KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN

QUYỂN THỨ BA (PHẦN TRƯỚC)
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn

PHẨM PHƯƠNG TIỆN

Lược kê ba môn :
I .   LAI Ý (dụng ý của phẩm Phương Tiện).
II .  THÍCH DANH (giải thích danh từ trong phẩm Phương Tiện).
III.  XUẤT THỂ. 

I . LAI Ý , có ba :

1. Trong việc y vào tám phẩm làm chính tông thì Liên hoa có hai đức : xuất thủy và khai phô; Diệu pháp có hai năng là : Quả tốt và Hạnh cao. Thêm nữa, trong kinh nói rằng : “nay trong kinh này chỉ thuyết nhất thừa”, nên lấy việc đả phá nhị thừa, hội nhị thừa qui về ở nhất thừa làm chính chủ (mục đích chủ yếu) của Pháp Hoa. Cho nên ba lượt thuyết pháp là nhằm vào ba loại căn cơ.
Phẩm này thoạt đầu thuyết về nhất thừa để làm lợi cho Thu Tử. Thu Tử là bậc thượng căn, thoạt tiên đã lĩnh giải ở trong phẩm Thí Dụ, đã được Phật thụ ký cho. Cho đến “Thiên tử thuyết kệ xong”. Đó là lượt thứ nhất.
Trong phẩm Thí Dụ, Xá Lợi Phất thưa : “Tôi nay không còn nghi hối nữa…”, Phật thuyết thí dụ làm lợi cho hạng trung căn. Hạng trung căn có bốn người tín giải. Phật thuyết phẩm Dược Thảo Dụ để nhắc lại thành tựu đó, rồi thụ ký cho họ. Đó là lượt thứ hai.
Phẩm Hóa Thành Dụ nói về các duyên kết tập được xưa kia như Hóa thành chẳng thực. Đó là để làm lợi cho hạng hạ căn. Mãn Từ Tử lĩnh giải, Phật ấn thuật xong liền thụ ký cho 500 đệ tử cùng các hạng hữu học và vô học. Đó là lượt thứ ba. 
Từ đó trở xuống không còn có chỗ nào thuyết về nhất thừa nữa. Song nhất thừa là thể của Pháp Hoa. Nay chúng đã tập duyên và việc cảnh tỉnh họ đã xong, cơ duyên căn khí phù hợp đáng để trình bày về tông chỉ. Vả lại pháp thuyết nhất thừa là để lợi cho hạng thượng căn, cho nên tiếp sau phẩm Tựa thì đến phẩm Phương Tiện.

2. Trong việc y vào 19 phẩm làm chính tông, 12 phẩm đầu kể từ phẩm Phương Tiện thuyết minh về Cảnh nhất thừa; các phẩm An Lạc, Dũng Xuất thuyết minh về Hạnh nhất thừa. Còn từ Như Lai Thọ Lượng tới Thường Bất Khinh cả năm phẩm này đều thuyết minh về Quả nhất thừa. Thuyết về Cảnh để khiến họ biết thừa nào là quyền, Thừa nào là thực và khuyên họ nên bỏ quyền mà lấy thực. Thanh văn giác ngộ được điều này, liền được thụ ký.
Ở trong đây chia làm ba :

a) 8 phẩm đầu chính nhằm thuyết minh vần đề quyền thực.
b) 3 phẩm sau khen người khen pháp, khuyến khích việc trì hành. 
c) 1 phẩm Khuyến Trì sau cùng, nói về ý vâng mệnh bỏ quyền thừa, trì hành thực pháp.

Việc phân tích giải thích 8 phẩm đầu không khác gì trước kia. Cho nên tiếp sau phẩm Tựa là đến phẩm Thí Dụ.

3. Luận nói rằng : từ đây trở xuống thị hiện Sở thuyết nhân quả tướng. Câu này ý nói từ sau phẩm Tựa đầu tiên, về sau là phần thuyết minh về tông chỉ của kinh, tức là về Sở thuyết nhân quả thể tướng, tướng trạng.
Ở đây có ba điều giải thích :

1) Sở thuyết chư Phật trí tuệ là Quả. Năng thuyên trí tuệ giáo môn là Nhân, như cửa là lối để vào buồng, nên Giáo là chỗ để nêu rõ Lý. Cho nên Liên Hoa chỉ thuyết hai nghĩa Nhân và Quả, đó tức là Trí và Thuyên.

2) Sau ba lần thỉnh Phật. Phật thuyết minh về một đại sự : Khai Thị Ngộ Nhập. Ba thứ đầu là Quả, một thứ sau là Nhân. Đó chính là tông chỉ của nhất thừa. Thoạt đầu nêu lên cái ý về Trí và Môn, vì muốn khêu gợi sự hoài nghi của bọn ông Thu Tử, khiến họ cố nài xin Phật thuyết về nhất thừa. Hai nghĩa của Liên hoa tuy giải thích cho Kinh Vô Lượng Nghĩa, song Quả đẹp, Nhân nở, đó cũng chẳng sai trái với lý chung. Do đó tức là lấy Khai Thị Ngộ Nhập làm Quả và Nhân.

3) Đầu tiên là Trí và Môn. Môn là Nhân và Trí là Quả. Khai Thị Ngộ hợp ba quả. Nhập là nhân, vì Giáo Lý Hạnh Quả đều là Pháp Hoa, để cho biết rằng xưa kia Giáo Hạnh vì phương tiện mà phải thuyết tam thừa. Nay bàn về thể của thừa, Lý Quả chỉ là một : nghe Giáo của tam thừa hiển Lý của nhất thừa; hành Nhân của tam thừa; chứng Quả của nhất thừa. Đó là dụng ý của Kinh Pháp Hoa. Điều này như ở trên đã giải thích rồi.
Phẩm này thuyết minh đầy đủ về Nhân và Quả trong tôn chỉ Sở thuyết. Cho nên tiếp sau phẩm Tựa là đến phẩm Phương Tiện.

II. THÍCH DANH 

* Chữ (便 ) Tiện : có âm đọc là phiên thiết của Phương Liên. Nay đọc khứ thanh (Tiện).
Phật trí có hai loại :
      A – Chân thực trí.
      B – Phương tiện trí.
A – Chân thực trí:
Có hai loại :
• Một là thực pháp,
• Hai là thực trí.
A.I – Thực pháp  có hai :
 1. Thể thực, tức là hữu vi, vô vi.
 2. Chân thực, tức là chân như diệu lý.
A.II – Thực trí cũng có hai :
 1. Như thể thực trí, tức quán thể thực vô lậu chân trí, đối chiếu với Phàm vọng trí bất tri, đó gọi là Thực trí. Đó là có đủ Căn bản trí và Hậu đắc trí, cả hai loại.
 2. Chứng chân thực trí, chỉ là Chính thể trí.
Đây có năm đối :
1) Đối tri vọng, đó gọi là Thực trí.
2) Đối tri sự, đó gọi là Thực trí.
3) Đối tri tướng, đó gọi là Thực trí.
4) Đối tri thuyên, đó gọi là Thực trí.
Bốn loại Thực trí này đều là duy quán Chân trí thứ tư. Ngoài ra bốn sở đối khác theo như thứ tự đều là bốn Thế tục trí. 
5) Đối tri quyền trí, đó gọi là Thực trí.
Có nghĩa là lý trí nhất thừa đối Tri nhị quyền trí. Đây là căn cứ vào Chứng trí, đem Chân trí thứ tư mà đối ba Tục trí cuối. Nếu y vào Thú nhập trí thì lấy Chân trí thứ ba mà đối Tục trí thứ ba.
B. Phương tiện trí : 
Chia làm 3 hoặc 4 loại : 
B.I – Chia làm 4 loại :
1) Tiến thú phương tiện, chỉ Phương tiện trí trước kiến đạo. Tiến thú hướng quả gọi là Phương tiện. Sở học có phép tắc thì gọi là Phương. Tùy theo địa vị mà thích nghi thì gọi là Tiện.
2) Thi vi phương tiện, chỉ Phương tiện thiện xảo Ba la mật đa. Hậu trí diệu dụng, năng hành nhị lợi, nên gọi là Phương tiện. Loại này có ba :
a) Giáo hành phương tiện : ngôn ngữ âm thanh đáng làm phép tắc thì gọi là Phương. Vâng theo giáo hóa, chứng được an lạc thì gọi là Tiện.
b) Chứng hành phương tiện : trực chứng lý không thì gọi là Phương; trí thuận chính lý thì gọi là Tiện.
c) Bất trụ phương tiện : ở Chân mà hợp với Tục thì gọi là Phương; tự tha đều lợi thì gọi là Tiện.
Ba thứ nói trên đều thuộc loại thứ hai là Thi vi phương tiện.
3) Tập thành phương tiện, các pháp cùng một thể, tập thành khéo léo lẫn cho nhau, nên gọi là Phương tiện. Hơn nữa trong chân như có đủ hằng sa Phật pháp, vì lấy Trí làm Môn, lấy Thức làm Môn, đều thu nhiếp hết thảy.
Bồ Tát Địa luận nói rằng : “Pháp này thiện xảo thành, vậy nên gọi là Phương tiện”. Thập Địa luận nói: “Tổng thì đồng thì thành; Biệt thì dị thì hoại, lấy Tổng để đối đãi với Biệt, đó là Phương tiện”. Bao gồm các Tổng có phép tắc thì gọi là Phương; lấy ít chứa nhiều thì gọi là Tiện.
 4) Quyền xảo phương tiện, thực ra không có sự việc đó, vì thích ứng với ngoại vật mà quyền nghi thị hiện, nên gọi là Phương tiện. Có nghĩa là dùng phương tiện ba nghiệp mà hóa độ. Đây là đối thực trí thì gọi là Phương tiện. Làm lợi cho muôn vật có phép tắc thì gọi là Phương; tùy thời mà tế độ thì gọi là Tiện. Loại này xuất phát từ trong Thi vi phương tiện, chứ không có nghĩa gì khác. Nên Phương tiện trí chỉ có ba.
B.II – Chia làm 3 loại :
– Một là Tiếp hạ phương tiện : chỉ dẫn ở dưới.
– Hai là Hiển thượng phương tiện : chỉ hiển hiện thâm diệu.
– Ba là Thông chươngï phương tiện : khắp cả trên dưới.
1) Tiếp hạ phương tiện :
Trong kinh này nói : “Trong mười phương cõi Phật chỉ có pháp nhất thừa, không có nhị thừa cũng không có tam thừa, trừ khi Phật phương tiện thuyết”. Còn nói : “Chính trực bỏ phương tiện, chỉ thuyết đạo Vô thượng”. Ở trong bốn thứ trên, đó là phương tiện quyền xảo. Đây chính là có ba :
+ Thân phương tiện : đó là như chuyện Già Da thành đạo v.v… cầm đồ hốt phân và mặc áo bẩn.
+ Ngữ phương tiện : như ở dưới nói rằng “Chín bộ pháp này của ta lấy việc chứng nhập đại thừa làm gốc”. Thêm nữa, như việc Phật đến Ba La Nại chuyển pháp luân Tứ đế v.v… 
+ Ý phương tiện : như ở dưới nói rằng  “Sau lại nhớ tới lực phương tiện mà Phật quá khứ đã dùng, ta nay chứng được đạo cũng nên thuyết tam thừa” v.v… đó là trên thì giống với Phật xưa, dưới thì thuận theo hữu tình.
Phật Địa luận nói : “Thành sở tác trí, khởi tam nghiệp hóa” giống hệt như đây. Căn cứ vào đây thì giải thích rằng : Thi vi đáng để làm phép tắc thì gọi là Phương; khéo thích nghi với căn cơ thì gọi là Tiện.
Vãng Sinh luận nói : “Chính trực gọi là Phương. Đặt mình ra ngoài là Tiện. Phương là Phương thuật. Tiện là ổn tiện. Phương thuật ổn tiện gọi là Phương tiện”.
2)  Hiển thượng phương tiện :
KinhVô Cấu Xưng nói : “Có phương tiện thì Giải (giải thoát), không phương tiện thì Phược (bị trói buộc)”. Trong kinh này nói : “Ta đặt ra phương tiện này để khiến cho được nhập Phật tuệ. Hết thảy các Như Lai đều dùng vô lượng phương tiện mà độ thoát cho các chúng sinh nhập trí vô lậu của Phật”. Thoạt đầu đặt ra phương tiện để sau đó tỏ rõ Phật trí, đó tức là Thi vi phương tiện trong bốn loại phương tiện. Lý diệu đáng noi theo thì gọi là Phương. Xảo dụng năng hiển thì gọi là Tiện. Nghĩa thì sâu xa, lời thì xảo diệu, tiện thông giáo lý. Phương pháp tiện lợi nên gọi là phương tiện.
3) Thông chương phương tiện :
Trong kinh, đại chúng nghi ngờ nói : “Cớ sao Thế tôn lại ân cần khen ngợi phương tiện mà nói lời này : Pháp mà Phật chứng được rất sâu, khó hiểu. Những lời nói ra, ý chỉ khó biết”. Phương tiện là Tổng (nói chung). Hai câu dưới là Biệt (nói riêng). “Pháp mà Phật chứng được” là hiển thượng, nói rõ nay là nhất Thực. “Những lời nói ra” là tiếp hạ, nói rõ trước kia là tạm Quyền.
Lại nói : “Phật biết tất cả những điều đó rồi, bèn dùng các duyên thí dụ, ngôn từ, phương tiện lực để khiến cho hết thảy đều hoan hỉ”. Vì Tiếp hạ Hiển thượng cả hai đều thông, đó tức là 12 loại phương tiện thiện xảo Ba la mật đa, tùy theo sự thích ứng mà phối nhiếp.
Phương là phép tắc để tất cả chúng sinh đủ loại căn cơ noi theo. Tiện là thích nghi chủ yếu với cái lý cứu giúp chúng sinh.
* Phương : chỉ phương quĩ, phương pháp. Tiện : chỉ yếu tiện, nghi tiện. Tình : chỉ hữu tình. Cơ : chỉ cơ yếu.
Tất cả phép tắc thu nhiếp cơ trí của loài hữu tình đủ mọi căn cơ, đó gọi là Phương, bởi vì quán thông cả người cả pháp. 
* Vật : chỉ nhân vật. Lý : chỉ đạo lý. 
Thích nghi chủ yếu với đạo lý cứu giúp làm lợi ích cho nguời cho vật, thì gọi là Tiện, vì giúp ích cho cả người và pháp.
Ở đây muốn nêu rõ cái phép tắc giúp ích cho người, cho pháp nên gọi là Phương tiện. Vừa phương vừa tiện nên gọi là Phương tiện. Do nghĩa này mà suy thì mới thông được ba điều giải thích. Ba loại gộp lại là 12 loại phương tiện thiện xảo Ba la mật đa, tùy theo sự thích ứng mà phối nhiếp.
Du Già luận quyển 45 nói rằng : Trong 12 loại đó, sáu loại đầu dựa vào sự tu chứng ở bên trong, sáu loại sau y vào sự thành thục ở bên ngoài.
12 loại Phương tiện thiện xảo Ba la mật đa a :
– Sáu loại bên trong là :
1) Bi tâm cố luyến.
2) Liễu tri chư Hành.
3) Ưa Phật diệu trí.
4) Chẳng bỏ sinh tử.
5) Luân hồi chẳng nhiễm.
6)  Dũng mãnh tinh tiến. 
– Sáu loại bên ngoài là : 
7) Khiến dùng ít điều thiện như thí v.v… mà cảm được vô lượng quả.
8) Khiến dùng ít lực như giới v.v… mà dẫn được thiện căn lớn.
9) Những kẻ ghét Thánh giáo thì trừ bỏ được sự thù ghét.
10) Những kẻ đã trụ trong Thánh giáo thì khiến họ tiến nhập.
11) Những kẻ đã tiến nhập thì khiến họ thành thục.
12) Những kẻ đã thành thục thì khiến được giải thoát.
Ở đây Tiếp hạ tức là ngoại thành thục, Hiển thượng tức là nội thành thục. Thông chương  là nội ngoại gộp lại là 12 loại. Trong 12 loại, để thành 4 loại sau, còn phải tu 6 loại phương tiện thiện xảo :
6 loại Phương tiện thiện xảo : a

1/ Tùy thuận hội thông :
Định thuyết pháp cho ai thì trước tiên thị hiện thân đẹp đẽ, lời nói nhu nhuyễn khiến họ sinh lòng yêu kính, thích được  nghe pháp, sau đó dần dà mới thuyết cho họ. Nếu họ chẳng hiểu được mật ý của Không, thì dùng ngôn ngữ giáo hóa họ rằng : Hết thảy mọi pháp đều không có Tự tính không có Sự tướng, không sinh không diệt, như huyễn như mộng v.v… như Lý hòa hợp.
Kinh kia chẳng nói hết thảy pháp đều không hiện hữu mà chỉ là không có cái gì để chấp vào đó mà nói có Tự tính. Căn cứ vào đệ nhất nghĩa thì chẳng phải là tự tính của nó. Tính Sự của nó đều không có gì cả thì làm gì còn có Sự sinh diệt ? Hơn nữa, nó như huyễn mộng v.v…  chẳng phải như hiển hiện. Và chẳng phải là các Sự tướng đó đều không có gì cả, nên nói là như huyễn để họ liễu tri.
2/ Cung lập yến khế :
Có người đến cầu pháp, trước hết dạy họ các điều kiện chung sống và các việc cần phải làm, khiến họ biết ân đức, cúng dàng cung kính, trì tịnh giới v.v… rồi sau mới thuyết pháp cho.
3/ Dị phân ý lạc :
Đã dạy họ điều kiện chung sống và các việc cần phải làm rồi mà kẻ đó chẳng thực hành ngay, thì với dụng ý là làm lợi cho hắn, cho nên trước hết chẳng thí pháp cho hắn mà tùy thuận giáo hóa dẫn đạo cho thân hữu. Nếu kẻ đó thấy vậy mà chẳng theo học, thì thị hiện tướng giận dữ. Nếu hắn làm việc sai trái, thì giả vờ chẳng tùy giúp gì cho hắn.
Những việc đó là lúc quyền nghi tạm thời bề ngoài thị hiện ra vẻ ruồng bỏ chứ chẳng phải là trong lòng chẳng muốn cứu vớt hắn.
4/ Bức bách sở tác :
Khi đã có sực tự tại, đối với thân thuộc v.v… thì có thể răn dạy một cách chính quy. Nếu là kẻ hủy giới chẳng biết ân đức v.v… thì có khi phải đoạn tuyệt với điều sở cầu của y, xua đuổi, đánh mắng y, bắt y phải thực sự tu tập theo quy củ.
5/ Thi ân báo ân :
Đối với những người đã từng có ân đức lớn với mình, mà họ mong được báo đáp, thì khuyên họ tu thiện, đó gọi là Đại báo ân.
6/ Cứu cánh thanh tịnh :
Khi đạo quả mãn rồi thì trụ ở Tri Túc thiên cho đến lúc hạ sinh thành bậc Đẳng chính giác. Vì muốn cho chúng sinh ưa thích nên giáng sinh theo đức Như Lai xuống cõi trần, thỉnh chuyển pháp luân để làm lợi ích rộng rãi cho chúng sinh. Đó tức là phương tiện được nêu lên ở đây.
Trong sáu loại trên tùy thuận hội thông, có nghĩa là hội ba Quyền thừa xưa kia để thông một Thực thừa ngày nay.
Quyết Trạch Duy Thức luận còn nói là có hai loại :
1 – Bạt tế phương tiện thiện xảo, tức là sáu loại bên ngoài.
2 – Hồi hướng phương tiện thiện xảo, tức là sáu loại bên trong.
Theo như sự thích ứng của các phương tiện đó mà đều được thu nhiếp vào đây.

III.  XUẤT THỂ 

Tính có nghĩa là phương tiện lấy trí tuệ làm tính. Trong Vô phân biệt trí, dung nạp theo chân cảnh. Trong Hậu đắc trí, dùng để lợi tha thuyết pháp, vì có khả năng khởi diệu dụng phương tiện, nên lấy Hậu đắc trí làm tính.
Duy Thức v.v… nói rằng năm Ba la mật đa sau đều là Hậu đắc trí, vì là tính. Năng thuyên, Sở thuyên về tính đó lại có sự phân biệt nhân trí mà hiển lộ. Nay theo Căn bản trí, nên trí là tính.
Phần dưới là giải thích bản văn. 
Trong lượt một có bốn ý :
1. Thế tôn hiểu dụ.
2. Thu Tử lĩnh giải.
3. Như Lai thuật thành.
4. Phật thụ ký cho.
Và văn nói về trung hạ căn chia làm bốn : trong bốn chỗ này, chỗ đầu là phẩm Phương Tiện, ba chỗ sau đều ở trong phẩm Thí Dụ.
Trong mục Thế tôn hiểu dụ, Luận lại phân tích làm 5 phần : 
1) Tán thán Pháp thắng diệu. Đó là đoạn “Ta từ khi thành Phật”.
2) Tán thán công đức Pháp sư. Đó là đoạn “Bấy giờ, A la hán lậu tận trong chúng”.
3) Đại chúng định nghi. Đó là đoạn “Phật bảo Xá Lợi Phất : Thôi thôi ! Chẳng cần nói nữa, nếu nói sự này thì hết thảy thế gian đều sẽ kinh nghi”.
4) Định ký. Đó là đoạn “Này Xá Lợi Phất ! Chư Phật xuất hiện ở đời ác thế ngũ trược”.
5) Đoạn nghi. Đó là đoạn “Pháp là thầy chư Phật, người do pháp mà thành đức. Vì người là năng hiển, pháp nhờ người mà truyền rộng”.
Đầu tiên khen pháp hay, sau đó khen người giỏi. Các Thanh văn v.v… đối với những pháp bản thân chứng được, cho rằng đó là quyết định, nghe thấy tán thán những điều sở thuyết, bèn đâm nghi ra nghi ngờ, cho nên có phần Định nghi.
Những điều định làm, đức Phật vốn đã định trước trong tâm rồi, song ngài bảo “Thôi”, là cốt để Xá Lợi Phất cố nài xin và cũng là để những kẻ ác phải rút lui. Đã giải thích nghĩa đó rõ ràng như vậy, cho nên có phần Định ký.
Trong chúng nhân được nghe những điều đã nói trước kia, vẫn còn có kẻ nghi ngờ, Phật phải giải thích lại, nên có phần Đoạn nghi. Thế là thành ra năm phần.
  Chia làm hai phần
a :
– Phần đầu là phần tán thán Pháp và Sư (chúng tăng) thắng diệu, chúng bèn sinh nghi.
– Phần sau là phần Phật lại Định ký và giải thích cho. Chúng vẫn còn nghi, Phật lại giải mối nghi đó.
Vì vậy chia làm hai phần.
Trong phẩm này, nay phân tích làm bốn nội dung l :
1) Hai thậm thâm, đề xướng cảnh tỉnh trước, để quan sát cái tâm của chúng sinh.
2) Bốn chúng kinh nghi, phát dương sự thưa thỉnh của Thu Tử. 
3) Mở ra Thực tướng này, giải thích Quyền môn kia.
4) Khuyến phát hỷ tâm, khiến chúng sinh thích làm Phật.
Đó là ba hàng tụng ở cuối phẩm.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn”  tới  “điều chẳng thể biết”. 
Tán rằng : hai thậm thâm trước tiên nêu lời cảnh  tỉnh quan sát tâm của chúng sinh. 
Trong văn có hai : đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng có hai phần :
– Phần đầu là tán thán pháp sở chứng sở thuyết diệu mầu.
– Phần thứ hai “Từ khi ta thành Phật” trở đi, tán thán thân Như Lai – Pháp sư năng chứng năng thuyết thắng diệu.
Trong phần đầu lại có hai phần :
+ Đầu tiên nêu chung về Thắng diệu.
+ Sau đến “Sở dĩ như vậy là vì sao?” giải thích sự Thắng diệu ấy.
Phần đầu tiên nay lại chia làm 2 phần :
a) Phần đầu nói rõ Phật tự tại từ Định mà khởi dậy.
b) Phần sau bảo Thu Tử đó là chính thức trình bày pháp sở thuyết.
An : có nghĩa là từ từ.
Tường : có nghĩa là rành mạch. 
Luận giải thích rằng : ở nơi Như thực trí quán, từ Tam muội từ tốn tỉnh táo mà trỗi dậy, trỗi dậy rồi bảo với Xá Lợi Phất, đó là để thị hiện Như Lai đắc Tự tại lực, Như Lai nhập định thì không ai có thể làm kinh động khiến ngài xuất định. Quán Vô lượng nghĩa xứ Định, đó gọi là Như thực trí quán. 
Phật định thù thắng có hai nghĩa g : 
1) Phật đã nhập định rồi thì những người khác chẳng thể làm kinh động khiến Phật từ Định mà khởi dậy. Nếu chẳng phải là Phật tự xuất định thì những người khác chẳng thể khiến Phật xuất định. Cho nên Phật tự mình từ Định mà trỗi dậy. 
2) Hơn nữa còn thể hiện Phật ở trong Định tùy ý nhập xuất vì được tự tại. 
Tức là do hai nghĩa trên nên từ Định mà trỗi dậy. Tuy là Vô lượng nghĩa xứ Tam muội nhưng phần nhiều là Đệ tứ thiền, vì công đức thù thắng.
“Chẳng bảo người khác, chỉ bảo một mình Xá Lợi g Phất, vì tương ứng với Như Lai về trí tuệ sâu” : 
Có nghĩa là Xá Lợi Phất là bậc tối thượng trong hàng Thanh văn, trí tuệ lợi căn vừa nghe đã hiểu, là người ngộ nhập đầu tiên. Phật phàm thuyết pháp ắt phải ứng với căn cơ. Do Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất, căn pháp phù hợp với nhau, nên gọi là tương ứng.
Tương ứng có nghĩa là Tùy thuận. Chẳng phải là trí tuệ tương tự thì gọi là tương ứng. Căn hợp với Phật pháp thì gọi là tương ứng. Cho nên chẳng bảo với Bồ tát. Luận có năm nghĩa :
1/ Vì đó là việc mà các Thanh văn phải làm. Diệu Pháp Liên Hoa là để thuyết cho hàng Thanh văn, vì việc Thanh văn phải làm là bỏ quyền thừa, đó chẳng phải là việc của Bồ tát.
2/ Để cho các Thanh văn hồi hướng đại bồ đề, khiến họ phát tâm hướng tới quả đại thừa.
3/ Gia hộ cho các Thanh văn vì sợ họ khiếp nhược. Nếu bảo với Bồ tát thì các Thanh văn nghe thấy sẽ cho rằng nhất thừa này chẳng phải phần mình, tâm sinh khiếp nhược, chẳng thể tiến tu. Nay bảo Thanh văn, để họ trừ bỏ ý đó : “Đấy là phần của các ngươi, hãy trừ bỏ tâm khiếp nhược”.
4/ Để cho những người khác suy ngẫm cho tốt, để khiến cho các vị Thanh văn khác suy ngẫm cho tốt. Nghĩ rằng “Xá Lợi Phất kia đã được Phật bảo cho. Ta là người cùng bọn ông ấy, chắc cũng được bảo”, rồi sinh ra tin tưởng ngưỡng mộ sâu sắc, khởi tâm tu tập.
5/ Để cho các Thanh văn chẳng khởi tâm, cho rằng những việc phải làm đã làm xong. Xưa kia các Thanh văn cho rằng họ chứng được Diệt đế, về quả đã mãn, đã chứng trọn vẹn, những gì cần  làm đã làm xong. Nay tán thán pháp diệu mầu, bảo họ là chẳng biết, khiến họ bỏ cái tâm tiểu thừa.
Bồ tát đối với năm sự nói trên hoàn toàn chẳng tương ứng, nên tuy lợi căn mà Phật chẳng trực tiếp dạy họ, chỉ gián tiếp dạy họ, như vậy cũng chẳng sai, vì dạy cho người trong ba thừa hễ ai có điều nghi hối thì khiến họ đều đoạn trừ, vì trực tiếp dạy hạng Bất định tính thì cũng là dạy luôn cho cả các hạng khác.
Pháp được tán thán đại để gồm 2 loại g : 
– Một là Trí tuệ.
– Hai là Trí tuệ môn. 
Cho nên luận nói rằng có hai thứ thậm thâm (rất sâu) : 
1) Chứng thậm thâm (chứng rất sâu) chỉ trí tuệ.
2) A Hàm thậm thâm (A hàm rất sâu) chỉ trí tuệ môn. 
Trí tuệ môn tức là Giáo năng thuyên. 
Trí tuệ thậm thâm (trí tuệ rất sâu) là Lý sở thuyên. 
Tiếng Phạm : A Cấp Ma, ở phương đây gọi là Giáo. Hoặc dịch là Truyền, vì là chư Phật thượng cổ truyền tới ngày nay. Nghĩa thậm thâm này chung cho cả Giáo và Lý.
Song chính ra Lý mới được gọi là thậm thâm. Môn thâm thì chỉ gọi là khó thấy, khó giác ngộ v.v… Sự chẳng biết của nhị thừa cũng chung cho cả hai thứ này. Ngoài ra phân biệt thuộc về hai pháp Lý, Giáo. Ý của luận là như vậy. 
Luận nói rằng : Trí tuệ là Nhất thiết chủng, Nhất thiết trí trí nghĩa. Trí của người Nhất thiết trí gọi là Nhất thiết trí trí.
Thể nghiệm thông suốt tính tướng thì gọi là Nhất thiết chủng. Đó tức là Phật quả vị Niết bàn Bồ đề. Hoặc Nhất thiết trí có nghĩa là Vô phân biệt trí. Lặp lại chữ Trí đó là Hậu đắc trí. Nghĩa đây là cảnh, tức là cảnh của Nhất thiết trí trí, nên gọi là Nhất thiết trí trí nghĩa. Cảnh đó là gì ? Đó là chỉ Nhất thiết chủng.
Nhất thiết chủng có nghĩa là tất cả dù là Không 
hay là Hữu, là hữu vi hay vô vi, là hữu lậu hay vô lậu, là Giáo hay Lý đều gọi là Nhất thiết chủng. Chủng có nghĩa là chủng loại. Pháp thể chủng loại rất nhiều, chẳng phải chỉ có một loại. Thu nhiếp hết thảy thì gọi là Nhất thiết chủng, có nghĩa là Nhất thiết chủng này là cảnh của Nhất thiết trí trí. Thế thì Nhất thiết chủng cảnh này gọi là Trí tuệ Sở thuyên.
Nay căn cứ vào lý mà xét đến cùng, thì Trí tuệ có g 5 thứ thu nhiếp hết thảy các pháp mới gọi là Nhất thiết chủng :
1. Trí tuệ tính : chỉ chân như, nên đoạn dưới của kinh nói rằng : “Chỉ có Phật mới rốt ráo hết thực tướng các pháp”. Luận tự giải thích rằng : Như Lai tạng tính là thể, bao gồm mọi pháp, tác thành cho người. Sự tác thành cho người tức là trí tuệ. Nên dẫn ở dưới ra làm chứng.
2. Trí tuệ tướng : tức hai trí Vô lậu năng quán, chính thể Hậu đắc, là thể. Kinh nói rằng : “Phương tiện tri kiến đều đã đầy đủ, suy nghĩ hết mức, cùng nhau ước đoán mà chẳng thể lường được Phật trí v.v…”. Đó chính là nói về điều này.
3. Trí tuệ bạn (bạn của trí tuệ) : đó là trần sa vạn đức, công đức hữu vi. Kinh nói rằng : “Như Lai tri kiến rộng lớn sâu xa, vô lượng, vô ngại lực, vô sở úy đều đầy đủ v.v…”. Đó chính là nói về điều này.
4. Trí tuệ nhân (nhân của trí tuệ) : đó là chỉ Giáo năng thuyên cùng vạn hạnh. Chính là thứ mà kinh nói rằng : “Trí tuệ môn ấy khó lý giải, khó ngộ nhập”. 
Luận rằng : A hàm thậm thâm. Thêm nữa luận còn dẫn kinh nói : “Như Lai có thể thuyết minh mọi pháp, mọi loại ngôn từ”. Lại nói : tu hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật.
5. Trí tuệ cảnh (cảnh của trí tuệ) : chỉ mọi cảnh của Không hoặc Hữu, hữu vi hay vô vi, tục đế hay chân đế. Kinh nói : “Tướng như vậy, tính như vậy v.v…”. Đó  chính là nói về thứ này.
Nay Trí tuệ môn tức là phương tiện, vì Giáo năng thuyên sâu, nên Lý sở thuyên sâu. Ngay bốn tuệ khác, nghĩa tuy có thể như thế, nhưng y vào các Giáo, trong năm thứ thậm thâm, phần nhiều chỉ lấy tuệ tính chân như làm thể, nhờ A hàm thậm thâm tức ba giáo xưa kia mà Chứng thậm thâm tức là nhất thừa thể; Vô thượng thậm thâm tức là đại Bồ đề. 
Cho nên trong Kinh Thắng Man nói : “Thể của nhất thừa chỉ là chân như ”. Đó tức là Bảo sở trong phẩm Hóa Thành. Nay trong kinh này y vào Thực thắng tuệ, chỉ lấy trí tính trí tướng làm thể. 
Bồ đề, Bồ đề đoạn đều gọi là Bồ đề; Trí và Trí xứ đều gọi Bát nhã, vì thu nhiếp hết thảy, vì nhà lửa xe trâu tức là Trí tướng, vì xe trâu ý nói chỗ làm (sở tác) tuy khác nhau, nhưng chỗ được cho (sở dự) là một.
Bảo sở : sẵn có từ lâu đời, vì đó tức là trí tính, vì chúng cùng nhiếp thủ, vì Thị Ngộ tri kiến tức là hai thứ. Do hai thứ này có, nên ba thứ khác tự thành.
Dưới nói : “một đại sự nhân duyên”,  tức là chỉ có hai thứ đó, dù là Nhân hay Quả. Có nghĩa là trí tuệ này là chân lý nhất thừa, Trí tuệ môn ấy là quyền giáo tam thừa. Nêu chung hai loại thực và quyền, về Lý và Giáo hai thứ có sự phân biệt, muốn khiến nhị thừa bỏ quyền lấy thực, tu hành cái Nhân để chứng cái Quả. Vậy nên Kinh Thắng Man do đó mới nói rằng : “bọn nhị thừa v.v… bốn trí cứu cánh, chứng được Niết bàn”. Đó là Phật phương tiện, vì muốn khiến bỏ hai quyền thừa mà lấy một thực thừa.
Chứng thậm thâm.  a
Luận nêu hai nghĩa : một là Thể diệu, hai là Nan liễu (khó hiểu) :
– Thể diệu : Luận giải thích rằng : Chứng thậm thâm có năm loại.
– Nan liễu : Luận rằng : Thậm thâm hơn nữa, vì đó là thứ mà hết thảy Thanh văn, Bích chi Phật đều chẳng thể biết.
Năm thứ thậm thâm đó xưa nay chỉ y vào chân như mà t giải :
1) Nghĩa thâm, đó là nghĩa sai biệt.
2) Thể thâm, đó là thể tự tính.
3) Nội chứng thâm, vì chính trí nội chứng, các trí khác chẳng chứng đắc.
4) Y chỉ thâm, vì pháp giới pháp tính là gốc của chư Phật.
5) Vô thượng thâm, vì thể tối thắng, chỉ đại Bồ đề tức là quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác chứng được.
Nếu kiêm cả Quán chiếu Trí tính Trí tướng nữa, thì t gọi gộp là Ngũ chứng thậm thâm :
1/. Nghĩa thậm thâm : là tác dụng  (công năng) rất sâu như bản thân nó của Chính trí như.
2/. Thể thậm thâm : chỉ chân như, vì đó là bản tính của pháp.
3/. Nội chứng thậm thâm : nêu rõ thêm về Chính trí. Vì như như sâu xa bên trong, bởi vậy gọi là Thâm (sâu).
4/. Y chỉ thâm : nêu rõ thêm về chân như. Vì là gốc của mọi đức, bởi vậy gọi là Thâm.
5/. Vô thượng thâm : chỉ đại Bồ đề. Đại Bồ đề là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà Như Lai chứng được.
Kim Cương Bát Nhã luận của ngài Vô Trước nói rằng : Vô thượng Bồ đề là Lý của pháp thân. Tam miệu Tam Bồ đề là Trí của báo thân. Cho nên đó tức là thuyết minh chung cho cả hai loại này. 
Thể hơn hết thảy, bởi vậy gọi là Thâm. Đó là bản ý. Nếu giải thích theo nghĩa chung thì hoặc tùy theo sở ứng, sở thuyên, bốn tuệ đều có bốn thâm : Nghĩa, Thể, Chứng, Y; Hoặc bốn pháp : Trí tuệ tướng, Trí tuệ tính, Trí tuệ bạn, Trí tuệ cảnh, theo như thứ tự lần lượt phối với bốn loại thậm thâm đầu. Chỉ có Vô thượng thâm là tại đại Bồ đề, vì là chủ của mọi đức. Thêm nữa, vì chẳng phải là Dụ, Sở dụ, Tư nghị, Sở tư nghị, nêu gọi là Thậm thâm (ý nói : chẳng thể thí dụ, chẳng thể nghĩ bàn).
Trên đây giải thích nghĩa của Thâm, mới chỉ nói về Trí tuệ, chứ chẳng phải nói chung cho cả Tuệ môn.
Nếu căn cứ vào luận giải của kinh thì Tuệ môn cũng có năm. Luận gọi tổng hợp các câu (tổng cú) là A hàm thâm, nên đó tức là năm thứ khó hiểu rõ ở văn kế dưới đây :
 Vô lượng : có nghĩa là Trí tính, Trí tướng, Trí bạn, Trí cảnh. Theo như thứ tự, về Thể thì khắp, về Dụng thì rộng, về Đức thì đủ, về Pháp thì phổ biến rộng, vô hạn ä như hư không, số đức vô cùng, cuối ắt vô tận, nên gọi là Vô lượng.
Song nay chỉ nói Trí tính, Trí  tướng, hai loại trí tuệ đó gọi là Vô lượng, vì Thể, Đức, Dụng đều là vô hạn, vô cùng tận.
Trí tuệ môn thậm a thâm.
 Cũng có hai nghĩa : một là Thể diệu, hai là Nan liễu.
– Thể diệu, thì luận dẫn kinh nói rằng : Trí tuệ môn đó nan kiến, nan giác, nan tri, nan giải, nan nhập (khó nhìn thấy, khó cảm thấy, khó biết, khó hiểu, khó ngộ nhập). Có đủ năm thứ khó đó.
– Nan liễu (khó hiểu rõ), vì hạng nhị thừa chẳng biết khó ngộ bởi vì 5 lý do :
a) Do Trí nghĩa thâm, nên môn đó nan kiến.
b) Do Trí thể thâm, nên môn đó nan giác.
c) Do Trí nội chứng thâm, nên môn đó nan tri.
d) Do Trí y chỉ thâm, nên môn đó nan giải.
e) Do Trí vô thượng thâm, nên môn đó nan nhập.
Đó là đem năm thứ khó về Giáo mà lần lượt phối hợp với năm loại thậm thâm của Trí tuệ. 
Thêm nữa, Trí có hai :
1. Phàm trí.
2. Thánh trí.
Phàm trí có hai :
1. Hiện trí.
2. Tỉ trí.
Phàm Hiện trí chẳng biết thì gọi là Nan kiến (khó thấy). Tỷ trí chẳng biết thì gọi là Nan giác.
Thánh trí có hai :
1. Hữu lậu.
2. Vô lậu.
Hữu lậu thế tục trí chẳng liễu ngộ được thì gọi là Nan tri (khó biết).
Vô lậu trí có hai thứ :
1. Căn bản trí. 
2. Hậu đắc trí.
Vô lậu trí đầu chẳng biết thì gọi là Nan giải (khó hiểu).  Vô lậu trí sau chẳng biết thì gọi là Nan nhập (khó ngộ nhập).
* Nhập : có nghĩa là Chứng giải.
Nay trong kinh này chỉ có hai Vô lậu trí chẳng biết, cho nên nói là nan giải nan nhập. Nêu chung cả hai thứ Chứng Giáo đều nan liễu, nói : “Vì hết thảy Thanh văn Bích chi Phật đều chẳng biết, chỉ có Phật mới biết được”.
Tại sao tán thán 2 thứ Thậm thâm a ?
Sở dĩ ngày nay Phật tán thán hai thứ thậm thâm, luận tự giải rằng : vì đó là để cho đại chúng sinh tâm tôn trọng, rốt cuộc muốn nghe Như Lai thuyết pháp. Vì đó là cái cách dắt dẫn dần dà cho phần ở dưới Phật sẽ nói rằng : “nhất thừa chân thực, pháp mà Phật chứng đắc rất sâu, khó hiểu”.
Trước tiên tán thán Trí thâm, là cốt để tỏ rõ cái cách dẫn dắt dần dà cho phần sau Phật tán thán có những ngôn thuyết ý nghĩa khó biết, nhị thừa chỉ là  quyền thừa.
Thứ đến, tán thán Môn thâm làm cho đại chúng phát tâm muốn nghe pháp. Chẳng thế thì chỉ cần tán thán Trí tuệ thậm thâm, bao gồm chung cả muôn đức để thành Phật.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ vì sao ?”  tới  “ý hướng khó hiểu”. 
Tán rằng : đây giải  thích “A hàm thậm thâm”  đã nêu ra ở trên. Trong này có hai phần : đầu là hỏi, sau là đáp.
-HỎI : “Sở dĩ vì sao ?” nghĩa là muốn hỏi rằng :
Ý đầu : pháp mà Phật chứng đắc, được gọi là giải thoát, ba thừa cùng $ ngồi ở giường giải thoát, nhị thừa cũng chứng đắc, ngôn giáo phương tiện họ cũng đã y theo mà tu học ; Cớ sao nay lại nói hai loại này nhị thừa chẳng biết ? 
Chẳng biết tức là nghĩa của “Sở dĩ vì sao ?”.
Ý sau : thêm $ nữa, ý hỏi này muốn nói : trí tuệ của Phật, nhị thừa chưa có được, nên có thể gọi là thậm thâm. Còn trí tuệ môn, nhị thừa đã đắc, vì sao gọi là thậm thâm, vì sao nói là nhị thừa chẳng biết ? 
ĐÁP : Nếu căn cứ vào ý hỏi đầu để giải thích “Sở dĩ vì sao ?” thì về giải thoát chứng được, ba thừa tuy giống nhau, nhưng Bát nha,õ Pháp thân, Tướng, Tính, Trí tuệ là những thứ mà nhị thừa chưa chứng được, chắc chắn là họ chẳng biết. Vả lại Trí tuệ môn họ cũng chưa hiểu thấu. Từ đây trở xuống chỉ giải thích tám loại rất sâu của A hàm, muốn nêu bật cái ý: “nhị thừa ngay đến sự thậm thâm của Giáo họ còn chẳng thể biết, huống nữa là trí tuệ Phật”.
– Nếu căn cứ vào ý hỏi sau để giải thích “Sở dĩ vì sao ?”, thì câu hỏi vì sao Giáo môn thâm trước kia, nay sẽ giải đáp đầy đủ. Cho nên từ đây trở xuống chỉ giải đáp rõ ràng về Giáo thâm. Luận giải thích kinh có tám câu. Nay văn ở đây chỉ có sáu câu. Cứ theo như luận thì phải nói rằng : “Phật đã từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, tu hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tiến, danh tiếng vang khắp, thành tựu được pháp thậm thâm vị tằng hữu (rất sâu chưa từng có), pháp khó hiểu Như Lai biết được, những điều ngài tùy nghi mà nói ra, ý thú khó hiểu, đó là những điều mà hết thảy Thanh văn Bích chi Phật  đều chẳng thể biết được”.
Thêm vào trong kinh hiện nay câu thứ sáu “Pháp 
khó hiểu, Như Lai biết được” và thêm câu thứ tám “hết thảy Thanh văn Bích Chi Phật đều chẳng thể biết được”, cho nên thành ra tám Thâm :
•Câu thứ nhất  “Phật đã từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật”, đó là Thụ trì đọc tụng thậm thâm. Vì đây nêu bật việc Thế tôn trải ba đại kiếp cúng dàng 26 hằng hà sa Phật, thụ trì đọc tụng pháp môn này ở nơi chư Phật đó, bởi vậy rất sâu, chẳng phải như pháp môn của nhị thừa kia mới lướt qua đã có thể hiểu ngay được, cho nên gọi là Thậm thâm.
•Câu thứ hai  “Tu hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật”,  đó là Tu hành thậm thâm. Vì Trí Phúc nhị lợi đạo hạnh của chư Phật đều tu hết, chẳng phải như nhị thừa mới tu sơ qua về nhân, cho nên gọi là Thậm thâm. Trong đó thảy đều biết một cách đúng đắn.
•Câu thứ ba  “Dũng mãnh tinh tiến”, đó là Quả hành thậm thâm. Quả có nghĩa là quả quyết. Tinh thuần dũng hãn, chịu nổi mệt mỏi, làm gì đều thành, đó gọi là quả quyết. Hoặc do tinh tiến, làm gì cũng khéo thành, nay được thắng quả gọi là Quả thậm thâm. Vì Phật lúc còn Bồ tát tu nhân, đã vì một câu mà nhảy vào lửa, vì nửa bài kệ mà liều xả thân, sáu năm khổ hạnh, bảy ngày kiễng chân chứ chẳng phải là chẳng chuyên tinh, cần lao mà chứng được.
•Câu thứ tư “Danh tiếng vang khắp”, đó là Tăng trưởng công đức tâm thậm thâm. Do danh vang dội, phàm thánh đều biết, càng giúp động viên bản thân thêm siêng tu đoạn, cái công đức tâm của bản thân càng tăng trưởng thêm gấp bội. Hoặc danh vang dội, người khác nghe thấy nên đều tăng trưởng cái công đức tâm, hết thảy đều nghe tiếng đều biết tiếng nên thành Thậm thâm.
•Câu thứ năm “Thành tựu pháp thậm thâm vị tằng hữu”, đó là Khoái diệu sự tâm thậm thâm. Do pháp thành tựu được là vị tằng hữu khoái diệu thắng sự (sự tốt đẹp khoái diệu chưa từng có), nên cái tâm năng thành cũng là khoái diệu. Dùng khoái diệu tâm mà thuyết, nên Giáo khó biết.
•Câu thứ sáu “Pháp khó hiểu, Như Lai cũng biết được”, đó là Vô thượng thậm thâm. Do pháp cực kỳ khó hiểu,  Như Lai cũng biết được, nên pháp môn đó thành vô thượng, hoặc pháp thể nan giải tức là vô thượng, chỉ có Phật mới biết, nên gọi là Thậm thâm.
•Câu thứ bảy “Những điều mà Phật tùy nghi nói ra, ý thú khó hiểu”, đó là Nhập thậm thâm. Nhập thậm thâm có nghĩa là ý của danh tự chương cú khó thể nắm được. Vì Phật tự trụ trì nhập giải ý đó, khác với ngoại đạo tự mình chẳng hiểu được thì làm sao mà khiến kẻ khác hiểu, cho nên nói rằng pháp nhân duyên cực Thậm thâm. 
Nhập có hai nghĩa :
– Một là vì khó nhập giải, chỉ riêng Phật tự giải.
– Hai là vì điều Phật tùy nghi nói ra khiến người khác nhập pháp, ý thú khó giải , gọi là thậm thâm.
•Câu thứ tám “Điều mà hết thảy Thanh văn Bích chi Phật chẳng thể biết được”, đó là Bất cộng Thanh văn Bích chi Phật sở tác trụ trì thậm thâm. Chẳng giống với sở tác của nhị thừa. Ngoài lợi sở tác, trong lợi trụ trì, nên thành Thậm thâm.
Trên đây tóm lại thì do gần chư Phật, thụ trì, đọc tụng, tu hành, quả quyết, tăng trưởng công đức tâm, chứng khoái diệu sự, thành vô thượng pháp, nên những điều mà Phật tùy nghi thuyết khó thể hiểu được, nhị thừa chẳng hiểu thấu Trí tuệ môn đó, gọi là Thậm thâm vì khó liễu giải, ngộ nhập. Huống hồ là trí tuệ của Phật há chẳng phải là Thậm thâm sao !
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “nhiều loại thí dụ”. 
Tán rằng : trên tán thán pháp sở chứng sở thuyết  thắng diệu, dưới tán thán Như Lai là Pháp sư năng chứng năng thuyết thắng diệu.
Theo luận giải thích kinh thì đây phải nói là : “Vì sao vậy ? Xá Lợi Phất ! Vì chư Phật Như Lai tự tại thuyết nhân thành tựu. Này Xá Lợi Phất ! Như Lai thành tựu nhiều loại phương tiện, nhiều loại tri kiến, nhiều loại niệm quán, nhiều loại ngôn từ ”. Phần trên ở đây là phần tổng quát, phần dưới giải thích những lời ở phần trên.
 “Này Xá Lợi Phất ! Ta từ khi thành Phật tới nay đã ở khắp nơi diễn rộng ngôn giáo, đã dùng vô số phương tiện dẫn đạo chúng sinh khiến họ lìa các thứ chấp trước v.v…” Xoay vần ý lời, do bản thân Như Lai đối với Lý sở chứng thành tựu tự tại thuyết nhân viên mãn, bởi vậy nay ngài nói về Trí tuệ và Trí tuệ môn mà ngài đã chứng được, cả hai thứ đó đều rất sâu.
Những gì được gọi là Thuyết nhân thành tựu ? Đó là nhiều loại phương tiện, nhiều loại tri kiến, nhiều loại niệm quán, nhiều loại ngôn từ. Ba loại đầu trong này gộp lại gọi là nhân duyên. Nhân duyên tức là đạo lý vậy. Ngôn từ gọi là thí dụ, vì ngôn từ phần nhiều để nói các thí dụ.
Theo luận giải thích kinh, thì từ  “thí dụ”  trở lên gọi là Tổng cú, từ “diễn rộng” trở xuống gọi là Biệt cú, xoay vần giải thích. Luận có ba điều giải thích :
1) Luận tự giải thích riêng bốn câu đầu.
2) Luận đem các câu trong kinh hai phen ghép với bốn câu đó.
3) Trong hai phen thì một chỗ thuyết minh về ba nghĩa đầu, một chỗ thuyết minh về nghĩa thứ tư. 
Phen đầu giải thích riêng rằng : vì Như Lai thành tựu bốn loại công đức, nên có khả năng hóa độ chúng sinh :
1/ Vãng thành tựu. Chỉ việc Phật dùng nhiều loại phương tiện từ cõi trời Đâu Suất lui xuống thế gian cho tới thị hiện nhập Niết bàn, đã đến được mười phương gây nền giáo hóa khó thể nghĩ bàn : Tám tướng thành đạo, Lợi ích chúng sinh, Quyền xảo trí dụng, nên gọi là Phương tiện.
Về Tám tướng thì Kinh Đại Bát Nhã quyển 568 nói rằng :
1-  Từ cõi trời Đâu Suất lặn đi rồi liền nhập 
 thai tướng.
2-  Anh nhi (trẻ sơ sinh).
3-  Đồng tử (trẻ con).
4-  Khổ hạnh.
5-  Thành đạo.
6-  Hàng ma.
7-  Chuyển pháp luân.
8-  Nhập Bát Niết bàn.
Vì cớ gì mà thị hiện tám tướng ? Kinh đó nói rằng : “Bấy giờ Tối Thắng thiên vương lại bạch Phật rằng : cớ sao Bồ tát tu hành Bát nhã thậm thâm mà lại thị hiện các tướng để độ cho hữu tình ? Phật bảo Tối Thắng rằng : tướng của Bát nhã thậm thâm chẳng thể chứng được, các tướng của Bồ tát cũng chẳng thể chứng được. Song nhờ uy lực phương tiện thiện xảo mà vì loài hữu tình thị hiện nhiều loại hóa tướng từ Nhập thai cho tới Niết bàn. Chư thiên chấp Thường, cho rằng không đọa lạc. Vậy nên Bồ tát để phá chấp đó đã thị hiện Nhập thai, nhân đấy mà khiến cho chư thiên đó khởi niệm Vô thường. Bậc tối thắng trong thế gian đối với Dục chẳng nhiễm, mà còn có lúc đoạ lạc, huống hồ thiên chúng khác mà được Thường ư ?
Cho nên chớ có phóng dật, càng phải siêng tinh tiến, luôn nhớ tới việc tu đạo. Như thấy mặt trời còn có lúc lặn thì biết rằng lửa đom đóm chẳng được trụ lâu. Lại có chư thiên phóng dật ham vui, chẳng tu chính pháp, mặc tình chơi giởn, dẫu với Bồ tát cùng ở Thiên cung, nhưng chẳng đến lễ bái, chẳng học hỏi pháp, ai nấy nghĩ rằng : sáng nay vui vậy, ngày mai tới chỗ Bồ tát sẽ thụ pháp bảo. Cùng bảo nhau rằng : Ta với Bồ tát thường xuyên cùng ở đâyï, tu hành nào có muộn gì ! ” Vậy nên Bồ tát như cứu lửa cháy đầu, phá thói phóng dật, thị hiện đọa lạc.
Thị hiện như vậy có hai nhân duyên :
a) Để khiến chư thiên lìa thói phóng dật.
b) Để khiến hữu tình đều được nhìn thấy.
Cho đến tướng thứ tám : “Lại có các trời, người thích nghe nói về viên tịch, Bồ tát bèn vì họ mà thị hiện Niết bàn”. Nhiếp Đại Thừa luận trong quyển thứ 9 có chỗ hơi khác. Trong Kinh Hoa Nghiêm thị hiện 10 tướng, đều rộng như luận đó.
2/ Giáo hóa thành tựu, chỉ nhiều loại tri kiến, thị hiện các nhân Nhiễm Tịnh. Do có đủ tri kiến nên ở ngay nơi hóa thân có thể thị hiện Tập có mọi Nhiễm nhân có thể chuốc khổ; Đạo có mọi Tịnh nhân có thể chứng Diệt. Hoặc thị hiện quy luật của các pháp Nhiễm Tịnh. Nhân, có nghĩa là nguyên nhân, là quy luật. Trước thị hiện thân phù hợp, thân thị hiện quy luật nhiễm tịnh của các pháp. Trong luận giải thích thành tựu này có sự khác biệt với thành tựu thứ tư. Thành tựu này y vào Chứng pháp. Còn thành tựu kia y vào Thuyết pháp.
3/ Công đức tất cánh thành tựu, chỉ nhiều loại quán niệm. Vì thuyết pháp kia, thuyết nhân duyên thành tựu, tương ứng như pháp. Câu này ý nói : vì thuyết nhiều loại pháp quán niệm v.v… các pháp quán niệm đó Phật đều thành tựu. Như pháp sở thuyết nhân duyên trước sau đều tương ứng. Nói tương ứng có nghĩa là khế hội với chứng nghĩa.
4/ Thuyết thành tựu, chỉ nhiều loại ngôn từ. Dùng bốn vô ngại : Y vào những gì ? Những danh tự chương cú nào ? Tùy thuận những gì ? Những chúng sinh nào có thể lĩnh thụ để mà thuyết cho ?
“Y vào những gì?” : có nghĩa là những nghĩa gì ? Đó tức là Nghĩa vô ngại giải.
“Những danh tự chương cú nào” : có nghĩa là danh tự chương cú thuộc loại nào ? Đó tức là Pháp vô ngại giải.
“Tùy thuận những gì” : có nghĩa là tùy thuận ngôn ngữ âm thanh của chúng sinh ở những phương nào để mà thuyết cho họ . Đây là Từ vô ngại giải.
“Những chúng sinh nào có thể lĩnh thụ để mà thuyết cho họ” : có nghĩa là căn khí của những chúng sinh nào có thể lĩnh thụ, Phật bèn thuyết cho. Đây là Biện tài vô ngại giải.
Trong bốn thứ thành tựu này thì :
+ Loại thứ nhất Năng khởi hóa thân, tám tướng thành đạo.
+ Loại thứ hai Năng thị hiện quy luật nhiễm, tịnh của các pháp.
+ Loại thứ ba Như pháp sở thuyết đều được rốt ráo. 
+ Loại thứ tư đủ bốn Vô ngại.
Do Phật Pháp sư đủ bốn loại thuyết nhân thành tựu này mà thành thắng diệu, nên pháp mà ngài thuyết cũng là thắng diệu. Luận giải bốn câu rồi, lại giải thích thêm về sự khác biệt giữa câu thứ 2 và câu thứ 4 và nói : Giáo hóa thành tựu y vào Chứng pháp. Thuyết thành tựu y vào Thuyết pháp. 
– Y vào quy luật nhiễm tịnh của pháp Khổ Tập Diệt Đạo mà tự mình chứng được, lần lượt thuyết cho người khác thì gọi là Giáo hóa thành tựu, đó là câu thứ hai.
– Y vào thuyết pháp, thuyết Nghĩa Pháp Từ Biện mà lần lượt thuyết cho người khác thì gọi là Thuyết thành tựu, đó là câu thứ tư. Vì đều không loạn.
Hoặc bốn loại trên được phân chia như sau :
Câu thứ nhất là Hóa thân đức.
Câu thứ hai là Báo thân đức.
Câu thứ ba là Pháp thân đức.
Câu thứ tư là Tứ biện cụ túc.
Do ba thân Tứ biện cụ túc này, nên có thể khởi thuyết. Ba thân có đủ, nên Trí tuệ thậm thâm. Bốn biện có đủ, nên Tuệ môn thậm thâm. Cho nên nhân duyên đó tức là ba loại : Phương tiện, Tri kiến, Quán niệm đã nói ở trên. Thí dụ, tức là nhiều loại ngôn từ.
*
-Kinh văn : “Diễn rộng ngôn giáo”  tới  “khiến lìa tâm chấp trước”.
Tán rằng : trên theo lời  văn của luận một phen phân biệt giải thích bốn câu tổng quát xong, luận lại đem các câu trong kinh ở dưới đây để phối với bốn câu này trong phen thứ hai :
a) Đây tức là câu thứ nhất : “Nhiều loại phương tiện”.
b) “Sở dĩ như vậy là vì sao ? Như Lai phương tiện, tri kiến Ba la mật đều đã đầy đủ” . Đó là câu thứ hai : “Nhiều loại tri kiến”.
c) “Này Xá Lợi Phất ! Như Lai tri kiến” tới “Giải thoát tam muội”. Đó là câu thứ ba : “Nhiều loại quán niệm”.
d) “Thâm nhập vô tế ” cho đến “Bản mạt cứu cánh v.v…”. Đó là câu thứ tư : “Nhiều loại ngôn từ ”.
Luận tuy lấy kinh văn ở dưới phối với bốn câu tổng quát ở trên, song đầu tiên hai phen giải thích ba câu trên xong, lại hai phen giải thích một câu sau. Luận đó văn dài, mới xem khó hiểu. Nên đọc theo đây.
Trong này phen đầu giải thích rằng : “Lại có nghĩa nhiều loại phương tiện”, có nghĩa là thị hiện đủ thứ sai trái của tà pháp ngoại đạo, đủ thứ công đức của chính pháp chư Phật. Như kinh nói : “Này Xá Lợi Phất ! Ta từ khi thành Phật tới nay đã diễn rộng ngôn giáo, dùng vô số phương tiện để dẫn đạo chúng sinh ở các nơi đến khiến họ được giải thoát”. Văn tuy hơi khác, nhưng đại ý cũng giống nhau.
Giải thích vô số phương tiện, lại có bốn phen : 
a) Phương tiện tức là phương tiện để khiến chúng sinh nhập các thiện pháp.
b) Để đoạn các nghi.
c) Để khiến nhập Tăng thượng Thắng trí.
d) Để y vào bốn Nhiếp pháp mà nhiếp thủ chúng sinh khiến họ được giải thoát.
Nhiều loại phương tiện ở đây phân làm sáu điều giải thích này :
1) Tránh tà.       2) Nhập chính. 
3) Tiến thiện.    4) Phá ác. 
5) Tự nhập thắng trí. 
6) Khiến cho người khác được giải thoát.
Cứ theo thứ tự mà ghép vào, dùng phương tiện này mà dẫn dắt thu nhiếp hết thảy chúng sinh khiến 
họ lìa bỏ các Trước. Trước là gốc của Chấp, vì là gốc rễ của Ái nhiễm sinh tử.
Luận rằng : các trước có nghĩa là chốn chốn đều trước (vướng mắc), hoặc trước giới, trước địa, trước phận, trước thừa.
+ Trước giới : có nghĩa là chấp trước tam giới.
+ Trước địa : tức là chấp trước Giới thủ, tam muội Sơ thiền định địa, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng, Diệt tận định địa, tức là coi chín định theo thứ tự là Địa. Giới thủ, Kiến thủ, Chấp tam muội, đó nên gọi là Trược địa.
+ Trước phận : có nghĩa là chấp trước phận tại gia, coi đó là đồng loại mà làm mọi loại nghiệp tà kiến v.v… ; chấp trước phận xuất gia danh tiếng lợi dưỡng, hay khởi đủ mọi loại giác sát phiền não v.v…
+ Trước thừa : có nghĩa là nếu chấp trước Thanh văn thừa thì thích trì giới tiểu thừa, cầu bốn quả v.v… . Chấp trước đại thừa có nghĩa là chấp trước lợi dưỡng, cúng dàng, cung kính v.v… , do chấp trước vào quán phân biệt mọi loại pháp tướng cho đến phân biệt Phật địa.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ như vậy là vì sao ?” tới  “đều đã đầy đủ” . 
Tán rằng : đây là câu  thứ hai. Phen đầu luận giải thích rằng : “Lại nữa nhiều loại tri kiến” có nghĩa là vì tự thân thành tựu cảnh giới bất khả tư nghì, dạy cho Thanh văn Bồ tát. Như kinh nói rằng : “Này Xá Lợi Phất ! Như Lai tri kiến, phương tiện tới bờ bên kia”. Đến bờ bên kia có nghĩa là hơn hết thảy các Bồ tát khác.
Văn tuy hơi khác, mà nghĩa không khác. Tri kiến là thể của hai trí Chân và Tục. Căn bản trí gọi là Tri. Hậu đắc trí gọi là Kiến. Phương tiện nghĩa là trí này diệu dụng phương tiện thiện xảo. Do tự thành tựu cảnh giới Bất khả tư nghì nên có đủ Tri kiến, dạy cho Thanh văn v.v…  đó gọi là phương tiện.
“Ba la mật” : có nghĩa là tới bờ bên kia, nói rõ Phật thành tựu thể của hai thắng trí, nên có thể thành tựu được cảnh giới bất khả tư nghì, đã tới bờ bên kia rồi thì hơn hết thảy. Do có đầy đủ phương tiện, diệu dụng của hai trí, còn có thể khiến cho người khác tới được bờ bên kia nên có thể dùng tri kiến cảnh giới bất khả tư nghị này mà còn dạy cho Thanh văn Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “giải thoát tam muội”.
Tán rằng : đây là câu
 thứ ba. Luận phen đầu giải rằng : “Lại còn nhiều loại quán niệm”. Như kinh nói : “Này Xá Lợi Phất ! Như Lai tri kiến rộng lớn sâu xa không chướng không ngại, Lực, Vô sở úy, Bất cộng pháp, Căn lực, Bồ đề phần, Thiền định, Giải thoát, Tam muội, Tam ma bạt đề đều đã đầy đủ”.
Văn ý về đại thể thì giống nhau, song ít nhiều có chỗ khác biệt. Nay nói Tri kiến rộng có nghĩa là vô biên, lớn có nghĩa là vô thượng, sâu có nghĩa là khôn lường, xa có nghĩa thời gian dài vô cùng trong vị lai.
Trên đây chính là Tổng cú (câu tổng quát) về các đức. Hai trí là Tính, nên gọi là Tri kiến. Hơn nữa các đức này cũng là những thứ được quyến thuộc của hai trí nhiếp thu, nên gọi là Tri kiến.
Từ “Vô lượng” trở xuống là Biệt cú (câu riêng biệt) về các đức. Theo văn kinh này thì :
– Vô lượng : đây là Bốn vô lượng. Cứ theo luận giải kinh, thì là Vô chướng.
– Vô ngại : chỉ bốn Vô ngại giải. 
– Lực : chỉ Thập lực. 
– Vô sở úy : chỉ bốn Vô sở úy. 
+ Bất cộng pháp : luận giải thích Bất cộng pháp trong kinh là 18 bất cộng pháp. 
+ Căn : chỉ ngũ căn. 
+ Lực : chỉ ngũ lực. 
+ Bồ đề phần : chỉ 37 Bồ đề phần. 
Bốn loại trên đây, kinh vốn không có.
– Thiền : chỉ bốn tĩnh lự ở Sắc giới. 
– Định : chỉ bốn Vô sắc định. 
– Giải thoát : chỉ tám Giải thoát. 
– Tam muội : chỉ tam muội. 
+ Tam Ma Bạt Đề : chỉ chín Đẳng chí. Một loại này trong kinh cũng không có. 
Luận giải trong kinh có 13 môn. Nay trong kinh này gộp lại có tám môn công đức, gọi là Quán niệm, thể của nó được giải thích là Tuệ ghi nhớ rõ, nên chẳng thể giải thích rộng. Nghĩa môn đều nên phân biệt sơ qua.
1. Bốn vô lượng. 
Được phân biệt bằng 5 môn : Liệt danh; Thích danh; Biện hành tướng; Xuất thể tính; Biện sai biệt.
1.1- Liệt danh (liệt kê tên gọi) : chỉ Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỉ vô lượng, Xả vô lượng.
1.2- Thích danh (giải thích tên gọi) :
•1 – Vì duyên vào Vô lượng cảnh, duyên vào hết thảy hữu tình mà khởi lên bốn thứ này.
•2 – Vì khởi Vô lượng hành, hành giải cũng lại cực rộng lớn.
•3 – Vì cảm Vô lượng quả, được phúc Đại Phạm thành Như Lai.
•4 – Nhiều thứ kèm theo, nhiều sự giải thích.
1.3- Biện hành tướng (phân biệt hành tướng) : pháp giới hữu tình tóm lại làm ba loại : 
•1 – Loại không khổ không sướng thì không điên đảo mà cho họ sướng, thế gọi là Từ. Không sân là thể.
•2 – Loại có khổ thì giúp diệt khổ, thế gọi là Bi. Chẳng hại là thể.
•3 – Loại có sướng thì giúp họ vui mừng, đó gọi là Hỉ. Chẳng ghét thiện căn là thể.
Lại còn gây cho loại không khổ không sướng tư tưởng lìa Si, gây cho loại có khổ tư tưởng lìa Sân; gây cho loại có sướng tư tưởng lìa Tham, bình đẳng muốn khiến họ lìa các điều ác, nên gọi là Xả. Khiến xả bỏ điều ác, cho nên khéo Xả là thể.
1.4- Xuất thể tính (thể hiện tính chất của thể) thì bằng ba pháp : đó là Không sân, Chẳng hại và Xả. Thể của chẳng ghét là không sân, vì không còn pháp nào khác.
1.5- Biện sai biệt (phân tích sự khác biệt) thì ở đây mỗi thứ đều có ba :
•1 – Hữu tình duyên, khởi hữu tình tưởng.
•2 – Pháp duyên, chẳng thấy Hữu tình, chỉ khởi pháp tưởng.
•3 – Vô duyên, vì đối với các pháp lại lìa tâm phân biệt mà khởi chân như tưởng, nên gọi là Vô duyên. Hoặc pháp vô lượng duyên các giáo pháp.
Trong ba duyên này, duyên đầu chung với ngoại đạo, duyên thứ hai chung với nhị thừa, duyên sau chỉ có Bồ tát.
Ba loại Vô lượng đầu là an lạc, một loại Vô lượng sau là lợi ích. Cảm quả có thể biết được.
Bốn loại Vô lượng này có sự khác biệt với bốn loại Đại từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả kia. Vì bốn loại kia chỉ là Thực quán, chỉ có Phật mới khởi lên được và duyên vào Tam giới sinh và không có Si kèm theo. Còn bốn loại này chung cho cả giả và thực, cả phàm và thánh đều khởi được, duyên Giới bất định và chẳng phải là không có Si kèm theo.
2. Bốn Vô ngại giải.
Được phân biệt bằng ba môn : Liệt danh, Biện tướng, Xuất thể :
2.1- Liệt Danh thì có : một là Pháp vô ngại giải, hai là Nghĩa vô ngại giải, ba Từ vô ngại giải, bốn là Biện tài vô ngại giải.
2.2- Biện tướng (phân tích về tướng) thì : Pháp chỉ Văn giáo danh cú năng thuyên; Nghĩa chỉ Đế lý chân tục sở thuyên; Từ chỉ âm thanh (tức ngôn ngữ) các phương; Biện tài chỉ bảy loại biện tài. Duyên vào bốn trí này không có gì mắc mớ trở ngại thì gọi là Vô ngại giải. Có nhiều sự sai biệt như Quyết Trạch Bồ Tát Địa luận và Thập Địa luận đã nói.
2.3- Xuất thể (thể hiện về thể) : bốn Vô ngại giải này lấy Vô lậu hậu đắc trí làm thể, vì chẳng phải là chứng Chân. Nghĩa vô ngại giải cũng thông với Chánh trí. Trí này thì Sơ địa được một phần, Cửu địa thì nhậm vận mà lìa chướng viên thành, Phật quả thì đầy đủ.
3. Thập lực. 
Đại khái được phân biệt bằng 5 môn : Biện danh, Xuất thể, Hành tướng, Thứ đệ (thứ tự), Các môn.
3.1- Biện danh (phân tích về danh) thì có hai : một là Liệt danh, hai là Thích danh.
+ Liệt danh (liệt kê tên gọi) thì có :
1/ Xứ phi xứ trí lực.
2/ Tự nghiệp trí lực, Kinh Đại Bát Nhã quyển 53 gọi là Nghiệp dị thục trí lực.
3/ Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực, còn Đại Bát Nhã thì gọi là Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực.
4/ Căn thắng liệt trí lực.
5/ Chủng chủng thắng giải trí lực.
6/ Chủng chủng giới trí lực.
7/ Biến thú hành trí lực, Đại Bát Nhã gọi là Biến hành trí lực.
8/ Túc trụ tùy niệm trí lực.
9/ Sinh tử trí lực.
9/ Lậu tận trí lực.
+ Thích danh (giải thích tên gọi) thì đầu tiên là gọiø chung, sau đó là gọi riêng.
– Giải thích chung :
Lực : có nghĩa là có khả năng diệt trừ oán địch, có nghĩa là chẳng thể khuất phục. Du Già Bồ tát Địa quyển thứ 49 và 50 cùng Quyết Trạch quyển 57, Kinh Bồ Tát Tạng quyển 5, Hiển Dương quyển 4, Đối Pháp quyển 14, Kinh Đại Bát Nhã đều giải thích tướng này là Đại uy lực, tương ứng với mọi loại công năng làm lợi ích cho hữu tình, rốt ráo chiến thắng hàng phục được mọi ma oán, cho nên gọi là Lực. Vì uy thế có khả năng diệt trừ được những thứ khó khuất phục nên gọi là Lực. 
Đối Pháp nói rằng : khéo hàng phục được các ma, giỏi ghi nhớ luận bàn về các vấn đề nên gọi Thập lực.
Thập (mười) : là số. Vì tác dụng của Lực khác nhau, có 10 loại nên gọi Thập lực. Theo trong Lục Thích, thì đây là giải thích kèm theo số vậy. 
– Giải thích riêng :
Về giải thích các tên riêng thì :
1/ Xứ phi xứ trí lực : nhân quả tương đương gọi là Xứ. Nếu chẳng tương đương thì gọi là Phi xứ. Cho nên Du Già nói rằng : quả tịnh hay bất tịnh chẳng phải là Bất bình đẳng. Như thực chuyển nhân, đó gọi là Xứ. Xứ có nghĩa  là kiến lập (dựng lên), là y (dựa vào), là khởi (gây nên), năng kiến lập quả là y, vì năng khởi quả pháp. Vì lập, nên gọi là Xứ. Bất bình đẳng trái với loại trên thì đó gọi là Phi xứ.
Nhất thiết trí vô trệ trí, và Thanh tịnh trí lìa Tăng thượng mạn, đối với hai loại này thì gọi là Trí. Lực : nghĩa như trên.
2/ Tự nghiệp trí lực : ba nghiệp ba đời tự mình gây ra của mỗi người hoặc thuận hiện thụ, thuận sinh thụ, hoặc thuận hậu thụ, bất định thụ thì gọi là Tự nghiệp. Biết đúng (chánh tri) về nghiệp này thì gọi là Tự nghiệp trí lực. 
Lực này ở ngay nơi quả Dị thục của các nghiệp thiện ác mà sinh Trí giải, nên cũng gọi là Nghiệp dị thục trí lực.
3/ Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực : Tĩnh lự : chỉ Bốn tĩnh lự. Giải thoát : tức Tám giải thoát. Đẳng trì : tức là Nhất thiết hữu tâm định. Đẳng chí : tức là Nhất thiết hữu tâm vô tâm định. Biết đúng về loại này thì gọi là Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực.
Các thứ định này chung cả hữu lậu vô lậu cho nên thêm vào đó tên gọi là Tạp nhiễm, Thanh tịnh thì gọi là Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực.
4/ Căn thắng liệt trí lực :  là chỉ Ngũ căn gồm Tín v.v…. Ở đây nói về mức độ của ngũ căn, non yếu bậc trung thì gọi là Thắng; non yếu bậc thượng thì gọi là Liệt. Biết đúng về điều này thì gọi là Căn thắng liệt trí lực.
Nếu theo tha tín coi đó là đầu, hoặc quán các pháp coi đó là đầu, thì thành Căn thắng liệt.
5/ Chủng chủng thắng giải trí lực : ưa thích thắng giải, gọi là chủng chủng thắng giải. Biết đúng về điều này thì  gọi là Chủng chủng thắng giải trí lực.
6/ Chủng chủng giới trí lực : nếu rộng kiến lập chủng chủng tính hoặc một thừa, hoặc ba thừa, hoặc bốn thừa, hoặc năm thừa, hoặc các phần hành như Tham Sân  Si v.v… cho đến 80.000 hành thì gọi là Chủng chủng giới, vì Giới là Tính. Biết đúng về điều này thì gọi là Chủng chủng giới trí lực.
7/ Biến thú hành trí lực : nếu như trong các Thú môn mà tùy thuận chính hành, như tham hành thì tu Bất tịnh quán v.v… , thế thì gọi là Biến thú hành. Hoặc các hành hướng tới tất cả ngũ thú, hoặc các hành thuộc đủ mọi phẩm loại khác nhau của sa môn ngoại đạo, của Bà la môn, hoặc Vô tội thú hành của đời này của đời khác, đó gọi là Biến thú hành. Biết đúng về điều này thì gọi là Biến thú hành trí lực.
+ Biến hành hành trí lực : vì có khả năng biết rõ các hành biến hành trong khắp mọi nẻo, nên cũng còn gọi là Biến hành hành trí lực.
8/ Túc trụ tùy niệm trí lực : nếu đối với mọi loại hữu tình, dùng ngôn ngữ bốn phương mà giả thiết an lập thành các phẩm loại khác nhau, tùy theo tất cả tự thể thời quá khứ trước kia thuyết minh bằng 8 câu :
a) Như thị danh (tên gọi như vậy).
b) Sinh loại (loại chúng sinh).
c) Chủng tính (chủng tộc, giòng họ).
d) Ẩm thực (ăn uống).
e) Thụ khổ lạc (thụ báo là khổ hay sướng).
f) Trường thọ (sống lâu).
g) Cửu trụ (trụ lâu).
h) Thọ lượng biên tế (giới hạn tuổi thọ).
Ở trong tám thứ này, có sáu thứ tùy niệm là Lược sở hành hành và có Vô lượng chủng túc trụ tùy niệm. Sáu Lược hành gồm :
1) Hô triệu giả danh (tên giả lập ra để gọi).
2) Sát đế lợi đẳng sắc loại sai biệt (các đẳng cấp khác nhau như Sát đế lợi).
3) Cha mẹ.
4) Ẩm thực phương quĩ (cung cách ăn uống).
5)  Hưng suy (thịnh suy).
6)  Thọ lượng (tuổi thọ).
Các Túc trụ này là cảnh quá khứ vì trụ ở đời trước kia. Đối với Túc trụ này mà khởi lên Tùy niệm, niệm đủ Hành Trí thì gọi là Túc trụ tùy niệm trí lực.
8/ Sinh tử trí lực :
Các loài Hữu tình lúc sắp mất thì gọi là Tử thời (lúc chết), lúc trụ tại Trung hữu thì gọi là Sinh thời (lúc sống). Đối với nẻo thiện nẻo ác, tử thời sinh thời đều có thể biết đúng thì gọi là Sinh tử trí lực.
10/ Lậu tận trí lực :
Hết thảy mọi pháp lậu cùng Tùy miên đều đoạn hẳn không sót thì gọi là Lậu tận. Biết đúng về điều này thì gọi là Lậu tận trí lực.
Trí là thể, Lực là tác dụng, song Trí tức là Lực, không còn có biệt tính khác. Trong này Túc trụ tùy niệm tương ứng trí lực là Lân cận thích (dựa vào các yếu tố gần gũi mà giải thích). Những thứ khác từ thứ đầu tiên là Xứ phi xứ cho đến Lậu tận là cảnh sở quán, Trí lực là trí năng quán. Xứ phi xứ trí lực cho đến Lậu tận trí lực là Y chủ thích (dựa vào chủ thể mà giải thích). Túc trụ là cảnh. Tùy niệm tương ứng trí lực là Năng quán, cũng Y chủ thích.

3.2- Về Xuất thể :
Quyết Trạch Phần quyển 57 nói : Phật có đủ tri căn tuệ căn là Thể. Đối Pháp luận nói : như Định như Tuệ cùng các Tâm, Tâm sở tương ứng đó. Bồ Tát Địa luận nói rằng : chỉ chung Ngũ căn là tự tính của nó. Tuy ba lời văn đó khác nhau nhưng Thể có năm :
1) Tối thắng thể : nên Quyết Trạch phần nói rằng Phật có đủ Tri căn, Tuệ căn là Tính.
2) Dẫn sinh thể : nên Đối Pháp nói rằng  như Định như Tuệ.
3) Khắc thực thể : Bồ tát Địa luận nói rằng Ngũ căn là tính, do Tuệ thắng trội. Hơn nữa còn nói : Thập lực Tuệ là Tự tính, bởi vậy chỉ nói Xứ phi xứ trí lực v.v… chẳng nói tới Tín lực, Tinh tiến lực v.v… Cứ theo như đây thì hợp với lời văn của Quyết Trạch.
4) Tương ứng thể : Đối Pháp còn nói rằng cùng các Tâm, Tâm sở tương ứng đó, bốn uẩn là Tính.
5) Quyến thuộc thể : năm Uẩn là Tính. Định với Đạo cùng Vô lậu sắc v.v… vì Trợ là Thể.
Đây tuy không có lời văn nói rõ, nhưng lý ắt phải thế, vì sự ngăn ngừa việc phạm giới sẽ giúp cho việc hàng phục ma oán.
Còn ba môn khác thì như trong Vô Cấu Xứng sớ quyển 2 đã nói.
4. Bốn vô sở úy.
Dùng 5 môn để phân biệt : Biện danh, Xuất thể, Hành tướng, Thứ đệ, Các môn. Cũng như Bồ tát Tạng kinh quyển 5, Đại Bát Nhã quyển 53, Hiển Dương quyển thứ 4, Du Già quyển 50, Đối Pháp quyển 14.
4.1- Biện danh, có hai mục : Liệt danh, và Thích danh.
a. Liệt danh gồm :
1) Chính đẳng giác vô úy. 
2) Lậu tận vô úy.
3) Chướng pháp vô úy. 
4) Xuất khổ đạo vô úy.
b. Thích danh (giải thích tên gọi) có hai mục :
1) Tổng (Giải thích tên gọi chung).
2) Biệt (Giải thích tên gọi riêng).
Về Tổng danh thì Bốn (tứ) là số. Vô sở úy tức là ở bốn xứ này có khả năng tự mình liễu tri (biết rõ) thản nhiên không sợ. Tâm không khiếp sợ yếu kém, không có điều nghi ngờ lo âu, hoàn toàn không hốt hoảng sợ hãi, nên gọi là vô úy.
Về biệt danh thì Chính giác chư pháp, Đẳng giác chư pháp, đó là Chính đẳng giác. Các phiền não Lậu chủng hiện đều đoạn cả thì gọi là Lậu tận. Nói Chướng ngại pháp : có nghĩa là Nhiễm ắt là Chướng, nên gọi là Chướng pháp. Nói Xuất ly đạo : có nghĩa là các thánh tu tập quyết định xuất ly khỏi khổ, gọi là Xuất khổ đạo, ở trong bốn thứ này mà chứng đắc Vô sở úy. Thế là đều Y chủ thích (điều giải thích chính).
4.2- Về Xuất thể tính. 
Quyết Trạch Phần quyển 57 nói rằng : lấy Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ cùng đầy đủ Tri căn làm Tính. Đối Pháp nói : như Định hay Tuệ cùng các Tâm, Tâm sở tương ứng đó. Lại nói : nếu khởi tác dụng thì Hậu đắc trí là Tính, nếu trụ tự tính thì Chính trí là Thể.
Thể này có năm căn cứ : Hai Thắng trí là Thể, Phát khởi định tuệ là Thể, Đàm thực ngũ căn là Thể, Tương ứng tứ uẩn là Tính, Quyến thuộc ngũ uẩn là Thể.
4.3- Về Hành tướng.
Như kinh đã nói rằng : “Thế tôn tự xưng : ta là đấng Chính đẳng giác. Khi có sa môn hoặc những người chẳng phải là sa môn từ phương khác tới, Phật thăm hỏi họ rằng : Trụ có an lạc không ? Khất thực có được không ?
Thế là trong đám này có kẻ đã đặt câu vấn nạn rằng : gọi là Chính đẳng giác thì không có gì là chưa biết. Thế mà nay lại hỏi người khác, sao mà trái ngược làm vậy ? . Ta đối với lời vấn nạn này chính kiến không núng, được an lạc trụ, không hoảng không sợ, tự xưng ta ở địa vị tôn quí của bậc đại tiên. Sở dĩ ta hỏi là vì sao ? Đó là để chinh phục kẻ đến, khiến họ phát tâm thắng trội, nghe Phật thăm hỏi sẽ phát đạo tâm. Đó là vì muốn khiến mọi người xét kỹ về sự: Phật biết mà còn hỏi, huống hồ các người khác chẳng biết và cũng để làm khuôn mẫu cho người sau, thấy người ta đến phát tâm thì nên dẫn nhiếp, chứ chẳng phải là Phật chẳng biết mà vẫn gọi là Đẳng giác”.
Thêm nữa, như kinh nói rằng :
“Ta khi chư lậu đã tận, Thiên Thụ làm các điều ác, Phật thường mắng mỏ; còn Chấp Nhật điều thuận, Phật thường nói ngọt. Thế là có kẻ vấn nạn rằng : nói là các lậu hết, phiền não đều hết ! Thế mà mắng mỏ Thiên Thụ, nói năng âu yếm với Chấp Nhật, tham sân chưa diệt thì lậu làm sao mà hết được ! Sao mà trái ngược làm vậy ? Ta đối với câu vấn nạn này chính kiến chẳng núng, vẫn được an lạc trụ , không hoảng không sợ.
Tự xưng : ta cư xử ở địa vị cao quý của bậc đại tiên ! Thiên Thụ ví như con ngựa ác, phải đánh đau mới điều phục được. Nếu chẳng quát mắng thì y lại nói là “sợ ta”. Còn Chấp Nhật ví như con voi tinh khôn biết chiều theo lòng người, nên chỉ nói ngọt mà có thể thuần phục ngay được, thế thì chẳng phải là (ta) còn có tham sân và lậu chẳng hết”.
Lại nữa như kinh nói rằng : “Phật giảng cho đệ tử về Chướng ngại pháp. Nói Nhiễm ắt là Chướng. Nhưng lại chẳng ngăn các hạng Dự lưu, Nhất lai kia có vợ con. Thế là có kẻ vấn nạn nói : Nhiễm ắt là Chướng, thế mà thánh lại nuôi vợ con, sao mà trái ngược làm vậy ? Ta đối với lời vấn nạn này chính kiến không núng, yên ổn không hoảng, ở ngôi vị tôn quý của bậc đại tiên. Tà hạnh gây chướng cho đạo các thánh. Có vợ gây chướng cho đạo lìa dục. Song, người đắc hai quả đầu vẫn chưa lìa dục nhưng Tính; Giới đã thành tựu được từ lâu, nên trừ được Tà hạnh mà vẫn chẳng đoạn tuyệt với vợ con, như vậy thì có gì là sai trái ? Cho nên các Nhiễm pháp chẳng phải là chướng ngại vậy.
Lại nữa, như kinh nói rằng : “Ta giảng cho đệ tử về đạo xuất ly, rằng các thánh tu tập quyết định xuất ly, quyết định thông đạt. Lại có bậc vô học là Ca Lưu Đà Di bị chôn dưới hầm phân, Ương Quật Ma La bị lửa ngục đốt thân. Thế là có lời vấn nạn rằng : đạo thánh tu lâu những mong lìa được các nỗi khổ. Bậc vô học mà vẫn phải quay trở về thụ khổ, thế thì còn cần gì mà tu đạo nữa ! Sao mà trái khoáy làm vậy ? Ta đối với lời vấn nạn này chính kiến không núng, yên ổn không sợ, ở ngôi đại tiên”.
Thực sự chứng được bậc vô học, khổ quả nhất định không còn. Vì hiện ác nhân nên ắt có khổ báo. Do đó bậc thánh có khi thị hiện thụ khổ để gây nền giáo hóa cho người sau. Hoặc khổ dị thục, bậc vô học chẳng thụ vì nghiệp ác đã hết. Nếu còn có ắt gây chướng cho quả, chẳng thành bậc vô học. Kẻ kia nói rằng bậc vô học còn phải thụ khổ đó, như vậy có nghĩa là hiện vẫn còn đang ở địa vị hữu học, vẫn chưa lìa dục. Nếu nhất định thành bậc vô học, thì mới được tên gọi đó. Còn dẫu có được thần thông cũng chẳng phải là bậc Bất hoàn (tức không quay trở lại thế gian mà thụ khổ), vì thần thông ấy chỉ là năm phép thần thông của thế gian.
Hoặc đối với bậc vô học thì khổ chẳng phải là do nghiệp báo vì ắt đã xuất ly mọi Dị thục khổ. Như Kinh Niết Bàn quyển thứ 29 giải thích : đối với nghiệp ba thời, tức địa vị vô học thì trừ được các nghiệp ác hết thảy chẳng thụ. Còn nói rằng chưa nhập thánh thì gọi là định nghiệp, nếu đã nhập thánh rồi thì chẳng gọi là định nghiệp. Giải thích rộng ra thì như kinh đó đã nói. Cho nên bậc A la hán nhất định không bị khổ quả.
Hai môn sau cũng như giải thích trong quyển thứ hai của Kinh Vô Cấu Xưng.
5. Thiền : 
Chỉ Bốn tĩnh lự của Sắc giới gồm :
• Thứ nhất là Tĩnh lự có Tầm có Tứ.
• Thứ hai là Hỉ lìa Tầm tứù
• Thứ ba là  Lạc lìa hỉ. 
• Thứ tư là Tĩnh lự thanh tịnh xả niệm đã lìa 
 Hỉ lạc.
6. Định :
Là Bốn vô sắc, gồm : Không xứ ; Thức xứ ; Vô sở hữu xứ ; Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
7. Giải thoát :
 Chỉ tám giải thoát, dùng ba môn để phân biệt : Liệt danh tự (liệt kê tên gọi), Hiển Hành tướng (nêu rõ hành tướng), Xuất thể tính (nêu ra thể tính).
7.1- Liệt danh tự : 
Theo như Du Già quyển thứ 12, 15, 73 ; Nhiếp Sự Phần quyển 4 ; Đối Pháp quyển 13 ; Hiển Dương quyển 4, 2 và 20 ; Kinh Bồ Tát Tạng quyển 4 v.v… đã nói. Đó là :
1/ Hữu sắc quán chư sắc giải thoát.
2/ Nội vô sắc tưởng quán ngoại chư sắc giải thoát.
3/ Tịnh giải thoát, thân tác chứng cụ túc trụ.
4/ Không vô biên xứ giải thoát.
5/ Thức vô biên xứ giải thoát.
6/ Vô sở hữu xứ giải thoát.
7/ Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8/ Tưởng thụ diệt giải thoát, thân tác chứng cụ túc trụ.
7.2- Hiển hành tướng : 
+ Giải thoát đầu :
Câu Xá quyển thứ 29 nói : “Trong có sắc tưởng, quán các sắc ở ngoài, đó là Sơ giải thoát. Trong chưa trừ kiến giả sắc tưởng, quán các sắc bên ngoài cho là bất tịnh, đó gọi là Quán ngoại sắc”. Nay thì chẳng thế. Cứ theo lời văn của Đối Pháp, người mà nghiệp tu còn mới, thân tại Dục giới, đã lìa Dục giới dục, nhưng chưa có thể dựa vào Vô sắc định để hàng phục, phá trừ kiến giả sắc tưởng, bởi chưa lìa Sắc giới dục.
Nếu là nghiệp tập lâu đã lìa Sắc giới dục lìa kiến giả sắc tưởng, an lập hiện tiền mà quán hết thảy mọi sắc trong ngoài của Dục giới, khởi Quang minh tưởng. Do ba giải thoát trước dẫn phát Thắng xứ, Biến xứ v.v… dựa vào quán sắc ít nhiều v.v… của Thắng xứ nhiếp thu mà khởi Quang minh tưởng. Do trừ biến hóa chướng, nên khởi Quang minh tưởng, chẳng trừ tham dục nên chẳng khởi Bất tịnh tưởng.
+ Giải thoát thứ hai :
Du Già chỉ nói : “Chưa được Vô sắc định, chưa lìa Sắc giới nhiễm, quán các ngoại sắc đó là Sơ giải thoát”, đó là chỉ căn cứ vào Sơ nghiệp mà nói. Cho nên về giải thoát thứ hai, Câu Xá Luận nói :        “Trong đã phục trừ được kiến giả sắc tưởng, chỉ quán ngoại cảnh là bất tịnh, đó gọi là trong không sắc tưởng, quán các ngoại sắc”.
Đại thừa thì không thế, căn cứ vào Đối Pháp nói rằng : người mà nghiệp tập lâu đã dựa vào Vô sắc định mà phục trừ kiến giả sắc tưởng. Người mà nghiệp tu mới, kiến giả sắc tưởng an lập hiện tiền mà quán ngoại sắc khởi tưởng thành nhiều ít v.v… khác với Sơ quán nội ngoại sắc đều thành Quang minh, đó là vì chưa tự tại.
Nay đây, chỉ đã lìa dục là quán sắc khởi tưởng nhiều ít v.v… gọi là quán ngoại sắc. Vì đã lìa nhiễm, nên gọi là ngoại, vì quán tâm dần dần thắng trội, là vì quán sơ qua dần dần vậy.
Du Già nói : lại chẳng tư duy về minh tướng của tưởng kia, chỉ khởi Thắng giải về ngoại sắc, tức là quán nhiều ít v.v… , chẳng khởi Quang minh tưởng v.v… . Nếu đã được ly dục ở xứ này thì nói xứ kia là Ngoại. Cho nên chỉ đã lìa nhiễm sắc mà quán xứ kia gọi đó là ngoại.
Lại nữa, do Sơ giải thoát quán sắc thì chẳng nói là ngoại. Trong ấy có sắc cũng chẳng nói là Nội. Duyên chung các sắc nội ngoại như căn trần v.v… khởi Quang minh tưởng cho nên nay loại thứ hai nầy trong có sắc, có các căn như sắc thì quán ngoại sắc chỉ là quán ngoại trần khởi tưởng là nhiều ít v.v… vì chẳng duyên vào các căn mà quán tưởng là nhiều ít v.v…
Du Già còn nói : Vô sắc giới định chẳng hiển hiện. Đó là nói quán ngoại sắc chẳng dựa vào Vô sắc định, vì Vô sắc định chẳng duyên vào ngoại sắc. Hoặc đã lìa Sắc giới dục, chẳng dựa vào Vô sắc định mà phục trừ sắc tưởng, chỉ dựa vào Sắc giới định. Cái thấy không có sắc tưởng mà hiển hiện, nên nói như vậy.
 Hai giải thoát trên, thứ đầu thì khởi Quang minh tưởng, thứ sau thì khởi Thiểu đa tưởng, đầu rộng, sau hẹp, hai quán khác nhau.
Hiển Dương quyển 20 nói : hai giải thoát này trừ được Biến hóa chướng vì được tự tại đối với Biến hóa, vì biến hóa là chung cho cả bốn Tĩnh lự đều có. Hai giải thoát đầu đều cùng dựa chung vào bốn Tĩnh lự, đầu tiên khởi lên phần nhiều dựa vào hai Định đầu mà có, nhưng chỉ tại căn bản, chứ chẳng phải là Cận phần địa. Kia thì hăm hở tu mà đều không thông được với quả. Đây thì từ tốn tu mà có thông với quả. Khác với Câu Xá luận nói : hai Tĩnh lự đầu có khả năng đoạn trừ Dục giới, trong Tĩnh lự đầu thì lòng tham sắc tỏ rõ, nên phải Quán bất tịnh.
+ Giải thoát thứ ba :
 Câu Xá Luận nói : tướng Thanh tịnh chuyển thành tướng Tịnh quang minh tươi sáng vì hành tướng chuyển. Chỉ có Tĩnh lự thứ tư là lìa được Tám tai hoạn (tai vạ, hoạn nan), vì Tâm trong lắng thanh tịnh. Các địa vị khác tuy có giải thoát tương tự, nhưng chẳng đặt ra vì chẳng phải là tăng thượng.
Nay thì đại thừa bảo rằng : nếu như có được một lần thanh bạch do đã đạt đến Xả niệm viên mãn, thì lấy đó làm chỗ dựa để tu tập thánh hạnh thanh tịnh viên mãn. Đối với các sắc tịnh hay bất tịnh ở trong đều đã được Triển chuyển tương đãi tưởng, Triển chuyển tương nhập tưởng, Triển chuyển nhất vị tưởng. Đó là hành tướng của giải thoát thứ  ba.
– Thứ đối đãi với các tịnh sắc ở trong sắc khác, đó gọi là bất tịnh, chẳng phải là chẳng đối đãi với nhau. Nếu chỉ thấy một loại vì không có hai cảm giác tịnh và bất tịnh, thì đó gọi là Tưởng ban đầu (Triển chuyển tương đãi tưởng).
– Còn ở trong Tịnh thấy có Bất tịnh tính, ở trong Bất tịnh thấy có cái thích ứng với Tịnh tính, do bị che phủ bởi lớp màng mỏng của Chướng thì cũng gọi là ở trong đó có Tịnh, vì hiện có 36 loại vật bất tịnh. Đó là Tưởng thứ hai (Triển chuyển tương nhập tưởng).
– Cứ xoay vần như vậy, thâu tóm mọi sắc gộp lại thành Nhất vị thanh tịnh tưởng giải, đó là Tưởng thứ ba (Triển chuyển nhất vị tưởng).
Chỉ có địa vị Tĩnh lự thứ tư mới gọi là Thành tựu, vì có Xả niệm tịnh. Vì Luận nói là vượt mọi khổ lạc, vì mọi động loạn đều đã tịch tĩnh, vì khéo mài giũa cho trong sáng. Các địa vị khác chẳng thế, nên chỉ có Tĩnh lự thứ tư. Đây cũng là trong không có sắc tưởng mà quán ngoại sắc. Vì trên đã nói rồi, nên lược đi chẳng bàn mà đặt tên khác.
+ Bốn Vô sắc giải thoát :
Câu Xá Luận nói rằng : lấy bốn Vô sắc định mà Thiện là Tính chứ chẳng phải là Vô ký nhiễm, vì đã giải thoát, cũng chẳng phải là Tán thiện vì tính của Tán thiện nhỏ nhoi kém cỏi.
Cận phần giải thoát đạo cũng được gọi là Giải thoát. Vô gián thì chẳng thế vì sở duyên thấp kém. (Câu Xá Luận) đó đòi hỏi phải trái ngược với hạ địa thì mới gọi là Giải thoát. Cho nên phần nhiều chỉ nói tới căn bản, vì cận phần chẳng phải là thứ hoàn toàn. 
Nay thì đại thừa đều đã lìa Tự địa dục, y vào Tự
$ căn bản địa mà quán sát lại Tự địa cảnh, tư duy thắng giải khiến chướng càng xa, dẫn sinh thắng đức, cho rằng nếu có một lần ở Không xứ kia đã được lìa dục, tức ở Không xứ tư duy thắng giải thì đó gọi là hành tướng của Không xứ giải thoát.
Ở Thức xứ kia đã được lìa dục, tức ở Thức này tư $ duy thắng giải thì đó gọi là hành tướng của Thức xứ giải thoát. 
Ở Vô sở hữu xứ đã được lìa dục, ở Thức vô biên xứ $ tư duy thắng giải, đó gọi là hành tướng của Vô sở hữu xứ thắng giải.
Không, Thức hai tên được gọi theo hành tướng mà Tự địa duyên vào. Vô sở hữu xứ lấy Thức vô hữu làm tên Tự địa, nên ở Thức xứ mà tư duy thắng giải.
Ở Hữu đỉnh địa đã được lìa nhiễm, chẳng còn ở chỗ $ nào khác mà sinh thắng giải. Cho đến khắp ở Tưởng khả sinh xứ, tức ở xứ này mà làm thắng giải. Vô sở hữu xứ gọi tên là Tưởng khả sinh xứ. Nay duyên vào tâm, tâm sở Vô sở hữu này thì gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cho nên khắp cả ở đây mà tư duy thắng giải. Tới phần dưới sẽ biết.
Trên nói lìa nhiễm là căn cứ vào bậc vô học mà nói. Cho nên Du Già nói rằng : bảy giải thoát trước là ở địa vị đã giải thoát mà sinh thắng giải. Thân chứng thì được. 
Nếu y theo Duy thức thì có thuyết về Diệt định của hai đại sư :
– Một thuyết cho rằng : điều phục được nhiễm từ Sơ định trở lên thì đắc Diệt định.
– Thuyết thứ hai cho rằng : điều phục được nhiễm từ Đệ tứ định trở lên thì là đắc Diệt định.
Nhiễm : từ Vô sở hữu xứ trở xuống có thể có nghĩa điều phục, khiến chướng chuyển xa, dẫn sinh thắng đức. Riêng một địa là Hữu đỉnh địa thì Định chưa thể điều phục được. Cho nên theo Du Già quyển thứ 12 thì đối với Không, Thức, hai giải thoát có lời nói tới lìa Tự địa nhiễm, hai địa trên không có chữ nào nói tới lìa Tự địa nhiễm, vì hàng hữu học vô học mới nói lướt qua. Chỉ tại căn bản, cũng chẳng phải là cận phần.
Diệt tạân giải thoát : thì đại thừa tiểu thừa đều nói tới, tức là Diệt tận định mà không có Hành tướng vì bỏ Tưởng, Thụ. Song lúc sắp nhập thì có hai Hành tướng : đó là y vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ và Vô tướng giới tưởng, vì hàng Sơ tu, nên lâu thành thục hai loại Nhập đặc biệt.
7.3- Xuất thể tính.
Câu Xá Luận nói : ba loại đầu là Vô tham tính. Loại quyến thuộc là Ngũ uẩn tính. Thứ đến Tứ vô sắc định thì Thiện là Tính. Loại thứ tám là Diệt định tính.
Trong Nhiếp Đại Thừa quyển 73 giải năm pháp nói rằng :
Chính trí Thế gian Xuất thế gian là Thể. Hữu lậu thì lấy Chính trí thế gian trong phân biệt làm Thể. Vô lậu thì tức là Vô phân biệt trí và Hậu đắc trí, chỉ có Tuệ là Tính, vì nó duyên vào Sắc, Phi sắc cùng Chân như cảnh, lìa các Định chướng, dẫn sinh thắng đức, còn các thứ khác không có khả năng đó.
Nếu là Tương ứng thể thì bảy loại đầu lấy Bốn uẩn làm tính. Quyến thuộc thì Ngũ uẩn là tính. Nên Đối Pháp nói : Như Định hay Tuệ cùng các tâm, tâm sở tương ứng, vì trong Vô sắc giới kể có Định đạo, Vô biểu sắc. 
Giải thoát thứ tám thì lấy 22 pháp chủng tử Thượng yếm tâm công năng làm Thể, tức Bất tương ứng hành uẩn sở nhiếp.
Tam muội là tiếng Phạm, ở đây gọi là Đẳng trì, tức là Ba đẳng trì, chỉ : Không, Vô tướng, Vô nguyện. Ba đẳng trì tới phần dưới sẽ giải thích, vì như Kinh Bát Nhã quyển 53 đã nói : ba cảnh đều cùng duyên vào Không. Song theo luận dẫn kinh thì lại còn có năm đức, nhưng vì ngại rườm rà nên chẳng thuật lại.
Luận có hai lần giải thích ba câu trên. Sau đây là phen thứ hai giải thích lại ba câu trên : 
– Thứ nhất là Thành tựu chúng sinh khả hóa, nhờ y chỉ vào bậc thiện tri thức. Có nghĩa là có khả năng dẫn đạo được những kẻ chưa phát tâm trong số chúng sinh khả hóa, có Bồ đề tính khiến họ y chỉ vào bậc thiện hữu mà lìa chấp trước. Đó gọi là phương tiện dẫn đạo chúng sinh.
– Thứ hai là Thành tựu chúng sinh căn thục, khiến họ được giải thoát. Có nghĩa là khiến những người đã phát tâm tu lâu được giải thoát. Đó gọi là Phương tiện tri kiến ba la mật.
– Thứ ba là Thành tựu Lực, Gia, Tự tại, Tịnh, Hàng phục. Có nghĩa là Phật trong thì thành tựu vô vàn công đức, cho nên ngoài đã có thể khuất phục được phiền não, uẩn, tử, thiên ma. Đó gọi là Lực. Thiền định v.v… của Phật đều là chỗ ở của Thế tôn, nên gọi đó là Gia (nhà). Do Lực tự tại, nên có khả năng hàng phục. Do Gia tự tại, nên tịnh được các chướng. Thêm nữa do nương náu ở các Thiền định là Gia, nên được Tự tại thần thông nghiệp v.v… . Do thành tựu được Vô lượng, Vô ngại, Lực v.v… nên có khả năng Tịnh trừ được các chướng, Hàng phục được ngoại đạo v.v… . Đó gọi là Như  Lai tri kiến quảng đại thâm viễn (Tri kiến Phật rộng lớn, sâu xa).
Theo Luận bản, hai lần giải thích ba câu trên trong kinh xong, sau đó lại dùng bảy câu dưới trong kinh để giải thích các loại ngôn từ trong câu nêu lên thứ tư ở trên, cũng là hai phen giải thích : đầu tiên phối hợp với kinh, sau đó là giải thích lại.
*
-Kinh văn : “Thâm nhập không bờ bến” tới “pháp vị tằng hữu”. 
Tán rằng : dùng bảy câu  để giải thích ngôn từ câu thứ tư. Kinh này chỉ có năm câu đầu. Câu thứ sáu khuyết. Câu thứ bảy thiếu. Văn tới sẽ rõ. 
Luận rằng : câu thứ tư nói thành tựu có bảy loại. Đó là các loại thành tựu đã nói ở câu đầu : Lý sự, Không hữu, Thế gian Xuất thế gian. Vì pháp Vị tằng hữu đều thâm nhập cả, vì thấu hiểu vô bờ nên có thể khởi được nhiều loại ngôn từ kia.
* Tế : tức bờ, bến.
*
-Kinh văn : “Này Xá Lợi Phất”  tới  “làm vui lòng chúng ”. 
Tán rằng : câu thứ hai  này, Luận gọi là Ngữ ngôn thành tựu, vì Phật đã có được năm loại âm thanh mỹ diệu để thuyết các pháp. Đại Trí Độ luận nói năm loại âm thanh từ miệng Phật nói ra :
• Một là rất sâu như sấm.
• Hai là trong trẻo vang xa, ai nghe cũng ưa thích.
• Ba là nhập tâm, kính ái.
• Bốn là rạch ròi dễ hiểu.
• Năm là người nghe không chán, phân biệt được 
 các nghĩa hữu lậu, vô lậu v.v…
Rất sâu như sấm : đó gọi là phân biệt được đủ mọi điều về các pháp.
Rạch ròi dễ hiểu : đó gọi là khéo thuyết các pháp, các pháp nói đây thông với sự phân biệt ở trên. Từ bi mẫn niệm, người nghe không chán, gọi là ngôn từ nhu nhuyễn. 
Trong trẻo vang xa : ai nghe cũng ưa thích đó gọi là làm vui lòng vừa ý mọi người.
Ba thứ đầu mỗi thứ tương ứng với một loại âm thanh. Một thứ sau bao gồm cả hai loại.
*
-Kinh văn : “Này Xá Lợi Phất”  tới  “chẳng cần nói nữa”. 
Tán rằng : đây là câu  thứ ba, Luận nói là Tướng thành tựu. Nhưng Luận dẫn kinh văn chẳng lấy đoạn từ  “Lấy điều cốt yếu mà nói” trở xuống đến “Phật đều thành tựu”. Chỉ có đoạn từ “Thôi” trở xuống. 
Luận rằng : vì chúng sinh có pháp khí tâm đã đầy đủ nên gọi là Tướng thành tựu.
Pháp khí có hai loại : một là Chân, hai là Giả. Chân là các ông Xá Lợi Phất v.v… , Giả : chỉ hạng Tăng thượng mạn.
Vì hạng Chân pháp khí chúng sinh, tâm thánh đã đầy đủ, tâm ưa diệu pháp, nên Phật hiện tướng bảo “ Thôi” để khiến họ nài xin, vì họ nghĩ rằng : Phật nay bảo thôi đừng nói nữa, là đừng nói những pháp nào vậy? 
Còn hạng Giả pháp khí chúng sinh thì tự cho là mình tâm thánh đã đầy đủ, tâm chẳng ưa pháp, nhưng vẫn ngồi đó chưa đi, Phật hiện tướng bảo “Thôi” khiến họ phải đứng lên bỏ đi. Vì họ nghĩ rằng : các pháp giải thoát ta đều chứng được cả rồi, còn có pháp gì nữa mà bảo thôi đừng nói, cho nên gọi là Tướng.
Như người thế gian cùng nhau hội họp ở một chỗ, có kẻ thích nghe cũng có kẻ chẳng thích nghe khi người ta nói, biết dùng lời lẽ bảo : thôi chẳng cần nói, nói có ích chi ! Như thế là để khiến cho kẻ thích nghe thì nài xin nói nữa, kẻ chẳng thích thì đứng dậy bỏ đi.
Nay vì hạng trước là hạng Chân pháp khí mà khiến cho họ phải hỏi lấy đạo nhất thừa, nên gọi là Tướng.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ như vậy là vì sao ?”  tới  “pháp khó hiểu”.
Tán rằng : đây là câu  thứ tư. Luận gọi là Kham thành tựu, vốn không có lời hỏi, vì hết thảy chúng sinh khả hóa đều biết Như Lai thành tựu công đức hiếm có, kham nổi việc thuyết pháp, có nghĩa là những người thiện căn đã thành thục như Xá Lợi Phất v.v… , đó gọi là loại chúng sinh khả hóa (loại chúng sinh có thể giáo hóa được), họ biết rằng Phật đã thành tựu được công đức hiếm có khó hiểu đệ nhất, kham nổi việc thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Chỉ có Phật với Phật” tới “thực tướng các pháp”. 
Tán rằng : đây là câu  thứ năm. Luận gọi là Vô lượng chủng thành tựu thuyết bất khả tận (vô lượng loại thành tựu nói chẳng thể hết). 
Thực tướng : chỉ Thể của Pháp thân Như Lai tạng, vì tính chẳng đổi. Phật trí biết rõ Thực tướng Thể này, biết hết ngọn nguồn nên gọi là Cứu tận.
Chẳng những Phật thành tựu vạn đức hữu vi, mà ngài còn cứu tận vạn đức vô vi. Cho nên nói là Vô lượng chủng thành tựu thuyết bất khả tận.
Kinh này mất câu thứ sáu nói về Giác thể thành tựu : Như Lai biết được mọi pháp, vì Phật tự chứng được.
Kinh này cũng thiếu câu bảy nói về Thành tựu tùy thuận ý chúng sinh mà thuyết cho họ về pháp tu hành, vì Như Lai thuyết được mọi pháp, như trong kinh này đã nói các pháp có tướng như vầy v.v… . Các pháp đã nói trong câu thứ bảy này đều là pháp mà Phật hiện đang thấy, không gì không thấy. 
Trên đây luận giải bảy câu ngôn từ trong kinh xong, Luận lại dùng bảy câu để giải thích các loại ngôn từ một lượt thứ hai, để phối với bảy câu này và nói :
• Thứ nhất là dùng nhiều loại pháp môn để nhiếp thủ chúng sinh nhập vào Phật pháp, nên họ thâm nhập vô bờ bến.
• Thứ hai là khiến họ an trụ chẳng tán loạn, vì dùng giáo hóa để quán thông với chúng sinh khiến họ chẳng tán loạn, chuyên tâm trụ cảnh, mong muốn được nghe, nên có thể phân tích rạch ròi phân biệt các pháp.
• Thứ ba là để khiến họ phải tranh thủ, khiến những người căn đã thành thục hỏi lấy nhất thừa, nên Phật đã nói : “Thôi ! Chẳng cần nói”.
• Thứ tư là để khiến được giải thoát, khiến người căn cơ thành thục được giải thoát, Phật đã thành tựu pháp khó hiểu.
• Thứ năm là khiến họ tu hành thành tựu được pháp đối trị, khiến người tu hành có được pháp đối trị, đối với Chân tế tính (tức là đối với thực tế), vì Phật đã cứu tận được thực tướng các pháp.
• Thứ sáu là có thể khiến tu hành tiến thú thành tựu, vì khiến người tu hành tiến thú thành tựu được Tịnh diệu trí. Do đó mà Như Lai biết được các pháp.
• Thứ bảy là khiến được tu hành chẳng thoái thất, vì khiến họ tu hành được đầy đủ, lại vì họ mà thuyết chẳng mất lợi ích. Vì Phật hay thuyết những điều quan trọng nhất của mọi pháp.
Do Phật tự  mình thành tựu được bảy loại này, nên đã có thể khiến chúng sinh dần dần theo đó mà làm. Đem luận mà phối với bảy câu trên trong kinh thì sẽ thấy móc xích với nhau, cứ theo thực lý thì phải biết rằng : bốn câu đầu là trụ Quyền, hai câu sau là trụ Thực, câu cuối cùng là ngoại hóa.
– Vì sao mà còn phối với ba câu Phương tiện, Tri kiến, Quán niệm để giải thích thêm lần thứ ba ?
Luận rằng : để cho Giáo hóa thành tựu. Vì căn cứ vào việc chứng pháp, nên trình tự  như vậy.
 Gọi là Phương tiện, có nghĩa là khiến các chúng sinh khả hóa nhưng căn cơ chưa thành thục, y vào thiện hữu.
Còn Tri kiến, thì có nghĩa là khiến chúng sinh căn cơ thành thục, được giải thoát.
Còn Quán niệm, thì khiến chúng sinh đã được giải thoát sẽ thành tựu được các công đức Lực, Gia. Đó là căn cứ vào trình tự chứng pháp mà thuyết để giáo hóa chúng sinh.
– Vì sao lại phải phối với bảy câu ngôn từ trong kinh để mà thuyết lần ba ?
Luận rằng : đó là vì thuyết theo trình tự thuyết pháp. Trình tự ấy như trên đã nói, cứ theo thứ tự có thể biết được. Vì ngại rườm rà, nên chẳng thuật lại.
Cho nên Luận nói rằng : để cho Giáo hóa thành tựu, vì y theo trình tự chứng pháp. Lại còn Thuyết thành tựu vì y theo trình tự thuyết pháp. Hai loại pháp này như trên đã nói. 
Luận rằng : hai loại pháp này có thứ tự ra sao để y vào đó mà tu hành cho đúng ? Đó là hỏi về trình tự của Chứng và Thuyết để y vào đó mà tu hành. Cần phải biết rằng đó tức là điều mà câu văn trước kia đã nói đi nói lại. 
Ở phần trước Luận đã hai lần thuyết về ba loại Phương tiện, Tri kiến, Quán niệm, căn cứ vào trình tự của Chứng đã hai lần giải thích thứ tự của bảy câu ngôn từ . Theo trình tự của Thuyết, nên có thứ tự như vậy. Thuyết đã như vậy, y theo đó mà tu học thì tức là trình tự của Chứng. Đó là kết luận về nghĩa trên. Khuyên người học nên biết.
Hoặc đây giải thích trong bốn câu Biệt giải lượt đầu : câu thứ hai về Giáo hoá thành tựu, câu thứ tư về Thuyết thành tựu, hai loại này khác biệt nhau.
*
-Kinh văn : “Gọi là các pháp”  tới  “cứu cánh v.v…”. 
Tán rằng : ở đây nêu rõ câu thứ bảy, pháp mà Phật  thuyết là y vào Chứng mà thuyết, nên Luận dẫn kinh năm câu : Những pháp gì ? Pháp như thế nào? Pháp tựa gì ? Pháp tướng gì ? Pháp thể gì ? Luận có bốn cách giải thích :
• Lượt thứ nhất : căn cứ vào ý nghĩa bỏ quyền lấy thực thừa mà giải thích. 
1. Thuyết minh về ba thừa, đó gọi là Những pháp gì ? . 
2. Thuyết minh về các sự được khởi lên ở mỗi một thừa, đó gọi là Pháp thế nào ? . 
3. Y vào pháp môn ba thừa mà tu hành thanh tịnh, đó gọi là Pháp tựa gì ? . 
4. Cứu cánh chỉ có một Phật thừa không có nhị thừa thể, nên gọi là Pháp thể gì ? .
• Lượt thứ hai : giải thích pháp theo cách xoay vần giải thích lẫn nhau :
– Những pháp gì ? : chỉ pháp hữu vi và pháp vô vi. 
– Pháp thế nào ? : chỉ nhân duyên, phi nhân duyên v.v… lấy Nhân duyên sinh mà giải thích hữu vi. Lấy Phi nhân duyên sinh mà giải thích vô vi. 
– Pháp tựa gì ? : chỉ Thường pháp và Vô thường pháp v.v… lấy Thường để giải thích Phi nhân duyên sinh, Vô thường giải thích Nhân duyên sinh.
– Pháp tướng gì ? : chỉ ba tướng pháp hữu sinh v.v… và ba tướng pháp Bất sinh v.v…  lấy pháp hữu sinh mà giải thích Vô thường nói trên, lấy Bất sinh v.v… mà giải thích Thường.
– Pháp thể gì ? : chỉ Ngũ uẩn thể pháp và Phi ngũ uẩn thể pháp. Ngũ ấm tức là sinh v.v… Phi ấm là Phi sinh v.v…
• Lượt thứ ba : chỉ giải ba câu sau, chỉ y vào hữu vi mà giải thích. Còn hai câu đầu chẳng khác gì ở trên, bởi vậy chẳng giải.
Luận rằng : 
– Pháp tựa gì ? : có nghĩa là chỉ Vô thường hữu vi nhân duyên pháp. 
– Pháp tướng gì ? : là chỉ Khả kiến tướng pháp v.v… . 
– Pháp thể gì ? : là chỉ Ngũ ấm năng thủ, sở thủ. Vì Ngũ ấm vừa là Khổ, Tập Thể, vừa là Đạo đế. 
Cứ theo đúng như Luận thì có thể hiểu được.
• Lượt thứ tư : là căn cứ vào Pháp dụng thuyết pháp mà nói. 
– Những pháp gì ? : đó là dùng danh tự câu cú mà thuyết.
 – Pháp thế nào ? : thì dựa vào pháp Như Lai đã thuyết mà thuyết.
– Pháp giống tựa gì ? : tức là có khả năng giáo hóa được các chúng sinh có thể giáo hóa. 
– Pháp tướng gì ? : thì y vào âm thanh mà tiếp thu. Có nghĩa là khiến người nghe dựa vào âm thanh ngôn ngữ mà tiếp thu pháp sở thuyên.
 Vì Pháp tính lìa ngôn ngữ, nên cái sở thuyên mượn danh tự để thể hiện pháp, chứ chẳng phải là 
pháp thực (thực chất của pháp), chẳng để người nghe cứ y vào lời văn mà sinh ra chấp trước. Song kinh văn ngày nay, sợ người ta chẳng hiểu nên nhà phiên dịch đã dùng cách giải thích xoay vần của lượt thứ hai để mà giải thích.
Tuy nhiên nếu có chỗ hơi lộn xộân thì lấy nghĩa mà chấn chỉnh lại để chẳng trái với thánh giáo. Nếu giải thích bằng nghĩa khác thì là nhân tình chứ chẳng phải là thánh giáo.
 Thập Như Thị phối hợp 5a
câu.
“Tướng như vậy, Tính như vậy” gộp lại là câu thứ nhất : Những pháp gì ? , vì Tướng là hữu vi, Tính là vô vi.
“Thể như vậy” : là câu thứ năm : Pháp thể gì ? , chỉ Ngũ uẩn thể và Phi ngũ uẩn thể. 
“Lực như vậy, Tác như vậy” gộp lại đó là câu thứ ba : Pháp tựa gì ?.
Lực : chỉ Thường pháp vì thường pháp có Lực năng.
Tác : chỉ Vô thường pháp vì có tạo tác.
“Nhân như vậy, Duyên như vậy, Quả như vậy, Báo như vậy”, gộp lại là câu thứ hai : Pháp thế nào ? . Trong nhân duyên quả báo, hữu vi là Nhân duyên sở sinh pháp, vô vi là Phi nhân duyên sở sinh pháp. Cái tạo ra quả thì gọi là Nhân. Cái tạo nên báo thì gọi là Duyên. Thân đắc quả thì gọi là Nhân,  Sơ đắc quả thì gọi là Duyên. Tứ quả gọi là Quả. Dị thục gọi là Báo.

“Gốc ngọn như vậy”, là câu thứ tư  : Pháp tướng gì? . Ba tướng pháp (hữu) sinh v.v… là Ngọn, vì Thể là sự. Ba tướng Bất sinh v.v… là gốc, vì Thể là lý.
“Cứu cánh v.v…” : giải thích lại gốc lý, đó là Cứu cánh của pháp tính. Luận này giải thích bằng năm nghĩa tiếp theo nhau : Những gì ? Thế nào ? Tựa gì ? Tướng gì ? Thể gì ? . Phật một lần nữa dùng câu kinh này để nêu bật năm nghĩa trên, chứ không còn có lý gì khác.
 

KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN 
QUYỂN THỨ BA – PHẦN TRƯỚC 
ĐÃ XONG

Ngày 24 tháng 10 năm Bảo An thứ ba viết xong. Cùng năm di điểm xong, tàng bản ở Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem in .

– để pháp được trụ lâu dài-