KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN

QUYỂN THỨ SÁU (PHẦN TRƯỚC)
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn

PHẨM THỨ BA THÍ DỤ (tiếp theo).

-Kinh văn : “Đức Phật muốn giảng lại nghĩa này”  tới  “có một căn nhà lớn”.
Tán rằng : dưới đây là tụng, tổng cộng có 165 tụng, chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 84 tụng rưỡi, trước tiên tụng về pháp dụ, sau đó là :
“ Bảo với Xá Lợi Phất !
  Bọn ông các người thảy, 
  Đều là con của ta,
  Ta tức là cha lành”. 
• Phần sau gồm Tám mươi tụng rưỡi, là đoạn lớn thứ ba khuyên hãy tín giải kinh này, thích sẽ thành được Phật trí. 
Trong phần đầu lại có ba ý : 
– 65 tụng rưỡi, tụng về dụ thuyết nói trên. 
– 18 tụng, tụng về hợp thuyết nói trên.
– Một tụng, tụng về kết thuyết trước : vì nhân duyên đó mà mười phương thực sự truy cầu (Phật thừa này), ngoài ra không có thừa nào khác, trừ phương tiện của Phật. 
Trong 65 tụng rưỡi đầu lại chia làm hai :
 53 tụng rưỡi, tụng về dụ : “xưa là Quyền+ (thừa)”. 
 12 tụng, tụng về dụ “nay là Thực+ (thừa)”. 
Văn đầu chia làm bốn : 
    a) Nửa tụng đầu, tụng về dụ “ba cõi có Phật”.
    b) 32 tụng rưỡi, tụng về dụ “năm nẻo nguy vong”. 
    c) 14 tụng, tụng về dụ “thấy (chúng sinh khổ) bèn đặt ra phương tiện quyền nghi”.
    d) 6 tụng rưỡi, tụng về dụ “y theo lời (Phật), tránh khỏi tai nạn”. 
Dụ đầu trường hàng có sáu, nay chỉ tụng hai :
                1) Gia chủ.
                2) Trạch tướng. 
Trước kia nói rằng ông rưởng giả có nhiều ruộng nương nhà cửa. Ở đây chỉ nói có một nhà lớn, có ba cách giải thích như trước .
*
-Kinh văn : “Nhà đó đã lâu cũ”  tới  “tường vách đều long lở”. 
Tán rằng : dưới đây là đoạn thứ hai gồm 32 tụng rưỡi, tụng về năm nẻo nguy vong. 
Trường hàng có 4 ý, nay chia làm ba :
– 3 tụng đầu, nói về nhà cửa mục nát nguy hiểm.
– Nửa tụng, nói về người đông đức.
– 29 tụng, nói về tai họa từ các phương dấy lên. 
Chẳng tụng về ý thứ tư là các con du cư. Trong phần nhà cửa mục nát nguy hiểm lại chia làm hai : 
+ 7 câu thuyết minh chung về tam giới ngũ uẩn vô thường.
+ 5 câu thuyết minh riêng về nghĩa sắc thân Vô thường, Vô ngã, Bất tịnh, Không. 
Đây là phần đầu gồm 7 câu :
1. “Nhà đó đã lâu cũ” : nếu bổ dọc mà bàn thì là thức uẩn vô thủy, niệm niệm sinh diệt, giống như huyễn sự, gọi là “lâu cũ”.
2. “Mà lại rất đốn tệ” : nếu cắt ngang mà xét thì thành đốn tệ (hư hoại ngay trong một lúc), chẳng phải là diệt dần dần. “Tệ” có nghĩa là bại, là hoại, tức là hư hoại. 
3. “Nhà cửa vừa cao nguy” : chỉ sắc uẩn vô thường. Lấy nhà thang gác, cao ắt dễ nghiêng, nguy ắt chẳng yên, giống như đám bọt, chẳng kiên cố chắc chắn. 
4. “Chân cột lại mục nát” : ví với hành uẩn vô thường, niệm niệm đổi thay tàn tạ, nghiệp tận đều chết, nên gọi là “mục nát”ù tồi hủ. “Tồi” là gãy đổ,  “hủ” là hủy hoại, ví như cây chuối.
 5. “Xà cột đều nghiêng ngã” : Ví với thụ uẩn vô thuờng, đã mất chính thụ thì sao yên được, ví như bọt bóng nổi vậy.
 6. “Nền móng đã đổ nát” : cũng tức là hành uẩn. Nghiệp tự gọi là nền móng, vì là chỗ để đặt cái cột mệnh căn. “Đồi” : có nghĩa là sụt lở, sập xuống. “Hủy”: nghĩa như hoại (hư hoại) hành uẩn nhiếp nhiều pháp, nghiệp quả hai thứ khác nhau nên phải dùng hai câu.
7. “Tường vách đều long lở” : là ví với tưởng uẩn vô thường.
* Chữ [ 圮  ] (thường đọc là Dĩ) âm đọc là phiên thiết của hai âm Phụ Mỹ (Phỉ), có nghĩa là huỷ hoại, đổ nát. 
* Chữ [ 坼  ] đọc là Sách, có nghĩa là nứt. Ngọc Thiên giải thích là phân, tức tách ra. 
Bảy câu trên thuyết minh chung về tam giới ngũ uẩn vô thường. 
*
-Kinh văn : “Đất bùn rơi rớt xuống”  tới  “đầy khắp những uế tạp”.
Tán rằng : đây là 5 câu dưới thuyết minh riêng về các nghĩa của sắc thân vô thường : 
– 3 câu nói về vô thường. 
– 1 câu nói về vô ngã.
– 1 câu nói về bất tịnh.
Do ba nghĩa này cho nên thành Không.
* “Nê đồ” : (Bùn trát, vữa) ví với thịt. Thiết Vận nói : “Đồ” là chỉ lớp lợp, lớp trát ở trên hoặc ở ngoài.
– “Trĩ” [ 阤 ], có nghĩa là sụt lở, đổ nát. Chữ [ 阤  ] đọc là Trĩ. Sách Thuyết Văn có chữ Trĩ [ 褫  ] là rũ áo. Sách Thiết Vận có chữ  Trĩ [ 阝多  ] là núi lỡ. Sách Ngọc Thiên nói chẻ củi theo thớ gọi là Trĩ [ 阤  ]. Có bản chép là [ 褫  ] chẳng biết căn cứ vào đâu. 
Nay nên dùng chữ [ 阤  ]. Sách Quãng Nhã giải thích [  阤 ] có nghĩa là [ 脫 ] Đoạt, đó là phương ngôn, có nghĩa là Hoại. Sách Thuyết Văn nói núi lở gọi là Trĩ [   阤   ] có khi viết là [ 阝多 ]. 
– “Tranh lợp” (Phú thiêm) : ví với da dẻ, bị rối loạn và sắp bong. Sách Nhĩ Nhã nói : lợp bằng cỏ tranh trắng (Bạch cái) [白 蓋  ] thì gọi là thiêm [ 苫 ]. Bện cỏ tranh trắng làm thành các tấm tranh để lợp nhà thì gọi là thiêm [ 苫 ]. 
– “Duyện lữ” [ 椽  木呂 ] (đòn tay, tàu bảy) : chữ [木呂 ] đọc là Lữ, là thanh gỗ đặt ở đầu mút vỉ kèo, nay gọi là “Tước lữ”õ[雀  木呂 ]. Chữ [ 差  ] có hai âm Si và Sai. Chữ [脫 ] có hai âm Đoạt và Thoát.
“Đòn tay, tàu bảy” [ 椽  木呂 ] ví với xương, khớp, gân, mạch, nối liền với nhau mà vô thường. 
“Đòn tay (chuyên) xê lệch” : ví với xương cốt vô thường. 
“Tàu bảy cũng bong (thoát) [脫 ]” : ví với gân, mạch vô thường. 
Du Già quyển 19 dẫn kinh tụng nói : “có thành, xương làm tường. Gân, thịt là vữa trát. Trong đó có tham, nhuế, mạn, phú để giữ thành”. Từ Thị giải thích    rằng : “ thành ấy là chỉ tám thức; xương được coi là gạch đá; gân được coi là dây dợ chằng buộc; thịt coi như vôi vữa đắp trát hình hài để làm tường thành vây kín xung quanh”.
Trong thành này có bốn loại ác pháp giữ thành. Hai loại do tại gia khởi lên đó là Tham và Sân. Hai loại do ngoại đạo khởi lên đó là Mạn và Phú. 
Tại gia do trước dục, ác hành tương ứng, ở trong chính pháp vẫn chẳng tín thụ, huống chi là việc tu thiện, làm sao mà có thể làm được, nếu có khuyên răn giảng giải cho thì lại sinh ra giận dữ, sân nhuế. 
Ngoại đạo cậy ác thuyết pháp mà sinh kiêu mạn, chẳng thể tự nhiên theo tới chỗ Tam bảo. Tam bảo tới giáo hóa cho họ, thì họ do bị phú chướng che lấp, vẫn chẳng hối lỗi, phát lộ các điều ác, huống hồ làm sao mà còn có thể tin giải tu các thiện pháp. Hai loại thành lũy của tâm ấy ngay đến việc đột nhập còn chẳng thể được, huống chi là việc chiếm lấy làm của mình. 
Kinh Niết Bàn cũng nói : “thân này ví như một tòa thành. Máu, thịt, gân, xương, da bọc ở trên; chân tay là lô cốt chống địch, mắt là lỗ châu mai; đầu là điện đường; tâm vương ở chính giữa, nên lấy thịt làm vữa trát, da làm tấm lợp; gân làm đòn tay, tàu bảy”. Trên đây là chỉ sắc thân là pháp vô thường.
 * “Chu chướng khuất khúc” : “Chướng [ 障 ] âm đọc là phiên thiết của Chi Thượng. Sách Thuyết Văn nói : chướng có nghĩa là ngăn cách. Dùng phên mà ngăn cách thì gọi là chướng. Theo sách Ngọc Thiên, chữ [ 障  ] có hai âm Chướng và Chương. Có sách viết là [ 王章  ].
 “Chướng” có nghĩa là ranh giới ngăn cách làm cho úng tắc. Đây ví với vô ngã : trong nhà xung quanh có chướng, quanh co khó vượt, cho nên biết rõ là vô ngã. Nếu hữu ngã thì thuần nhất không có sự quanh co, cũng không có chướng ngại.
 “Uế tạp đầy khắp” : ví với bất tịnh vì như thân Dục giới đầy rẫy ba mươi sáu vật. 
Do ba nghĩa Vô thường, Vô ngã, Bất tịnh này, nên cũng thành Không.
*
-Kinh văn : “Có đến năm trăm người
                    Đang dừng ở trong đó”. 
Tán rằng : đây là tụng về người ở đông đúc.
*
-Kinh văn : “Chim Ó, ưng, diều, cắt”  tới  “cũng hoành hành xông xáo”. 
Tán rằng : dưới là đoạn thứ ba có 29  tụng nói về các phương tai họa dấy lên. Chia làm ba phần :
 17 tụng rưỡi đầu là thuyết minh chung về tướng biến quái của trùng quỹg .
 10 tụng rưỡi thuyết minh riêng về lý do phân khởi trùng tạp của trùngg quỷ.
 1 tụng cuối : kết thành nạng trên.
Thuyết minh chung về biến quái, tức là phân tích chung về mười tướng phiền não. Thuyết minh riêng về phân khởi, tức là thuyết minh riêng về Hoặc tướng của tam giới. 
Trường hàng tai khởi chỉ thuyết lửa thiêu. Nay thêm trùng quỷ, thuyết các ác tướng vì muốn khiến các chúng sinh ghét sợ sâu sắc. Như ba thứ độc v.v… cần phải chê trách, cho nên đặt ra đủ thứ tên. 
Trong phần đầu lại chia làm ba :
–  6 tụng thuyết minh về chim quái, trùng độc, vì hơi trì độn, nên ví với năm thứ là tham v.v…
– 10 tụng thuyết minh về thần linh quỷ dị vì nhanh nhẹn hơn, nên ví với ngũ kiến.
–  1 tụng rưỡi kết luận chung về hai mục này. 
Trong phần đầu này có hai : 5 tụng rưỡi là thuyết minh riêng, một nửa tụng là kết luận. 
Văn đầu chia năm :
1) Nửa tụng đầu dụ về Tham.
2) Một tụng rưỡi dụ về Sân.
3) Một tụng dụ về Si.
4) Một tụng dụ về Nghi.
5) Một tụng rưỡi dụ về Mạn. 
Đây là phần đầu và phần thứ hai. Trong này phối thuộc, không có giáo văn riêng, cứ theo hành tướng tương ứng thì nghĩa phối hợp với nhau, thuận theo thời cổ là như thế, Luận vốn chẳng giải thích, vì lý chẳng cần thế, nghĩa phù thuận, nên không hẳn chẳng phải như thế.
• Tham ái có bốn :
1) Hiện hữu ái. 3) Tham hỉ câu hành ái.
2) Hậu hữu ái. 4) Bỉ bỉ hỉ lạc ái. 
Đều căn cứ vào hành tướng riêng, vì thể hiện ra có thể thấy được.
 Cắt, Ưng, Ó, Diều : theo thứ tự mà phối với thượng phẩm Tứ ái. 
Quạ, Thước, Cưu, Câu : thì theo thứ tự mà phối hợp với hạ phẩm Tứ ái. 
Hoặc là Tính độn tham, Hiện quái tham, Đại lực tham, Động thân tham, Phi pháp tham, Phát ngữ tham, Ty hạ tham, Đa dâm tham theo thứ tự mà phối hợp với tám loại chim dữ trên. Tám loại chim trên phần nhiều là tham lam nên lấy làm ví dụ. 
• Sân dụ có mười một thứ :
1/ Con Nguyên xà. Chữ [蛇] có âm đọc là Nguyên, còn có âm là Ngoan. Theo Kinh Di Giáo thì đó là Hắc đoản xà. Về từ “Huyền nguyên” trong Hán thư, Vi Chiêu giải thích “Huyền”là đen; “Nguyên” là con thằn lằn (Tích dịch). Thôi Báo giải thích đó là con Xà y, con to dài ba thước, màu đen nhánh, giỏi chài người. Loại này có bốn tên gọi khác nhau : gọi là Vinh nguyên, Tích dịch, Yển diên và Thủ cung. 
Sách Ngọc Thiên nói đó là con Xà y, ở nhà thì gọi là con Thủ cung, ở đầm thì gọi là con Yển diên. Căn cứ vào đó thì lẽ ra Kinh Di Giáo phải gọi là con Hắc nguyên, nhưng lại viết lầm là chữ Xà (rắn). Nay giải chữ Nguyên [螈] có hai nghĩa : một là con Tích dịch, hai là con Hắc đoản xà. Cho nên Kinh Di Giáo nói rằng : “Rắn ngủ ra rồi mới ngủ yên được”. Nên kinh đó chẳng phải là viết sai song gọi là Hắc nguyên thì chẳng phải là Vinh nguyên, có chỗ chép là Nguyên [黿] chỉ loài thuỷ trùng tính hung ác (chữ Nguyên này là con giải) xét về lý cũng chẳng đúng vì bản đó là Nguyên thuộc bộ Mãnh [黿], chẳng phải là chữ Nguyên thuộc bộ Trùng [螈] như ở đây.
2/ Rắn : chỉ các loài rắn thường.
3/ Con Phúc xà, sách Nhĩ Nhã nói : Phúc xà là loại Nguyên xà, bề ngang tới ba tấc, đầu to như ngón tay cái, từ vùng Giang Hoài trở về nam gọi Nguyên xà là Phúc xà, có răng, rất độc, trên mũi có vòi, còn gọi là Phản tỵ xà, sắc như vằn thao đen, giữa vằn có mào, con to dài tới bảy tám thước, trích vào tay thì đứt rời tay, vùng Lĩnh Nam có nhiều rắn này.
4/ Bò cạp.
5/ Rết. Sách Tự Lâm gọi là con Tức thư, rất có khả năng trị được rắn. Loại mình xanh lục chân đỏ thì tốt (dùng làm thuốc), loại chân vàng thì chẳng dùng được. Người ta thường hay đốt để khiến chân nó thành đỏ, đó chẳng phải là thứ thật.
6/ Con Do diên. Con to loại này ở vùng Giang Nam gọi là Ngô công.
7/ Con Thủ cung. Vùng Sơn Đông gọi là con Thúc mịch, từ Thiểm trở về phía tây gọi là con Bích cung, lấy máu của nó bôi vào tay phụ nữ, nếu có tư tình thì rửa không sạch, nên có thể dùng nó để giữ nhà, vì vậy gọi là thủ cung. Còn nói rằng : ở đá thì gọi là Tích dịch, ở đầm thì gọi là Yển diên, ở nhà thì gọi là Thủ cung, tên gọi chung là Vinh nguyên.
8/ Con Bách túc.
9/ Con Dứu. Sách Thiết Vận nói : tên loại trùng giống tựa con chuột thì viết là [ 鼬 ] Dứu, tên loại thú giống tựa con vượn thì viết là [ 貁] Dứu.
* Sách Ngọc Thiên nói rằng con Dứu [貁] giống như con chồn hay bắt chuột, khác với giải thích của Thiết Vận. Con Dứu giống như con chuột xù nhưng ăn thịt chuột. Cũng gọi là con Sinh thử. Vì kinh này có bản chép là [ 鼬 ], có bản chép là [貁], theo Tự Lâm thì viết là [犭穴 ], cổ văn viết là [虫隹] chẳng những có âm đọc là Dứu, còn có âm đọc là Dụy, là tên gọi của con kiến. 
Bình Sơn Hải Kinh nói : “Lịch sơn có nhiều con Dụy”. Quách Phác giải thích nói rằng : con này giống con đười ươi mặt to, màu đen bóng đuôi dài bốn năm thước, giống như đuôi rái cá nhưng đầu có hai chẽ, khi trời mưa thì nó tự treo ngược lên cây, lấy đuôi mà bịt lỗ mũi. Vùng Giang Đông nuôi loại này để nó bắt chuột, loại này nhanh khỏe.
* Sách Nhĩ Nhã nói : con Dụy mũi hếch, đuôi dài. Nay theo Thiết Vận, viết là [貁 ]. Đây là loài vượn, hình dáng giống như loài chó, loài này tính không ác nên không lấy. Nên lấy chữ Dứu bộ Thử [鼬 ] đồng âm với chữ [貁 ]. Đây là loài cùng loại với con Hoàng yêu, tính hay sát thương, hình nó nhỏ. Theo cổ văn thì viết là [  虫隹  ], nếu theo Ngọc Thiên thì viết là[豸虫 ] . Theo Tự Lâm thì viết là [貁 ]. Có bản chép là [犭虫 ], chẳng biết căn cứ vào đâu.
10/ Con Chồn : còn gọi là Dã miêu. 
* Nên viết là [貍 ], không có chữ [狸 ] (Ly). Sách Thuyết Văn nói : chữ này thuộc bộ Trĩ [豸 ], âm đọc quan hệ với chữ Lý [里 ].
11/ Con Hề thử (chuột nhắt). 
* Thuyết Văn giải thích đó là Tiểu thử (chuột nhắt). Sách Ngọc Thiên nói rằng loại này có nọc độc, ăn thịt người và chim muông, dẫu bị ăn hết mà chẳng biết đau. Sách Xuân Thu gọi là con Thực Giao ngưu giác. Nay gọi là con Cam khẩu thử. 
Các loài có nhiều độc hại này ví với Sân, vì sân có các biệt tướng duyên vào 10 sự mà nảy sinh :
1) Kỷ thân (bản thân mình).
2) Sở ái hữu tình (loài hữu tình mà mình yêu).
3) Phi ái hữu tình (loài hữu tình chẳng được yêu).
4) Quá khứ oán thân.
5) Vị lai oán thân.
6) Hiện tại oán thân.
7) Bất khả ý cảnh (cảnh chẳng vừa ý).
8) Ghen ghét.
9) Túc tập (thói cũ).
10) Tha kiến. 
Nói chung thì Sân có 1, k mà biệt hành có 10, phối hợp với 11 loại trên.
Phẫn, hận v.v… trong Tùy phiền não gọi là các loại ác trùng, gặp duyên sinh khởi thì gọi là “hoành hành xông xáo”. 
Thêm nữa, dưới đây nêu 11 loại sân :
1. Mãnh lợi sân.
2. Bị não sân.
3. Báo oán sân.
4. Hiện tướng sân.
5. Hại độc sân.
6. Bất đoạn sân.
7. Tật đố sân.
8. Phiền uyển sân.
9. Tư thiết sân.
10. Tổn sát sân.
11. Tiềm kế sân.
Theo thứ tự ví với 11 loại ác trùng trên. 
“Hoành hành xông xáo” là kết luận về sân nói trên.
*
-Kinh văn : “Chỗ thối tha cứt đái”  tới  “mà tụ tập trên đó”.
Tán rằng : đây là ví với Si, 36 vật như nước tiểu, phân v.v…, Si tăng thượng nên chấp trước coi thân mình là quý báu như con bọ hung tụ tập ở chỗ nhơ ác mà chẳng biết là bất tịnh, đam mê sinh tử, ngu cả ba thời khởi chín trong mười loại (9/10), nên gọi là Các trùng, vì có nhiều loại. 
Du Già quyển 9 nói : chỗ thối chẳng thể ưa thích, rất đáng khinh ghét.
* “Thối” (xú) là ác khí. Chữ [ 處  ] nếu đọc là xử, có nghĩa như tức. Ác xử : tức là “ác xử tức” là mùi hôi thối. Sách Thiết Vận nói chữ này đọc là “Si thứ phản” (Xử). Ngọc Thiên giải thích là Cư (ở, chỗ ở), nghĩa như Chỉ (dừng, ở). Đọc khứ thanh, tức đọc là Xứ, chỉ “Tiện ác xứ sở” (chổ tiêu tiểu bẩn thỉu).
*
-Kinh văn : “Cáo, sói, cùng dã can”  tới  “xương thịt bừa bãi ra”. 
Tán rằng : đây là dụ về nghi. 
* Chữ [ 狐 ] đọc là “hồ”. Ngọc Thiên giải thích rằng đây là loài yêu thú, quỷ hay ốp vào.
Hồ (cáo), có ba đức tính :
1) Màu nó trung hòa.
2) Trước nhỏ sau to.
3) Chết vẫn giữ gò. 
“Dã can” : lông màu vàng xám, giống như chó, thường đi thành đàn, rú lên về ban đêm giống như chó sói, có thể leo lên cây làm ổ chỗ cây cao tại ghềnh đá chon von. 
“Hồ” thân hơi to, “Dã can” nhỏ hơn. Hai loại này hình dáng giống nhau, chỉ khác nhau về cở to nhỏ. Cho nên Thiền kinh nói rằng : thấy một con “Dã hồ” lại thấy con “dã can”, con lang có thể biết được. Đây là nghi Tam bảo, tam thế, tam giới, cho nên thuyết ba loài thú trên. 
* Chữ [咀 ] đọc là Thư, còn đọc là Sử. Chữ [ 嚼  ] đọc là Tước. Sách Ngọc Thiên giải thích chữ [咀 ] Thư có nghĩa là nhấm nháp, nhâm nhi. Có chỗ viết là [齟 ]. Còn Tước [嚼 ] có nghĩa là cắn, nhai, ăn. Ngậm mà nhai gọi là Thư [咀 ]. Cắn mà nhai thì gọi là Tước [嚼 ].
 Xỏ chân vào giày thì gọi là Tiễn đạp [ 踐 蹋  ] còn có nghĩa là giày xéo, chà đạp. Làm đứt gân cốt thì gọi là Tệ [ 齒齎  ]. Làm tổn thương da thịt thì gọi là Khiết [ 齧 ]. Chữ [ 齒齎  ] đọc  là Tệ. Ngoạm tới răng thì gọi là Tệ [口齊  ], còn chữ [齒齎 ] không biết có xuất xứ từ đâu. Sợ răng kinh bản đã chép sai chữ [  口齊  ] thành [ 齒齎  ]. Đúng ra phải chép là [ 口齊  齧   ] Tệ khiết (1)
 Cắn mà lôi đi thì gọi là Tệ [ 齒齎  ]. Chữ này còn đọc là Tiệt [截 ] không rõ xuất xứ. Chữ [齧 ] đọc là Khiết. Nghĩa như Phệ, Giảo [ 噬 , 齒交  ] nhai nhiều lần thì gọi là Khiết (nghiến ngấu), cắn ngập răng thì gọi là Tệ [口齊 ].
 Do đó mà xương thịt mới tới mức vung vãi bừa bãi. Nghi mà phát ra miệng thì như cắn như nhai, tâm nghi đế lý thì như giày xéo giẫm đạp. Nghi nhuyễn pháp của Khổ Tập thì như cắn đến ngập răng, nghi kiên pháp của Diệt Đạo thì như cắn xé làm tổn thương da thịt, do đó mà cái thây sinh tử bị vương vãi bừa bãi.
*
-Kinh văn : “Do đó mà đàn chó”  tới  “những biến trạng như vậy”. 
Tán rằng : một tụng rưỡi đầu dụ về mạn, nửa tụng sau là kết luận. 
Mạn có nhiều thứ nên gọi là “đàn chó”, phần nhiều do nghi mà sinh ra, nên nói là “do đó”.
* Chữ “Bác” có nghĩa là đánh, đập. “Toát” có nghĩa là cầm lấy, giữ lấy. Chữ [ 搏  ] đọc là Bác, nghĩa là đánh bằng tay. Sách Ngọc Thiên giải thích là đập ([拍  ] :phách), vỗ ([扌府  ] : Phủ). Chữ [ 撮  ] đọc là Toát, có nghĩa là lấy bằng tay. Sách Thích Danh nói : “Toát” có nghĩa là (lấy) hết, ý nói tạm thời lấy hết (Toát). Sách Ngọc Thiên và sách Tứ Khuê nói : “Toát đồng” có nghĩa là dùng ba ngón mà tuốt. Cầm vào tay rồi tuốt, đọc là Toát, nay chẳng phải nghĩa đó. 
Làm cao lấn át người khác thì gọi là Bác [ 搏  ]. Hòng người theo mình thì gọi là Toát [ 撮  ]. 
Thói Ty liệt mạn : mình chẳng bằng người, như kẻ đói vì cứ ngóng ngớp hoài. Tâm tuy cao nhưng lại run sợ thì gọi là “chương hoàng” (hồi hộp). Chỗ nào cũng có thì gọi là “xứ xứ” (chốn chốn, khắp chốn). Tâm thường xuyên chẳng cho là đủ, như người cầu được ăn, đó đều là tướng Ty mạn. Tâm mạn khinh miệt người khác thì gọi là “đấu tranh”. Thân khởi mạn tướng thì gọi là Trá.
* Chữ [樝 ] đọc là Tra, sách Thích Đanh nói Tra là bốc, có nghĩa là thò cả năm ngón tay ra mà bốc lấy. Sách Ngọc Thiên giải thích Tra [ 樝  ] là dùng cả năm ngón tay mà bắt mà đánh. Cũng có nghĩa là nắm lấy. Sách Thiết Vận thì nói chữ này có nghĩa là lấy ngón tay mà ấn đùa.
Chữ [ 掣 ] có âm đọc là Xiết, Tự Thư giải thích là kéo, Ngọc Thiên giải thích là kéo rồi lại buông ra. Còn đọc là Xích, có nghĩa là kéo lê, có nghĩa là dùng năm ngón tay bắt lấy mà kéo lê, dùng ngón tay nắm vào mà co kéo. Hoặc kéo rồi lại ngả về phía trước thì gọi là Tra [樝 ], vì phải cuối thấp xuống hướng tới người khác. Lôi về phía sau thì gọi là Xiết [掣 ], ví Ngã mạn như kẻ nằm mà lôi về phía sau vậy. Có chỗ chữ Tra viết là [ 齒樝  ], sách Thuyết Văn giải thích là răng chẳng ngay, chẳng phải nghĩa này.
Nói ra lời kiêu mạn thì gọi là “ngãi sãi cao phệ”. Lộ cả môi răng thì gọi là “ngãi sãi”. Gầm rống oang oang thì gọi là “cao phệ” (như chó sủa ông ổng). 
* Chữ [口涯  ] đọc là Ngãi, chỉ chó cắn nhau. Chữ [齒此 ] đọc là Sãi, vốn có nghĩa là răng chẳng ngay thẳng, còn viết là [齒此 , 齒樝 ] há miệng nhe răng thì gọi là “sãi ngãi”. Lại chẳng biết chữ [口紫  ] Sãi này từ đâu mà ra.
“Cao” là tiếng gầm của gấu, hổ. Sách Ngọc Thiên giải thích “Cao” là Bào [ 咆  ] (gầm rống), như khóc mà gào lên. Đây là kết luận về ngôi nhà ấy biến trạng đáng sợ như vậy.
*
-Kinh văn : “Khắp nơi đều có những”  tới  “nuốt ăn cả thịt người”. 
Tán rằng : dưới là 10 tụng thuyết minh về thần linh quỷ dị, ví với ngũ kiến, chia làm năm :
3 tụng rưỡi đầu dụ về tà kiến. ‘
  2 tụng rưỡi dụ về giới’ thủ.
  1 tụng rưỡi dụ về thân kiến.’
 Nửa tụng dụ’ về kiến thủ.
 Hai tụng dụ về biên kiến.’
Trong phần đầu lại chia làm hai :
 1 tụng tổng dụ về tự thể tài kiến.
 2 tụng rưỡi dụ về hành tướng saii biệt.
Đây là phần đầu.
* [ 魑  ] đọc là Ly, [ 魅 ] đọc là Mỵ. Thuyết Văn, Ngọc Thiên giải thích đó là Lão vật tinh. Theo từ ngữ thông tục văn thì : quái ở núi đầm gọi là ly mỵ. Tây Kinh phú của Trương Bình Tử nói rằng : thần núi hình giống hổ gọi là Ly. Thần đầm hình người đầu lợn có đuôi gọi là Mỵ.
[ 魍 ] đọc là Võng, [  魎  ] đọc là Lưỡng. Theo từ ngũ thông tục thì : gỗ đá biến thành quái gọi là võng lưỡng. Xuân Thu và Ngọc Thiên nói : đó là thủy thần. 
Thêm Dạ xoa, ác quỷ. Tổng cộng có năm loại để ví với tà kiến duyên bát ngũ môn, duyên bát ngũ pháp. Tâm, tâm sở v.v… có năm hành tướng đó là báng nhân quả, tác dụng thực sự  và phi tứ kiến. Các tà kiến khác làm tổn thương thiện pháp, hủy hoại ruộng lành. Chỗ nào cũng sinh thì gọi là “khắp nơi đều có”. Tổn hại rộng lớn như ăn thịt người.
*
-Kinh văn : “Các loài trùng độc dữ”  tới  “đều tự tàng hộ vậy”. 
Tán rằng : dưới là 2 tụng rưỡi nói về hành tướng sai biệt của tà kiến, trong đó chia làm hai :
 1 tụng đầu nói rõ do tà kiến sinh độn phiền não, lại do phiền não mào sinh tà kiến.
 1 tụng rưỡi sau nói rõ do tà kiến mà sinh ra cáco ác kiến và bất thiện hành.
Đây là phần đầu. Các phiền não khác gọi là Trùng thú. 
* Chữ [ 孚  ] đọc là Phu. Sách Ngọc Thiên giải thích là mái nằm phủ phục, là ấp trứng, là sinh. văn thông tục đọc là Phu, từ trứng nở ra thì gọi là Phu. Sách Quãng Nhã nói : Phu là sinh nở. Đó là câu như phương ngôn nói gà ấp trứng mà chưa nở vậy.
Chữ [  乳   ] đọc là Nhũ, còn gọi là Nhu. Thương Hiệt, Ngọc Thiên nói : Nhũ là nuôi con vậy. Chữ Sinh [  生  ] tuy có hai âm bình, khứ, nhưng nên đọc là âm bình. Ngọc Thiên nói : Sinh sản có nghĩa là tiến thêm vậy. Sinh dưỡng là tạo ra vậy. Nhân vật tạo biến thì gọi là Sinh. Sản [ 產  ] cũng là sinh. Chim ấp trứng thì gọi là Phu [孚 ], thú nuôi con thì gọi là Nhũ [乳  ]. Do tà kiến nên sinh ra các phiền não, cũng như phu nhũ. Sinh các phiền não cũng ví như “sản sinh”.
Các thứ phiền não duyên vào năm loại tà kiến mà lần lượt nảy sinh thì gọi là “đều tự tàng hộ”. Theo từ ngũ thông tục thì  “tàng hộ” có nghĩa là “tư dưỡng”. Hoặc là các phiền não ví với các loại trùng thú, sinh trưởng tà kiến thì gọi là “tự tàng hộ”.
*
-Kinh văn : “Quỷ dạ xoa ùa tới”  tới  “thật rất là đáng sợ”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh do tà kiến mà sinh ra các ác kiến và bất thiện hành.
Các ác kiến v.v… ví như dạ xoa ngày ngày tăng trưởng gọi là “ùa tới”. Nhân khởi phiền não, lại sinh ác hành gọi là “tranh cướp mà ăn”. Ăn là nghĩa tư trưởng, nên ác thân hành mãn gọi là “ăn đã no”. Tà kiến càng nhiều gọi là “ác tâm càng mạnh”, rồi thể hiện ra lời nói gọi là “tiếng đấu tranh”. Ba nghiệp ác hành tà kiến tăng thêm, tổn hại càng nhiều thì gọi là “rất đáng sợ”. Cho nên do tà kiến mà sinh ra tam ác hành, chẳng phải do tà kiến đích thân phát ra thân ngữ. Nhân thế viễn sinh, nên thuyết như vậy.
*
-Kinh văn : “Những quỷ  Cưu  bàn  đồ”  tới  “nô đùa chơi phóng túng”.
Tán rằng : dưới đây là 2 tụng rưỡi, dụ về  giới thủ. Trong đó chia làm hai :
 1 tụng rưỡi đầu, dụ tổng hành tướng.z
 1 tụng sau, dụ biệtz hành tướng.
Đây là phần đầu.
Các thày xưa thoạt tiên đều không có chính văn, phần nhiều lấy tiểu thừa mà giải giới tướng. Nay y vào văn mới mà giải theo nghĩa đại thừa, học giả nên biết. 
 “Cưu bàn đồ” : là loài quỷ đáng sợ, loài này ví với giới thủ. Cố chấp tùy thuận các kiến, giới cho nên chẳng duyên vào pháp khác, như ngồi bệt trên đống đất. 
* Tự Lâm nói : “Tuân” là ngồi xổm. [  踞  ] đọc là Cứ, là ngồi bệt chân buông thõng. [ 埵  ] đọc là Đóa là nắm đất nhỏ, là đất cứng. Ngọc Thiên đọc là Đoa : đống đất nhỏ, cũng có nghĩa là đất rắn, cũng đọc là Đôi : là gò đất. Không đúng.
 Nếu chỉ chấp giới làø thắng hơn, từ đó sinh ra chấp thủ thì gọi là “lìa đất một thước”. 
Chấp cái việc tuân theo giới cấm là thắng (hơn), từ đó sinh ra chấp thủ thì gọi là “lìa đất hai thước”. 
Hoặc là, chấp giới thằng (hơn) thì giống như “lìa đất một thước”. Còn chấp giới là nhâ để sinh thượng giới, thì giống như “lìa đất hai thước”.
Giới thủ ắt phải đủ hai tướng này. Nếu không thì thuộv vềø tà kiến, chẳng cần tách riêng ghép với thượng giới nhị thủ, vì chẳng thuyết về các Hoặc khác thông với thượng giới, mà chỉ nói về cái chấp hân cầu cái quả Diệtû thuộc về xuất thế. 
Tới sinh ở cõi người cõi trời thì gọi là “Vãng”. 
Quay lại chìm đắm ở ác đạo thì gọi là “Phản”. 
Thường chìm đắm trong vòng sinh tử, phí công khổ hạnh thì gọi là “Du hành”. 
Chấp giới là tối thắng, trái ngược  chính đạo thì gọi là “phóng túng” (túng dật).
Chấp giới là chính nhân, nhiễm trước sinh tử thì gọi là “nô đùa” (hi hí).
*
-Kinh văn : “Nắm bắt hai chân chó”  tới  “dọa chó để tự vui”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh riêng về hành tướng của giới thủ. 
Niết bàn giải thoát mà ngoại đạo mong cầu chẳng phải là thắng pháp thật sự.
Sinh tử đáng ghét ví như con chó, được giới cấm đó giống như hai chân, là Niết bàn nhân, nên ví như chân. 
Giới và Cấm tách ra nên gọi là hai. Hoặc chấp là thắng là nhân nên gọi là hai. 
Cố chấp giới cấm như bắt chân chó. Chấp trước vào giới cấm rồi hành trì tuân theo đó, ví như nắm chân chó rồi quật ngã nó.
* [  撲  ] đọc là Phác : có nghĩa là quật ngã. Thông tục văn gọi là tranh giành mà ngã thì gọi là Phác, có bản viết là [ 扑  ] (Phác), có nghĩa là đánh. Ngọc Thiên giải thích là kích (đánh), có nghĩa là đánh bằng tay. Đây chẳng phải nghĩa này, cũng chẳng phải là chữ [  扑  ].
Đề cao khổ hạnh và loại Niết bàn để chỉ cho chúng sinh ví như khiến chó la thất thanh. 
Chấp trước cho rằng giới cấm như vậy có thể tới được Niết bàn, giống như chân chó đặt lên cổ chó.
Yên chí theo cách này rồi tu khổ hạnh để cầu Niết bàn, giống như đùa nghịch dọa cho chó sợ ; mãi nghịch không bỏ, tuy khổ mà vẫn bảo rằng sướng, để thỏa thích tình mình, nên gọi là tự lạc (tự lấy làm vui).
*
-Kinh văn : “Lại còn có các quỷ”  tới  “gào thét đòi thức ăn”. 
Tán rằng : đây là dụ về thân kiến. 
Thâ kiến cùng với sinh thân (câu sinh khởi), là tâm hành từø thời vô thủy đến nay lúa nào cũng có, cho nên gọi là “trường đại”.
Phân biệt khởi cùng tính bất thiện, không biết hổ thẹn thì gọi là trần truồng (lõa hình). “Lõa” có nghĩa là lộ ra, vì không biết hổ thẹn.
Bị vô minh che, thì gọi là đen. Mê không đúng chính lý thì gọi là gầy. 
Kiên chấp ngũ uẩn, chẳng hề tạm ngừng thì gọi là “thường trụ trong” 
Các phiền nãûo nhân đó mà  khởi lên. 
“Ngã ngữ thủ” nhân đó mà sinh thì gọi là “phát ác thanh”.
Chốn chốn đều khởi, ngã kiến càng lớn, ví như các quỷ kêu đòi thức ăn.
*
-Kinh văn : “Lại còn có loại quỷ
                    yết hầu nhỏ như kim”. 
Tán rằng : đây là dụ về kiến thủ.
Có loại quỷ đầu nó như núi, yết hầu rất nhỏ, nhỏ như cái kim, chẳng thể ăn vào. 
Kiến thủ cũng thế. Chấp tự kiến là nhân là thắng, cho là to như núi, chẳng thụ tha kiến, như kim cực nhỏ.
*
-Kinh văn : “Lại còn có loại quỷ”  tới  “hoặc ăn cả thịt chó”. 
Tán rằng : dưới đây là 2 tụng về biên kiến. Chia làm hai :
– Tụng đầu dụ về hành tướng chung.
– Tụng sau dụ về hành tướng riêng.
Đây là phần đầu.
Đầu như đầu trâu, đầu có hai sừng. Mỗi sừng là một biên kiến, hai sừng là thường kiến và đoạn kiến.
Thường kiến và đoạn kiến ắt y vào ngã kiến, sau mới khởi lên, như y vào đầu trâu mà có hai sừng.
“Hoặc là ăn thịt  người” đó là dụ ví với đoạn kiến, vì vậy gây tổn hại rất nặng cho thiện pháp do đoạn kiến. 
“Hoặc ăn cả thịt chó” : đó là dụ ví với thường kiến, vì chẳng phương hại đến việc nảy sinh thiện pháp, chỉ gây tổn hại nhỏ, nên giống như ăn chó.
*
-Kinh văn : “Đầu tóc rối bù lên”  tới  “chạy cuống quít kêu la”. 
Tán rằng : đây là dụ về hành tướng riêng của biên kiến.
Nhân biên kiến này mà sinh ra 47 kiến trong số 62 kiến. 
Dụ như “tóc rối bù” : vì kiến này cùng các kiến của ngoại đạo bài xích lẫn nhau.
Dụ như “tàn hại hung hiểm” : vì vọng kiến của ngoại đạo gọi là hung hiểm. Hung hiểm có nghĩa là hung ác hiểm trở.
Vì không có cơm chính giáo, và nước chính lý để nuôi dưỡng khôn lớn, cho nên ví như “bị đói khát thúc ép”.
Nội tâm cũng thế, cho nên phát tiếng ra lời nói kế chấp, dụ như “kêu la”.
Thân vội theo đó mà hành động, cho nên dụ như “chạy cuống quít” (trì tẩu).
*
-Kinh văn : “Dạ xoa cùng quỷ đói”  tới  “thật đáng sợ vô cùng”. 
Tán rằng : đây là kết thành. 
Vì ngoại đạo khởi phiền não hư vọng điên đảo  nên như dạ xoa, quỷ đói. 
Vì tại tục khởi phiền não, đam trước, vô tri, nên như các chim muông ác. 
Đó là nhắc lại những điều đã thuyết minh ở trên. Do khởi các thứ đó, cho nên chẳng thông đạt chính lý, nghèo không trí tuệ như bị đói quá. Tại tục khắp bốn vị : sinh, lão, bệnh tử, chỗ nào cũng gặp ác duyên, cho nên sinh Hoặc, như đói quá cuống quít hướng ra bốn hướng (cơ cấp tứ hướng). 
Ngoại đạo chẳng có thể nhìn đúng cửa Niết bàn nhân, chỉ tu sằng khổ hạnh mà quán chính lý giống như nhìn cửa sổ, mà chẳng chính hành, cho nên dụ như “rình xem nơi cửa sổ”. 
“Rất nhiều nạn như vậy,
  Thật đáng sợ vô cùng”.
 Thuyết qua khổ hoặc, các nạn còn thế, huống hồ các ác nghiệp, lý dụ làm sao kể xiết được. 
*Chữ khuy [ 闚 ] còn viết là [ 窺 ] có nghĩa là dòm. Phàm là nhìn trộm, vùng Nam Sở đều gọi là Khuy (dòm).
*
-Kinh văn : “Nhà này cũ mục nát”  tới  “lửa cháy đều hừng hực”. 
Tán rằng : dưới là 10 tụng rưỡi thuyết minh riêng về nguyên do khiến trùng quỷ nhao nhao khởi lên. Có ba phần :
– 2 tụng đầu nói rõ : chủ có nhà thì không có tai họa, chủ vắng nhà thì tai họa xảy ra.
– 1 tụng sau nói rõ : do bị lửa thiêu mà nhà cửa bị sụp đổ.
– 7 tụng rưỡi cuối : tiếp theo họa này là trùng quỷ ùa ra quấy nhiễu.
Đây là phần đầu.
* Chữ [ 屬  ] đọc là Chúc, chúc nghĩa như “do chúc” : “do có liên quan”. 
Ý nói Bồ tát nhân vị tại nhà, tới khi thành Phật rồi ở tại thế gian làm lợi cho vật, nên sinh tử phiền não tai nạn liền hết. Phật nhập Niết bàn, Bồ tát ẩn mất, lợi ích cho vật cũng mất, sinh tử phiền não tai nạn mới nảy sinh. Cũng giống như chủ ở trong nhà thì sửa sang quản lý, đôn đốc con cái, nên tai nạn chẳng sinh. Chủ nếu lìa nhà, không ai sửa sang không ai đôn đốc, con cái phóng dật nên tai họa nảy sinh, nhà bị sụp đổ.
Bởi vậy tòa nhà tam giới nếu như có Phật thì tai nạn chẳng sinh, nếu không có Phật thì tai nạn mới xảy ra, cho nên nói là “liên quan đến một người”, đó là dụ ví với Phật Bồ tát vậy. Chẳng do ngoại đạo, chỉ do Phật pháp, nên nói là “một người”. 
Thêm nữa [ 屬 ] còn đọc là Thuộc, có nghĩa là nhiếp thuộc. Ba cõi đều là của Phật, cho nên nói Phật là chủ và đều thuộc  Phật. 
“Người đó thân cận xuất” : nhập Niết bàn,  ẩn ly tam giới sinh gọi là “thân cận xuất”.
Như nhà không chủ, “bỗng nhiên bùng cháy” : đây là dụ cho các phiền não tổn hại thân khí, như lửa làm tổn hại nhà cửa. Phải dùng chữ Thuộc [ 屬 ]. Không có lý do gì mà có, thì gọi là “bỗng nhiên bùng cháy”. 
Từ sinh đến tử, mọi chỗ đều khởi lên thì gọi là “bốn phía đồng một lúc”. 
Nhân đó mà phát sinh vô lượng ác nghiệp, nên gọi là “lửa cháy đều hừng hực”.
*
-Kinh văn : “Rui xà và kèo cột”  tới  “tường vách đều đổ sập”.
Tán rằng : do lửa đốt cháy, nhà cửa sụp đổ.
 “Rui xà” : chỉ thụ uẩn. “Kèo” như khớp xương, chỉ sắc uẩn. “Cột” chỉ hành uẩn. 
“Tiếng nổ ” : là dụ cho sinh khổ. 
* [ 爆 ] đọc là Bạo, chỉ lửa cháy dữ dội; còn đọc là Pháo. Thuyết Văn giải thích là rang (Chước [  灼   ]). Ý nói như bị rang (nôå) tung tóe ra. Theo Ngọc Thiên, chữ này có ba âm : Bạo, Bộc, Pháo. Có nghĩa là rang, phơi hong cho nóng. Cũng viết là [ 曝 ] có nghĩa là bùng lên, thời xưa viết là [暴皮, 曝 ] hai dạng khác nhau, nhưng âm nghĩa như nhau.
“Chấn động nứt toác” (chấn liệt) : ví với lão khổ. “Chấn” [ 震 ] có nghĩa là kinh động. Lão khổ tại thân như sấm kinh động rất đáng sợ. Hoặc viết là [ 振 ].
“Tàn phá” (tồi chiết) : ví với bệnh khổ, tàn phá thân mệnh, làm yếu người khoẻ. 
“Rơi rụng” (đoạ lạc) : là dụ ví với tử khổ, vì hoại thọ mệnh. 
Sinh lão bệnh tử đều ví như cột, cùng là hành uẩn vô thường, ở cuối ba uẩn, trước tưởng uẩn. Thuyết minh về bốn tướng tức là muốn thuyết minh sinh lão bệnh tử ở khắp năm uẩn. 
“Tường vách sụp đổ” : ví với tưởng uẩn nội ngoại vô thường. 
Trên đây là thụ, sắc, hành, tưởng bốn uẩn vô thường ở tại ngôi nhà thức (thức uẩn dụ như ngôi nhà). 
Đoạn văn trước đã nói rõ : Trong nhà lửa cháy, thuyết minh chung về năm uẩn có sinh, lão, bệnh, tử, vô thường bại hoại, rất đáng chán ngán lo ngại.
 -Hỏi  : tai nạn trong nhà đều là phiền não, cớ sao có khi nói  là lửa, có khi lại nói là trùng, quỷ?
  Đáp  : thiêu đốt thân tâm thì ví là lửa ; vô tri mà gây tổn hại thì ví với trùng, quỷ. Muốn khiến cho thật lo sợ chán ghét, cho nên dùng đủ mọi cách ví dụ.
 Thức là chỗ sở y, ví với nhà cửa. Phiền não y vào đó y khởi lên, nên ví với lửa và trùng. Bốn uẩn đều là năng y, nên nói là do lửa hủy hoại làm rơi rụng, chẳng nói đến trùng quỷ, vì (trùng quỷ) cũng y vào lửa mà ngao du.
*
-Kinh văn : “Các loại quỷ thần thảy”  tới  “chẳng thể tự ra được”.
Tán rằng : dưới là 7 tụng rưỡi nói rõ : nối tiếp liền với tai họa này, trùng quỷ ùa ra quấy nhiễu. Có ba phần :
– 1 tụng rưỡi là dụ về tai hoạ của Dục giới.
– 3 tụng rưỡi là dụ về tai hoạ của Sắc giới.
– 2 tụng rưỡi là dụ về tai họa của Vô sắc giới.
Đây là phần đầu. 
“Các quỷ thần thảy” là dụ về ngoại đạo xuất gia, tục nhân tại gia bị các nỗi khổ bức bách bèn cất tiếng kêu to giống như trùng thú. 
Cho nên Thập Địa luận nói rằng : ngoại đạo biết rõ sinh, lão, bệnh, tử sinh ra chán ngán, nên cất tiếng kêu to. Nay chung cho cả tại gia. 
Thêm nữa, tại gia vì nảy ra thói tham v.v… mà đấu đá tranh giành, ngoại đạo nảy ra các kiến mà đấu đá tranh giành, cất tiếng kêu to. Đây là câu luận chung. 
Do khởi lên độn phiền não như tính tham v.v… nên ví như chim diều chim ó. Do khởi tật lợi phiền não là các kiến, nên ví như Cưu bàn đồ v.v… . Đây là câu nói riêng. 
Tuy bị khổ bức bách, đến nỗi “cất tiếng kêu to” : nhưng tục nhân tại gia lại si ái, nên sinh não. Ngoại đạo xuất gia vì khổ muốn xả khổ. Đó đều gọi là : 
 “Chu chương hoàng bố
     Bất năng tự xuất”. 
(Luống cuống và hốt hoảng,
  Chẳng thể tự ra được) 
* “Chu chương” là hốt hoảng sợ hãi. Chữ Chương [  章 ]  có chỗ viết là [ 章  ], có nghĩa là châu lưu. “Châu lưu” : có nghĩa là châu biến (khắp hết). Do chạy quẩn quanh ở dưới nên gọi là Châu chương. Chữ Chương ở đây phải viết là [  章 ] , nội dung cũng là kinh hoàng. Chữ Bố [  怖   ] có nghĩa là kinh sợ.
Cho nên “hốt hoảng kinh sợ” ở đây là dựa vào câu “cất tiếng kêu to” ở phần đầu mà giải thích. Nếu dựa vào phần sau mà giải thích thì tại tục và ngoại đạo khởi Lợi độn hoặc, thường đấu đá cãi cọ, do đó mà hối hả trong vòng sinh tử, kinh sợ tất bật sớm tối, há biết lửa Hoặc thiêu đốt, trùng quỷ độc hại mà cầu xuất ly đâu ! Giả sử có muốn cầu xuất ly, cũng không có cách nào để tự xuất ly được.
*
-Kinh văn : “Loài ác thú trùng độc”  tới  “cũng trú ở trong đó ”. 
Tán rằng : dưới đây là 3 tụng rưỡi  dụ về tai họa của Sắc giới. Có ba :
– 1 tụng dụ : tục nhân, ngoại đạo đều sinh ở cõi đó.
– 1 tụng dụ : tuy có tịnh định chiết phục phiền não, phiền não vẫn khởi lên.
–  1 tụng rưỡi dụ : tuy cầu ly dục, chấp đó là thắng trội, phiền não lại sinh.
Đây là phần đầu. 
Sắc giới định sâu giống như hang hốc, tại tục sinh ở đó như trùng chui lủi vào, ngoại đạo quỷ sinh, cho nên nói là “cũng trú”.
* [  竄  ] đọc là Thoán, có nghĩa là trốn lủi. Ngọc Thiên giải thích là ẩn nấp.
*
-Kinh văn : “Do vì phúc đức mỏng”  tới  “uống máu ăn thịt nhau”. 
Tán rằng : đây là ví với sự tuy có tịnh định, chiết phục phiền não, phiền não vẫn khởi. 
Thánh nhân có tịnh định, phiền não chẳng sinh. Đó tuy có tịnh định, nhưng không có phúc tuệ thật sự, gọi là “bạc phúc đức” (phúc đức mỏng), lại càng bị các phiền não là tham, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến thiêu đốt, gọi là “vi hỏa sở bức” (bị lửa bức bách).
Chẳng thể đoạn diệt các phiền não này, vẫn khởi kiến thủ, bài xích lẫn nhau gọi là “cộng tương tàn hại”. 
Chấp đạo tự thắng (tự cho mình là hơn) ví như “uống máu”, vì duyên kiến tế. Khởi giới thủ kiên chấp dụ như “ăn thịt”, vì duyên sự thô. 
* Chữ [  噉  ] có âm đọc là Đạm, có nghĩa là ăn, cũng như chữ [  啖  ] Đạm. Còn có âm đọc là Đảm.
*
-Kinh văn : “Những loài thú dã can”  tới  “đầy rẫy khắp bốn phía”. 
Tán rằng : tuy cầu ly dục, nhưng vì chấp vào điều đó coi là thắng trội, nên phiền não lại sinh. 
 “Dã can” (con chồn) ví với loại phiền não như nghi trong Dục giới, cùng với các phiền não khác đều đã chết rồi vì đã bị chiết phục đoạn trừ từ trước. 
Do thủ định coi là thắng trội, khởi mọi loại phiền não như Ái, Kiến, Mạn, Nghi … trong Sắc giới gọi là đại ác thú (thú dữ lớn). Các phiền não này lần lần tăng trưởng, dụ như các thú dữ lớn “đua nhau chạy đến ăn”. Lửa Hoặc đã cháy, càng cháy càng to. Nhân định sinh Hoặc, chẳng thể ưa thích, ví như khói hôi  : “khói hôi bốc nồng nặc”, gọi là bồng bột.
* Chữ [    篷 ] đọc là Bồng. Chỉ có hai chữ  [ 篷 ,  菶 ] (đều đọc là Bồng). Khí như cỏ bồng rối bời, thì nên viết là [ 篷 ]. Có bản chép là [   篷 ]. Theo Ngọc Thiên, đó là chữ Phong trong từ Phong hỏa (lửa hiệu), chữ này không có âm đọc là bồng.
Chữ [    ] âm đọc là Bột, có nghĩa là lớn, là thịnh. Nếu là bụi bốc lên thì viết là [ 垿  ]. Nếu là mùi nồng nặc thì viết là [     ]   (sực nức, nồng nặc). Nay mùi hôi này nồng nặc bời bời như cỏ bồng, mùi hôi của Hoặc bốc to lên như cỏ bồng. Có bản chép là [      ] (bột) chẳng biết xuất xứ từ đâu. 
Cái Hoặc này sinh khắp tứ định, không đâu không có, ví như đầy rẫy khắp bốn phía.
*
-Kinh văn : “Con rết, con do diên”  tới  “bắt được là ăn liền”. 
Tán rằng : dưới đây là 2 tụng rưỡi, ví dụ về tai nạn ở Vô sắc giới. 
– 1 tụng rưỡi đầu dụ về Hoặc ở ba địa dưới.
– 1 tụng sau dụ về Hoặc sinh ở Hữu đỉnh địa. 
Đây là phần đầu. 
Loài rết v.v… là dụ về hạng phàm phu, bị Hoặc ở Sắc giới bên dưới thiêu đốt, cầu được sinh ở Vô sắc giới ví như “chạy khỏi hang”. 
Sinh ở ba địa dưới, quỷ Cưu bàn đồ ví với kẻ ngoại đạo. Ngoại đạo phần nhiều chấp hai địa ở trên, coi đó là Niết bàn. Trừ các phàm phu chẳng chấp, coi đó là nhân của Niết bàn thù thắng. Phàm khởi Hoặc thì như quỷ thấy trùng “hễ bắt được là ăn liền”. Ăn, có nghĩa là để giúp cho sự tăng trưởng, vì theo đuổi thứ đó làm cho Hoặc càng tăng.
*
-Kinh văn : “Thêm nữa, các ngạ quỷ”  tới  “cuống quýt chạy quanh quẩn”.
Tán rằng : đây là dụ về phiền não sinh ở Hữu đỉnh địa. 
Ngoại đạo đó thì gọi là ngạ quỷ (quỷ đói). Vì là đỉnh của ba cõi nên gọi là “trên đầu”. Phiền não càng sinh, gọi là “lửa cháy”. 
Không có thức ăn chính pháp và nước chính pháp để ăn uống để tế độ cho, nên gọi là “đói khát”. Bị phiền não bức bách như bị “nhiệt não”.
Thường không được yên thì gọi là “chu chương”. “Chu chương” nghĩa như “châu lưu”, có nghĩa là loanh quanh, quẩn quanh. Luân hồi trong năm nẻo thì gọi là “muộn tẩu”, có nghĩa là chạy lẩn quẩn.
* Chữ Chương có chỗ viết là chướng [  障  ], có nghĩa là sợ hãi cuống quýt.
 Thuyết các dụ nói trên dụng ý là khiến chán ghét sợ hãi. Nên có nhiều loại biến danh, bậc trí giả nên hiểu rõ.
*
-Kinh văn : “Nhà ấy như vậy đó”  tới  “nhiều nạn chẳng phải một”.
Tán rằng : đoạn văn này là mục thứ ba kết luận về các nạn nói trên. Hoạn nạn đã nhiều, chẳng thể kể hết. 
* Chữ [  眾  ] có hai âm : Chúng và Trọng.
*
-Kinh văn : “Lúc bấy giờ chủ nhà,
                    Đứng ở nơi ngoài cửa”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba có 14 tụng : thấy chúng sinh khổ, liền đặt ra thí dụ để làm phương tiện quyền nghi. 
Trường hàng có bốn. Trong đây cũng thế :
– 3 tụng đầu tụng về dụ thấy chúng sinh khổ thì xót thương.
– 5 tụng sau là dụ về khai thị Đại thừa, nhưng chúng sinh chẳng mong muốn.
– 3 tụng dụ về việc nghĩ phương tiện để cứu vớt.
– 3 tụng cuối chính thuyết dụ về tam thừa. 
Phần đầu có hai ý : 
• 2 tụng đầu tụng về thấy khổ. 
• 1 tụng cuối tụng về bi mẫn chúng sinh. 
Trong phần thấy khổ :
+  2 câu đầu dụ về việc Phật xuất tam giới.
+ 1 tụng rưỡi dụ về lại nghe thấy những sự chúng sinh ở trong cảnh hoạn nạn đáng thương xót. 
Đây là phần đầu. 
“Chủ” có nghĩa là thân, là bề trên, là người nắm phép tắc, là người lãnh đạo, là người giữ gìn. 
“Môn” có hai loại : 
 1) Giáo môn.
 2) Hạnh môn. 
Phật trụ trong quả, ra ngoài nhân môn. Tức là ngôi vị ở diệu lý, cũng là lý xuất giáo môn. Đó là nhất thừa môn vậy. Cho nên nói là “ngoài cửa” (môn ngoại). 
Do trường hàng nói : “Ta tuy có thể ở chỗ cửa bị cháy này mà ra ngoài được yên ổn”, nay nói “đứng ở bên ngoài cửa” thì có bốn nghĩa :
1/ Dáng đứng đợi, để đợi con ra khỏi nhà.
2/ Dáng sắp đi, sắp đi vào cứu nên gọi là đứng.
3/ Đứng là tướng chẳng đi, chờ thời cơ chín muồi sẽ đi cứu, cho nên chưa đi ngay.
4/ Đứng có nghĩa là dậy để hoàn thành. 
Chúng sinh đang ở trong vòng sinh tử, chưa dậy chưa thành Phật, như ngồi. Phật đã dậy và thành, nên đứng vậy.

-Kinh văn : “Nghe thấy có người nói” tới “chỉ vui vầy ham đắm”. 
Tán rằng : đây là dụ nghe nói chúng sinh ở trong cảnh hoạn nạn. 
Trường hàng đằng trước nói rằng : “Trưởng giả nhìn thấy đám cháy to này”. Phẩm Phương Tiện nói : “Ta dùng Phật nhãn mà quan sát”. Nay nói “nghe thấy” (văn),  là có hai nghĩa :
1) Hình ảnh tự, tha nổi rõ. Chẳng những tự thấy chúng sinh chìm đắm khổ sở, còn nghe lời truyền thuyết của tha tam thế Phật. Thân, sơ làm nổi bật cho nhau.
2) Tận mắt nhìn thấy chúng sinh khổ sở là thân, nên gọi là nhìn thấy (kiến). Trụ đợi cơ duyên mới cứu giúp được, đó là sơ, nên gọi là nghe thấy (văn). 
Từ vô thủy tới nay, phóng túng buông trôi, khởi phiền não phân biệt, đó là “trước đây vì dạo chơi”. 
Chịu quả khổ ở ba cõi, gọi là “mà đến vào nhà này”. 
Từ vô thủy tới nay vì Hoặc nghiệp cảm bởi thức v.v…, cho nên trái với đạo lý, ngược với chân nghĩa, đó gọi là “lai nhập” (đến vào). Nhập có nghĩa là ở đó, chẳng phải là trước kia đã xuất, nên nay mới gọi là nhập. Nếu kẻ ấy đã tu Giải thoát phần thì gọi là xuất. Quả thực là vì chẳng tu, nên gọi là nhập. 
Chủng tính tam thừa chưa phát hiện hành. Giả thử phát đại (thừa) tâm, nhưng thoái chuyển cầu tiểu (thừa) quả, thế thì gọi là “ấu trĩ nhỏ dại” (trĩ tiểu).
* Chữ trĩ [ 稚 ] đọc là Trĩ, có nghĩa là thơ ấu yếu ớt. 
Bị ngu si che lấp thì gọi là “vô tri”. Ở quả khổ này mà vẫn buông tuồng sáu tình thì gọi là “vui vầy” (hoan ngu). Tham nhiễm các cảnh thì gọi là “ham đắm” (nhạo trước).
*
-Kinh văn : “Trưởng giả vừa nghe xong” tới “khiến con không bị hại”.
Tán rằng : dụ này là dụ bi mẫn chúng sinh. 
Vào nhà cứu họ, thương xót chúng sinh, nên gọi là “kinh”. Tùy thuận sinh tử, gọi là “vào nhà lửa”. Do lần vào này thì sau mới “phương” cùng đồng thời với chúng sinh ra khỏi nhà lửa. Tuần hoàn ứng cứu, chẳng kể hoạn nạn, gọi là nên “cứu giúp thích nghi”, vì cứu đúng lúc.
*
-Kinh văn : “Mà bảo dụ các con”  tới  “liên tục không hề ngừng”. 
Tán rằng : dưới đây là 5 tụng dụ về việc (Phật) khai thị đại thừa, mà (chúng sinh) chẳng mong cầu. Có hai :
•  4 tụng bí mật  cho biết những nỗi khổ để truyền thụ đại thừa.
• 1 tụng nói về chúng sinh không mong cầu được pháp đại thừa.
 Phần đầu được chia làm hai :
– 1 tụng rưỡi là phần mách bảo chung về Hoặc khổ vẫn còn nảy sinh. 
– 2 tụng rưỡi là phần mách bảo riêng từng chỗ ác khiến phải chán ghét. 
Đây là phần đầu. 
Thuyết về các thứ hoạn nạn như nhà hư hại, bị hỏa tai, trùng quỷ quấy nhiễu.
 “Ác quỷ” : dụ cho các kiến chấp của ngoại đạo.
 “Độc trùng” : dụ cho các Hoặc khác của hàng Bạch y (tại gia, thế gian). 
Hai thứ này là duyên sinh ra mọi  phiền não, như hỏa tai liên miên chẳng dứt. 
* “Man diên” [ 蔓 筵 ] chỉ tình trạng liên tục, có nơi giải thích âm đọc là Mạn diên. Tức là như cỏ mọc lan, lại như chiếu (diên tịch [ 筵 蓆 ]) trải dài. Có chỗ diên viết là [ 延 ] (kéo dài), giống như cỏ mọc vươn dài liên tục không ngừng. Có nơi đọc hai chữ trên là “vạn diến”. Như Tây Kinh phú có câu : kỳ hình vạn diến (hình nó kéo dài). 
Sách Quảng Nhã nói : “Mạn” nghĩa như “trường” (dài), “diến” nghĩa như “biến” [ 遍 ] (khắp, khắp lượt), cả hai chữ đều đọc khứ thanh, như lửa đồng (dã hỏa) liên miên, thế lửa cháy mãi chẳng dứt. 
Vì nhà lửa (hỏa trạch) sinh, mà gọi là :
“cháy nhà, lửa lan mãi”. 
Vì nhà lửa hoại, mà gọi là :
“Các sự khổ thứ lớp,
 Tương tục không hề dứt”.
 Ý này chỉ rõ “vì Hoặc mà sinh khổ”.
Trong lý Duyên sinh : sau Vô minh, Hành, thì có năm thứ như Thức v.v…. ; sau Ái, Thủ, Hữu, thì có Sinh, Lão, Tử. “Vì khổ mà sinh Hoặc”, sinh tử nối nhau không lúc nào dứt. Sau Xúc, Thụ có Ái, Thủ. Sau Lão Tử lại có Vô minh. Cho nên sinh tử gọi là vòng luân chuyển.
*
-Kinh văn : “Loài rắn độc, nguyên, phúc. (tên các loài rắn độc)”  tới  “lại còn thêm lửa to”. 
Tán rằng : đấy là bảo riêng từng chỗ ác khiến phải chán ghét.
“Rắn độc v.v …” dụ cho sân. 
“Dạ xoa” dụ cho ác nghiệp. 
“Cưu bàn đồ” dụ cho giới thủ. 
“Dã can” dụ cho nghi. 
“Chó” dụ cho mạn. 
“Diều cắt” dụ cho tham ái. 
“Các thú loài Bách túc” dụ cho các thứ phiền não.
 Vì thiếu pháp thực, bị đói khát, nên sinh não. Não phiền bời bời bức bách gay gắt, rất đáng sợ. Nhìn Hoặc tướng đó, thì thấy đây là nơi chốn cực ác khổ nạn đã chẳng thể vui, huống chi là ngôi nhà kết quả bị thiêu bởi nguyên nhân cháy lớn, ngày đêm thiêu đốt, sao đáng tham hám nữa. 
Hoặc lại còn phiền não như vậy : trùng quỷ quấy nhiễu bấy nhiêu ác tướng, khổ đã khó ở, huống hồ ở đây lại bị tổn hại thiêu đốt. Từ nay về sau, tai nạn lửa lớn trong thế gian chẳng giải thích như ở đây nữa. Trùng quỷ là lửa, có gì khác nhau ? 
* Nan sử, nạn xứ [ 難 , 處  ] có hai nghĩa :
1) Khó thể ở yên. Kinh Thi có câu : “Mạc ngã hoàng xử” (chẳng có chỗ nào tôi được ở yên). Chữ Xử có nghĩa là cư, tức là ở.
2) Nơi chốn khổ nạn.
*
-Kinh văn : “Các con nhỏ không hiểu”   tới 
                  “Chơi đùa mãi không thôi”. 
Tán rằng : một tụng này nói về việc chúng sinh không mong muốn chọn lấy pháp đại thừa.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ trưởng giả kia”   tới 
                  “Làm ta thêm sầu não”. 
Tán rằng : dưới đây là đoạn thứ ba có 3 tụng, là dụ về nghĩ cách cứu vớt. 
Có hai phần : 
– 1 tụng nói về ý càng thêm thương xót chúng sinh.
– 2 tụng nói về ý đang nghĩ cách cứu vớt. 
Đây là phần đầu. 
Nói về ý chúng sinh bị khổ, phiền não tăng trưởng lại càng khiến tâm bi mẫn của Bồ tát tăng thêm.
*
-Kinh văn : “Nay trong ngôi nhà này”   tới 
                  “Nên bày các phương tiện”.
Tán rằng : đây là đang nghĩ cách cứu vớt. 
 “Đam”  : có nghĩa là ham thích.
 “Miến” : là say mê, chơi bời phóng túng. Các ý khác có thể biết được. 
* Hai chữ [          ] đều đọc là Đam, có nghĩa là ưa thích. Ham chơi thì viết là [    ]. Ba chữ đều được.
Chữ [    ] đọc là Miến. Cũng có nghĩa là ham thích, nghiện ngập, là loạn. Cổ văn viết là [   ]   , có chỗ viết là [  , 愐 ], chẳng biết từ đâu. Chữ [   ]   : Thuyết Văn giải thích là đam mê rượu chè.
*
 -Kinh văn : “Bảo với các con rằng”   tới 
        “Những xe báu tốt đẹp”. 
Tán rằng : dưới đây là đoạn bốn có 3 tụng là dụ về chính thuyết tam thừa. Chia làm ba :
– 1 tụng bảo chung, hứa cho xe. 
– 1 tụng : bày xe ở ngoài.
– 1 tụng : nói xe từ đâu.
 Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Nào xe dê, xe hươu”  tới 
                 “Các ngươi mau ra đi”. 
Tán rằng : đây là bày xe ở ngoài. 
Quả xuất từ cửa nhân, lý vượt ra ngoài giáo cho nên nói là “ra ngoài cửa”. Thể của xe là vô lậu, chẳng bị trói buộc, nên gọi là “ngoại”, vì như lìa khỏi ba cõi, như chỗ không còn phải thi hành việc giáo hóa nữa. Có nghĩa là ở ngoài tam thừa môn. Phật ở ngoài nhà (lửa) cho nên gọi con ra, nghĩa này cũng giải thích như trên.
*
-Kinh văn : “Ta chính vì các ngươi”  tới 
                   “Có thể để dạo chơi”. 
Tán rằng : đây là nói về xe từ đâu mà có. 
Niết bàn bảo sở vô vi đã có từ trước, chẳng nói “do ta làm ra”. Xe là Bồ đề, là thể hữu vi, cho nên nói là tạo (“tác”). 
“Tác” có nghĩa là khởi lên. Xe trâu ví với chủng trí, do giáo hành mà sinh ra, nên gọi là tạo (“tác”) v.v…. Hai xe dê, hươu là chỉ sự bày đặt về danh giáo, cũng nói là “ta làm ra”. 
Tuy đều nói là làm (“tác”). Nhưng xe trâu thì làm thể, còn xe dê, xe hươu thì làm danh, cho nên đều gọi là làm (tác).
Tùy theo căn cơ mà cứu giúp thì gọi là “tùy ý sở lạc” (tùy theo ý thích).
*
-Kinh văn : “Các con nghe cha nói”  tới 
                  “Lìa rời các khổ nạn”.
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ tư có 6 tụng rưỡi, tụng ví dụ về việc nghe theo lời dạy, tránh khỏi hoạn nạn. Chia làm hai :
– 1 tụng rưỡi nói về con tránh khỏi tai nạn,
– 5 tụng nói về cha được yên lòng. 
Đây là phần đầu. 
“Lập tức cùng đua nhau” : có nghĩa là khuyến khích lẫn nhau. 
“Phóng nhanh ra khỏi nhà” : chỉ sự tinh tiến dũng mãnh. 
“Tới nơi  chỗ đất trống“ (Đáo ư không địa) : có nghĩa là tùy theo sở ứng, lìa được ba chướng, ở địa vị nhị không, tức nhị thừa vô học (địa) và nhập Sơ địa. Có nghĩa là xuất ly được khổ nạn của Phân đoạn tử, vì không còn sinh nữa. 
Quả ác gọi là “khổ ”, nhân ác gọi là “nạn”.
*
-Kinh văn : “Trưởng giả thấy các con”  tới 
                   “Ta nay rất vui mừng”. 
Tán rằng : dưới là 5 tụng, nói về cha cuối cùng được yên lòng. Chia làm hai :
– 1 tụng rưỡi nói về ý thấy thế rồi tự mừng thầm,
– 3 tụng rưỡi nói về ý mừng hết mức liền bảo với người khác. 
Đây là phần đầu. 
“Bốn đường thông nhau”, (tứ cù) : dụ cho lý tứ đế. Con đã ra trụ ở “tứ cù”, cha bèn ngồi trên tòa sư tử, vì được vô uý, vì biểu thị đã yên lòng. Bở vì đoạn dưới nói là :
 “Bấy giờ các người con,
  Biết cha đã an toạ”.
Cho nên “tòa sư tử” là tòa của cha vậy.
Khéo hợp với lòng cha nên nói là “vui mừng” (khoái lạc). 
Người xưa đã được Bồ đề. Kẻ hậu sinh còn ở địa vị tu nhân, cho nên phải nhờ đến thuyết pháp đúng thời để chỉ rõ cho họ biết ý ngài muốn rủ lòng cứu vớt. Trông đợi con, bởi vậy nói là “đứng (lập)”.
Nay con quả mãn, đã ra khỏi nhà lửa, cha đi không còn phải đợi nữa và đã yên lòng, nên nói là “ngồi (tọa)”.
*

-Kinh văn :  “Những đứa con ta đây”  tới 
                   “Bốn phía đều khởi dậy”. 
Tán rằng : dưới là 3 tụng rưỡi nói về ý mừng quá bảo với người khác. Chia làm hai : 
– 2 tụng nói về các con ngày trước ở trong hoạn nạn.
– 1 tụng rưỡi nói rõ ta nay cứu được, thỏa lòng. 
Đây là phần đầu. 
Thiện căn khó khởi lên, thì gọi là “sinh dục thậm nan”. Dục có nghĩa là trưởng dưỡng (nuôi cho khôn lớn). 
Vô minh che lấp lâu, thì thiện căn chẳng lớn, gọi là “ngu nhỏ vô tri”. 
Chìm đắm trong ba cõi thì gọi là “vào nhà nguy hiểm”. Hoặc xưa kia đã được giáo hóa mà nay đều quên, nên gọi là “vì nhỏ nên vào trong nhà lửa”. 
Rong ruổi trong vòng trần tục ví như “có nhiều trùng độc”. 
Ngoại đạo tà học thì ví như “ma quỷ đáng sợ”. 
Phiền não rất nhiều thì ví như “cháy to lửa mạnh”, gặp duyên liền nảy sinh ví như “bốn phía đều khởi dậy”.
*

-Kinh văn : “Mà các con nhỏ này” tới 
                   “Ta nay rất vui mừng”. 
Tán rằng : đây nói rõ ta nay cứu được các con cho nên thỏa lòng, tự thấy vui mừng, lại bảo cho người khác biết cái ý vui sướng của mình.
Trên đây là 53 tụng rưỡi nói về việc ngày xưa thuyết về phương tiện quyền nghi.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ các người con”  tới 
                   “Ba loại xe báu lạ”.
Tán rằng : dưới đây là đoạn thứ hai có 12 bài  tụng về việc nay thuyết về thực thừa. Trường hàng chia làm bốn, nay đây cũng thế :
– 3 tụng đầu : các con đòi ba thứ xe. 
– 1 tụng rưỡi giải thích : chí cha đã thành.
– 6 tụng nói đến ý cha chỉ cho một thứ xe.
– 1 tụng rưỡi : vượt khỏi điều mong muốn của con, vì trước sau khác nhau. 
Phần đầu chia làm hai : 
+ 1 tụng rưỡi đầu nêu rõ các con đòi ba xe. 
+ 1 tụng rưỡi sau nhắc lại điều cha đã hứa trước.
 Đây là phần đầu : thể theo ý cha không còn lo âu, cho nên nói là “biết cha đã an tọa”.
*

-Kinh văn : “Như điều cha hứa trước”  tới 
                  “Xin thương mà cấp cho”. 
Tán rằng : đây là nhắc lại điều mà cha đã hứa trước, cho nên mới dám hy vọng : đúng thời, ứng với căn cơ của người tu học, xin rủ lòng thương mà ban phát cho.
 Chữ “Duy” nghĩa là kính xin. Ý nói kính xin cha. Ngụ ý hy vọng được vận dụng tam thừa.
*
-Kinh văn : “Trưởng giả rất giàu có”  tới 
                   “Làm ra các xe lớn”. 
Tán rằng : đây là phần hai, nói về chí cha đã thành. 
“Trưởng giả rất giàu có” (ví với) kho tàng hữu vi, vô vi rất nhiều, chu cấp cả một nước, vẫn chẳng dùng hết, huống chi các con. Cho nên dùng các thứ châu báu thực sự mà làm xe lớn, có nghĩa là muốn giáo hóa khiến chúng sinh tu tập để được kết quả mỹ mãn. 
Nói tóm lại nhất thiết chủng trí, vô lậu ngũ uẩn là tướng của xe này. Xả bỏ Sắc vô thường mà được Thường sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như vậy. 
Nếu nói chân như là thể của xe này, tức là Bảo sở. Cớ sao lại nói là tạo tác ? Bày đặt Hóa thành để mà giáo hóa cũng có thể nói đó là “do ta hóa làm”. Lẽ nào nói rằng Bảo sở cũng là tạo tác ra. Cho nên xe trâu được đặt ra là để thuyết minh về thể của Bồ đề.
*
-Kinh văn : “Trang sức rất đẹp đẽ”  tới 
                  “Rủ xuống khắp mọi chỗ”. 
Tán rằng : dưới là đoạn thứ ba có 6 tụng, nói về ý cha chỉ cho một thứ (tức nhất Phật thừa). 
Trong đây chia làm bốn phần : 
– 4 tụng nói về trang sức (của xe).
– 1 tụng về tướng trâu. 
– Nửa tụng nói về người tùy tòng.
– Nửa tụng nêu chung về việc cho xe. 
Phần đầu có chín loại trang sức. Đây có sáu loại :
1) Nói chung về trang sức.
2) Lan can xe.
3) Lục lạc treo trên xe. 
4) Các dây rợ chằng chéo. 
5)ø Tàn lọng tua ngù. Đều bằng các lưới trân châu.
*  Chữ [  施  ] đọc âm là Thí.
6)  Tràng hoa dùng hoa vàng mà tô điểm. Cho nên gọi là các tràng hoa vàng, ngoài ra không có gì khác.
*

-Kinh văn : “Các màu điểm xen nhau”  tới 
                  “Dùng trải trùm trên nệm”. 
Tán rằng : đây là ba loại trang sức :
7) Trang sức bằng các lụa màu. 
8) Đệm xe, nói rõ trong xe hai lớp chiếu trải. Tức là trong trường hàng nói là chiếu đệm. 
* Thiết Vận giải thích là : Nhân là Nhục [褥] đều có nghĩa là đệm. “Nhục” : tức là thảo nhục. Là đệm làm hoa văn hình hoa cỏ, có chỗ giải thích là đệm bằng cỏ gọi là Nhân Nhục. 
Chữ [茵] Nhân có chỗ viết là [裀]. Theo Ngọc Thiên, đó là thân áo. Nếu viết là [革因] thì chỉ bằng da hổ, có hoa văn dùng để đệm với xe ở dưới sau ba lớp đệm xe nên viết là [茵褥].
 Chữ [繒] Tăng : là chỉ chung các loại lĩnh, gấm ngũ sắc. Chữ nhục [縟] chỉ loại đệm bằng bông mềm. Đem các loại lĩnh gấm, bông mềm mà làm đệm xe, cho nên biết là đệm thêu hoa văn hình hoa cỏ.
9) “Cửu phú ba” : tức là gối Thế Đan. Văn trường hàng gọi là “Thủ diệt định”. Loại này dùng để dựa vào cho khỏi mỏi. Đây ví với trí dụng thiện xảo ở khắp trên đệm tịnh mệnh. Cho nên ví với trí để che đậy. Vì có điều mong muốn khác, nên cũng không trái ngược nhau. 
Đây có sáu đức : 
1/- Thần dụng vô phương, gọi là Thượng diệu. 
2/- Vi diệu bí mật khó biết, gọi là Tế.
3/- Tích lũy công hạnh, nhân hoa mà có tác dụng, do tu tập mà nên, đó gọi là Điệp. 
* Chữ Điệp [疊毛] đọc là Điệp, sách Thiết Vận giải thích là vải bông mịn (Tế mao bố). Nay chẳng gọi thế. Còn có loại vải điệp hoa dệt thành, gọi là Bạch Điệp. Còn loại dệt bằng lông thì gọi là Hạt [褐].
4/- Hơn hẳn mọi thứ, đức thần khó lường, gọi là “Giá trị ngàn ức”. 
5/- Tự tính trong trắng, gọi là Trắng tinh (thiên bạch). 
6/- Thể lìa hai chướng là Tịnh khiết (trong sạch). 
Sáu đức trên đây là Diệu dụng của Hậu trí. Bao trùm khắp trong tịnh mệnh, ví với “trùm lên trên đệm”. 
*
-Kinh văn : “Có con trâu trắng to”  tới 
                  “Để thắng vào xe báu”. 
Tán rằng : đây là tướng trâu. Có bốn đức :
1) Trâu trắng.
2) Béo khỏe tức là da căng.
3) Sức gân cốt.
4) Đẹp đẽ ngay ngắn.
*
 Kinh văn :- “Có nhiều người tùy tùng”  tới 
                     “Mà ban cho các con”.
Tán rằng : nửa tụng trên là người tùy tùng, nửa tụng dưới là nêu lên việc cho xe. 
* Chữ [儐] đọc là Tấn, nghĩa như chữ [相] Tướng : người giúp việc. Sách Ngọc Thiên giải thích là người hướng dẫn (Đạo [導]). Người ra ngoài để tiếp tân thì gọi là Tấn, người vào trong để giúp lễ thì gọi là Tướng. Thêm nữa, Tấn là người dẫn đường, bẩm trình. Có bản viết thành chữ Tân [檳]. Nay người đi trước dẫn đường thì gọi là Tấn [儐], người theo đằng sau thì gọi là Tòng [從] . 
Tướng mạo của xe được thuyết minh ở trên giống với trường hàng, riêng về số thì khác trước, tùy theo văn cảnh mà hiểu. Các độc giả nên lần lượt đối chiếu với trường hàng mà giải thích. Nay sợ rườm rà, nên dừng.
*
-Kinh văn : “Các con lúc bấy giờ”  tới 
                   “Tự tại không ngăn ngại”. 
Tán rằng : đây là ý thứ tư : vượt điều mong muốn của con. 
“Rong chơi khắp bốn phương” ví với việc giáo hóa bốn loại chúng sinh. Vì được trí giác nên “chơi đùa”. Vì được lý diệt cho nên “sung sướng”. Vì được thần thông cho nên “tự tại”. Lìa được các chướng cho nên “vô ngại”. 
Tự tại có mười thứ :  l
1. Tài (của cải).          2. Tâm. 
3. Thọ.                      4. Nghiệp.
5. Sinh.                     6. Thắng giải. 
            7. Nguyện.                 8. Thần lực. 
9. Pháp.             10. Trí.
như đã thuyết minh ở các chỗ khác. 
Lại có bốn tự tại :  l
1) Tướng.      2) Thổ. 
3) Trí.          4) Nghiệp. 
nay đều đạt được cả.
Trên đây là 65 tụng rưỡi, tụng về Dụ thuyết.
*
-Kinh văn : “Bảo Xá Lợi Phất này !”  tới 
                  “Cha lành của thế gian” .
Tán rằng : dưới đây là 18 tụng, tụng về Hợp thuyết. Cũng như trên, đây chia làm hai phần :
– 11 tụng hợp thuyết xưa là quyền (thừa). 
– 7 tụng hợp thuyết nay là thực (thừa)
Trong phần xưa là quyền (thừa), có bốn ý :
+ 1 tụng hợp thuyết ba cõi đều có Phật 
+ 3 tụng hợp thuyết năm nẻo (ngũ thú) nguy vong. 
+ 5 tụng rưỡi hợp thuyết thấy (chúng sinh khổ) bèn đặt ra phương tiện quyền nghi.
+ 1 tụng rưỡi hợp thuyết y theo lời dạy, tránh khỏi tai nạn. 
Đây là văn phần đầu, ý giống như đã giải thích trong phần trường hàng ở trước.
*
-Kinh văn : “Hết thảy các chúng sinh”  tới 
                  “Không có chút tuệ tâm”. 
Tán rằng : dưới là ý thứ hai, có 3 tụng hợp thuyết năm nẻo nguy vong. Chia làm ba phần :
– 1 tụng hợp thuyết người đông, các con du cư trong thế gian, hạng vô chủng tính, vì dẫu chẳng giống như con đẻ, nhưng cũng là con nuôi.
– 1 tụng hợp thuyết nhà cửa mục nát nguy hiểm.
– 1 tụng hợp thuyết các phương tai hoạ khởi lên.
Đây là phần đầu.
Vì đắm trước dục lạc thế gian quá sâu (thâm trước thế lạc), nên khởi lên điều ác rất sâu. 
Cũng có bản chép là “thâm trước ngũ dục”. Lấy bản đầu làm chính, vì thông cả ba cõi. 
“Không có chút tuệ tâm” : có nghĩa là không có thiện ý.
*
-Kinh văn : “Ba cõi đều không yên”  tới 
                  “Cháy dữ chẳng tắt dứt” .
Tán rằng : 
– Đầu tiên là một tụng nói về nhà cửa mục nát nguy hiểm, năm uẩn đều bị bốn khổ bức bách, biến đổi tàn tạ. 
– Sau đó là một tụng nói về các phương đều có tai họa khởi lên khắp trong bốn vị Sinh, Lão, Bệnh, Tử đều bị lửa mạnh phiền não thiêu đốt. 
* Chữ [  熾  ] đọc là Xí : có nghĩa là Thịnh (mạnh, vượng).
*
-Kinh văn : “Đức Như Lai đã lìa”  tới 
                  “Ởû yên nơi rừng  ruộng”. 
Tán rằng : dưới đây là ý thứ ba, có 5 tụng rưỡi, hợp thuyết về thấy chúng sinh khổ bèn đặt ra phương tiện quyền nghi. Có ba phần :
– 3 tụng đầu, hợp thuyết về thấy chúng sinh khổ, xót thương chúng sinh.
– 1 tụng hợp thuyết về (việc Phật) khai thị đại thừa, chúng sinh chẳng muốn.
– 1 tụng rưỡi cuối hợp thuyết về (việc Phật) chính thuyết tam thừa. Cứu giúp một cách vô tư (vô tư phương bạt tế).
Phần đầu lại chia làm ba :
+ 1 tụng đầu thuyết minh về tự mình ra khỏi nhà.
+ 1 tụng nói rõ nhà thuộc về ta.
+ 1 tụng nói rõ sức mình có thể.
Đây là phần đầu. 
Chứng Niết bàn, cho nên “vẳng lặng” (tịch nhiên). Ra khỏi vòng sinh tử, cho nên “nhàn rỗi, ở không” (nhàn cư). 
Thường tại trong định, cho nên rất là phóng khoáng. “Ở yên nơi rừng ruộng” : vì định ấy là rừng công đức. Như có bài tụng nói rằng :
Voi chúa ở đồng rộng.
Phóng khoáng lòng không lo.
Trí giả ở núi rừng.
Tiêu dao vui vẳng lặng.
*
-Kinh văn : “Hiện nay ba cõi này”  tới 
                  “Đều là con của ta”. 
Tán rằng : nhà thuộc về ta, chúng sinh đều là con ta.
*
-Kinh văn : “Mà nay ba cõi này”  tới
                  “Có thể cứu hộ được”. 
Tán rằng : đây là nói sức mình có thể, chứ chẳng phải ai khác có thể.
*
-Kinh văn : “Dẫu lại dạy dỗ nữa”  tới 
                  “Bởi vì tham trước sâu”. 
Tán rằng : một tụng hợp thuyết về khai thị đại thừa, mà chẳng muốn. 
“Giáo” nghĩa là huấn. “Chiếu” là soi sáng (minh).
Tuy giáo huấn rõ ràng mà (chúng sinh) chẳng tin đại thừa vì đam trước dục lạc quá sâu. 
* Có người nói : từ Giáo chiếu [教 詔 ]vốn là Giáo chiêu [ 教 招] và Chiêu có nghĩa là dụ [誘] (dỗ dành), vì dẫn dụ dạy bảo rõ ràng.
*
-Kinh văn : “Bởi vậy nên phương tiện”  tới
                   “Đạo pháp xuất thế gian”. 
Tán rằng : đây là hợp thuyết về việc Phật chính thuyết tam thừa.
*
-Kinh văn : “Các người con này đây”  tới 
                   “Hoặc Bất thoái Bồ tát”. 
Đây là ý thứ tư : hợp thuyết về chúng sinh y theo lời dạy, tránh khỏi tai nạn. 
“Tâm quyết định” : có nghĩa là chẳng nghi tứ đế, chứng được chân đế. 
“Có đủ sáu thần thông” : đó đắc quả A la hán, còn hai quả khác có thể biết được. 
Luận nói : “Bất thoái” là bậc trụ Sơ địa trở lên, xuất ly Phân đoạn sinh.
“Tam minh” gồm : 
– Túc mạng minh.
– Thiên nhãn minh.
– Lậu tận minh. 
Cứ theo thứ tự mà có thể biết được ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại, trừ được sự ngu si ba đời, những điều hiểu biết là thắng trội, cho nên chỉ riêng ba thứ này gọi là Tam minh.
*
-Kinh văn : “Này ông Xá Lợi Phất”  tới 
                   “Được trọn thành Phật đạo”. 
Tán rằng : dưới đây có 7 tụng hợp thuyết về nay Phật thuyết  thực thừa. Chia làm hai :
– 2 tụng hợp thuyết : cha chỉ có một.
– 5 tụng tán thán công đức của thừa thắng trội. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Phật thừa này vi diệu”  tới 
                  “không có gì cao hơn”. 
Tán rằng : dưới đây là 5 tụng tán thán đức của thừa. Chia làm bốn :
• 1 tụng tán thán bốn đức của thừa. 
• 1 tụng điều tán thán của thánh. 
• 1 tụng nói về toàn bộ các món vui thích. 
• 2 tụng nói về điều vui đệ nhất. 
Đây là phần đầu : nêu bốn đức :
1) Vi diệu, vì rất thắng trội.
2) Thanh tịnh, vì lìa chướng.
3) Đệ nhất, vì là trội nhất.
4) Vô thượng, vì không gì hơn được.
*
-Kinh văn : “Là thứ Phật ưa thích”  tới 
                   “Và cúng dàng lễ bái”. 
Tán rằng : đây là thứ mà thánh khen ngợi. Chẳng những Phật ưa mà khen ngợi, mà còn có thể khiến chúng sinh ba nghiệp (tức là chúng sinh trong ba cõi) đều hướng về nương tựa (quy y).
* Tam nghiệp : ba cõi.
1. Phước nghiệp : nghiệp chiêu cảm thiện quả cõi Dục.
2. Phi phước nghiệp : nghiệp chiêu cảm ác quả cõi Dục.
3. Bất động nghiệp : nghiệp chiêu cảm thiện quả cõi Sắc và cõi Vô sắc.
*
-Kinh văn : “Đến vô lượng ức thiên”  tới 
                   “Cùng pháp khác của Phật”.
Tán rằng : đây là tụng về toàn bộ các món vui thích.
*
-Kinh văn : “Đắc được thừa như vậy”  tới 
                  “Mà thẳng tới đạo tràng”. 
Tán rằng : đây là tụng niềm vui đệ nhất. 
Ngày đêm kiếp số thường được chơi đùa. Ba thừa đều lên Sơ địa trở lên, nhờ chủng trí nhất thừa này trải qua hai A tăng kỳ mới tới Phật vị. Nếu người nhị thừa nhờ Vô lậu giáo cùng Hữu lậu thừa thì phải mất một đại A tăng kỳ mới nhập Sơ địa. Như vậy gọi chung là “ngày đêm kiếp số”. 
Ba loại ý sinh thân do nhờ nhất thừa quý báu vô lậu này mà thẳng tới đạo tràng là ngôi vị của Phật, Bồ đề, Niết bàn, Uẩn sinh đạo xứ, đó gọi là đạo tràng.
Hoặc nhờ nhân thừa chủng trí mà tới đạo tràng đại bát Niết bàn trong Phật vị. Hoặc tới đạo tràng chân như Phật quả. Đấy chính là nhân thừa mới tới quả thừa. 
Do đó những điều tổng thuyết về Giáo Lý Hạnh Quả ở trên đều là thừa thể.
*
-Kinh văn : “Vì bởi nhân duyên này”  tới 
                   “Trừ Phật dùng phương tiện”. 
Tán rằng : đây là tụng về lời văn kết đáp ở đoạn lớn thứ ba trong trường hàng.
Cần phải biết rằng chư Phật dùng sức phương tiện đối với một Phật thừa mà phân biệt  thuyết ba (thừa). 
Vì lý đã thuyết minh ở trên đó, mà cho dù có tìm thật kỹ ở khắp các cõi mười phương cũng không có cái thể của nhị thừa. Trừ Phật phương tiện giáo thuyết có ba (thừa), cũng không hề có cái thể cực quả của ba (thừa), trừ thuyết về nhân của nó thì phương tiện có ba.
 

*
-Kinh văn : “Bảo Xá Lợi Phất rằng”   tới 
                   “Khiến ra khỏi ba cõi”. 
Tán rằng : đây là đoạn văn lớn trong chính dụ giáo hóa. Có ba. 
Trên đây đã tóm tắt chỉ rõ lý do Phật đáp là hứa sẽ thuyết giáo và chính thuyết pháp dụ khiến họ hiểu rõ. 
Dưới đây là đoạn thứ ba có 80 tụng rưỡi, tụng về ý khuyên tín giải kinh này, ưa Phật trí tương lai. Có hai phần : 
– 14 tụng rưỡi nói rõ : pháp có quyền thực, khiến họ bỏ quyền lấy thực. 
– 66 tụng chỉ rõ cái sai cái đúng của con người, khiến họ học cái đúng trừ cái sai. 
Trong phần đầu lại có hai : 
+  2 tụng nói rõ cha con tình sâu, thấy con khổ thì hay cứu. 
+ 12 tụng rưỡi chính thức nói rõ quyền thực khiến họ lấy thực bỏ quyền. 
Đây là phần đầu. 
* Chữ [累] đọc là Lũy, có nghĩa là tích lũy.
*
-Kinh văn : “Ta dẫu ngày trước nói”   tới 
                   “Chỉ có Phật trí tuệ”. 
Tán rằng : dưới là 12 tụng rưỡi chính thức nói rõ về quyền thực, khiến bỏ quyền lấy thực. Trong đó có hai : 
• 1 tụng rưỡi nêu chung về xưa là quyền nay là thực. 
• 11 tụng thuyết minh riêng về nay thực, xưa quyền. 
Đây là phần đầu.
Ta tuy trước nói các ngươi sẽ diệt độ, chỉ là có thể hết được Phân đoạn sinh tử đó để được Niết bàn, hậu hữu chẳng còn tiếp tục. Còn Biến dịch sinh chẳng phải là do biệt nghiệp chiêu cảm, vì chẳng gây chướng ngại cho hạng Vô học nhập vô dư Niết bàn. Ở đây giấu đi chẳng nói : “sự diệt độ của các ngươi thực ra chẳng phải là đại bát Niết bàn, chẳng phải thực sự diệt độ”. 
Thứ mà các ngươi cần tu tập thêm chỉ là Phật trí tuệ mà tính là pháp thân, tướng là đại tuệ; vì trí chứng lý cho nên hai chướng chẳng sinh, bèn được giải thoát. Gọi là đại Niết bàn vì ba sự đầy đủ.
*
-Kinh văn : “Nếu có Bồ tát nào”  tới 
                  “Đều là Bồ tát cả”. 
Tán rằng : dưới đây là 11 tụng nói về nay thực, xưa quyền. Trong có hai phần : 
• 9 tụng rưỡi thuyết minh về nay là thực, xưa là quyền. 
• 1 tụng rưỡi là kết luận. 
Phần đầu lại có hai ý :
– 2 tụng đầu nói rõ nay là thực (thừa).
– 7 tụng rưỡi sau nói xưa là quyền (thừa). 
Đây là ý đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu có người tiểu trí”   tới 
                   “Chân thực không sai khác”. 
Tán rằng : dưới đây là 7 tụng rưỡi nói rõ xưa là quyền. Trong đó có hai phần :
– 6 tụng đầu thuyết minh về quyền tứ đế.
– 1 tụng rưỡi sau giải thích về đắc quyền xứ. 
Phần đầu có bốn ý : 
+ 2 tụng về khổ đế. 
+ 1 tụng rưỡi nói về tập  đế.
+ 1 tụng rưỡi nói về diệt đế.
+ 1 tụng nói về đạo đế. 
Đây là phần đầu.
Kẻ chấp trước sâu về ái dục, thì sở ái là nội thân, sở dục là ngoại cảnh, đều là khổ đế. 
Tụng đầu nói về khổ đế, ý nói chẳng bỏ thế đế mà nhập chân đế. 
Tụng sau nói về “chúng sinh hoan hỉ”, bởi vì được nhập thánh, được pháp chưa từng có (đắc vị tằng hữu). 
“Đức Phật thuyết khổ đế,
Chân thực không khác”
Giải thích khổ là đế, đế có nghĩa là thực. 
Kinh Di Giáo nói : Phật thuyết khổ đế chẳng thể khiến cho sung sướng vì đó thực sự là khổ.
*
-Kinh văn : “Nếu có các chúng sinh”   tới 
                   “Mà phương tiện thuyết đạo”.
Tán rằng : đây  là tập đế. 
“Khổ nhân (nguyên nhân của khổ)” : là tập đế, là  nghiệp, phiền não vậy. 
“Đạo” có nghĩa là nhân, tức là thể tập đế, vì là khổ đế nhân. Đoạn tập thì gọi là đạo đế. 
*
-Kinh văn : “Nguyên nhân của các khổ”   tới 
                   “Gọi là đế thứ ba”. 
Tán rằng : đây là diệt đế. 
“Tham” là gốc khổ. Gốc còn tồn tại thì khổ nảy sinh. Nếu diệt gốc tham, thì quả khổ sẽ diệt. Chỗ nó y chỉ là khổ quả thân. Để diệt tập khổ, nên thuyết diệt đế.
*
-Kinh văn : “Vì  để chứng diệt đế”   tới 
                  “Gọi là được giải thoát”. 
Tán rằng : đây là đạo đế, 
Do đạo chứng diệt, vì “lìa khổ phược” nên gọi là chứng Niết bàn,” được giải thoát”.
*
-Kinh văn : “Người đó ở nơi đâu”   tới 
                   “Giải thoát hẳn hết thảy”.
Tán rằng : đây là giải thích về đắc quyền xứ. 
Hai câu đầu là hỏi. Bốn câu sau là đáp. 
Cứ lìa hư vọng phiền não, nghiệp, khổ, phân đoạn sinh tử, thì gọi là được giải thoát, vì chứng được Hữu tác Tứ thánh đế. Chưa được tới mức hai chướng, hai nghiệp, hai tử thảy đều diệt tận. 
“Giải thoát hẳn hết thảy” (nhất thiết giải thoát) làchứng nhập Pháp không trí (tức là đạo đế) của Vô tác Tứ thánh đế. 
“Hữu tác tứ đế” gồm :  a
  – Phân đoạn sinh tử là khổ đế.
  – Nghiệp, phiền não là tập đế.
  – Hữu Vô dư Niết bàn là diệt đế.
  – Sinh không trí phẩm là đạo đế. 
 “Vô tác tứ đế” gồm : a
  – Biến dịch sinh tử là khổ đế.
  – Sở tri chướng là tập đế.
  – Vô trụ Niết bàn là diệt đế.
  – Pháp không trí phẩm là đạo đế. 
Cho nên Kinh Thắng Man nói rằng : “Tám thánh đế như vầy chẳng phải là điều mà các hạng Thanh văn, Duyên giác biết được.
*
-Kinh văn : “Phật nói rằng người này”  tới 
                  “khiến họ tới diệt độ”. 
Tán rằng : đây là kết luận thứ hai trong phần thuyết minh về nay thực, xưa quyền.
 Ý này có hai :
1) Phật nói nhị thừa trụ quyền, chưa thực diệt độ, vì người ấy chưa được đạo Vô thượng.
2) Ý ta cũng chẳng muốn khiến cho kẻ nhị thừa trụ quyền ấy lập tức tới được vô dư diệt độ. 
Ý nói muốn khiến họ tranh thủ đạo Vô thượng đại bát Niết bàn. Chẳng khiến hạng trụ quyền ấy được cứu cánh Diệt ngay.
Trên đây là 14 tụng rưỡi, thuyết minh về vấn đề quyền thực của pháp, khiến bỏ quyền, lấy thực.
*
-Kinh văn : “Ta là đấng pháp vương”   tới 
                   “Nên hiện ở thế gian”. 
Tán rằng : dưới đây là 66 tụng chỉ rõ sự đúng sai của con người, khiến học cái đúng, trừ cái sai. Chia làm bốn phần :
– 2 tụng rưỡi đầu nói rõ ta biết căn khí, bởi vậy có thể thuyết. Các ngươi chẳng biết, chớ tuyên truyền bậy.
– 8 tụng sau nói rõ người tin thì ngôi cao, đều vun trồng gốc đức đã lâu.
– 36 tụng rưỡi nói về tội tướng của người vô trí chẳng tin.
– 19 tụng : đối với người có trí thì nên thuyết cho họ. 
Trong phần đầu lại có hai :
• 1 tụng : ta biết căn khí, bởi vậy có thể thuyết được.
• 1 tụng rưỡi nói về các ngươi chẳng biết, chớ tuyên truyền bậy. 
Đây là phần đầu. 
“Là pháp vương” cho nên thông hiểu biết rõ thuốc, bệnh … 
“Tự tại nơi các pháp” phân biệt rõ pháp dược, “làm cho chúng sinh an ổn”, phân biệt biết rõ căn khí, có khả năng thuyết pháp ứng với căn cơ, “cho nên xuất hiện ở thế gian” .
*
-Kinh văn : “Này ông Xá Lợi Phất”   tới 
                   “Chớ có tuyên truyền bậy”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về ý các ngươi chẳng biết, chớ tuyên truyền bậy.
* “Pháp ấn” : có nghĩa là diệu lý nhất thừa ấn đại thừa giáo, vì khiến quyết định. 
Ta vì lợi ích, nên thuyết ấn này. Các ngươi đã chẳng biết thuốc cùng với bệnh, thì chớ tuyên truyền bậy vì sợ sẽ sinh họa.
*
-Kinh văn : “Nếu có ai được nghe”  tới 
                  “Là A bệ bạt trí”. 
Tán rằng : dưới là ý thứ hai có 8 tụng : người tin thì ngôi cao, đều trồng gốc đức lâu ngày. Trong có sáu ý : 
1) Một tụng : ngôi cao năng tín. 
2) Một tụng rưỡi : nói về duyên đi gặp Phật, đã từng được nghe nên mới tin. 
3) Một tụng rưỡi : nếu có ai có thể tin tưởng điều mà ngươi thuyết thì cũng giống như đã gặp ta. 
4) Một tụng : nói về trí sâu có thể tin tưởng, còn thức nông thì chẳng thể. 
5) Một tụng : nói về loại quyết định tính nhị thừa chẳng thể tin tưởng. 
6) Hai tụng cuối nói về loại bất định tính nhị thừa mới thuận theo sinh tín. 
Đây là phần đầu.
Có người nào nghe kinh này tâm sinh hoan hỉ, cả thân lẫn tâm đều đỉnh lễ cung kính mà tin tưởng, thì nên biết rằng người đó đã trụ ở địa vị bất thoái.
“A bệ bạt trí”, ở phương đây dịch là bất thoái (chẳng lùi). Còn có bản viết là A duy việt trí, A tỳ bạt trí. Theo A bệ bạt trí, coi đó là đúng, các âm khác đều sai. 
Bốn bất thoái : Tín, Vị, Chứng, Hành, tất cả đều bất thoái, vì căn cơ đã chín muồi.
*
-Kinh văn : “Nếu có ai tín thụ”   tới 
                  “Cũng được nghe pháp này”. 
Tán rằng : đây là ý thứ hai : duyên xưa gặp Phật, đã từng được nghe nên mới tin tưởng, vì có túc nhân.
*
 Kinh văn :- “Nếu người nào có thể tin những điều ngươi nói”  tới  “cùng các hàng Bồ tát”. 
Tán rằng : đây là ý thứ ba : nếu tin lời ngươi nói, thì là nhìn thấy thân ta, vì Tỳ kheo, Bồ tát, Tam bảo không khác, vì Tam bảo đồng thể. 
Nếu là biệt thể thì ắt trực tiếp thấy, tức là thấy ngươi.
Chúng ta đều muốn khiến họ đều được nghe pháp này, vì lý không khác.
*
-Kinh văn : “Nói Kinh Pháp Hoa này”  tới  “mê hoặc chẳng hiểu được”. 
Tán rằng : đây là ý thứ tư : trí sâu thì có thể tin tưởng vì lý thâm diệu.
Nhận thức nông cạn thì chẳng thể tin được. Đó là nói hạng phàm phu ngu si.
*
-Kinh văn : “Hết thảy hàng Thanh văn”  tới 
                   “Sức kia chẳng hiểu được”. 
Tán rằng : đây là ý thứ năm : đây là điều mà hạng quyết định nhị thừa chẳng thể hiểu được vì trái với bản tâm.
Kẻ chẳng ngu về pháp thì có thể tin về nghĩa, nhưng không thuận tu hành.
*
-Kinh văn : “Chính ngươi Xá Lợi Phất”   tới
                   “Chẳng phải trí của mình”. 
Tán rằng : đây là ý thứ sáu : Bất định tính nhị thừa mới thuận sinh tín. 
Ngươi là loại tối thượng căn mà còn dùng lòng tin, tin lời ta mới dần dần chứng nhập, huống chi là hạng Thanh văn bất định tính. Bồ tát nghe pháp đó có thể ngẫm nghĩ lựa chọn mà nhập. 
* Chữ [尚] là phiên thiết của Thường lưỡng. Ngọc Thiên đọc là Thượng, có nghĩa là “ngõ hầu, vả lại”.
*

-Kinh văn : “Lại nữa Xá Lợi Phất”   tới 
                  “Thì chớ thuyết kinh này”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba gồm 36 tụng rưỡi, nói về tội tướng của hạng vô trí chẳng tin. Có hai phần :
• 2 tụng đầu nói về hạng phàm phu ngoại đạo nếu có bảy điều ác thì đừng thuyết cho họ.
• 34 tụng rưỡi sau nói về tướng ác nhân ác quả trong việc nếu thuyết cho họ mà họ chẳng tin. 
Trong phần đầu có hai ý :
– 1 tụng ý nói : nếu có đủ bốn điều ác thì chớ thuyết cho.
– 1 tụng ý nói : có đủ ba điều ác cũng đừng thuyết cho. 
Đây là phần đầu. Bốn điều ác gồm : 
1/ Kiêu : cậy vào chủng tính, sắc lực, thông minh, của cải mà say sưa phóng dật.
2/ Mạn : có đủ bảy mạn để lấn lướt người khác, ít đức nói là nhiều đức. Như bọn 5.000 người thoái tịch. 
3/ Giải đãi (lười nhác) : phóng dật, phóng túng, du đảng mãi không chán. 
4/ Ngã kiến : hạng ngoại đạo.
Nếu ai rất ghét cảnh sinh tử, thiết tha mong cầu xuất ly thế gian, tự mình nhún nhường tôn trọng người khác, khiêm tốn, yêu pháp, siêng năng chẳng phóng dật, trừ hoặc, quán vô ngã, tin theo kinh này, thì mới nên thuyết cho họ. 
Nếu đủ bốn ác thì chẳng nên thuyết cho họ. Dưới đều theo đúng như vậy thì có thể biết.
*
-Kinh văn : “Hạng phàm phu thức cạn”  tới 
                   “Cũng đừng thuyết cho họ”. 
Tán rằng : đây có ba điều ác :
1) Kiến thức nông cạn lại giả bộ thông minh, thức đạt chẳng xa.
2) Chấp trước quá sâu vào ngũ dục. Tức là hạng tại gia say đắm ngũ dục, thân tâm phiền não nặng.
3) Nghe mà chẳng thể hiểu nổi, đó là hạng phàm phu ngu độn vô chủng tính và hạng nhị thừa định tính ngu pháp.
Nếu là các hạng như trên thì chớ có thuyết cho họ.
*
-Kinh văn : “Nếu có người chẳng tin”  tới 
                   “Thế gian Phật chủng vậy”. 
Tán rằng : dưới đây là 34 tụng rưỡi nói về tướng ác nhân ác quả nếu như thuyết cho họ mà trong lòng họ chẳng tin. Có hai phần : 
• 4 tụng rưỡi ý nói : vì chẳng tin cho nên gây thành ác nhân. 
• 30 tụng nói về vì chẳng tin cho nên phải chịu ác quả. 
Phần đầu chia làm hai phần :
– 1 tụng ý nói : vì chẳng tin cho nên thiện diệt,
– 3 tụng rưỡi nói về vì chẳng tin cho nên ác sinh. 
Đây là phần đầu. 
Diệt nhân hữu lậu thì gọi là đoạn thế gian chủng. Diệt nhân vô lậu thì gọi là đoạn Phật chủng. Do tin lý này, đầu tiên là huân đúc hữu lậu thiện chủng tử, cho nên sinh ở cõi người cõi trời, được hưởng thù thắng diệu lạc, bồi dưỡng nên Vô lậu pháp nhị chủng tử, sau đó dần dần gia nhập hàng ngũ các bậc thánh. 
Vô lậu mới sinh phát triển dần dần  cho tới khi thành quả Phật. Cho nên, nếu tin kinh này thì :
+ Gần thì thành cái nhân của cả cõi người cõi trời. Thuộc về thế gian. 
+ Xa thì thành Phật nhân. Sau này thành Phật lợi lạc vô biên. 
Nếu tự mình chẳng tin, hủy báng kinh này, gây chướng ngại chẳng cho lưu hành, khiến người khác chẳng tin kinh này, thì há chẳng phải là đoạn hai loại chủng đó ư  ? (hai loại chủng : chỉ thế gian chủng và Phật chủng). Bởi vì đó chính là chọc mù con mắt của người, của trời, hoặc là đoạn hết thảy Phật chủng của thế gian, tổn phá vô lậu chủng tử pháp. 
Do đó kinh nói rằng : nếu có ai khuyến phát Bồ đề tâm thì Phật chủng chẳng đoạn. Cho nên phỉ báng kinh này là đoạn Bồ đề tâm, gọi là đoạn Phật chủng. Pháp chẳng thực hành, cho nên gọi là đoạn Pháp chủng. Đã chẳng phát tâm, chẳng chứng thánh đạo, thì cũng gọi là đoạn Tăng chủng. Nay thuyết theo thứ trội nhất, nên chỉ nói là đoạn Phật chủng.
*
-Kinh văn : “Hoặc có kẻ cau có”   tới 
                  “Kinh điển như thế này”. 
Tán rằng : dưới đây là 3 tụng rưỡi nói về ý : vì chẳng tin, nên ác sinh. Có hai ý : 
• 2 tụng đầu nói về vì chẳng tin ở pháp, đã khởi ba nghiệp ác. 
• 1 tụng rưỡi sau nói về vì chẳng tin ở người, đã khởi tứ ác hành. 
Đây là phần đầu. 
* “Cau có” (Tần xúc) : là tướng thể hiện bản thân chẳng tin. Nếu là cau mày thì Tần viết là [顰]. Nay viết là [頻] có nghĩa là cau mày nhiều lần. Cũng có nghĩa như Tính [併] (chập vào nhau, gộp vào nhau), nghĩa là lông mày chập một chỗ. 
Chữ [蹙] đọc là Xúc, có nghĩa là sát vào. Cũng viết [    ]    là tướng thể hiện tâm trạng chẳng tin kẻ nghi hoặc, là tướng thể hiện lời lẽ chẳng tin của kẻ phỉ báng. 
Đoạn kinh này lẽ ra phải nói là : 
“Dù Phật còn tại thế,
Hay sau khi  diệt độ, 
Nếu có kẻ phỉ báng,
Kinh điển như thế này,
Hoặc có kẻ cau có,
Mà ôm mối nghi hoặc, 
Ngươi hãy nghe ta nói,
Tội báo của kẻ đó”. 
Trong văn có sự đảo lộn (trật tự câu văn).
*
-Kinh văn : “Thấy có ai đọc tụng”  tới 
                   “Ngươi nay lại lắng nghe”. 
Tán rằng : đây là mục nói về chẳng tin người thì sẽ khởi tứ ác hành. 
Thấy bốn loại người : 
1. Đọc,            2. Tụng, 
3. Chép,          4. Trì, 
kinh này mà chẳng tin rồi khởi ác hành.
 Nếu nói gộp tất cả thì có tới mười loại người thực hành mười loại pháp hành. Thấy những người này mà chẳng tin rồi khởi muời ác hành. Trong này tóm lược, cho nên chỉ nêu khởi tứ ác hành đối với bốn loại người “độc, tụng, thư, trì thử kinh”. 
“Tứ ác hành” gồm : 
1. Khinh rẻ.      2. Ghét 
3. Ghen.           4. Hằn thù (kết hận). 
Chỉ nói sơ qua bốn loại nhân gây tội nhẹ nhất này. Thực ra còn đánh mắng, chém giết, chằng trói, cướp đoạt, phỉ báng, nói xấu, tức giận, làm hại v.v… đều là các loại nhân gây tội nặng, nhưng lược đi chẳng nêu. 
Hãy nghe về quả báo của các loại tội đó.
*
-Kinh văn : “Người đó mệnh chung”  tới 
                   “Cho tới vô số kiếp”. 
Tán rằng : dưới đây là 30 tụng nói về tướng thụ khổ quả, vì chẳng tin tưởng. Chia làm hai phần : 
• 28 tụng nói về quả bất tín. 
• 2 tụng là kết luận. 
Phần đầu lại có hai ý : 
– Đầu là 22 tụng nói về tướng lần lượt trải qua ba nẻo, thụ quả dị thục; 
– Sau là 6 tụng nói về tướng trải chung bốn nẻo, thụ hai quả Tăng thượng và Đẳng lưu.
Trong ý đầu này lại chia làm ba :
+ 1 tụng rưỡi : Thụ địa ngục quả tướng.
+ 10 tụng rưỡi : Thụ súc sinh quả tướng.
+ 10 tụng : Thụ nhân trung quả tướng. 
Chẳng nói đến Ngạ quỷ, vì Ngạ quỷ phần nhiều do tham sinh. Kẻ chẳng tin kinh này sinh tham thì ít, cho nên lược đi chẳng thuyết. Thực ra không phải là không có, văn dưới cũng có. 
Quyển một trước đây đã nói năm nẻo được phân biệt bằng 6 môn. Trên đã giải thích 3 môn : 
1) Danh. 
2) Thể. 
3) Khai hợp. 
Nay phân tích thêm 3 môn còn lại : 
4) Xứ sở. 
5) Quả tướng. 
6) Thọ lượng. 

XỨ SỞ
XỨ SỞ CỦA NẺO ĐỊA NGỤC
Xứ sở của nẻo địa ngục, tức là địa ngục, tiếng Phạm gọi là Nại lạc ca. Có ba loại : 
A. Căn bản ;   B. Cận biên.   C. Cô độc. 
A. Địa ngục Căn bản : 
Tức là Bát nhiệt, Bát hàn. 
I. Địa ngục Bát nhiệt :
1) Đẳng hoạt. 5) Đại hào khiếu.
2) Hắc thằng. 6) Thiêu nhiên.
3) Chúng hợp. 7) Cực thiêu nhiên.
4) Hào khiếu. 8) Vô gián.
II. Địa ngục Bát hàn :
1) Bào. 5) Hổ hổ hoàn.
2) Bào liệt. 6) Thanh liên hoa.
3) Yết tích cô. 7) Hồng liên hoa.
4) Hách hách hoàn. 8) Đại hồng liên hoa.
III. Vị trí của Bát nhiệt, Bát hàn :
Phía dưới đây cách ba vạn hai ngàn du thiện na có ngục Đẳng hoạt. Dưới Đẳng hoạt bốn ngàn du thiện na có ngục Hắc thằng v.v… cả thảy bảy loại địa ngục. Cứ như vậy sáu nại lạc ca ở dưới đều cách nhau hai ngàn do tuần. 
Còn Bát hàn địa ngục đều nhỏ hơn Bát nhiệt địa ngục. 
Các ngục nói trên đều là căn bản địa ngục. Có nghĩa là còn rất nhiều loại địa ngục, bởi vì các loại địa ngục trên dưới trùng điệp.
Tính sơ qua thì đáy ngục Vô gián cách mặt đất tất cả là 12 vạn 8 ngàn do tuần. Ở đây giải thích chẳng phải như thế. Núi Diệu Cao cách phía dưới nước, chỉ nói là 8 vạn, tức ở kim luân, hẳn chẳng thể thế. 
Có chỗ giải thích rằng : phía dưới đây cách 3 vạn 2 ngàn do tuần có ngục Đẳng hoạt. Dưới Đẳng hoạt cách bốn ngàn (do tuần) có bảy ngục còn lại. Bảy ngục còn lại chẳng phân trên dưới mà cùng ngang hàng.
Ngục Sơ hàn ngang cùng Đẳng hoạt. Bên dưới Sơ hàn cách hai ngàn (do tuần) có bảy Hàn còn lại. Bảy Hàn cũng cùng ngang nhau, chẳng phân trên dưới. Tám địa ngục ấy rộng mười ngàn do tuần, chẳng nói trên dưới. 
Du Già chỉ nói : “dưới (nơi) đây ba vạn hai ngàn có ngục Đẳng hoạt. Dưới Đẳng hoạt bốn ngàn có các Na lạc ca khác. Sơ hàn ở cạnh Đẳng hoạt. Dưới đây (cách) hai ngàn có các Hàn na lạc ca khác. Na lạc ca xứ rộng mười ngàn”. Chẳng nói riêng trên dưới cách nhau đến bốn ngàn và mỗi một địa ngục đều (rộng) mười ngàn. 
Cho nên theo Tỳ Bà Sa luận có hai thuyết. Còn Câu Xá thì lại nói rằng : dưới quá hai vạn (do tuần) là tới đáy (ngục) Vô gián, rất là nông gần.
B. Địa ngục cận biên : 
Tức là bên ngoài cửa ngục Bát nhiệt đều có bốn cửa, Câu Xáù gọi đó là 16 Tăng : chỉ các (ngục) Đường ôi, Thi phân, Phong nhẫn, Liệt hà…. 
C. Địa ngục cô độc : 
Tức là một hoặc nhiều chỗ thụ tội trong núi, ngoài đồng, dưới cây, trên không. Loài bàng sinh vốn ở biển cả, trôi dạt đi ở chỗ khác. 
Kinh Chính Pháp Niệm nói : phía dưới cách 500 do tuần có nước của Diệm ma vương, sau trôi đi chỗ khác. 
Loài người ở bốn đại châu, bốn trung châu, mỗi thứ mỗi loại đều có 500 tiểu châu để làm quyến thuộc.
Loài trời thì ở Lục dục, Sắc giới, Vô sắc giới. Tứ đại thiên vương chúng thì ở tầng bậc thứ tư lại lưng chừng núi Diệu Cao. Câu Xá nói là trụ ở chỗ đầu đỉnh Diệu Cao. Tam thập tam thiên trụ tại đỉnh núi Diệu Cao. Các trời khác thì dần dần theo thứ tự trụ ở không trung phía bên trên. 
Đỉnh núi Tu Di trở xuống cách 8 vạn du thiện na. Các trời bên trên cách đất gấp đôi (số ấy). Dạ ma thiên cách đất 16 vạn. Tri túc thiên cách đất 32 vạn. Trừ Vô vân thiên, cho đến bên trên đều cứ theo như vậy mà tính thì sẽ biết.
Vô sắc giới thiên sẽ tùy theo chỗ nhập định trước ở Dục giới, Sắc giới mà thụ quả. 
Loài Phi thiên căn bản trụ ở dưới biển Bắc hải, tại phía bắc núi Diệu Cao. 
Các loại bàng, tiểu khác thì tùy theo loại ở bốn châu như trên đã nói. 
 

QUẢ TƯỚNG

QUẢ TƯỚNG CỦA  5  LOÀI THUỘC DỤC GIỚI

Tướng thụ quả : chỉ việc loài hữu tình ở địa ngục phần nhiều phải chịu nỗi khổ của các cực hình.
– Loài hữu tình ở bàng sinh phần nhiều phải chịu nỗi khổ vì ăn thịt lẫn nhau.
– Loài hữu tình ở ngạ quỷ phần nhiều phải chịu cực khổ vì đói khát.
– Loài hữu tình ở nhân thú (tức loài người) phần nhiều phải chịu đủ mọi nỗi khổ vì sự thiếu thốn, đeo đuổi cầu cạnh.
– Loài hữu tình ở thiên thú (tức loài trời) phần nhiều phải chịu nỗi khổ vì sự suy não trụy một. 
A. QUẢ TƯỚNG Ở ĐỊA NGỤC.
I. Tướng thụ khổ ở địa ngục Bát nhiệt :
1) Khổ tướng ở ngục Đẳng hoạt : hữu tình ở đó phần nhiều cùng nhau tụ tập, các loại khổ cụ do nghiệp tăng thượng sinh ra lần lượt khởi lên, tàn hại lẫn nhau, ngất lăn ra đất, sau đó trong hư không có tiếng nói to : “Các hữu tình này có thể trở về Đẳng hoạt, có thể trở về Đẳng hoạt”. Sau đó hữu tình ở đó bỗng nhiên lại trở dậy, lại phải chịu các khổ cụ, bị tàn hại như trước, do nhân duyên này mà thụ khổ lâu dài, thậm chí khi mọi nghiệp ác bất thiện gây ra trong đời trước chưa hết thì vẫn chưa được ra (khỏi địa ngục này). 
2) Khổ tướng ở ngục Hắc thằng : hữu tình ở đó phần nhiều bị ngục tốt dùng thừng đen gom lại, hoặc thành bốn phương, hoặc thành tám phương, Hoặc thành các loại hoa văn đồ họa. Bọn đó sau khi đã bị gom lại rồi, thì tùy theo từng nơi chốn hoặc bị đục, bị đẽo, bị chẻ, bị khoét, do các nhân duyên như vậy mà bị khổ lâu dài, đến khi nghiệp hết thì mới được ra.
3) Khổ tướng ở ngục Chúng hợp : hữu tình ở đó có khi xoay sở tụ tập hòa hợp, lúc ấy liền có ngục tốt xua đuổi khiến phải vào giữa hai núi sắt lớn hình đầu dê. Khi chúng vào hết rồi thì hai núi ép lại. Sau khi bị ép, máu từ mọi cửa ứa ra chảy vào hai (núi) đầu dê sắt. Các núi sắt đầu ngựa, đầu voi, đầu sư tử, đầu hổ cũng như thế. Sau lại khiến hòa hợp lại, rồi đem đặt vào trong tàu sắt lớn và ép như ép mía. Sau khi bị ép, máu liền tứa ra. Lại hòa hợp lại thì có núi sắt lớn từ trên rơi xuống khiến hữu tình ở đó ngã lăn ra trên nền sắt. Kẻ thì bị đẽo, kẻ thì bị đâm, kẻ thì bị giã, kẻ thì bị xé. Sau khi bị đẽo, đâm, giã, xé, máu liền tứa ra, bị khổ lâu dài, đến khi nghiệp hết thì mới được ra.
Nỗi khổ của ngục này có ba :
1/ Hai núi kẹp.
2/ Tàu sắt ép.
3/ Núi sắt đè.
4) Khổ tướng ở ngục Hào khiếu : hữu tình ở đây tìm kiếm nhà cửa, bèn vào trong buồng sắt lớn. Vừa mới vào xong, lửa liền bùng cháy, chúng bị lửa này thiêu đốt, thiêu đốt hết mức, thiêu đốt khắp cả; khi bị thiêu đốt rồi, khổ đau ghê gớm, cất tiếng kêu gào, bị khổ rất lâu, đến khi nghiệp hết thì mới được ra. 
5) Khổ tướng ở ngục Đại hào khiếu : khác với ngục trên, nhà buồng ở đây giống như thai tạng, khổ hơn ngục trước, nên kêu to hơn.
6) Khổ tướng ở ngục Thiêu nhiên : ngục tốt ở đó đem các hữu tình đặt lên chảo sắt lớn vô lượng du thiên na Tam nhiệt, lật phải lật trái, rán đốt trong ngoài; lại như nướng cá, dùng xiên sắt lớn mà xiên suốt từ dưới qua đỉnh đầu rồi lật đi lật lại mà nướng khiến các căn, các lỗ chân lông, trong miệng của các hữu tình đó đều bốc lửa. Lại đem các hữu tình đó đặt lên trên nền sắt lớn như trên hoặc ngửa hoặc sấp rồi lấy chày sắt lớn Tam nhiệt hoặc quật, hoặc đánh, hoặc nện, đánh khắp, nện khắp, khiến nát như giã giò, bị khổ lâu dài, đến khi nghiệp hết thì mới được ra. 
Nỗi khổ ở đây có ba : 
1/ Bị thiêu rán khắp. 
2/ Xiên sắt xiên nướng. 
3/ Hèo sắt giã nện. 
7) Khổ tướng ở ngục Cực thiêu nhiên : khác với ngục trên¬¬. Có nghĩa là dùng chĩa ba sắt Tam nhiệt xiên từ dưới lên, xiên suốt hai cánh tay và đỉnh đầu. Do vậy mà mắt, tai, miệng, lỗ chân lông lửa mạnh bốc ra. Lại dùng lá đồng lá sắt lớn Tam nhiệt gói thân chúng lại, rồi đem chúng quăng vào vạc sắt lớn đựng nước tro Tam nhiệt đầy ắp như trên mà nấu mà ninh. Khi nước vạc sôi thì khiến hữu tình trong này lăn lộn lặn ngụp cùng với nước sôi, khiến cho máu thịt cùng với da dẻ gân mạch của chúng đều tiêu tan rữa nát, chỉ còn trơ lại xương cốt gông cùm. Lát sau lại đem lọc ra, rồi đặt lên trên nền sắt nóng khiến da thịt máu mạch lại sinh như cũ. Lại đặt vào chảo rồi lại làm như ở trong Đại nhiệt na lạc ca, bị khổ lâu dài, đến khi nghiệp hết thì mới được ra. 
Nỗi khổ ở ngục này có ba : 
1/ Bị chĩa ba xiên. 
2/ Bị gói bằng lá sắt.
3/ Bị ninh nấu bằng nước sôi. 
8) Khổ tướng phải chịu ở trong ngục Vô gián Đại na lạc ca : trên nền sắt Tam nhiệt lớn nhiều trăm du thiện na ở phương đông có chông lửa mạnh, bốc lửa mà đâm hữu tình ở đó thủng da thấu thịt, đứt gân vỡ xương, lại thấu tận tủy, cháy như đuốc mỡ, như vậy khắp người thành lửa mạnh. Cứ như vậy các chỗ khác cũng bị ngọn lửa đâm như thế. Do vậy mà loài hữu tình ở đó hòa lẫn với lửa mạnh, chỉ thấy thành một đống lửa. Từ bốn phương ngọn lửa kéo tới hòa trộn vào nhau, không có chỗ nào hở. Nỗi khổ đau phải chịu cũng không có lúc nào ngơi. Chỉ nghe tiếng kêu gào đau đớn, mới biết là có chúng sinh. 
Lại lấy nia sắt đựng đầy than sắt nung đỏ mà rê sảy các hữu tình đó, rồi đặt trên nền sắt nóng, bắt chúng trèo lên núi sắt cực nóng, lên rồi lại xuống, xuống rồi lại lên, rút lưỡi của chúng từ trong miệng ra, dùng trăm đinh sắt đóng căng lưỡi ra, khiến lưỡi không nhăn, như căng da trâu. Lại lật ngửa ra trên nền sắt nóng lấy kìm sắt nóng kẹp miệng khiến phải há miệng ra, rồi nhét viên sắt nung đỏ vào miệng, lập tức thiêu cháy cả miệng và yết hầu, thấu tận phủ tạng rồi từ phía dưới mà ra ngoài. Lại đổ nước đồng sôi vào trong miệng chúng, thiêu đốt yết hầu và miệng của chúng, thấu tận phủ tạng, rồi từ phía dưới mà chảy ra ngoài. Các khổ não khác thì như ở ngục Cực thiêu nhiên, bị khổ lâu dài, đến khi nghiệp hết thì mới đựơc ra. 
Nỗi khổ ở ngục này có sáu :
1/ Bốn phương lửa đâm. 
2/ Than sắt rê sảy. 
3/ Lên xuống núi sắt.
4/ Lưỡi đóng đinh sắt.
5/ Bắt nuốt viên sắt.
6/ Nước đồng đổ miệng.
Nay ở đây chỉ nói qua về các khổ cụ thô hiển (các hình phạt nặng nề rõ rệt), chứ chẳng phải là trong đại địa ngục không có các khổ cụ khác. 
Trên đây là nói về khổ tướng của tám Nhiệt địa ngục căn bản. 
II. Khổ tướng ở địa ngục cận biên 
Mỗi một đại na lạc ca đều có bốn cửa ở nơi bốn bờ theo bốn phương, tường sắt vây quanh. Ngoài mỗi cửa đều có bốn vườn :
1/ Vườn Đường ôi : Tro nóng ngập tận đầu gối. Các hữu tình ở đó ra tìm nhà cửa, đi tới nơi đây, vừa đặt chân xuống da thịt gân cốt liền bị cháy rụi, nhấc chân lên lại mọc ra.
2/ Vườn Thỉ phân : Phân cứt là bùn. Các hữu tình này tìm kiếm nhà cửa sau khi ở vườn trên ra rồi, dần dần đi tới sa xuống vườn này, đầu chân chìm lỉm. Ở trong bùn lại có các dòi bọ thân dài một thước mỏ trắng đầu đen, xuyên vào trong da thịt, cắt gân phá xương, lấy tủy mà ăn.
3/ Vườn Phong nhẫn : vườn này chia làm ba : 
a) Đường Quát nhẫn : có gươm sắc, đặt ngửa lưỡi lên để làm đường. Các hữu tình đó từ vườn trước ra đi tới nơi đây, vừa đặt chân xuống lập tức da thịt gân cốt đều bị tiêu nát, lúc nhấc chân lên lại lành như cũ. 
b) Rừng Kiếm diệp : các hữu tình đó vừa ra khỏi đường trên, đi tới chỗ bóng rợp của rừng đó, vừa mới ngồi xuống dưới bóng cây, gió nhẹ bèn thổi, lá kiếm rụng xuống chặt đứt mọi chi tiết trên thân chúng, khiến chúng liền ngã lăn ra đất, có chó đen tuyền nhảy xổ tới đớp vào lưng bụng chúng mà ăn thịt chúng.
c) Rừng Thiết thích : có rừng chông sắt tua tủa giống như gai cây bồ kết. Các hữu tình đó sau khi ra khỏi rừng trước liền tới rừng này, vì bị chó cắn, bèn trèo lên trên cây, vừa lúc leo trèo, liền bị các mũi chông nhọn đâm xuống. Chúng muốn tụt xuống, miệng hướng lên trên lại bị chông đâm xuyên suốt cả người, khắp mọi chi tiết. Lúc ấy liền có chim lớn mỏ sắt đến đậu ở trên đầu, trên cánh tay chúng, mổ móc mắt chúng ra mà ăn.
4/ Vườn Liệt hà : có sông rộng lớn, nước tro sôi sục đầy ắp trong sông, các hữu tình đó sau khi ra khỏi vườn trước, tới sa xuống sông này giống như đậu bị để trong vạc lớn dùng lửa mạnh thiêu đốt mà ninh mà nấu, khiến chúng bị quay cuồng lặn ngụp theo đà nước sôi, hai bên bờ sông có các ngục tốt tay cầm gậy gộc thừng chão cùng với lưới to, ngăn chẳng cho các hữu tình đó ra khỏi sông này, hoặc dùng vợt lưới vớt chúng đem lên đặt lên trên nền sắt nóng bỏng rộng lớn, lật ngửa chúng lên mà hỏi rằng : “các ngươi ngày nay muốn gì?”. Chúng đáp : “tôi nay chẳng còn biết gì hết. Song bị đủ thứ đói khổ bức bách”. Bấy giờ các ngục tốt đó liền lấy kìm sắt banh miệng chúng ra, rồi đem viên sắt nung đỏ nóng bỏng nhét vào miệng chúng. Các điều khác thì như đã nói. Nếu chúng đáp “Tôi nay khát khổ” thì ngục tốt liền lấy nước đồng nung chảy đổ vào mồm. Chúng bị khổ lâu dài, đến khi nghiệp hết thì mới được ra. 
III. Khổ tướng ở địa ngục cô độc. 
Nơi chốn tuy nhỏ, nhưng các khổ cụ thảy đều đầy đủ. Tướng này đã được giảng kỹ trong Kinh Diệu Cát Tường vấn Đại thái Lục đậu tử. 
IV. Khổ tướng ở Bát hàn địa ngục. 
1) Bào na lạc ca : hữu tình thụ sinh (ở đây) bị 
 lạnh thấm vào, mọi chỗ trên người đều co rúm 
 giống như phổng nhọt.
2)  Bào liệt na lạc ca : giống như phổng vỡ, máu 
 mủ chảy ra, vết thương co rúm.
3)  Yết triết cô.
4)  Hách hách phàm.
5)  Hổ hổ phàm : hữu tình thụ tội ở ba ngục này 
tiếng kêu khổ khác nhau, cho nên đặt tên ngục theo các tiếng kêu ấy.
6)  Thanh liên hoa na lạc ca : khổ vì bị giá rét 
 cực độ, mọi chỗ trên người thảy đều xanh tím, 
 da dẻ rách nứt tới năm, sáu chỗ.
7)  Hồng liên na lạc ca : qua ngục Thanh liên đó 
 rồi thì da biến thành màu đỏ tía, rách nát 
 thành mười chỗ hoặc nhiều chỗ.
8) Đại hồng liên na lạc ca : Thân chúng cực kỳ 
 đỏ tía, da dẻ nứt toác hàng trăm chỗ hoặc 
 nhiều hơn nữa. 
B. QUẢ TƯỚNG Ở LOÀI BÀNG SINH.
Loài bàng sinh lại tàn hại nhau như kẻ gầy yếu bị bọn khỏe mạnh sát hại, phải chịu đủ mọi nỗi khổ vì chẳng được tự tại, bị kẻ khác xua đuổi, thường bị đánh đập trở thành công cụ mưu sinh của người của trời, do nhân duyên này mà phải chịu đủ mọi nỗi khổ não nặng nề. 
C. QUẢ TƯỚNG Ở LOÀI NGẠ QUỶ.
Loài ngạ quỷ đại để có ba loại :
I.  Do ngoài chướng ngại ẩm thực.
II. Do trong chướng ngại ẩm thực.
III. Ẩm thực không có chướng ngại. 
I. Loại ngạ quỷ do ngoài chướng ngại ẩm thực.
 Do cực kỳ bủn xỉn, nên phải sinh trong loài quỷ, thường bị đói khát, da thịt huyết mạch thảy đều khô đét giống như tro than, đầu tóc rối bù, mặt mày đen đủi, mồm miệng khô nẻ, thường dùng lưỡi liếm mặt, đói khát cuống cuồng chạy chọt khắp nơi, đến suối ao nào thì cũng có các hữu tình khác tay cầm dao gậy và thừng vợt, xếp hàng canh giữ, chẳng cho xuống uống. Nếu cứ cố xuống uống thì liền thấy suối ao ấy biến thành máu mủ, tự mình chẳng muốn uống nữa. Như vậy thì gọi là do ngoài chướng ngại ẩm thực. 
II. Loại ngạ quỷ do trong chướng ngại ẩm thực. 
Loại hữu tình đó hoặc họng nhỏ như cái kim, hoặc miệng như đuốc lửa, hoặc cổ nhỏ bụng to, do nhân duyên này mà dù được ăn uống không có chướng ngại gì khác, tự nhiên cũng chẳng thể ăn uống được. Do vậy mà gọi là loại do trong chướng ngại ẩm thực. 
Loại yết hầu nhỏ như kim đã nói ở trên đều thuộc loại này. 
III.Loại ngạ quỷ ẩm thực không có chướng ngại.
 Loại ngạ quỷ gọi là Mãnh diệm man, loại này hễ ăn uống thứ gì vào là đều bị thiêu đốt. Do đó mà thường bị cực khổ vì đói khát. 
Lại có loại ngạ quỷ gọi là Thực phân uế (ăn phân hôi); hoặc có một số ăn phân uống nước tiểu, hoặc lại có một số chỉ có thể ăn uống các thứ sinh thục xú uế cực kỳ bẩn thỉu, dẫu được thứ thơm ngon cũng chẳng thể ăn; hoặc có một số tự cắt thịt mình mà ăn, dẫu được các thức ăn khác cũng chẳng thể ăn. Các loại như vậy thì gọi là loại ẩm thực không có chướng ngại.
D. QUẢ TƯỚNG Ở LOÀI NGƯỜI. 
Trong loài người cũng có nhiều kẻ bị nỗi khổ này. Có nghĩa là nỗi khổ của sự đói khát thiếu thốn vì từ nhỏ đã nghèo túng, nên điều mong muốn chẳng thể đạt được. Khổ vì thiếu thốn, ăn uống kham khổ, nỗi khổ thiếu thốn, khiến phải cầu cạnh, khúm núm trước người khác, bị chủ bức bách. Thời tiết đổi thay bị rét bị nóng. Trong cảnh đen tối bị khổ sở vì thiếu thốn gây chướng ngại khiến các sự nghiệp chúng làm đều bị phế bỏ. Nỗi khổ vì thiếu thốn còn khiến chúng bị biến hoại lão, bệnh, tử. Khổ do các na lạc ca, ở đó chúng coi chết là sướng nên loại địa ngục đó chẳng đặt ra tên gọi là Khổ. 
E. QUẢ TƯỚNG Ở LOÀI TRỜI.
Trong nẻo trời thì không có nỗi khổ bị cắt chân tay mà có nỗi khổ bị chết bị đọa. Như trong kinh nói khi các thiên tử sắp mất thì có năm tướng thể hiện ra trước :
1) Quần áo bẩn thỉu. 
2) Vòng hoa héo rũ. 
3) Nách đỗ mồ hôi.
4) Phân tiểu hôi thối.
5) Thiên và Thiên tử chẳng thích chổ mình ngồi.
Bấy giờ các thiên tử ấy nằm sấp giữa rừng. Tất cả thái nữ cùng các thiên tử khác cùng nhau chơi đùa. Họ trông thấy thế rồi thì sinh ra nỗi khổ lớn vì lo lắng. 
Lại còn có nỗi khổ vì bị khinh miệt, sợ hãi. Lúc các thiên tử nhờ có phúc tụ to lớn và ngũ dục to lớn sinh ra, các thiên tử cũ bạc phúc khác nhìn thấy rồi thì phải chịu nỗi khổ lớn vì lo lắng. 
Những điều nói trên là chung cho cả Lục dục thiên. 
Hai trời dưới đó còn phải chịu nỗi khổ vì bị đẽo chặt, phá hoại, xua đuổi tàn hại do lúc cùng đánh đấm tranh giành với các phi thiên. Thiên cùng phi thiên chống đối lẫn nhau thì cầm bốn loại binh khí : bằng vàng, bằng bạc, bằng pha lê, lưu ly mà đánh nhau. Bấy giờ thiên và phi thiên hoặc đứt chân tay, hoặc toạc mình mẩy, hoặc còn bị chết. Nếu thân bị thương, chân tay bị đứt thì lại lành như cũ. Nếu đầu bị đứt thì chết ngay. Thiên và phi thiên, có khi kẻ này thắng, có khi kẻ khác thắng. Song phần nhiều là thiên thắng, vì sức mạnh hơn. Song hai loại đó, nếu kẻ này bị kẻ kia thắng thì liền lùi vào cung của mình, đồng loại của nó chẳng hề an ủi, do nhân duyên đó mà trong lòng lo buồn. Nếu thiên đắc thắng thì liền vào cung của phi thiên để cướp đoạt con gái của nó, gây nên cảnh chiến tranh. Nếu phi thiên đắc thắng thì vào thiên cung để đòi bốn loại Tô Đà vị, rồi sinh ra đánh nhau.
Lại có loại thiên tử có sức mạnh hễ nỗi cơn tức giận là đuổi các thiên tử yếu thế ra khỏi cung của họ.
Cho nên chư thiên phải chịu ba nỗi khổ :
 1/ Khổ bị chết bị đọa.
 2/ Khổ bị lấn lướt khinh miệt.
 3/ Khổ bị đẽo chặt, phá hoại, tàn hại, xua đuổi.

QUẢ TƯỚNG CỦA SẮC GIỚI, VÔ SẮC GIỚI

Trên đây là nỗi khổ của Dục giới. 
Còn ở Sắc giới, Vô sắc giới thì hữu tình không có các nỗi khổ ấy, vì các hữu tình đó chẳng phải là Thụ khổ khí. Song do Thô trọng khổ, cho nên nói là họ khổ, vì có phiền não, có định chướng, chẳng được tự tại về tử và trụ. Do ba cõi này đều có khổ cả, cho nên chẳng thể ưa thích. 
Chỉ có cõi Vô lậu là mọi nỗi khổ thô trọng đều vĩnh viễn đoạn diệt. Cho nên chỉ có cõi này là ưu thắng an lạc. 
Trên đây là quả tướng. 
 
 

THỌ LƯỢNG
I. Thọ lượng của 5 loài thuộc Dục giới.
Người Thiệm Bộ Châu thọ lượng chẳng nhất định. Người ở đó lấy 30 ngày đêm làm một tháng, 12 tháng là một tuổi. Có lúc thọ vô lượng tuổi, gọi là Thành hoại kiếp. 
Hoặc ở một thời thọ 8 vạn tuổi gọi là Trụ kiếp.
Thời sơ giảm hoặc ở một thời thọ giảm nhanh dần, thậm chí tới 10 tuổi, thời ba tai dấy lên. Người đông Tỳ đề ha thọ tăng tới 250 tuổi. Người tây Cù đà ni thọ tăng tới 500 tuổi. Người bắc Câu lư châu thọ tới 1000 tuổi. 
Lại nữa, 50 năm ở cõi người là 1 ngày đêm của chúng thiên Tứ thiên vương, lấy số này làm tháng, lấy tháng này gom thành năm, thì họ thọ 500 tuổi.
100 năm ở cõi người là 1 ngày đêm của Tam thập tam thiên, lấy số này làm tháng năm, thọ mệnh 1000 tuổi. 
Cứ như vậy cho tới Tha hóa tự tại thiên ngày đêm và tuổi thọ đều tăng gấp đôi trước. 
Thêm nữa, Tứ thiên vương chúng thiên đầy đủ 500 tuổi thì bằng một ngày đêm của Đẳng hoạt đại na lạc ca, tức là lấy đó tích thành tháng năm, thì tuổi thọ ở đó là 500 tuổi.
Cứ như vậy thọ lượng của Tam thập tam thiên bằng thọ lượng ở địa ngục Hắc thằng. 
Lấy thọ lượng của Thời phân thiên làm thành thọ lượng của địa ngục Chúng hợp. 
Lấy thọ lượng của Tri túc thiên làm thành thọ lượng của ngục Hào khiếu. 
Lấy thọ lượng của Lạc biến hóa thiên làm thành thọ lượng của ngục Đại hào khiếu. 
Lấy thọ lượng của Tha hóa tự tại thiên làm thành thọ lượng của ngục Thiêu nhiên. 
Thọ lượng của địa ngục Cực thiêu nhiên bằng nửa trung kiếp. 
Thọ lượng địa ngục Vô gián bằng một trung kiếp. Có nghĩa là từ 8 vạn giảm xuống 10 tuổi, lại từ 10 tuổi, tăng tới 8 vạn tuổi thì gọi là 1 trung kiếp. Đó là kiếp lượng của Vô gián. Loài phi thiên thọ lượng bằng Tam thập tam thiên. Thọ lượng của các loài bàng sinh, ngạ quỷ không nhất định. 
Thêm nữa, thọ lượng của Bát hàn địa ngục theo thứ tự tương ứng với (từng địa ngục trong) Bát nhiệt địa ngục và bằng gần một nửa. Trong hai loại địa ngục Cận biên và Cô độc thọ lượng không nhất định.
Trên đây là nói về thọ lượng của 5 loài thuộc Dục giới. 
II. Thọ lượng của Sắc giới.
Thọ lượng Phạm chúng thiên bằng 20 trung kiếp làm một kiếp. 
Phạm phụ thiên thọ 40 trung kiếp làm một kiếp.
Đại phạm thiên thọ 60 trung kiếp làm một kiếp.
Thiểu quang thiên thọ 80 trung kiếp làm hai kiếp. 
Các trời từ đây trở lên so với nhau tăng dần gấp đôi. Chỉ trừ Vô vân (thiên), nên biết rằng trời đó thọ giảm ba kiếp. 
III. Thọ lượng của Vô sắc giới.
Không vô biên xứ thọ 2 vạn kiếp. Thức vô biên xứ thọ 4 vạn kiếp. 
Vô sở hữu xứ thọ 6 vạn kiếp. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thọ 8 vạn kiếp. 
Các loại nói trên trừ Bắc Câu Lư châu, còn ở mọi chỗ đều có chuyện chết yểu giữa chừng. 
Dẫu hết thảy loài hóa sinh thân chết đều không có cặn bẩn, song người, quỷ và bàng sinh thời nay đều có thân cặn bã nhơ bẩn. Trời và địa ngục mất cùng với thức, không có thân cặn bã nhơ bẩn. 
Kinh Chính Pháp Niệm v.v… nói rằng 136 địa ngục, đó là mỗi một trong số 8 đại địa ngục đều có 16 ngục cận biên tứ môn viên quán, tổng cộng có 128 chỗ (8 x 16 = 128), cộng với 8 ngục căn bản thành ra 136 chỗ. Chẳng kể ngục Bát hàn và ngục Cô độc, nếu tính cả số này thì địa ngục rất nhiều. 
Du Già luận nói rằng : Dưới đây cách 32.000 do tuần có ngục Đẳng hoạt. Thế thì biết rõ dưới châu này có địa ngục. Tiểu thừa nói khác. Nếu cứ theo như Kinh Chính Pháp Niệm thì dưới núi Tu Di có đại địa ngục.
Trên đây là nói về thọ lượng. 

THÂN LƯỢNG 
I. Thân lượng của Dục giới.
Người Thiệm Bộ châu thân lượng không nhất định. Có lúc thì cao to, có lúc thì thấp bé.
Nếu lấy theo độ dài cẳng tay của mỗi người làm đơn vị tính, thì chiều cao của người châu này bằng 3 cẳng tay rưỡi. 
Người ba châu khác cũng cao bằng 3 cẳng tay rưỡi của họ, thân có khi cao lớn. 
Thân Tứ thiên vương thiên bằng một phần tư của một Câu lư xá. 
Thân lượng Tam thập tam thiên lại tăng thêm một Túc. Một Túc có nghĩa là một câu lư xá chia làm bốn phần, một nửa của phần ấy gọi là một Túc (1 Túc = 1 phần 8 của câu lư xá). 
Thân lượng Đế thích bằng một nửa câu lư xá. Thân lượng Thời phân thiên cũng bằng nửa câu lư xá. Trên đây là thân lượng Dục thiên. Nên biết là dần dần đều tăng một Túc. 
II. Thân lượng của Sắc giới.
Phạm chúng thiên nửa du thiên na. Phạm phụ thiên một du thiện na. Đại phạm thiên một  du thiện na rưỡi. Thiểu quang thiên hai du thiện na. 
Các trời từ đây trở lên dần tăng gấp bội, chỉ trừ Vô vân thiên. Nên biết rằng trời đó giảm ba du thiện na. 
III. Thân lượng của Vô sắc giới.
Vô sắc thì vô hình, chẳng nói thân lượng. Song luận lại nói rằng : Sắc, Vô sắc thiên biến thân vạn ức cùng đứng trên đầu lông không lượng địa giới. 
Kinh Nhân Vương kể tới Vô sắc giới chúng. Kinh A Hàm nói : Vô sắc giới thiên nước mắt như mưa phùn mùa xuân, đứng bên cạnh Phật. Đó đều là hóa ra làm vậy, to nhỏ tùy lúc, chẳng phải là thân nghiệp quả. 
Còn trong đại địa ngục, thân lượng chẳng nhất định. Hoặc gây tạo hoặc tăng trưởng nghiệp bất thiện cực nặng thì thân to lớn, ngoài ra thì chẳng thế. Hàn địa ngục chỉ có một (thân lượng). Cận biên, bàng sinh, ngạ quỷ cũng thế. 
Thân lượng của các phi thiên bằng Tam thập tam thiên. Đây nói căn bản phi thiên nếu tại châu này thì thân lượng nhỏ, không cố định. 
Dựa vào yếu nghĩa, tạm phân biệt sơ qua về các loài. Còn mọi nghĩa khác, cứ theo như lý (mà suy) thì sẽ biết. 
Giải thích Kinh văn : 
Tiếng Phạm A Tỳ Chí, đây gọi là Vô gián. 
Du Già nói : vì ở đó phải thụ khổ (liên tục) không gián đoạn, lửa cháy không gián đoạn. Do báng kinh nên phải thụ đủ một kiếp, một trung kiếp, mệnh cực tới kiếp đó hết thì lại sinh. Cứ xoay vần như vậy tới vô số kiếp. 
Kinh Bát Nhã nói : đó là do phỉ báng đại thừa, phương này địa ngục tận, thì sinh ở phương đông, cứ xoay vần như vậy khắp hết ngục ở mười phương. Mười phương địa ngục tận, lại sinh ở trongngục phương  này. 
Cho nên ở đây nói là : “cứ xoay vần như vậy, cho tới vô số kiếp”. Chẳng phải chỉ riêng trong ngục Vô gián, mà cũng còn đọa ở chốn khác, vì trong này chỉ nêu một chỗ nặng. Đây chỉ một nghiệp được đặt tên theo lúc sơ thụ, chỉ gọi tên là sinh báo. 
Tội nghịch chung, theo cả ba thừa gồm : Giết cha, hại mẹ, giết A la hán, làm thân Phật đổ máu, phá hòa hợp Tăng. Kinh Tát Già Ni Kiền Tử nói : Đại thừa ngũ nghịch (năm tội nghịch theo thuyết đại thừa) gồm :
1) Phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng, dùng trộm tài vật của Tam bảo.
2) Phỉ báng Tam thừa pháp, nói đó chẳng phải là thánh pháp, gây khó khăn chướng ngại, giấu diếm bưng bít.
3) Đối với mọi người xuất gia, bất kể họ có giới hay không giới, giữ giới hay phá giới đều đánh đập chửi mắng, kể lể lỗi lầm của họ, giam cầm họ trong lao ngục, hoặc lột cà sa của họ, bức bách họ hoàn tục, bắt họ sưu dịch, điều đi chỗ khác, làm đứt mệnh căn của họ.
4) Giết cha, hại mẹ, làm thân Phật chảy máu, giết A la hán, phá hòa hợp Tăng.
5) Khởi tà kiến lớn, phỉ báng (nói là) : không có nhân quả. 
Vì trong đêm dài thường làm mười nghiệp bất thiện, cho nên nay chẳng tin kinh này, vào ngục Vô gián rồi thì cứ như vậy mà xoay vần tới vô số kiếp. 
Câu Xá luận nói : trong ngũ nghịch thì phá tăng là nặng nhất, nhất định phải thụ khổ (báo) một kiếp ở trong ngục Vô gián. Nay vượt quá số ấy nên nói là “kiếp mãn hết lại sinh”.
*
-Kinh văn : “Từ nơi địa ngục ra”  tới 
                   “Nên chịu tội báo này”. 
Tán rằng : dưới là đoạn thứ hai có 10 tụng rưỡi nói về thụ báo phải làm súc sinh. Có bốn phần :
– 3 tụng rưỡi đầu nói về thụ báo phải làm con chó, con Dã can (giống con dúi).
– 2 tụng nói về thụ báo phải làm lạc đà, lừa.
– 2 tụng nói về thụ báo phải làm con dã can.
– 3 tụng nói về thụ báo làm thân con trăn. 
Đây là phần đầu. 
* Chữ [畜] đọc là Súc, chỉ lục súc. Còn đọc là Húc, nghĩa là nuôi dưỡng. Khi có nghĩa là tích tụ, tụ tập thì có hai cách đọc là Húc và Súc. Nay theo cách đọc là Súc. 
Theo đại thừa, một nghiệp có thể chiêu cảm nhiều quả. Nay theo quả đầu lấy đó làm tên gọi là súc sinh vì đều thuộc quả này cả. Kinh này nói : “từ địa ngục ra sẽ đọa vào súc sinh”. Dưới cứ theo đó thì biết. 
*Chữ [    ] đọc là Khất. Sách Tam Thương giải thích là : đầu hói không có tóc. Thông Tục văn, Thiết Vận giải thích là hói trọc lóc và nói và âm đọc giống chữ Quật [窟]. Thêm nữa Khất sấu  [     瘦] có nghĩa là da thịt khô đét (gầy đét). Vì dưới đã có chữ “khô kiệt” rồi, nên giải thích theo cách trước (tức là hói) thì hay hơn. 
Nay chữ [    ] có khi đọc là Ngật. Lẽ phải viết là [     ], nhưng chưa rõ âm (là gì). Chữ [梨] đọc là Lê. Phương ngôn có câu : “mặt tựa lê bị cóng”. Có khi viết là [黧]. Ngọc Thiên nói đọc là Lê, có nghĩa là đen, là già, cũng chỉ màu lốm đốm. Đen tuyền thì là chữ         [      ] . Có hai âm :
1/. Đàm, đồng âm với chữ [     ], chỉ màu ngựa đen.
2/. Còn đọc là Thậm, tức màu tím đen như quả dâu chín (tang chi thậm [桑 之 葚]). 
Nếu là mầu xanh đen thì là chữ [     ]  đọc là Yểm. Chữ [嬈] đọc là Nhiểu, nghĩa như Não. Nếu là đùa cợt trêu chọc nhau thì là chữ [      ]   Niễu. Còn nhiễu loạn thì là chữ [    ] Náo. Ngọc Thiên nói chữ    [      ] có khi viết và đọc như chữ [擾] Nhiễu, nhưng vẫn có nghĩa là đùa cợt trêu ghẹo. 
Chó có mười báo quả :
 1) Hói trọc.  5)  Bị trêu chọc. 
 2)  Gầy gò.  6) Bị người ghét bỏ rẻ rúng.
 3)  Màu sắc đen đủi. 7) Thường bị đói khát.
 4)  Lở ghẻ.   8) Xương thịt khô kiệt.
 9) Lúc sống thì bị đánh đập khổ sở.
 10) Lúc chết thì bị ngói đá đè.
Các ác quả này lẽ ra đều phải nói rõ nguyên nhân gây ra nhưng sợ rườm rà, nên thôi.
*
-Kinh văn : “Nếu sinh làm lạc đà”  tới 
                   “Mà bị tội như vậy”. 
Tán rằng : 2 tụng này nói về quả báo phải làm lạc đà, làm lừa. Đây có bốn quả : 
1) Mang nặng.  3) Thèm ăn.
2) Bị đánh đập.  4) Vô tri.
* Chữ [    ] đọc là Lạc. Cũng đều chỉ con lạc đà. Con vật này có chỗ gọi là Lạc, có chỗ gọi là Đà. Chữ Lạc [駱]vốn chỉ có màu sắc của ngựa, nhưng chẳng phải nghĩa ở đây. Chữ Đà viết là [駝] hoặc   [     ] đều được.
*
-Kinh văn : “Có khi làm dã can”  tới 
                   “Hoặc có lúc bị chết”. 
Tán rằng : đây là nói về quả báo phải làm con dã can (con dúi). Có bốn quả : 
1) Lở ghẻ.
2) Không có một mắt nào, cũng không có hai mắt, như kẻ chỉ tin tiểu thừa. Chỉ vì chẳng tin đại thừa, cho nên không có một mắt nào. 
3) Bị đánh bị ném. 
4) Tới mức bị chết.
*
-Kinh văn : “Từ đây vừa chết đi”  tới 
                   “Mà bị tội như vậy” 
Tán rằng : đây là quả báo phải làm thân con trăn. Có năm quả : 
1) Thân to.
2) Điếc.
3) Ngu si. 
* Chữ [ 騃 ] đọc là Ngãi, nghĩa là si.
4) Không có chân.
5) Bị bọ con ăn. 
Có bản nói là “thân bị co cuộn”.
* Chữ [    ] đọc là Uyển. Nay đây chỉ thân co cuộn, cho nên phải là chữ [     ](uyển). Có bản chép là [宛] cũng đọc là Uyển.Theo sách Ngọc Thiên              [宛](Uyển) là lỗ nhỏ; bốn phía cao, chính giữa thấp thì gọi là Uyển [宛].
Sách Thiết Vận giải thích là kéo cỏ gục xuống để tự che, vốn chẳng phải là dùng chữ [宛] trong từ Uyển chuyển. Bởi vậy phải là chữ [    ] (Uyển). 
Chữ [    ] theo Ngọc Thiên thì đọc là Sáp. Le nhạn ăn bằng miệng thì gọi là sáp. Nay đã vào miệng rồi thì nên dùng chữ Táp [咂]. Thời xưa viết là [    ] chỉ chim ăn. Tức là chữ Sáp trong từ sáp tráp [        ] (mổ ăn, mò ăn). Chữ [    ] đọc là Sáp. Chữ       [    ] đọc là Tráp. Theo Tự Lâm : chữ Sáp trong từ sáp huyết (ngậm máu, bôi máu vào miệng để thề) cũng viết là
[     ].
*
-Kinh văn : “Nếu được sinh làm người”  tới 
                   “Không có chỗ nương tựa”. 
Tán rằng : dưới đây là 10 tụng nói về kẻ ác bị quả báo. Có hai phần : 
– 7 tụng đầu : có ác báo.
– 3 tụng sau : không thiện quả. 
Trong phần đầu có bốn ý : 
+ 3 tụng đầu nói về hình dáng xấu xí. 
+ 1 tụng : không chỗ nương nhờ. 
+ 2 tụng : bạc phúc đức. 
+ 1 tụng bị tai bay vạ gió. 
Đây là ý đầu, có 17 quả : 
1) Đần độn. 
2) Lùn. 
* Chữ [   ] đọc là Tòa, có nghĩa là lùn. 
3) Xấu xí.
* Chữ [     ] đọc là Lậu, nghĩa như là chữ [醜] (xấu), đều có ý là xấu xí.
4) Tay co quắp.
* Chữ [   ] đọc là Luyến, chỉ bệnh tay bị co quắp, lẽ ra phải viết chữ này, nhưng có chỗ lại viết là [    ] không đúng với nghĩa đâu. Chữ [    ] này vốn có nghĩa xích buộc chim ưng (để chim ưng đậu trên cánh tay thợ săn khi đi săn). Nay đã là bệnh thì nên viết là [     ].
5) Què chân.
* Chữ [躄] đọc là Tích. Tay khoèo thì gọi là Luyến, chân què thì gọi là Tích. Có bản chép là [癖]. chỉ bệnh ăn không tiêu là bệnh ở trong bụng, chẳng phải nghĩa là chân què.
6) Mù.
7) Điếc.
8) Lưng gù.
* Chữ [傴] đọc là Ủ. Chỉ lưng gù chẳng ưỡn thẳng được.
9) Người chẳng tin.
10) Miệng thối.
11) Quỷ ám.
12) Nghèo túng.
13) Thấp hèn.
14) Bị người khác sai khiến.
15) Lắm bệnh.
16) Gầy mòn.
* Chữ [   ] đọc là Tiêu, tên bệnh khát (tức bệnh tiêu khát).
17) Không nơi nương tựa.
18) Gày còm. Cũng có thể lập riêng “Gày” thành một mục. Vì bệnh gày còm khác với bệnh tiêu khát, như vậy thì thành 18.
 Trên đây một tụng về ý nghiệp quả, một tụng về ngữ nghiệp quả, một tụng về thân nghiệp quả. Do ý đầu tên dắt dẫn mà thành ra quả báo là bị lùn, xấuv.v…
*
-Kinh văn : “Tuy thân cận nương người”  tới 
“Rồi sau lại quên mất”. 
Tán rằng : đây là nói về không nơi nương nhờ.
* Chữ [附] đọc là Phụ, nghĩa là gần, gần gũi. 
Có hai quả, có thể biết.
*
-Kinh văn : “Nếu học nghề thầy thuốc”  tới 
                   “Mà bệnh càng nặng thêm”. 
Tán rằng : phúc mỏng, ít phù trợ. 
Có hai quả có thể biết.
*
-Kinh văn : “Hoặc người khác phản nghịch”  tới 
                   “Bỗng dưng bị tai ương”. 
Tán rằng : đây là nói về quả báo bị tai bay vạ gió.
* Chữ [抄] đọc là Sao. Có chỗ viết là [炒] hoặc 
[鈔]. Theo Ngọc Thiên : nghĩa chữ [抄] Sao giống nghĩa chữ [掠] Lược (cưỡng đoạt), có nghĩa là cưỡng đoạt lấy đồ vật, ăn trộm, ngang ngược vô lý mà tới chiếm.
*
-Kinh văn : “Những tội nhân như vậy” tới 
                   “Chẳng bao giờ nghe pháp”. 
Tán rằng : dưới là 3 tụng nói về 8 nạn, cho nên không có thiện quả. Có ba ý : 
– 1 tụng : nói về một nạn là sinh ra trước Phật hoặc sau Phật, cho nên chẳng thấy Phật. 
– 1 tụng : nói về sáu nạn : sinh ra ở các chỗ chướng nạn là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Bắc châu, Trường thọ thiên, cậy mình có thế trí biện thông hoặc điên cuồng đui điếc mãi mãi chẳng nghe pháp.
– 1 tụng : nói về một nạn thường thường các căn bị khuyết tật. 
Gộp lại là 8 nạn, cho nên không có thiện quả.
Đây là ý đầu và ý thứ hai.
*
-Kinh văn : “Trải qua vô số kiếp”   tới 
                   “Các căn chẳng đầy đủ”.
Tán rằng : đây là nói các căn bị khuyết tật, là 1 trong 8 nạn. 
*
-Kinh văn : “Thường ở nơi địa ngục”  tới 
                   “Bị tội như vậy đó”.
Tán rằng : dưới có 6 tụng thuyết minh chung về (chúng sinh) trải qua bốn đường, thụ tăng thượng Đẳng lưu quả. Chia làm bốn mục : 
1) Nửa tụng nói về địa ngục. 
2) Nửa tụng nói về ngạ quỷ. 
3) Một tụng về súc sinh. 
4) Bốn tụng về ác nhân (kẻ ác). 
Đây là ba mục đầu.
* Viên quán : vườn quán. Chữ [觀] ở đây đọc là Quán, tức là chữ Quán trong từ “lâu quán”. Còn Quán trong “quán xá” thì viết là [      ]. 
Các đường ác khác : chỉ ngạ quỷ v.v… vì phỉ báng chính pháp, tham lam bủn xỉn, chẳng chịu tu đạo, nên sinh ở loài ngạ quỷ. Luận cứ trên ở đây ít, nên chẳng nói riêng.
*
-Kinh văn : “Nếu được sinh làm người”  tới 
                   “Dùng để làm quần áo”. 
Tán rằng : dưới đây là 4 tụng nói về quả báo của hạng người ác. Có bốn mục : 
1) Một tụng về ác nghiêm (trang sức xấu xí). 
2) Một tụng về ác phục (y phục xấu). 
3) Nửa tụng về ác trạng (dáng dấp xấu). 
4) Một tụng rưỡi nói về ác hành (hành vi xấu). 
Đây là hai quả đầu. 
* Chữ Ấm cũng có nghĩa như chữ Á, đều có nghĩa là câm, chẳng nói được. Chữ Ấm [    ]có chỗ viết là [    ]. Theo Tự Lâm thì chữ [    ] có nghĩa như chữ [    ]. Chữ [    ] đọc là Tạ. 
Chữ [    ] có chỗ viết là [啞], theo Tự Lâm thì đọc là Ách, chỉ tiếng cười. 
Theo Thiết Vận thì Ách [    ] có nghĩa câm chẳng nói được. Chữ [疽] đọc là Thư, nghĩa như chữ [   ] chỉ ung nhọt.

*

-Kinh văn : “Thân thể thường hôi hám”  tới 
                   “Mà bị tội như vậy”. 
Tán rằng : đây là Ác trạng và Ác hành. Vì quá chấp trước ngã kiến, si tăng thượng, nên tham sân có thể biết được tới mức nào.
*
-Kinh văn : “Bảo cho Xá Lợi Phất”  tới 
                   “Đừng nên thuyết kinh này”. 
Tán rằng : 28 tụng trên là thuyết minh về Bất tín quả. 
Hai tụng này là kết luận.
*
-Kinh văn : “Nếu có người lợi căn”  tới 
                   “Mới nên thuyết cho họ”.
Tán rằng : đây là 66 tụng chỉ rõ cái đúng cái sai của con người, khiến nên học đúng trừ sai.
Trong có 4 đoạn; trên là 3 đoạn; đoạn thứ tư ở dưới có 19 tụng ý nói : đối với người có trí thì nên thuyết cho họ. Có hai phần : 
• Phần đầu gồm 17 tụng nói về tướng nên thuyết cho.
• Phần sau là 2 tụng để kết luận. 
Trong phần đầu lại có ba đoạn nhỏ : 
1) Đoạn đầu là 1 tụng rưỡi, nói về những người từ trước tới nay chưa hề phát tâm thì phải nghiệm thấy là có Phật chủng tính, mới đáng thuyết cho họ. 
2) Thứ đến 10 tụng rưỡi, nói về những người tuy phát tâm rồi, nhưng phải có sự tu tập về Lục độ thì mới có thể thuyết cho họ. 
3) Cuối cùng là 5 tụng, nói về những người tuy có Phật chủng tính, có sự tu tập về Lục độ rồi, nhưng còn phải có tâm trọng pháp cầu pháp nữa, mới có thể đáng để được thuyết cho. 
Đoạn đầu này nói phải nghiệm thấy có 6 đức : 
1/ Lợi căn, vì nghe thì hiểu ngay.
2/ Trí tuệ phân biệt được đúng sai.
3/ Sáng suốt, vì chẳng mê ám.
4/ Đa văn (kiến thức rộng), vì trước có sự học tập bồi dưỡng.
5/ Cường thức (trí nhớ tốt), tinh tường lanh lợi.
6/ Muốn được thuyết Pháp Hoa cho, vì cầu chuộng đạo Phật chứ chẳng phải là đạo khác, thích siêu trần thoát tục, hoặc là tính cầu giác lộ, chẳng thích ngu mê. Như vậy thì mới đáng để thuyết cho.
*
-Kinh văn : “Nếu lại đã từng thấy”  tới 
                   “Mới nên thuyết cho họ”. 
Tán rằng : đây là mục nói về tuy đã phát tâm nhưng phải có sự tu tập về Lục độ. Trong đó có sáu ý : 
a) 1 tụng rưỡi : đã từng vun trồng Thí tập (có sự tu tập về hạnh Bố thí).
b) 1 tụng Tinh tiến tập.
c) 1 tụng rưỡi nói về Định tập.
d) 3 tụng nói về Giới tập.
e) 1 tụng rưỡi nói về Nhẫn tập.
f) 2 tụng nói về Tuệ tập. 
Đây là ý đầu : vì đã từng được thấy Phật, cho nên từ lâu đã vun trồng Thí tập. Như vậy mới có thể thuyết cho họ. Những điều nghiệm thấy nêu ra dưới đây tùy theo từng sự giống như ở Bồ tát địa mà kiểm nghiệm rồi thuyết cho họ.
*
-Kinh văn : “Nếu là người tinh tiến”   tới
                  “Mới nên thuyết cho họ”. 
Tán rằng : đầu tiên là 1 tụng nói về Cần (tinh tiến, siêng năng). 
Sau đó là 1 tụng rưỡi nói về Định.
*
-Kinh văn : “Lại nữa, Xá Lợi Phất”   tới 
                   “Mới nên thuyết cho họ”. 
Tán rằng : đây là 3 tụng nói về Giới tập. 
Đầu tiên là 1 tụng rưỡi nói về xả ác, cận thiện duyên. Phẩm An Lạc Hạnh sẽ thuyết về tướng này.
Sau đó là 1 tụng rưỡi nói về kiên trì tịnh giới. 
* Chữ [潔] có âm đọc là Khiết, nghĩa là thanh tịnh.
*
-Kinh văn : “Nếu người nào không sân”  tới 
                   “Mới nên thuyết cho họ”. 
Tán rằng : 1 tụng rưỡi đầu nói về Nhẫn tập, 2 tụng sau nói về Tuệ tập. 
Chất trực an thụ là Khổ nhẫn. Thường mẫn nại oán là Hại nhẫn. Kính Phật đế sát là Pháp nhẫn.
*
-Kinh văn : “Nếu có Tỳ kheo nào”  tới 
                   “Mới nên thuyết cho họ”. 
Tán rằng : dưới đây là 5 tụng nói về ý còn hay cầu pháp trọng pháp. Chia làm hai phần : 
• 2 tụng rưỡi đầu nói về ý một mực cầu đại thừa. 
• 2 tụng rưỡi sau nói về ý thành tâm cầu đại thừa.
Phần đầu này có hai :
– 1 tụng đầu nói về ý cầu pháp đỉnh thụ. 
– 1 tụng rưỡi sau nói về ý chẳng cầu kinh khác. Kinh khác ở đây chỉ kinh tiểu thừa. 
Kinh Thiện Giới nói : nếu trong học đại thừa mà chưa rốt ráo thì chẳng được học thừa khác, tứ minh luận khác. Nếu trong đã rốt ráo rồi thì hằng ngày hai phần học đại thừa nội minh, một phần học kinh khác. Trong này hoàn toàn không cho phép học kinh khác dù chỉ một kệ, như vậy là để cho hạng sơ học chuyên cầu đại thừa học và tu lâu dài.
*
-Kinh văn : “Nếu người nào chí tâm”  tới 
                    “Mới nên thuyết cho họ”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về hạng thành tâm cầu đại thừa. Có hai ý : 

– Đầu tiên là 1 tụng nói về ý thành tâm cầu đại thừa. 
– Sau đó là 1 tụng rưỡi nói về ý chẳng cầu ngoại điển, chí tâm chẳng khinh đại thừa. 
Hạng như vậy thì mới nên thuyết cho, vì chí thành có thể cảm ứng với thần, nhất niệm có thể thành thánh.
*
-Kinh văn : “Bảo Xá Lợi Phất rằng”  tới 
                   “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. 
Tán rằng : đây là mục : đối với người có trí thì nên thuyết cho họ. 
Trong này có hai phần : trên kia là tướng nên thuyết cho ; còn đây là kết luận.
 

KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ SÁU – PHẦN TRƯỚC
XONG

Ngày mồng 4 tháng 12 năm Bảo An thứ 3, sau khi đem bản của Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc ngắt câu xong. Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem in.

               để pháp trụ lâu dài, vãng sinh cực lạc.. 

Bản được chọn là bản do các bậc có danh tiếng cao, chấm ngắt văn mạch.