TÁN PHÁP GIỚI TỤNG
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Sa-môn Thi Hộ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

Quy mạng mười phương Phật
Pháp thân và Báo, Hóa
Nguyện cùng các chúng sanh
Mau thành Pháp giới tánh
Luân hồi ba đường ác
Lý Pháp giới ngưng lặng
Xưa nay thường thanh tịnh
Các tướng không hay đổi
Tịch tịnh như hư không
Nơi nơi thảy biến khắp
Thể đều lìa kia, đây
Chẳng sâu, lại chẳng cạn
Sữa lúc chưa chuyễn biến
Tô, đề hồ không thấy
Phiền não chưa phục trừ
Pháp giới không sao hiện
Như tô ở trong sữa
Tô vốn trong sáng diệu
Pháp giới, phiền não che
Viên mãn, thể thanh tịnh
Như đèn bị ngăn che
Chẳng thể soi vật khác
Vô minh hằng che tâm
Pháp giới chẳng sáng rõ
Như đèn lìa che chắn
Nơi nơi muôn vật soi
Lúc phiền não phá hoại
Chơn như luôn hiển hiện
Đầu, giữa và sau chót
Hai chướng không thể quấy
Như châu lưu ly sạch
Luôn luôn tỏa ánh sáng
Vật sáng tỏ bị che
Bị che, sáng chẳng thấy
Pháp giới, phiền não che
Lý Chơn như khó hiển
Viên tịch thể sáng sạch
Luân hồi không thể nhiễm
Siêng cầu đến pháp giới
Luân hồi chẳng thể cướp
Như gạo, trong vỏ trấu
Thể lúa gạo chẳng không
Phiền não che Chơn như
Chơn như phiền não có
Như lúa bỏ vỏ trấu
Thể gạo tự nhiên thấy
Nếu lìa vỏ phiền não
Lý Pháp giới mới hiển
Vọng chấp có thế gian
Cây chuối trọn không thật
Pháp giới chẳng thế gian
Cũng chẳng hư vọng thấy
Như người uống cam lồ
Nóng bức thảy đều trừ
Nếu chứng pháp giới tánh
Lửa phiền não đều bỏ
Diệt trừ lửa phiền não
Cam lồ pháp giới hiện
Trong hết thảy hữu tình
Cao thấp đều bình đẳng
Quả thật thể không sanh
Chấp giống quả chẳng có
Lúc trí tuệ phát sanh
Hữu vi chẳng pháp giới
Pháp giới vốn vô xứ
Cứu cánh mới thể chứng
Thanh tịnh luôn sáng sạch
Nhật nguyệt đều trong sạch
Pháp giới không cấu nhiễm
Như rồng đêm mưa bụi
Sánh tợ mặt La-hầu
Quang minh luôn rực rỡ
Ví như lửa, giặt vải
Đặt vào lửa, lìa dơ
Dơ trừ vải vẫn còn
Quang minh chuyển sáng sạch
Tham ái khiến tâm dơ
Hư vọng có luân hồi
Cũng như lửa giặt vải
Chơn không, vọng chẳng có
Tam độc, sanh tử gốc
Lửa trí tuệ hay đốt
Pháp giới thể thường có
Sáng rỡ luôn chiếu soi
Phiền não nhiễm gọi cấu
Điều Thế Tôn luôn dạy
Cấu diệt, Chơn Như hiện
Như múc suối trong đất
Thể pháp giới không nhơ
Căn theo hay ẩn dấu
Nếu trừ hết phiền não
Sáng sạch thật khó lường
Pháp giới vốn vô ngã
Hai hình và nữ nam
Thể không chấp hư vọng
Chỗ nào lại tư duy?
Pháp giới lìa yêu ghét
Căn, trần, cảnh vốn không
Hư vọng chấp làm nhân
Sai biệt từ đây sanh
Chơn không chẳng khổ não
Tham ái nhân khổ não
Đắm nhiễm do vọng tưởng
Tam giới là luân hồi
Mang thai ở trong bụng
Hài nhi chưa thấy nói
Hai chướng che Chơn như
Pháp giới không thể chứng
Đủ thứ sanh ngờ lo
Kiến, mạn và sân si
Vọng chấp có chơn thật
Chơn thật chấp chẳng có
Sừng thỏ thể chẳng có
Vọng chấp khiến chơn thật
Pháp giới lìa vọng chấp
Vọng chấp thật chẳng có
Như sắc ắt hư hoại
Vi trần còn khá biết
Pháp giới chẳng phá hoại
Ba thời không thể được
Có sanh lại có diệt
Vinh nhục cũng đều theo
Pháp giới chẳng sanh diệt
Thế nào nói Sở tri?
Sừng thỏ vốn chẳng có
Ba thời còn thể nghĩ
Chơn không chẳng sừng thỏ
Suy nghĩ không thể biết
Chơn không gọi Thiện thệ
Sắc tướng thảy đều mất
Ứng hóa tùy duyên có
Tu nhân lìa chấp phi
Viên thông như nhật nguyệt
Nước hiện bóng đều đồng
Sắc thinh cả hai dứt
Sai biệt có thế nào ?
Ba thời khá tìm nghĩ
Khi sanh duyên quyết định
Nếu ngộ pháp thân mình
Thân mình làm gì có!
Như nước ở chỗ nóng
Ở nóng hiểu biết không
Nơi bờ lạnh cũng vậy
Viên thông đều như thế
Tâm luôn phiền não che
Mê hoặc không thể hiểu
Nếu lìa phiền não triền
Giác ngộ mà chẳng có
Như mắt nhìn các sắc
Lìa chướng hay soi rõ
Lý Chơn không cũng vậy
Soi rõ, lìa sanh diệt
Nhĩ thức nghe nơi tiếng
Lìa vọng và phân biệt
Pháp giới tánh cũng vậy
Phân biệt, vọng chẳng có
Mũi hay ngữi các hương
Tánh vọng chấp chẳng có
Sắc tướng cả hai mất
Chơn không cũng như thế
Thiệt căn, tự tánh không
Vị giới luôn xa lìa
Thức không thể cũng vậy
Pháp giới lý như thế
Thân căn tự tánh tịnh
Xúc lạnh, nóng chẳng có
Pháp giới, lý cũng vậy
Xúc xứ thường xa lìa
Ý duyên pháp hơn hết
Tự tánh luôn xa lìa
Các Pháp tánh vốn không
Viên thông lý như thế
Kiến văn và giác tri
Pháp tương ưng cũng không
Rõ hết các vọng tưởng
Kiến văn, lý cũng không
Căn trần khởi vọng chấp
Thanh tịnh thể vốn không
Mê chấp có căn trần
Căn trần lý chẳng có
Thế gian cùng xuất thế
Tánh không vốn không sai
Ngã, Pháp do mê khởi
Biến kế tự luân hồi
Pháp giới, lý thanh tịnh
Tham, sân, si vốn không
Mê ngộ từ tâm khởi
Pháp tam độc giả danh
Mê chấp tự trói buộc
Biết rõ trí giả danh
Bồ-đề chẳng gần xa
Lý ba đời chẳng có
Lòng phiền não mê chấp
Kinh Thế Tôn đã nói
Trí sanh, hoặc nhiễm diệt
Vọng chấp chớ buộc nhau
Chấp khứ lai hơn hết
Thể không còn khá nghĩ
Bồ-đề chẳng vọng chấp
Chứng chánh cũng biết không
Nước sữa cùng một chỗ
Ngỗng uống sữa chẳng tạp
Sanh không phiền não lìa
Hai chướng cũng chẳng tạp
Vọng chấp Ngã chẳng không
Hiểu rõ vốn chẳng có
Niết-bàn lý thanh tịnh
Hai Ngã đều chẳng lập
Ba đàn đều tu thí
Thi-la lìa lỗi lầm
Nhân nhẫn quả đoan chánh
Tinh tấn, mạnh siêng nương
Tịnh lự khiến tâm dừng
Dụng Bát-nhã không nghi
Nguyện kiêm sức phương tiện
An trú Bồ-đề thắng
Bồ-đề khó vọng chấp
Chơn không, sanh diệt không
Hiểu rõ bản tánh không
Hai tướng cũng chẳng có
Sữa đường lìa cây mía
Lìa mía, đường chẳng có
Ba Thừa đến Bồ-đề
Lìa giống, thể chẳng có
Giữ gìn giống lúa mạch
Mầm, thân ắt được sanh
Giữ gìn giống Bồ-đề
Bồ-đề từ đây khởi
Ví như lúc trăng tối
Ánh sáng chưa thể thấy
Hữu tình, phiền não vây
Chơn như chưa hiện rõ
Trăng non, sáng tuy có
Dần dần lại sáng thêm
Sơ địa chứng Bồ-đề
Bồ-đề chưa viên mãn
Trăng mười lăm tròn đầy
Nơi nơi đều sáng tỏ
Giải thoát hiển Pháp thân
Pháp thân lý không khuyết
Ý nhiễm ô tương ưng
Trói buộc cùng sanh diệt
Giải thoát hết thảy chướng
Ba đời ngộ chẳng có
Đại tăng kỳ đầu hết
Tam đàn tu rộng khắp
Đoạn trừ chướng phân biệt
Trí hoan hỷ khó đồng
Ba nghiệp lầm lại phạm
Phòng lỗi nặng và nhẹ
Thi-la viên mãn Giới
Lìa cấu riêng nêu danh
Hai chướng luôn thời nhiễm
Dùng đao không tuệ trừ
Phát sáng hay chiếu soi
Phá diệt dần không sót
Xa lìa căn theo nhiễm
Tăng dần tuệ uy sáng
Bồ-đề gọi tối thắng
Đốt soi chuyển sáng chói
Chơn, Tục gọi hai trí
Tương ưng cùng khởi lỗi
Hợp khiến không chỗ ngại
Việc thù thắng mọi lúc
Trí mười hai duyên sanh
Tuần hoàn lý thú đủ
Thậm thâm gọi tối thắng
Bát-nhã hiện ra trước
Thế tục Nhị thừa hành
Tu đạo lâu đã rõ
Tướng không dụng công đủ
Sau cùng gọi viễn hành
Dụng Trí vô phân biệt
Luôn luôn tự nhiên thành
Chúng ma phục, lui tan
Bất động, riêng rạng danh
Thiện tuệ gọi vô ngại
Mười phương diễn pháp hiếm
Mây thân mưa cam lồ
Xứng vật khá nên nương
Các đức giống như nước
Hư không dụ tợ thân
Thô trọng đều che lấp
Trí đại pháp gọi mây
Xét kỹ việc luân hồi
Nào ai khỏi nghiệp dẫn
Phải biết không khổ não
Tịnh độ chớ buộc nhau
Đệ tử Phật quy mạng
Vị lên mây trí tuệ
Nhỏ nhiệm đều đoạn sạch
Vượt khổ lìa các trần
Quán đảnh muôn sáng soi
Căn trần cùng khắp thân
Đại định Kim cang tịch
Các khổ chớ thân nhau
Vương tòa hoa báu lớn
Muôn ngàn diệu bảo thành
Trang nghiêm đều rộng khắp
Công đức thật khó lường
Thập lực kiêm vô úy
Tam thân, Tứ trí tròn
Lục thông hằng tự tại
Ứng vật, cơ duyên độ
Tỏa sáng như trăng tròn
Lửa hừng hực cháy luôn
Mười phương đâu cũng khắp
Xán lạn thêm rực rỡ
Dứt hẳn nhiễm duyên sanh
Luôn an trú Niết-bàn
Bồ-đề gọi tối thắng
Hóa vật lợi tình vui
Trí dụng sâu như biển
Tuỳ cơ hiện Ứng thân
Nước trong tỏ bóng nguyệt
Nơi nơi qua bến mê
Sánh tợ báu Phả-chi
Theo duyên hiện bóng đồng
Căn tình vật có cảm
Rộng khắp sự không cùng
Ngạ quỷ luôn đói khát
Không thể thấy suối nước
Chúng sanh không chút tin
Nghiệp xưa tự ràng buộc
Hóa hiện các tướng thân
Quang minh đều rực rỡ
Phật tuy luôn tại thế
Xưa vô duyên không thấy
Hiểu rõ trần sa giới
Căn theo nhiễm không lâu
Trí thù thắng hai không
Diệu dụng hoá trẻ khờ
Thanh tịnh dứt các nhơ
Tự, Tha thọ dụng thân
Luôn ở Sắc cứu cánh
Lợi ích chúng Năm thừa
Cứu giúp khổ chúng sanh
Thọ mạng lâu muôn ức
Nhị nghiêm không cùng tận
Công đức thật khó lường
Phật diễn pháp Nhất thừa
Tùy cơ, ngộ cạn sâu
Hoa sen không nhiễm nhơ
Ngọc vốn tuyệt tỳ vết
Xưng tán một phần nhỏ
Rộng tuyên lý thú mầu
Nguyện đem các công đức
Rộng lợi khắp người Trời.