sử mục nhĩ đệ cập nhiếp na khắc nhĩ đệ

Phật Quang Đại Từ Điển

(史穆爾弟及聶那克爾弟) Phạn: Smftijĩànakìrti. Danh tăng học giả người Ấn Độ sống vào khoảng thế kỉ XI. Vào thời A Lí vương (Tạng: Mía#-ris), thể theo lời mời của nhà dịch kinh người Ni Bạc Nhĩ (Nepal) là Phan Đức Mã Lỗ Kì (Phạn: Padmaruci, Tạng: Rme-ru-rtes), sư kết bạn với người Thù khố tu mã đệ lỗ ca (Phạn: Sùwmadìrgha, Tạng: Phra-larií-ba) cùng đến Tây Tạng. Nhưng không bao lâu thì Phan Đức Mã Lỗ Kì bị bệnh dịch tả và qua đời, 2 vị chưa thông hiểu tiếng Tây Tạng nên dời đến 2 châu Tạng, Vệ. Về sau, sư lại nhận lời mời của Dpyalse-rtsab bsod-nams-rgyal-mthan đến Sman-luịsthuyết giảng giáo nghĩa. Sau đó, sư đến Fdan-kloí-thaí thuộc châu Khams sáng lập học phái A tì đạt ma Câu Xá luận. Lúc đó, sư đã thông thạo tiếng Tây tạng và bắt đầu công việc trứ tác, phiên dịch. Sư soạn bộ Tứ tòa thích (Phạn: Catuwpìỉha-ỉìkà) và dịch ra tiếngTây tạng các bộ: Thánh văn thù sư lợi danh đẳng tụng cụ bí mật thành tựu pháp thích tuệ minh (Phạn: Àrya-Maĩjuzrìnàmasaígìtiguhyavadvidhi-vftti-jĩànadìpa), Chân ngôn nghĩa thắng quán (Phạn: Mantràrtha-vipazyinì). Sư còn soạn bộ sách về văn pháp (Grammar) đề là Ngữ ngôn (Phạn: Vacanamukha,Tạng: Smrasgo).Ngoài những sách đã kể trên, sư còn soạn các bộ: Chân tính an lập (Phạn: Waỉtattva-vyavasthàna), Bồ đề tâm thích chú (Phạn: Boddhicittavivaraịa-ỉìkà), Du già lục chi thích (Phạn: Wadaígayoga-nama-ỉìkà), Khai nhãn nghi quĩ (Phạn: Pratiwỉhà-vidhi), Kim cương tồi phá đà la ni ưu bà đề xá (Phạn: Vajravidàraịà nàma dhàraịyupadeza)… tất cả đều được xếp vào bộ Đan châu nhĩ (Luận trứ phiên dịch) trong Đại tạng kinh Tây tạng. [X. Tây tạng Đại tạng kinh tổng mục lục (Nhật bản Đông bắc Đại học); Pag sam jon zang bySarat Chandra Das; History of Buddhism by Bu-ston, Part 2, by E. Obermiller].