Tam tạng

Từ điển Đạo Uyển


三藏; S: tripiṭaka; P: tipiṭaka; I. Là ba phần cốt tuỷ của kinh sách đạo Phật, gồm: Kinh tạng (經藏; s: sūtra-piṭaka; p: sutta-piṭaka), Luật tạng (律藏; s, p: vinaya-piṭaka), Luận tạng (論藏; s: abhi-dharma-piṭaka; p: abhidhamma-piṭaka). Kinh tạng gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử, chia làm năm bộ: Trường bộ kinh (p: dīgha-nikāya), Trung bộ kinh (p: majjhima-nikāya), Tương ưng bộ kinh (p: saṃyutta-nikāya), Tăng-nhất bộ kinh (p: aṅguttara-nikāya) và Tiểu bộ kinh (p: khuddaka-nikāya). Luật tạng chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già (s, p: saṅgha) cũng như các giới luật của người xuất gia, được xem là tạng sách cổ nhất, ra đời chỉ vài mươi năm sau khi Phật nhập Niết-bàn. Luận tạng – cũng được gọi là A-tì-đạt-ma – chứa đựng các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lí học. Luận tạng được hình thành tương đối trễ, có lẽ là sau khi các trường phái đạo Phật tách nhau mà vì vậy, nó không còn giữ tính chất thống nhất, mặc dù sự khác biệt giữa các trường phái không đáng kể. Tam tạng còn được truyền lại trọn vẹn nhất chính là Tam tạng Pā-li, có lẽ xuất phát từ một bản của Trưởng lão bộ (s: sthavira) ở Trung Ấn. Theo truyền thuyết, Kinh tạng và Luật tạng bằng tiếng Pā-li được viết lại trong lần kết tập thứ nhất (năm 480 trước Công nguyên), trong đó Ưu-bà-li nói về Luật và A-nan-đà trình bày giáo pháp. Những lời thuật lại của hai vị đại đệ tử này của Phật (Mười đại đệ tử) đã trở thành cơ sở của hai tạng đó. Theo một số tài liệu thì Luận tạng cũng hình thành ngay sau đó. Ngoài văn hệ Pā-li, ngày nay người ta cũng còn các tạng kinh, luật bằng Phạn ngữ (sanskrit), được Nhất thiết hữu bộ (s: sarvāstivāda) lưu truyền, nhất là ở những vùng Tây Bắc Ấn Ðộ. Kinh sách của các tông phái khác như Ðại chúng bộ (s: mahāsāṅghika) và Pháp Tạng bộ (s: dhar-maguptaka) ngày nay chỉ còn trong bản chữ Hán. Các kinh sách quan trọng của Phật giáo Trung Quốc và Nhật Bản phần lớn đều xuất phát từ Pháp Tạng bộ. Các bộ này không xếp thành hệ thống nghiêm khắc như những tạng Pā-li và qua thời gian cũng có thay đổi. Danh mục cũ nhất về các Kinh tạng vào năm 518 (sau Công nguyên) ghi lại 2113 tác phẩm. Toàn bộ kinh sách đó được in lại lần đầu trong năm 972 (Ðại chính tân tu đại tạng kinh, Cam-châu-nhĩ/Ðan-châu-nhĩ). II. Một danh hiệu dành cho những Cao tăng, những vị Đại sư được xem là tinh thông Tam tạng, như vậy là thông suốt hết tất cả những thánh điển nhà Phật. III. Một cách gọi kinh điển, giáo lí của hàng Nhị thừa. VI. Chỉ ba loại hành giả: Hành giả Thanh Văn (聲聞), hành giả Duyên Giác (緣覺) và hành giả Bồ Tát (菩薩).