sắc giới hệ

Phật Quang Đại Từ Điển

(色界系) Sự trói buộc bởi các pháp ở cõi Sắc. Luận Đại tì bà sa quyển 52 (Đại 27, 271 hạ) nói: Bị dục trói buộc nên gọi là Dục giới hệ; bị sắc trói buộc nên gọi là Sắc giới hệ, bị vô sắc trói buộc nên gọi là Vô sắc giới hệ. Như trâu, ngựa bị buộc vào cây cọc hoặc gốc cột, gọi là Trụ đẳng hệ.Cùng luận đã dẫn quyển 145 (Đại 27, 746 hạ) nói: Nếu pháp bị Ái và Kiến của cõi Dục chứa giấu và chấp trước thì gọi là Dục giới hệ, bị Ái và Kiến của cõi Sắc chứa nhóm và chấp trước thì gọi là Sắc giới hệ, bị Ái và Kiến của cõi Vô sắc chứa giấu và nắm giữ thì gọi là Vô sắc giới hệ. Nếu căn cứ vào 98 tùy miên (phiền não) để phân biệt sự trói buộc ở cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, thì cõi Dục có 36 tùy miên, cõi Sắc, cõi Vô sắc mỗi cõi có 31 tùy miên. Luận Câu xá quyển 2 lại căn cứ vào 18 giới để phân biệt sự trói buộc ở các cõi, cho rằng sự trói buộc ở cõi Dục có đủ cả 18 giới, ở cõi Sắc chỉ có 14 giới vì trừ ra 2 cảnh hương, vị và 2 thức mũi, lưỡi. Luận Câu xá quyển 3 còn dùng 22 căn để phân biệt, bảo rằng sự trói buộc ở cõi Sắc là 15 căn, vì trừ ra 3 căn vô lậu và 4 căn nam, nữ, ưu, khổ. [X. luận Đại tì ba sa Q.50; luận Đại thừa A Tì Đạt Ma tạp tập Q.2; luận Câu xá Q.8]. (xt. Sắc Giới, Giới Hệ, Tùy Miên).