SÁM THẢO LƯ
(Sám hồi tâm I)

Chốn thảo lư an cư dưỡng tánh,
Dốc một lòng nhập thánh siêu phàm,
Sắc tài danh lợi chẳng ham,
Thị phi phủi sạch, luận đàm mặc ai,
Tuyết ban mai lâu dài chi đó,
Thân người đời nào có bao lâu,
Nhộn nhàng trong cuộc bể dâu,
Xuân xanh mới đó bạc đầu rồi đây.
Ba vạn sáu ngàn ngày công khó,
Chia phần đem cho đó một hòm,
Của tiền để lại nhi tôn,
Bao nhiêu tội lỗi phần hồn lãnh riêng.
Chốn cửu tuyền khác miền dương thế,
Quỉ ngưu đầu chẳng nể chẳng kiêng,
Tội hành nghiệp cảm liền liền,
Muôn phần thảm độc ghê phen đoạn trường.
Rất thảm thương là đường sanh tử,
Dám khuyên người ngó thử lại coi,
Thân như pháo đã châm ngòi,
Nổ vang một tiếng rồi coi thế nào.
Tiếc công lao biết bao xiết kể,
Sự đáo đầu cũng thế mà thôi.
Trăm năm sự nghiệp phủi rồi,
Minh minh biển khổ luân hồi cực thân.
Lửa hồng trần rần cháy dậy,
Người say mê thấy vậy phải kêu,
Tỉnh tâm xét lại mấy điều,
Kíp tu đạo đức sau siêu linh hồn.
Sự dại khôn chẳng cần khôn dại,
Trước lỗi lầm sau phải ăn năn,
Biển sâu nước khỏa cũng bằng,
Mây tan gió tịnh, bóng trăng sáng lòa.
Cõi Ta bà có tòa Cực lạc,
Giòng sông mê, biển giác chẳng xa,
Y theo giáo pháp Thích Ca,
Tự nhiên bổn tánh Di Ðà phóng quang.
Ðã gặp đàng chưa toan dời bước,
Còn tiếc chi chơn bước lờ đờ,
Khuyên đừng đem dạ tưởng mơ,
Trăm năm cuộc thế như cờ bị vây.
Rút gươm huệ dứt dây tham ái,
Kíp tìm thầy cầu phái qui y.
Kiên trì ngũ giới tam quy,
Mở lòng từ nhẫn sân si phải chừa.

– Trích “Kinh Tam Bảo diễn nghĩa” Tổ đình Thiên Thai – Bà Rịa ấn hành 1967.
– Bài do Tổ Huệ Ðăng, trước tác vào khoảng năm 1930 tại núi Thiên Thai – Bà Rịa.
– Bài nầy còn có các tên gọi khác như :
* Sám Hồi tâm – (Tam Bảo Tôn Kinh – Thích Ca Tự).
* Sám Hồi tâm Hướng thiện (Kinh Nhựt Tụng – Chùa Ðại Giác).


SÁM NHƠN LÀNH
(Sám hồi tâm II)

Nhơn lành nghiệp luyện trắng trong,
Quả lành cảm ứng bên thành Lạc bang.
Hóa Phật dẫn lên đài vàng,
Thánh Hiền nghinh tiếp về an dưỡng thành.
Vượt ra ba cõi thinh thinh,
Cao hơn bốn quả vô sinh cõi trời.
Tiêu tan các nghiệp tình đời,
Lòng không sáng suốt thảnh thơi nhẹ nhàng.
Hóa thân vào búp sen vàng,
Thần thông khí sản chơi sang cõi mầu!
Trước tòa sen báu cúi đầu,
A Di Ðà Phật con hầu về đây.
Quan Âm, Thế Chí vui thay,
Thắng duyên pháp lữ tỏ bày khuyên răn.
Ðông đầy các bực Thánh Tăng,
Thảy đều nhóm hợp đồng đăng bửu trì.
Hoa sen chín phẩm phương phi,
Ðều nói bổn hạnh trước khi tu hành.
Năm mùi hương báu thơm thanh,
Ba đức sáng rỡ pháp thân chói lòa.
Xảy liền gió diệu phất qua,
Rung các báu lạ tiếng ra pháp mầu.
Nhộn nhàng hoa rưới lưới châu,
Thấy hào quang tỏa chói lòa sáng trưng.
Ráng mây bồng đỡ dưới chân,
Nhẹ nhàng y kích mấy từng hoa thơm.
Ban mai dưng các Thế Tôn,
Ðặng nghe pháp ấn chơn ngôn trở về.
Ban chiều cỡi báu dựa kề,
Nghe bài ngọc kệ nhiều bề tiêu diêu.
Hỡi còn tội cấu bao nhiêu,
Hơi sen nhuần nhã thảy đều tiêu tan.
Các phương Phật tử mới sang,
Quả vị bất thối chứng hàng vô sanh.
Xẩy lìa cõi khổ phàm tình,
Rõ ràng quả Phật gần mình chẳng xa.
Ngao du rừng ngọc ngâm nga,
Tắm gội nước đức thân ta đượm nhuần.
Lầu đài trăm báu sáng trưng,
Hàng cây thất bửu mấy từng phủ che.
Thảnh thơi trong cõi trường xuân,
Ðất vàng bằng phẳng như vừng bàn tay.
Tự nhiên ăn mặc hiện bày,
Thanh thao thiên nhạc ngày ngày trổi xây.
Các vật thọ dụng hiện đầy,
Muôn phần khoái lạc khác rày nhân gian.
Cõi trời thua sút muôn ngàn,
Hằng sa cõi Phật tiếng vàng ngợi khen.
Pháp thân sáng rỡ hào quang,
Bước lên cõi Thánh trải đường hoa hương.
Kim cang thọ mạng không lường,
Mở lòng bi nguyện mười phương đều nhờ.
Vượt ra sanh tử cõi bờ,
Nào hay quả chưùng trong tòa Pháp vương.
Làu làu chơn tánh thường quang,
Do lòng niệm Phật duyên cường đức cao.
Trùng trùng phước thọ xiết bao,
Tịnh nhơn cảm báo thao thao nghiệp lành.
Vậy hay Phật nguyện độ sanh,
Chúng sinh cảm Phật tín hành nguyện châu.
Ngày nay chứng đặng quả mầu,
Chánh y rực rỡ chẳng cầu mà nên.
Liên trì thất bửu bốn bên,
Hoặc khi thiền tụng bước lên điện vàng.
Hoặc khi tán bộ kinh hành,
Nhẹ nhàng gót ngọc mấy hàng hoa đua.
Thiền duyệt pháp hỉ trân tu,
Yến diên ngọc thực phỉ phu tấm lòng.
Thiên y mặc áo trắng trong,
Từ bi hỉ xả sáng trưng nhẹ nhàng.
Càng thêm công đức thênh thang,
Càng thêm bi trí muôn ngàn vơi vơi.
Thung dung đạo đức mấy lời,
Càng thêm thánh trí một trời quang minh.
Bước vào trong cõi vô sinh,
Quả chứng bất thối toàn hình kim thân.
Từ nay cõi thánh bước lần,
Bồ-đề thêm lớn muôn phần cao xa.
Ðã vào trong pháp vương gia,
Như lai thọ ký nghe qua Ðại thừa.
Rày mừng bổ xứ cao thăng,
Mấy lời huyền diệu lòng hằng lặng trang.
Tam muội chánh định rõ ràng,
Ðủ trong sáu phép vẹn toàn thần thông.
Cúng dường các đức Thế Tôn,
Mười phương qua lại cũng không ngại gì.
Hóa thân vô số câu chi,
Hằng sa thế giới tổng trì định tâm.
Một bình pháp thủy tay cầm,
Ba ngàn thế giới rưới đồng thanh lương.
Chúng sinh ra khỏi lửa vườn,
Tự tha lưỡng lợi một đường tiêu diêu.
Cùng là hạnh nguyện bao nhiêu?
Trăm ngàn tam muội thảy đều do tâm.
Ðạo mầu vô thượng thậm thâm,
Rõ ràng công đức thảy đồng về ta!

-Trích Kinh Diễn Nghĩa, HT Huệ Ðăng, Tổ đình Thiên Thai xb, Saigon, 1967


SÁM HỒI TÂM TAM BẢO
(Sám hồi tâm 3)

Chữ Tâm là chân như Tam bảo,
Phật, Pháp, Tăng chỉ tại lòng ta,
Phật là giác tánh soi xa,
Giữ đường sáng suốt vượt qua cõi trần.
Nghĩa chữ Pháp: giữ phần chánh kiến,
Dứt kiêu căng bỏ chuyện thị phi,
Tăng là thủ tịnh tinh vi,
Sáu căn trong sạch, dung nghi thuận hòa.
Vận Tam bảo ấy ra đối trị,
Dứt sáu trần chiùnh thị chân tu,
Còn như bỉnh tức công phu,
Luyện tinh, thần, khí: rùa mù cây trôi !
Tánh Tam bảo phân rồi chỉ rõ,
Người tu hành lấy đó thềm thang,
Còn câu Tam bảo thế gian,
Chỉ ra thể dụng đôi đàng phân minh.
Phật bảo là tượng hình ra đó,
Ðể phụng thờ lòng có chủ trương,
Pháp là ba tạng chiêu chương,
Những lời Phật Tổ truyền phương tu hành.
Tăng bảo là lòng thành xuất tục,
Chán mùi đời cạo tóc đi tu,
Cửa thiền tinh tấn công phu,
Chí tâm vượt đến Vô dư Niết bàn.
Nghĩa Tam bảo thế gian là đó,
Nhờ coù thầy đường ngõ mới thông,
Thầy như lạch nước giòng sông,
Nếu không luồng lạch, nước thông bao giờ?
Mắt lờ mờ, tay rờ chân bước,
Thế vậy mà xông lướt sao xong!
Qui y trước sửa tấm lòng,
Có thầy chỉ giáo ra vòng tử sinh.
Có thể dụng mới tròn đạo lý,
Thấy trăng nhờ người chỉ cho ta,
Chữ Qui: phân bạch ấy là,
Trở nên hắc ám về nhà quang minh.
Nghĩa chữ Y nên hình mặc áo,
Ðấng làm người thánh giáo phải tuân,
Trau dồi đạo đức sáng trưng,
Nước không xao động ló vừng trăng thanh.
Trong ngũ giới sát sanh thứ nhất:
Người tu hành thể đức hiếu sanh,
Vật, người một khí hóa thành,
Chẳng nên sát hại, ấy danh hành từ.
Giới thứ nhì: dạy trừ trộm cắp,
Vật của người chẳng đặng tham lam,
Công tư của cải bạc vàng,
Chẳng nên mong ý lấy làm của ta.
Giới thứ ba: cấm tà sắc dục,
Chớ tư tình lén lút ngoại duyên,
Trăng hoa lòng chớ đảo điên,
Tam cương cũng phải răn khuyên từ từ.
Giới thứ tư: cấm trừ vọng ngữ,
Chớ buông lời hung dữ điêu ngoa,
Ngược xuôi láo xược lời ma,
Nói qua nói lại cũng là hung hăng.
Giới thứ năm: cấm ngăn uống rượu,
Việc lỗi lầm bởi tửu mà ra.
Say sưa mê muội lòng ta,
Dữ hơn thuốc độc phá nhà hư linh.
Lấy năm giới sửa mình là đạo,
Dụng tam quy kiến tạo pháp thân,
Từ bi hỉ xả là nhân,
Tinh tấn là quả, giải phân rõ ràng.
Nghĩa chữ đạo như đường đi đó,
Song đươøng đi biết có trước sau,
Dẫu mà ngàn dặm đâu đâu,
Mối đường bắt đặng ngõ hầu chẳng xa.
Chớ bôn ba nhận ma tác Phật,
Uổng công trình chôn lấp tánh linh.
Than ôi! Biển khổ mông mênh,
Người mù cầm lái đưa mình sao xuôi!
Ðứa mù dắt lũ đui theo dõi,
Sa lửa hầm còn hỏi chi chi!
Phải tìm đến bậc trí tri,
Ðạo mầu mới tỏ đường đi mới tường.
Bát Chánh Ðạo mối đường đã trổ,
Tứ Diệu Ðề là chỗ nghỉ ngơi,
Ðèn lòng soi sáng khắp nơi,
Thinh thinh trí huệ một trời quang minh.
Ðọc tâm kinh cho tinh cho suốt,
Dẫu mà đường chưa thuộc cũng thông,
Vậy hay sắc tức thị không,
Chẳng nên chấp sắc mà không cũng đừng.
Ðạo vô cùng chấp trung là đạo,
Lý nhiệm mầu uẩn áo rất sâu,
Ðạo mầu khắp hết đâu đâu,
Cứ trong sắc tướng tìm cầu mới ra.
Tuy sắc tướng nhưng mà vô tướng,
Vô tướng từ hữu tướng mà ra,
Hữu vô chung ở một nhà,
Chẳng nên chấp hữu cùng là chấp vô.
Trong hữu tướng lý vô ẩn đó,
Vô tướng mà tướng có ẩn trong,
Hữu vô bước khỏi hai vòng,
Mới biết đạo lý không trong không ngoài.
Thỏ vểnh tai gọi hai sừng đó,
Chấp trước mà nói có nói không.
Thử coi ba thú qua sông,
Ba xe ngoài ngõ thiển thâm lẽ nào.
Ngoài vườn lửa ào áo cháy dậy,
Bầy trẻ thơ chơi nhảy trong nhà,
Khuyên răn hắn cũng chẳng ra,
Mở lời phương tiện thuyết ba xe ngoài.
Ðại biện tài trừ hai còn một,
Tột bực rồi thời một cũng không.
Cho hay sự lý viên dung,
Cứ theo thể dụng thích trung thời nhằm.
Nước dợn lắng bóng trăng nhấp nháng,
Trăng lu lờ vì áng đám mây.
Làm cho nước đứng mây tan,
Tự nhiên sáng suốt thiền quang nhiệm mầu.
Ðạo không cầu do đâu mà được,
Coi giấy xưa chấp trước hữu vô.
Làng màng dưới gốc cây khô,
Mà trông có trái gẫm âu nực cười.
Trong mắt người có ngươi mới tỏ,
Sách không thấy nói ngỏ làm sao?
Xưa nay giáo pháp truyền trao,
Không thầy há dễ mặt nào nên thân!
Khổng thánh nhân ân cần Lão Tử,
Huỳnh đế còn sư sự Quảng Thành,
Thiện Tài ngũ thập tam tham,
Thiếu Lâm đoạn tý Thần Quang lưu truyền.
Coi lịch sử tiên Hiền cổ Thánh,
Biết bao nhiêu khổ hạnh tham cầu,
Ðạo tuy rộng lớn cao sâu,
Nhỏ hơn mảy bụi dễ hầu biết sao?
Muốn cho khỏi ra vào tam giới,
Phải nhớ câu “tự tại bất thành”,
Nhân tay mới thấy trăng thanh,
Chớ chấp văn tự tu hành uổng công.
Nên cổ đức có ông Tông Bổn,
Vịnh sơn cư có bốn câu rằng:
“Sơn cư phong cảnh tự thiên nhiên,
Ðại đạo chi chiêu tại mục tiền.
Bất thức tổ tông thâm mật chỉ,
Ðồ lao niệm Phật dữ tham thiền”.
Ấy là cặn kẽ bảo khuyên,
Phải cầu giáo ngoại biệt truyền diệu tâm,
Chớ chấp trước thinh âm sắc tướng,
Cảnh ngoại cầu vọng tưởng đảo điên.
Kính lời khuyên khách hữu duyên
Biết nghe chí đạo chớ phiền lời ngay.

-Trích Tam Bảo Tôn Kinh, Thích Ca Tự xb, Sàigòn, 1974
– Kinh Nhựt Tụng, chùa Ðại Giác ấn hành, Sàigòn, 1974
– Bài do Tổ Huệ Ðăng chùa Thiên Thai soạn – nối tiếp trong bài sám Thảo Lư.

SÁM VĂN QUÁ ÐƯỜNG THỌ THỰC
(Sám hồi tâm 4)

Chí thành lễ mười phương Tam Bảo
Ðức Bổn sư thành đạo đã tròn
Hào quang chiếu thấu chúng con
Thương đời mạt pháp người còn muội mê
Nay chúng con được về cửa Phật
Cơm hằng ngày đồ vật đàn na
Công cầy công cấy xót xa
Biết bao khổ nhọc đem ra cúng dường
Ơn đức ấy chúng con thường nghĩ:
Hình hài nầy xét kỹ nhờ ai ?
Công ơn thiện tín hôm mai
Hết lòng vì đạo chẳng nài tấc công
Ơn thí chủ hết lòng độ chúng
Hộ Tăng Ni đem cúng mười phương
Thành tâm tứ sự cúng dường
Uống ăn, áo mặc, giường rương, thuốc dùng
Ðệ tử chúng, đồng cùng tu học
Khắp đạo tràng phước, lộc đủ đầy
Thành tâm cúng lễ vật nầy
Hướng về cực lạc liên đài tịnh bang
Chúng con mong hào quang Phật chiếu
Rưới mưa lành hòa dịu kiết tường
Gió từ thổi khắp thanh lương
Khiến cho thiện tín tâm thường sạch trong
Trí Bát nhã, Bồ đề hoa nở
Vượt bến mê dễ tợ gió xuôi
Chúng con thọ dụng sắc, mùi
Ðều toàn thanh tịnh chẳng lui Bồ đề
Ơn tế độ chẳng hề sai mất
Phước cúng dường quả Phật thành công
Cúi mong Tam bảo chứng cùng
Nguyện cho thí chủ phước chung tu hành
Mọi người lánh dữ làm lành
Hiện đời tội diệt, sau sanh liên đài
Phước điền tăng trưởng thêm hoài
Chứa kho vô tận, lâu dài cháu con
Tẩy trừ nghiệp chướng tiêu mòn
Hưởng nhờ Phước, Huệ, Ðức tròn đời sau.
Ðền ơn, nghĩa cả cù lao
Cầu cho nhân loại khổ đau khỏi nàn.
Ðồng tu về cảnh Niết bàn
Liên trì cửu phẩm sen vàng điểm tên
Tây phương cảnh Phật đặng lên
Di Ðà thọ ký ngồi trên đài vàng
Nam Mô Tịnh độ Lạc bang
Dắt dìu đệ tử Tây phang mau về.

THIỀN CƠ YẾU NGỮ VĂN
(Sám hồi tâm 5)

Lánh phồn hoa thanh nhàn dưỡng tánh
Sửa tấm lòng thủng thỉnh hôm mai
Xét mình kém đức sơ tài
Kính tin đã có Phật trời chứng minh
Thuở phù sinh gẫm mình thiếu phước
Ngỡ tình cờ gặp được chánh tôn
Cảm ơn đức lớn rộng dung
Thâm ân đều gởi về dòng Phật gia
Lòng thiết tha bốn ân hằng đội
Phải toan phương tìm dõi minh sư
Tập rèn lựa lọc kinh thư
Chí lăm vượt tới vô dư cõi ngoài
Thường đêm ngày dồi mài lòng cũ
Cá hóa rồng chờ có thuở nên
Ân sâu ghi dạ lo đền
Vun trồng cội đức, giữ gìn chi sai
Trọng hiền tài kỉnh tin tri thức
Kết bạn lành nhờ đức hôm mai
Ngọc lành sao chẳng dồi mài
Gương xưa nỡ để trần ai lâu ngày
Rất chóng thay tháng ngày dường gió
Tới non vàng dễ bỏ về không
Ngựa qua cửa sổ kịp dong
Vui chi cá chậu chim lồng chẳng lo
Ðã xét soi dốc theo thiền giáo
Vật phi tài vô đạo chẳng tham
Ruộng người năm mẫu hằng làm
Lọ là ruổi bắc tìm nam nhọc nhằn
Nhà sáu căn che thân ngày tháng
Một ngọn đèn rọi sáng mười phương
Hương phần ngũ phận danh hương
Dâng lên thượng điện cúng dường pháp thân
Tu cho cần thoát ba đường khổ
Dựa thuyền từ tìm ngõ tây phương
Hôm mai lễ niệm không vương
Chúng sanh mê muội lòng thương nỡ nào
Cháy hồng hào rần rần lửa dục
Nước ái hà rục rục dầu sôi
Gương xưa trí tuệ trau dồi
Dùng thanh lương thủy mà rươi lửa phiền
Hãy tùng quyền nương thuyền vô để
Vượt ái hà nào kể phong ba
Dạo chơi thế giới Ta bà
Ðâu đâu là chẳng cửa nhà bần tăng
Xem giàu sang ví bằng mây nổi
Gẫm lợi danh dường đỗi mưa dông
Vì tham tài sắc huyễn không
Nên nỗi mê lòng sanh tử bèn quên
Ðạo làm người ân trên phải nhớ
Gắng công phu bồi nghĩa bồi nhân
Mười phân chưa đặng một phần
Lấy đâu ngay thảo xứng cân cho tày
Dễ dám quên ơn thầy nghĩa bạn
Chút lòng đan muốn cạn hiếu trung
Một nồi hương tuệ đốt xông
Ba biến kinh lòng thường niệm hôm mai
Chữ sắc tài mặc ai đua sánh
Giữ phận hèn nương cảnh thiền Tăng
Mây che nên nỗi mờ trăng
Huệ nhựt thăng đằêng sương tuyết mới tiêu
Thuốc hay chữa đặng bệnh nghèo
Vâng lời Phật dạy tội tiêu phước dày
Như nhau dọc mũi ngang mày
Lòng phàm lòng Thánh cách thay ngàn trùng
Hãy dồi lòng “sắc không không sắc”
Lo chi đường ruổi bắc tìm đông
Nhớ câu ma Phật hỗn đồng
Vằng vặc đèn lòng soi xét chẳng sai
Sự sắc tài hay dời lòng đá
Hằng lánh xa chớ bá chớ chen
Cung dâu khéo bắn thì lên
Chuyên chí giữ gìn đạo cả ắt nên
Hãy chăm lòng vun cây tưới nước
Quả Bồ đề chắc được chẳng sai
Bỏ về thì thiệt mặc ai
Chớ khá chê cười mà tổn phước ta
Tảo tự gia môn tiền chi tuyết.
Hơi nào mà đàm thuyết sự ai
Mực vào son thắm ắt phai
Gần đấng hiền tài, người dữ xa trông
Tính chuốt trong, vì không nhân ngã
Tợ trăng rằm chẳng bá chút mây
Bã bôi liền cật chẵng nài
Thảo lư am tiện tháng ngày dựa nương
Cũng đã từng trải đường danh lợi
Uổng nhọc mình thấy vậy lại không
Sửa chí dùng, an lòng phân khổ
Tháng ngày thường vui thú Phật tiền
Giàu sang là áng ưu phiền
Gây đường nghiệp chướng cần quyền làm chi
Lời thị phi khen chê mặc thế
Hơi nào mà cấm chợ ngăn sông
Tơ kia ra mối ắt xong
Máy thiền ngộ đặng tấm lòng bằng an
Lửa cháy tàn lò than rời rạc
Tưởng người đời há được bao lâu
Mấy ai cho biết mà cầu
Ngàn vàng dễ đặng lời mầu không trao
Ðạo đức cao nên người kính mến
Quyết một lòng vượt đến Linh sơn
Cho hay túi rách có vàng
Ðêm tối lạc đường, nhờ đuốc người ngay
Vun lấy cây chờ ngày ăn trái
Chữ cạn cùng, nghĩa lý thấm sâu
Ðất liền ai mượn bắc cầu
Bệnh lành phải dụng thuốc mầu làm chi
Sự u mê khác chi tằm kén
Mình buộc mình ai khiến đó sao
Thuyền đưa xảy gặp ba đào
Chóng chèo gắng sức tiêu dao có ngày
Nom dưới ngòi ngậm ngùi bóng thỏ
Thấy trăng tròn tay vỗ ca xang
Bởi mình vụng liệu chẳng toan
Chân không bước ngược lên ngàn đặng đâu
Tuổi bạc đầu độc sâu không giản
Tham giàu sang biển cạn không phải
Thân người như tuyết ban mai
Bề ngoài sắc tướng dồi mài làm chi
Vàng mạ xi trau chi vật ấy
Sao chẳng tìm cho thấy chân kim
Ðèn kia sáng bởi vì tim
Ðốt thì thấy tỏ lọ tìm đâu xa
Phật trong nhà thật là rất báu
Biết tu trì đại đạo ắt nên
Kẻ khó hèn tu hành chớ nệ
Cây một mình chớ kể rằng cây
Quản bao lưng gió xông mây
Nhọc nhằn chớ nại quả rày mới cao
Mật ngọt kia dính dao mấy chút
Phỉnh hài đồng liếm mút đứt môi
Ngao cò vô ý chẳng coi
Mỡ dính miệng rồi được mấy mà ham
Ngụ thảo am luận đàm đạo lý
Chữ lợi danh, phú quý chẳng tham
Ðạo lành phải gắng mà làm
Máy thiền ngộ đặng mới cam tấm lòng
Thuyền giữa dòng chí mong tới bến
Dễ lòng còn tham mến chi sao
Mình bia sá nại tên lao
Cây kia đúng sức, đẽo bào mặc ai
Chốn Chiên già khoan thai dưỡng tánh
Ðượm màu thiền tịch mịch sớm trưa
Bữa dùng rau cháo tương dưa
Ý quen đã hiệp, miệng vừa thời thôi
Nước chảy xuôi thuyền kia chống ngược
Chốn phàm trần tu được mới ngoan
Chí công mài sắt cũng mòn
Ðường trường chớ ngại lòng son cho bền
Kinh thánh hiền cho chuyên tập đọc
Sự chửa từng chẳng học sao nên
Chưa nên chớ khá xa thầy
Bệnh già dễ dám buông hài đi không
Còn cách sông nương thuyền Bát nhã
Ðến bờ rồi mới thỏa chí mong
Sự ở lòng tỏ thông thì được
Phật hiện tiền phải kiếm đâu xa
Nên hư cũng ở lòng ta
Chẵng chánh thì tà, chẳng ngộ thì mê
Quả Bồ đề một mai có chín
Hoa Ưu đàm hóa hiện mấy thu
Tam thừa diệc trí dữ ngu
Dứt trừ vọng niệm công phu mới thuần
Có bi có lực có hùng
Mới đủ sức dùng vượt biển trèo non
Một bầu nhiệm giữ càn khôn
Tùy duyên hóa độ ai còn dám chê
Ngày xuân thong thả tay đề
Bút hoa thảo thảo chép ghi để truyền.

– Thiền sư Toàn Nhựt 1754-1832 – Sao từ bản in Thạnh Mậu 1960 (mất nhiều đoạn).
Ðối chiếu bổ sung đầy đủ từ Lịch Sử Phật Giáo đàng trong – Nguyễn Hiền Ðức – NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1995.


GIỚI HÀNH ÐỒNG TỬ VĂN
(Sám hối tâm 6)

Tiết đông thiên đài đêm lâu khắc
Một mình ngồi tịch mịch mao lư
Ðã thương hậu học sơ cơ
Chưa thông kinh luật còn lờ tánh linh
Lại lo mình chuyên phương niệm Phật
Ðâu dám cho thẳng giấc Trang Chu
Ðạo này rộng nhiệm cao sâu
Trẻ nay biếng học già sau biết gì
Lóng tai nghe các liêu vãi đạo
Lâng lâng chìm sâu giấc như nhau
Ðặt mình những thuở canh đầu
Cho liền một giấc trống lầu điểm năm
Hãy còn nằm pho pho mà ngáy
Phải như Thầy để dậy sáng ra
Tớ Thầy cũng thể con, cha
Ðem phần dạy dỗ rằng mà sao nên
Phải răn khuyên chúng suy xét tỏ
Tua nhớ lời hối ngộ lo thân
Tổ xưa đã để lời răn
Sửa mình tấn đạo, giảm ăn ít nằm
Lại chí lăm thoát vòng sinh tử
Ắt sớm toan noi giữ lời xưa
Kìa như lớp trước Nho gia
Ông thì treo tóc người hằng gối cây
Hội rồng mây vận sau phát đạt
Hưởng vinh hoa danh tạc sử xanh
Ðể rồi cũng chịu gia hình
Tôn thân lửa chói triều đình trọng thương
Vả thế gian lo phương no ấm
Các nghề đều dậy sớm thức khuya
Huống chi đại đạo từ bi
Tục ăn mê ngủ việc gì cho nên
Ông Cao Phong ba năm lập nguyện
Không gần giường chõng đến một giây
Ông thì thiền định trên cây
Ðặng mau thấy Phật dẹp bầy thùy ma
Nay chúng ta sinh đời ngũ trược
Gắng học theo lớp trước mới hay
Khuyên cùng vãi đạo chúng bay
Muốn mau chứng đạo thuở nay cầm quyền
Chịu lao phiền ở trong ba cõi
Phật nói rằng vì cái thùy ma
Nó làm khốn khổ chúng ta
Mắc thân hữu lậu ở nhà vô minh
Việc tử sinh vô thường tấn tốc
Kíp lo toan tu học cho chuyên
Muốn sau nhiều phước cả duyên
Chói nêu Phật pháp chớ quên lời thầy
Thương chúng bay gắng công răn dạy
Dễ muốn chi làm vậy mệt ta
Hễ người cho biết lo xa
Bé thì làm tớ lớn ra làm Thầy
Nếu lúc này luật kinh chẳng rõ
Biết lấy chi tiếp độ hậu côn
Phước đà vào chốn Phật môn
Tua trừ tham trược chớ còn sân si
Học từ bi cùng là hỉ xả
Lại nhớ câu Bát nhã Ba la
Gắng công hàng phục quần ma
Thoát vòng hắc ám lên nhà quang minh
Ngộ vô sinh, pháp thân tự tại
Mặc tùy duyên ba cõi ra vào
Ân sâu nghĩa nặng mẹ cha
Cù lao cúc dục chúng ta nên hình
Ðạo sinh thành ví như trời đất
Lại cho đi đầu Phật xuất gia
Tưởng nên đạo cả nghiệp nhà
Tiếng mình rạng chói mẹ cha cậy nhờ
Nếu lơ mơ tu không đắc đạo
Biết lấy chi trả thảo đền ơn
Một mai phút đến vô thường
Làm sao cho khỏi Diêm vương gia hình
Làm súc sinh cùng loài ngạ quỉ
Ðến bây giờ năn nỉ kịp đâu
Thầy đà tỏ bảo trước sau
Khá điều tạc dạ, mựa hầu lãng xao
Nguyện xuất gia vượt qua biển khổ
Ðể thân nầy ở chỗ am tranh
Vậy nên lánh trược tìm thanh
Theo Thầy học đạo tu hành giới trai
Cơ hàn tân khổ chi nài
Lóng trong tánh nước, dồi mài lòng gương.

– Nguyên bản của Ngài Toàn Nhựt Thiền sư (1754-1832) – Ðối chiếu từ hai bản đánh máy lưu trữ của tủ sách Giác Ðạo Như Tâm cung cấp và bản in “Lịch sử Phật Giáo đàng trong” của Nguyễn Hiền Ðức – NXB Thành Phố HCM 1995.
– Nguyên văn thiếu mất một câu, Chiêu Ðề soạn bổ sung câu thứ 27 – Khi nào tìm được nguyên bản, sẽ đính chính lại. (Người soạn.)


HOÁN TỈNH TRẦN TÂM KHUYẾN TU TỊNH ÐỘ VĂN
(Văn khuyến tu 7)

Chữ rằng : “Thiên cửu địa trường”
Phật Vô lượng thọ người thường hóa sanh
Ai ơi gắng lấy tu hành
Ðể sau tới bực vô sanh mới nhờ
Tử sanh hai chữ hững hờ
Sớm còn tối mất tựa hồ chiêm bao
Ai mà biết đặng phẩm cao
Công danh phú quý ngó vào hư không
Thạch Sùng tiếng nổi non sông
Sang giàu gẫm lại cũng không mấy hồi
Nghĩ đời mà lại sợ đời
Khôn ngoan mà khỏi luân hồi được chăng ?
Trách thân rồi lại than rằng
Tử sanh phú quý như từng mây che
Lợi danh ai thấy chẳng ưa
Vinh hoa biết mấy cho vừa lòng ai
Gẫm thân nào có lâu dài
Chữ rằng “nhựt vãng nguyệt lai” mấy hồi
Sự đời biết nghĩ thì thôi
Giờ không toan liệu sau rồi làm sao ?
Thân này lấp lửng trên cao
Cây bờ dây giếng có bao lâu dài
Ðội trời đạp đất khoe tài
Vênh vang mà có đời đời đặng không ?
Tử sanh hai chữ chẳng đồng
Chết thì muôn kiếp, sống không mấy hồi
Nhân sinh ai cũng thế này
Cuộc vui ai thấy chẳng say sưa lòng
Chữ rằng “Sắc tức thị không”
Ví trong giấc mộng gẫm trong người đời
Cõi trần mấy chút thảnh thơi
Vênh vang cho mấy sau rồi làm sao
Nhớ xưa Hàn Tín tài cao
Ra tay giúp Hán biết bao công trình
Làm cho Tần, Sở thất kinh
Quyền cao chức trọng hiển vinh ai bì
Chẳng may gặp lúc hiểm nguy
Công trăm năm cũng bỏ đi một hồi
Làm người như thế thì thôi
Khác chi cát bụi mà chơi sự thường
Sao bằng hai chữ trung bình
Vui chi cho quá thất thường cực thân
Chữ rằng : “Lạc thị khổ thân”
Mê đường danh lợi, bỏ thân tồi tàn
Có vinh hiển, có gian nan
Không tu sao biết an nhàn tấm thân
Chữ rằng “Nhất nhật tu nhân”
Bao nhiêu tội chướng khỏa lần sạch không
Vượn còn biết mến rừng trong
Người sa vào chốn bụi hồng làm chi
Chim còn biết chốn ẩn vi
Người không biết chỗ để khi mà về
Sự đời gẫm lại mà ghê
Sanh lai tử khứ nhiều bề đắng cay
Chết thì đã chắc trong tay
Sống thì thấp thoáng biết ngày nào đây
Than rằng biển lớn non dài
Trời cao đất rộng thân nầy bao hơi
Những là vật sắc dò chơi
Công danh cát bụi đua bơi làm gì
Chi bằng hai chữ từ bi
Không trông danh lợi bận gì gian nan
Chữ tu là chữ an nhàn
Tham tài tắc tử, thế gian vô thường
Nhớ xưa Hạng Võ tranh cường
Làm cho thiên hạ tứ phương hãi hùng
Ra tài ra tướng anh hùng
Quân ba mươi vạn đối cùng ai hơn
Một mình cứ đỉnh bạc sơn
Nhà Hán cũng sợ nhà Tần cũng kinh
Ở đời vinh đã nên vinh
Cũng không khỏi chết bỏ mình Ô giang
Hết tài trí, hết khôn ngoan
Hết danh, hết lợi, hết sang, hết cường
Cho hay hoa nở cũng tàn
Pháo mà kêu lắm càng tan xác nhiều
Làm người chớ nghĩ thấp cao
Chớ so hơn thiệt mà xao xác lòng
Làm thân chi giống gà lồng
Sao bằng hạc nội muôn trùng cao bay
Khuyên người giữ giới ăn chay
Chí tâm niệm Phật có ngày thảnh thơi
Thuở xưa Phật cũng ra đời
Lánh vòng danh lợi ra ngoài càn khôn
Mới hay Phật đạo chí tôn
Làm người trước biết thiền môn tu trì
Ai ơi lòng thật chớ nghi
Tu hành dốc chí liễu kỳ tử sanh
Tuy rằng vạn quyển thiên kinh
Chẳng qua sáu chữ hồng danh rất mầu
Vui lòng một chuỗi giới châu
Sớm khuya tưởng niệm công phu mà lần
Ðã tu thì phải ân cần
Ðừng còn luyến ngó bụi hồng làm chi
Sau về Tịnh độ một khi
Thiếu chi châu báu, thiếu gì kim sa
Giữa không thường rải thiên hoa
Xuống hồ thơm nức chín tòa kim liên
Phật cùng Thánh chúng hiện tiền
Hào quang chói rạng bến biên bảo đài
Lời quê khuyên mấy ai ai
Gắng tu đến đó đặng đài châu ngân
May mà chứng đặng kim thân
Ðời đời thường ở chín từng phẩm cao.

– Bài do Ngài Toàn Nhật Thiền sư trước tác – (sđd)


SÁM HỐI TÂM HƯỚNG THIỆN
(Sám hối tâm 8)

Trong tám vạn bốn ngàn cửa Pháp
Nói không cùng lý đạt khó thông
Y theo Tịnh độ thiền môn
Mở ra một cửa chánh tông chân truyền
Tiếp khách thiền có duyên thời gặp
Dễ tu hành mà chắc nên công
Như thuyền ra đến giòng sông
Nước xuôi gió thuận khỏi công chống chèo
Ðường ngàn dặm một lèo thẳng tới
Khỏi quanh co biển ái sông mê
Khuyên đừng thấy dễ mà chê
Chớ trong sự dễ nhiều bề chẳng thông
Câu vô niệm ẩn trong hữu niệm
Có hữu vi mới nhiễm vô vi
Thử coi hoa trái vật chi
Lộ ngoài mới thấy có khi trong nhành
Có cội nhành mới sanh hoa trái
Không cội nhành hoa trái do đâu
Tụng kinh niệm Phật làm đầu
Cứ theo qui tắc chớ hầu sai ngoa
Tín hạnh nguyện giữa ba điều ấy
Trọn một đời như vậy cho y
Tín là tin chắc không nghi
Niệm Phật tưởng Phật đến kỳ vãng sanh
Chữ hành là làm lành một mối
Giữ thường thường chẳng đổi chẳng sai
Nguyện là muốn thấy Như Lai
Cầu về Tịnh độ liên đài phẩm cao
Do chữ Tín nhiễm vào chơn lý
Hữu sở hành, năng trí kỳ tri
Nguyện là chung hữu sở qui
Lòng thường tư tưởng cho y như lời
Ba căn ấy thấu trời tịnh độ
Thất bửu trì, hoa nở chờ ta
Báo thân để lại Ta bà
Tánh linh về yết Di Ðà pháp vương
Ra lửa vườn hết đường sanh tử
Quả Bồ đề bổ xứ siêu phương
Xưa nay giáo pháp chiêu chương
Rõ ràng Tịnh độ là đường vãng sanh
Dễ tu hành mau thành chánh quả
Các nẻo đường xa lạ hiểm nguy
Khuyên đừng thủ dị cầu kỳ
Nghe lời tà kiến mà đi sai lầm
Phật tức tâm thậm thâm tưởng niệm
Niệm thường thường công chuyện chẳng can
Trong nhà thiết lập một bàn
Ðến thời tu niệm sửa sang đàng hoàng
Mặc áo tràng thắp nhang cắm thẳng
Xướng hiệu rồi thoảng thoảng lạy ngay
Lạy rồi quì gối chấp tay
Tự trần tên họ sám bài nguyện sanh
Khi sám rành lạy ba lạy nữa
Ngồi bán già mình sửa cho ngay
Trừng tâm bế mục chấp tay
Lóng thần mật niệm hết bài xưng dương
Niệm thường thường tâm vương chủ một
Chuỗi tay lần mỗi hột mỗi câu
Niệm rồi chấp chuỗi khấu đầu
Niệm ba câu nữa mỗi câu mười lần
Mỗi mười lần chuyên thân khể thủ
Hồi hướng văn sám đủ kiền thiền
Khởi thân chiêm ngưỡng án tiền
Tạ đàn ba lạy hữu biên thoái hồi
Nghi Tịnh độ dọn rồi rất chắc
Lóng tâm thần sắp đặt chẳng sai
Y theo giáo pháp Như Lai
Chánh tông truyền kế chẳng sai chẳng lầm
Ðạo thậm thâm khó tầm khó kiếm
Sẵn sàng đây dễ niệm dễ tu
Kính khuyên nam nữ trượng phu
Biết thương bổn tánh phải tu kịp thời
Chớ buông lời nay mai sẽ tính
Cơn vô thường biết định bao lâu
Cõi trần trăm thảm ngàn sầu
Chưa toan dời bước còn cầu việc chi
Một câu niệm A Di Ðà Phật
Tiêu tội nhiều, phước thật vô biên
Căn lành trước có nhân duyên
Ngày nay gặp Phật phải chuyên tu hành
Nguyện chúng sanh đồng thành chánh giác
Chứng hưởng phần khoái lạc tiêu diêu
Cần tu tịnh độ bao nhiêu
Ðồng về cực lạc cao siêu liên đài
Văn tịnh độ một bài chỉ tắt
Nghi tu hành sắp đặt trước sau
Muốn tu phải học cho làu
Ðến khi hành sự mới mau việc làm
Khuyên đừng thế sự luận đàm
Tránh đường danh lợi để ham tu hành
Nguyện sanh về cõi lạc thành
Lâm chung gặp Phật vãng sanh sen vàng
Nam mô Tịnh độ Lạc bang
Chứng minh đệ tử Tây phang mau về.

– Trích “Pháp Môn Tịnh Ðộ” – Chùa Niệm Phật Bình Dương ấn hành 1974.


ÐƯỜNG GIẢI THOÁT
(Sám hồi tâm 9)
Chí Kiên

Ðường giải thoát thênh thang cao đẹp,
Ngát hương thiền tỏa khói lam chiều,
Khách nhàn vui cảnh tịch liêu,
Lòng thanh thoát rũ sạch điều thế duyên.
Ðường giải thoát tầm nghiên đạo lý,
Phá ưu phiền, ganh tỵ, hận thù,
Thế gian danh lợi ngục tù,
Rõ đời giả tạm, kẻ mù xưa nay.
Ðường giải thoát xây đài thiện cảm,
Không hơn thua va chạm giựt giành,
Vị tha bỏ thói cạnh tranh,
Ðời nhiều đau khổ sao đành riêng vui!
Ðường giải thoát không lùi giông tố,
Lái thuyền từ tế độ trầm mê,
Thương người nghiệp chướng nặng nề,
Ra tay cứu vớt đưa về vô sinh.

Ðường giải thoát tâm hồn chân chính,
Không dối lừa bướng bỉnh gạt lường,
Lợi tha hạnh nguyện tình thương,
Thi ân bình đẳng noi gương Thánh Hiền.

Ðường giải thoát bao la như biển,
Tấm lòng trần vĩnh viễn xuất ly,
Học đòi trí tuệ từ bi,
Lời vàng pháp Phật khắc ghi bên lòng.

Ðường giải thoát xa vòng lẩn quẩn,
Bụi trần ai chẳng bận mảy hào,
Bát phong chẳng động chẳng xao,
Chơn như tánh hải làu làu trăng soi.

Ðường giải thoát đâu cần mời gọi,
Ðến với đi từ nội tâm ta,
Sơn hà bạn với cỏ hoa,
Trúc xanh tùng biếc ta đà tháng năm.

Ðường giải thoát đâu tầm giải thoát,
Ðâu mất, còn, thêm, bớt vốn không,
Chúng sanh, tâm, Phật vốn đồng,
Xưa nay ẩn hiện sắc không chơn thường.
Ðường giải thoát con đường tu học,
Vẫn kệ kinh, vẫn nhọc công phu,
Bởi còn ta, vẫn còn ngu,
Trải thân hành đạo xuân thu dần dà.

Ðường giải thoát riêng ta dấn bước,
Mong bao người kẻ trước người sau,
Hãy cùng giác ngộ mau mau,
Chân trời giải thoát ngôi cao Phật đài.
– Phỏng soạn lại thành sám văn từ bài thơ 8 chữ cùng tên của Ni Trưởng Chí Kiên, Như Chí. Ðăng trong “Ðặc San Hoằng Pháp” số 6. Chùa Ấn Quang ấn hành, 1974.

– Chiêu Ðề soạn thành thể song thất lục bát, chùa Xá Lợi Tp. HCM, 1998.