SỰ BỐ THÍ CỦA NGƯỜI ĐẮC GIỚI BỒ TÁT
(Thư Học Phật Số 46)
Btg Bảo Đăng

(Tiếp theo 2 số 44 và 45 / Phần giải đáp cho Phật Tử: THÂN-HỢP LÊ VĨNH-HÒA (San Diego – California).

Kính thưa Đạo-Hữu,

Qua hai bức thư số 44 và 45, Bảo-Ðăng đã vì Đạo hữu mà trình bày về quan niệm và sự “Thấy Biết” của một Bậc ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT đối với:

– TỰ THÂN CỦA CÁ NHÂN MÌNH (NGÃ THÂN)

– NGÃ và những thứ NGÃ SỞ

– CON CÁI và CỦA CẢI…

Cùng với sự BỐ-THÍ của qúy Ngài trong việc:

(Xin lập lại giới thứ 6 (trong kinh PHẠM-VÕNG BỒ-TÁT GIỚI) mà đạo-hữu đã hỏi:

– “Nếu là PHẬT-TỬ, khi thấy có bậc PHÁP-SƯ ÐẠI-THỪA, hay những bậc ĐỒNG HỌC, ĐỒNG KIẾN, ĐỒNG HẠNH ÐẠI-THỪA từ trăm dặm nghìn dặm (xa), đến nơi Tăng Phường, nhà cửa thành ấp thời liền đứng đậy rước vào, đưa đi, lễ-bái, mỗi ngày ba thời cúng dường.

– TRĂM THỨ UỐNG ĂN.  

– GIƯỜNG GHẾ, THUỐC MEN.

– TẤT CẢ ĐỒ CẦN DÙNG GIÁ ĐÁNG BA LƯỢNG VÀNG đều phải cung cấp cho PHÁP-SƯ.

Mỗi ngày 3 thời:

– SÁNG, TRƯA và CHIỀU, thường thỉnh PHÁP-SƯ THUYẾT PHÁP và ĐẢNH LỄ, không hề có niệm sân-hận, buồn phiền, luôn thỉnh PHÁP không nhàm mỏi, chỉ trọng PHÁP chớ không kể thân.

Nếu PHẬT-TỬ không như thế thì phạm phải KHINH CẤU TỘI.

Cũng ở trong thư hỏi, Đạo hữu đã có nêu lên sự phiền-não của mình – (và cũng có thể là của chung tất cả các hàng Phàm phu chúng-sanh chúng ta nữa).

Về các việc:

– Tại sao lại phải cúng dường TRĂM THỨ UỐNG ĂN?

– Tại sao lại PHẢI BÁN CON CÁI ĐỂ CÚNG DƯỜNG?

– Tại sao đồ cúng dường phải ĐÁNG GIÁ 3 LƯỢNG VÀNG?

–  Vì như vậy là: – XEM NHƯ CÓ VẺ MẶC CẢ QUÁ ĐÁNG…

Và Bảo-Ðăng cũng đã Y NHƯ PHÁP HÀNH của một bậc ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT cần phải làm (nếu điều kiện cho phép) – mà giảng giải ra rồi, chắc đạo hữu nay cũng đã cảm thấy ít nhiều nguôi bớt đi được LÒNG PHIỀN MUỘN và THẮC MẮC, NGHI VẤN?

Bảo-Ðăng rất mong như vậy.

Là người tu học Phật pháp Đại-thừa, nhất là lại có THỌ BỒ-TÁT GIỚI, thì các CHÚNG THỌ “BỒ-TÁT GIỚI” phải có hoặc ít hoặc nhiều về những sự thấy biết và quan-niệm của một BỒ-TÁT GIỚI TỬ khi học Pháp, nói Pháp Bồ-Tát chớ:

– Chẳng nên thầm quan niệm, với sự hiểu biết thấp kém theo lối Phàm tình của chúng-sanh mà so lường với Tâm đại Từ Bi của Bồ Tát thì không nên.

– Bởi vì nếu làm như thế thì khó mà tiến đạo và khó phát TÂM BỒ-ÐỀ VÔ-THƯỢNG lắm.

Trong phần hồi đáp và giải-thích ở nơi bức thư số 46 nầy, vì muốn KẾT YẾU lại toàn thể PHÁP-Ý của các lời BIệN GIẢI nơi hai bức thư số 44 và 45 trước đây,

Bảo-Ðăng xin được kể lại một câu chuyện ÐẠI BỐ-THÍ của một Bậc ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT hầu cho Đạo-hữu và những người có đạo tâm khác, nhơn nơi đây mà thêm được ít nhiều tỏ sáng :

Thuở quá khứ lâu xa về trước – (khi đức Bổn-Sư THÍCH-CA MÂU-NI THẾ-TÔN còn đang hành BỒ-TÁT ÐẠI HẠNH…), thì:

Có một quốc gia tên là DIỆP-BA. VUA trị vì trong Quốc độ ấy tên là THI-KHÍ, đức Vua nầy hằng luôn lấy “PHÁP” CHÂN-CHÁNH trị vì cho nên. Ngài chẳng hề làm tổn hại và khắc-khổ lê dân.

Dưới quyền của Vua, có đến:

4000 VỊ QUAN THƯỢNG-THƯ (tức là Tể-Tướng)

500 THỚT VOI BẠCH (Bạch-Tượng)

NGÀI quản-trị 60 Tiểu-bang và 800 thôn-xã lớn rộng.

VUA tuy có đến 20.000 vị Vương-Phi và Mỹ-Nữ, song:

– CHẲNG CÓ BÀ NÀO CÓ CON HẾT CẢ.

VUA rất buồn lòng, sợ e không có con nối ngôi và dòng họ, vì thế mà Ngài hằng luôn khẩn cầu đến các loại Thần linh, xin ban cho Ngài một đứa con qúy hiển.

May mắn thay!

Lời Nguyện-cầu của Vua được đáp ứng.

Và:

Một bà Vương-phi được Vua sủng-ái (yêu thương) nhất bỗng có THAI.

Vua tự thân săn-sóc cho chánh cung Hoàng-hậu rất là chu-đáo, Ngài ra lệnh cung cấp cho Hoàng-hậu tất cả các thứ nhu cầu thượng đẳng, như là:

– Nệm thúy, gối loan, món ăn, thức uống thảy đều tinh-khiết, mỹ-vị…cho Bà dùng.

Sau hơn 9 tháng hoàng-hậu khai hoa (sanh-nở), và Bà sanh được một “HOÀNG NAM” khôi-ngô, tuấn-tú. Vua đặt tên cho Hoàng-Tử là TU-ÐẠI-NOA.

Tin nầy vừa được ban ra, chẳng những toàn thể triều thần cùng nội-cung đều vui mừng mà toàn dân trong nước thảy đều hân-hoan, hớn-hở…..

– Thời gian lần-lượt trôi qua…

Thái Tử TU-ÐẠI-NOA nay đã được 16 tuổi đời. Thái-Tử tài kiêm văn, võ lại còn thêm các thứ lễ nhạc, cung đàn…hết thảy tột chúng.

 Thái Tử hết lòng Hiếu Kính và phụng thờ VƯƠNG PHỤ, VƯƠNG MẪU chẳng khác nào phụng kính Thần linh.                          

Vua cha truyền xây-dựng cho Thái-tử một cung điện rộng, đầy đủ hết tất cả các loại lầu các nguy-nga, rực-rỡ.

 Tuy là tuổi đời còn rất trẻ, nhưng Đông cung Thái-tử vô cùng qúy chuộng sự PHƯỚC THIỆN, cho nên Ngài thường luôn đem của-cải, vật-thực…ra mà bố-thí cho mọi người luôn cả đến các loại “thượng cầm, hạ thú”.

TÂM Ý của Ngài là muốn cho tất cả mọi người, mọi loài…đều được an-vui.

 Khi đến tuổi trưởng thành, thì Vua Cha đính-hôn cho Ngài với công-chúa MẠN-TRÀ, con gái của một vị THIÊN-TỬ. Công Chúa là một bậc nữ-lưu có sắc đẹp tuyệt-trần và nhất là về phần Đức hạnh của nàng thì không một ai sánh kịp.

 Ngày tháng lại dần qua…

MẠN-TRÀ sinh được hai con, một trai và một gái.

Thuở ấy, THÁI-TỬ TU-ÐẠI-NOA bỗng nhớ đến PHÁP “BỐ-THÍ BA-LA-MẬT” ([1]) mà NGÀI đã từng tu-hành trong quá khứ.

Ngài xin phép Vua Cha ra thành dạo chơi và nhìn xem phong cảnh bên ngoài.

Ngài thấy trong dân chúng có những người nghèo, khổ, bệnh hoạn, ốm đau…đui, điếc, câm, ngọng đi bên đường và khắp cả các nơi, cho nên :

– NGÀI SANH RA LÒNG THƯƠNG-XÓT, ƯU-ÁI.

Và:

–  TRONG LÒNG CHẲNG THẤY CÓ ĐƯỢC CHÚT VUI NÀO HẾT CẢ.

 Khi trở về…

Vua cha hỏi thăm, thì Ngài thưa rằng:

Kính bạch Phụ-Vương,

Con ra ngoài thành, thấy có nhiều người nghèo, khổ, bệnh-yếu, điếc, đui v.v…con thấy lòng vô cùng trắc-ẩn (thương-xót). Con muốn tâu lên Hoàng Thượng các ý nghĩ riêng tư của con, song e-sợ Phụ-Vương chẳng chịu nhận lời.

Vua Cha nói:

Con cứ trình lên, Ta hứa: – Con muốn điều gì, Ta cũng đều ban cho như-ý nguyện.

Thái-tử tâu rằng:

– Con muốn lấy hết tất cả của-cải trong kho-tàng của Hoàng-Thượng ra, đem BỐ-THÍ cho dân chúng, bất luận ai xin vật gì thì con cho vật ấy.

Chẳng biết Hoàng Thượng có thuận cùng chăng?

Vua Cha đáp: – Lành vậy tha !

Con cứ làm theo tâm-nguyện. Ta không cấm điều cản chi hết cả.

– Bấy giờ, ÐÔNG-CUNG THÁI-TỬ TU-ÐẠI-NOA xin các Quan cùng với mình đem đồ châu báu trong kho ra bày biện nơi 4 cửa thành và ngoài chợ, rồi đánh trống thông báo khắp nơi về việc BỐ-THÍ nầy.

Bốn phương, tám hướng trời đất đều hay biết “việc lành” nầy nên dù cho xa-xôi ngàn dặm, dân chúng khắp nơi cũng lần-lượt đua nhau trèo non, lội suối, không nề gian khổ đến Hoàng thành chịu THỌ THÍ.

– Người xin ăn, mặc, thì được HOÀNG-TỬ cấp cho ăn-mặc.

– Người xin châu-báu, bạc vàng, thì được Hoàng-Tử cấp cho châu-báu, bạc vàng…

Vì thế cho nên ai nấy cũng đều được no ấm, hả-dạ, xứng-ý, toại lòng hết cả.

 Thuở đó,

Trong nước lân-cận, có một ông Vua đối nghịch, sanh lòng nham hiểm. Khi hay tin HOÀNG TỬ lập hội BỐ-THÍ VÔ GIÁ bất luận là ai, và vật gì cả, nên y ta mới hội họp đình thần và các người Bà-la-môn trong nước lại, bàn tính với nhau rằng:

“Ta nghe nói Vua nước DIỆP-BA có một thớt BẠCH-TƯỢNG tên là ƯU-ÐÀ-DIÊN. Tượng Thần ấy chạy nhanh như bay, chân Nó có thể đạp được trên liên-hoa mà Hoa không bị hư gảy. Voi ấy rất dõng-mãnh lại oai-hùng, mạo-hiểm, trong các trận chiến-tranh, trăm trận trăm thắng.

Nước DIỆP-BA ấy hùng mạnh là nhờ có thớt BẠCH-TƯỢNG nầy.

Nay Ta nghe tin Thái-tử nước DIỆP-BA mở cuộc ÐẠI “BỐ-THÍ KHÔNG NGHỊCH-Ý” với ngưòi đến xin.

Vậy trong các Khanh đây, chẳng biết có ai chịu đến xin thớt voi THẦN “ƯU-ÐÀ-DIÊN” ấy cho Ta hay không ?

Các Quan văn, võ trong triều đều đưa mắt nhìn nhau, lắc đầu không dám.

Song trong hàng ngũ Bà-La-Môn nơi buổi họp, có tám ông tâu cùng với Vua rằng:

– CHÚNG TÔI CÓ THỂ ĐẢM TRÁCH SỨ-MỆNH NẦY.

Cúi xin Hoàng Thượng ban cho ít đồ hành-lý để chúng tôi lên đường, làm mãn-ý của Vua.

Vua rất vui lòng truyền cấp phát đủ đồ lương-thực, hành-lý cho 8 người BÀ-LA-MÔN kia, và nói rằng: – TRẪM RẤT TIN CẬY CÁC NGƯỜI. 

Nếu các ngươi xin được VOI ấy về rồi, Ta sẽ trọng thưởng cho theo như sở thích. Tám ông Bà-la-môn ấy, lưng mang hành-lý, tay cầm trượng cây, từ biệt Vua rồi lên đường.

 Trải qua biết bao vất-vả, nhọc-nhằn, khi lên ghềnh, lúc xuống thác…lần hồi đã đến được nước DIỆP-BA.

Bọn chúng hỏi thăm đường và đi đến được trước cửa cung điện của Thái-tử, tay chống tích-trượng, chân co chân duỗi (như con cò đứng), đồng hướng mặt vào nơi cửa…

Quan giữ cửa vào trong thông báo đến Ðông-cung THÁI-TỬ TU-ÐẠI-NOA hay thì Ngài liền ra ngoài cửa thi lễ với 8 người Bà-la-môn ấy một cách tôn-trọng chẳng khác nào con thi-lễ với Cha, học-trò thi-lễ nơi Thầy vậy.

Ðoạn Thái-tử hỏi rằng:

– Bạch qúy ÐẠI-SƯ, Qúy ngài từ đâu đến đây, đi đường xá xa-xôi có cực-khổ lắm chăng.

Cảm phiền qúy Ngài cho tôi biết có việc chi quan trọng mà phải chịu nhọc-nhằn, đứng treo chân như thế nầy?

(Phụ-Chú:

Trong Kinh nói:

– BỒ-TÁT vì (lòng Từ-bi thương-xót) chúng-sanh, muốn thay thế chúng-sanh mà chịu khổ, hằng luôn phụng-sự chúng-sanh không nhàm-mỏi, là bạn không cần mời thỉnh, là tôi-tớ không cần trả lương của chúng-sanh…

Chỉ vì muốn cho chúng-sanh phát-khởi căn-lành, tu-hành trọn thành thánh-quả

Cho nên quý Ngài hằng luôn xả của-cải…cho chí đến cả thân-mạng vì chúng-sanh không lòng tiếc hối…

Chính là hành động khiêm-cung trên của Thái-tử TU-ÐẠI-NOA đây vậy).

Tám vị Bà-la-môn ấy dùng lời ôn-nhu, ca-tụng…mà đáp rằng:

– Thưa ÐÔNG-CUNG HOÀNG-TỬ,

“Chúng tôi ở xa-xôi ngoài ngàn dặm, nghe nói ÐÔNG-CUNG có lòng đại-thiện mở hội BỐ-THÍ đến bất luận là ai, là của cải gì, nên danh thơm của Ngài đồn xa bốn phương, tám hướng. Công-đức của Ngài quả thật là vô-lượng vô-biên, trên đời nầy chẳng còn có một ai là không biết đến. Chúng “BẦN ĐẠO” đây nghe đó mà sanh lòng tin chắc không nghi. Ngài chính thật là con của cõi THƯỢNG-THIÊN, lời nói của Ngài còn cứng chắc hơn Kim-cương, vàng đá.

Vậy nếu như Ngài giữ lời và không đổi ý ÐẠI BỐ-THÍ, thì nay chúng bần-đạo chỉ xin Ngài ban phát cho thớt “BẠCH-TƯỢNG TRẤN QUỐC” tên là ƯU-ÐÀ-DIÊN bay được trên liên-hoa mà thôi.

Hoàng-tử đáp:

– Cha tôi thương mến voi ấy lắm chẳng khác chi tôi, tôi không thể nào tự quyền cho các ngài thớt voi ấy được.

Vì nếu như vậy thì Cha Tôi sẽ nổi giận lên và không còn thương Tôi nữa, có thể là Cha Tôi sẽ đuổi Tôi ra khỏi nước cũng không chừng.

Nhưng rồi liền sau đó, Ðông-Cung Thái-tử TU-ÐẠI-NOA mới nghĩ rằng:

– Trước đây, Ta đã lập lên lời “TRỌNG NGUYỆN” là:

SẼ BỐ-THÍ “BẤT NGHỊCH Ý” CỦA NGƯỜI XIN

Nếu nay Ta từ chối không cho thế thì Ta đã:

Ự PHÁ ĐẠI-NGUYỆN CỦA CHÍNH MÌNH RỒI.

Vậy nay Ta nên Bố-thí Voi qúy ấy.

Nên cho Voi nầy thì mới:

– Có thể thành-tựu được hạnh BỐ-THÍ “BA-LA-MẬT-ÐA” vậy.

Nghĩ thế xong, Đông-cung bèn nói :

– Bạch quý Ðại-Sư, Tôi không dám để cho quý Ðại-Sư bận lòng vì một sự nhỏ-nhen đó.

Ðoạn Hoàng-tử dạy tuỳ-tùng thắng bành vàng lên lưng tượng và dắt VOI ƯU-ÐÀ-DIÊN ra lập tức. Hoàng-tử dùng tay trái mình xối nước rửa tay cho 8 vị Bà-la-môn, tay mặt dắt Voi trao cho Qúy khách (!)

Vừa nhận được Voi bạch ấy xong, 8 vị Bà-la-môn liền dùng lời (giả dối) ca-tụng TÂM BỒ-ÐỀ của Thái-tử, đoạn thốt lời cảm-tạ Đông-cung, mặt lộ vẻ hoan-hỷ và đồng ngồi lên lưng TƯỢNG, vội-vả lên đường.

Đông-cung đưa tiễn và nói vói theo rằng:

Xin qúy ÐẠI-SƯ hãy đi cho mau, kẻo Phụ-Hoàng tôi hay được, sẽ cho người theo bắt VOI  lại.

Vì là một linh-vật Thần-Tượng, cho nên Voi chạy rất mau. Trong nháy mắt liền biệt dạng.

Khi nghe được tin Thái-tử đã cho kẻ nghịch TƯỢNG BÁU rồi thì:

– Triều thần tất-cả các Quan văn, võ thảy đều sửng-sốt, bàn-tán với nhau rằng:

– Nước nhà sở-dĩ vững-bền, yên-ổn…là nhờ có THỚT TƯỢNG TRẤN QUỐC ấy. Nay Thái-tử đã đem bố-thí cho “kẻ thù” đi rồi, ắt là khó tránh khỏi chiến động, can qua!

Liền cùng nhau vào Triều tâu với VUA THI-KHÍ rằng:

–  “Muôn tâu BỆ-HẠ, ÐÔNG-CUNG đã đem Voi báu ƯU-ÐÀ-DIÊN mà tặng cho kẻ thù nhà.

Xưa nay BỆ-HẠ gầy-dựng nên giang-sơn, bờ cõi, cũng nhờ nơi Voi ấy, vả chăng Voi đó dũng-mãnh vô-cùng, oai-phong lẫm-liệt, một mình nó có thể đánh nhau với 100 con Voi  khác mà không nao-núng.

Nay Đông-cung đã đem Voi ấy mà cho kẻ thù rồi.

Chúng HẠ-THẦN nghĩ chắc đó là điềm mất nước báo trước vậy.

Hiện thời, chúng Hạ-thần tâm hồn đều rối-loạn, lo-lắng không yên, cúi xin HOÀNG- THƯỢNG định-đoạt về việc nầy.

Còn việc “BỐ-THÍ BẤT NGHỊCH Ý” của Thái-tử, theo thiển-kiến của chúng hạ-thần thì:

– Sớm muộn gì đây, ÐÔNG-CUNG chẳng những sẽ tiêu hết của-cải quốc-gia mà lại e còn cho luôn cả vợ, con và cả nước nữa chớ chẳng phải bấy nhiêu đó là thôi đâu!

VUA THI-KHÍ nghe tâu lên như vậy thì tỏ vẻ không bằng lòng, liền cho đòi một vị QUAN ÐẦU TRIỀU đến hỏi rằng:

– Nầy khanh, ta nghe nói Đông-cung đã đem voi Ưu-Đà-Diên qúy-báu của trẫm mà cho kẻ nghịch, có phải thật vậy chăng?

Vị quan ấy thưa rằng : – khải tấu Hoàng-thượng, việc đó là có thật.

Vua nghe xác nhận việc như thế rồi bèn hội nghị tất cả văn, võ triều-thần…lại để thẩm-án và định tội Thái-tử.

Khi ấy có một vị quan Thượng-thư tâu rằng:

– Muôn tâu Bệ-hạ, theo luật nước xưa nay thì:

– Kẻ nào tự-động đi vào chuồng TƯỢNG ƯU-ÐÀ-DIÊN mà không có lịnh của Vua thì CHẶT CHÂN.

– Kẻ nào tự-động dắt Tượng ra mà không có lịnh của VUA, thì CHẶT TAY.

– Kẻ nào thấy dắt Tượng đi mà không báo-cáo lên VUA thì MÓC MẮT.

– Xin VUA hành lệnh ấy với ÐÔNG-CUNG.

Lại có một Quan Thượng-thư khác tâu rằng:

Xin Hoàng-thượng công-bố án Tử-hình cho cả Thủ-phạm và đồng-lõa….

Thấy Quần thần phân-vân và không đồng ý-kiến như vậy, Vua lại càng thêm buồn,

Ngài suy-nghĩ giây lát rồi Phán rằng:

– CON CỦA TRẪM CHẲNG NHỮNG HAM TU TRÍ-HUỆ KHÔNG THÔI,

còn lại:

– HÂM-MỘ CON ĐƯỜNG PHƯỚC-THIỆN NỮA.

Ðối với hai đường ấy thì TRẪM không thể nào ngăn-cản được.

Huống chi,

– Nay lại nỡ lòng nào hạ-ngục cùng gia-hình Nó hay sao?

Một vị Quan Thượng-thư khác bác hết tất cả ý-kiến của đồng nghiệp mà tâu rằng:

– Nên ra lệnh đuổi Thái-tử ra khỏi nước và đày người vào trong chốn rừng 12 năm để cho THÁI-TỬ ăn-năn, hối-ngộ.

Vua nghe theo ý-kiến ấy, bèn cho gọi Đông-cung vào triều, trước mặt các Quan Văn, Võ, Vua hỏi rằng:

– Có phải ngươi bắt Bạch-Tượng ƯU-ÐÀ-DIÊN của Ta mà cho kẻ nghịch hay không?

Thái-Tử qùy tâu rằng:

– Muôn tâu HOÀNG-PHỤ, thần nhi có làm việc đó.

Vua hỏi:

– Ðó là một loại TƯỢNG THẦN TRẤN QUỐC. Sao ngươi dám bắt NÓ cho kẻ thù mà không báo cho TA hay trước?

Thái-tử tâu rằng:

– Thưa HOÀNG-PHỤ,trước kia HOÀNG-PHỤ có cho phép mở cuộc “BỐ-THÍ NHƯ-Ý và không ngăn-cấm việc gì, bởi thế cho nên con không tâu lên NGÀI về việc TU PHƯỚC của con.

Vua phán:

– Lệnh của TA ban ra là thuộc về đồ ngọc-ngà, châu-báu chứ không liên-quan gì đến BẠCH-TƯỢNG ƯU-ÐÀ-DIÊN cả.

Thái-tử tâu rằng:

– Khải tấuHoàng-phụ, bởi vì con nghĩ rằng : – Các vật ấy đều là của-cải của Hoàng-phụ hết, chớ con không ngờ phải trừ BẠCH-TƯỢNG đó ra, nay đã rõ như thế rồi thì con xin cúi đầu chịu tội.

Vua phán:

– Nay TRẪM truyền án cho ngươi phải ra khỏi nước và đày ngươi tại núi ÐÀN-ÐẶC 12 năm không cho gặp mặt.

Thái-tử tâu:

– Con không dám cải án-lệnh củaPhụ-hoàngsong con chỉ xin Phụ-hoàng cho con ở lại cung thêm bảy ngày nữa đặng BỐ-THÍ thêm cho con mãn-nguyện, rồi sẽ ra đi.

Vua phán:

– TA ra án-lệnh đày ngươi cũng vì sự BỐ-THÍthái quá đó mà thôi. Chẳng những ngươi làm tiêu-tan kho báu của Ta, mà ngươi còn lại làm cho QUỐC-GIA phải bị mất đi một LINH-VẬT TRẤN-QUỐC. Ngươi không được ở thêm một ngày nào nữa, mà phải đi ngay trong ngày hôm nay. Lời xin ấy Ta không chấp-nhận.

Thái-tử tâu trình rằng:

– Con không dám trái lệnh Hoàng-phụ, nhưng vì con còn có được chút ít của-cải riêng, muốn đem ra BỐ-THÍcho trọn-vẹn, chứ con không dám động đến kho-tàng của Quốc-gia nữa.

Khi ấy hai muôn vị VƯƠNG-PHI của VUA cũng đồng quỳ xin cho Thái-tử ở lại bảy ngày để BỐ-THÍ cho tròn ý-nguyện, sau đó rồi sẽ đày đi cũng chẳng muộn.

Vua chấp nhận.

Khi ấy Thái-tử truyền cho gia-dịch đánh trống truyền-rao khắp các nơi hay, lời rằng:

– Ai muốn của-cải, bạc tiền thì hãy gấp đến trong vòng bảy ngày, Ngài sẽ cung-cấp cho đầy đủ.

Nhân-dân khắp nơi cả trong và ngoài nước nghe lời truyền-rao như thế, thì đồng nhau kéo đến cửa đền.

Hoàng-tử ân-cần thiết-đải ăn-uống.

Chăm nom phân-phát của cải, làm cho mọi người đều được vui-vẻ, mãn-nguyện.

Trong bảy ngày ấy, Thái-tử bố-thí hết sạch của cải riêng-tư.

Vì thế nên khiến cho:

– Người hàn-vi, nghèo-khổ giờ bỗng được trở nên phú-qúy.

– Mọi người nhờ đó mà được hoan-hỷ, an-vui.

Ðến cuối ngày thứ bảy, Thái-tử vào nội cung từ-giả vợ là Công-chúa MẠN-TRÀ và nói rằng :

– Vì  tôi bố-thí thái quá, đã vét sạch gần hết kho-tàng quốc-gia mà lại còn đem Bạch-tượng kỳ tài của vua cho kẻ nghịch, cho nên Hoàng-thượng và triều-đình ra án-lệnh đày tôi 12 năm trên núi Đàn-Đặc, nay xin giả từ vương-phi ở lại bình-an.

Công-nương mạn-trà nói:

– Tâm Tôi lúc nào cũng nguyện cho “NƯỚC THẠNH, NHÀ AN”.

Tôi cầu xin trước là cho Hoàng-thượng, sau nữa là các Thượng quan trong triều cùng với tất-cả quân-dân trong nước thảy đều được giàu-sang, an-vui vĩnh-viễn.

Còn phần Tôi thì:

Tôi nguyện cùng theo Thái-Tử vào chốn thâm-sơn mà tu-hành pháp BÁT-NHÃ.

Đông-cung nói:

– Người Nam-Tửở chốn núi-non, là nơi hiểm-địa mà còn khó lòng giữ được bình-tỉnh khi gặp cọp, beo cùng với các loài thú dữ khác thay.

VƯƠNG-PHI từ nào đến giờ đã quen sống trong sự êm-ấm, thanh-nhàn…thì làm sao chịu nổi với nếp sống khó-khăn và cuộc đời vô-vị?

Bởi vì làm Công-chúa thì phải :

–  Ở lầu-các nguy-nga, mặc lụa-là gấm-nhiễu, ăn uống đồ mỹ-vị, cao-lương…

Còn ở trên chốn sơn lâm, rừng núi thì phải chịu cảnh:

– Ngủ nghỉ ngoài màn trời, chiếu đất, nằm nệm cỏ, gối rơm.

– Thức ăn toàn là hoa quả, rau rừng, nước suối lại còn thêm :

– Mưa, gió, sấm, sét, sương-tuyết làm cho dễ kinh tâm, vỡ mật.

– Khí lạnh ban đêm của núi rừng buốt giá thấu xương.

– Còn hơi nóng ban ngày thì cháy da, phỏng trán.

– Nơi cây đá không bề nương-tựa. Ðất cỏ gai, sâu bọ dẫy-đầy.

Nọc độc cùng rắn-rít muỗi mòng. Khắp mọi chốn dẫy đầy nguy-hiểm.

Thì:

–  VƯƠNG-PHI LÀM SAO MÀ CHỊU NỔI CẢNH KHỔ ẤY?

Công-chúa MẠN-TRÀ đáp:

– Nếu như Tôixa-cách THÁI-TỬ thì: – Cần gì nệm thúy, gối loan, sơn-hào hải-vị.

Hôm nay đứng trước hoàn-cảnh nầy thì lẽ đương-nhiên là chồng đâu vợ đó cho trọn đạo vợ-chồng, như :

– Quốc-gia thì lấy Cờ làm biểu-hiệu, còn khói lửa luôn có nhau.

Ắt:

– Vợ chồng phải ở bên nhau cho trọn đạo. Thân của Tôi đã gởi vào cho  THÁI-TỬ,  thì dầu cho mưa tối,  nắng chiều,  sơn lâm, cùng cốc…nào có quản chi.

Tôi tưởng nghĩ rằng : – Thái-tử chẳng khác gì thần-thức (Hồn) của Tôi. Nếu thần-thức xa lìa thì xác thân phải chết.

Vả lại, lúc Thái-Tử lập đàn Bố-Thí, Tôi cũng có dự vào. Nay Thái-tử lìa xứ-sở đi chốn viễn-phương, sau nầy nếu như có người đến xin Thọ-Thí, Tôi biết làm sao ăn nói với Họ ? Còn nữa, như Tôi nghe có ai khẩn cầu với thí-chủ, ắt làm cho lòng Tôi bị cảm-động có thể chết đi được vậy.

Đông-cung nói:

– Tôi mở đường, lập nguyện Bố-thí không từ chối một ai. Nếu như có người đến xin hai con, Tôi rất hoan-hỷ nhận lời. Khi ấy chắc là Công-chúa không vui lòng hưởng-ứng đâu.

Vậy có phải là làm rối-loạn “TÂM TỪ-THIỆN” của Tôi hay không?

Vậy tốt hơn VƯƠNG-PHI nên ở lại cung vàng chớ đừng nên theo Tôi làm chi.

Công-chúa Mạn-Trà đáp:

– Thái-tử chớ quá lo xa, tôi xin tán thành hết tất-cả mọi việc, phước thiện của chàng.

Thái-tử ôi ! Trong trời đất nầy không còn có nhất một ai giàu lòng nhơn-đức như chàng nữa cả.

Đông-cung nói :

– Nếu quả thật vương-phi đồng tâm với tôi thì không chi quý-hóa cho bằng.

Thế rồi Thái-tử tay dắt vợ, tay dẫn hai con vào viếng mẹ mà thưa rằng:

– Cúi xin mẫu-hậu ở lại bình-an, và:

Thường năng nhắc-nhở lệnh Thánh-hoàng nên lấy “luật-pháp chân-chánh” mà cai-trị thần-dân, lại nhắc-nhở mọi người tu theo“chánh-pháp”, chớ nên để cho tà-đạo xâm-nhập nước nhà.

Nghe lời Đông-cung từ-giả, dặn nhắc, hoàng-hậu bồi-hồi cảm-động, không sao nén được âu-sầu, lệ tuôn chảy xuống như mưa.

Bà nói to giữa đám cung-phi rằng:

– Ta đem tấm thân cứng cõi như sắt đá cùng với tấm lòng bền-bỉ hơn gang-thép mà: –  Không phò Hoàng-thượng, không có chút lỗi chi. Nay ta chỉ vỏn-vẹn có một đứa con yêu qúy mà Hoàng-thượng lại lưu-đày nó đi xa. Nghĩ tới cảnh phân ly chừng nào, thì lòng ta tâm can bào thắt, đứt đoạn can-trường. Nhớ khi con còn trong bụng mẹ, thì chẳng khác chi lá xanh non nương gá trên cành, ngày càng thêm tươi lớn. TA nuôi con đến tuổi trưởng-thành, nay Nó lại bỏ Ta một mình hiu-quạnh mà đi chốn xa-xôi. Thì TA lòng nào mà không tan-nát!

Các Vương-phi khác sẽ được vui chơi. Còn ta thì chắc là hoàng-thượng sẽ không còn yêu thương ta nữa, Ta xin thành-tâm khấn-nguyện cùng đấng cao-xanh.

–  Phò-hộ cho con TA được bình-yên nơi miền sơn-dã, và cho con TA sớm được trở về xứ-sở, sum-họp mẹ cha.

Bấy giờ Đông-cung thái-tử Tu-Đại-Noa cùng vợ và hai con lạy giả từ thân mẫu rồi lui ra.

Hai muôn bà vương-phi, mỗi người đều đem ngọc trân-châu của riêng mình mà biếu tặng cho thái-tử, còn bốn ngàn vị quan thượng-thư cũng đồng đem tràng phan và thất-bảo mà dâng tặng cho ngài.

HOÀNG-TỬ cùng vợ và hai con đi ra cửa thành hướng BẮC.

Cả thảy QUAN, DÂN lớn nhỏ đông vô-số, đến đưa tiễn chật đường, chen nhau dâng lên lễ-vật, ca-tụng lòng nhân từ của Ngài.

Hoàng-tử lấy cả thảy vật báu mới được tặng sau cùng đó mà Bố-thí cho tất cả mọi người hiện diện.

QUAN, DÂN đồng thương tiếc bàn luận cùng nhau rằng:

Vì sao mà Hoàng-thượng nở lưu-đày Thái-tử là bậc con lành hiếm có và cũng là bậc thánh-nhơn trong nước cho đành?

Ai nấy đồng nhau thương khóc, lệ-sầu tiếp nối, nhỏ xuống chứa chan….

Ra khỏi thành,

Thái-tử khấu đầu lạy tạ bá quan và ngỏ lời xin thần-dân trở gót để Ngài lên đường.

Lúc Thái-tử quay lưng lại bước đi, mọi người thảy đều nức-nở…

Thái-tử lên xe cùng với vợ và hai con, tự mình cầm-cương, dục ngựa mà rong ruổi…

Đi được một khoảng đường xa, Thái-tử dừng xe lại dưới một tàn cây nghỉ mát.

Khi ấy, bỗng có một người Bà-la-môn đến xin con ngựa, thái-tử liền mở ngựa ra cho rồi để hai con lên xe, tự mình mang gọng xe vào kéo thay cho ngựa.

Còn công-chúa thì ở sau xe đẩy tới, phụ lực với chồng.

Đi thêm một khoảng đường xa nữa…lại gặp một người Bà-la-môn khác đón xin chiếc xe. Thái tử liền chấp nhận cho xe, vợ chồng con cái cùng nhau đi bộ.

Đi thêm một khoảng đường xa nữa…lại gặp người Bà-la-môn nghèo xin bố-thí !!!

Thái-tử nói : – tôi không nở nào từ chối được, song hiện thời của-cải cũng đã hết, biết lấy gì mà bố thí cho người?

Bà-la-môn nghèo ấy đáp :

– Nếu Ngài không còn của-cải chi hết, thì xin ngài cho tôi y-phục qúy giá mà ngài đang mặc ở trên mình.

Thái-tử liền lấy áo tốt mà mình đang mặc ban cho người Bà-la-môn ấy rồi mặc đồ cũ, xấu mà tiếp tục đi.  – Đi được một khoảng đường xa hơn nữa…gặp một người Bà-la-môn khác đến xin  thọ thí, Ngài lại ban cho quần áo tốt của Vương-phi.

– Đi một quãng đường xa khác nữa…lại gặp một người Bà-la-môn nghèo đến xin thọ thí, Thái-tử liền cho quần áo đẹp của hai con.

Bấy giờ thì: – Đông-cung thái-tử Tu-Đại-Noa đã bố-thí hết cả.

– Ngựa, xe, của-cải, quần-áo đẹp…

Mà lòng của Ngài vẫn : – thản-nhiên, chớ không có một chút buồn tiếc nào hết cả.

Khi ấy:

– Đông cung thì lưng cõng con trai. Còn công-chúa thì lưng cõng con gái. Hai vợ chồng và con cái đều vui-vẻ, hân-hoan.

Nhắm về hướng dãy núi  Đàn-Đặc xa-xa – (nơi chốn lưu-đày) – mà thẳng dặm, băng ngàn.

Núi Đàn-Đặc xa lắm, cách châu-thành hơn 6000 dặm. Muốn đi đến nơi, cũng phải trải qua không biết là bao nhiêu hầm-hố, bùn-lầy, còn phải nhịn đói và chịu khát nữa !

Cứ thế, Thái-tử, Công-chúa và hai con ngày đi, đêm nghỉ, xuân qua, thu lại, rồi hè mãn, đông sang…tội nhân (thái-tử) đã đến núi Đàn-Đặc. Hoàng-tử ngắm xem phong cảnh, thấy núi cao trùng điệp trông rất oai-nghi, cây cỏ thì rậm rạp, um tùm. Các thứ chim ca hót với giọng véo-von, hồ nước trong vắt, hoa nở đẹp, nước ngon, trái ngọt, lại có vô-số loại ngỗng, hạc, vịt, chài cùng các loài chim đang ăn dưới nước.

Hoàng-tử nói với vợ:

“Ở đây cây mọc thẳng bằng, cao sừng-sững thấu tận trời xanh mà không lay động.  Chúng-ta sẽ được uống nước ngon, ăn trái ngọt, ở trong hang đá…và chúng ta sẽ tu-hành theo Pháp Bát Nhã.

Đông-Cung đi vô núi, cả thảy thượng cầm, hạ thú đều vui-mừng đến nghinh tiếp ngài (bởi vì thái-tử “tâm từ vô-lượng” cho nên cảm đến các thứ vật loại đều được sung-túc, tốt đẹp).

Trên chóp núi có một vị Đạo-sĩ tu tiên tên là A-Châu-Đà. Ngài được 500 tuổi và đức-hạnh dung thông.

Đông-cung đến thi-lễ rồi lui ra đứng dậy và nói :

-“Bạch Ngài, hiện giờ chúng-tôi chưa biết phải ở nơi nào có thức ăn uống?”

Ông A-Châu-Đà đáp:

-“Toàn thể núi nầy đều là cảnh thiên-thai cả, Ngài ở đâu lại không được?

Núi nầy chỗ nào cũng tinh sạch và thanh-tịnh.

– Ngài muốn hành Pháp Bát-Nhã sao lại còn đem vợ con theo làm chi?”

Hoàng-tử chưa kịp trả lời, thì bà Mạn-Trà chặn hỏi :

– Ngài tu được bao lâu?

Ông A-Châu-Đà trả lời:

– Tôi ở núi này được đâu 400 hay 500 năm gì đó.

Bà Mạn-Trà hỏi tiếp:

– Một người như tôi ước tu khoảng bao nhiêu năm thì mới đắc được huệ?

Giả-tỷ như tôi ở núi nầy lâu hơn cây cổ thọ cũng khó mà tính cho ra đến chừng nào đạt được Đạo Bồ-Đề.

Ông tiên đáp :

– Kỳ thật mấy câu chuyện ấy, chính tôi cũng không biết thấu được !

Đông-cung hỏi:

– Ngài có nghe nói đến tên Thái-tửTu-Đại-Noa, con của vua nước Diệp-Ba chăng?

Vị tu-sĩ đáp: – Tôi thường nghe nói đến tên thái-tử đó, song không biết mặt.

Thái-tử nói: – Đông-cung ấy chính là tôi đây.

Vị tu-sĩ hỏi: – Ngài muốn tu theo pháp-môn nào?

Thái-tử đáp: – Tôi muốn hành Bồ-Tát hạnh và tu theo Đại-thừa.

Vị tu-sĩ đáp: – Đối với công-đức của Ngài, thời tôi tưởng chẳng bao lâu ngài sẽ đạt được mục-đích viên-mãn. Chừng Ngài đắc được đạo vô-thượng bồ-đề, hoàn-toàn sáng suốt rồi, tôi sẽ là đệ-tử thứ nhất của Ngài, có phép siêu-phàm nhập thánh – (tức là ngài Kiều Trần-Như sau nầy). Rồi ông chỉ cho thái-tử một chỗ ở.

Thái-tử bắt chước ông tròng cương vào đầu và vấn tóc, sau đó Thái-tử mới đi lượm nhánh và lá cây để cất bốn cái lều tranh cho mình và cho vợ con. Con trai tên là ÐA-LY được bảy tuổi, mặc quần áo bằng cỏ rơm giống theo Cha.

Con gái tên là KÊ-NA-DIÊN mặc quần-áo bằng da nai giống theo Mẹ.

Trên núi chim chóc và cầm-thú vui cười tỏ lòng tín-ngưỡng và sùng-bái thái-tử. Khi thái-tử đi tới đâu thì ở đó nơi hang hóc lại có nội mạch nước chảy ra, còn cây khô giờ lại đơm bông trổ lá, các loài sâu-bọ và ác thú thảy đều trốn mất. Những loài thú ăn thịt giờ trở lại ăn cỏ. Cây sai trái, chim đồng tình kêu hót véo-von.

Bà Mạn-Trà lo phần hái trái cho hoàng-tử và con ăn. Còn hai trẻ khi thì đi chơi với cầm-thú nơi mé rạch, có khi ở lại đó với chúng nó suốt đêm.

Có lần, con trai Đa-ly đuổi thú chơi, cởi sư-tử, sư-tử nhảy làm cho Đa-ly té xuống đất bị trầy mặt chảy máu, có một con khỉ thấy được, liền leo lên cây hái lá xuống chùi máu cho Đa-ly, rồi dắt Đa-ly lại bờ ao rửa mặt.

Hoàng-tử thấy tấn-tuồng ấy, thầm nói: – Loài cầm-thú mà cũng còn có lòng thương nhân-loại như vậy.

Trong thời kỳ ấy, tại xứ Câu-Lưu có một người Bà-la-môn nghèo khổ, 40 tuổi, có vợ, song không có con. Vợ chàng thì yểu-diệu, đẹp-đẽ, phương-phi, còn chàng thì lại xấu-xa, mình mẫy đen xẩm, diện mạo quá ư dị tướng, chẳng khác chi yêu ma, qủy-mị. Vợ chàng gớm ghét mong sao chàng chết phứt đi cho rồi…

Ngày kia cô ta đi múc nước gặp một đám trai tráng nhạo báng chồng nàng và nói:

– Bà thì đẹp-đẽ ví tợ thiên-kim, cớ sao lại chịu làm vợ một người xấu-xa như thế?

Cô ta trả lời:

– Cái đầu già nua bạc trắng như sương ấy, sớm tối tôi hằng trù-rủa cho nó chết đi cho rồi, nhưng chẳng biết cớ sao nó vẫn không nhúc-nhích!

Đáp rồi tự than thân, trách phận, về nhà khóc nói với chồng:

– Thiếp đi múc nước gặp một lũ trai tơ xúm nhau diễu-cợt, vậy chàng phải tìm cho thiếp một con đòi, chừng nào có đứa ở rồi, thiếp khỏi đi xách nước, bọn ấy mới hết chọc ghẹo thiếp.

Người chồng trả lời:

– Tôi nghèo xác da, xác chiếu, nàng lại muốn tôi tìm con mọi (đứa tớ gái) ở đâu?

Vợ đáp:

– Nếu không có, tôi tình nguyện bỏ nhà ra đi.

– Nàng lại tiếp lời:

– Tôi có nghe hoàng-tử Tu-Đại-Noa, vì bố-thí thái quá nên bị vua cha đày tại núi Đàn-Đặc. Ngài có một trai, một gái, vậy chàng nên thân hành đến đó xin hai trẻ.

Chồng bác lời rằng:

– Núi Ðàn-Ðặc xa hơn 6.000 đặm, khó còn đi đến nơi thay, huống nữa là xin Thái-tử một việc mà Ngài không thể nào cho được?

Vợ lên tiếng:

– Nếu chàng còn dụ-dự, tôi sẽ mượn con dao tự-tử ngay.

Ông chồng xuống giọng:

– Thôi thôi, đừng vội giận mà, nàng coi sắm cho Tôiít đồ hành-lý gì để cho Tôi khởi-hành.

Vợ nói:

– Ði thì đi đi, nhà ta thiếu trước hụt sau, còn đòi đồ hành-lý gì nữa chứ?

Người Bà-la-môn ấy vội-vàng chuẩn-bị ít món ăn, ngủ…rồi lên đường.

Đến xứ Diệp-Ba ông đi ngay lại cửa thành, chàng ta mới hỏi người giữ cửa:

– Xin ông thi-ân cho tôi biết hoàng-tử Đông-cung Tu-Đại-Noa ở đâu hiện giờ?

Người giữ cửa không dám trả lời, vào báo cho Hoàng-thượng hay:

Vua nghe tức giận mà phán rằng:

– Cũng vì lũ này mà tađày Thái-tử, sao chúng nó còn đến đây làm gì?

Người Bà-la-môn được đòi vào quỳ tâu:

– Muôn tâu Thánh-hoàng, tôi ở xứ xa lại, vì cái thanh-danh của hoàng-tử Đông-cung đâu-đâu cũng đều biết, trên thấu cửu thiên, dưới tận cửu tuyền, Đông-cung có lòng bác-ái không hề để một ai thất vọng. Bởi vậy cho nên, tuy dù ở xa, tôi cũng lặn-lội đến đây ngụ ý thành tâm yêu cầu một đôi việc cùng Hoàng-tử.

Vua nói:

– Đông-cung ở chốn quạnh hiu, trong thâm sơn và hiện tại lại quá nghèo khổ, người chẳng còn có vật chi để mà bố-thí nữa.

Người Bà-la-môn tâu:

– Muôn tâu Hoàng-thượng, tuy biết Đông-cungđã khiếm khuyết mọi vật, song tôi cũng chỉ nguyện đến tận nơi để xin ra mắt ngài.

Vua dạy người chỉ đường.

Người bà-la-môn ấy biết rõ lối đi rồi, nên y ta nhắm núi Đàn-Đặc thẳng dặm, băng ngàn…chàng vào núi gặp người thợ săn liền đón hỏi :

– Xin ông thi ân cho tôi biết hoàng-tử Tu-Đại-Noa có ở trên núi này không?

Thợ săn tuy biết Đông-cung bị đày ở đây, cũng chỉ vì ngài bố-thí cho dòng Bà-la-môn.  Song Ông không chỉ chỗ mà lại còn bắt chàng ta trói vào gốc cây và đánh cho một trận nhừ tử, ông lại mắng-nhiếc quá lời và nói :

– Ta muốn cho ngươi vài mũi tên và ăn thịt ngươi, ngươi còn thiếu vật chi mà đến đây hỏi thăm thái-tử nữa?

Người Bà-la-môn nghĩ: – Ta sẽ bị tay người này giết, vậy ta phải thiết kế đánh-lừa, thì mới mong toàn tánh mạng, nghĩ rồi liền nói :

– Theo lẽ phải thì ngài nên hỏi tôi nguyên nhân, trước khi hành phạt tôi cho đúng.

Thợ săn đáp: -Ngươi muốn nói việc chi?

Người bà-la-môn nói:

– Thưa ngàiđức thánh-hoàng hồi tâm thương nhớ thái-tử Đông-cung, nên dạy tôi đi tìm Hoàng-tử đặng thỉnh ngài về nước.

Nghe vậy, thợ săn hối hận liền mở trói thả ra, nhận lỗi và nói:

– Tôi thật vô lễ, xin ông miễn chấp, cũng bởi không hay không biết có chỉ của thánh-hoàng, nên mới lỗi lầm như vậy. Nói rồi ông chỉ chỗ ở của Đông-cung.

Người Bà-la-môn đi thẳng đến lều tranh của Đông-cung, hoàng-tử thấy đặng thì rất đổi vui mừng, Ngài ra tiếp đón, thi-lễ và hỏi thăm :

– Ông ở đâu lại? có lẽ ông đi đường mệt nhọc thì phải? Ông đến Tôi có việc chi chăng?

Người bà-la-môn thưa:

– Tôi ở xa lắm, thân tôi khốn-đốn khôn cùng, đương giờ tôi đói khát nữa.

Hoàng-tử lật-đật thỉnh vào cốc mời ngồi, đem trà nước và trái cây dâng người bà-la-môn dung. Khi ăn uống no rồi, người Bà-la-môn nói :

– Thưa Đông-cung thái-tử, tôi vốn gốc ở nước Câu-Lưu, đã lâu tôi nghe đến lòng từ-thiện của ngài, thập phương thế-giới đều mến danh thơm và đức hạnh của ngài. Tôi quá nghèo khổ, mong ngài thương tưởng tôi, mà cho tôi xin một vài vật.

Thái-tử đáp:

– Kính ông chẳng có việc gì mà tôi từ chối cả, nhưng rủi cho ông,hiện giờ thì tôi không còn một món gì.

Người bà-la-môn nói:

– Thưa Đông-cung, nếu Ngài không có gì, xin ngàicho tôi hai trẻ con của Ngài để phụng-dưỡng tôi lúc trở về già.

Hoàng-tử đáp:

– Ông ở xa lại chú tâm xin hai con tôi, tôi không lẽ từ chối.

Lúc đó hai trẻ đi chơi, thái-tử kêu lại, và nói:

– Có một người Bà-la-mônở xa đến xin hai con, cha đã hứa lời ưng chịu, hai con hãy đi với người.

Hai trẻ chạy đến một bên cha khóc và nói rằng:

– Chúng con đã từng biết nhiều người Bà-la-môn, song  chúng  con  không  hề  thấy người nào mà dị-tướng như thế. Chắc người nầy không phải trong họ của bà-la-môn đâu, người nầy là quỷ yêu ! Nay mẹ con đi hái trái chưa về, cha lại bắt con  cho  yêu tinh ăn thịt, chúng con phải chết mất. Đến chừng mẹcon về kêu con chẳng thấy, thì chẳng khác gì bò mẹ kiếm con, người sẽ bị lụy, than-van, đau-khổ.

Thái-tử nói:

– Hai con chớ quá bịn-rịn, cha đã hứa lời không thể thất tín.  Người Bà-la-môn này không phải là tà-ma, quỷ-mị chi cả, không ăn thịt con đâu mà ngại gì, hai con hãy đi đi.

Hoàng-tử lấy nước rửa tay cho người Bà-la-môn, rồi kéo tay con cho người Bà-la-môn dắt đi.

Hai trẻ không chịu đi, chạy trở lại trước mặt cha qùy xuống và nói:

– Thưa chachẳng hay chúng con phạm tội gì trong kiếp trước mà ngày nay chúng con phải chịu lắm điều thống khổ? Chúng con là dòng vua, nay phải làm tôi-tớ cho kẻ phàm-phu. Trước mặt cha, chúng con xin sám-hối các tội-lỗi, có lẽ nhờ đó sự phiền não và nghiệp chướng của chúng con sẽ được tiêu trừ và hạnh-phúc lại đặng phát khởi, mong sao đời này sang đời khác chúng con không còn gặp phải bước gian-truân như thế nữa.

Đông-cung nói với hai con:

– Cả thảy ái-tình đều là ảo-mộng, một ngày kia quyết định là phải hủy-hoại, vạn vật đều vô thường, mấy ai giữ trọn vẹn một vật chi nơi trần thế. Hai con hãy đi, chẳng nên dùng-dằng, chừng nào chađắc-đạo Bồ-Đề, cha sẽ độ hai con.

Hai trẻ, đôi mắt đỏ ngầu nói với cha:

– Xin Cha trao lời vĩnh-biệt của hai con lại cho Mẹ con, chúng con quá đau lòng vì nghĩa mẹ con xa-cách đời-đời, lại không giáp mặt tỏ-phân một lời, trong khi mẹ Bắc con Nam. Chẳng còn nghi gì nữa, cũng bởi tiền căn, nghiệp báo của chúng-con, nên nay chúng con phải chịu vậy. Chúng-con nghĩ đến khi mẹ chúng con về thấy mất hai con, người sẽ khổ tâm, đau đớn sầu-não chẳng cùng, lo cho thân chúng con phải chịu đói rách phiêu-lưu nơi chân trời, đất khách.

Người bà-la-môn nói:

– Tôi già yếu, nếu như hai trẻ chạy bỏ tôi theo mẹ chúng nó, tôi lụm-cụm theo bắt chúng nó sao được. Xin Đông-cungtrói chúng nó lại giùm tôi.

Thái-tử liền trói hai con lại, rồi giao cho người Bà-la-môn dắt đi, nhưng hai đứa nhỏ cưỡng lại chẳng chịu, người Bà-la-môn mới đánh chảy máu. Đau-đớn thay cho Đông-cung, thấy tình cảnh như vậy động lòng sa nước mắt. Cả trái đất đều 6 lần rung-động, hoàng-tử và cầm-thú theo sau đưa đón hai trẻ, tới chừng biệt dạng mới trở về. Các loài lục súc trở lại chỗ cũ hai trẻ thường chơi, thấy cảnh chẳng thấy người, xúc-động rên than thảm thiết, lăn-lộn dưới đất.

Người Bà-la-môn dẫn hai đứa nhỏ đi được xa-xa, dọc đường đứa trai quấn dây trói vào cây không chịu đi, chú-ý chờ mẹ chúng nó đến cứu. Người bà-la-môn nổi-giận, lấy cây đánh nhừ tử, đến chừng chúng nó xin thôi đánh, chịu đi, thì y ta mới nới tay.

Hai đứa nhỏ ngước mắt lên trời vái rằng:

– Thần-linh ơi ! Hỡi thần linh ơi!
Hoan-hỷ mách giùm mẹ chúng tôi.
Xét dạ con đi sầu chất-chứa.
Đau lòng mẹ ở lụy quên thôi.
Chạnh tình nuôi dưỡng chưa thù đáp.
Đoái nghĩa cưu mang chẳng đắp bồi.
Ở biết bao giờ cho rảnh nghiệp ?
Cuộc đời thiết tưởng bạc hơn vôi.

Cũng ngay lúc đó, công-chúa ở trên núi , nháy mắt khó chịu, bà lấy làm lạ và nghĩ:

– Thuở giờ tôi chẳng hề có cảm động thái quá như hôm nay, chắc hai trẻ mắc phải tai nạn rồi. Bàliền bỏ giỏ trái lại đó, hối-hả ra về.

Khi công-chúa về thấy Đông-cung ngồi một mình không có hai con, bà vô lều  tranh tìm kiếm khắp nơi không có, bà lại trở ra mé rạch –  chỗ chúng nó hay chơi  giỡn cũng không thấy, bà chỉ thấy mang, sư-tử, khỉ, mấy thứ thường chơi với nó đang ủ-dột mà thôi. Bà Mạn-trà trở lại chỗ thái-tử ngồi và hỏi hai con ở đâu nhưng Thái-tử làm thinh không nói.

Bà lại hỏi nữa:

– Khi hai con ở xa thấy tôi đem trái về chúng nó chạy nhào lăn dưới đất, rồi lồm-cồm ngồi dậy nhảy nhót mừng reo rằng: – Mẹ về, khi chúng nó thấy tôi ngồi ở đâu thì đến ngồi kế một bên, thấy bụi bặm dính mình tôi liền phủi.  Bấy giờ tôi không thấy con tôi và chúng nó không lại gần tôi, nó ở đâu ? ai bắt nó ? không thấy con tôi, lòng tôi đứt từng đoạn ! chỉ cho tôi biết con tôi đi đâu và đừng làm cho tôi phải cuồng tâm.

Bà nói đi nói lại ba lần, hoàng-tử vẫn điềm nhiên không thốt một lời.  Bà lại càng đau đớn hơn nữa. Bà nói chua cay như vầy:

– Mất con tôi còn chịu được song sự lặng thinh của lang-quân làm cho lòng tôi thêm rối loạn.

Đông-cung nói:

– Có người Bà-la-môn ở xứ Câu-Lưu đến xin hai con và tôi đã cho rồi.

Công chúa thoạt nghe quá cảm-động, vụt té lăn xuống đất, lòng bà đau-đớn không cùng.

Đông-cung nói:

– Xin công chúahãy nguôi lòng. Phu nhân hãy nhớ lại việc xưa, hồi thuở Đức Phật Nhiên-Đăng ra đời, lúc đó tôi là một người Bà-la-môn, tên là Khánh vân, còn công tước phu-nhân là con gái bà-la-môn tên là Tu-La-Đà, công chúa cầm bảy liên-hoa, còn tôi thì nắm trong tay 500 đồng vàng. Tôi mua năm bông sen của công-chúa đặng cúng-dường Phật, còn vương-phi thì đem thêm hai bông khác cho tôi dâng cúng Phật.

Phu-nhân lại lập nguyện như vầy:

– Tôi nguyện cầu sao trong những kiếp vị-lai, tôi cứ được làm vợ chàng, dầu lịch-sự, dầu xấu-xa hoặc có đem thân tôi, con tôi mà bố-thí, thì tôi không hề xa chàng và chẳng buồn rầu chi cả…

Khi ấy, tôi có nói với công chúa rằng:

– Nếu nàng muốn làm vợ tôithì phải tuân theo chánh-ý  tôi, tôi sẽ đem hết tâm lực hành pháp bố-thí, không hề thối-chuyển hay làm trái-ý một ai. Trừ  cha-mẹ tôi,  ai  xin vật chi tôi đều hoan-hỷ. Công-chúa ưng chịu bằng lòng, nay tôi cho hai con, sao vương phi lại làm rối-loạn đến mối từ-tâm của tôi?

Nghe Đông-cung nói xong, bà liền tỉnh ngộ, bà nhớ lại trong kiếp quá khứ kia, bà có hứa hẹn và chấp nhận các việc bố-thí bất nghịch-ý của thái-tử.

Trên cõi trời, Thiên Đế thích thấy thái-tử hành pháp bố-thí Ba-la-mật, nên người cố ý xuống thử lòng thái-tử.

Ngài hóa thân làm người Bà-la-môn xấu-xa và cũng dị-tướng như người trước, đến trước mặt thái-tử và thốt rằng:

Đông-cung ơi ! Tôi hằng nghe Đông-cung rất hoan hỷ làm các việc phước thiện và không hề từ chối việc chi. Vậy tôi đến đây xin bà Vương nữ, vợ của Đông-cung.

Hoàng tử đáp:

– Công-chúa là người của ngài.

Công-chúa nói:

– Nếu Thái-tử cho tôi rồi, lấy ai mà giúp-đỡ Thái-tử?

Đông-cung nói:

– Nếu tôi không cho công-chúa thì tôi không đạt được đạo “Vô-Thượng Bồ-Đề”.

Thái-tử múc nước rửa tay cho người Bà-la-môn và dắt vợ cho người.

Đế-thích đã nhận được lòng của thái-tử không còn tiếc nuối việc chi. Các thiên thần lại ca tụng lòng từ-bi bác-ái của Đông-cung, tức thì trời đất tối tăm, thế giới đều rung động.

Người Bà-la-môn tay dắt công-chúa ra đi, được bảy bước, trở lại trả công-chúa cho Thái-tử.

Thái-tử hỏi:

– Sao ngài không giữ công-chúa cho ngài ? Có phải công-chúa nết-na tánh hạnh xấu chăng ? Trong tất cả hoàng-nữ, công-chúa là cực phẩm phu-nhân, nàng là công-chúa của một nhà vua kim thời. Cũng vì tôi mà nàng phải nhảy vào vạc dầu sôi, trong đồng lửa đỏ, phải chịu ăn uống kham khổ mà không hề than thở vì đau khổ phong-trần, trong mỗi sự hành động, nàng rất ân-cần chú-ý và gương mặt vẫn thư-thái tươi cười. Ngài nên đem nàng đi, tôi mới được an vui.

Người Bà-la-môn nói với Đông-cung:

– Ta không phải là bà-la-môn, ta là Thiên Đế-thích. Ta đến thử lòng Ngài. Nhưng bổn nguyện của ngài là chi?

Nói xong Đế-thích hoàn lại nguyên hình, diện-mạo oai-nghi dung nhan tuyệt-mỹ.

Công-chúa đảnh-lễ Đế-thích và cầu xin ba điều:

– Trước nhất xin ngài làm sao cho người Bà-la-môn đem hai con tôi về bán lại tại bổn-xứ, sau xin đừng để cho chúng nó phải bị hành hạ, đói khát, sau nữa xin cho chúng tôi được về nước cho chóng.

Đế-thích đáp:

– Bà sẽ được như nguyện.

Đông-cung nói:

– Kính ngài, tôi nguyện sao cho cả-thảy chúng sanh đều được giải-thoát và hết khổ về sự sanh, già, bệnh, chết.

Đế-thích nói:

– Lời nguyện của Ngài thật là vĩ-đại, cao thượng không chi hơn. Nếu ngài muốn sanh cõi trời, làm vua thượng-thiên, làm đại Hoàng-Đế tại cõi trần, trường thọ như bá, như tùng, thì tôi có thể làm được như-ý, chớ cái oai-linh tối yếu trong ba giới thì ra ngoài bản năng của tôi.

Đông-cung tiếp:

– Tôi tạm xin cho được giàu có muôn xe, đặng bố-thí hơn xưa. Tôi mong sao cho Hoàng-phụ cùng các quan đại thần hoài tâm lại mà sum-hiệp cùng tôi.

Đế-thích đáp:

– Bản nguyện của ngài sẽ được thành-tựu.

Dứt lời Đế-thích biến mất và đồng thời khi ấy người Bà-la-môn dẫn mấy đứa nhỏ về tới nhà.

Vợ chàng ra đón và nhiếc rằng :

– Thật chàng quả lớn mật to gan mới đem mấy đứa trẻ nầy về đây. Nó là dòng dõi vua-chúa, sao chàng lại tàn-nhẫn đánh đập đến nỗi vết-tích máu-mủ đầy mình. Hãy tức khắc đem bán đi và kiếm đứa khác cho tôi.

Chồng nghe lời vợ đem bán hai trẻ.

Đế-thích thể theo lời nguyền của công-chúa liền đổi ý cho người Bà-la-môn đưa qua nước Diệp-Ba.

Đến kinh đô của xứ ấy, các quan và dân nhìn biết con của Đông-cung, cháu nội của đức Kim-thượng, lớn nhỏ đều động lòng thương-xót, liền vào triều tâu vua.

Vua nghe nói lấy làm ngạc nhiên, vội-vã cho đòi vào.

Xa-xa vừa chợt thấy hoàng-tôn, thiên-tử, hoàng-hậu, quần thần và cung-phi đều khóc nức-nở.

Vua hỏi người Bà-la-môn rằng:

– Ngươi làm sao mà có mấy đứa trẻ này?

Ông Bà-la-môn tâu:

– Tôi xin được từ Đông-cung thái-tử.

Vua kêu cháu đến và muốn ôm, nhưng nó khóc không chịu lại gần.

Vua hỏi giá cả.

Người bà-la-môn chưa kịp trả lời.

Hoàng-tôn mạn phép tâu rằng :

– Trai định giá một ngàn bạc với một trăm bò cái. Gái thì hai ngàn bạc với hai trăm bò cái.

Vua hỏi rằng:

– Lẽ thường thì người ta yêu chuộng con trai hơn gái, sao bây giờ trai lại rẻ hơn giá của con gái?

Hoàng-tôn nói:

– Tâu bệ-hạ những cung-phi mỹ-nữ của bệ-hạ không phải là quyến thuộc của ngài, người thì hèn-hạ, kẻ lại hoa đời (qúy-phái, giàu-sang), nhưng ai được hoàng-thượng yêu vì thì được tăng phẩm tước, trang điểm mỹ-lệ, ăn uống sung-sướng ! Ngài chỉ có một mụn con trai mà ngài đày chốn non rừng rậm, còn ngài thì sớm tối sung-sướng với cung-phi, chẳng chút đoái-hoài tới nghĩa cha con. Đó rõ-ràng biểu-thị là con trai ít có giá-trị hơn con gái.

Thoạt nghe, vua liền tỉnh ngộ, khóc than rằng:

– Ta có tội cùng với hai cháu, lắm lẽ nào hai cháu chẳng chịu lại gần ta?

– Ghét ta hay sợ người bà-la-môn đó?

Hoàng-tôn vội tâu:

– Chúng con đâu dám tự phép ghét Hoàng-thượng và chúng con cũng chẳng sợ gì người Bà-la-môn này. Xưa chúng con là con vua, cháu chúa, nay lại làm tôi tớ cho kẻ phàm phu. Làm sao mà đứa nô-bộc lại dám lòn dưới tay của hoàng-thượng ? Bởi vậy cho nên chúng con không thể tự tiện làm việc ấy.

Hoàng-tôn dứt lời, Vua thêm sầu muộn. Liền đó Thánh-hoàng trả theo giá-định của người bà-la-môn, rồi kêu hai cháu nội chạy vào lòng ngài.

Vua ôm cháu vuốt-ve và nói:

– Cha con ăn-mặc những gì trên núi?

Hai cháu nói:

– Cha con ăn toàn lê hoắc, ngũ cốc, mặc áo vải, quần nâu, có trăm thứ chim làm cho cha con được giải-khuây và không chút chi phiền hết cả.

Vua cho người Ba-la-môn về.

Hoàng-tôn tâu:

– Người Bà-la-môn đói-khát, xin Thánh-hoàng cho người một bữa cơm.

Vua nói:

– Vậy chớ cháu không giận ông ấy sao, lại còn cho ông ấy ăn uống nữa?

Hoàng-tôn tâu:

– Cha con ham tu phước-huệ, đến đổi không còn vật chi bố-thí nên đem hai con cho người, người là chủ của hai con, chúng con rất tiếc là chưa làm nô-lệ người, hòng khỏi phụ lòng bác-ái của cha con. Chúng con sao đành để cho người đói-khát? Cha chúng con còn cho chúng con được thay, huống chi bố-thí một bữa cơm có lẽ nào Hoàng-thượng từ chối ?

Vua lại sai sứ-giả đi triệu Đông-cung về.  Được lệnh, sứ thần đi tìm Hoàng-tử, tới núi Đàn-Đặc liền tuyên đọc thánh-chỉ và xin Đông-cung lập tức về cung.

Đông-cung đáp:

– Hoàng-thượng đã đày ta ở núi này 12 năm và còn một năm nữa mới mãn hạn, chừng nào khâm-kỳ viên-mãn, ta sẽ về chẳng muộn.

Sứ-giả về tâu lại cho vua nghe, rồi Thánh-hoàng tự tay hạ bút đề thư cho thái-tử như vầy:

– Con thật đáng vị hiền-nhân, nên lấy dạ khoan hồng trở về Tổ-quốc. Cha đợi con về đặng đoàn viên cộng hưởng sự an-vui.

Khâm-sứ mang bức thư đem đưa cho Đông-cung.

Hoàng-tử liền quỳ lạy trước mật chiếu mà tiếp chỉ, đoạn lui lại, đi vòng mật chiếu bảy vòng, – (tỏ lòng kính-trọng) – rồi mới khai thư ra đọc.

Hay tin hoàng-tử sắp hồi triều, các loài cầm-thú nhảy nhót cảm-động, kêu gào tha-thiết, suối khe bỗng cạn nước, thú cái dứt sữa, chim chóc hót lên tiếng như than khóc, như sầu muộn.

Hy-hữu thay loài cầm-thú cũng biết đau thương trong khi vĩnh-biệt !

Đông-cung và công-chúa đổi y-phục lên đường.

Nghe tin Đông-cung về nước, Vua địch dạy thám-tử bắt bành vàng cho bạch-tượng, lại đem theo một ô vàng đựng bạc, một ô bạc đựng vàng đón đường thái-tử, xin trả lại bạch-tượng và tỏ dấu ăn-năn hối-ngộ cùng Hoàng-tử như vầy:

– Trước kia bởi mê-muội tôi cố ý xin ngài voi báu, vì tôi nên ngài phải bị đày ở thâm sơn, rừng rậm. Nay nghe tin về nước, tôi rất vui mừng, nên cho khâm-sứ đưa bạch-tượng trả lại cho ngài cùng dâng chút lễ bạc vàng, rất trông mong được ngài hạ cố và thứ lỗi cho tôi.

Đông-cung nói:

– Giá như có một người kia sắm-sửa các thức-ăn đủ mùi-vị ngon, ngọt, béo, bổ và dâng cho ai đó dùng, người ấy ăn vô rồi nhả ra, thức ăn đó có còn hương-vị thanh-khiết chăng ?

Các việc bố-thí của tôi chẳng khác chi đồ ăn kia, thế thì tôi không thể bắt voi lại. Các quan hãy lên tượng mà về và nói tôi có lời cảm-tạ nhà Vua.

Thám-tử lên voi về tâu lại nhà vua. Cũng nhờ câu chuyện con voi mà vua địch được tỉnh-ngộ, trở nên người hiền, thành bậc trượng phu. Vua quan và dân lại tín-ngưỡng đạo Bồ-Đề và bắt đầu hành pháp vô-thượng Ba-La-Mật Đa.

Hoàng-thượng, cha Đông-cung ngồi nơi cửa đón con.  Hoàng-tử chợt thấy, vội trổi bước đến đảnh-lễ sát đất, rồi theo sau vua cha. Cả thảy văn quan, võ tướng và lê dân rất hoan-hỷ đồng rải bông, đốt hương-trầm treo cờ lọng, rưới nước thơm dưới đất, làm lễ tiếp rước Đông-cung một cách long-trọng linh-đình.

Đông-cung đã về tới thành, liền vào lạy và vấn-an hoàng-hậu.

Bấy giờ:

Hoàng-thượng giao cho  Đông-cung hết cả thảy kho tàng trong nước.  Thái-tử đem ra bố-thí cho thập phương và còn nhân-đức hơn xưa.

Sự bố-thí của ngài viên-mãn, nên sau này ngài chứng được đạo quả Vô-thượng Bồ-Đề.

Đức phật nói với ông A-Nan:

– Đó là cách Ta hành pháp bố-thí trong một tiền kiếp xa-xưa của Ta .

– Đông-cung Tu-Đại-Noa kia tức là thân Ta ngày nay đó vậy.

* * *

(Lời bàn của Bảo-Đăng:  

– Kính Đạo-hữu Thân-Hợp, từ đầu cốt truyện đến đây:

Chắc Đạo-hữu và chư độc giả Phật tử đã xem, hiểu và thấy gương bố-thí của bậc “Đắc-giới Bồ-tát” Thái-tử Tu-Đại-Noa rồi. Nay chúng ta nên bình-tâm lại tự xét và quán xem lại tâm phàm-phu tục-tử của mình đi, ắt sẽ:  – rất lấy làm thẹn hổ và cũng sẽ không còn phiền-não nữa mà nói lên lời rằng:

– Tài-vật cúng-dường lên bậc “Đắc giới bồ-tát” đáng giá 3 lượng vàng (hoặc hơn) kia là có vẻ “mặc cả” nữa. Dù vậy, nhưng đây chỉ mới là “bố-thí ngoại-tài” mà thôi, chớ chưa phải là “bố-thí nội tài” (bộ phận trong người – như là tay, chân, xương, tủy, gan, mật, vv…) như vua Thi-tỳ trong thời quá-khứ.

Trân-trọng,                                                                                    

Bồ-tát giới tử Bảo-Đăng

 (cẩn-chí)

* * *

([1])- Bố-thí ba-la-mật :  là một cách bố-thí vô-tư, bình-đẳng, tức là:

– không thấy có mình là “người bố-thí”.

– không thấy có ai là “người nhận thí” (vì vô ngã – vô nhân vậy).

lại cũng:

– chẳng thấy có của-cải nào được bố-thí (vì vô ngã-sở).

– chẳng thấy có ai là kẻ thọ-ân (vì vô thọ-giả)

– không phân-biệt kẻ thân, người sơ, kẻ oán, người thù (vì vô chúng-sanh tướng).

và:

– không còn có chút lòng tiếc-nuối chi cả dù là thân-mạng của chính mình (huống chi là vợ, con, của- cải). (xem lại thứ số 44 về phần : “bố-thí không chấp tướng” của bậc “Đắc-giới bồ-tát”)