sư hội

Phật Quang Đại Từ Điển

(師會) (1102-1166) Cao tăng Trung Quốc, sống vào đời Tống, hiệu Khả Đường. Từ nhỏ sư đã nghiên cứu giáo chương Hoa nghiêm, không hề trễ nải. Đương thời sự học thịnh hành, các dị thuyết rối bời, học giả phần nhiều không biết chỗ qui thú, nên sư soạn sách Phần tân để cảnh giác người đời. Danh từ Phần tân (đốt củi) là lấy sự tích thu góp các kinh giả đem đốt ở Nam sơn để trở về với Chính pháp. Sư cũng đau xót trước sự suy đồi của tư tưởng Hoa nghiêm nên nghiên cứu cặn kẽ Khổng mục chương, Sưu huyền kí và Thám huyền kí, sư đặc biệt tinh thông Khổng mục chương, cùng suốt áo chỉ Lục tướng, Thập huyền. Về sau, vì cho rằng việc soạn thuật chẳng dễ, hoặc sợ làm cho người khác mê lầm, nên sư bỏ cầm bút rất lâu. Đến năm Càn đạo thứ 2, lúc đó đã 65 tuổi, sư mới bắt đầu soạn Ngũ giáo chương phục cổ kí để thỏa lòng mong muốn đã lâu. Nhưng khi soạn đến chương Đoạn hoặc phân tề thì sư lâm bệnh, an nhiên thị tịch, dạy đệ tử là Thiện hi tiếp tục công việc, thụy hiệu là Pháp Chân Đại Sư. Sư cùng với 3 vị: Đạo đình, Quan phục và Hi địch sau này được gọi chung là Tống Triều Hoa Nghiêm Tứ Đại Gia.Sư để lại các tác phẩm: Hoa nghiêm ngũ giáo chương phần tân 2 quyển, Hoa nghiêm ngũ giáo chương phục cổ kí 3 quyển, Hoa nghiêm dung hội nhất thừa nghĩa chương minh tông kí. [X. Hoa nghiêm ngũ giáo chương phần tân Q.thượng; Chư tông chương sớ lục Q.2; Hoa nghiêm tông kinh luận chương sớ mục lục].