SÁM TỪ VÂN
(Sám Nhứt tâm nghĩa I)

Một lòng mỏi mệt không nài,
Cầu về Cực lạc ngồi đài liên hoa,
Cha lành vốn thiệt Di Ðà,
Soi hào quang tịnh chói lòa thân con.
Thẩm sâu ơn Phật hằng còn,
Con nay chánh niệm lòng son một bề,
Nguyện làm nên đạo Bồ đề,
Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây phương.
Phật xưa lời thệ tỏ tường,
Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sanh,
Thề rằng ai phát lòng lành,
Nước ta báu vật để dành các ngươi.
Thiện nam tín nữ mỗi người,
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra,
Ta không rước ở nước ta,
Thệ không làm Phật chắc là không sai.
Bởi vì tin tưởng Như Lai,
Có duyên tưởng Phật sống dai vô cùng.
Lời thề biển rộng mênh mông,
Nhờ nương đức Phật thoát vòng trần lao.
Tội mòn như đá mài dao,
Phước lành thêm lớn càng cao càng dày.
Cầu cho con thác biết ngày,
Biết giờ, biết khắc biết rày tánh linh.
Cầu cho bịnh khổ khỏi mình,
Lòng không tríu mến chuyện tình thế gian.
Cầu cho thần thức nhẹ nhàng,
In như thiền định họ Bàng thuở xưa.
Ðài vàng tay Phật bưng chờ,
Các ông Bồ Tát bây giờ đứng trông.
Rước con thiệt đã nên đông,
Nội trong giây phút thảy đồng về Tây.
Xem trong cõi Phật tốt thay,
Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần.
Hội nầy thấy Phật chơn thân,
Ðặng nghe pháp nhiệm tâm thần sáng trưng.
Quyết tu độ chúng phàm nhân,
Ðủ lời thệ nguyện Phật ân rộng dài,
Phật thệ chắc thật không sai.
Cầu về Tịnh độ ai ai tin lòng,
Nguyện về Tịnh độ một nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa nở rồi biết tánh linh,
Các ông Bồ Tát bạn lành với ta.

– Bài sám này của Tổ Từ Vân ở Cao Lãnh, trước tác, nên có tên gọi là Sám Từ Vân.
– Bài được sử dụng ở hầu hết các kinh sách – Là bài Sám Nhứt tâm nghĩa. Biên giả cho mã số thống kê là I.


SÁM NHỨT TÂM NGHĨA (II)

Một lòng chánh tín nguyện ra,
Nguyện về Tịnh độ nước A Di Ðà.
Nguyện Phật phóng hào quang ra,
Dứt trừ nghiệp chướng thân ta an hòa.
Lòng thành nguyện Phật độ ta,
Ta nay chánh tín niệm A Di Ðà.
Nguyện làm nên đạo chẳng xa,
Cầu về Tịnh độ ngồi tòa kim liên.
Phật xưa lời thệ lưu truyeàn,
Chúng sinh bằng muốn về miền Lạc bang.
Hết lòng tin tưởng rõ ràng,
Những đến mười niệm cũng sanh Lạc thành.
Nhưng mà chẳng đặng vãng sanh,
Thệ không chứng quả lạc thành Pháp vương.
Nhơn duyên niệm Phật không lường,
Ðặng vào biển thệ nguyện vương Di Ðà.
Nương nhờ đức Phật độ ta,
Thiện căn thêm lớn phước ta vô cùng.
Nguyện cho đến lúc lâm chung,
Ngày giờ biết hết hình dung như thường.
Thân không bệnh khổ vấn vương,
Lòng không tham mến sự thường thế gian.
Ý không điên đảo trớ trang,
Như khi thiền định an nhàn thảnh thơi.
Rõ ràng thấy đức Như lai,
Các vị Thánh chúng cầm đài Kim cang.
Không lường hiện thoại phóng quang,
Rước ta về đến Tây phương tức thì.
Hoa sen liền nở một khi,
Ðoan nghiêm tướng hảo liễu tri pháp mầu.
Mở mang Phật huệ thẩm sâu,
Nhứt thừa thọ ký lại cầu vô sanh.
Bồ-đề phát nguyện viên thành,
Chúng sinh độ hết Tây phương đồng về.

-Trích Kinh Diễn Nghĩa, HT Huệ Ðăng, Tổ đình Thiên Thai xb, Saigon, 1967


SÁM NHỨT TÂM NGHĨA (3)
Bích Liên Pháp Sư

Một lòng quyết trở về Lạc quốc,
Ðem mình nương đức Phật Di Ðà,
Xin bưng đèn tịnh soi qua,
Nhớ lời từ thệ dắt ta với cùng.
Tôi nay chánh giữ một lòng,
Xưng danh hiệu Phật mà trông một bề.
Thiết tha vì đạo Bồ đề,
Nên chi niệm Phật cầu về Tây phương.
Phật xưa lời thệ rõ ràng,
Rằng như có kẻ thế gian đó mà!
Muốn sanh về cõi nước ta,
Hết lòng tin thiệt hay là ưa vui.
Và trong thập niệm hẳn hòi,
Bằng không sanh đặng ta lui bực hèn.
Bởi vì niệm Phật nhân duyên,
Ðặng vào biển Phật thề nguyền ngày xưa.
Nương nhờ Phật lực sớm trưa,
Ðã tiêu tội chướng lại thừa thiện căn.
Ðến khi gần xả báo thân,
Mình đã dự biết tới chừng nào đi.
Thân không bệnh khổ chút chi,
Lòng không tham tiếc sự gì thế gian.
Ý không điên đảo trớ trang,
Như vào thiền định an nhàn thảnh thơi.
Phật cùng Bồ Tát các ngài,
Tay bưng một tọa kim đài rước ta.
Chừng trong một thí đâu xa,
Sanh về Cực lạc nở tòa bông sen.
Nở rồi thấy Phật dạy khuyên,
Phật thừa Phật huệ nghe liền mở ra.
Chúng sanh mấy lớp độ qua,
Bồ đề mấy nguyện cũng là đầy luôn.

— Trích từ “Phật hóa gia đình”, nguyên tác diễn ca của Hòa Thượng Bích Liên soạn, Hòa Thượng Khánh Anh sao lại. Nhà in Sao Mai ấn hành, Sài Gòn, 1951. Thư viện Phật học Xá Lợi tàng bản.


SÁM NHỨT TÂM NGHĨA (IV)
Khánh Anh Pháp Sư

Thành tâm lạy Phật Di Ðà,
Ở bên Cực lạc chứng qua cõi này.
Hào quang xin chiếu đến đây,
Ðức Từ nhìn nhận con nay niệm ngài.
Xưng danh của đức Như Lai,
Cốt vị đạo Phật để mai mốt về.
Phật xưa vẫn có lời thề,
Chúng sanh nào muốn sanh về nước ta.
Chăm lòng tin nguyện thiết tha,
Ít thì mười niệm nếu mà chẳng sanh.
Thì ta chẳng lấy Phật danh,
Bởi duyên cớ đó nên đành niệm đây.
Như Lai biển nguyện rộng thay,
Bè từ Phật độ con nay đặng vào.
Tội mòn như “nước đá” thau,(1)
Căn lành lớn tựa núi cao rừng già.
Mai sau trăm tuổi sắp đà,
Ðến cho biết trước năm ba ngày giờ.
Thân không đau khổ ngất ngơ,
Lòng không tham tiếc ngây khờ đảo điên.
Lâm chung như lúc vào thiền,
Phật cùng Thánh chúng, kim liên đài vàng.
Ðem qua để rước con sang,
Chỉ trong một niệm cõi vàng vãng sanh.
Trên hoa thấy Phật nghe kinh,
Phật thừa Phật huệ đều rành suốt thông.
Chúng sanh mấy, độ cũng xong,
Bồ đề mãn nguyện mỗi lòng đều phu. (2)
Nguyện về Tịnh độ Tây cù, (3)
Sen phô chín phẩm hoa bù đôi thân. (4)
Nở hoa thấy Phật chứng chân,
Bạn hiền Bồ Tát quả thân Bồ Ðề.

— Trích từ “Phật hóa gia đình” do Hòa Thượng Khánh Anh biên soạn, Nhà in Sao Mai ấn hành, Sài Gòn, 1951. Thư viện Phật học Xá Lợi tàng bản.

(1) “Nước đá” thau: Câu này Hòa thượng soạn theo ý ngài Huệ Lưu có sửa đổi từ “đá mài dao” thì lâu mòn lắm! Nước đá thì mau tiêu hơn, là muốn cho tội cũng mau tiêu như thế (Tr. 70 Sđd).
(2) Phu: bày, trải, ý nói đều đầy đủ như ý nguyện.
(3) Tây cù: cõi phương Tây.
(4) Hoa bù đôi thân: bù có nghĩa bồi thường, thay thế. Vì hoa sen thay vì cha mẹ để hoá sanh cho chúng sanh niệm Phật được vãng sanh (Tr. 71 Sđd).