pháp Vô vi chẳng cùng tầm tứ cùng tương ưng, cũng đều gọi là Vô tầm vô tứ địa, nên luận sau ghi: “Hữu tầm hữu tứ địa, Vô tầm duy tứ địa, thuần la có tâm địa, không có tâm thùy miên, không có tâm muộn tuyệt, vô tưởng định, vô tưởng sinh, diệt tận định, và vô dư y Niết-bàn giới, đều gọi là Vô tâm địa. Có nghĩa ba loại này căn cứ hai lìa dục phần nương kiến lập, nghĩa là cõi Dục địa, và Sơ tĩnh lự, các pháp giả là đối với tầm và tứ đều chưa lìa dục, gọi là Hữu tầm hữu tứ địa. Các pháp giả khoảng giữa tĩnh lự là tầm đã lìa dục, tứ chưa lìa dục, gọi là Vô tầm duy tứ địa.

Thứ hai, các pháp giả của các Địa từ Tĩnh lự trở lên là ở tầm và tứ đều đã lìa dục, gọi là Vô tầm vô tư địa, nếu tại hạ Địa và đã lìa dục cũng được gọi là Vô tầm vô tư địa. Nên Du-già quyển 4 ghi: “Trong đây do lìa tầm tứ dục gọi là Vô tầm vô tứ địa, chẳng do chẳng hiện hành”. Tại sao như vậy? Chưa lìa dục của cõi Dục là do giáo dẫn tác ý sai biệt, ở một thời gian cũng có Vô tầm vô tứ ý hiện hành. Đã lìa tầm tứ dục là cũng có tầm tứ hiện hành, như xuất định kia và sinh địa kia. Như thật nghĩa là ba loại này chỉ căn cứ giới địa kiến lập, nghĩa là cõi Dục địa và Sơ tĩnh lự, các pháp Hữu lậu Vô lậu, ở trong tầm tứ chung cùng có thể được nên gọi là Địa thứ nhất. Các pháp Hữu lậu Vô lậu khoảng giữa tĩnh lự, ở trong không có tầm chỉ có tứ nên gọi là Địa thứ hai. Tĩnh lự thứ hai trở đi, các pháp Hữu lậu Vô lậu của các Địa, ở trong tầm tứ chung cùng không có nên gọi là Địa thứ ba. Nên Du-già quyển 4 ghi: “Trong đây, cõi Dục và Sơ tĩnh lự, hoặc định hoặc sinh, gọi là Hữu tầm hữu tứ địa. Hoặc định hoặc sinh khoảng giữa tĩnh lự, gọi là Vô tầm duy tứ địa”. Tĩnh lự thứ hai trở đi, cõi Sắc cõi Vô sắc hoàn toàn gọi là Vô tầm vô tứ địa. Vô lậu, Hữu vi, Sơ tĩnh lự định cũng gọi là Hữu tầm hữu tứ địa. Y tầm tứ xứ pháp duyên Chân như làm cảnh vào định này, chẳng do phân biệt hiện hành, ngoài ra như trước nói. Nếu căn cứ tương ưng và lìa dục kiến lập ba Địa, nhiếp pháp chẳng tận, cũng rất tạp loạn, tuy nói có tầm có tứ v.v… các Địa chỉ là có tâm. Đây căn cứ một môn thô tướng để biện Địa, ở trong môn này chỉ nói Vô tầm vô tứ địa từ Tĩnh lự thứ hai trở lên. Vô tưởng định, vô tưởng sinh, diệt tận định gọi là Vô tâm địa. Ngoài ra, tất cả vị, gọi là Hữu tâm địa. Sau có bốn môn đồng dị kiến lập, phần sau sẽ giải thích. Tuy nói trong đây do lìa tầm tứ dục nên gọi là Vô tầm vô tứ địa, nhưng chỉ nói các Địa từ Tĩnh lự thứ hai trở lên hẳn định đã lìa tầm tứ dục. Chẳng nói đã lìa tầm tứ dục là các pháp của Địa dưới, cũng được gọi là Vô tầm vô tứ. Nếu như vậy là chưa lìa tầm tứ dục của Địa dưới là các pháp của Địa trên lẽ ra cũng gọi là Hữu tầm tứ v.v… Kiến lập như vậy thành rất tạp loạn. Cho nên cả ba loại này chỉ căn cứ trên dưới của giới địa mà kiến lập. Nay quán ý đây, y nhiễm, lìa nhiễm chẳng phải giải thích Hữu tầm hữu tứ, Vô tầm duy tứ địa. Chỉ giải thích Vô tầm vô tứ địa, thì văn luận đây chẳng phải tận lý, đâu thể y có nhiễm không nhiễm lập ba Địa riêng biệt. Thân tại cõi dưới thành ba Địa nhiễm nên gọi là ba Địa, đã tùy chỗ lìa nên chẳng phải Địa kia.

Nay nên hỏi: Sư thứ ba giải thích, giới địa do đâu được thành sai biệt? Do có địa pháp thô tế khác nhau, thô tế khác nhau đó làm sao được thành, hẳn y có nhiễm trói buộc pháp riêng biệt. Vô lậu lìa nhiễm y địa pháp đây cũng khác. Đã đoạn là có nhiễm chủng loại đây, nên thuộc về Địa kia. Nói có nhiễm là có hiện hành nhiễm, nên thân tại cõi dưới tuy thành ba cõi, chủng tử có nhiễm chẳng gọi là ba Địa. Nói lìa nhiễm là căn cứ nghĩa sinh cõi trên tức chẳng phải hàng Địa tiền, chẳng nói đã lìa nhiễm đây tức chẳng phải Địa đây vậy, chỉ nhận biết văn chánh, chẳng đồng Du-già. Du-già chỉ y Tĩnh lự thứ hai trở lên làm dụ, như sư thứ ba trước tổng hợp.

Lại giải thích, trong đây nói có nhiễm là có hiện hành nhiễm kia. Lìa nhiễm là tức Vô lậu v.v… tùy chỗ lìa nhiễm Địa, tức Địa của có nhiễm trước, nay lìa nên nói gọi là lìa nhiễm, tùy hai thứ có nhiễm lìa nhiễm đây có khác, địa giới pháp khác, đều ứng chỗ ứng hai thứ đều là chỗ Địa kia nhiếp. Chẳng nói có nhiễm là Địa kia lìa nhiễm tức chẳng phải, nên văn không ngăn ngại, chẳng đồng Du-già. Du-già chỉ nói Địa thứ ba, do đây chân trí cũng thuộc ba Địa, y tầm tứ xứ pháp duyên Chân như làm cảnh vào định đây, chẳng do phân biệt hiện hành, vì các tánh Vô lậu lìa nhiễm pháp, y tha pháp kia, vẫn còn tức Địa kia, huống gì đã lìa nhiễm. Ba địa Hữu lậu pháp mà chẳng phải ba Địa, nên nghĩa văn chánh, chẳng phải như vậy thì nghĩa chẳng đúng.

Quyển 56 ghi: Hỏi: Sinh ở Định thứ hai, hoặc sinh Địa thượng, nếu có tầm có tứ, nhãn thức v.v… hiện tại trước, tại sao Địa đây Vô tầm vô tứ? Nếu chẳng hiện trước tại sao ở đó các căn có sắc mà khéo lãnh thọ cảnh giới Địa kia?

Đáp: Do có tầm có tứ chủng tử các thức, vì tùy theo Vô tầm vô tứ Tam-ma-địa, theo kia khởi rồi đây được hiện hành, cho đến rộng nói.

Ba, bảy khác nhau, nay dùng mười môn phân biệt:

  1. Nêu thể.
  2. Hành tướng.
  3. Giải thích tên gọi
  4. Phế lập.
  5. Chỗ tám thức nhiếp.
  6. Hữu lậu Vô lậu.
  7. Chỗ ba đời duyên.
  8. Cùng mười tán động mười phân biệt nhiếp nhau.
  9. Đoạn vị.
  10. Hỏi đáp phân biệt.

Kệ tụng gốc ngọn tầm tứ:

“Thể, cảnh, hạnh, thảy khởi

Sai biệt và quyết trạch

Hành, xúc, dẫn, tương ưng

Cầu nghiệp là lưu chuyển”.

Du-già quyển 5 nói, tầm tứ dùng bảy môn phân biệt:

  1. Thể tánh.
  2. Sở duyên.
  3. Hành tướng.
  4. Đẳng khởi.
  5. Sai biệt.
  6. Quyết trạch.
  7. Lưu chuyển.

1/ Thể tánh là chẳng tầm đạt tư duy sâu làm thể tánh, nếu tầm đạt tuệ sâu làm thể tánh.

2/ Sở duyên là dùng nghĩa danh, cú, văn thân làm sở duyên.

3/ Hành tướng là tầm cầu hành là tầm, quán xét hành là tứ.

4/ Đẳng khởi là nghĩa là mở lời ngôn thuyết.

5/ Sai biệt là đó là bảy phân biệt.

6/ Quyết trạch là nếu tầm tứ tức phân biệt tà v.v… nếu tầm tứ đều phân biệt, có phân biệt chẳng phải tầm tứ, nghĩa là mong đạo xuất thế, ngoài ra tất cả pháp tâm và tâm sở trong ba cõi.

7/ Lưu chuyển là xứ của năm đường đều là sáu vặn hỏi, như Na- lạc-ca tầm, tứ hành những gì, thuộc chỗ nào, dẫn chỗ nào, tương ưng gì, chỗ nào cầu, nghiệp nào chuyển, cho đến sơ tĩnh lự tầm tứ là hỏi cũng vậy.

Vả lại, giải thích hành chuyển trong địa ngục, xúc chẳng phải cảnh ái, dẫn phát ở khổ, cùng ưu tương ưng, thường cầu giải thoát, nhiễu tâm nghiệp chuyển, chỉ thuần thọ khổ, ngạ quỷ cũng vậy. Bàng sinh, cõi người, ngạ quỷ sức lớn, nhiều phần thích hành, ít phần hân hành, nhiều xúc chẳng phải ái, ít xúc cảnh ái, nhiều phần dẫn khổ, ít phần dẫn lạc, tương ưng ưu nhiều, tương ưng hỷ ít, nhiều phần cầu thoát khổ, ít phần cầu gặp lạc. Nhiễu tâm nghiệp chuyển, các trời cõi Dục tầm tứ, nhiều phần hân hành, ít phần thích hành, nhiều xúc khả ái, ít xúc chẳng phải ái, nhiều dẫn lạc, ít dẫn khổ, tương ưng hỷ nhiều, tương ưng ưu ít, nhiều phần cầu gặp lạc, ít phần cầu thoát khổ. Nhiễu tâm nghiệp chuyển, Sơ tĩnh lự địa chỉ thuần hân hành, chỉ thuần xúc cảnh khả ái, chỉ thuần dẫn lạc, chỉ thuần hỷ câu, chỉ cầu chẳng lìa lạc, chẳng nhiễu tâm nghiệp chuyển.

Mười lăm nghiệp bất cộng, kệ tụng ghi:

“Phân biệt, thẩm sở duyên

Túy, cuồng, mộng, giác, muộn

Tỉnh, phát nghiệp, lìa dục

Thoái, đoạn, tục, sinh, tử”.

Du-già quyển 1 nói ý thức có mười lăm thứ nghiệp Bất cộng:

  1. Phân biệt sở duyên, tức bảy phân biệt.
  2. Thẩm lự sở duyên, nghĩa là như lý, chẳng như lý và câu phi sở dẫn.
  3. Túy.
  4. Cuồng.
  5. Mộng.
  6. Giác.
  7. Muộn.
  8. Tỉnh.
  9. Năng phát thân ngữ nghiệp.
  10. Lìa dục.
  11. Lìa dục thoái lùi.
  12. Đoạn thiện.
  13. Nối tiếp thiện.
  14. Sinh.
  15. Tử.

Kinh Pháp Hoa quyển 2 ghi: “Xá-lợi-phất thưa: “Nhưng nay từ Phật nghe pháp chưa từng nghe, chưa từng có, dứt các nghi hối”. Kệ tụng kia lại ghi:

“Ta đã được lậu tận

Nghe cũng trừ ưu não”.

Nghi hối tức ố tác, tức là nhàm chán, tuệ chung cùng không tham, nghi tức sự nghi, nghi chẳng làm Phật. Ưu tức là hối, vì hối ác trước, hối tức là nghi.

Trong đây, chánh tư duy nếu thể là tầm thông Vô lậu thì tại sao quyển 57 nói năm căn trong hai mươi lăm căn chẳng nhiếp sáu pháp trong ba mươi bảy pháp, đó là ngữ, nghiệp, mạng, hỷ, an, xả, nên chánh tư duy riêng tức tuệ căn. Sư đây dùng nhân quả luận chung nên thể tức là tuệ. Sư trước đây có thể đúng, nên tầm chẳng phải Vô lậu, lấy tên tầm mà nói, như ba cõi vui thích gọi là lạc. Du-già quyển 4 ghi: “Nếu Vô lậu giới Hữu vi định sở nhiếp Sơ tĩnh lự cũng gọi là Hữu tầm hữu tứ, y tầm tứ xứ pháp duyên Chân như làm cảnh mà vào định này, chẳng do phân biệt hiện hành”. Nên biết tầm tứ dẫn Vô lậu, trong Vô lậu dẫn hai giải thích đều được. Nếu nói tầm tứ hẳn là phân biệt, mà chẳng nhất định nói chỉ thuộc loại thứ ba nên thông Vô lậu, sao chẳng đối phân biệt, bốn câu phân biệt? Vì hỗ tương có rộng hẹp. Hối lìa dục xả là, kinh Pháp Hoa quyển 2 ghi: “Xá-lợi-phất thưa: “Con từ xưa lại trọn ngày liền đêm thường tự trách mình mà nay từ Phật nghe pháp chưa từng có, chưa từng nghe, dứt các nghi hối”. Hối là pháp nghi hối, chẳng phải phiền não.

Quyển 56 ghi: “Thân hành có ba, nghĩa là hơi thở ra vào và thân nghiệp. Ngữ hành cũng có ba, nghĩa là tầm tứ và ngữ nghiệp. Chánh tư duy cùng ngữ làm nhân, tầm thông Vô lậu”. Quyển 57 ghi: “Năm căn chẳng nhiếp sáu ngữ, nghiệp, mạng, hỷ, an, xả trong ba mươi bảy phẩm, chẳng nói chẳng nhiếp chánh tư duy tức là tuệ”. Đây nói vì sao thông? Du-già quyển 56 ghi: “Thân hành có ba, đó là hơi thở ra vào và thân nghiệp. Ngữ hành cũng có ba, đó là tầm, tư và ngữ nghiệp. Ý hành cũng có ba, đó là thọ, tưởng và ý nghiệp”, nên Phật không có tầm tứ, thì đâu ngại ngữ chuyển, vì nghiệp chẳng phải không có. Trong Đệ tứ thiền, hai hơi thở đã không có, thân nó được trụ. Hai định xứ nên không có tầm tứ và ngữ nghiệp nên ngữ lẽ ra cũng chuyển. Biến chẳng phải biến hành, như trước đã nói, thân nghiệp chỉ nhiễm chẳng thể làm so sánh. Lại, luận nêu thân nghiệp nhiễm, luận thật cũng có thiện pháp Vô lậu, nếu không như vậy thân và ngữ của Phật làm sao được chuyển? Nên dùng nghiệp tư làm chuyển, vì thường vào Định thứ tư.

Tâm sở câu sinh, kệ tụng ghi:

“Năm pháp năm câu khởi

Chín pháp hẳn sáu câu

Chín pháp hẳn mười bốn

Hai mươi mốt mười lăm

Ba pháp khởi mười sáu

Tám pháp mười bảy câu

Là tâm sở tương ưng

Tuệ cần nên tư duy”.

Du-già quyển 57 ghi: “Trong hai mươi hai căn, hỏi: Thế Tôn y căn xứ nào nói lời như vậy, viễn hành và độc hành, không có thân ngủ nơi hang? Đáp: Y ý căn xứ, do ở khoảng trước thời vô thỉ, duyên khắp tất cả cảnh sở tri gọi là viễn hành. Các tâm tương tục mỗi mỗi chuyển vậy, vì không có chủ tể gọi là độc hành. Không sắc không kiến cũng không có đối gọi là không thân”. Y chỉ sắc nên gọi là ngủ nơi hang. Nhiếp luận quyển 4 ghi: “Dạo khắp tất cả cảnh được biết nên gọi là viễn hành”, là chứng nghĩa đây. Lại nói độc hành, vì không có thứ hai. Nói không có thân là khônôcs hình chất. Ngủ nơi hang là ở bên trong. Nói điều phục là ở trong tâm như vậy tạo tác tự tại, khó điều phục tâm là tánh ngang bướng.

Thượng tọa bộ xét có Trung hữu, không có vì sao được nói Trung hữu hẳn khởi nhuận sinh phiền não? Gốc kế chấp không có Trung hữu, ngọn kế chấp có. Từ đây trở xuống, lý văn xem trong Duy thức.

Vô tưởng Dị thục, oai nghi trừ hành, không có ở trong nhân, hành nhập vào định vì quả khó khởi. Hòa với chỗ lập Duy thức trên, tỷ lượng là chân nên cực thành sắc, chẳng lìa nơi nhãn thức. Tự thừa nhận nó thuộc về thứ nhất và thứ ba vì nhãn không nhiếp, giống như nhãn thức, thuận với sư Cảnh quyết định trái nhau nghĩa là chân nên cực thành sắc, định lìa nơi nhãn thức, tự thừa nhận nó thuộc về thứ nhất và thứ ba vì nhãn thức không nhiếp, giống như nhãn căn. Đây như phần Sao giải của sư Cảnh, như biên thủ của sư Dụ.

Trong tha tâm trí, nên thuật sư An Tuệ giải thích văn của Nhị Thập Duy thức. Du-già quyển 89 nói thọ có tám loại. Thứ nhất và thứ hai thuộc trong ngoài, sáu loại sau tức sáu chỗ sáu pháp kiến lập, do đó xét luận thứ ba ở trước đã chú giải. Nhưng, bất hoàn là sức đối trị mạnh chánh nhuận sinh vị chẳng khởi phiền não v.v… là ở trong có năm vặn hỏi, lấy vặn hỏi thứ năm ở sau làm vặn hỏi thứ nhất, hỏi thứ hai làm thứ hai, hỏi thứ nhất làm thứ ba, ngoài ta như thứ tự.

1. Hỏi: Như quyển 59 ghi: Kiến đế chỉ dùng Tùy miên nhuận, mới đầu Thánh cũng dùng hiện hành nhuận, đã nói Dị sinh hiện hành chủng tử nhuận, Dị sinh lẽ ra chỉ có chủng tử nhuận ư? Đáp: Thánh nhiều bậc giáng nhuận có hiện hành, Dị sinh loại v.v… không chỉ có chủng tử, lẽ ra Thánh sinh Địa khác chỉ có chủng tử nhuận sinh, nếu sinh tự Địa là do hiện hành nhuận, Dị sinh lẽ ra cũng như vậy. Nếu sinh tự Địa chưa có Đối trị đạo nên có thể dùng hiện hành, sinh Địa khác nên chỉ có chủng tử nhuận. Nay giải thích chẳng như vậy. Vô lậu đạo tròn đầy, thế lực mạnh hơn phiền não, Vô lậu đạo thiếu, hoặc hiện bèn mạnh, chẳng đồng dị sinh, nên chẳng làm so sánh.

2. Hỏi: Thánh quả thứ nhất và thứ hai sinh tự Địa thì nhuận có cả hiện hành. Bất hoàn sinh tự xứ, theo nghĩa lẽ ra hiện hành nhuận chăng? Đáp: Đây có thể vậy, vì căn cứ quả thứ nhất và thứ hai, như xứ xứ Bất hoàn v.v… luận lược chẳng nói. Lại, lý chẳng như vậy. Quả vị thứ nhất và thứ hai chưa có đạo viên mãn, có thể dùng hiện hành nhuận. Quả thứ ba đã có đạo viên mãn, giả sử sinh tự Địa cũng chỉ có chủng tử nhuận. Luận chẳng nói do hiện hành nhuận, chỉ trong quả vị thứ nhất và thứ hai nói dùng hiện hành.

3. Hỏi: Tại sao Dị sinh nhuận thì hiện hành chủng tử đồng thời nhuận. Thánh nhân chỉ có chủng tử, chủng tử mạnh hơn chăng? Đáp: Thánh nghiệp quyết định, nghiệp mạnh có thể chỉ gá chủng tử. Dị sinh nghiệp không phải như vậy nên thông cả hiện hành. Hỏi: Nếu vậy, quả vị thứ nhất và thứ hai, nghiệp cũng đã quyết định, nên chỉ có chủng tử nhuận chăng? Đáp: Phàm sinh khổ bức bách thiện nghiệp kém cõi, ắt gá hiện hành mới có thể nhuận. Thánh sinh khổ ít thiện nghiệp ưu thắng, do đây chỉ dùng chủng tử nhuận, vì Vô lậu cũng có thể giúp Hữu lậu, chẳng đồng phàm phu. Lại phàm phu bất giác sinh nhiều ít, có thể gá phiền não, hiện hành chủng tử đều trợ nhuận. Thánh nhân biết nghiệp nhiều ít nhất định, do đây chỉ dùng chủng tử nhuận.

4. Hỏi: Chỗ sáu hành phục và chẳng phục nhuận sinh tham v.v… chỉ phục tán cảnh tham v.v… tại sao phàm phu đắc định mà chẳng nhuận sinh Địa dưới? Nghiệp đều tồn tại mới sinh Địa khác chăng? Đáp: Nhờ trợ bạn tham ái v.v… nên có thể nhuận sinh. Bạn kia đã mất, lúc yếu kém chẳng thể một mình nhuận, do đây chẳng sinh Địa dưới. Lại, phàm tạo nghiệp mới ưu thắng mà sinh lên. Thánh do nghiệp cũ mà sinh. Có chủng tức sinh Địa kia, như phàm phu tại cõi Dục đủ nghiệp của năm nẻo, tùy một nghiệp mạnh hơn mà sinh trước, nên tuy nghiệp dưới chẳng phải không có, nghiệp trên mạnh hơn nên đến trước. Nếu nghiệp trên kém, bài bác đó làm hậu báo, lùi mất định trên mà sinh tự giới cũng không có lỗi.

5. Hỏi: Tại sao chẳng thừa nhận Câu sinh ngã kiến v.v… trong sáu thức, tuy đắc thế đạo mà chẳng khéo phục, tuy đắc quả thứ ba nhưng chẳng năng đoạn cõi dưới. Đến cõi trên mới đoạn như Thức thứ bảy ư? Đáp: Vì nó chướng quả và chướng ra khỏi tự địa, chẳng đồng Thức thứ bảy vi tế chẳng chướng quả và ra khỏi tự địa.

Du-già quyển 12 nói, trong diệt định trước ở tâm đó khó tu trị, chẳng phân biệt tướng trạng các hành, khéo vào định đây, khéo ra ở định, do tu tập rất nhiều nên mặc tình mà vào ra. Lúc ra diệt định xúc hai thứ xúc: một là chẳng động, hai là vô sở hữu, ba là vô tướng. Lúc xuất định phần nhiều do ba cảnh mà ra khỏi định: một là do có cảnh, hai là do cảnh cảnh, ba là do diệt cảnh. Thứ tự như đây xúc ba thứ xúc, duyên nơi có cảnh mà lúc xuất định không có ngã mạn nhiễu động tâm cho đây là ngã, cho đến kế chấp tương lai ngã sẽ có v.v… nên xúc chẳng động, xúc duyên nơi cảnh cảnh mà lúc xuất định không tham không sân, không si, nên định xúc vô sở hữu xúc, duyên nơi diệt cảnh mà lúc xuất định đối với tất cả tướng không tư duy. Duyên vô tướng giới nên nói xúc vô tướng xúc. Ý đây nói xuất định đã duyên ba cảnh, có cảnh là có làm năm uẩn, tức nương tướng phi tưởng mà vào định tâm nay xuất ra. Diệt cảnh tức nương tướng diệt tận mà vào định nay xuất ra. Trên hai quá trình đó không ba phiền não, nên xúc vô sở hữu xúc gọi là duyên cảnh cảnh. Dẫn bất định sau tùy tâm xuất kia chẳng đồng lúc vào, vì hành tướng riêng biệt. Hoặc duyên sáu trần mà xuất định gọi chung là cảnh cảnh, đây chỉ là cảnh của cảnh. Đây nói mặc tình tự tại xuất định, nếu chưa tự tại mà lúc xuất định duyên nơi cảnh giới, tuy không có văn nói nhưng không ngoài ba loại này.

Hỏi: Tại sao muộn tuyệt, thùy miên cùng dẫn vô tâm? Muộn thì có thể của xúc trần, thùy chẳng như vậy ư? Thùy có thùy tâm sở, muộn tức không ư? Lúc có tâm muộn, muộn này là gì? Do muộn xúc tăng dẫn sinh muộn vị, chẳng đồng Thùy tâm sở dẫn vị sinh riêng vì không có tâm sở muộn. Thùy tại sao chẳng phải xúc trần? Trần năng dẫn tâm sở tức là thùy tâm sở, năng dẫn muộn xúc tức là tâm muộn do đó không có. Muộn hoặc hôn trầm không kham nhậm, hoặc muộn tức y năm Cái trên mà giả lập, như sinh Vô sắc, muộn tâm sở sinh tử tức sáu tâm sở tương ưng của bản thức.

Năm vô tâm thì ba chỉ có một cõi, đó là thùy chỉ có dục, vô tưởng định, sinh chỉ có sắc. Một chung cả ba cõi đó là muộn. Một chẳng phải cõi đó là diệt định. Hai chỉ có một cõi khởi đó là thùy và Vô tưởng thiên. Một thông hai cõi khởi đó là vô tưởng định. Một thông ba cõi khởi đó là muộn. Một thông ba cõi chẳng phải cõi khởi, đó là diệt định, cũng tại Tịnh độ khởi. Hai chỉ có thiện đó là hai định. Ba chỉ có Vô ký, đó là ba thứ còn lại.

Hành tướng có hai: một là tướng ảnh tượng gọi là hành tướng. Tại sao tức tợ bản cảnh? Hai là Kiến phần gọi là hành tướng, tại sao chẳng tợ?

Đáp: Ảnh tượng gọi là hành tướng, tướng trạng hành giải của Kiến phần, tướng mạo hành cảnh của Kiến phần. Kiến phần gọi là hành tướng, vì hành ở trong cảnh của thể, như Vô phân biệt trí không có tướng trạng, nên tợ chẳng tợ. Lại, chưa hẳn tướng ảnh tượng chỉ thuần tợ cảnh, vì Vô vi duyên tức chẳng phải tợ.

Trong phần đáp Đẳng vô gián duyên có sáu:

  1. Đáp tạm tùy nghĩa khác.
  2. Đáp nêu tự chánh nghĩa.
  3. Đáp thức khởi không mới đầu.
  4. Đáp so sánh tâm sở đồng.
  5. Đáp chỉ dụ hiển pháp.
  6. Đáp riêng dùng lý trưng bày.

Ba cõi duy tâm, y pháp Hữu lậu để nói rõ Duy thức. Lại nói, Sở duyên chỉ là chỗ thức hiện, y tâm sinh cảnh để rõ Duy thức. Lại nói các pháp đều chẳng lìa tâm, đây y chẳng lìa để hiển bày Duy thức, chỉ một môn đây đủ nhiếp các pháp. Lại nói, hữu tình tùy tâm cấu tịnh, y Dị thục bên trong để rõ Duy thức. Lại nói Bồ-tát thành tựu bốn trí, y tu nhân để rõ Duy thức. Lại, Già-tha nói chỗ tâm ý thức duyên v.v… cũng lấy sở duyên, gọi là Duy thức.

Trong bốn trí, thứ nhất chỉ quán cảnh, thứ hai chỉ quán trí, thứ ba quán cả tâm và cảnh. Lại, thứ nhất chỉ phá Tát-bà-đa, thứ hai chỉ phá kinh bộ tức là hai phá sau.

Trong phần vặn hỏi hiện lượng trái với tông lẽ ra nên nêu Tát-bà- đa, Chánh lượng bộ, Đại chúng bộ, lại lấy tâm hữu tình khác làm vặn hỏi. Trong giải thích lẽ ra cũng nên nêu lại.

Ánh sáng của đèn tỏa đến, trái với Đối Pháp quyển 2, phá rằng: Như ánh sáng của đèn, âm thanh chợt phát cũng vậy. Xét trong phần Sao, tỏa sáng là Tùy thuận lý môn để chóng phát nghĩa Đại thừa.

Các Dị sinh cầu Phật quả là định sau cõi Sắc dẫn sinh Vô lậu, kia hẳn sinh ở cung trời Đại tự tại phía trên trời Tịnh cư, vì đắc Bồ-đề. Trong đây hỏi: Du-già quyển 4 ghi: Trong bốn Tĩnh lự, Phàm thánh đồng ở trời, mỗi do ba phẩm nhuyễn, trung, thượng huân tu nên sinh. Trời Vô tưởng tức thuộc về Quảng quả, lại không có xứ riêng biệt. Lại có các Thánh trụ dừng chẳng cùng năm Tịnh cư địa, đó là Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến và Sắc cứu cánh. Do nhuyễn, trung, thượng, thượng thắng, thượng cực phẩm tạp huân tu Tĩnh lự thứ tư. Lại có vượt qua trụ xứ Đại tự tại, trời Tịnh cư. Bồ-tát Thập địa do cực huân tu nên được sinh trong đó. Nay quán nghĩa ý huân tu định v.v… mà chiêu sinh liền có bốn câu. Một câu chỉ có Hữu lậu huân, như Thức thứ tám nói xả phước mạng hành v.v… phần đoạn sinh tử và trong bốn Thiền mỗi cõi có ba xứ sinh. Luận chỉ nói huân tu, chẳng nói tạp tu, nên quyển 12 ghi: “Ngoài ra, thủ tạp tu sinh năm Tịnh cư, vì chẳng nói sinh cõi dưới”. Có cõi chỉ có Vô lậu tu, như tất cả biến dịch sinh tử. Có cõi có Hữu lậu, Vô lậu tạp tu, nghĩa là sinh năm Tịnh cư. Du-già quyển 12 ghi: “Như có một cõi đã được Hữu lậu và cùng Vô lậu bốn Tĩnh lự, thời gian lâu dài tương tục vào các Tĩnh lự. Hữu lậu, Vô lậu lại cùng xen tạp, cho đến Hữu lậu vô gián, Vô lậu hiện tiền, Vô lậu vô gián trở lại vào Hữu lậu, phải biết ngang bằng đây huân tu thành tựu.

Đây là ở định được tự tại, tức đắc quả Đẳng chí tự tại, tức hiện pháp lạc trụ chuyển càng sáng sạch, lại do đây nên được đạo Bất thoái đạo. Lại tịnh tu trị giải thoát thắng xứ v.v… thắng phẩm công đức, đạo của năng dẫn. Nếu có các thủ khác mà mạng chung là do nhân duyên đây bèn vào Tịnh cư, vì chẳng nói sinh các Tĩnh lự dưới, tức y sở tu này trợ giúp chỗ trước tạo nghiệp ba cõi trời dưới, khiến nó chuyển thắng sinh năm Tịnh cư, chẳng phải nghiệp mới hiện tại khéo chiêu cảm Dị thục, vì bậc Thánh chẳng tạo nghiệp. Thứ tư đã nói cực huân tu Địa thứ mười nên Địa thứ mười sinh cõi kia, từ Địa thứ tám trở đi đã thọ biến dịch sinh, làm sao mười Địa lại huân tu sinh? Tức là Địa thứ tám đã sinh xứ ba đời dưới Định thứ tư. Nay cực độn Vô lậu thắng nghiệp vốn do ba Địa trước cảm nghiệp nay mà được sinh. Căn cứ thật chẳng phải lại mới sinh, do nghiệp đồng Địa ở đó thọ quả xứ sang gọi là sinh, đồng địa gọi là sinh, qua địa riêng biệt nên gọi đó là vãng, chẳng trái nhau. Câu thứ tư chẳng phải hai chỗ trợ giúp mà sinh, tức tất cả Dị sinh ở cõi Dục v.v… vì cõi Sắc v.v… nghiệp định tâm trụ cảnh, gọi là Bất động, chẳng phải chẳng khác xứ thọ, nên gọi là Bất động. Đã nói Bồ-tát Thập địa chủ của bốn Thiền, ở cung trời Tự tại khởi mười thứ quả tướng, hiện tòa sen báu lớn, nên cần được sinh cõi kia, chẳng phải Địa thứ tám đã được sinh, chỉ nói Địa thứ mười cực huân tu. Lại, Bồ-tát Địa thứ tám chẳng phải chủ cõi kia, cũng chẳng phải biến dịch có sinh tử, giả sử thừa nhận sinh tử, thì cái gì là nghiệp mới sinh?

Thức thứ bảy, chẳng nói vừa khởi thì cõi nào sinh sau, vì bất định. Nếu nói cõi Sắc không hồi tâm, mới đầu chỉ khởi cõi Dục, nếu nói cõi Sắc có hồi tâm, mới đầu khởi thông cả cõi Sắc, vì định chẳng tồn tại, mới đầu khởi pháp Không, nếu bình đẳng trí, mới đầu khởi tại thân cõi Sắc.

Chủng tử Vô lậu tại thức và năm trần Vô lậu ở bên trong tức chất biến hóa. Thức thứ tám đều chẳng duyên, nghĩa là nhân có năm căn Vô lậu, làm sở y của năm thức, Thức thứ tám chẳng duyên, đây có lỗi gì? Giải thích là: năm căn thật là Thức thứ tám hẳn duyên, giải thích là chẳng cần Thức thứ tám duyên. Chủng tử, sắc v.v… chẳng cần Thức thứ tám duyên mới thành thật dụng, nên ở trong nhân không có năm căn Vô lậu. Hỏi: Sắc v.v… có thể vậy, tại sao chủng tử Thức thứ tám chẳng duyên mà thành chủng tử thật? Như pháp tương ưng và Thức thứ sáu duyên đều chẳng phải chủng tử thật, tại sao chẳng cần Thức thứ tám duyên có dụng chủng tử thật? Nghĩa này nên tư duy.

Sở duyên duyên hẳn duyên hữu, trái với quyển 52, luận kia nói duyên không sinh tâm, lẽ ra kết hợp với luận kia nói.

Năm thức hẳn có sở duyên thưa xa là đây y quán nghiệp lực giới địa kia, nếu sức của Định và thần thông biến năm trần, chẳng phải hẳn có bản chất. Như sinh cõi trên duyên Địa sắc cõi dưới, hoặc thân tại cõi dưới khởi Thiên nhãn, Thiên nhĩ duyên Địa sắc cõi trên v.v… Lại giải thích, tâm của Dị thục duyên cảnh nổi cạn, chẳng phải cần nhờ gá bản chất. Thức Thức thứ tám là tuy duyên thân tợ tha, nhưng chẳng gọi là bản chất. Năm thức trước v.v… có phân biệt nên hẳn nương tựa bản chất, lúc duyên Địa khác, tuy không có tự bản chất, có tha biến là làm bản chất. Nếu vậy, tức sáu Thức trước không lúc nào không có bản chất, vì hằng phân biệt, giải thích trước là thù thắng. Năm thức thô là hành tướng dễ biết, độn là hành tướng cạn chẳng tương tục, yếu kém là tha dẫn mới sinh, không có tự lực khởi.

Bản thức đồng đẳng là chỗ Thức thứ sáu biến, do đới chất thông tình bản, nay tùy bản mà giải thích.

Trong hai mươi hai căn, có bao nhiêu căn bị cõi Dục trói buộc?

Đáp: Bốn căn là nam nữ ưu khổ, mười lăm căn có ít phần, trừ ba Vô lậu và bốn căn trước.

Hỏi: Có bao nhiêu căn bị cõi Sắc trói buộc?

Đáp: Mười lăm căn có ít phần.

Hỏi: Có bao nhiêu căn bị cõi Vô sắc trói buộc?

Đáp: Tám căn có ít phần, ý xả mạng, tín v.v… năm thứ.

Hỏi: Có bao nhiêu căn chẳng bị trói buộc?

Đáp: Ba Vô lậu, chín căn có ít phần.

Hỏi: Có bao nhiêu căn bị cõi Dục trói buộc, cõi Dục làm nghĩa?

Đáp: Có bốn căn bị Dục và cõi Sắc trói buộc, cõi Dục trói buộc làm nghĩa. Có ba căn bị Dục và cõi Sắc trói buộc, dùng hai cõi làm nghĩa. Có hai căn bị Dục và cõi Sắc trói buộc và chẳng trói buộc, tất cả trói buộc và chẳng trói buộc làm nghĩa. Có bảy căn do ba cõi trói buộc và chẳng trói buộc, tất cả trói buộc và chẳng trói buộc làm nghĩa. Một căn do cõi Sắc trói buộc và chẳng trói buộc, tất cả làm nghĩa, hai căn chẳng trói buộc tất cả làm nghĩa.

Hỏi: Năm sắc căn có nghĩa là gì?

Đáp: Sắc v.v… năm thứ mỗi mỗi cảnh riêng.

Hỏi: Căn thứ sáu nghĩa là gì? Đáp: Tất cả pháp giới.

Hỏi: Nam nữ căn nghĩa là gì?

Đáp: Nhân dục tương ưng tức khổ xúc nhiếp.

Hỏi: Năm thọ căn nghĩa là gì?

Đáp: Tùy thuận khổ lạc ưu hỷ xả thọ tức nghĩa sáu căn.

Hỏi: Tín căn nghĩa là gì?

Đáp: Lẽ ra được nên xả chỗ có cảnh giới. Tinh tấn căn tức ở đắc, xả cùng chung không chỗ kiêng sợ, niệm căn ở văn, tư, tu, nhớ giữ chẳng quên.

Hỏi: Định căn nghĩa gì?

Đáp: Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na.

Hỏi: Tuệ căn nghĩa là gì? Chỗ biết chân thật.

Hỏi: Chưa biết Đương tri căn nghĩa là gì?

Đáp: Tu hiện quán là từ thiện pháp dục trở đi ở trong tất cả đạo phương tiện, tức nghĩa năm căn kia, tức là nghĩa căn đây. Đã biết căn từ quả Dự lưu cho đến Kim cương dụ định, tức là nghĩa năm căn kia và căn đây. Đủ biết căn từ khởi đầu Vô học đạo, cho đến nghĩa năm căn vào Vô dư Niết-bàn là nghĩa căn này. Theo quyển 69 và Đối Pháp quyển 9, 10, 13 đều nói rõ tu, nên rộng phân biệt. Địa trở về trước, đắc, hành cả hai tu Hữu lậu, chỉ đắc tu Vô lậu. Nếu tại Kiến đạo, đắc và hành cả hai tu Vô lậu, đắc tu Hữu lậu. Địa thứ bảy trở về trước, cả hai tu thông Hữu lậu Vô lậu. Địa thứ tám trở về sau, hai tu chung cùng Vô lậu, đắc tu Hữu lậu vì thọ làm mười vương vị. Nếu thế gian trí, xuất thế gian trí đã biện rõ tu và tu cõi trên cõi dưới, tập quen, chưa tập quen v.v… vị nào khởi chẳng khởi, tất cả đều như lý nên tư duy.

Trong ba Vô sắc không có bốn thiện căn. Chỗ Vô lậu Kiến đạo nói có là nên biết tu là Hữu lậu từng được. Đối Pháp đã biết căn, hoặc mười hoặc chín căn, ưu căn ở trong, tức thông Hữu lậu. Hữu lậu tín v.v… trong Tu đạo vị cũng là đã biết căn. Trong đây tuy trừ ưu căn, tại sao chẳng lấy Hữu lậu tín? Nếu nói vì không ưu Hữu lậu đều trừ tức chưa biết căn đã trừ ưu căn, cũng nên chẳng chọn lấy các Hữu lậu khác. Hữu lậu kia đã đều chọn lấy, đây cũng nên như vậy, mới đầu căn vui thích tâm ưu căn sâu cũng vậy. Căn Hữu lậu này yếu kém so với Vô lậu. Vô lậu đó là căn, cứ thật mà nói, Hữu lậu cũng vậy, trừ yếu kém chọn lấy ưu thắng, chỉ nói Vô lậu là căn đã biết, căn biết đủ đó nếu thành Vô học tức chung cả Hữu lậu làm căn tăng thượng, chẳng lấy Hữu lậu. Hữu lậu đó gọi là tín v.v… chẳng gọi là căn biết đủ. Căn đã biết đó lẽ ra cũng nên chuẩn cứ văn đây gọi là Vô lậu, nên Hữu lậu đó cũng trong chỗ trừ một nghĩa tăng thượng là nghĩa văn. Tại sao nghĩa tăng thượng lập căn? Vì hiển nghĩa tối thắng đối với sự kia và pháp kia, chẳng phải pháp một căn đối với tất cả pháp có nghĩa tăng thượng. Ý hiển đối với pháp sai biệt có nghĩa tối thắng, nên lập làm căn.

Hai phế lập, quyển 57, 58 giải thích phế lập chọn lấy cảnh. Thứ sáu là tiếp tục gia tộc, thứ hai là hoạt mạng, thứ nhất là thọ nghiệp quả, thứ năm là thế gian, thứ năm là xuất thế tịnh, thứ ba là y lượng đây lập căn, năng thọ cảnh ẩn hiển, thứ tám là thời gian biên tế thọ dụng, thứ nhất là thọ cảnh phát tạp nhiễm, thứ năm là lập căn sau thanh tịnh, tâm sở y, biệt đây, trụ đây, tạp nhiễm đây, tư lương đây, tịnh đây do lượng đây lập căn.

Ba giả thật là mười sáu thật, sáu chẳng phải thật, nghĩa là nam, nữ, mạng ba Vô lậu, phần ít thân căn nam nữ, mạng căn tức ý chủng tử nên là giả có. Ba Vô lậu chín căn phần nên thành sáu giả. Bốn tâm tâm sở sắc chẳng tương ưng Vô vi phân biệt là bảy sắc gồm sắc nhãn v.v… có năm, và nam nữ, một tâm đó là ý. Ba phần ít, ba Vô lậu phần ít, mười toàn tâm sở đó là năm thọ, tín v.v… năm và ba Vô lậu căn phần ít. Một chẳng tương ưng đó là mạng căn. Tất cả Hữu vi Vô vi chẳng phải căn, năm căn có bao nhiêu thiện? Tám căn chỉ có thiện, đó là tín v.v… gồm năm, ba Vô lậu. Tám căn chỉ có Vô ký, đó là bảy sắc và mạng căn. Một căn thông thiện và bất thiện, đó là ưu căn. Năm căn thông ba tánh, đó là bốn thọ và ý. Sáu căn có bao nhiêu căn cõi Dục trói buộc? Bốn căn chỉ có dục, đó là nam, nữ, ưu, khổ. Mười lăm căn có phần ít, đó là năm sắc căn, ý, mạng, ba thọ, tín v.v… gồm năm, trừ ba Vô lậu căn, tức mười lăm căn phần ít trước cõi Sắc trói buộc, tám căn phần ít cõi Vô sắc trói buộc, đó là tín v.v… gồm năm, ý, mạng, xả, ba Vô lậu căn, chín căn có phần ít tức chẳng trói buộc. Bảy căn chưa đến, bao nhiêu căn có thể được?

Đáp: Có mười một gồm ý, hỷ, xả, tín v.v… gồm năm, ba Vô lậu, Sơ tĩnh lự, mười tám căn có thể được trừ ưu, khổ, nam, nữ. Định thứ hai cũng vậy. Định thứ ba gồm mười bảy căn, trừ hỷ căn. Định thứ tư gồm mười sáu căn, trừ lạc. Ba Vô sắc trước gồm mười một căn, đó là mạng, ý, xả, tín v.v… gồm năm, ba Vô lậu. Phi tưởng gồm tám căn trừ ba căn Vô lậu.

 

**********

(Thấy, nghe, hiểu, biết, như Đối Pháp sao quyển 1 giải thích).

Tuy bên trong hai nhân có chẳng phải năng sinh chủng thắng hiển là, hai nhân này gọi là Khiên dẫn và Sinh khởi, vì nhuận và chưa nhuận riêng biệt đắc quả hiển, vì tương tục không đoạn. Nghĩa của mười hai nhân như Biệt chương giải thích. Quyển 66 nói rõ có nhân pháp là các nghiệp, phiền não đã tạo tác trước đây ở trong ba cõi là quả Dị thục thù thắng. Quả Dị thục này do nghiệp, phiền não dẫn phát nhân nên gọi là có nhân pháp. Đây chẳng phải dẫn phát nhân thứ sáu trong mười nhân. Dẫn phát nhân, luận chẳng nói đắc quả Dị thục. Đây là mong dị biệt nhân v.v… trong định, tùy chỗ đó ứng. Dị thục nhân là đối với mãn biệt quả giả lập tên dẫn phát nhân, vì xa cùng dẫn phát, đối với mãn quả mãn nhân mà nói.

Sáu loại trái nhau, quyển 38 ghi:

  1. Ngữ ngôn trái nhau.
  2. Đạo lý trái nhau.
  3. Sinh khởi trái nhau.
  4. Đồng xứ trái nhau.
  5. Oán địch trái nhau.
  6. Chướng trị trái nhau.

Năm quả, như Biệt Chương giải thích. Quyển 38 ghi: “Vô ký nhiếp Sĩ dụng, tức ruộng, nước v.v…” nên biết phá riêng cũng gọi là Sĩ dụng. Nếu chẳng như vậy, Vô ký lẽ ra không có nhân này. Sáu thứ ý xứ đều nói Vô ký, đã biết tác dụng, Sĩ dụng y xứ tức ruộng nước v.v… rõ biết quả Sĩ dụng chẳng chỉ giả có được.

Vô gián diệt và cảnh giới, trong sớ nói hoặc ba hoặc bốn y xứ, tại sao trong hai chân kiến và tùy thuận không có Vô gián diệt? Đáp: Đủ nhiếp thọ sáu biện Vô lậu pháp. Nếu vậy, có hai Đẳng vô gián, chân kiến thủ Vô lậu trước dẫn sinh sau nên chẳng dẫn Đẳng vô gián diệt, tùy thuận phần sau dẫn phần giữa.

Nếu quả Dị thục khiên dẫn sinh khởi định dị, đồng dị, chẳng Tương vi nhân được là ở đây nói tạp nhiễm mười nhân được quả Dị thục. Nếu mười nhân pháp Vô ký, theo quyển 38 thì không được quả này. Nó kia cũng Vô ký là Tùy thuyết nhân, Quán đãi nhân, đồng sự, Bất tương vi nhân, và dùng Vô ký làm Tương vi nhân. Trong mười nhân thanh tịnh đó, hai nhân đắc quả Dị thục, đó là Nhiếp thọ nhân và Tương vi nhân. Thanh tịnh nhiếp thọ nhân nghĩa là thân gồm bậc thiện, lắng nghe chánh pháp, như lý tác ý pháp tùy pháp hạnh, và chỗ trước làm các căn thành tựu, gọi là Nhiếp thọ nhân, tức hiển đây cùng pháp xuất thế làm Nhiếp thọ nhân, nên đắc quả Dị thục. Tương vi nhân là nếu thanh tịnh phẩm Tương vi nhân, tức là tạp nhiễm pháp nhân nên đắc quả Dị thục. Do đồng sự và tương vi đây cũng đắc Dị thục, tức Nhiếp thọ nhân. Trong luận căn cứ Tạp nhiễm nhân nên không có lỗi. Hoặc đây đều chẳng phải, vì thanh tịnh pháp nhân dùng thanh tịnh pháp làm quả, không có quả Dị thục.

Ba thứ Đẳng lưu quả thì mười nhân đều được. Sĩ dụng quả chẳng nói sinh khởi nhân v.v… đắc như quyển 2 trước ghi: “Năng huân sinh chủng tử, chủng tử khởi hiện hành, như Câu hữu nhân đắc quả Sĩ dụng”. Cuối quyển 7 ghi: “Đây sinh quả Sĩ dụng, gọi là Nhất thiết chủng”. Tại sao chẳng nói nhân duyên đắc quả Sĩ dụng? Có hai giải thích:

  1. Như Tiểu thừa, chẳng phải nghĩa Đại thừa thừa nhận.
  2. Như văn kia cũng đắc, trong đây căn cứ thể riêng của quả Sĩ dụng, chẳng phải tạp thể nên chẳng trái nhau.

Quả Ly hệ chỉ nhân Thanh tịnh đắc, chẳng phải hai nhân khác. Pháp Tạp nhiễm, nhân Tương vi tại sao chẳng đắc quả Ly hệ? Quyển 38 ghi: “Nghĩa là chủng tánh xuất thế gian đầy đủ, gặp Phật ra đời, giảng nói chánh pháp, thân gần bậc thiện, lắng nghe chánh pháp, như lý tác ý pháp tùy pháp hành, và cùng tất cả pháp Bồ-đề phần là pháp Tạp nhiễm, nhân Tương vi”. Do đây, chẳng nói đắc quả Ly hệ. Nhưng luận kia giải thích nhân Thanh tịnh pháp là nếu Tạp nhiễm phẩm các nhân Tương vi, phải biết tức là nhân Thanh tịnh pháp. Nên biết Tạp nhiễm, nhân Tương vi cũng đắc quả Ly hệ. Trong đây chỉ nói nhân Thanh tịnh thuận, nên lược chẳng nói. Lại cùng tạp nhiễm làm nhân Tương vi, pháp tạp nhiễm chẳng phải quả Ly hệ nên chẳng đắc.

Nhiếp luận quyển 4 ghi: “Đây lại thế nào? Nghĩa là thân, thân giả, thọ giả, thức, sở thọ thức kia, năng thọ thức kia, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức”. Đây do danh ngôn huân tập chủng tử, nếu tự tha sai biệt thức. Đây do ngã kiến huân tập chủng tử, nếu thiện thú ác thú sinh tử thức. Đây do chi hữu huân tập chủng tử. Do đây, các thức do tất cả giới thú tạp nhiễm nhiếp, y tha khởi cùng hư vọng phân biệt đều được hiển hiện.

Trong ba huân tập, dùng tám môn biện rõ:

  1. Nêu thể.
  2. Giải thích tên gọi.
  3. Phế lập, nên tư duy.
  4. Ba cõi, cõi Vô sắc định quả sắc, thanh có cũng không lỗi.
  5. Ba tánh.
  6. Tám thức.
  7. Hữu lậu Vô lậu.
  8. Vị thứ.

Tại sao quyển 2 nói năng biến chỉ có Đẳng lưu và Dị thục, chẳng nói ngã chấp, trong đây nói ư?

Mười hai chi phế lập, như luận Biện Trung Biên quyển 1 ghi: “Phú chướng và an lập, dẫn dắt, nhiếp, viên mãn, ba phân biệt, thọ dụng, dẫn khởi đều buộc liền vì đây là khổ và quả hiện tiền. Chỉ đây não thế gian; ba, hai, bảy tạp nhiễm, do hư vọng phân biệt.

Luận nói chi thức đã là sở dẫn, tức hiển nghiệp chủng thuộc về nghiệp năng dẫn, như thức tức nghiệp là năng dẫn, thức chủng gọi là sắc thâu, cùng ba chủng, hai chủng duyên sinh nhiếp nhau.

Hỏi: Do đâu phát nghiệp cần phải hiện vô minh, nhuận trong nghiệp vị cũng thông duy chủng?

Đáp: Hai lý đều ngang bằng. Phước dị sinh, bất động trong Bất phóng dật chỉ có chủng phát. Kinh nói chẳng phải vô minh phát, nếu chủng cũng chẳng phát, đâu thể được gọi là chẳng phải minh làm duyên, chẳng phải trái với chi hữu, có khác gì với Kiến đế? Do đây nên biết, duy chủng cũng phát.

Hỏi: Nếu vậy, tại sao sinh cõi trên, chi hành ban đầu chẳng duy chủng phát? Có hiện vô minh làm nhân thù thắng khởi mê nghĩa chân thật vì ngu hiện thấy có, chẳng đồng Bất phóng dật dị sinh.

Quyển 89 ghi: “Năng thủ, sở thủ, sở làm thủ gọi là chi thủ”. cõi Dục sinh ác thú cực trọng, thấy tướng ác rồi chẳng sinh mong cầu nghiệp cõi Dục nhẹ dẫn và hai giới trên. Sinh tử ác thú là chẳng thấy tướng ác, thấy tướng vãng sinh đồng loại, liền ngay đời này mong cầu căn ái, duyên khởi chẳng y nghĩa trước nên nói không nói cầu, gồm ái kiến trong chi hữu. Nếu chẳng như vậy, cõi trên chẳng sinh ác thú, nên không có ái, thủ. Hiện tại và vị lai đều chẳng có ái. Trong đây, chi giả quấy tha làm tự gọi là giả, chẳng quấy tha làm tư gọi là chẳng phải giả, chẳng nói trong chi tự không có thể dụng gọi là giả. Trong hành có giả gọi là tư v.v… sắc.

Thức chỉ nói một sự, trái với Du-già quyển 9, nó chọn lấy sáu thức, nên quyển 93 ghi: “Nó nương tất cả tương tục làm luận, chẳng phải thể chi thật, vì đây nói là thật”.

Pháp nên đoạn, quyển 59 ghi: “Từ tương ưng kia và sở duyên nên phiền não có thể đoạn”. Tại sao như vậy? Đối trị đạo sinh phiền não, chẳng khởi được pháp vô sinh, cho nên nói đoạn tương ưng kia, tương ưng đoạn rồi chẳng duyên lại cảnh, nên từ sở duyên cũng gọi là đoạn. Nhưng quyển 65 ghi: “Do năm tướng nên kiến lập Hữu lậu: một là do sự, hai là vì Tùy miên, ba là vì Tương ưng, bốn là vì Sở duyên, năm là vì Sinh khởi.

Thế nào là pháp sự Hữu lậu? Nghĩa là sắc bên trong thanh tịnh, và sắc bên ngoài cùng y, chẳng cùng y kia, hoặc các tâm tâm sở nhiễm ô, hoặc thiện, hoặc tâm tâm sở Vô ký v.v… pháp Hữu lậu này tùy chỗ ứng đó do bốn tướng khác gọi là Hữu lậu, nghĩa là vì Tùy miên v.v… Nếu ở các sắc thanh tịnh và ở như chỗ trước nói trong tất cả tâm tâm sở, chủng tử phiền não chưa hại chưa đoạn gọi là Tùy miên, cũng gọi là thô trọng. Nếu nó cho đến chưa được đoạn không còn thừa, nên biết tất cả do Tùy miên, nên gọi là Hữu lậu. Trong đây ý nói đối với sắc thanh tịnh nếu nhiễm thiện tâm tâm sở Vô ký v.v… do tất cả phiền não có chủng tử chưa hại chưa đoạn, gọi là Tùy miên, cũng gọi là thô trọng, nên do Tùy miên gọi là Hữu lậu. Đối với tâm sở này, nếu có tâm và tâm sở nhiễm ô, do tương ưng nên gọi là Hữu lậu, cùng nó đồng thời. Nếu các hữu sự, như chỗ hiện lượng hiện hành, như chỗ Hữu lậu sinh, chỗ tăng thượng khởi, chỗ tất cả Hữu lậu duyên như vậy, nên gọi là Hữu lậu. Trong đây, hiện tại gọi là hữu sự, quá khứ và vị lai gọi là chẳng phải hữu sự, tức trong hiện tại. Nếu nương sắc thanh tịnh, chỗ năm thức hành gọi là chỗ hiện lượng hành. Ý đây tức năm thức và chỗ chung cùng ý duyên năm trần gọi là chỗ hiện lượng hành. Nếu các chỗ hành khác, gọi là chẳng phải chỗ hiện lượng hành. Nếu các trần bên trong tăng thượng sinh khởi tất cả xứ bên ngoài thì gọi là chỗ Hữu lậu sinh chỗ tăng thượng khởi, tức biến xứ bên ngoài của Thức thứ tám v.v… Hoặc tuy chỗ hiện lượng hành, chẳng phải chỗ duyên nên thành Hữu lậu, gọi là cảnh giới tất cả định tâm v.v… Cho nên lớp thứ ba nói chỗ Hữu lậu sinh, chỗ tăng thượng khởi, chỉ ở Thức thứ năm, thứ sáu, thứ tám duyên năm trần. Chỉ những gì mà nó duyên phải biết là Hữu lậu. tại sao như vậy? Nếu duyên quá khứ và vị lai khởi các phiền não, quá khứ và vị lai chẳng phải là hữu sự, nên chẳng do chỗ duyên gọi là Hữu lậu. Nếu sự hiện tại chẳng phải chỗ hiện tại hành như sắc thanh tịnh và tất cả nhiễm ô, thiện, tâm tâm sở Vô ký, nó cũng chẳng phải phiền não sở duyên nên gọi là là Hữu lậu, chỉ do chỗ tự phân biệt khởi tướng mà khởi các phiền não, chẳng phải các pháp kia vì đây phân rõ cảnh sở hành. Theo đây chỉ có năm cảnh, hai trần căn bản, ảnh ở hiện tại gọi là chỗ duyên Hữu lậu, ngoài ra tất cả đều chẳng phải. Do sinh khởi nên thành Hữu lậu nghĩa là các Tùy miên chưa vĩnh viễn đoạn, vì thuận cảnh phiền não hiện tại trước. Đối với hiện khởi kia chẳng như lý tác ý. Do nhân duyên này, tất cả hữu pháp đang sinh, đã sinh hoặc sẽ sinh, tất cả như vậy, do sinh khởi nên gọi là Hữu lậu. Lại từ tất cả bất thiện phiền não, các quả Dị thục và quả Dị thục tăng thượng dẫn sự bên ngoài sinh khởi, tất cả như thế cũng sinh khởi, nên gọi là Hữu lậu, cho đến nói rộng tướng của sinh khởi Hữu lậu. Đang sinh là lậu chung cùng, sẽ sinh là dẫn khởi, đã sinh là gián sinh, và tương ưng, sở duyên hợp có năm so sánh. Đây nói Hữu lậu tuy năm tướng sai khác, nhưng luận về đoạn môn, chánh đối trị đoạn chẳng vượt qua hai thứ. Hai thứ thân gần và thưa xa đều là sở duyên trói buộc, nên luận nói đoạn chẳng vượt qua hai thứ. Nay nói nghĩa riêng biệt thân gần và thưa xa có khác, nên có khác của chỗ hiện lượng hành v.v… Nếu chẳng như vậy thì Thức thứ bảy duyên Thức thứ tám nên chẳng gọi là tàng, năng duyên đoạn nên gọi là sở duyên đoạn, do đó chỉ nên nói như trong đây. Lại giải thích hai đoạn kia là Tùy chuyển lý môn, nay căn cứ thật nghĩa nên nói Hữu lậu có năm tướng đó. Nhưng các Hữu lậu, lược làm năm so sánh:

Thứ nhất, năm trần ngoài trời người chỉ do một sở duyên trói buộc gọi là Hữu lậu, chẳng ở bên trong nên chẳng phải lậu chung cùng.

Thứ hai, năm căn nội trần trong nẻo thiện do hai thành Hữu lậu, đó là sở duyên và lậu chung cùng, vì ở bên trong, trần bên ngoài nghiệp bất thiện của nó cũng hai: một là sở duyên; hai là lậu dẫn.

Thứ ba trừ quả ác thú, ngoài ra Vô phú, Vô ký tâm tâm sở do ba duyên:

  1. Sở duyên, như Thức thứ bảy duyên Thức thứ tám v.v…
  2. Lậu chung cùng.
  3. Gián sinh, năm căn bốn trần bên trong ác thú cũng do ba duyên, đó là sở duyên, lậu đồng thời và lậu dẫn.

Thứ tư, thiện tâm tâm sở do bốn duyên, đó là sở duyên, lậu đồng thời, gián sinh và lậu dẫn. Quả ác thú Vô phú Vô ký tâm tâm sở đó cũng có bốn, do chỗ dẫn của Hữu lậu bất thiện.

Thứ năm, tất cả tâm tâm sở nhiễm ô do năm duyên, đó là sở duyên, lậu đồng thời, gián sinh, lậu dẫn và tương ưng.

Tương ưng, sở duyên hai trói buộc của Đại thừa khác với Tiểu thừa. Thể của lậu là phiền não và tùy. Tám thức, biến hành, biệt cảnh, bất định tánh là Vô ký, cùng mười một thiện tương ưng gọi là thiện. Tâm, tâm sở đó cùng phiền não và tùy phiền não chung cùng gọi là tâm tâm sở nhiễm. Phiền não đó và tùy là tự tánh đoạn pháp, tương ưng với đồng thời gọi là đoạn, tức tất cả tâm tâm sở nhiễm đều tương ưng đoạn. Ngoài ra, pháp chẳng nhiễm là sở duyên đoạn. Sở duyên thưa xa thông tất cả hữu. Trong văn luận nói tự tánh đoạn, tức tâm tâm sở nhiễm. Lìa duyên phiền não là tức hai sở duyên thân gần và thưa xa. Tạp phiền não của nó là Câu sinh tạp, Dẫn sinh tạp, và Gián sinh tạp. Do đây nên phân biệt, Thức thứ tám năng duyên nẻo thiện có hai nghĩa: một là Sở duyên, hai là Lậu chung cùng.

Nẻo ác có ba, thêm lậu dẫn. Tướng phần hiện hành của Thức thứ tám, tùy nẻo thiện nẻo ác cũng vậy, nhưng Tướng phần các chủng tử, tùy các hiện hành phân biệt đủ nghĩa, trần bên ngoài chẳng phải vậy.

Kiến phần của Thức thứ bảy có năm duyên:

  1. Tương ưng.
  2. Sở duyên.
  3. Dẫn khởi.
  4. Gián sinh.
  5. Lậu chung cùng, là nhiễm ô.

Tướng phần thông hai tánh tình và bản, chỉ có sở duyên, lậu chung cùng cũng được lậu dẫn, vì ảnh tượng tại tâm, nhiễm là kiến dẫn. Kiến phần của Thức thứ sáu thông ba tánh, như trước nói ba tánh tâm tâm sở. Hai tâm oai nghi và công xảo trong Vô ký do ba thứ đó là Gián sinh, Câu sinh và Sở duyên. Trong đây, sở duyên do duyên chủng tử, hiện hành cũng gọi là sở duyên. Quá khứ và vị lai không có thể, hiện tại hẳn không có tâm nhiễm duyên nó, ngoài ra đều chuẩn cứ như đây. Tâm Dị thục do bốn thứ, là ba thứ này thêm Lậu dẫn. Nó thông quả Vô ký tâm tâm sở do hai duyên: một là Sở duyên, hai là Lậu chung cùng.

Thiện tâm, tâm sở do bốn thứ đó là Lậu chung cùng, Gián sinh, Sở dẫn và Sở duyên. Nhiễm ô do năm thứ. Trong Tướng phần, tất cả Dị giới duyên, Vô lậu duyên, Vô bản chất duyên đều gọi là Độc ảnh, chuẩn cứ năng duyên nói chỉ trừ tương ưng. Nẻo thiện có bản chất riêng duyên năm căn và năm trần bên trong do hai duyên, đó là Sở duyên và Lậu chung cùng. Quả bên ngoài nẻo ác cũng có hai, đó là Sở duyên và Lậu dẫn. Căn trần bên trong nẻo ác do hai thứ là Sở duyên và Lậu dẫn đều đồng căn môn trước. Kiến phần năm thức cũng thông ba tánh, đều đồng Thức thứ sáu. Tướng phần bên ngoài nẻo thiện chỉ sở duyên, bên trong thông cả lậu chung cùng, nẻo ác thêm Lậu dẫn. Tuy có Hữu lậu nhưng chẳng đồng như vậy, chỉ vì hai trói buộc tương ưng và sở duyên, tăng thượng đoạn tùy hai thứ, chẳng y đoạn lậu chung cùng v.v… gọi là đoạn, như phân biệt trong Chứng thứ sáu của Thức thứ bảy.

Trong ba khổ, nếu theo tướng sinh khổ thì một và hai chỉ có dục, một khổ sau thông cả ba. Nếu căn cứ tánh thì Khổ khổ chỉ là dục vì có duyên bức bách. Hoại khổ thông cõi Sắc, vì có lạc thọ. Như trong kinh nói vào biến hoại tâm, một loại sau, thức v.v… sáu chi trong ba thọ đã là chủng tử, làm sao tương ưng? Giải thích có hai nghĩa:

1. Y vị Đương sinh mà nói.

2. Y nghĩa tùy thuận câu hữu cũng không trái, nên chủng tử gọi là Câu, vì câu là tên khác của tương ưng. Nếu vậy, y chi hữu không có Đương sinh, làm sao tương ưng? Thức v.v… năm thứ sẽ có hiện hành chủng tử gọi là tương ưng. Chi hữu oai lực từng ở trong chi hành v.v… có tương ưng. Chủng cũng gọi là tương ưng, hoặc từ vị Đương sinh của Thức v.v… mà nói.

Quyết trạch phần nói khổ v.v… thể của bốn Đế, như sớ giải thích.

Trong Nhiếp sự phần nói trong mười hai phần nghịch quán, chi sinh và thức v.v… cả năm đều là Lão tử tập, tức thể của Khổ và Tập đồng. Tập có hai thứ:

1. Chiêu cảm Dị thục gọi là Tập, tức Quyết trạch nói chỉ có nghiệp và phiền não.

2. Năng sinh khổ quả gọi là Tập, là chi sinh v.v… trong phẩm Nhiếp sự.

Hai luận tuy khác nhưng chẳng trái nhau. Hai thứ sinh tử, dùng tám môn phân biệt:

  1. Nêu thể.
  2. Giải thích tên gọi.
  3. Biện rõ tướng chiêu cảm sinh tử sai biệt.
  4. Giải thích vị thứ.
  5. Giải thích đắc xứ.
  6. Bốn thứ sinh tử tương nhiếp.
  7. Tổng hợp ba thứ sinh tử chẳng đồng.
  8. Hỏi đáp phân biệt.

Thể và tên gọi, hỏi đáp như ba môn trong luận giải thích. Đắc xứ, như quyển 7 trước nói trong Thức thứ tám sinh Vô lậu, nhưng nên cân nhắc chọn lựa các quả chẳng đồng. Vị thứ Dự lưu v.v… Sơ địa tức đắc, như Du-già, Quyết trạch, Thanh văn địa và luận Phật Địa giải thích. Ba thứ sinh tử đó chẳng đồng, như trong sớ nêu dẫn kinh Lăng-già. Nhưng, vả lại kinh Thắng Man và luận đây nói ba thứ thân y ba Thừa quyết định, kinh Lăng-già nói chỉ y Đại thừa đốn ngộ, khiếp sợ phiền não mà nói, hoặc nói chung cho bất định tánh sai biệt thắng vị, Địa tiền một kiếp cùng bản không riêng biệt, do đó chẳng nói.

Biện về tướng chiêu cảm sinh tử sai biệt, phần đoạn có hai: một là Tán, hai là Định. Trong tán có hai:

1. Như mười hai nhân duyên sinh, chỉ cõi Dục toàn vẹn. Cõi trên chỉ có ít phần, y sinh đắc thiện, đắc báo riêng biệt.

2. Y văn tư thù thắng sinh được thiện tâm, chuyển dài phước thọ, chỗ vốn tạp khởi chỉ tại cõi Dục, tâm nhanh mạnh.

Trong định có ba:

1. Hữu lậu định nguyện chuyển phước thọ hành, chỉ cõi Dục có.

2. Sinh bốn Tĩnh lự, dưới trời Quảng quả và bốn Vô sắc, chỉ nghiệp Hữu lậu huân ba phẩm thiền sinh.

3. Sinh năm Tịnh cư.

Hữu lậu Vô lậu tạp biến dịch chỉ hai:

1. Hữu lậu tán hạnh nguyện v.v… đều vô lậu, hợp với tư lương cho nên thành nghiệp. Nghĩa là từ Địa thứ bảy trở về trước, tất cả Nhị thừa đều đã hiện hành vô minh v.v… làm tư lương của duyên.

2. Từ Địa thứ tám trở lên chỉ có tư của Vô lậu định, hiện hành trí chướng v.v… đều đã không có.

Nhiếp bốn sinh tử, kinh Vô Thượng Y ghi: “A-nan! Tất cả A-la- hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát Thập Địa, vì bốn thứ chướng nên chứng đắc Pháp thân Như Lai; bốn đức Ba-la-mật. Bốn thứ ấy là gì? Một là sinh duyên, hai là sinh thân, ba là hữu hữu, bốn là vô hữu. Thế nào là sinh duyên hoặc? Tức là vô minh trụ địa hay sinh tất cả hành, như vô minh sinh nghiệp. Thế nào là sinh nhân hoặc? Là chỗ vô minh trụ địa sinh các hành, thí như vô minh sinh ra các nghiệp. Thế nào là hữu hữu? Duyên vô minh trụ địa, nhân vô minh trụ địa khởi nên Vô lậu hành, ba thứ ý sinh thân sinh, thí như bốn thủ làm duyên, ba nghiệp Hữu lậu làm nhân, khởi ba thứ hữu. Thế nào là vô hữu? Duyên ba thứ ý sinh thân, chẳng thể hay biết vi tế đọa diệt. Thí như duyên sinh trong ba hữu, niệm niệm già chết”. Văn sau lại nói: “A-nan!Trong ba cõi có bốn thứ nạn: một là nạn phiền não hai là nạn nghiệp, ba là nạn sinh báo, bốn là nạn lỗi lầm. Vô minh trụ địa khởi ra phương tiện sinh tử, như nạn phiền não bên trong ba cõi. Vô minh trụ địa khởi nên nhân duyên sinh tử, như nạn nghiệp bên trong ba cõi. Vô minh trụ địa khởi nên hữu hữu sinh tử, như nạn sinh căn bên trong ba cõi. Vô minh trụ địa khởi nên vô hữu sinh tử, như nạn lỗi lầm bên trong ba cõi”. Hữu hữu là có ba cõi, có Dị thục thể.

Vô hữu là không có khổ khổ v.v… chỉ có tướng hành khổ. Vì Vô lậu tư sinh tử cũng gọi là nạn.

Hỏi đáp phân biệt, đã được biến đổi qua ba đại kiếp cũng có biến đổi được trăm kiếp Lân Giác chăng? Đáp: Chẳng được, vì không lấy sở tri chướng làm duyên. Nếu chỗ lưu thân Hữu lậu, chỗ định nguyện trợ giúp là thuộc về thân phần đoạn. Giả sử thừa nhận chỗ Vô lậu định nguyện trợ giúp cảm phần đoạn đó, có lỗi lầm gì mà chẳng thừa nhận? Vì cực thắng nên chẳng phải thuộc phần đoạn. Chẳng phải biến dịch là chẳng được Vô lậu giúp thân trụ lâu, vì thế lực kém.

Đối Pháp quyển 14 nói mười phân biệt, đó là: Vô tánh phân biệt, Hữu tánh phân biệt, Tăng ích phân biệt, Tổn giảm phân biệt, Một tánh phân biệt, Dị tánh phân biệt, Tự tánh phân biệt, Sai biệt phân biệt, Tùy danh nghĩa phân biệt, Tùy nghĩa danh phân biệt. Rộng như luận kia kết hợp giải thích văn kinh Bát-nhã.

Đoạn trước và sau trong Chứng ba tánh khác với ba đoạn văn nói về các xứ, như trong chương Duy thức giải thích. Tại sao lý hai Không có cạn sâu? Ngộ sinh chưa hẳn ngộ pháp. Hai tánh cạn sâu, lúc chẳng ngộ sâu hẳn chẳng ngộ cạn, cần phải đạt lý mới đạt sự ư? Đáp: Hai lý chướng riêng biệt, đoạn sinh chấp chẳng ngộ pháp Không. Hai tánh không chướng riêng biệt, lúc chẳng ngộ gốc chẳng thể ngộ việc ngọn. Chưa có trước ngộ sự mà sau ngộ tánh Không. Ngộ lý chân mới rõ sự tục, tư duy đó có thể biết.

Ba môn giải thoát không đồng với nhiếp hành của các luận, lẽ ra nên giải thích như Biệt sao.

Vô tánh vô thường, Đối Pháp v.v… nói Khổ đế vô thường hành đều có hành này. Mới đầu trừ sở chấp, kế tiếp quán y tha, cũng có thể tánh, Đế chung cùng thật. Pháp sở biến kế, chỉ nói y tha, là chỉ Luận sư Hộ Pháp, hay cũng chỉ An Tuệ? Văn hai sư đây, Luận sư Hộ Pháp thân lấy Tướng phần, Luận sư An Tuệ thì bản chất đều được. Hai giải thích đều được, hãy xem văn đó.

Nhiếp Đại thừa ghi: “Bồ-tát như vậy ngộ nhập ý ngôn tợ nghĩa tướng, nên ngộ nhập Biến kế sở chấp. Ngộ nhập Duy thức nên ngộ nhập tánh Y tha khởi. Nếu đã diệt trừ ý ngôn nghe pháp huân tập chủng loại tướng của Duy thức, cho đến khi ấy Bồ-tát bình đẳng, bình đẳng trí không phân biệt đã được sinh khởi, ngộ nhập tánh Viên thành thật”. Lại nói: Danh, sự hỗ tương làm khách, tánh đó lẽ ra tầm tư, đối với hai tánh cũng phải suy tầm chỉ là lượng và chỉ là giả. Thật trí quán không có nghĩa, chỉ có phân biệt thành ba, kia không nên đây không, tức là nhập ba tánh. Nửa bài tụng đầu ngộ nhập Biến kế sở chấp, nửa bài tụng kế ngộ nhập tánh Y tha khởi, một bài tụng sau ngộ nhập tánh Viên thành thật. Luận Thành Duy Thức ghi: “Chẳng phải chẳng thấy Chân như mà khéo rõ các hành đều như huyễn sự v.v… tuy có mà chẳng phải chân thật, ba xứ trên dưới như vậy chẳng đồng”. Văn phần đầu Nhiếp luận nói Noãn và Đảnh hai vị ngộ nhập sở chấp, Nhẫn và Pháp đệ nhất ngộ nhập Y tha, Sơ địa sơ tâm nhập Viên thành thật.

Nhiếp luận quyển 2 ghi: “Noãn, Đảnh tầm tứ ngộ nhập hai tánh đầu, bốn trí như thật ngộ nhập Viên thành”. Văn luận Thành Duy Thức nói cần phải vào Sơ địa mới ngộ ba tánh, tuy có ba văn mà nghĩa lý chỉ hai: một là thật chứng, hai là tương tợ. Trong luận Thành Duy Thức căn cứ thật thân chứng, do hai trí Vô lậu chân tục trước sau mới có thể chứng hai tánh Hậu đắc. Lúc chứng hai tánh, chẳng thấy hai thủ, tức gọi là chứng Biến kế sở chấp kia không, không ccó pháp, thể cũng không, trí chứng nơi nào? Tâm sở biến không có Y tha khởi nghiệp, lý Chân như không có Viên thành thật nhiếp, nên Biến kế sở chấp chẳng nói riêng chứng, chỉ ở hai tánh chẳng thấy hai thủ, có thể gọi là ngộ nhập Biến kế sở chấp. Nhưng chánh thể trí đạt không chứng lý, phần nhiều nói trí này chứng Kế sở chấp, tuy trước Kiến đạo cũng đã chẳng thấy, chưa thân gần được hai nên không gọi là Chứng không, ở Sơ địa mới gọi là chứng đắc. Nhiếp luận, văn phần đầu nói ngộ Viên thành là căn cứ thật chứng đắc, cùng Duy thức đồng. Ngộ hai tánh trước là căn cứ tương tợ ngộ. Thời gian lâu dài phần nhiều ý giải thích tư duy hai tánh trước, thời gian ngắn phần ít tuy cũng tương tợ ngộ nhập Viên thành, chẳng phải thời gian lâu dài nhiều phần cũng chẳng phải thân chứng, nên căn cứ thật mà nói. Nhiếp luận, văn kế tiếp nói ngộ nhập ba tánh tổng căn cứ ý thú tương tợ mà nói. Mở đầu quán tên gọi, sự chẳng thuộc nhau nên gọi là ngộ sở chấp, tiếp quán các pháp chỉ có thức lượng và giả danh v.v…, tuy chưa chứng thật, gọi là ngộ Y tha. Như thật trí vị tuy thật có tướng mà chưa chứng chân. Hai thủ đều mất cùng chân trí quán tương tợ hướng vào, ý giải thích cũng cho là Chân như, nên thật trí vị, gọi là nhập Viên thành, thật chưa ngộ nhập. Nhiếp luận căn cứ tương tợ ý giải thích ba tánh riêng rõ ngộ nhập. Duy thức căn cứ chân thật, riêng chứng hai tánh, thông chứng sở chấp, tuy văn có khác mà chẳng trái nhau. Ngoài ra, các văn khác đều căn cứ giải thích này.

Nhiếp luận quyển 5 ghi: “Tám dụ, dụ Y tha”, tại sao không có nghĩa lúc biến kế chấp, hiển hiện rõ ràng tợ cảnh sở hành? Vì trừ nghi đây nói huyễn sự dụ, như thật không có tượng mà có huyễn tượng, cảnh giới sở duyên, tánh Y tha khởi cũng lại như vậy. Tuy Vô sắc v.v… sáu xứ sở duyên, lúc biến kế chấp tợ có sáu xứ sở duyên hiển hiện. Vo Tánh ở sau tự giải thích đây đối với sự bên trong sinh nghi. Các luận sư giải thích rằng, đây đối với thân sắc thanh hương v.v… bên trong mà sinh nghi hoặc nên gọi là huyễn sự dụ. Bồ-tát Thiên Thân có hai chữ “lại nữa” để giải thích. Giải thích thứ hai cho rằng huyễn dụ trong đây là trừ nhãn v.v… sáu loại xứ bên trong. Thí như huyễn tượng tuy thật chẳng phải có mà hiện có thể được, điều này chuẩn cứ theo sắc v.v… sáu xứ pháp bên trong của Vô Tánh. Nhãn v.v… là sắc nên nói sắc v.v… Nói sắc v.v… sáu xứ lý cũng không ngăn ngại. Nếu chẳng như vậy cùng chỗ trừ thứ hai, có gì khác nhau? Xưa giải thích là: Thứ nhất là thể của trần, thứ hai là khí giới, nên hai thứ khác nhau. Lại như sóng nắng vào lúc gió động, thật không có nước mà cảm giác như là có nước. Khí thế gian bên ngoài cũng lại như vậy. Lại như trong mộng ngủ say khởi lên tâm tâm sở tụ để cực thành muội lược, tuy không có nghĩa các thứ cảnh như nữ v.v… mà có cảnh giới thọ dụng như ái, chẳng phải ái; lúc tỉnh giấc cũng vậy. Lại như ảnh tượng trong gương trở lại thấy bản chất mà cho là nay ta riêng thấy ảnh tượng, mà ảnh tượng này thật chẳng có gì cả, chẳng phải đẳng dẫn địa thiện ác tư nghiệp bản chất làm duyên, quả ảnh tượng sinh cũng lại như vậy, Duy thức gọi là ảnh tượng trong gương. Lại, thí như ánh sáng ảnh do lộng ảnh là võng mạc che ánh sáng đó khởi các thứ ảnh, trong định địa v.v… các thứ thức đối với không thật nghĩa sai biệt mà chuyển. Lại như âm vang nơi hang hốc thật không có tiếng mà khiến người nghe tợ nghe nhiều thứ cảnh giới ngôn thuyết, các thứ ngôn thuyết ngữ nghiệp cũng vậy. Lại như trăng trong nước, do nước trơn nhuần lắng trong, tuy không có trăng mà trăng có thể nắm bắt, duyên chỗ cảnh thật nghĩa huân tu nhuần trong làm tánh, ý của các Tam-ma- địa tương ưng cũng lại như vậy, tuy không có sở duyên cảnh giới thật nghĩa mà tợ có chuyển. Đây cùng ảnh tượng thứ tư có gì khác nhau? Vì Định và Bất định địa mà có khác nhau. Lại như biến hóa nương biến hóa này gọi là biến hóa, tuy không có thật mà khéo hóa là không có điên đảo, đối với sự sở hóa thì có công dụng tạo tác. Bồ-tát cũng vậy, tuy không có Biến kế sở chấp hữu tình, nhưng đối với Y tha khởi các loại hữu tình là do xót thương mà đến nơi kia các chỗ sinh xứ nhiếp thọ tự thể. Vô Tánh giải thích rằng, nên biết trong đây dụ là có, chỗ hư vọng chấp sự, chỗ gọi là thọ dụng sai biệt trong ngoài, thân nghiệp, ngữ nghiệp, ba thứ ý nghiệp, chẳng phải Đẳng dẫn địa. Hoặc Đẳng dẫn địa, hoặc không có điên đảo, ở tám sự đây, chư Phật Thế Tôn nói tám thứ dụ, những người có trí nghe điều nói đó, đối với hai nghĩa của Định địa và Bất định địa khéo hiểu rõ đích xác.

Trong đây, bên trong là dụ huyễn sự thứ nhất, bên ngoài là dụ sóng nắng thứ hai, thọ dụng sai biệt là dụ cảnh trong mộng thứ ba, thân nghiệp là dụ bóng ánh sáng thứ năm, ngữ nghiệp là dụ âm vang trong hang hốc thứ sáu. Trong ba thứ ý nghiệp, thứ nhất chẳng phải Đẳng dẫn địa, là dụ ảnh tượng thứ tư. Nếu Đẳng dẫn địa là dụ trăng trong nước thứ bảy, nếu không điên đảo là dụ biến hóa thứ tám.

Bồ-tát Thiên Thân dùng hai chữ “lại nữa” để giải thích. Chữ “lại nữa” thứ hai giải thích rằng: nói huyễn sự dụ là trừ nhãn v.v… sáu xứ bên trong, nói sóng nắng dụ là trừ khí thế gian, nói sở mộng dụ là trừ cảnh thọ dụng như sắc v.v…, hiển bày như chỗ mộng sắc v.v… nhất định không có mà khéo làm nhân khởi thọ dụng sai biệt như ái, phi ái. Nói ảnh tượng dụ là trừ thân nghiệp quả, hiển bày thiện nghiệp bất thiện nghiệp làm duyên mà có các thứ sắc ảnh tượng v.v… sinh khởi. Nói âm vang hang hốc dụ là trừ ngữ nghiệp quả, hiển bày ngữ nghiệp nhân cảm ngữ nghiệp quả giống như âm vang trong hang hốc. Nói ánh sáng ảnh dụ là trừ phi Đẳng dẫn địa các ý nghiệp quả, hiển bày chỗ ý nghiệp đây được các quả, giống như ánh sáng ảnh, nói trăng trong nước dụ là trừ Đẳng dẫn địa các ý nghiệp quả, hiển bày Đẳng dẫn địa các ý nghiệp quả giống như trăng trong nước. Nói biến hóa dụ là trừ nghe chủng loại ý nghiệp, nghe chủng loại tức là chỗ huân tập của văn tư. Đây tức hiển bày nghe chủng loại ý sai biệt mà chuyển, giống như biến hóa. Ý đây là trừ thọ dụng sai biệt trong ngoài, thân ngữ nghiệp quả, ba thứ ý nghiệp, nên nói tám dụ, chẳng đồng với Vô Tánh. Kim Cương Bát-nhã ghi: “Tất cả pháp Hữu vi; như sao, che, đèn, huyễn; sương, bọt, mộng, chớp, mây; nên quán như vậy”. Trong đây có chín dụ, Bồ-tát Thiên Thân giải thích rằng, riêng dụ chín sự, đó là kiến, tướng, thức, khí, thân, thọ, quá khứ, hiện tại và vị lai nên nói chín dụ, mỗi mỗi nương vào nghĩa riêng. Chẳng thể kết hợp đồng nhau, giải thích bài tụng khác nhau. Luận Biện Trung Biên nói tám dụ, thông hai tánh Y tha và Sở chấp, tợ dụ Y tha, thật dụ Sở chấp, cũng không trái nhau.

Ba tánh trong cảnh phàm thánh, trước sau bốn văn và nên thật nói hợp lại thành năm, như lý nên tư duy.

Nên tổng lập ba giải thích, đó là nên lập một Thật một Giả. Chân như thật vì đây là nghĩa thù thắng. Như quyển 100 ghi: “Ngoài ra, thế tục giả, hoặc chẳng đợi đây. Ngoài ra, như sắc thọ v.v… phải đợi đây. Ngoài ra giả như bình v.v… hoặc chẳng đợi danh ngôn thật, đó là tất cả pháp đợi danh ngôn giả, đó là tất cả pháp”. Như Tạp Tập quyển 3 sớ giải thích.

Du-già quyển 60 giải thích về nghiệp, nghiệp đạo v.v… trái với Duy Thức quyển 1, nên xem xét.

**********

Hỏi: Ngu phu đối với Tăng ích kia vọng chấp là cũng có tà kiến bác bỏ không có, tạo sao chỉ nói Tăng ích?

Đáp: Vì nhiều phần, vì pháp môn chấp ngã hẳn Tăng ích. Nói có ba tánh ngăn Tổn giảm môn, nói ba vô tánh ngăn Tăng ích môn .

Y tha khởi không có tự nhiên sinh, tự nhiên có hai:

1. Không có nhân tự nhiên sinh, nêu đây nhiếp tất cả không có nhân.

2. Vì tự nhiên là nhân sinh, nêu đây nhiếp tất cả minh tánh v.v… chẳng bình đẳng nhân sinh.

Không có đây, không có nhân tự nhiên và không có bất bình đẳng nhân tự nhiên sinh, nên gọi là tự nhiên không sinh.

Trong y tha khởi cũng có không có nhân, ác nhân chẳng phải một hoành chấp, tại sao chỉ ngăn tự nhiên sinh?

Đáp: Tạm nêu tự nhiên, ngoài ra bất bình đẳng nhân đều thuộc ở đây. Đây nói ba, Vô Tánh phá các lỗi tăng ích khác. Ngoài ra, Tổn giảm môn chỗ ba tánh trái ngược nên chẳng phải phá không có nhân.

Tánh y tha khởi gọi là Thắng nghĩa vô tánh, văn luận chỉ nói hữu vô, chẳng phải tánh của thắng nghĩa, gọi là Thắng nghĩa vô tánh, cũng có thể là Thắng nghĩa, không có Biến kế sở chấp gọi là Thắng nghĩa vô tánh, đây là nghĩa sở hành của Hậu đắc trí. Như nói bốn Thắng nghĩa kia nhiếp, luận được không nói, nhưng lý thì có.

Trong Duy thức chỉ có hai đối, tại sao chẳng nói hai loại trước để làm hư vọng? Vì Vô lậu Hữu vi chẳng phải hư vọng. Tại sao chẳng nói hai loại trước để làm Thế tục đối thắng nghĩa? Như nói trong hai Thắng nghĩa, nghĩa trước cũng gọi là Tục. Nay căn cứ hữu thể gọi là Thế tục, vì nó không có thể. Lý thật cũng có, vì chuẩn cứ hai Đế. Trong đây, thật tánh chỉ lấy Chân như chỉ có môn Thường và Vô thường, chẳng nói môn Lậu và Vô lậu vì Vô lậu Hữu vi chẳng phải thật tánh.

Nhiếp luận nói bốn vị tu Duy thức, như chương Duy thức giải thích. Oai nghi, công xảo trong Lý thật cùng sở tri chướng pháp chấp cũng chung cùng, nay đứng về hành riêng lẻ nói chẳng phải oai nghi v.v… cũng không trái nhau. Căn cứ lúc thật chấp chẳng phải tâm kia là tâm kia v.v… mà chẳng khởi chấp.

Ba mươi bảy phẩm dùng chín pháp làm thể. Biến hành có một đó là hỷ thọ. Biệt cảnh có ba đó là niệm, định và tuệ. Thiện có bốn đó là tín, tinh tấn, xả và khinh an. Sắc pháp có một đó là đạo cộng vô biểu.

Hỷ có một, đó là hỷ giác chi. Niệm có bốn là căn, lực, giác, đạo, mỗi thứ có một. Định có tám là bốn thần túc; căn, lực, giác, đạo, mỗi thứ có một. Tuệ có chín là bốn niệm tru; căn, lực, giác, chi, mỗi thứ có một. Đạo có hai, đó là chánh kiến, chánh tư duy, vì tự trong tư duy là nương tuệ tầm. Phật quả chỉ có tuệ. Du-già quyển 57 ghi: “Ba mươi bảy phẩm cùng năm căn làm sao tương nhiếp? Đạo phẩm nhiếp căn, chẳng phải căn nhiếp đạo, đó là: ngữ, nghiệp, mạng, hỷ, an, xả cho nên chánh tư duy, thể của nó tức tuệ. Tín có hai đó là căn và lực. Tinh tấn có tám, đó là bốn chánh đoạn, trong căn lực giác đạo mỗi thứ có một. Xả có một, đó là xả giác chi. Khinh an có một, đó là an giác chi. Vô biểu có ba, đó là chánh ngữ, nghiệp và mạng, nên chín phẩm mở thành ba mươi bảy phẩm. Bốn nhiếp sự thí lấy vô tham và ba nghiệp làm thể. Ái ngữ lấy ngữ nghiệp làm thể. Lợi hành, đồng sự, ba nghiệp làm tánh, đó là vô tham và tư. Giả thật hòa hợp mà nói vậy. Bốn vô lượng lấy ba pháp làm thể, đó là vô sân, bất hại và xả. Hỷ lấy bất tật làm thể, thể tức vô sân, nên chỉ có ba pháp. Lục độ hợp lấy chín pháp hoặc mười một pháp làm thể. Biến hành có một, đó là tư. Biệt cảnh có bốn là dục, thắng giải, định, tuệ. Thiện có bốn là tín, tinh tấn, vô tham, vô sân. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, biểu sắc, vô biểu sắc như thế mà biết. Từ đây trở xuống nói rộng đồng như phần Lục độ ở sau. Bốn thiện căn đã chỉ cõi Sắc năm địa, lại đối chiếu Vô sắc không có Vô lậu kiến đạo, nên là Hữu lậu tu, như đã nói ở trước.

Nhập Kiến đạo chỉ y thân nẻo thiện ở cõi Dục khởi, ngoài ra tâm tuệ nhàm chán chẳng phải thù thắng, là đây y sở tri chướng chung cùng có phiền não chướng đối trị, hoặc chỉ đoạn phiền não chướng, vào nghĩa Kiến đạo, chẳng phải y nghĩa chỉ đoạn sở tri chướng đối trị, vì cõi Dục kiến đạo phiền não có bất thiện, năm nẻo, bốn loài, tâm nhàm chán có thể vào Kiến đạo sâu. Cõi trên chẳng như vậy, nếu chỉ đoạn sở tri chướng, chẳng nhờ tâm nhàm chán sâu, chỉ cầu Bồ-đề chẳng vui thích giải thoát, cõi trên cũng được vậy, có Thanh văn ở cõi Sắc hồi tâm vào Kiến đạo v.v… đây gọi là trực vãng, kia nói là đến nhóm hợp, cũng không trái nhau.

Quyển 73 giải thích vô tướng chọn hữu tâm sở có mười lần giải thích, nên xem văn đó. Hỏi: Nếu thừa nhận trí Vô phân biệt có kiến không có tướng, như Tự chứng phần, sao chẳng tức duyên tự chứng? Nếu vì trong ngoài thủ nên chẳng được, đã vậy, nên thành chỗ Tướng phần nhiếp, tức Tự chứng phần nên chẳng thành Tướng phần, tức tự chứng nên duyên tự chứng. Nếu vì tướng tánh riêng biệt nên chẳng được duyên là tướng tánh riêng biệt nên Tướng phần duyên, nó không tướng nên chẳng thể làm so sánh. Lại, lẽ ra Vô phân biệt nên gọi là không thể chọn thật có Tướng phần, lẽ ra Vô phân biệt nên gọi là không có thật tướng, có Tướng phần. Tướng tức là tướng trạng, trạng mạo, không có tướng trạng này thì pháp của thể tướng chẳng phải là không có thể của cảnh. Vì tướng sai biệt của vô phân biệt nên gọi là không có Tướng phần. Nói Kiến phần thông cả phi phân biệt, nên trí kia có.

Kiến đạo, hai sư nói Thắng tấn đạo duyên gì làm cảnh? Tức duyên cảnh của Giải thoát đạo, lại không có hành tướng riêng, nghĩa này nên tư duy. Có nghĩa tiệm là, y sớ dùng ba tâm làm tiệm. Quyển 59 ghi: “Ba tâm là đốn”, chuẩn cứ văn đây giải thích, đốn thông một tâm, ba tâm. Các giải thích tiệm như Biệt sao nhiều ít dẫn riêng.

Ba tâm phân thô tế như Biệt sao quyển 1 giải thích. Kiến đạo của Đại thừa là chỉ an lập, cũng có một tâm chẳng phải an lập, có hai thuyết; hoặc có hoặc không. Ba tâm Kiến đạo Nhị thừa đó là chỉ đoạn nhân chấp, chỉ y hai tâm, chẳng phải an lập cũng không ngăn ngại. Hai loại mười sáu tâm, Đế cảnh trên dưới tạo tác trước, mười sáu tâm trước tạo tác sau. Trước quán sơ sự, sau quán kỹ lý. Lại, các giáo chỉ nói Đạo loại trí gọi là đã biết căn, vì kiến lập quả Dự lưu. Nay lấy tướng thô hiển, do đó trước nói quán trí, sau nói hiện tiền, chẳng hiện tiền, y thân cõi Dục nhập hiện quán. Luận sư đối với phi Sắc giới nhập hiện quán cũng vậy. Họ nói cõi trên cõi dưới riêng biệt. Mười sáu tâm đây, Độc giác Thánh giả tại sao chẳng nói? Vì hành vi chẳng ra khỏi quán, tâm đây chưa mãn, tuy đến tâm thứ mười sáu vẫn chẳng gọi là quả thứ ba. Nếu chẳng phải tưởng đoạn chín phẩm chướng, vô gián, giải thoát, sát- na, tư duy đó có thể biết. Nếu chẳng tạo tác tướng Kiến đạo này thì có ý gì? Ý đó nên tư duy.

Ba thứ hiện quán hãy xem trong phần Sao. Thánh tánh, có giải thích lấy chung tất cả năng sinh hiện hành chủng tử Vô lậu, chẳng đồng dị sinh tánh, vì nó khéo phát nghiệp chiêu sinh phẩm loại, chỉ có Kiến đạo. Từ Địa thứ tám trở lên, Bồ-tát chẳng sinh cõi Dục, tại sao chẳng gọi là Bất hoàn? Lại có tánh bất định vì muốn trở lại sinh cõi Dục, Bồ- tát đốn ngộ trở lại cõi Dục làm việc lợi sinh.

Đối Pháp quyển 13 nói mười hiện quán gồm:

1. Pháp hiện quán, tối thắng thuận giải thoát phần chỗ thiện căn nhiếp thanh tịnh thắng giải. Nếu chuẩn cứ Du-già nói sáu hiện quán, chỉ có thủ hỷ thọ tương ưng tư sở thành tuệ. Nếu chuẩn cứ luận Hiển Dương nói mười tám hiện quán, thông văn tư tu, ba tuệ tối thắng. Nhưng Đối Pháp giải thích nghĩa hiện quán, tức ở như chỗ trên nói trong pháp. Như lý tác ý tăng thượng duyên lực, nên biết pháp quán cũng tức tư tuệ, vì như lý tác ý, nay theo Duy thức chỉ lấy tư.

2. Nghĩa hiện quán, tức tối thắng thuận quyết trạch phần Noãn làm hạ phẩm, Đảnh Nhẫn làm trung phẩm, Thế đệ nhất pháp làm thượng phẩm.

3. Chân hiện quán, nghĩa là Kiến đạo.

4. Hậu hiện quán, nghĩa là Tu đạo. Hai đây chung, Duy thức riêng, Duy thức đứng về an lập và phi an lập riêng biệt. Đối pháp đứng về đạo vị riêng biệt cũng chẳng trái nhau.

5. Bảo hiện quán, tức tín hiện quán, được bốn tín chẳng hoại, chẳng riêng lấy vô tướng. Du-già v.v… rộng, vì thông Hữu lậu, hoặc khéo vượt ác. Đối pháp chỉ nói tên bảo. Duy thức lấy chung tất cả tín.

6. Chẳng hành hiện quán, nghĩa là giới khéo ngăn phạm giới, chẳng phải chẳng hành.

7. Cứu cánh hiện quán, đồng Duy thức.

8. Thanh văn.

9. Độc giác.

10. Bồ-tát.

Ba loại này đứng về năng chứng thừa riêng biệt. Duy thức chỉ đứng về sở chứng, hành rõ rộng gọi là hiện quán. Do đó, trừ Quyết trạch phần, chẳng đứng về nhân làm luận, do đó không có ba Thừa. Đối Pháp chẳng đứng về rộng lược, chỉ rõ minh liễu thân đắc, gọi là hiện quán. Đứng về nhân và pháp làm luận, do đó có mười sáu, chẳng trái nhau. Luận Hiển Dương quyển 17 ghi: “Sáu và mười tám”, sáu thì đồng luận đây, còn mười tám gồm:

  1. Văn.
  2. Tư.
  3. Tu.
  4. Quyết trạch phần trí.
  5. Kiến đạo.
  6. Tu đạo.
  7. Cứu cánh đạo.
  8. Bất thiện thanh tịnh thế tục trí.
  9. Thiện thanh tịnh thế tục trí.
  10. Thắng nghĩa trí.
  11. Bất thiện thanh tịnh hữu phân biệt trí.
  12. Thiện thanh tịnh hạnh hữu phân biệt trí.
  13. Thiện thanh tịnh hạnh vô phân biệt trí.
  14. Thành sở tác gia hạnh trí.
  15. Thành sở tác trí.
  16. Thành sở tác hậu trí
  17. Thanh văn v.v… trí
  18. Bồ-tát v.v… trí hiện quán.

Trong mười tám hiện quán này chia làm năm vị. Bảy thứ đầu đứng về năm đạo để nói rõ hiện quán. Hai loại tiếp theo, y chân tục trí để nói rõ hiện quán. Ba loại tiếp theo, y Hữu lậu Vô lậu có phân biệt và không phân biệt để nói rõ hiện quán; Ba loại tiếp theo, y ba trí gia hạnh, căn bản và hậu đắc để rõ hiện quán, sau cùng hai, y thượng thừa và hạ thừa để nói rõ hiện quán. Nhưng đây chỉ nói rõ tuệ quán. Quán sát các pháp nên chẳng lấy tín và giới, nhưng Giải thoát phần trí có định, tán khác nhau. Ba tuệ loại khác nên phân ba thứ. Trong chân tục trí, Hữu lậu chỉ có thế tục, Vô lậu thông cả hai, nên hợp phân ba thứ, trong có phân biệt và không phân biệt cũng có Hữu lậu Vô lậu riêng biệt, Vô lậu thông cả hai, Hữu lậu chỉ có phân biệt. Y ba nghiệp hành để hiển trí riêng khác. Trong đây, Thành sở tác chẳng phải Thành sở tác trí trong bốn trí, mà chính là vốn mong Sở tác trí. Gia hạnh, chánh thể, hậu đắc, như các Vô lậu trí thượng thừa hạ thừa nhân quả đều luận chung, nên chỉ có hai thứ. Duy thức nói sáu hiện quán, Đối Pháp nói mười hiện quán cũng không trái nhau. Nhiếp luận quyển 6 nói mười một thứ hiện quán sai biệt, tức đồng Đối Pháp quyển 13. Thanh văn, Bồ-tát hiện quán sai biệt có mười hai loại, lại không có loại khác.

Trong Kiến lập sáu độ, ba tướng sáu độ, nên hỗ tương nhiếp nhau. Sáu độ lấy tám pháp làm thể, túc là Vô tham, thân nghiệp sắc, ngữ nghiệp thanh, ý nghiệp tư, vô sân, tinh tấn, tuệ và định. Hoặc mười một, tức là thêm dục, thắng giải, tín. Biến hành có một là tư. Biệt cảnh có bốn là Dục, giải, định, tuệ. Thiện có bốn là Tín, cần, vô tham và vô sân. Sắc pháp có hai là thân và ngữ nghiệp. Hành tướng ba cõi chín Địa. Địa tiền, Địa thượng mỗi mỗi hành tướng thuần bốn câu, mỗi mỗi tự làm sáu độ, cùng mong nhau làm bốn câu, gọi là tạp. Y chủng loại phước có bốn câu, chẳng y câu có không. Sáu độ, năm quả, nên mỗi thứ chẳng đồng.

Dị sinh tánh chướng tức phân biệt chướng chủng. Ba cõi đủ có tên vì sao lại Dị sinh? Nếu lấy năng sinh có lìa hạ nhiễm, trên dưới khác nhau, nhiễm pháp đều khởi. Tên tại sao là Dị sinh? Nếu lấy y địa này thì Thức thức tám có nên được tên Địa đây, nên tự Thức thứ tám gọi là Dị sinh. Sao phải chướng chủng? Nếu chẳng như vậy, Bồ-tát Thập địa, Địa này Thức thứ tám chưa đoạn, nên thành Dị sinh. Do đây nên biết, y Địa này, Thức thứ tám phân biệt hai chướng ngại chủng lập. Tánh chỉ nhiễm ô, thuộc về tánh Hữu phú. Thể của hai chướng nhất định, mong hai chướng cũng vậy, nên tư duy.

Quả nẻo ác đó chẳng phải pháp nhiễm ô, tại sao Kiến đạo nói chẳng đoạn? Vì như diệt không còn thừa.

Địa thứ hai gọi là Ly cấu, không nhầm chấp phạm ba nghiệp. Sơ địa nhầm phạm, còn phải tư duy chọn lựa. Địa này chẳng như vậy, như lúc bò đi, trùng tự phân đường, mặc tình chẳng bị tổn thương, nên không nhầm phạm. Sơ địa chẳng như vậy, do có nhầm phạm. Tại sao mười chướng chỉ gọi là tà hạnh? Hai ngu gồm nói nhầm phạm ba nghiệp, là căn bản, nó cũng thuộc về tà hạnh. Giải thích thứ hai cho rằng, hoặc chỉ khởi nghiệp, chẳng rõ nghiệp ngu, tức thuộc về tà hạnh.

Địa thứ ba ám năng chướng, đối với pháp văn tư tu quên mất, tại sao Sơ địa gọi là đã được Bất thoái, đây còn quên ư? Lại, Bồ-tát địa giải thích: “Thắng giải hạnh vị đối với điều làm, điều tư duy, pháp sơ thuyết đã lâu có lúc quên mất”. Nhập Địa thì không như vậy, tại sao nay nói có quên mất? Chỗ định vị đắc, phần nhiều quên mất, hàng Địa tiền còn có, hàng Địa thượng đều không, gọi là chứng Bất thoái. Chỗ văn tư tu đó đắc, còn ít có lùi quên, chẳng phải nhiều. Lại, chỗ Vô lậu đắc không quên, chỗ Hữu lậu đắc cảnh ba tuệ còn quên, cũng chẳng trái nhau, ba định thành không, nên lẽ ra không phải là Bất thoái. Tại sao các Địa trong mười chướng đều nêu phần ít, chỉ có Địa thứ hai, thứ ba, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười, thứ mười một, chướng nhiếp hai ngu đều hết, vì nhiếp pháp hết. Chỉ bốn Địa đầu có chung có riêng. Sơ địa, Dị sinh tánh là gốc, nẻo ác ngu là ngọn. Đây theo giải thích trước, nếu theo giải thích sau, tức tổng nhiếp hết, nên không cần phải nói. Địa thứ tư chướng thân kiến v.v… không nằm trong hai ngu. Hai ngu chẳng nói là mười chướng là có ý gì? Đáp: Hai ngu căn cứ nhân, chỗ Địa tiền khởi ngôn thuyết cùng với loại sau làm chướng. Thân kiến v.v… căn cứ chỗ hành lâu xa, gọi là mười chướng. Lại mười chướng căn cứ nhân nói, thân kiến v.v… khéo khởi các phiền não chướng. Hai loại sau làm quả chánh cho năng chướng nên nói là hai ngu, nghĩa này cũng không trái nhau.

Tại sao chín Địa chướng? Ba Vô ngại giải là một chướng, ngoài ra một Vô ngại giải làm một chướng là có ý gì? Cần phải thông đạt ba loại trước mới biện luận được. Trước, sau, nặng, nhẹ, khai hợp chẳng đồng. Địa thứ mười chướng thần thông là một, Trí vân và Sở tàng là một, vì đức bên trong và nghiệp bên ngoài khác nhau.

Tại sao các Địa khác, chướng đều có hai ngu, chỉ có Địa thứ tư chướng chẳng tức là hai ngu? Dị sinh đã chẳng đoạn thô trọng, tại sao hai Tĩnh lự đoạn khổ căn thô trọng? Nhị thừa cũng như vậy, nay giải thích phàm phu chiết phục phần nhỏ hiện hành thô trọng. Nhị thừa cũng có thể diệt được phần ít chủng tử, khổ căn thô trọng trong định chướng, nghĩa này cũng không ngăn ngại, như lý nên tư duy.

*********

Nên nói ba Thừa đoạn kiến, tu khác nhau. Thức thứ bảy trong đốn đoạn mặc tình chọn lựa Kiến đạo, tất cả bên trong khởi chọn Tu đạo, bên ngoài duyên sự Độc đầu tham sân si v.v… vì hai nghĩa này nên không có thô tế. Nói không có thô tế, chọn lựa Tu đạo trong ngoài duyên mê lý, thân kiến biên kiến và đây tương ưng. Chín địa đoạn vì có thô tế, như vậy tổng chọn lựa hết tất cả hoặc.

Trong phần Bồ-tát dùng phiền não trợ nguyện thọ sinh, chỉ dùng thế lực hiện hành xa giúp, chẳng phải như nhuận sinh ái v.v… như Hoặc của hành sát sinh, tham, sân v.v… mới được lợi lạc, chưa được Vô lậu thắng đạo lợi sinh, cho nên dùng tham sân dẫn Vô lậu đạo, năng lợi ban đầu, gọi là trợ nguyện, chẳng phải như tham v.v… nhuận sinh dụng đó. Do đây nên làm bốn câu phân biệt, chỉ có hiện hành nhuận chẳng phải chủng tử, nghĩa là Bồ-tát từ Địa thứ bảy trở về trước. Chỉ có chủng tử nhuận chẳng phải hiện hành, đó là quả thứ ba. Có đồng thời nhuận, đó là tất cả chúng sinh. Có đồng thời chẳng phải nhuận, đó là biến dịch và hóa thân v.v…

Câu sinh Địa tiền chiết phục dần dần, hàng Địa thượng chiết phục hết. Đây y sáu thức làm luận. Tại sao Kiến sở đoạn phiền não tùy chỗ biết phục và chẳng phục? Câu sinh phiền não chỉ có nhập Địa mới chiết phục, chẳng tùy chỗ biết. Chỗ biết phục sau, phiền não phục trước. Kiến sở đoạn thì không như vậy, kiến chướng lợi nên đồng thời, tu chướng ngại độn nên dần theo thứ lớp. Lại Kiến đạo mạnh, Tu đạo chẳng như vậy, nên lưu lại phiền não vốn nghĩ nhuận sinh. Từ Địa thứ tám trở đi không có Phần đoạn tử, chẳng gá phiền não trợ nhuận, tức phục mà thọ biến dịch, tại sao chẳng đoạn?

Đáp: Như Sơ địa khiếp sợ phiền não, tức phục mà thọ biến dịch, cũng như Nhị thừa hữu học hồi tâm tức thọ biến dịch, tuy không có Phần đoạn, chẳng đoạn phiền não, tại sao như vậy? Phiền não tuy chẳng phải thân gần trợ nhuận biến dịch, như phần đoạn sinh, thế xa cũng có. Lại, hoặc chủng tại biến dịch thời gian dài, chẳng mượn thường trợ giúp. Nếu không có Hoặc chủng biến dịch thời gian ngắn, như Nhị thừa vô học phải luôn luôn trợ giúp. Nhưng có bốn câu, chỉ có định thắng không có hoặc trợ, cũng chẳng có thời gian dài thọ biến dịch, như Nhị thừa vô học hồi tâm, tuy có hoặc chủng trợ mà không có thắng định giúp, cũng chẳng có thời gian dài. Như Nhị thừa hữu học hồi tâm, có hoặc trợ và thắng định trợ giúp, tức biến dịch thời gian dài thọ, như Bồ-tát Thập địa cho nên nguyện lưu lại đó, chẳng đồng Nhị thừa đoạn dứt, chẳng được chẳng phải cho nên lưu lại. Lại, Nhị thừa chỉ có chủng tử trợ, chẳng do nguyện giúp, mà chẳng gọi là lưu lại. Bồ-tát chánh do nguyện giúp, bên cạnh do chủng tử trợ giúp, nên nói lưu lại đó, nếu tức đoạn đó ở sinh không có lực, nhân của Hoặc mất quả tùy theo đó cũng hết. Lại do Bồ- tát ý vui thích Bồ-đề, Thập địa luyện căn chẳng nhờ đoạn phiền não, phiền não hiện tại chẳng chướng ngại việc đắc Địa, nên gọi là lưu lại.

Kiến đạo đốn đoạn, quyển 59 ghi: “Ba tâm cũng gọi là đốn, nhưng sở tri chướng và phiền não chướng, mỗi phân làm hai. Thế nào là hai? Nếu do chín phẩm, thô phẩm đoạn trước, tức mười địa Tu đạo nên trước đoạn thô, nếu do tùy sở chướng đạo để biện rõ thô tế, chín địa chẳng định, tức phiền não phẩm. Thế nào là tùy sở tri để rõ thô tế? Nghĩa này nên tư duy. Nay giải thích là, như mười địa Tu đạo, chỗ đoạn của mỗi địa, trước là thô, sau là tế. Phiền não tùy kia để nói thô tế, đây cũng nên vậy. Trong Kiến đạo tự phân biệt lực thô đoạn trước. Tha dẫn lực tế đoạn sau, có trước phục phiền não vượt quả thứ hai thứ ba, không phục sở tri chướng mà vượt vào hai địa, nhưng vào địa rồi, như nghe nửa bài tụng để xả thân cũng có vượt là, nhưng không vượt đại kiếp, vì rất khó đoạn v.v… vậy, nghĩa này nên tư duy.

Trong một loại Nhị thừa ba cõi chín Địa mỗi phẩm đoạn riêng, có hai nghĩa: một là thiếu không có người vượt qua; hai là trong đây gồm hết. Đạo đời trước cũng chín phẩm, sau chẳng phục cũng có chín phẩm. Bồ-tát lợi căn Kiến đạo đã thừa nhận phân làm ba. Nhị thừa căn độn Kiến đạo lẽ ra có ba phẩm, tại sao kia chỉ có một, đây có ba? Bồ-tát hai chướng làm ba, Nhị thừa một chướng làm hai, vì phân ra thô tế.

Quyển 69 nói trước có Thắng tấn tức sau có Gia hạnh, chỗ sau có đạo tức Thắng tấn trước, văn đồng với Đối Pháp. Bốn đạo dùng các môn phân biệt tác dụng có hai giải thích.

Trong tổn lực ích năng chuyển, có sám hối tội diệt, lẽ ra phải thuật. Quyển 60 nói nghiệp có bốn thứ đó là: Dị thục quyết định thời quyết định, hai chung cùng bất định, hai chung cùng định và A-la-hán thọ tàn khổ v.v… và vua A-xà-thế diệt được nghiệp ngũ nghịch. Du-già ghi: “Người nương chưa giải thoát kiến lập định nghiệp” là hai giải thích, hòa hợp nên biết.

Bốn trí, như Phật Địa giải thích, mỗi thứ có mười dụ, nên xem văn đó.

Hữu lậu từng tập cùng chấp chỗ dẫn v.v… nay quán ý đây, Hữu lậu quán tâm do cùng chung Hoặc của Thức thứ bảy trước cùng chấp thế lực sở dẫn, mới thuận ở chướng chẳng đoạn Tùy miên, Vô lậu thì không như vậy.

Mới đầu có nghĩa Vô phân biệt trí thân chứng hai Không có thể đoạn Tùy miên, như quyển 64 ghi: “Nếu An lập đế đã lập làm Đế thì đâu cần phải nói Phi an lập? Đáp: Do An lập đế chọn đối với có tướng, vì có tướng nên tướng trói buộc chưa thoát, tướng trói buộc chưa thoát, nên đối với thô trọng trói buộc cũng chưa có thể đoạn. Do đây, nên biết chỉ có Vô phân biệt trí đoạn các Tùy miên. Thứ hai, có nghĩa Hậu đắc vô phân biệt trí đoạn mê sự Tùy miên, như văn trước giải thích, trước căn cứ đoạn mê lý Tùy miên chẳng phải đoạn mê sự. Lại, trước đứng về đoạn rốt ráo tất cả thô trọng, chẳng phải trong nhân vị đoạn hai chướng chủng mà nói. Lại, trước đứng về Hữu lậu an lập và Vô lậu An lập đế, chẳng phải Hậu đắc duyên phi An lập, vì cũng không phân biệt tướng, tức luận kia ghi: “Nếu chẳng cần duyên phi An lập là có định tâm cực tịnh thuận Quyết trạch phần lúc chuyển duyên các Đế, nên đoạn Tùy miên kia đã chẳng như vậy, nên chỉ chọn lựa Hữu lậu v.v… chẳng phải là tận lý, không phải là quả”. Hãy tìm đọc trong văn đó.

Trong sớ nói chỉ có Nhị thừa dùng nó chứ chẳng phải Bồ-tát, nay giải thích Bồ-tát cùng dùng trí này. Trong mười Địa, chẳng phải niệm niệm chỉ đoạn pháp chấp, cũng có lúc đoạn riêng pháp chấp sở tri chướng. Sư trước giải thích thế và xuất thế đoạn đạo trong Tu đạo là, đây y Bồ-tát Tu đạo chỉ dùng Vô phân biệt trí, gọi là thế xuất thế đạo, có chân tục hợp dùng trí đoạn. Như nêu thù thắng nghĩa là người hạ hạ Địa đoạn chướng, tuy chẳng do tục nhưng hẳn cùng chung thời. Nếu chẳng như vậy thì lẽ đâu Thắng địa sau chỉ có Vô phân biệt trí, chẳng cùng Hậu đắc đồng thời mới đoạn hoặc ư? Mới đầu, chỉ có xuất thế đoạn đạo thông ba Thừa, sau gồm Bồ-tát nên làm thuyết đó. Hai lý giáo ngang bằng, mặc tình lấy bỏ.

Thể Đại Niết-bàn có hai nghĩa: một là lý, hai là sự, tức ở Chân như có ba nghĩa: Ma-ha Bát-nhã, Giải thoát và Pháp thân. Hai thể ba sự, ba thể mỗi loại riêng biệt, hợp chung gọi là Đại Niết-bàn.

Mười địa chẳng khởi năm thức Vô lậu. Tỷ lượng rằng, năm căn Hữu lậu trong mười Địa hẳn chẳng có thể phát năm thức Vô lậu, Hữu lậu chẳng chung cùng ắt chung cùng đồng chỗ căn cảnh nhiếp, như vị của Địa tiền.

Nói thường, lạc, ngã, tịnh v.v… để trừ bốn tâm điên đảo của Nhị thừa. Nhị thừa chánh chứng pháp tánh đây là chẳng phải làm giải thích thường và vô thường v.v… do tâm Gia hạnh làm giải thích vô thường v.v… đây thể nhập. Sau, lúc xuất quán lại quán quán trước, chẳng xét sở duyên bèn thấy gia hạnh, cho rằng chỗ chân trí đó duyên cũng là vô thường, bèn cho các pháp chân thật vô thường. Các tâm gia hạnh và Hữu lậu hậu đắc tuy chẳng phải là chấp tánh đều là thiện, nhưng do Thức thứ sáu, thứ bảy pháp chấp chưa mất, dẫn thiện tâm Hữu lậu mà làm giải thích đây. Đối với quả của pháp sở chấp dẫn Hữu lậu quán tâm, nói năng dẫn pháp chấp chướng là điên đảo. Nếu lúc không có pháp chấp thì quán này chẳng sinh, nên do phàm vị trước khởi bốn điên đảo, hoặc mười hai đảo, đó là tưởng, tâm, kiến v.v… chấp thân v.v… là tịnh, Phật vì trừ chấp đó nên nói hành vô thường v.v… là chẳng phải thường v.v… khiến họ chứng đắc. Luận chân lý đó chẳng phải thường, vô thường, nhưng Nhị thừa là tùy Phật phương tiện nói và pháp chấp dẫn làm giải thích vô thường v.v… Nay vì trừ khiến họ chứng cực quả, nói Chân như đây là thường, ngã v.v… khiến họ khởi hành phương tiện này hướng vào chứng pháp đó. Chánh lúc chứng nó chẳng thường, vô thường, chư Phật hoặc nói ngã, hoặc có lúc nói vô ngã. Trong các pháp thật tướng, vô ngã không gì chẳng phải ngã, ngoài ra đều như vậy. Đây y các pháp chỉ có Thức thứ sáu, thứ bảy có nhiễm tâm có chấp làm luận. Từ Địa thứ tám trở về trước, khởi bát Niết-bàn chướng, tế sinh diệt v.v… chướng của Thừa sau, đều chuẩn cứ giải thích như đây. Từ Địa thứ tám trở đi chẳng luận hiện hành, quán tâm làm chướng.

Luận sư An Tuệ nói Vô lậu, tất cả Hữu lậu trong nhân đều có pháp chấp. Nói Nhị thừa tâm Vô lậu v.v… bốn điên đảo, từ Địa thứ tám trở về trước nói công dụng gia hạnh là chướng. Nếu không như vậy thì Gia hạnh đạo lẽ ra chẳng phải thuộc về hai ngu. Do đây, tất cả thiện tâm Hữu lậu và nhân Vô lậu đều có pháp chấp, nay luận chân lý chẳng phải thường, vô thường là đoạn pháp chấp vô thường mà nói là thường, lạc v.v… chỗ các thiện y. Hiển tánh không tham sân si v.v… các thứ phiền não, nhân đó làm thiện, năng thuận các thiện cùng thiện làm y nên gọi là đủ công đức.

Nói Pháp thân chánh tự lợi, hiển bày chẳng đồng thuyết lợi tha mà triển chuyển nói. Tự thọ dụng thân đó tu nhân, vốn vì lợi tha nên tu, lại là chỗ lợi tha y chỉ nên chẳng nói. Đối tha thọ dụng v.v… nghĩa tự lợi nhỏ nhiệm, do đó chẳng nói, lý cũng không ngăn ngại.

Tha thọ dụng biến hóa, tại sao chẳng nói tự lợi? Chư Phật lợi tha, tức tự lợi, lý cũng nên như vậy. Ý cho rằng lợi tha biến hiện sinh, từ ý lạc nói là lợi tha. Tư lương vị trước gọi là tất cả công đức đều thuộc hai lợi, tùy lực ý lạc, nay đây tùy tăng thượng, nên ba thân khác nhau.

Tự thọ dụng thân như Tịnh độ thân lượng khắp pháp giới là phải làm hai giải thích: một là Thật như vậy, hai là Y dụng nói vì trí là Phật, do sở chứng vô biên, như thế gian nói chỗ thấy ở cao nói là lỗ mắt lớn, sở học rộng nên nói trí tuệ lớn.

Trong môn Bốn trí duyên cảnh, tự thọ dụng độ, chỉ có tịnh Vô lậu, ngoài ra chẳng thấy vậy, chỉ chỗ Phật biết. Tha thọ dụng độ vốn chỉ có Vô lậu, tịnh, những gì được thấy chỉ là tịnh, vì tất cả bất thiện, các quả Dị thục đều đã không có, nhưng thông Hữu lậu Vô lậu. Thức thứ tám, năm Thức quán Hữu lậu, người thấy là ở uế độ, lợi lạc hữu tình cũng là hiện uế, thấy cũng thông uế, thông các thức cảnh. Hóa độ vốn chỉ có Vô lậu, nhưng có tịnh uế, thấy cũng vậy thông cả Hữu lậu, Vô lậu nhưng có tịnh uế. Bồ-tát Thập địa cũng được thấy vậy, vì trên biết dưới. Nhưng do vốn là Bồ-tát Thập địa hiện Tịnh độ, luận nói Hóa độ có nói tịnh đó. Hóa độ vốn là chỗ thấy của hàng Địa tiền v.v… chẳng riêng nói tịnh. Tổng nói thấy thân độ mỗi căn cứ tăng thắng mà nói, cũng không trái nhau vì dưới chẳng thấy trên. Hàng Địa tiền và Nhị thừa hẳn không thấy Tịnh độ Vô lậu.

Trong đây, các độ đều có cảnh bốn trí, do tùy tăng thắng, vốn kích phát nhân nói trí riêng hiện. Nếu chẳng như vậy thì liền có lỗi chẳng phải biến trí. Nếu năm uẩn của Phật thừa nhận là uẩn v.v… thâu, tại sao chẳng thừa nhận Phật là thuộc về hữu tìn? Hữu tình y Dị thục, Phật chẳng phải hữu tình, tánh nhiếp trì gọi là pháp, Phật có thể là pháp thâu nhiếp.

Giải thích nghĩa thuần tạp do tăng kém chẳng đồng, chỉ y Tướng phần thân gần mà nói. Nếu y ảnh, chất, lại nói chẳng đồng. Tự địa trong ảnh biến thuần, sức thần thông dẫn tạp, chẳng phải tám duyên hiện thuận trong sức thần thông, duyên chủng tạp. Trong Thức thứ bảy gọi là ảnh thuần tạp, vì ảnh từ kiến, chất mà nói tánh. Năm thức tâm thiện ác tạp, tâm Vô ký thuần. Thức thứ sáu, thứ năm chung cùng đều thông. Pháp nên tư duy chuẩn cứ. Trong giả thật đứng về thức phân biệt lại riêng biệt, có không đối nhau, Hữu vi Vô vi đối nhau, Hữu lậu Vô lậu đối nhau, Tự giới tha giới duyên đối nhau, Tư duy chuẩn cứ thuần tạp.

Pages: 1 2