BẢN ĐỒ TU PHẬT
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa

 

TẬP VII
HOA NGHIÊM TÔN VÀ TAM LUẬN TÔN

HOA NGHIÊM TÔN
(HIỀN THỦ TÔN)
CON ĐƯỜNG TU THỨ BẢY TRONG MƯỜI TÔN

 

I. DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

Tôn này thuộc về Đại thừa căn cứ theo giáo nghĩa trong kinh Hoa nghiêm là một bộ kinh cao nhất mà Đức Phật đã nói ra, nên gọi là Hoa nghiêm tôn.

Người sáng lập ra tôn này là ngài Đỗ Thuận, một vị Hòa thượngđời Đường. Ngài đã thâu góp ý nghĩa mầu nhiệm của kinh Hoa nghiêm, làm ra bộ “Pháp giới quán”.

Người kế vị ngài Đỗ Thuận là ngài Trí Nghiễm, ở chùa Chí Tướng. Ngài Trí Nghiễm đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị để giãi bày nghĩa lý của tôn này như các bộ : “Sưu huyền ký”, “Thập huyền môn”, “Ngũ thập yếu vấn đáp”.

Vị thừa kế ngài Trí Nghiễm và đã có nhiều công nghiệp lớn đối với tôn này là ngài Pháp Tạng, cũng gọi là ngài Hiền Thủ quốc sư. Ngài đã làm ra bộ “Thám huyền ký” và nhiều chương số khác, khiến cho Hoa nghiêm tôn rất được thịnh hành và phát triển trong thời Ngài. Do đó, Tôn này cũng thường gọi là Hiền thủ tôn. Sau khi Ngài Hiền Thủ qua đời được ít lâu, kinh Hoa nghiêm được dịch lại bằng Hán văn bộ mới, ngài Trừng Quán, tức là Thanh Lương quốc sư, dựa theo ý nghĩa bộ Hoa nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ “Hoa nghiêm sớ sao”, bày giải nghĩa lý rộng rãisâu xamầu nhiệm của Hoa nghiêm kinh. Vì thế, Hoa nghiêm tôn lại càng được người dùng sùng mộ, nhất là trong giới thượng lưu trí thức nước Tàu.

II. TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

Trong các bộ kinh của Đức Phậtkinh Hoa nghiêm là bộ kinh có ý nghĩa cao sâu, mầu nhiệm nhất. Chỉ những vị đại đệ tửcăn cơ minh mẫn, lanh lẹ mới có thể hiểu thấu được. Do đó, Hoa nghiêm tôn chỉthích hợp cho những ai đã có một căn bản Phật pháp vững chắc và đã quen với lối suy luận trừu tượngcủa giáo lý nhà Phật. Đem một giáo lý uyên thâm của Phật pháp ra trình bày trong một tập sách phổ thông như thế này, thật khó mà nói cho rõ ràng, đầy đủ nghĩa lý của Hoa nghiêm tôn. Tuy thế, để có một bộ sách gồm đầy đủ 10 tôn phái của Phật giáo Trung Hoa, và để quý độc giả có đủ tài liệu để so sánhsự sai khác của mỗi tôn, chúng tôi không thể không nói đến Hoa nghiêm trong khi điểm qua tôn chỉ và giáo lý căn bản của mười tôn. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách giản dị, gọn gàng về giáo lý đặc sắc của tôn này, và cũng mong mỗi quý vị độc giả theo dõi một cách chăm chú sự trình bày này, ngõ hầu vấn đề được sáng tỏ.

Tôn này được gọi là “Viên giáo”, nghĩa là giáo lý viên dunghoàn toàn đầy đủ.

Tôn này chủ trương “Pháp giới duyên khởi”, nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự vật nhỏ như hạt bụi cho đến một vật lớn như trăng sao, đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp không cùng tột, dung thông nhau, đối chọi nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có. Mỗi Pháp, mỗi pháp, trong vũ trụ không thể tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà tự có được. Cái này có, là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái này. Cái này và cái kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không cùng tột, cho nên cũng gọi là “vô tận duyên khởi” hay “trùng trùng duyên khởi”.

Vì là trùng trùng duyên nhau, nên một là thảy hết là một, mọi sự vật trong vũ trụ đều dung thông nhau. Và do đó, trong kinh Hoa nghiêm đã có nêu lên pháp môn “Sự sự vô ngại pháp giới”.

Để hiểu rõ nghĩa lý của pháp môn này, chúng ta hãy đi theo phép quy nạp gồm có bốn giai đoạn sau đây, cũng gọi là bốn pháp giới.

1. Sự pháp giới : Sự là nói về các hình tướng sai biệt của các pháp trong vũ trụ. Trong vũ trụ, các pháp đều có giới hạn rõ ràng, như nước lạnh, nước đá, nước sôi, hơi nước, đều có tướng trạng khác nhau. Đó là đứng về sự mà quan sát vũ trụ vạn hữuhay nói theo danh từ đạo Phật là “Sự pháp giới”.

2. Lý pháp giới : Lý là nói về cái phần bên trong, vô hình của sự vật. Đây tức là lý tánh bình đẳng, chỗ nương tựa cho tất cả sự tướng; lý dung thông khắp tất cả, như nước lạnh, nước đá, hơi nước, tuy tướng trạng khác nhau, nhưng thể tánh vẫn là một. Vũ trụ vạn hữu không chỉ có phần sự tướng mà còn có phần lý tánh nữa. Đó tức là “Lý pháp giới”.

3. Lý sự vộ ngại pháp giới : Như trên chúng ta đã thấy, mỗi pháp đều có Sự và Lý. Lý do nơi Sự mà rõ, Sự nương và Lý mà thành. Lý và Sự dung thông, như nước tức là sóng, sóng tức là nước. Lý, Sự trong mỗi pháp đã dung thông, thì Lý Sự trong pháp giới cũng dung thôngvô ngại. Đó là ý nghĩa của “Lý, Sự vô ngại Pháp giới”.

4. Sự sự vô ngại pháp giới : Trong pháp giới, có hằng hà sa số sự vật, hình tướng tuy khác nhau, giới hạn tuy bất đồng, nhưng lý tánh lại dung thôngbình đẳng, không có phân chia ngăn cách. Nhờ lý, mà sự sự được dung thông vô ngại. Như các vật dụng bằng điện, nào quạt điện, đèn điện, máy lạnh, ủi điện, lò điện v.v…tuy mỗi vật đều có hình dángcông dụng sai khác, nhưng đều thông nhau qua luồng điện chi phối lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại. Một thí dụ khác : nhiều hồ chứa nước, hình dáng, rộng hẹp khác nhau, nhưng ăn thông với nhau bằng những ống nước, do đó sự đầy vơi, nhớp sạch của một hồ này đều liên quan mật thiết đến tất cả các hồ khác.

Trên đây là những thí dụ vô cùng thô thiển, cốt để gợi lên một ý niệm về “Sự sự vô ngại pháp giới” thôi, chứ không đúng hẳn. Trong hai thí dụ trên, chúng ta lấy những vật dụng điện khí hay những hồ nước để hình dung cho Sự sự trong pháp giới, và lấy những luồng điện hay luồng nước để hình dung cho Lý của pháp giớiThí dụ như thế, người ta sẽ tưởng rằng Sự và Lý là hai loại khác nhau, có thể phân tách ra được. Nhưng thật ra, Lý và Sự không thể phân tách được, trong Sự có Lý, trong Lý có Sự. Sự Lý chẳng qua là hai phương diện của một vấn đề vô cùng tế nhị, mà lý trí của chúng ta đã phân tách ra để tạm nghiên cứu đó thôi.

Để tóm tắt ý nghĩa của bốn pháp giới này, chúng tôi xin nói một cách giản dị như sau :

Pháp giới gồm triệu triệu sự vật khác nhau, như A, B, C, v.v…(sự pháp giới).

Trong mỗi sự vật đều có lý tánh bình đẳng, mà chúng tôi hình dung là L (lý pháp giới).

Lý tánh bình đẳng ấy dung thông với tất cả mọi sự vật, như A=L; B=L; C=L (lý, sự vô ngại pháp giới).

Nhờ lý tánh dung thông với mọi sự vật, mà mọi sự vật trong vũ trụ trở thành dung thông nhau, vô ngạiđối với nhau, như A=B=C v.v…(sự sự vô ngại pháp giới).

SÁU TƯỚNG VÀ MƯỜI LÝ HUYỀN DIỆU CỦA CÁC PHÁP

Trong pháp giớisở dĩ sự sự được vô ngạidung thông, là do các pháp đều có đủ “sáu tướng” và “mười lý huyền diệu” sau đây :

SÁU TƯỚNG VIÊN DUNG

Dựa theo bộ kinh Hoa nghiêm, ngài Bồ tát Thế Thân đã làm ra bộ “Thập địa luận”để giải thích nghĩa lýcủa sáu tướng (lục tướng). Sáu tướng này được gọi là viên dung vì nó có những đức tính viên mãndung thôngvô ngại. Sáu tướng của sự vật trong vũ trụ ấy là :

1. Tổng tướng. Tổng tướng là cái tướng bao trùm tất cả, tổng cộng tất cả các tướng sai biệt. Như khi ta nói đến cái nhà, là gồm tất cả cột, kèo, tường, mái, đá gạch v.v…Vậy cái nhà tức là tổng tướng.

2. Biệt tướng. Biệt tướng là nói các tướng riêng biệt; nhiều biệt tướng cộng lại thành tổng tướng. Như các biệt tướng trong cái nhà là cột, kèo, tường, mái, gạch, đá v.v…Đã có Tổng thì tức phải có Biệt; nếu không có Biệt, thì cũng không thể lấy gì mà gọi là Tổng.

3. Đồng tướng. Đồng tướng là cái tướng chung cùng, dung hòa với nhau, không ngăn ngại nhau, không trái chống nhau. Như kèo, cột, tường, mái, tuy khác nhau, nhưng không ngăn ngại nhau mà vẫn đồng hướng về một mục tiêu chung là cái nhà.

4. Dị tướng. Dị tướng là các tướng riêng biệt, cái này, cái kia, hình tướng không giống nhau, mặc dù vẫn cùng nhau dung hòa để gánh vác một nhiệm vụ chung; như cột, kèo, tường, mái trong một cái nhà, không cái nào giống cái nào. Dị tướng không phải là biệt tướng, cũng như đồng tướng không phải là tổng tướng.

Như 100 đồng bạc là tổng tướngTổng tướng này là tổng cộng của các tờ giấy bạc. Những tờ giấy bạc là biệt tướng. Những tờ giấy bạc này to nhỏ, hình ảnh, màu sắc khác nhau là dị tướng. Mặc dù là hình tướng khác nhau, nhưng cũng là những tờ giấy bạc cả, tánh chất “bạc” ấy là đồng tướng.

5. Thành tướng. Thành tướng là tướng thành tựu. Sự chung cùng để thành ra một cái gì, đó là thành tướng. Như cái nhà là sự thành tựu của các cái cột, kèo, tường, mái v.v…Vậy cái nhà, đứng về phương diện công dụng để ở, là thành tướng của các cột, kèo, tường, mái v.v…Nếu lấy thí dụ 100 đồng, thì số tiền là thành tướng của các tờ giấy bạc. Nhờ sự kết hợp của những tờ giấy bạc này mà có được số bajc100 để mua được một vật gì đó, như thế là thành tướng.

6. Hoại tướng. Hoại tướng là cái tướng độc lập của các pháp. Như cột, kèo, tường, mái, trong khi hợp tác với nhau, để thành cái nhà, thì vẫn giữ cái địa vị riêng của chúng nó là cột, kèo, tường, mái, chứ không phải vì thành cái nhà mà chúng nó không còn là cột, kèo, tường, mái nữa. Cũng như trong khi hợp thành số bạc 100 đồng, các tờ giấy bạc vẫn giữ nguyên giá trị của mỗi thứ.

Sáu tướng này phân ra làm ba đôi, gọi là “tam đối lục tướng” :

Tổng, Biệt cùng đối nhau, thuộc về Thể.

Đồng, Dị cùng đối nhau, thuộc về Tướng.

Thành, Hoại cùng đối nhau, thuộc về Dụng.

Nếu chúng ta lấy con sư tử bằng vàng làm thí dụ, thì toàn thể thân hình của nó là Tổng tướng; mỗi bộ phận riêng rẽ, như tai, mắt, mũi, lưỡi là Biệt tướng; chất vàng của nó là Đồng tướng; mỗi bộ phận có hình dáng riêng khác là Dị tướng; mỗi bộ phận cộng tác hòa hiệp với nhau để thành hình con sư tử là Thành tướng; nhưng mỗi bộ phận đều có phạm vi riêng biệt, tự lập của nó là Hoại tướng.

Khi chúng ta nói đến Tổng, Đồng, Thành là nói về phương diện toàn thể vũ trụ; khi chúng ta nói đến Biệt, Dị, Hoại là nói về phương diện hiện tượng giới, trong ấy mỗi sự vật đều phơi bày riêng rẽ khác nhau. Theo trong kinh Hoa nghiêm thì Tổng, Đồng, Thành tướng thuộc về môn hàng bố (nghĩa là hiển lộ, phơi bày la liệt). Một bên là bình đẳng, một bên là sai biệt. Nhưng bình đẳng và sai biệt tương tứctương nhậpviên dung không ngại. Tương tức nghĩa là cái này tức là cái kia, như nước tức là sóng, tương nhập nghĩa là ăn nhập với nhaudung thông nhau, như mặt gương này và mặt gương kia phản chiếu vào nhau không cùng mà không cản trở gì nhau. Vì tương tứctương nhập, nên lìa tổng tướng thì không dị tướng, lìa thành tướng thời không hoại tướngTóm lạiviên dung không lìa hàng bố, hàng bố không lìa viên dungviên dung tức hàng bố, hàng bố tức viên dung. Hết thảy các pháp đều đủ sáu tướng ấy, không một pháp nào là không viên dung tự tại, tức nhập không ngại. Vì thế cho nên gọi là 6 tướng viên dung. Đấy là ý nghĩa huyền diệu của Hoa nghiêm nhất thừa viên giáo.

MƯỜI LÝ HUYỀN DIỆU CỦA CÁC PHÁP HAY MƯỜI HUYỀN MÔN

Ngoài sáu tướng nói trên, các pháp còn có 10 lý huyền diệu, hay 10 đức tính huyền diệu, mà bộ kinhHoa nghiêm sớ sao và bộ Tham huyền ký của ngài Hiền Thủ có giải thích như sau :

1. Môn “đồng thời đầy đủ các pháp tương ưng” (đồng thời cụ túc tương ưng) : Nghĩa là trong mỗi một pháp nào đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Như một giọt nước có đủ khí vị của muôn ngàn sông, biển.

2. Môn “rộng và hẹp tự tại không ngại” (quảng hiệp tự tại vô ngại) : Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn, một vật gọi là nhỏ chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mảy lông, có thể chứa được cả thái hư mà còn rộng. Một vật lớn như thái hư, có thể nằm gọn trong đầu mảy lông, mà không chật. Đây muốn nói rằng, trong pháp giới, sự sự đã vô ngạidung thông thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông, không có biên giới nhất định giữa một vật này và một vật khác; một vật nhỏ như vi trần có liên quan đến vũ trụ; một vật lớn như vũ trụ có liên quan đến một vi trần. Cho nên kinh Hoa nghiêm có chép : “Trong một mảy trần, hết thảy cõi nước rộng rãi an trụ”. Để giải thích ý nghĩa này, kinh thường dạy : “Sự nhờ Lý mà được dung thông tự tại không ngăn ngại”.

3. Môn “một và nhiều dung nhau không đồng” (nhất, đa tương dung bất đồng) : Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá hoại cái tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật. như muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng một gian nhà, ngọn này ngọn kia lẫn hiệp với nhau, nhưng ngọn nào cũng có cái ánh sáng riêng của nó.

4. Môn “các pháp tương tức tự tại” (chư pháp tương tức tự tại) : Nghĩa là các pháp cùng dung, cùng tức, không ngần ngại nhau. Như một pháp khi bỏ mình đồng với các pháp khác, thì toàn thể đều về nơi pháp kia; nếu một pháp nhiếp thâu các pháp đồng về mình, thì hết thảy các pháp kia lại về nơi một pháp thâu nhiếp ấy. Cũng ví như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.

5. Môn “ẩn mật, tỏ rõ đều thành” (bí mật ẩn hiển câu thành) : Nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiển thì phương diện kia ẩn; khi phương diện kia ẩn, thì phương diện này hiển; trong ẩn có hiển, trong hiển có ẩn; ẩn hiện đắp đổi cho nhau mà thành tựu. Sự ẩn hiện ấy cũng không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngần ngại, chống đối nhau. Như một pho tượng bằng vàng, khi chú ý đến vàng thì không thấy cái đẹp của pho tượng, khi chú ý đến cái đẹp của pho tượng thì không thấy cái vàng. Tóm lại, khi cái đẹp hiển thì vàng ẩn, khi vàng hiển thì cái đẹp ẩn.

6. Môn “vi tế dung nhau, an lập” (vi tế tương dung an lập) : Vi tế nghĩa là nhỏ nhiệm mà rõ ràng. Một vật nhỏ nhiệm có thể bao trùm một vật nhỏ nhiệm khác mà không cản trở nhau, không phá hoại cái tướng của nhau. Như một giọt nước bao gồm nhiều hạt nước, mỗi hạt nước gồm nhiều gồm nhiều hóa chất, mỗi hóa chât gồm nhiều nguyên tử, mỗi nguyên tử gồm nhiều điện tử, giữa những điện tử có cái nhân : Mỗi thứ đều dung nhau và an lập trong nhau.

7. Môn “cảnh giới tướng võng nhơn đà la” (Nhơn đà la võng cảnh giới) : Nhơn đà la tức là phiên âm của chữ Indra là cõi trời Đế Thích. Theo Bà la môn giáo, thì trên cõi trời Nhơn đà la, có cái màn lưới bằng bửu châu; mỗi hạt bửu châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này hạt khác phản chiếu nhau chói sáng lẫn nhau, lớp lớp không cùng tận. Môn này cũng như vậy : trong mỗi pháp có nhiều pháp khác, trong nhiều pháp khác lại có nhiều pháp khác nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng tậnKinh Hoa nghiêm có chép : “Hết thảy thế giới đều như thế giới màn lưới Nhơn đà la”.

8. Môn “nhơn sự rõ pháp, sanh trí hiểu biết” (thác sự hiểu pháp sanh giải) : Nghĩa là nhờ sự mà hiểu được lý; nhưng khi lý đã rõ, thì lý lại lan rộng làm cho chúng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Đây muốn nói trí hiểu biết lan rộng dung thông qua sự vật, như vết dầu lan trên mặt nước, chỉ một tia lửa có thể bừng cháy rất xa.

9. Môn “mười đời cách pháp dị thành” (thập thể cách pháp dị thành) : Đây muốn nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành một cách dễ dàng. Tại sao chia thời gian thành mười đời mà không chia làm ba đời ? Đáng lẽ chỉ nói quá khứhiện tại, tương lai là đủ. Nhưng muốn chia một cách rốt ráotinh vi, trong kinh chia mười đời như sau : trong quá khứ cũng gồm có quá khứhiện tại và tương lai; trong hiện tại cũng gồm như thế và tương lai cũng vậy; ba đời, mỗi đời lại chia nhỏ làm ba thành chín. Nhưng nếu chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau thì cũng không có được ý niệm về thời gian. Vì thế cho nên ngoài chín niệm biệt ấy, còn cộng thêm một niệm tổng (tổng quát) nữa, thành ra mười.

10. Môn “chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn” (chủ bạnviên minh, cụ đức) : Như chúng ta đã thấy ở các phần trên : các pháp nương nhau mà thành. Nếu ta lấy một pháp làm chủ, thì các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức, lớp lớp không cùng tận, như mặt trăng sáng trên không, chung quanh vây những vì sao nhấp nháy, rồi trên mặt đất, bao nhiêu sông, ngòi, ao hồ, lại phản chiếu ánh sáng trăng sao ở trên không, làm cho cảnh vật khắp nơi càng thêm rạng rỡ.

Tóm lại, mười lý huyền diệu này cọng với sáu tướng nói trên của các pháp là nguyên nhân giải thích vì sao “sự sự được vô ngại” trong pháp giới, và cắt nghĩa một cách đầy đủ giáo lý “trùng trùng duyên khởi” mà Hoa nghiêm tôn chủ trương.

III. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

Giáo lý căn bản của Hoa nghiêm tôn đã sâu xa mầu nhiệm, thì phương pháp tu hành tất nhiên cũng phải cao siêu, mầu nhiệm mới đưa hành giả đến cứu cánh tu hành. Tựu trung, trong các phương pháp tu hành ấy, ba pháp quán về pháp giới sau đây được xem là các pháp môn trọng yếu và có hiệu quả rốt ráo nhất :

1. Chơn không quán; Chơn nghĩa là chơn thật, không hư vọng; Không là không bị sắc tướng chi phối, ngăn ngại.

Pháp quán này dựa trên “lý pháp giới” mà lập ra. Mục đích của pháp quán này là dứt vọng tình, rõ chơn tánh, khiến cho hành giả thấy sắc mà không bị sắc ngăn ngại và nhận được rằng toàn thể là chơn không; thấy không, mà nhận được rằng đó không phải là không hẳn (đoạn không) mà toàn là chơn tánh. Tóm lại, pháp quán này nhìn thấy qua được sự đối đãi giả dối của cái không và cái có, để nhận rõ được cái “lý của vũ trụ (lý pháp giới) là chơn không” (đã giải ở trên).

2. Lý sự vô ngại quán : Pháp quán này y theo “lý sự vô ngại pháp giới” mà lập ra. Lý là thể tánh thanh tịnh sáng suốt; Sự là hình tướng phân hạn của các pháp. Lý sự vô ngại, như trong phần giáo lý căn bảnđã có nói ở trước, nghĩa là lý và sự không phải là hai loại trái chống nhau, ngăn cách nhau mà trái lạidung thông nhau. Lý, sự thấu suốt, viên dung không ngại nên gọi là “lý sự vô ngại quán”.

Theo phép quán này, hành giả quan sát cái sắc tướng của một mảy trần mà khám phá ra được cái lý của cả vũ trụ. Tức là qua cái tướng hư giả của sự vật mà thấy được cái tánh sáng suốt của nhứt chơn.

3. Châu biến hàm dung quán : Pháp quán này dựa trên cái lý “sự sự vô ngại pháp giới” mà lập ra. Châu biến là lan ra, biến hóa cùng khắp tất cả; hàm dung là bao gồm , thâu nhiếp, dung thông tất cả. Châu biến hàm dung quán là pháp quán nhằm mục đích nhận chân được rằng : các pháp một và nhiều không ngại nhau, lớn và nhỏ trùm nhau, dung nhiếp lẫn nhau, lớp lớp không cùng tột, ẩn hiện tự tạiđồng thời tương tức tương nhập thâu nhiếp, dung thông nhau cho đến vô cùng vô tận, trùm chứa cả vũ trụ bao la.

Theo pháp quán này, hành giả quán sát cái Lý nơi một Sự , rồi do một Sự ấy mà mỗi mỗi Sự khác cũng đều thấy rõ. Hành giả lại quán mọi Sự tức nơi Lý, rồi theo Lý ấy mà mỗi mỗi Sự đều dung thông.

IV. QUẢ VỊ TU CHỨNG

Theo Hoa nghiêm tôn, giải thoát vẫn không phá hoại thế gian tướng; nói một cách khác, không phải phủ nhận thế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Ngay trong thế gian này, nếu hành giả phân biệt được chân vọng, khử trừ điên đảo, khiến cho tâm thanh tịnh để cùng thật tại nhất trí : đó là giải thoát.

Quan niệm về giải thoát của Hoa nghiêm tôn không khác với Thiên thai tôn, nghĩa là đều chủ trương một cách lạc quan rằng chúng sanh và Phật không sai cách : không nhận chân được lý trùng trùngduyên khởisự sự vô ngại pháp giới, là chúng sanhgiác ngộ được chân lý trên là Phật.

V. KẾT LUẬN

Hoa nghiêm tôn vì y theo bộ kinh cao nhất của Phật mà thành lập, nên được liệt vào hạng viên giáo, nghĩa là giáo lý hoàn toàn viên mãn. Và cũng vì là viên giáo cho nên phải cần một căn trí thông lợi mới tu theo được.

Vậy hành giả, trước khi muốn lựa chọn con đường này để tiến bước, cần phải cân nhắc cho kỹ lưỡng, nhất là phải tìm nghiên cứu thêm cho thấu đáo. Nếu thấy nó khó hiểu, quá cao đối với căn cơ của mình, thì tốt hơn, nên tìm một con đường khác, bởi vì con đường nào, cuối cùng cũng đưa đến giải thoát cả.

Nhưng nếu quý vị nào nhận thấy căn cơ của mình có thể theo kịp được giáo lý huyền diệu của tôn này, thì đó là một diễm phúc lớn. Trí tuệ quý vị sẽ nếm được hương vị thanh cao nhất của đạo nhiệm mầu, và sự tu hành của quý vị cũng mau đến đích, vì quý vị đã trèo theo con đường thẳng đứng để lên đỉnh núi “giải thoát”. Bao giờ con đường thẳng đứng cũng khó trèo, nhưng mau đến đích hơn những con đường vòng quanh co. Trong tu hành cũng vậy.

*

TAM LUẬN TÔN
CON ĐƯỜNG TU THỨ TÁM TRONG MƯỜI TÔN

I. DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

Tôn này căn cứ vào ba bộ luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tam luận tôn :

1. Bộ Trung luậngồm có bốn quyển, do ngài Bồ tát Long Thọ làm ra, mục đích chính là phá chấp của Tiểu thừa và kèm một phần phụ đã phá sai lầm của ngoại đạo.

2. Bộ Bách luậngồm có hai quyển, do ngài Bồ tát Đề Bà làm ra, mục đích chính là phá chấp của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của Tiểu thừa.

3. Bộ Thập Nhị Môn luậngồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra, mục đích phá chấp cả Tiểu thừa và ngoại đạo.

Tóm lại ba bộ luận trên đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu thừa và ngoại đạo và mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xamầu nhiệm của Đại thừa.

Tôn này được thịnh hành ở Trung Hoa trong đời Giao Tần do công đức hoằng dương của ngài Cưu Ma La Thập, và trong đời Đường do công đức của ngài Đại sư Gia Tường.

II. TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

Như chúng ta đã thấy trong nội dung của ba bộ luận căn bản nói trên, chủ trương của tôn này là phá các điều tà chấp, nêu bày chánh lý.

Theo Tam Luận tôn, tà chấp có bốn loại :

1. Tà chấp của ngoại đạo : Ngoại đạo tức là những học phái hay tôn giáo khác với đạo PhậtNgoại đạo vì không thấu rõ lý ngã không và pháp không, nên chấp chặt tà kiến, như tà nhơn, tà quả, không nhơn mà có quả, có nhơn mà không quả v.v…những cái chấp nầy cần phải đả phá.

2. Chấp trước của Tiểu thừa Tì đàm tôn : Tiểu thừa Tì đàm tôn tức là Câu xá tôn. Tôn này chủ trương lý ngã khôngpháp hữu, nghĩa là cho rằng cái ngã nơi người là không có, nhưng các pháp là có. Quan niệm sai lầm về lý pháp hữu ấy cần phải phá trừ.

3. Chấp trước của Thành thật tôn : Tôn này, tuy chủ trương ngã pháp đều không, nhưng lại chấp cái “không” ấy là thật có (thật có một cái không), chứ không biết rằng cái “không” ấy cũng không hoàn toànlà không, cho nên cần phải phá trừ.

4. Chấp trước của người tu về Đại thừa : Người tu về Đại thừa không còn những chấp trước mê lầmvề ngã, pháp của ngoại đạo và Tiểu thừa, đã đoạn trừ  những thành kiến chấp cóchấp không, chấp đoạn, chấp thường, nhưng còn có một số người ôm chặt cái sở đắc của mình , nghe nói “có” thì sa vào có, nghe nói “không” thì trệ vào không, nghe nói “trung đạo” thì chấp trước trung đạo. Cho nên, cần phảiphá trừ những chấp trước ấy.

Có người hỏi : – Tam luận tôn chủ trương phá tà như trên, có thể gọi là đầy đủ lắm, nhưng còn phần hiển chánh thì như thế nào ?

– Xin thưa : Phá hết tà, tức là hiển chánh. Phá cũng tức là lập. Trừ mê tức là ngộ. Như vậy, tà chấp đã bị phá, thời chánh lý tự bày, ngoài sự phá tà, không có chánh lý nào riêng nữa.

Trong bộ “tam luận huyền nghĩa” có nói : Sự phá tà hiển chánh phân làm bốn loại :

4.1. Phá mà không thâu, nghĩa là trước một đối thủ nói không hợp đạo, thì chỉ phá mà không thâu.

4.2. Thâu mà không phá, nghĩa là đối với người chủ trương hợp với chân lý thì chỉ thâu mà không phá.

4.3. Cũng phá mà cũng thâu, nghĩa là đối với người học đạo mà còn đầy lòng mê chấp, thì phải phá trừ chỗ mê chấp, và thâu lại giáo nghĩa mà họ đã hiểu lầm.

4.4. Không thâu mà cũng không phá, đây là trường hợp khi đã tiểu trừ ba loại nói trên, quy về một chơn thật tướng : đến đây thì đã xa lìa nói phô, bặt dứt niệm lự, khôn thể nói rằng phá, không thể nói rằng thâu.

Chủ trương phá tà hiển chánh trên này có thể cô đọng trong bốn chữ sau đây : “Trung đạo bát bất”.

Trung đạo tức là đạo lý viên dung, cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế, nghĩa là cái chơn lý cùng tột, không gì hơn.

Bát bất tức là tám cái “chẳng phải”.

Bất sanhbất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lại, bất xuất. Hiểu rõ tám cái “bất” ấy, tức là nhận chân được nghĩa lý của Trung đạo.

Chúng ta hãy nghe bài kệ sau đây trong “Trung luận” thì rõ :

Bất sinh, diệt bất diệt,

Bất thường, diệt bất đoạn

Bất nhất, diệt bất dị,

Bất lai, diệt bất xuất,

Năng thuyết thị nhân duyên,

Thiện diệt chư hý luận,

Nã khể thủ lễ Phật

Chư thuyết trung đệ nhất

Giảng rộng đoạn văn trên này, ông Phan Văn Hùm, trong quyển Phật giáo triết học, đã viết như sau :

“Nhất thiết vạn hữu trong hiện tượng giới đều sinh diệt vô thườngSinh diệt vô thường như thế, nguyên là vì không có tự tánh, mà bởi nhân duyên mê vọng nên sinh ra giả hữu.

Thế tục vì vọng kiến, nên chấp lấy cái giả hữu đó. Chân trí thời phủ định giả hữu mà đều nhận thấy là không…Siêu việt được tất cả hữu và vô là cái quan niệm tuyệt đối.

Muốn đạt cái quan niệm tuyệt đối ấy, phải biết rằng chư pháp đều do nhân duyên sinh ra…

Chư pháp, tuy là hữu, nhưng mà là phi thường hữu. Hữu, mà phi thường hữu là giả hữuGiả hữu tuy là hữu mà phi hữu. Hữu mà phi hữu, thời cùng với vô có khác gì ? Cho nên chư pháp tuy là vạn hữu, nhưng uyển nhiên là không.

Lý thể của chân như tuy là không tịchbất sinh diệt, mà bởi nó sinh ra chư pháp, cho nên nó là căn của giả hữu, thời mặc dù lý thể của chân như là không, thật ra nó là phi không. Như thế, chân như là không mà không thật là không cho nên cùng với hữu có khác gì ? Vì thế, rốt lại, chân như tuy là không tịch, mà nó uyển nhiên là hữu.

Hữu, không, hai cái toàn nhiên cùng nhau bỗn hiệp.

Trung đạo ra ngoài chỗ chấp hữu cùng chấp không”.

III. BA THỜI GIÁO LÝ

Trong phần tôn chỉ và giáo lý nói trên, chúng ta thấy Tam luận tôn bác tất cả các tôn phái của Tiểu thừavà một phần của Đại thừa. Nhưng dù Tiểu thừa hay Đại thừa, cũng là dựa trên Giáo lý của Đức Phật cả. Vậy, bác các tôn phái trong đạo Phật, tức là gián tiếp bác giáo lý của Phật chăng ?

Thật ra, không phải như thế. Tất cả lời dạy của Đức Phật chỉ có một tánh chất chung là sự giải thoát, như tất cả nước của đại dương chỉ có một mùi vị là mặn. Phật nói ra các pháp môn, đều để đối trịnhững phiền não của chúng sanh. Người lương y giỏi tùy theo chứng bịnh mà cho thuốc, thuốc không cao thấp, lành bịnh là hay. Cũng thếcăn cơ chúng sanh không đồng nhau, cho nên pháp môn cũng tùy theo đó mà có sai biệt.

Theo Tam luận tôn, thì giáo lý của Đức Phật chia làm ba thời kỳ :

– Thời kỳ thứ nhất, tại vườn Lộc Giả, vì các bậc căn trí hẹp hòi, nói pháp Tiểu thừatâm cảnh đều có. Trong thời kỳ này vì cần phải phá cái chấp về tự tánhthần ngã của ngoại đạo, nên Phật nói “pháp duyên sanh”, xác định là thật có.

– Thời kỳ thứ hai, Phật vì các bậc căn trí bậc trung, nói “pháp tướng Đại thừa”, chỉ rõ đạo lý duy nhất“cảnh không tâm có” (thế giới hiện tượng không thật có, nhưng tâm thức thật có). Cũng trong thời kỳnày, Phật lần hồi phá trừ chỗ chấp của Nhị thừa về lý duyên sanh thật có, mà nói lý duyên sanh ấy chỉ là giả dối như tuồng có mà thôi, vì họ sợ về chỗ chơn không, nên phải để “giả hữu” lại để dìu dắt họ.

– Thời kỳ thứ ba, Phật vì các bậc thượng căn thượng trí nói ra giáo lý “vô tướng Đại thừa”, biện bạchtâm cảnh đều không, một mực bình đẳng là chơn liễu nghĩa. Đến thời kỳ này mới thật là chỗ rốt ráo của Đại thừa, chủ trương duyên sinh ấy tức là tánh không, một mực bình đẳngviên dung cả hai đế (chơn đếtục đế) không ngại.

Tóm lại thời kỳ thứ nhất, phá trừ ngoại đạo, chỉ dạy Tiểu thừa với giáo lý tâm cảnh đều có. Thời kỳ thứ hai, thông cả Tiểu thừa và một phần của Đại thừa (tam thừa) với giáo lý cảnh không, tâm có. Thời kỳthứ ba, chỉ có Nhất thừa, với giáo lý tâm cảnh đều không. (Nhưng cái không đây tức là “chơn không, diệu hữu”).

IV. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

Chúng ta đã thấy ở các phần trên, chủ trương của Tam luận tôn là phá tà, và do chỗ phá ấy mà hiển chánhVậy thì phương pháp tu hành của tôn này là làm sau nhận rõ được những chỗ sai lầm chấp trước của ngoại đạo và các tôn phái khác, tức là chứng ngộ. Muốn vậy, tức phải thực hành pháp quán “bát bất trung đạo”.

Bát bất tức là bất sinhbất diệtbất đoạn, bất thường; bất nhất, bất dị; bất khứ, bất lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chơn đế và tục đế; mà không rõ được chơn đế và tục đế thì cũng không thể nào nhận thấy được lý nghĩa của trung đạo.

Phép quán này có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của “bát bất”; chẳng hạn giai đoạn thứ nhất quán về “bất sinh, bất diệt”; giai đoạn thứ hai quán về “bất đoạn, bất thường v.v…”.

Trong mỗi giai đoạn như thế, phải quán năm câu :

1. Câu thứ nhất : “Thật có sinh, thật có diệt”. Ấy là giả thiết thật có sanh diệt như thế gian thường chấp, để mà bác. Chấp như thế gọi là đơn tục (đứng riêng về mặt thế tục), tức nhiên là thiên chấp, chưa hiệp với trung đạo.

2. Câu thứ hai : “Không sanh không diệt”. Ấy là chấp không sanh không diệt làm thật, để mà bác. Chấp như thế gọi là đơn chân, cũng là thiên chấp, không hiệp với trung đạo.

3. Câu thứ ba : “Giả sanh giả diệt”. Ấy là giả lập có sự sanh diệt phát xuất từ nơi bất sanh diệt. Đây tức là trung đạo về thế tục.

4. Câu thứ tư : “Giả bất sanh, giả bất diệt”. Nếu sanh diệt đều giả, thời sự bất sanh bất diệt cũng là giả. Ấy là trung đạo về Chơn đế.

5. Câu thứ năm : “Không phải sanh diệt mà cũng không phải là không sanh diệt”. Đây là dung hiệp cả tục đế và chơn đế mà tìm ra lý trung đạo. Thật vậy, thật tướng của pháp giới không sanh diệt mà cũng không phải không sanh diệt. Đến đây là bặt dứt lời nói phô, tâm niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới.

Trong năm câu này, thì ba câu cúi (từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi là tam trung (ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong phép quán này, người ta thương nói : dùng năm câu và ba lý trung đạo để quán sát.

Trên đây là chỉ đưa ra một thí dụ về một giai đoạn trong phép “quán trung đạo bát bất”. Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất “bất sinh, bất diệt”, hành giả tiếp tục giai đoạn thứ hai là “bất đoạn, bất thường”. Và cứ như thế mà quán cho đến hết tám cái “bất”.

Đây là phép quán riêng biệt của Tam luận tôn. Ngoài ra, trên đường tu hànhhành giả còn tùy theo căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục độ vạn hạnh.

V. QUẢ VỊ TU CHỨNG

Giáo lý đã có phân chia làm chơn đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng phải đứng về cả hai phương diện mà xét.

1. Chơn đế : Nếu về phương diện chơn đế mà xét thì không có vấn đề chứng hay không chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn không, nhiễm tịnh đều bình đẳng, hết thảy chúng sanh xưa nay là Phật rồi.

2. Tục đế : Nếu đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sanh không giống nhau, nên sự tu chứng cũng có chậm, có mau. Với những căn cơ rất lanh lợi, thì trong một niệm có thể thành tựu “chánh quán bát bất”, chứng được quả Phật. Trái lại, với những căn cơ chậm lụt, thì phải trải qua ba đại kiếp tu hành lục độvạn hạnh, mới được thành Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị.

Trong các tôn khác đã trình bày trong Bản đồ tu Phật, quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả vị, nhưng chúng tôi chỉ nêu danh mà không nói rõ nội dung, đến Tam luận tôn này, chúng tôi tưởng nên trình bày rõ một lần về các quả vị ấy; và để sau này, khi qua cac tôn khác, nếu quý độc giả có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ, 52 quả vị ấy là :

Thập tín (mười bậc lấy đức tin làm gốc)

1. Tín tâm

2. Tinh tấn tâm

3. Niệm tâm

4. Định tâm

5. Huệ tâm

6. Thí tâm

7. Giới tâm

8. Hộ tâm

9. Nguyện tâm

10. Hồi hướng tâm

Thập trụ : Trụ là anh trụ. Các vị Bồ tát khi mới phát tâm, an trụ nơi mười bực này mà tu hành, trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ chúng sanhThập trụ là :

1. Phát tâm trụ

2. Trị địa trụ

3. Tu hành trụ

4. Sanh quý trụ

5. Phương tiện trụ

6. Chánh tâm trụ

7. Bất thối trụ

8. Đồng chơn trụ

9. Pháp vương tử trụ

10. Quán đảnh trụ

Thập hạnh : Mười bực này chú trọng tu hạnh lục độ nhiều hơn các hạnh khác, nên gọi là hạnh. Mười hạnh là :

1. Hoan hỷ hạnh

2. Nhiêu ích hạnh

3. Vô nhuế hạnh

4. Vô tận hạnh

5. Ly si loạn hạnh

6. Thiện hiện hạnh

7. Vô trước hạnh

8. Tôn trọng hạnh

9. Thiện pháp hạnh

10. Chơn thật hạnh

Thập hồi hướng : Hồi nghĩa là xoay về. Hướng tức là xu hướngHành giả đem mười hạnh này mà quy hướng về ba nơi sau đây :

– Xoay sự về lý, lấy chơn như thực tế mà làm chỗ chứng.

– Xoay nhơn về quả, lấy đạo vô thượng Bồ đề làm chỗ sở cầu.

– Xoay mình về nơi người, một lòng bình đẳngphổ độ chúng sanh.

Mười hồi hướng là :

1. Cứu độ chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng, nghĩa là cứu giúp chúng sanh mà không chấptrước về sự cứu giúp.

2. Bất hoại hồi hướng, nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sanh.

3. Đẳng như Phật hồi hướng, nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sanh cũng bằng chư Phật.

4. Chí nhứt thế xứ hồi hướng, nghĩa là lòng cứu giúp chúng sanh mỗi việc đều chu đáo.

5. Vô tận công đức tạng hồi hướng, nghĩa là chất chứa công đức vô tận.

6. Tùy thuận nhứt thiết kiên cố thiện căn hồi hướng, nghĩa là thuận theo hết thảy căn lành bền chặt.

7. Đẳng tâm tùy thuận nhứt thế chúng sanh hồi hướng, nghĩa là đem tâm bình đẳng tùy thuận hết thảy chúng sanh.

8. Như tướng hồi hướng, nghĩa là làm các công đức hồi hướng về tự tánh chơn như.

9. Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng, nghĩa là không chấp trước không ràng buộc, một lòng giải thoát.

10. Pháp giới vô lượng hồi hướng, nghĩa là hướng về pháp giới không cùng tận.

Bốn mươi quả vị trên này (thập tínthập trụthập hạnhthập hồi hướng) nói về thời gian tu tập thì thuộc vào Kiếp A tăng kỳ thứ nhât.

Thập địa : Mười bực này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm tự tánh, cùng làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hành, nên gọi là Địa. Mười địa là :

1. Hoan hỷ địa

2. Ly khổ địa

3. Phát quang địa

4. Diệm huệ địa

5. Nan thắng địa

6. Hiện tiền địa

7. Viễn hành địa

8. Bất động địa

9. Thiện huệ địa

10. Pháp vân địa

Trong Thập địa, mỗi địa đều có ba tâm : nhập, trụ, xuất. Khi vừa bước vào một bực nào, gọi là nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bực ấy mà tu, gọi là trụ tâm. Sau khi tu tập lâu rồi, cần bước qua bực khác gọi là xuất tâm. Ba tâm ấy đều phải trải qua trăm ngàn số kiếp. Từ khi nhập tâm về Sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa (tức Viễn hành địa) phải trải qua suôt một kiếp A tăng kỳ thứ hai. Từ Bát địa (tức Bất động địa) đến Thập địa (tức Pháp vân địa) thuộc về kiếp A tăng kỳ thứ ba.

Đẳng giác : Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Đẳng giác, là địa vị đã gần đến quả Phật.

Diệu giác : Tức là Phật quả tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người, trí giác ngộ và công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ bàn, nên gọi là Diệu giác. Bực này, vì các lậu nghiệp đã hêt sạch và không còn pháp gì phải học nữa, nên cũng gọi là Vô học đạo.

VI. KẾT LUẬN

Như chúng ta đã thấy ở phần trên, Tam luận tôn chủ trương “lấy phá làm lập”, phá tất cả những sự chấp trước của ngoại đạo, của Tiểu thừa Tỳ đàm, của Thành thật tôn và của cả một số người tu theo Đại thừa nữa. Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức là ngộ rồi đấy. Con đường đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường mình đang đi. Nhưng muốn khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải phá dẹp tất cả những hình bóng phỉnh phờ và những chướng ngại vật trên đường đi ấy. Một khi sự phá dẹp hoàn thành thì chân lý tự nhiên hiện bày.

Theo thiển kiến chúng tôi, trong Bản đồ tu PhậtTam luận tôn không phải là một con đường Tu như các Tôn khác, mà đúng hơn là một cửa Ải : những hành giả muốn đi từ Tiểu thừa hay từ Đại thừa Thỉ giáo sang Đại thừa Đốn giáo hay Viên giáo thì phải đi ngang cửa Ải Tam luận tôn. Đến cửa Ải này, hành giảbị lục soát một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý “chấp trước” gì, thì không thể qua cửa Ải này được. Hành giả khi qua cửa Ải này là phải thông suốt các vấn đề : có, không, sanh, diệt, thường, đoạn, nhât, dị v.v…

Vậy chúng tôi mong mõi quý vị Phật tử muốn đi xa vào thế giới Trung đạo hay Viên giác thì hãy nghiên cứu cho kỹ Tam luận tôn.

Chúc quý vị độc giả thành công.