SÁM NGHĨA CỦA LỤC TỰ DI ÐÀ
(Sám tụng Di Ðà I)

NAM thứ nhứt lòng nhân bất Sát,
Khắp chúng sinh bác ái từ bi.
Chữ MÔ bỏ hết ái si,
Chớ tham dâm dục mà suy đọa hoài.
A, tam thứ bỏ ngoài Thâu đạo,
Của cải người chớ háo chớ tham.
Chữ Di nên dứt nói sàm,
Bốn điều Vọng ngữ chớ găm trong lòng.
Ðà, đệ ngũ sáng trong soi trí,
Tránh ma men thì ý bình an.
Qui y Tam bảo vẹn toàn,
Nhớ lời Phật dạy rõ ràng sáu âm.
Kẻ học đạo chuyên tâm nghe rõ,
Cứ xuất gia thì tỏ ngộ ngay.
Rán lần sáu chữ từ đây,
Xét suy cạn lý ngộ rày chân tâm.

NAM về Nhãn sắc trần đều diệt,
Chớ đê mê mài miệt trần ai.
Chữ MÔ thuộc Nhĩ thinh hai,
Phải đều dẹp tắt thanh bai bước đường.
A là Tỵ mùi hương xa lánh,
Thích làm chi bịn rịn ái tình.
Chữ DI là Thiệt khiết tinh,
Vị trần chẳng mến, sóng tình khỏi chao.
ÐÀ sáng suốt chiếu vào Thân uẩn,
Ðồ vô thường đừng bận Xúc duyên.
PHẬT khuyên ý niệm chánh chuyên,
Pháp mầu giả dối chẳng bền chẳng lâu.
Này Phật tử thẩm sâu mấy chữ,
Cứu độ người sanh tử luân hồi,
Cố công trì niệm trau giồi,
An nhiên tự tại khỏi thời trầm luân.

NAM quyết chí dứt Sân hối ngộ,
Ðịa ngục kia thoát lộ siêu thăng.
MÔ lìa tham dục tánh xằng,
Khỏi đường Ngạ quỉ được thăng cảnh trời.
A, khá nhớ lo rời Si muội,
Cảnh Bàng sanh được khỏi tam tai.
DI, khuyên dứt tánh nghi hoài,
Khỏi làm Thần dị đọa đày bấy lâu.
ÐÀ, vi diệu gắn câu phước thiện,
Khỏi thân người ứng hiện tự do
PHẬT, nay tạo sẵn chiếc đò,
Rán chèo qua bể đến bờ an vui.
Muốn được vậy chớ lui một bước,
Rán công phu không trước thì sau,
Chăm hành hạnh nguyện dồi dào,
Chúng sinh độ tận bậc nào lại hơn.

NAM cố gắng đem ra Bố Thí,
Phaùp lẫn tài vô úy chớ quên,
Ðức từ mở rộng khắp miền,
Nhỏ như hột cát không riêng chút lòng.
MÔ tịnh hạnh người trong Trì Giới
Chớ ố hoen mà phải hư hèn.
Lòng bi nào kể xuống lên,
Một câu thanh bạch cũng nên đạo mầu.
A vô lượng chớ âu Nhẫn Nhục,
Hãy nhu hòa hun đúc chân nguyên.
Không màng những chuyện não phiền,
Ðớn đau tủi hổ dữ hiền cần chi.
DI tiến bước hằng khi Tinh Tấn,
Chớ kêu nài mỏi cẳng mệt hơi
Khá xem các Phật rạng ngời,
Danh truyền thiên cổ cũng thời tinh chuyên.
ÐÀ quang đãng soi miền Chánh Ðịnh,
Vẫn an nhiên thanh tịnh bình thường.
Keo sơn gắn bó luôn luôn,
Một mai giác ngộ mười phương tỏ tường.
PHẬT toàn giác khai hương Bát Nhã
Án nguyệt quang buông tỏa chín từng
Rõ thông diệu lý siêu quần,
Hoàn toàn thiện ý tâm trưng Niết-bàn.
Hành Lục độ lo toan bữa bữa,
Chớ tham van kéo nhựa kéo giây.
Hiểu rằng cõi Phật gần đây,
Di Ðà, Thế Chí với rày Quan Âm.

NAM đo đắn định tâm nghe kỹ,
Nghĩa lý kinh trí huệ soi thông,
Ấy là ngộ đặng Nhân ông,
Lo gì không đến thềm rồng Lạc bang.
MÔ học hỏi cho toàn bản giác,
Nghĩa hành kinh chớ lạc tín thâm.
Nguyện hành cho thiết một tầm,
Lên đường giải thoát chân tâm an nhàn.
A thaønh tựu rõ ràng kinh giác,
Ngộ tánh rồi thân pháp hiện ra.
Ba tòa qua lại lại qua,
Ðã nên ba đức liên hoa đủ màu.
DI thanh tịnh Tỳ lư pháp ngộ,
Thân Giá Na hoàn độ mười phương.
Thật là bí tạng không lường,
Di Ðà thân pháp, hiện thường cảnh chân.
ÐÀ vô tận báo thân viên mãn,
Lư Xá Na oai dạng trang nghiêm.
Khắp trong tam giới đắm chìm,
Thích Ca ứng hiện bể trần tiêu tan.
Phật vô lượng hóa thân thiên ức,
Ðủ muôn hình tùy bực độ sanh.
Vượt lên hết lũ hàm linh,
Long Hoa Di Lặc viên minh tánh này.
Này Phật tử nhớ ngay Lục tự
Chỉ bấy nhiêu hãy cứ hành đi.
Gắng công niệm niệm thọ trì
Bước lên Bản giác mà đi về thành.
Di Ðà Cực lạc bên mình.

-Trích Tam Bảo Tôn Kinh, Thích Ca Tự xb, Sàigòn, 1974


BỐN MƯƠI TÁM LỜI NGUYỆN DI ÐÀ
(Sám tụng Di Ðà 2)

Nguyện thứ nhất: Tôi thành Phật được,
Thì nước tôi là nước tịnh thanh,
Ngục hình, ngạ quỉ, súc sinh,
Thảy đều chẳng có sanh thành nơi đây.
Nguyện thứ hai: Nước này tịnh giới,
Ðàn bà cùng con gái tịch nhiên,
Những người trong cõi Nhơn, Thiên,
Cùng loài cầm thú cần chuyên tu hành.
Thảy đều đặng hóa sinh thọ cảm,
Thất baûo trì, Cửu phẩm liên hoa.
Nguyện thứ ba: Dân chúng Phật đà,
Khi cần ăn uống, hóa ra sẵn sàng.
Bát thất bảo, bỉ bàng đựng lắm,
Trăm món ngon, khỏi sắm ở đâu,
Ăn rồi, khí dụng liền thâu,
Không cần phải rửa, phải lau nhoïc nhằn.
Nguyện thứ tư: Nhơn dân trong nước,
Muốn áo quần, khăn, lược, mão, giày,
Thảy đều hóa đủ sẵn bày,
Khỏi mua, khỏi giặt, khỏi may cực lòng.
Nguyện thứ năm: Giáp vòng địa lợi,
Từ đất bằng lên tới hư không,
Thảy đeàu lầu các, điện, cung,
Cùng là cây trái, ao, sông, cửa nhà.
Các thứ ấy đều là trân bảo,
Cùng bá thiên hoa báu, hương thơm.
Hiệp nhau thành tạo kết đơm,
Trau giồi trang sức, cho làm phồn ba,
Mùi hương ấy xông ra khắp đủ,
Cả mười phương hưởng thụ cấp kỳ.
Chúng sinh hạnh nguyện chuyên trì,
Tin và tưởng Phật, đến thì vãng sinh.
Nguyện thứ sáu: Dân lành quốc độ,
Thương kỉnh nhau, ví tợ ruột rà,
Không lời qua lại bất hòa,
Không ganh không ghét, sinh ra tranh giành.
Nguyện thứ bảy: Dân sinh trong nước,
Không có lòng uế trược, dâm ô,
Cũng không có tánh tục thô,
Cùng là nóng giận hồ đồ ngu si.
Nguyện thứ tám: Chuyên trì thiện niệm,
Cứ đường ngay tiệm tiệm lướt đi,
Nếu ai muốn nói chuyện gì,
Người kia hiểu ý tức thì khỏi phân.
Nguyện thứ chín: Chúng dân từ thiện,
Tai chẳng nghe những chuyện không lành,
Có đâu sự ác sự hành,
Mấy điều nghiệp chướng đã thành vô danh.
Nguyện thứ mười: chúng sinh đều ví,
Huyễn thân là mộng mỵ mà thôi,
Vậy nên lòng chẳng nhiễm đời,
Tánh không tham muốn, khắp nơi vui cười.
Nguyện mười một: Tiên, người tùy khác,
Hình dung đồng một sắc vàng y,
Mặt mày nghiêm chỉnh phương phi,
Trong ngần đẹp đẽ, không chi ví bằng.
Nguyện mười hai: Mười phương thế giới,
Thiên, Nhơn cùng các loại súc sinh,
Hóa thân về cõi Lạc thành,
Chứng ngôi Duyên giác, Thinh văn
trùng trùng.
Ngồi thiền tọa, tấm lòng tịch tịnh,
Hiệp cùng nhau tính tuổi ít nhiều,
Chẳng hề biết đặng bao nhiêu.
Ngàn, muôn, ức kiếp số nhiều khó phân.
Nguyện mười ba: Thiên, Nhơn trên giải,
Hiệp cùng nhau đếm mãi dân cư,
Không hề rõ biết số dư,
Tại An dưỡng quốc nhiều như cát Hằng.
Nguyện mười bốn: Dân trong quốc độ,
Thảy thảy đồng trường thọ miên miên.
Không sao biết đặng số niên,
Sống lâu vô lượng, vô biên kiếp đời.
Nguyện mười lăm: Dân thời thanh tịnh,
Trụ vào nơi thật tính trạm nhiên,
Ly chư loạn tưởng đảo điên,
Ðắc vô phân biệt, mãn viên Niết-bàn.
Nguyện mười sáu: Lạc bang dân chúng,
Vui vẻ mà thọ dụng đủ điều,
Thảy đồng với các Tỷ-kheo,
Chứng phần “Vô lậu” hết theo sự đời.
Nguyện mười bảy: khi tôi thành Phật,
Sẽ giảng kinh, thuyết pháp độ sanh.
Làm cho sở nguyện đắc thành,
Công tôi giảng đạo trọn lành hơn ai.
Nguyện mười tám: Hóa thai khỏi dục,
Người người đều đắc “Túc mạng thông”.
Rõ điều tiền kiếp xa trông,
Hằng hà sa số như đồng kim sinh.
Nguyện mười chín: chúng sinh ức vạn,
Ðắc thần thông “Thiên nhãn tịnh quang”.
Thấy toàn vũ trụ mười phương,
Trùng trùng duyên khởi thế gian tỏ tường.
Nguyện hai mươi: Tây phương dân chúng,
“Thiên nhĩ thông”, đắc dụng nghe xa,
Những lời thuyết pháp bủa ra
Của trăm ngàn ức Phật Ðà khẩu tuyên.
Nguyện hăm mốt: Nhơn, Thiên trong nước,
“Tha tâm thông” biết được chẳng sai,
Những điều tâm niệm mỗi loài,
Thập phương thế giới không ngoài tánh linh.
Nguyện hăm hai: chúng sinh quốc độ,
“Thần túc thông” đắc ngộ rong chơi,
Bao hàm thế giới nơi nơi,
Vượt qua một mạch, mau thời hơn bay.
Nguyện hăm ba: Khi tôi thành Phật,
Danh hiệu tôi vang dội mười phương.
Phật và đại chúng tán dương,
Còn dân trong nước lai Vương tôi hoài.
Thiên, Nhơn với các loài thú vật,
Niệm danh tôi cho thật chí thành,
Sinh lòng vui vẻ, hiền lành,
Lâm chung sẽ đặng hóa sinh sen vàng.
Nguyện hăm bốn: Ánh quang minh chiếu,
Nơi đầu tôi, tuyệt diệu rỡ ràng,
Mặt trời cùng ánh mặt trăng,
Tuy là sáng tỏ chẳng bằng Phật quang,
Nguyện hăm lăm: Hào quang tôi chói,
Khắp cùng nơi chỗ tối khúc quanh,
Thiên, Nhơn cuøng các súc sinh;
Thấy liền đặng khởi lòng thành quy y.
Nguyện hăm sáu: Bất kỳ nhơn, thú,
Trong thập phương vũ trụ vân vân,
Nhờ hào quang chiếu đến thân,
Từ hòa tâm tánh hơn dân cõi trời.
Nguyện hăm bảy: Tiên, Người phát ý,
Tâm Bồ-đề, trì chí giới trai,
Lục Ba-la-mật quảng khai,
Làm nhiều công đức, chẳng sai một thì.
Khi thọ mạng tới kỳ viên mãn;
Có tôi và các hạng Tăng lành,
Phóng quang tiếp dẫn vãng sinh,
Ðặng làm Bồ-tát tại thành Lạc bang.
Nguyện hăm tám: Thiên, Nhơn vũ trụ.
Nghe danh tôi sắm đủ bỉ bàng,
Hương, hoa, đăng, chúc huy hoàng,
Tràng phan, bảo cái cúng dường Như lai.
Tạo tháp, tự, trì trai, thanh tịnh,
Làm việc lành tâm định tưởng tôi,
Tưởng luôn trọn một ngày thôi,
Chắc là sẽ đặng nước tôi về liền.
Nguyện hăm chín: Nhơn, Thiên mười cõi,
Nếu dốc lòng ra khỏi bến mê,
Hiệu tôi thập niệm chuyên bề,
Lâm chung sẽ đặng sinh về Lạc bang.
Trừ những kẻ hung tàn hỗn tạp,
Cùng những người Phật pháp dễ khinh,
Ai mang tội ấy vào mình,
A tỳ địa ngục thọ hình chung thân.
Nguyện ba mươi: Thiên, Nhơn, cầm, thú,
Trong thập phương vũ trụ khôn lường,
Trước đà tạo tội thường thường,
Sau nghe danh Phật, tỏ tường cung khai,
Cầu sám hối, trì trai, giới sát,
Nguyện làm lành, nước Phật mong sinh,
Lâm chung sẽ đặng công lành,
Khỏi tam đồ khổ, hóa sinh liên đài.
Nguyện băm mốt: Tiên, Người mười cảnh,
Nghe danh tôi, lễ đảnh theo về,
Vui mà tu hạnh Bồ-đề,
Người người cung kỉnh, một bề tán dương.
Nguyện băm hai: Thập phương thế giới,
Những đàn bà con gái chán đời,
Phát tâm tín niệm danh tôi,
Thân sau tránh khỏi phục hồi nữ nhơn.
Nguyện băm ba: Chúng dân mới tới,
Quả vô sinh bất thối chứng liền.
Lại thêm quả Phật siêu nhiên,
Ngoại trừ những vị bổn nguyền độ sinh.
Tôi sẽ giúp cho thành sở mộ,
Tới tha phương tế độ hàm linh,
Hạnh tu Bồ-tát rất tinh,
Lại còn lấy sức oai linh hộ truyền.
Cho người ấy tinh chuyên tấn bộ,
Cùng chúng sinh tín thọ pháp huyền,
“Bồ-đề”, “Tịch diệt”, “Phổ Hiền”,
Tấn thêm “Tối thắng”, cần chuyên thi hành.
Nguyện băm bốn: Dân lành trong nước,
Ðộ chúng sinh, dùng đủ mọi phương,
Ước nguyền sẽ đặng như lòng,
Bao nhiêu nghiệp ác, ba đường khỏi mang.
Nguyện băm lăm: Các hàng Bồ-tát,
Muốn cúng dường chư Phật đâu đâu,
Hoa hương, anh lạc, trân châu,
Liền đi khắp đủ, vừa hầu bữa ăn.
Nguyện băm sáu: Muôn ngàn báu vật,
Muốn cúng dường chư Phật, Thánh Hiền,
Ước ra thì có đủ liền,
Cúng dâng khắp cả về miền chưa trưa.
Nguyện băm bảy: Ai vừa đọc tụng,
Hoặc thọ trì, phụng cúng chư kinh,
Ðặng tài biện luaän thông minh,
Lại thêm Bát nhã, trí lành cao siêu.
Nguyện băm tám: Giảng điều pháp lý,
Ðủ viên thông, đầy trí tuệ tâm,
Nghĩa kinh cùng với pháp âm,
Dầu rằng vi diệu cao thâm đều cùng.
Nguyện băm chín: Quốc trung Bồ-tát,
Thảy thảy đồng dõng bạt kiên cần,
Mỗi người đều đặng kim thân,
Băm hai tướng tốt, mười phân sắc màu.
Thuyết các pháp gồm thâu đạo Phật,
Cũng in như chư Phật đương thời.
Bốn mươi nguyện: Nước của tôi,
Hoàn toàn tinh sạch, chiếu soi một màu.
Chư Bồ-tát ví như muốn thấy,
Cõi Phật nào là thấy chẳng ngoa,
Dòm trong “bảo thọ” hiện ra,
Cảnh nào Phật nấy như là soi gương.
Nguyện bốn mốt: Mọi đường công đức,
Bồ-tát nào chưa được hoàn toàn,
Ðặng nghe, đặng thấy “Ðạo tràng”,
Bề cao cho đến bốn ngàn na do.
Nguyện bốn hai: Các đồ nhật dụng,
Quốc độ tôi thiệt đúng tinh minh,
Chói ngời hình sắc đẹp xinh,
Dầu Thiên nhãn chẳng nhìn hình đặng đâu.
Nguyện bốn ba: Ai ai trong nước,
Chỉ mong cầu nghe được pháp kinh,
Tự nhiên sở nguyện đắc thành,
Không chờ mời thỉnh, thường tình thế gian.
Nguyện bốn bốn: Thanh văn, Duyên Giác,
Trong nước tôi đều đắc oai thần,
Hào quang tỏ rạng vô ngần,
Biện tài thuyết pháp ngang phần Pháp vương.
Nguyện bốn lăm: Tha phương Bồ-tát,
Nghe danh tôi, tấn phát phụng hành,
Thảy đều đặng phép “Tịnh thanh”,
Ðịnh thần, giải thoát, phước lành thưởng ban.
Như ai muốn cúng dường Phật pháp,
Trong một giờ đi khắp hà sa,
Tuy là đường sá rất xa,
Ðịnh thần không lạc, Thiền na chẳng lìa.
Nguyện bốn sáu: Chư tôn Bồ-tát,
Ở tha phương nghe đạt danh tôi,
Quy y tinh tấn vừa rồi,
“Ðịnh thiền bình đẳng” phục hồi bổn nguyên.
Ðắc pháp Nhẫn lên ngôi Chánh giác,
Ðặng thấy thường các bậc Như lai.
Lời nguyện bốn bảy như vầy:
Tha phương Bồ-tát về đầy nước tôi.
Hướng đạo cả tâm hồi bất nhị,
Chẳng thối lui địa vị cao sâu,
Lời nguyện bốn tám báu mầu :
Tha phương Bồ-tát khấu đầu quy y.
Chư vị ấy đắc kỳ sở nguyện,
Nhứt, nhị, tam “Nhẫn thiện” Pháp vương,
Pháp môn của Phật khôn lường,
Thập phương vững trụ dẫn đường chúng sinh.
Khi Pháp Tạng nguyện xong bốn tám
Cõi Tam thiên sáu món rung rinh,
Hương hoa đổ xuống đầy thành,
Hư không phát tiếng “Chắc thành Như Lai”.

-Trích Nghi Thức Tụng Niệm chữ Việt, Chùa Xá Lợi, Sàigòn, 1992


BÀI TỤNG VÍA PHẬT DI ÐÀ (III)

Chúng con cung kính nghe rằng:
Thân vàng tướng hảo,
Ba đời uy đức huy hoàng,
Ao báu sen vàng,
Mười cõi hào quang rực rỡ !
Tịnh nghiệp pháp môn nguyện mở,
Thiện nhơn liên xã xin đăng.
Theo ngài Huệ Viễn cao Tăng,
Niệm Phật vãng sanh Thánh cảnh.
Nhờ đức Di Ðà đại thánh,
Thương tình tiếp dẫn Lạc bang.
Hôm nay tất cả chúng con:
Cung kính quì trước đạo tràng,
Chí thành dâng lên pháp cúng,
Di Ðà kinh văn phúng tụng,
Hồng danh Thánh hiệu xưng dương.
DÂng đủ Ngũ căn hương,
Cúng đầy Bát đức thủy,
Cùng Thất chi quả quí,
Với chúng diệu hoa tươi.
Cúng dường Cực lạc Ðạo sư,
Tôn vinh giờ thiêng vía Thánh.
Ðông tây hai cảnh,
Cảm cách một lòng,
Cúi đầu cầu mong,
Dũ lòng chứng giám.
Tất cả chúng con nghĩ rằng:
Tự tánh Di Ðà mặc cảm,
Duy tâm Tịnh độ nghĩ suy.
A Di Ðà Phật là gì?
Là Vô Lượng Quang,
Là Vô Lượng Thọ.
Là vô biên Trí huệ từ bi !
Duy tâm Tịnh độ là gì?
Là đất nước trang nghiêm công đức,
Là phương Trời tự tại đông vui !
Thế nhưng tất cả chúng con,
Từ vô thỉ kiếp đến nay,
Sáu đường sanh tử tới lui,
Ba cõi luân hồi qua lại.
Ðến như thế giới chúng con:
Tám nạn, ba tai kinh hãi,
Bốn suy, tám khổ chán chường.
Ðến đây tất cả chúng con:
Nguyện phát minh thể tánh chơn thường,
Hầu thấy Di Ðà tự tánh.
Mong xây dựng cuộc đời đạo hạnh,
Ngõ thành Tịnh độ duy tâm.
Cúi đầu thệ nguyện âm thầm,
Ngửa mong Từ bi gia hộ.
Nam mô Tây phương Giáo chủ,
Tiếp dẫn Ðạo sư,
A Di Ðà Phật.
Tác đại chứng minh.

-Trích Pháp Sự Khoa Nghi Việt Ngữ, HT Thích Hiển Tu, chùa Xá Lợi ấn hành nội bộ, Sàigòn, 1989


VĂN PHÁT NGUYỆN VÍA A DI ÐÀ
(Sám tụng Di Ðà 4)

Ðệ tử chúng con
Tựu trước liên đài
Niệm ngày Khánh đản
Phật A Di Ðà
Giữa tiết Ðông thiên
Bầu trời giá lạnh
Dưới ánh trăng khuya
Nhằm ngày mười bảy
Chúng con lễ bái
Quì trước đài sen
Chí thành sám hối
Ðệ tử chúng con
Từ vô thỉ kiếp
Nhẫn đến ngày nay
Tội chướng sâu dày
Dẫy đầy biển nghiệp
Sanh tử không dừng
Trôi lăn nhiều kiếp
Mới được thân người
Nay đủ duyên lành
Nương theo giáo pháp
Ðức Phật Thích Ca
Ðộ khắp Ta bà
Tìm phương giải thoát
Phát nguyện tu hành
Niệm đức Hồng danh
Cha lành Từ phụ
Lạc bang Giáo chủ
Ở cõi Tây phương
A Di Ðà Phật
Vì thương xót chúng sanh
Phát nguyện rộng lớn
Bốn mươi tám điều
Lập cảnh lạc bang
Tiếp dẫn chúng sanh
Khỏi chốn ái hà
Thẳng qua cực lạc
Ðến cảnh an vui
Cúi xin đức Phật từ bi
Chứng minh hộ niệm
Cứu khổ chúng sanh
Ðồng thành chánh giác
Chúng con phát nguyện
Niệm Phật trì danh
Cầu sanh cực lạc
Nguyện tu giải thoát
Tất cả chúng sanh
Ðồng sanh Tịnh độ
Cửu huyền thất tổ
Thảy đều siêu độ
Về cõi Lạc bang
Chứng ngôi Bất thối
Hoa nở thấy Phật
Ðặng nghe pháp mầu
Mở mang trí tuệ
Chứng quả vô sanh
Ðệ tử chúng đẳng
Tâm thành khẩn nguyện
Cúi mong đức Phật từ bi
Duỗi tay thọ ký
Quan Âm, Thế Chí
Bồ tát, Thánh chúng
Hải hội liên trì
Ðồng thì tế độ
Ta bà cảnh khổ
Tịnh độ nghiêm trang
Tiếp dẫn phóng quang
Ðồng thành Phật đạo.
Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.

– Trích “Pháp Môn tu Tịnh Ðộ” Tịnh Xá Niết Bàn – Vũng Tàu 1974.


SÁM VĂN 12 HIỆU AN DƯỠNG NGHĨA
(Sám tụng Di Ðà 5)

Tây phương giáo chủ đấng Năng nhơn
Tiếp dẫn chúng sanh chí chẳng sờn
Cực lạc hữu duyên sanh Tịnh Ðộ
Ta bà giải thoát kiến Di Ðà
Bốn tám lời nguyện độ chúng sanh
Phát nguyện rộng lớn đặng viên thành
Ao sen chín phẩm sanh thượng phẩm
Ðồng độ chúng sanh Phật đạo thành.
– Cầu về An dưỡng Di Ðà
Nước tên Cực lạc thiệt là nghiêm trang
Hiệu ngài Vô Lượng Thọ Quang
Liên trì Hải hội Niết bàn Như Lai
– Nguyện về An dưỡng hằng ngày
Nước tên Cực lạc hiện nay Di Ðà
Liên trì hải hội hằng hà
Như Lai công đức thiệt là Vô Biên
– Chúng con Tịnh độ hữu duyên
Nguyện qua An dưỡng tinh chuyên tu hành
Liên trì hải hội xây đoanh
Hiệu Ngài Vô Ngại đức lành Như Lai
– Cầu về cực lạc liên đài
Nước tên An dưỡng hiệu nay Di Ðà
Ðộ người thoát khỏi ái hà
Hào quang Vô Ðối khắp tòa Như Lai.
– Nguyện về An dưỡng nước ngài
Là nơi cực lạc liên đài Diệm Vương
Chúng con lễ bái cúng dường
Liên trì hải hội xin thương rước về .
– A Di Ðà Phật Bồ đề
Nước tên An dưỡng hầu kề Tây phương
Hào quang Thanh Tịnh không lường
Liên trì hải hội cúng dường Như Lai
– Cầu về cực lạc nước ngài
Hiệu là Hoan Hỷ thiệt rày Như Lai
Nơi cửu phẩm liên đài hải hội
Chứng quả ngôi bất thối vô sanh
– Nguyện về An dưỡng quốc thành
Là cõi cực lạc vãng sanh Di Ðà
Hào quang Trí Tuệ hiện ra
Liên trì hải hội cùng là Như Lai
– Cầu về cực lạc liên đài
Là nơi An dưỡng hiệu nay Di Ðà
Ðộ con ra khỏi Ta bà
Nan Tư công đức thiệt là Như Lai
– Chí thành đảnh lễ đức ngài
Nước kia cực lạc tỏ bày hiện ra
Chúng con phát nguyện thiết tha
Phóng quang Bất Ðoạn sáng lòa kim thân
– Cúi đầu làm lễ tứ ân
Cầu về cực lạc hóa thân liên trì
Ðức ngài Giáo chủ A Di
Hiệu là Vô Xưng đồng thì phóng quang.
– Nguyện về Tịnh độ lạc bang
A Di Ðà Phật hào quang sáng lòa
Sáng hơn nhật nguyệt hiện ra
Chí thành độ chúng Ta bà vãng sanh.

– Trích “Pháp môn Tu Tịnh độ” Chùa Ðại Giác ấn hành – Sàigon 1974.
– Cứ mỗi bốn câu là một lạy – Vì chuyển thành bài Sám tụng nên người soạn sắp nối luôn thành một mạch liền nhau. Chỉ đánh dấu bằng một gạch đầu đàng .