SÁM QUI MẠNG DIỄN NGHĨA (I)

Qui mạng lễ bực thầy Ðiều Ngự,
Trong mười phương bày tỏ pháp mầu,
Diệu huyền tịch tịch thanh tao,
Các ngài Tăng Thánh ngồi cao tam thừa,
Chúng tứ quả lên bờ giải thoát,
Xin từ bi thương xót tiếp lời:
Bởi vì đệ tử chúng tôi,
Mất đi chơn tánh, luống trôi mê dòng.
Phiêu trầm mãi trong vòng sanh tử,
Nhiễm tánh tham, lụy ở sắc, thinh,
Thập triền, thập sử quanh mình,
Nghiệp nhân hữu lậu tựu thành từ lâu.
Vọng khởi tạo biết bao tội lỗi,
Bởi sáu căn hiệp với sáu trần,
Mê man bể khổ trầm luân,
Trôi lăn trong chốn u thâm tà đồ.
Coi ta trọng, khinh cho người rẻ,
Luống công làm nhiều lẽ vạy ngay,
Bao đời nghiệp chướng nặng dày,
Dập dồn xiết kể những rày khiên vưu.
Ngưỡng Tam Bảo đức từ bi xót,
Thảy một lòng thành thật ăn năn,
Năng nhơn cứu độ phàm gian,
Bạn lành dìu dắt khỏi đàng tai ương.
Thoát ra được ngoài nguồn phiền não,
Lên bờ kia trực đáo Bồ đề,
Nguyện cho hết thảy đời ni,
Diên niên mạng vị, nhiêu phì phước cơ.
Lại nguyện đến ngày giờ lai thế,
Các cơ năng chủng trí linh miêu,
Thảy đồng khai phát đều đều,
Ngày càng tăng trưởng mỹ miều xuê xoang.
Nguyện lại được sanh thường trong nước,
Lúc trưởng thành gặp được minh sư,
Mở lòng chánh tín đi tu,
Xuất gia nhập đạo kể từ đồng chơn.
Sáu căn được tinh thông lợi mẫn,
Ba nghiệp đều hòa huỡn thục thuần,
Lòng không nhiễm trước duyên trần,
Giữ gìn phạm hạnh luyện hằng thân tâm.
Những cấm giới chuyên cần trì chấp,
Nghiệp trần không xâm nhập được mình,
Oai nghi gìn giữ nghiêm minh
Bò, bay các loại chẳng tình tổn thương,
Hằng thư thả không vương bát nạn,
Và tứ duyên đều đặng viên thành,
Hiện tiền Bát nhã quang minh,
Kiên trì tâm giác tiến tinh chẳng lùi.
Ðạo chánh pháp cần vui tu tập,
Giáo đại thừa liễu đạt chơn không,
Hoát khai lục độ các môn,
Ba kỳ khổ hải kíp đồng vượt qua.
Pháp tràng dựng gần xa mọi xứ,
Nghi võng đều phá vỡ mấy trùng,
Chúng ma khiếp sợ qui tùng,
Tiếp thừa Tam Bảo xương long thạnh mầu.
Mười phương Phật, theo hầu phụng sự,
Không nhọc nhằn chuyên chú một lòng,
Tu học hết thảy pháp môn,
Dốc thâu chánh đại, đạt thông lý mầu.
Quyết mở rộng dồi trau phước huệ,
Khắp trần gian, lợi thế lạc sanh,
Thần thông sáu phép hiển linh,
Nguyện cho Phật quả viên minh kiếp nầy.
Trong pháp giới mới quày trở lại,
Chốn bụi hồng lui tới bước chân,
Noi gương Quan Thế từ tâm,
Phổ Hiền nguyện hải quyết làm học theo.
Cõi nầy với bao nhiêu cõi khác,
Tùy theo từng loại các hình thù,
Sắc thân ứng hiện chẳng từ,
Diễn bày pháp nhiệm, dương phô lý mầu.
Nơi địa ngục âu sầu khổ thú,
Khắp các đường ngạ quỷ u thâm,
Phóng quang muôn trượng chiếu lâm,
Hoặc là biến hiện, thông thần đến nơi.
Khiến đều thấy tướng tôi hóa hiện,
Cùng là nghe danh tiếng của tôi,
Phát tâm chánh giác ra rồi,
Thoát luôn khỏi chốn luân hồi khổ ưu.
Bao ngục lửa, những lưu băng tuyết,
Ðều biến thành những miệt rừng hương,
Những nơi ăn sắt uống đồng,
Hóa thân Tịnh độ, sanh luôn Niết bàn.
Nào những giống lông mang sừng đội,
Cùng những người phụ trái hàm oan,
Thảy đều dứt tận tân toan,
Thấm nhuần lợi lạc, an nhàn thong dong.
Ðời tật dịch bệnh ròng trầm trệ,
Chế thuốc thang điều trị khỏi ngay,
Ðói nghèo cơ cẩn những ngày,
Hóa sanh cốc mễ cứu đời ấm no.
Việc lợi ích dẫu to hay nhỏ,
Ðều sùng hưng làm thuở phước duyên,
Oan thân bao kiếp triền miên,
Bà con tộc thuộc hiện tiền hưởng chung.
Ra khỏi chốn bốn dòng chìm đắm,
Dứt ái triền trong vạn kiếp xưa,
Nguyện cùng hàm thức sanh đồ,
Ðều nên đạo Phật mới vừa nguyện tôi.
Hư không nọ có ngày cùng tận,
Nguyện tôi nay cứ vẫn còn hoài,
Các loài trí giác thanh bai,
Vô tình đều được tròn bồi trí linh.
Chúng đệ tử, đồng tình hết thảy,
Quyết tu hành tập lấy thiện duyên,
Noi gương Bồ tát Phổ Hiền,
Y theo thập nguyện lòng chuyên tinh cần.
Một là lạy sát trần tôn Phật,
Nguyện một lòng bền chặt kính tin.
Hai là xưng tụng tán kinh,
Oai thần đức tánh quang minh vô cùng.
Ba sắm đủ hoa hương tinh khiết,
Phan cái đem la liệt cúng dường.
Bốn con sám hối luôn luôn,
Nguyện cho nghiệp chướng thường thường sạch trong.
Năm vừa thể theo công đức chánh,
Khắp muôn vàn Hiền Thánh thích ham.
Sáu cầu đức Phật hải hàm,
Pháp luân thường chuyển tánh phàm độ qua.
Bảy con nguyện: Phật đà ai mẫn,
Xót hữu tình, trụ chấn thùy quang.
Tám con tu học thường thường,
Ðại thừa chánh giáo chơn tường liễu thông.
Chín mở rộng tấm lòng bi bác,
Thuận muôn loài dìu dắt chúng sanh.
Mười đem tất cả công trình,
Nguyện cho pháp giới hàm linh thanh nhàn.
Nguyện con ở trong hàng đệ tử,
Giờ lâm chung gần bỏ báo thân,
Bảy ngày trước sẽ đến gần,
Cùng sau giờ đó qua lần ba hôm.
Tâm chẳng dấy trầm hôn điên đảo,
Ý vững vàng chẳng não loạn chi,
Thân không bệnh khổ vướng vi,
Lòng không bận bịu mảy may ái triền.
Giờ sắp đến thoạt tiên dự biết,
Thân và tâm chi xiết vi mừng,
Kiết tường mà bỏ báo thân,
Hoặc là tọa thoát thâu thần qui sơn.
Nguyện đức Phật hiện thân tướng hảo,
Ðức Quan Âm tọa bảo liên đài,
Với cùng Thế Chí hai Ngài,
Biết bao hóa Phật đông dày trước sau.
Trăm ngàn vị Tỷ kheo tịnh hạnh,
Hàng Thinh Văn bực thánh kính tôn,
Các trời đông thật không lường,
Hiện ra cung điện rõ ràng thất trân.
Bưng bảo tọa kim cang bền chắc,
Trên thinh không thiên nhạc réo mừng,
Khắp nhà nồng nực mùi hương,
Trong ngoài bảo cái tràng phan trùng trùng.
Rủ tay xuống hết lòng tiếp dẫn,
Khiến muôn loài đều đặng thấy nghe,
Sanh lòng vui vẻ say mê,
Tự nhiên phát nguyện Bồ đề lớn lao.
Bèn dứt dữ hướng theo điều thiện,
Bỏ bờ tà về bến chánh chơn,
Cúi xin Phật bố từ vân,
Từ bi quảng đại ai lân nhiếp lời.
Xin chứng giám lời tôi sám hối,
Cùng minh tri tôi nguyện thân nầy,
Xưa kia tạo nghiệp ác dày,
Trước do tham dục, sân, si khởi triền.
Thân, khẩu, ý theo liền hành ác,
Tôi nay đều một loạt sám răn,
Nguyện khi hấp hối đến gần,
Bao nhiêu chướng ngại sạch trơn nhẹ nhàng.
Lại được thấy dung nhan của Phật,
Liền được sanh về đất Lạc bang,
Hư không còn có lúc tan,
Thế gian các cõi chẳng toàn vẹn đâu.
Ðến muôn loại cơ cầu cũng dứt,
Phiền não và nghiệp lực cũng tiêu,
Nguyện con như núi không xiêu,
Hằng còn mãi mãi không hao không chìm.
Nguyện học hạnh Phổ Hiền thù thắng,
Hồi hướng bao nhiêu thắng phước lành,
Khắp nguyền pháp giới chúng sanh,
Mau lên thuyền nguyện về thành Lạc bang.
Lương duyên kết cùng tam thế Phật,
Cùng các ngài Bồ Tát đại nhân,
Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm,
Ðồng đăng Bát Nhã bể trần thoát qua.

– Trích từ “Kinh Di Ðà nghĩa và 36 bài sám hay ” có đối chiếu lại với “Liên Hoàn Sám nguyện” cùng tác giả Thích Thiện Tâm sưu tầm – Sađéc 1961.
– Trong cả hai bản in đều mất hai chữ ở câu 48, biên giả bổ sung cho đầy đủ ý nghĩa và niệm luật.


PHÁT NGUYỆN VÀ HỒI HƯỚNG
(Sám Qui mạng diễn nghĩa II)

Qui mạng mười phương Vô Thượng Giác,
Pháp mầu vi diệu khắp tuyên dương,
Thánh Tăng bốn quả, tam thừa độ,
Hiển hiện tay vàng nguyện xót thương,
Ngược dòng chơn tánh từ lâu,
Chúng con trôi nổi ở đầu sông mê,
Biết đâu là chốn đường về ?
Bập bềnh sóng nước không hề đoái lui,
Nguyên nhân hữu lậu gây rồi,
Bao nhiêu nghiệp chướng lâu đời tạo ra.
Biết đâu nẻo chánh, đường tà?
Oan khiên nghiệp báo thật là nặng sâu.
Nay con khẩn thiết cúi đầu,
Phơi bày sám hối khẩn cầu hồng ân,
Lòng thành cầu đấng Năng nhân,
Từ bi cứu vớt trầm luân mọi loài,
Nguyện cùng Thiện hữu xa khơi,
Cùng lên bờ giác, lìa nơi não phiền.
Kiếp nầy xin nguyện xây thêm,
Cao tòa phước đức, vững nền đạo tâm,
Chờ mong đạo nghiệp vun trồng.
Từ bi trí tuệ nẩy mầm tốt tươi,
Kiếp sau xin được làm người,
Sinh ra gặp Pháp, sống đời chân tu,
Dắt dìu nhờ bậc minh sư,
Nương nhờ chánh tín, hạnh từ xuất gia.
Lục căn tam nghiệp thuần hòa,
Không vương tục lụy theo đà thế nhân,
Theo đường tấn đạo nghiêm thân,
Giữ gìn phạm hạnh, nghiệp trần lánh xa,
Uy nghi phong độ sáng lòa,
Lòng từ hộ mạng, trước là vi sinh,
Lại thêm đầy đủ duyên lành,
Bao nhiêu tai nạn đều thành như không.
Bồ đề nguyện quyết một lòng,
Ðài gương Bát Nhã chơn không hiện tiền,
Nghiêm tầm đạo hạnh tinh chuyên,
Ðại thừa liễu ngộ chứng truyền chơn tâm.
Thoát ngoài “kiếp hải” trầm luân,
Hoằng khai lục độ hạnh môn cứu người,
Pháp tràng dựng khắp nơi nơi,
Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không.
Tà ma hàng phục đến cùng,
Truyền đăng, Phật pháp nối dòng vô chung,
Vâng làm Phật sự mười phương,
Không vì lao nhọc nản lòng tinh chuyên.
Bao nhiêu thâm pháp diệu huyền,
Thảy đồng thông đạt, thoạt nhiên độ mình,
Nguyền đem phước huệ độ sinh.
Chứng nên Phật quả, hoàn thành pháp thân,
Tùy căn ứng hiện cõi trần,
Phân thân vô số, độ dần chúng sanh,
Nước Từ rưới khắp nhơn thiên,
Mênh mông biển rộng lời nguyền độ tha.
Khắp hòa thế giới gần xa,
Diễn dương diệu pháp, trước là hiện thân,
Những nơi khổ thú trầm luân,
Hòa quang chiếu diệu, báo thân đẹp lành,
Chỉ cần thấy dạng nghe danh,
Bao loài thoát khỏi cực hình đớn đau.
Phát lời nguyện ước cao siêu,
Muôn ngàn khổ địa thảy đều tiêu tan,
Bao nhiêu nghiệp trái hàm oan,
Bao nhiêu đau khổ trong hàng súc sinh,
Ðều nhờ Phật lực anh linh,
Sương tan núi biếc, bình minh rạng ngời.
Thuốc thang cứu giúp mọi người,
Áo cơm cứu giúp cho đời bần dân.
Bao nhiêu lợi ích hưng sùng,
An vui thực hiện trong vùng trầm luân,
Bao nhiêu quyến thuộc, oan thân,
Cũng nguyền vượt biển trần gian nổi chìm,
Xa lìa ái nhiễm triền miên,
Ðoạn trừ những mối phược triền thân tâm,
Vun trồng đạo nghiệp thiện nhân,
Cũng bao loài khác, pháp thân hướng về.
Hư không dù có chuyển di,
Nguyện ta cũng chẳng có hề lung lay,
Nguyện cầu vạn pháp bản lai,
Hoàn thành trí nguyện, vững cây Bồ-đề.

– Trích từ “39 Bài Sám nghĩa ” đối chiếu lại với “Liên hoàn sám nguyện” của Thích Thiện Tâm sưu tầm – Sađéc 1961.
– Chưa rõ tác giả diễn nghĩa.
– Tựa của Bài sám này theo Sa-môn Thích Thiện Tâm “Phát nguyện và Hồi hướng “. Tôn trọng bậc đi trước nên biên giả tôi giữ nguyên, chỉ chú thích thêm đây là bài “Sám Qui mạng diễn nghĩa ” số hai, để các vị tụng đọc biết đây là bài diễn Nôm từ bài Qui mạng chữ Hán của Ngài Di Sơn Thiền sư bên Trung Quốc. Số hai là cách đánh số thống kê thứ tự các bài sám Qui mạng trong các dị bản.


SÁM QUI MẠNG (III)

Nương minh đức Giác Hoàng Ðiều Ngự,
Nguyện kinh mầu diệu ngữ truyền trao,
Ba thừa, bốn quả ngôi cao,
Dủ lòng từ tế, độ mau con rày.
Chúng con tự xưa nay ngang trái,
Nên sa vào khổ hải vô biên,
Chịu vòng sanh tử liền liền,
Ra đây vào đó ưa riêng sắc tài.
Dây buộc trói mỗi ngày thêm chắc,
Miệng, mũi, tay càng thắt càng đau,
Ðường tà, biển ái lăn vào,
Trau tria lỗi quấy lấp rào tài năng.
Ðường nghiệp ác, càng xăn lối bước,
Nguyện Phật, Tăng rưới phước chúng con,
Trải lòng hối quá tội mòn,
Vớt đưa chỉ dẫn chẳng còn lầm sai.
Ra biển khổ, Phật đài thẳng bước,
Hiện đời nay, hưởng phước thanh nhàn,
Nguyện cầu thỏa mãn rảnh rang,
Ðời sau càng đặng vẻ vang trí mầu.
Nơi chánh quốc, thầy sâu chỉ dạy,
Tuổi thiếu niên ngộ giải lý thiền,
Sáu căn, ba nghiệp lặng yên.
Không ưu lợi dục, chỉ niềm thanh tu.
Gương giới đức trơn tru chẳng bợn,
Nét từ bi rộng lớn độ đời,
Duyên khẳm đủ, nạn xa dời,
Soi gương Bát nhã, dòm nơi chí thành.
Tu Chánh pháp, học hành Liễu nghĩa
Chống thuyền Từ, một phía thẳng xuôi,
Ba kỳ biển kiếp vượt lui,
Dựng cờ Chánh giác, xé nùi tối nghi.
Hiển Tam bảo, phá tham si,
Cúng hầu chư Phật, ngại gì mỏi mê.
Các cửa học, một bề học suốt,
Rộng nhiều phương, thắp đuốc đưa đường,
Sáu thần thông, một nguyện vương,
Trên bờ pháp giới, thẳng đường độ sanh.
Ðồng Quan Âm, tâm lành một niệm,
So Phổ Hiền, mấy điểm chân tu,
Phương này cõi ấy ngao du,
Hiện thân thuyết pháp chẳng lu tánh mầu.
Cõi địa ngục, âu sầu quỉ đói,
Phóng hào quang, biến rọi pháp thần,
Ðức từ, rộng bủa thâm ân,
Chúng sinh khắp độ, niệm trần nhẹ phân.
Nghe danh ta, hoặc thân trông thấy,
Phát Bồ-đề, khổ ấy thoát qua,
Nước băng, lò lửa tránh xa,
Hóa thành rừng báu, thơm hòa nơi nơi.
Cơm khảo phạt, đồng sôi trái sắt,
Trở thành nhà Cực lạc thảnh thơi,
Mang lông đền trả nợ đời,
Cũng đều rảnh khỏi vướng nơi trần phiền.
Cùng những bệnh lây truyền chất độc,
Ðem thuốc hay lừa lọc vi trùng,
Những năm đói rét khốn cùng,
Hóa nhiều phẩm vật, độ dùng ấm no.
Việc lợi ích, giúp cho muôn loại,
Cứu bà con, khắp trải ơn thù,
Xé lưới ái, phá tham ngu,
Vượt ra bốn thú, không lu tánh lành.
Ðồng hàm thức, vãng sanh nước Phật,
Quả Bồ-đề, chứng bực Thượng nhơn.
Hư không mòn hết sạch trơn,
Nguyện tôi sÂu rộng, không cơn nào cùng.
Khắp thế giới hòa chung giống trí,
Thường lặng soi chơn lý diệu mầu,
Mười phương cõi Phật thâm sâu,
Mở đường Giải thoát, lánh câu Luân hồi.

-Trích Kinh Kim Quang Minh Hiệp Bộ, Tỷ-kheo Ni Như Ấn, THPG Tp. HCM xb, 1992


QUI MẠNG DIỄN NGHĨA (IV)

Mười phương Ðiều Ngự nguyện về nương,
Trong sạch pháp mầu thệ xiển dương,
Bốn quả, ba thừa Tăng giải thoát,
Từ bi thâu nạp rải lòng thương.
Kiếp lại kiếp trái thường chơn tánh,
Theo đường mê nặng gánh trần ai,
Xuống lên sanh tử bao nài,
Nhiễm mùi thanh sắc càng ngày càng sâu.
Nào triền sử(1) từ lâu thắt chặt,
Chứa đã thành dày đặc lậu nhân,(2)
Sáu căn hiệp với sáu trần,
Dối gây tội cấu chất ngần trời cao.
Nơi khổ hải dấn vào lặn hụp,
Chốn tà đồ mãi giục chân bon,
Ðam mê nhân ngã bằng non,
Ði theo đường vạy, bỏ con đường bằng.
Bao kiếp trước dùng dằng dây nghiệp,
Nhiều đời qua oan kiếp còn giâm,
Ngửa mong Tam bảo từ tâm,
Một lòng sám hối lỗi lầm sạch trơn.
Nguyền xin đấng Năng Nhơn cứu vớt,
Mỏi mòn trông bạn tốt dìu nhau,
Vượt ra phiền não vực sâu,
Ðến nơi ngàn giác nhiệm mầu bờ kia.
Kiếp hiện tại phước lành, mạng vị,
Ðời lai sanh giống trí, mạ linh,
Những mong xương thịnh cho mình,
Những mong tươi đẹp thêm xinh sắc màu.
Sanh vào chốn trung châu quốc thổ,
Lớn lên cùng hội ngộ minh sư,
Do lòng chánh tín chơn như,
Xuất gia nhập đạo đồng chơn buổi đầu.
Sáu căn đủ làu làu thông lợi,
Ba nghiệp đầy vời vợi thuần lương,
Duyên đời há để nhiễm vương,
Siêng tu phạm hạnh, giữ thường giới căn.
Nghiệp trần cấu đón ngăn chớ phạm,
Gìn uy nghi chẳng dám lần sai,
Côn trùng nhỏ nhít cựa bay,
Hộ sanh nào để ý này tổn thương.
Kìa tám nạn(3) chưa tường vướng víu,
Nọ bốn duyên (4) chẳng thiếu chi đâu,
Hiển bày Bát Nhã trí mầu,
Bồ-đề tâm ấy vững lâu chẳng lùi.
Nương chánh pháp hằng vui tu tập,
Hiểu Ðại thừa chẳng chấp tà tôn,
Mở bày Lục độ hạnh môn,
Vượt ra kiếp số mênh mông ba kỳ.
Dựng cờ pháp lần đi mọi chỗ,
Xé lưới nghi kiên cố điệp trùng,
Uy linh hàng phục ma hung,
Nối hưng Tam bảo tận cùng ngàn sau.
Mười phương Phật vâng thờ không mỏi,
Ngàn pháp môn học hỏi làu thông,
Rộng tu phước huệ viên dung,
Lợi người cứu vật khắp cùng trần sa.
Thần thông nọ được qua sáu phép,
Phật quả kia viên kịp một đời,
Rồi sau pháp giới chẳng rời,
Khắp vào sanh tử độ người trầm luân.
Lòng từ đức Quan Âm bi thiết,
Hạnh Phổ Hiền nào biết mỏi mê,
Cõi này phương khác chi nề,
Tuyên dương chánh pháp tùy loài hiện thân.
Chốn địa ngục khổ phần vĩnh kiếp,
Trong đường ma quỉ nghiệp còn vương,
Phóng quang chiếu sáng đôi đường,
Hoặc là thần biến tùy phương hiện hình.
Người thấy tướng tâm linh diệu vợi,
Kẻ nghe danh phơi phới mừng vui,
Bồ-đề tâm phát chẳng lùi,
Vượt ra khổ ải, luân hồi hằng không.
Nơi ngục giá, lửa hồng hăng hắc,
Biến thành rừng thơm ngát mùi hương,
Uống đồng nuốt sắt thảm thương,
Hóa ra Lạc quốc, Thiên đường tịnh chơn.
Giống chở nặng, ngậm hờn nhiều nỗi,
Loài mang lông, đầu đội sừng dài,
Hết điều khổ lụy bi ai,
Hưởng điều lợi lạc, ngày ngày lo chi.
Ðời tật dịch con thì hiện thuốc,
Cứu bệnh nghèo đều được tiêu tan,
Trời sanh nhiều nổi cơ hàn,
Hóa ra lúa bắp độ an cảnh nghèo.
Ðiều lợi ích bao nhiêu chăng những,
Không việc nào chẳng khứng ra ân,
Kế là nhiều kiếp oan thân,
Bà con quyến thuộc kẻ gần người xa.
Dứt dây nghiệp ái hà nhiều mối,
Biển tứ sanh(5) chìm nổi đưa qua,
Hàm linh hết thảy đều là,
Ðồng thành quả Phật ngự tòa Pháp vương.
Nay xin dâng tấm lòng son,
Hư không có hết nguyện con chẳng cùng.
Hữu vô tình thức nguyền chung,
Ðồng viên trí Phật đồng cùng an vui.

Trích Phật Tổ Ngũ kinh – HT. Thích Hoàn Quan soạn dịch THPG TP HCM 1992

(1) Triền sử: Tức là Thập triền và Thập sử.
(2) Lậu nhân: Nhân hữu lậu. Tạo nhân thiện ác để thành thân sau.
(3)Tán nạn: Tức là tám chỗ không gặp Phật pháp. Tám chỗ ấy là:
1) Ðịa ngục
2) Súc sanh
3) Ngạ quỉ
4) Ðui, điếc. câm, ngọng
5) Thế trí biện thông
6)Sanh trước hoặc sanh sau Phật
7) Bắc Cu Lô Châu
8) Vô tưởng thiên
(4) Bốn duyên: Có hai thuyết.
1) Thấy nghe duyên, nghe pháp duyên, hộ pháp duyên, phát tâm duyên.
Bốn duyên này giúp cho tâm Bồ đề được tăng trưởng.
2) Áo mặc, cơm ăn. Ðồ nằm, thuốc thang.
(5) Tứ sanh : Bốn loài sanh : noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh.


SÁM QUI MẠNG DIỄN NGHĨA (V)

Qui mạng mười phường ÐIỀU NGỰ SƯ,
Diễn dương thanh tịnh pháp Chơn Như,
Tam thừa tứ quả Tăng siêu thoát,
Xin mở từ bi tiếp độ cho.
Vì đệ tử tự lầm Chơn tánh,
Bị cuốn lôi theo cảnh mê si.
Ðọa tử sanh chìm nổi khổ nguy,
Nhiễm thinh sắc, lụy vì tham dục.
Bởi thập sử, thập triền câu thúc,
Tích tạo thành hữu lậu chi nhơn.
Lục căn, trần, tác tội muôn phần,
Chìm biển khổ, nhiễm thâm tà ác.
Chấp nhơn ngã, vạy ngay xuyên tạc,
Chướng nghiệp xưa tạo tác dập dồn.
Các tai khiên tội lỗi muội hôn,
Ngưỡng TAM BẢO TỪ TÔN hóa độ.
Nay đệ tử lòng thành hối ngộ,
Nguyện NĂNG NHƠN cứu hộ phàm gian.
Dắt dìu ra khỏi chốn khổ nàn.
Thoát phiền não nghiệt oan vực thẳm.
Ðặng tới chốn Bồ đề bỉ ngạn,
Chứng Niết bàn trực phản chơn nguyên,
Nguyện đời nay mạng vị phước điền,
Cả thảy đặng diên niên thạnh vượng.
Lai sanh, các linh miêu trí chủng,
Ðồng phát khai tăng trưởng cơ năng.
Sanh gặp miền đại đức phước tăng,
Minh sư độ chỉ đàng Chơn đạo.
Lòng chánh tín xuất gia thọ giáo,
Giữ đồng chơn nhập đạo tu hành.
Lục căn thường thông lợi tinh minh
Tam nghiệp vốn chơn thành hòa nhã.
Lòng chẳng nhiễm trần duyên tội quá,
Phạm hạnh thường một dạ dồi trau.
Chuyên giữ gìn cấm giới không xao,
Trần nghiệp chẳng xông vào tâm tánh.
Oai nghi giữ nghiêm trang chơn chánh,
Loài muỗi mòng quyết chẳng tổn thương.
Tám nạn hằng xa lánh khỏi vương,
Bốn duyên phước khiến thường đặng gặp.
Trí Bát Nhã hiện tiền soi khắp,
Tâm Bồ đề giữ chặt chẳng lui.
Chánh pháp hằng chung thỉ cần tu,
Ðại thừa giáo học cho liễu ngộ.
Mở hoát cửa chơn hành lục độ,
Vượt tam kỳ kiếp khổ hải hà.
Dựng pháp tràng tứ xứ gần xa,
Phá nghi võng đứt ra từng đoạn.
Hàng phục cả chúng ma xâm loạn,
Tam bửu gìn viên mãn xương long.
Thờ thập phương chư Phật hết lòng,
Chẳng biết nhọc, cũng không giải đãi.
Dốc tu học pháp môn cả thảy,
Cho đạt thông chánh đại lý chơn.
Quyết rộng làm phước huệ nghĩa nhơn,
Hầu lợi khắp trần gian sanh chúng.
Ðặng sáu thứ thần thông diệu dụng,
Tu một đời, quả chứng Phật tôn.
Trở lại nơi pháp giới lập công,
Ði khắp chốn bụi hồng độ thế.
Noi gương PHẬT QUAN ÂM từ huệ,
Hạnh PHỔ HIỀN nguyện thệ hải hà.
Trong các phương cảnh giới Ta bà,
Tùy hình loại hiện ra sắc thể.
Diễn dương pháp huyền vi diệu đế,
Ðộ các loài đọa bể trầm luân.
Khắp các nơi địa ngục khổ thâm,
Cùng ngạ quỉ, thú cầm ác lộ,
Hoặc đại phóng quang minh cứu độ,
Hoặc biến thần thông hộ các loài.
Thấy tướng con hóa hiện vãng lai,
Cùng nghe tiếng con nay thuyết pháp.
Cả thảy phát Bồ đề tâm Phật,
Thoát khỏi nơi khổ bức luân hồi.
Ngục hỏa thiêu, sông tuyết các nơi,
Thảy đều hóa rừng thơm nồng nực.
Nước đồng nóng, sắt hoàn đỏ hực,
Hóa ra miền tịnh lạc Niết bàn.
Người ác nhơn sừng đội lông mang.
Kẻ thù oán, cừu oan để dạ.
Ðồng dứt hết não phiền nghiệp cả,
Ðặng vẻ vui thong thả an nhàn.
Ðời bịnh nguy hiện có thuốc thang,
Cứu lành mạnh khỏi mang trầm trệ.
Buổi đói khó hóa sanh cốc mễ,
Cứu sanh linh những kẻ đói nghèo.
Cả chúng dân lợi ích đồng đều,
Ðặng hưng vượng gặp nhiều duyên phước
Bà con cả xa gần kiếp trước,
Cùng các người quyến thuộc đời nay,
Nơi tứ sanh nguyện khỏi đọa đày,
Tình luyến ái dứt ngay muôn kiếp.
Cả thảy với chúng sanh hết nghiệp,
Phật đạo thành vĩnh kiếp thung dung.
Cõi hư không tuy có tận cùng,
Lời con nguyện vẫn không cùng tận.
Hữu tình với vô tình đồng tấn,
Chứng vô sanh, trí đặng viên minh.


SÁM QUI MẠNG NGHĨA (VI)

Di Sơn đại đức Thiền sư
Làm văn phát nguyện tỏ dư mọi đường
Cúi đầu làm lễ mười phương
Lạy Thầy Ðiều Ngự diễn dương phép mầu
Ba ngôi bốn quả hằng cầu
Thánh Tăng thương xót, tiếp thâu tôi về
Chúng tôi bổn tánh dạy mê
Theo đường sanh tử mắc về tứ sanh
Ðắm sa tài sắc lợi danh
Mười điều xui giục loanh quanh buộc ràng
Căn trần tôïi chẳng xiết than
Ðắm sa biển khổ mê man đường tà
Mắc lòng bỉ thử ngươi ta
Bỏ ngay dụng vạy gây ra nghiệp nhiều
Ngửa xin Tam Bảo thương yêu
Quyết lòng sám hối tội tiêu phước về
Năng nhơn thiện hữu đề huề
Khỏi vòng sanh tử Bồ đề tới nơi
Ðời nay phước mạng thảnh thơi
Ðời sau trí tuệ sáng ngời thân ta
Ðặng sanh trong nước vinh hoa
Gặp Thầy dạy bảo xuất gia tu hành
Sáu căn ba nghiệp hòa bình
Mùi đời chẳng nhiễm nết lành hằng trau
Kiên trì cấm giới chẳng hao
Trần duyên không dính chút nào sạch trơn
Bò bay các loại đều thương
Oai nghi gìn giữ như sơn không hèn
Lánh ba nạn đủ bốn duyên
Bồ đề Bát nhã hiện tiền chẳng lui
Học hành chánh pháp tỏ rồi
Ðại thừa liễu ngộ lòng tôi mới đành
Mở mang lục độ cửa lành
Ba kỳ vượt khỏi nguyện thành kiếp nay
Pháp tràng cao dựng nơi nơi
Lưới nghi dứt hết thảnh thơi mấy từng
Oai thần bẻ dẹp ma quân
Nối hưng Tam Bảo bốn ân bồi thường
Vâng thời chư Phật mười phương
Không nài mỏi mệt thường thường chẳng sai
Bao nhiêu chánh pháp Như Lai
Xin cho tỏ đặng trong ngoài đều thông
Rộng làm phước huệ vô cùng
Khắp đời lợi đến hư không các loài
Sáu thông chứng đặng thần oai
Trọn nên quả Phật trên đài sáng trưng
Vậy sao chẳng bỏ cõi trần
Khắp vào các cõi phân thân độ người
Quan Âm lòng thiện không rời
Phổ Hiền biển nguyện mấy lời đặng in
Các phương theo loại hiện hình
Ứng thân dạy bảo chúng sanh pháp mầu
Nê Lê ngạ quỉ thảm sầâu
Phóng quang biến tướng đâu đâu chói lòa
Dầu ai nghe thấy đến ta
Bồ đề phát nguyện thoát ra luân hồi
Ngục hình giá lạnh dầu sôi
Hóa ra rừng bán thơm tho không cùng
Những tù ăn sắt uống đồng
Sanh về Tịnh độ ngồi bông sen vàng
Mang lông đội gạc hàm oan
Khỏi nơi nấu khổ hưởng sang phước lành
Dầu đời ôn dịch lưu hành
Hiện làm cỏ thuốc cứu lành bệnh lâu
Gặp cơn cơ cẩn thảm sầu
Hóa ra lúa gạo giúp âu khốn nàn
Muốn cho lợi ích rảnh rang
Bà con nhiều kiếp, thù oan mấy đời
Cầu cho thoát khỏi bốn loài
Dứt điều ràng buộc, bỏ rời muôn duyên
Tôi cùng hàm thức vô biên
Ðều nên đạo Phật về miền Tây phương
Hư không còn có không lường
Nguyện tôi không hết thiệt đương còn hoài
Nguyện cùng nhơn, vật ai ai
Trọn nên trí Phật phước giai vô cùng.

– Bài do Hòa thượng Chánh Thành – Chùa Vạn An – Cái Xếp, Sa Ðéc diễn Nôm khoảng năm 1940.
– Nguyên bản văn Nôm lưu trữ tại tủ sách Thích Lệ Trang – Chùa Viên Giác TPHCM. – Do Thầy Lệ Trang chuyễn ngữ sang chữ Việt – 1997
– Ðây là bài sám chữ Nôm mới phát hiện – chưa, phổ biến lâu nay .


SÁM QUI MẠNG (VII)

Cúi đầu qui mạng mười phương Phật.
Diễn dương thanh tịnh pháp nhiệm mầu.
Ba cõi bốn ân nhờ đức ấy,
Mong đức Từ bi tiếp độ mau.

Ðệ tử chúng con,
Xét chơn tánh nhiều điều sai trái,
Gây lỗi lầm chìm nổi sông mê,
Theo đàng sanh tử trôi đi,
Sắc thinh tham luyến mê si nhiễm liền.
Ðắm đuối cõi thập triền thập sử,
Tích chứa nên hữu lậu gieo nhân,
Sáu căn thúc đẩy sáu trần,
Vô cùng tội lỗi vô cùng oan khiên.
Biển khổ não ngửa nghiêng lội mãi,
Ðường chông gai bừa bãi bước đi,
Tạo nhân trước ngã tham si,
Ðã thành kẻ chẳng ra gì cong queo!
Từng sa đọa lăn theo biển nghiệp,
Hoặc thác sanh muôn kiếp oán hờn,
Nguyện cầu Tam Bảo ban ơn,
Cầu xin sám hối sạch trơn tội đời.
Lòng sở nguyện Phật trời cứu vớt,
Ý hằng mong thiện hữu đỡ nâng,
Biển sầu phiền não thoát lần,
Bến vui giác ngộ ân cần theo lên.
Khiến đời nay tu lên quả phước,
Ðể đời sau hưởng được thiện duyên,
Nguyền xưa trí nọ vững bền,
Cùng nhau phát nguyện tới miền Tăng sinh.
Gặp thiện hữu thật tình dắt dẫn,
Ðược minh sư cẩn thận bảo ban,
Tâm thành nhứt niệm cầu xin,
Dâng lên Tam Bảo lòng xin chí thành.
Sáu căn nọ quang minh thông lợi,
Ba nghiệp kia tiến tới thuận hòa,
Thế duyên chẳng nhiễm lối tà,
Tu theo chánh pháp thoát qua não phiền.
Ðiều giới hạnh giữ gìn chẳng bỏ,
Trần hoặc kia không có lấn chen,
Oai nghi vâng giữ trang nghiêm,
Oán hờn dứt bỏ, tội khiên sạch lần.
Tám nạn nọ mau mau phủi hết,
Bốn duyên kia chẳng khuyết duyên nào,
Trí tu Bát Nhã càng cao,
Tâm Bồ Ðề chẳng khi nào thoái lui.
Theo chánh pháp miệt mài sang sửa,
Ðạo Ðại thừa biểu lộ thiện chơn,
Hạnh môn lục độ chuyên cần,
Vượt dòng kiếp hải lánh thân tam kỳ.
Dựng pháp tràng chỗ kia nơi nọ,
Phá lưới mê thoát khỏi đường mê,
Ma vương hàng phục tức thì,
Thiệu long Tam Bảo nguyền kia vẹn toàn.
Lại thừa sự muôn ngàn đức Phật,
Chẳng khi nào khó nhọc kêu rên,
Pháp môn học hết chí bền,
Thông kinh đạt kệ cố lên đến cùng.
Ðiều phước huệ những mong rộng mở,
Chốn trần sa nâng đỡ cộng đồng,
Ðược liền sáu thứ thần thông,
Tròn đầy quả Phật cùng trong kiếp này.
Rồi sanh trưởng ở nơi cõi nước,
Dù nhọc nhằn sau trước gần xa,
Quan Âm hạnh nguyện đại từ,
Phổ Hiền nguyện hải, bây giờ làm ngay.
Dẫu nơi khác, chỗ này cũng thế,
Bóng theo hình không thể xa rời,
Sắc thân ứng hiện khắp nơi,
Hiển dương diệu pháp an vui không bì.
Ngay trong cảnh Nê Lê đau khổ,
Hay trong loài ngạ quỷ khát khao,
Hào quang chiếu sáng rọi vào,
Hiện thân biến hóa trần lao diệt trừ.
Thấy tướng diện đại từ đại lực,
Nghe đến tên lập tức quy y,
Phát tâm xu hướng Bồ đề,
Luân hồi các ngả tội kia san bằng.
Cảnh lửa vạc, sông băng hãi sợ,
Kíp biến ngay thành chỗ hương lâm,
Uống đồng nuốt sắt giam cầm,
Hóa thành Tịnh độ rất gần chẳng xa.
Loài lông lá hay là sừng giốc.
Cảnh trái oan cười khóc khổ thay.
Dẹp tan hết thảy chua cay,
Mọi điều lợi lạc từ đây thấm nhuần.
Mùa tật dịch thuốc thang chạy chữa,
Bệnh trầm kha cứu độ mau lành,
Ðói thời thóc lúa xây quanh,
Bát cơm đạo lý cũng thành no lâu.
Có ích lợi, bất câu kia, khác,
Quyết hưng sùng đạo Giác Thế Tôn,
Khiến cho lụy thế oán hờn,
Coi như quyến thuộc chẳng hơn kém gì.
Cùng tứ sanh, xa lìa hoạnh nghiệp,
Bỏ ái triền, vạn kiếp như không,
Hàm sanh chúng chúng một lòng,
Quy y Phật đạo dung thông mọi bề.
Cõi hư không tứ vi như một,
Ðạo như cùng nguyện được như lời,
Chúng sanh khắp thảy bốn loài,
Tu tròn phước quả, cùng vui đạo mầu.
Nguyện các nơi đồng về Tịnh độ,
Nương từ bi cứu khổ nhân sanh,
Khắp cùng pháp giới hữu tình,
Ðồng thành Phật đạo vãng sanh sen vàng.

– Trích từ “Kinh nhật tụng” Chùa Ðại Giác. Phụ trang 166-170.
– Chưa rõ dịch giả. Sài Gòn, 1974


SÁM QUI MẠNG (VIII)
Thích Minh Phát

Kính lễ mười phương Phật ngôi cao,
Pháp mầu thanh tịnh đã truyền trao,
Bốn quả, ba thừa Tăng giải thoát,
Xin đức Từ bi thương trần lao.
Chúng con bởi sanh trong cảnh khó,
Mất tánh chơn chìm đắm sông mê,
Nổi trôi sanh tử bộn bề,
Sắc thanh tham nhiễm quên về cội xưa.
Mười triền mười sử tham ưa,
Nghiệp nhơn hữu lậu dây dưa buộc ràng.
Sáu căn cùng với sáu trần,
Mê man biển khổ trầm luân nhiều đời.
Ðường tà lối hiểm dạo chơi,
Mến thân chấp ngã nhiều nơi không lường.
Bao đời nghiệp chướng hằng vương,
Tội khiên chất chứa nhiều đường trả vay.
Mong Tam Bảo từ bi thương xót,
Con một lòng thành thật ăn năn,
Nguyện cầu các bậc Năng nhân,
Tay vàng cứu vớt khỏi cơn đắm chìm.
Cùng thiện hữu đề huề đưa đón,
Ra khỏi nơi phiền não sâu dày,
Lên bờ đến chốn Bồ đề,
Ðời nay nền phước đều mong tốt lành.
Sinh mạng lớn nối dòng Phật Tổ,
Ðến kiếp sau tuệ giác lung linh,
Lớn tươi cùng khắp chúng sanh,
Ở trong nước Phật vẹn tình Tăng luân.
Gặp các bậc minh sư thiện hữu,
Lại mở lòng chánh tín xuất gia
Ðồng chơn đến cửa Tăng già,
Lục căn xán lạn ra nhà trần lao.
Ba nghiệp thảy thuần hòa vắng lặng,
Không nhiễm đời chẳng bận thế duyên,
Thường tu phạm hạnh tinh chuyên,
Giữ gìn giới luật luyện rèn thân tâm.
Bụi trần không để cho xâm phạm,
Giữ oai nghi chẳng dám dễ duôi,
Lòng không hại đến côn trùng,
Chúng sanh các loại vô cùng xót thương.
Hằng thư thả không vương tám nạn,
Và bốn duyên là bạn đồng hành,
Hiện tiền Bát nhã quang minh,
Bồ đề không thoái giữ gìn tiến tu.
Ðạo chánh pháp cần vui thực hiện,
Lời Ðại thừa sáng tỏ chơn như,
Mở ra sáu độ tròn dư,
Ba kỳ biển khổ diệt trừ cho xong.
Pháp tràng dựng gần xa khắp chốn,
Nghi võng đều phá vỡ mấy trùng,
Ma quân hàng phục qui tùng,
Kế thừa Tam Bảo xương long đạo mầu.
Mười phương Phật theo hầu phụng sự,
Chẳng sợ chi mệt nhọc tấm thân,
Quyết lòng dự hết pháp phần,
Hiểu lời Phật dạy hầu gần Như Lai.
Lại mở rộng giồi trau phước huệ,
Khắp cuộc đời vì lợi chúng sanh,
Thần thông sáu phép đắc thành,
Nguyện cho Phật quả viên minh kiếp này.
Trong Pháp giới bước quay trở lại,
Chốn bụi trần lui tới độ sanh,
Noi gương Bồ Tát Quan Âm,
Phổ Hiền nguyện lớn quyết tâm học hành.
Cõi này với bao nhiêu cõi khác,
Ðồng hiện thân nói pháp diệu mầu,
Tận nơi địa ngục khổ đau,
Cùng đường Ngạ quỷ bước vào tận nơi.
Phóng ánh sáng phá màn hôn ám,
Hiện thần thông đến chốn u quan,
Nếu ai thấy được thân vàng,
Hoặc nghe danh hiệu mở mang Bồ đề.
Ðều thoát khỏi luân hồi khổ não,
Nước sông băng, lò lửa tiêu tan,
Rừng hương biến hiện rõ ràng,
Uống đồng ăn sắt được sang Liên trì.
Nào những giống lông mang sừng đội,
Cùng những người mắc nợ trái oan,
Thảy đều dứt hết buộc ràng,
Thấm nhuần lợi lạc vẹn toàn an vui.
Ðời bệnh dịch hiện ra dược thảo,
Cho thuốc thang điều trị mạnh lành,
Ðói nghèo lúa thóc hóa sanh,
Cứu người no ấm phước dành từ lâu.
Việc lợi ích dù to hay nhỏ,
Ðều làm cho sáng tỏ phước duyên,
Oan thân bao kiếp triền miên,
Bà con tộc họ hiện tiền hưởng chung.
Ra khỏi chỗ bốn loài chìm ngập,
Dứt ái ân muôn kiếp ngày xưa,
Cùng nhau đến chốn Phật thừa,
Vẹn toàn trí tuệ mới vừa nguyện con.
Hư không cõi nọ tiêu mòn,
Nguyện trên còn mãi vuông tròn chẳng thôi.
Không tình cùng với các loài,
Ðồng thành Phật đạo chung ngồi đài sen.

– Trích “Lễ Phật nghi thức” do Thượng Tọa Thích Minh Phát biên soạn. Chùa Viên Giác ấn hành, TP.HCM 1992.