tát la nan ca la

Phật Quang Đại Từ Điển

(薩羅難迦羅) (1698-1778) Pàli: Saraịaôkara. Cao tăng Tích lan sống vào thế kỉ XVIII, người ở thôn Valivita, huyện Tumpane; là lãnh tụ của phong trào vận động phục hưng Phật giáo Tích lan, cũng là Thủy tổ của phái Phật giáo Xiêm la tại Tích lan. Thủa nhỏ, sư nương vào ngài Tu lợi da câu đà (Pàli:Suriyakoda) xuất gia làm sa di. Vì cảm thương cho hành vi đọa lạc của giới tăng sĩ, sư lập chí khắc khổ siêng năng tu học. Sư rất giỏi tiếngPàli, tiếng Tích lan và tinh thông cả tiếng Phạm. Sư từng vâng sắc chỉ của vua tạo khám thờ xá lợi Phật, thếp vàng ròng, khảm 700 hạt ma ni châu, được vua ban cho kinh điển, dụng cụ, pháp phục… Đến thời vua Thất lợi tì xá da vương sư tử (Pàli:Sirivijayaràjasìha), sư trụ ở vườn Bố tát (Pàli:Uposathàràma) được nhà vua cúng dường. Sau, sư lại được sự giúp đỡ của vua Cát tường xưng vương sư tử (Pàli:Kittisiriràjasìha), thanh lọc giáo đoàn, sa thải các vị tăng phá giới để hộ trì chính pháp. Sư khuyên vua cung thỉnh các vị tỉ khưu Thái lan đã được truyền thừa Thượng tọa bộ Tích lan chính thống, bấy giờ đang sống ở thành Sàminda tại Thái lan, đến Tích lan truyền giới; việc này được vua Ba long khoa tư (Borom Kos) của Vương triều Đại thành nước Thái lan rất vui vẻ chấp nhận. Năm 1753, phái đoàn Tỉ khưu Thái lan do Thượng tọa Ưu ba li (Pàli:Upàli) lãnh đạo đến Tích lan truyền trao giới pháp theo nghi thức Thái lan cho mấytrăm giới tử trong đó có bản thân sư. Vì các vị tham dự đàn giới này được truyền trao bởi hệ phái chư tăng Thái lan nên được gọi là Xiêm la tông (Sỳama-vaôsa). Từ thế kỉ XVI trở đi, Phật giáo Tích lan gần như bị dứt hẳn, nhưng nhờ sự lãnh đạo của sư nên được phục hưng, chẳng bao lâu lại trở thành quốc giáo, nền giáo dục Phật giáo lại được coi trọng, nhân dân nhiệt tâm ủng hộ, chùa Phật, tháp Phật ở các nơi đều được sửa chữa, hoặc xây dựng lại. Vua Cát tường xưng vương sư tử triệu tập hội nghị Tăng già ở chùa Hoa viên, sắc phong sư Tát la nan ca la làm Tăng vương (Pàli:Saígharàja, vua sư), đây là vị Tăng vương duy nhất trong lịch sử Phật giáo Tích lan. Năm 1778, sư tịch, thọ 81 tuổi. Sư để lại các tác phẩm: Chân nghĩa tập (Pàli:Sàrattha saôgaha), Đại bồ đề thụ sử (Pàli: Mahàbodhi-vaôsa), Dược khuông cú (Pàli: Bhessajjamaĩjùsà), Tứ đế thích nghĩa (Pàli: Catubhàịavàra). [X. Tiểu vương thống sử; Hinduism and Buddhism by Ch.Eliot; Dictionary of Pàli Proper Names by G.P. Malalasekera].