tăng phòng

Phật Quang Đại Từ Điển

(僧房) Phạm:Vihàra. Hán âm: Tì ha la. Cũng gọi Tăng phường. Phòng xá của chúng tăng. Cứ theo luật Tứ phần quyển 50, sau khi thành đạo, đức Phật và 5 vị tỉ khưu trụ ở nơi a lan nhã, dưới gốc cây, phòng trống, hang núi, bụi cỏ, rừng cây, bãi đất trống, gò mả, ven sông… Đến khi đức Phật vào thành Vương xá, vua Bình sa mới làm phòng xá ở vườn trúc Ca lan đà cúng dường Phật và chư tăng 4 phương. Không bao lâu, lại có vị Trưởng giả xây cất 60 phòng xá trên núi Kì xà quật, đầy đủ các thứ cần dùng để cúng dường Phật và chúng tăng cư trú, đây là các phòng tăng đầu tiên trong lịch sử Tăng đoàn Phật giáo. Về cách làm phòng xá, theo luật Tứ phần quyển 3, Tát bà đa tì ni tì bà sa quyển 3 và luật Ma ha tăng kì quyển 6, nếu không có đàn việt(thí chủ), tỉ khưu tự xin làm phòng xá, thì trước hết phải chọn nơi an toàn, không bị trở ngại mới được phép làm, phòng dài 12 gang tay Phật và rộng 7 gang. Nếu có đàn việt làm phòng tăng thì không cần theo kích thước nhất định. Còn theo Hữu bộ tì nại da tạp sự quyển 17 và Ngọa tức phương pháp trong Nam hải kí qui nội pháp truyện quyển 3 thì ta biết trong phòng tăng có vẽ cái đầu lâu trắng, hoặc đặt tượng Phật. Đại đường tây vực cầu pháp cao tăng truyện quyển thượng miêu tả tăng phòng ở chùa Na lan đà như sau (Đại 51, 5 trung): Tại đây, có 9 dẫy tăng phòng, trong đó mỗi phòng là một trượng vuông, mặt sau có cửa sổ thông gió, cửa ra vào trông ra mái hiên. Các cửa này tuy cao nhưng chỉ có 1 cánh, đối diện nhau, không được treo mành mành, nhìn thẳng ra ngoài, 4 mặt đều thấy, kiểm sát lẫn nhau, không che chắn riêng tư, mỗi góc có làm đường qua lại.Tại Trung quốc, vào giữa đời Đường, lúc thanh qui của Thiền tông được thành lập thì phong trào kiến tạo Tăng đường ở tập thể mới hưng khởi. Các chùa lớn ở Trung quốc, Nhật bản thiết lập phòng tăng ở 3 phía đông, tây, bắc của Giảng đường, gọi là Tam diện tăng phòng. [X. kinh Tạp a hàm Q.25; luật Thập tụng Q.56; Hữu bộ tì nại da tạp sự Q.10; Bán am la quả nhân duyên trong A dục vương truyện Q.3].