QUẢNG LỤC CỦA THIỀN SƯ HOẰNG TRÍ

SỐ 2001

QUYỂN 08

Ngữ lục thượng đường Thiền viện Đại Thánh Phổ Chiếu ở Tứ châu. Thị giả biên tập thành sách.

LỜI MINH KỆ TỤNG CỦA HÒA THƯỢNG GIÁC Ở NÚI THIÊN ĐỒNG MINH CHÂU

Thị giả Đạo Kinh Tịnh Giác soạn.

Hòa Thượng Vận Chơn Yết Tụng114 bài về kinh Viên Giác.

Đại Quang Minh tạng.

Thiền tăng khơi dạy cơ trâu sắt, thầm chiếu linh thông là ai? Bóng thỏ trong trăng chìm trong mây đất mẹ. Cá biển nằm mộng cành san hô. Phong vận Phật pháp hiềm nỗi lắm lời, gia phong Lỗ Tổ biết mượn mày, ngồi ngay thẳng tâm thênh thang hư sáng, trải qua nhiều kiếp khó đổi đời nó.

Chương Bồ-tát Văn-thù Sư -lợi.

Đại sĩ Văn-thù hưng khởi chơn phong, trí rửa sạch vô minh và tối tăm nhiều kiếp. Bệnh mắt vừa hết hoa đóm tự tiêu. Linh quang riêng chiếu vọng tưởng tiêu tan, người gỗ từng bước tiến về ngôi vị ban đầu, ngọc nữ hồi cơ lại mượn kiếp. Nắm giữ cương lĩnh xem thủ đoạn, nhà nhà biến thái là thần thông.

Chương Bồ-tát Phổ Hiền.

Nghề nghiệp sinh sống nhà anh vốn của thiên nhiên, khắp nơi đều thấy Phổ Hiền, tê giác soi thấy bóng trăng sao. Thần Châu Cửu khúc mặc áo kiến, giác không thứ lớp quên góc cạnh, huyễn tự tiêu dung được viên thông, diệu ứng toàn thân không xoay lại, hoa củ ấu ngày xưa không nhuộm càng xinh.

Chương Bồ-tát Phổ Nhãn.

Ai từ đạo tràng Phổ Nhãn đến, mở được lưới châu trước nhà Thiên Đế, ánh sáng trong suốt thành một đoạn, trong ấy thanh tịnh dứt không còn mảy trần. Lý sự chơn không quán bao trùm nhau, chiếu soi căn trần không còn tối tăm. Khi thích hợp nhau, trên vách thợ gốm nổi con thoi ánh sấm.

Chương Bồ-tát Kim Cang Tạng.

Vàng rồng ra khỏi quặng dứt hết nghi trước, thuyền sang bờ đâu biết chổ nào luống dối. Động mắt y khuấy đục nước trong. Nhóm đom đóm vô ngã đốt núi tu-di, mắt hết nhậm hết thấy hoa lăng xăng. Cơ đến mới biết nhanh hơn sấm chớp, biết được thì am đầy, ma bên ngoài đâu thể đến được bờ rào.

Chương Di-lặc.

Gốc si hạt giống ái phải dùng sức cuốc mới sạch gốc. Một đoạn linh minh là nền tảng xưa, trồng cỏ người trời càng hiểu ý, niêm hoa Tôn giả phá nhan cười, Đại Sĩ Ngư Hành phải tạm biệt, Bố Đại ngây ngô tăng cúi đầu, đầu mũi khắp nơi gõ vào nhau, cảnh giới duy tâm không lừa ai.

Chương Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ.

Trước khi liễu ngộ, chỗ trước đó chẳng phải khó, nhưng nay từng bước đến Trường an. Tâm sắc rửa sạch không còn đường tơ, pháp tánh viên dung ẩn vào các vật, việc xưa nay vốn giải thoát, mấy người đến đây không còn mập mờ, vọng không khởi diệt được thành công, nên cười gió phướn động cây sào trong chùa.

Chương Bồ-tát Oai Đức Tự Tại.

Mở cửa Tam quán không ngưng trệ, gặp được đường đi đi đến mới thôi. Gương chiếu hình tượng tâm không chỗ trụ, lầu chuông ra khỏi chướng ngại có nguyên nhân, trên đỉnh có mắt như Thiên Chủ, lá bùa hộ thân sau khủy tay giống các nước chư hầu, ứng thế độ sanh dạo biển huyễn, trăng sáng chèo thuyền lướt sóng đi.

Chương Biện Âm Bồ-tát.

Diệu viên đơn phức dứt hai bên, ngũ ngũ cơ luân khó lẫn lộn, âm điệu đàn sáo nghe hợp luật. Máy dệt tơ ra gấm Văn Quan, thân tâm đều phân khắp nơi ứng hiện, ngàn tay ngàn mắt không lừa dối được, như trai mai mối cho ông lão sử dụng, Hòa Canh không còn thấy chua mặn.

Chương Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng.

Nguyên nhân chứng ngộ phải nắm vững ưu điểm, thoát ra được nhiều lớp tuyết thêm sương. Tướng chúng sanh vẫn còn lang bạt, gốc thọ mạng trừ được, tự hét cuồng. Rồng thay xương thì trời sắp mưa, cá côn thay vảy lại được gió đến. Người nước Trịnh gỡ sạch hết bùn trên ruồi, mới thấy được ánh sáng lỗ mũi ban đầu.

Chương Bồ-tát Phổ Giác.

Bệnh và thuốc chống nhau cả hai khó bỏ, nhà thiền mình tâm hoa phát sáng. Bản tánh sáng tỏ chẳng cần tu chứng, hằng ngày tỏ rõ đâu cần truyền trao. Chân bước cao lên khoảng trời trống không, biết được kế sống, lòng tin thành phương tiện như lá vàng dụ con nít nín khóc.

Thời gian vụn vặt đi trên bùn đất, nực cười ốc, trâu tự trào nước bọt.

Chương Bồ-tát Viên Giác.

Chọn nơi, theo tay nhận tiêu cầu, trong thời gian dài ngắn vào xã lưu. Sau khi giác cơ trói buộc tự mở, đến khi ngộ thầm thầm khó nhận, vô cùng no đủ cỏ Tuyết sơn, một màu lẫn lộn trâu hiện lồ lộ, gió quét sạch nước trời, bệnh mắt hoa lành, trăng sáng trời thu chiếu hoa lau.

Chương Bồ-tát Hiền Thiện Thủ.

Phật nói Đà-la-ni, vừa nghe tên thù thắng liền thực hiện nhân duyên, nhìn thẳng tâm tủy truyền trao nhau. Không phải truyền trao bằng tai miệng, chỗ đạt được đến cơ nhanh như điện nháng, biển cả mêng mông dung chứa sông về, không phải tình lão bà tha thiết phân chia, chịu để lại văn tự khám phá Ni-kiền.

Tổng tụng.

Mục đồng ca hát vui Xuân về, trong đó trang nghiêm bằng rừng công đức, đưa tay chắn dứt vực thẩm biết đường cứu sống, ẩn thân trong kiếp không kỵ nhất cơ nặng nề, chưa chuyển được sóng thức không được nhiều con, không treo dạ môi còn một lời, Phật tổ tâm hợp lời ngoài dấu tích, đốt hương ngồi thanh tịnh cùng nhau truy tìm.

Hòa thượng Dự ở núi Biệt Hồng.

Vọng niệm chưa lặng, lại có một người ở núi khác, bóng nhạn soi trong nước, tâm mây khách trên sông, đều ở như vậy, dù ngàn dặm cũng gần nhau. Sâu xa một ấn tỷ, năm màu hồng hư hoại cùng trình bày, đường về lên đường chim, cây hoa Xuân một vườn Thủ tọa Biệt Mãn.

Đan San tổ phụng lạnh nương nhau, hổ thẹn như nay hai cánh bằng, ngoài mây liệng kêu cùng sánh đôi, giữa núi tìm ăn tạm chia lìa, khắp trời quang đãng ngậm hoa ngọc, cây châu làm tổ bóng trăng soi, đưa đến nước ngọt sau khi hội, mới đem lời mới rửa sạch trần.

Thủ tọa Biệt Hoàn.

Đứng giữa sân tuyết trống xưa rơi vào khách, Đan San nắm tay đạp bụi trần. Người đá khám phá hiểu được trở về nhà xưa, ngọc nữ sợ ánh sáng chẳng chuyển thân, ý dạo sông hồ nhiều mơ mộng, đường đệ hồi đầu trở thành Xuân. Chốn tùng lâm suy tàn thấm nhuần ân, sấm gió bên tai thức giấc côn trùng ngủ Đông.

Cùng với Giai Tri Thương.

Tuệ Năng giã gạo giống chút chút, trong bảy trăm người chỉ có được một người kiệt xuất, nửa đêm truyền y có căn cứ, trước cơ nhận được như gương không tỳ vết, Tổ sư giã gạo nhàn như thế. Nếu nay ông không bỏ cát, giếng xưa Thu trước niệm khô lạnh, nhợ vàng câu được ễnh ương ngọc.

Cùng với Nhân Điển tọa.

Đi hành khước sáng tỏ được việc mình, thấy phù dung tô điểm thêm vô thường. Ngựa đen đạp sương vốn không tỳ vết, cá trắng thổi nước không tiếng. Hợp cỏ từng làm khóa vô ích, ra tay nâng đỡ bẻ gãy chân đảnh, bỏ gạo bỏ cát còn chưa được, phải có thiên chánh cùng đi khắp.

Cùng trắng bày tỏ.

Nhà kín đèn sáng rực, hủ không dưới bóng trăng lặng lẽ, ai nói điện xưa này không Phật, chỉ ngay lúc ấy có Phạm âm.

Ngày rằm tháng 10 cùng Pháp thượng nhân đi Nam cốc.

Đà sách kêu khắp rừng nồng ấm, đến hang rỗng mắt say đắm, lá vàng còn đẹp hơn Thu ngày khác, cây gấm nào cấm có gió sau sương, càng lên núi rắn bò thêm uốn khúc, cầu vồng vắt ngang vực thẳm nước về đinh đông, ai tiếc việc bình sanh vị kịch liệt, truyền trao trong uống trà cười nói.

Một cây gậy một đôi giầy đi là đủ, thảo luận sâu xa bạn khách thân tình, nửa đêm cùng ông nói chuyện ở hang rỗng, an ủi tôi hằng ngày tâm ngây ngô như nai, nằm gường nhàn nhã mộng non nước, vào suối lạnh thành âm tơ đồng, về lại thiền viện Dư Thành bên ngoài, chắc chắn là nghĩ đến gia lâm.

Tri tạng Biệt Giác.

Một hạt đậu nức trong tro lạnh, đầu sừng chênh vênh đỉnh mở mắt, ngọc xanh trong mâm châu lóng lánh, trên điện lưu ly trăng qua lại, người gỗ nhìn bóng ánh sáng đi, gái đá khoát mây nửa đêm đến, thiên, chánh công thành phải chuyển vị, vào làng duỗi tay đầy đủ.

Cùng với Thị giả Nặc.

Khi mộng chén trà tay tự nâng, Quy Sơn ý tốt chuyển then chốt đạo, tự gọi chủ nhân rồi tự đáp, ai sai Tôn giả gọi ba lần.

Ngày sanh tử đến có biết chăng? cô phụ tuổi trẻ là có chăng?

Người xưa đạt được đạo nơi hành vi cử chỉ, biết không hạ thủ công phu trong việc nhỏ.

Cùng với thị giả Cảo.

Đạo Ngô năm đó không chịu nói, dần dần đến nguồn không thương lượng, linh cốt tiên Sư nay vẫn còn, không cần cầm xuổng lên pháp đường

Đưa Thiền giả Thông đến Tương Dượng.

Tổ xưa lạnh buốt nằm Tây Kha, tỉnh mộng nhớ lại rất sợ hải. Gió mưa khắp sông nhạn bay loạn, ngoài đảo gia sơn treo áo tơi của ngư ông. Thôn Bạch Dương rơi vào Bàng cư sĩ, tháp đá xanh chứa đại ca, đêm vắng mỏi mệt tựa vào tùng xanh, thỏ đẩy ánh trăng sáng xuống ngân hà.

Tri khách Tông.

Một niệm thênh thang sạch bụi trần, trong mắt đầu lâu mở lông mày, phượng ngọc ngậm hoa Xuân không già, gà vàng gọi trăng mộng ban đầu, kiếm xưa trong hộp sáng can đẩu, trên vách thoi lạnh sâu chập phá sấm sét, Phật Tổ vào làng giáo hóa việc thành, rào chê ly cốc dồn đống đầu mũi.

Cùng với bậc sơ thiền.

Trong động gia phong rỗng sáng tỏ, trâu trắng cày đứt chân núi xanh, nhưng nay nơi nào cũng không gặp y. Lỗ mũi chúi xuống gõ vào nhau, A Thứ Thứ mới tin từ đây không mở trói được .

Cùng với Sung Duy-na

May thoi chưa hoạt động nhưng đã thành tựu, một điểm hư linh vào vòng đạo, trong ánh trăng sáng thấy được mình. Ngoài bóng mây trắng đến gia sơn, ngao vàng gần đêm rơi vào thủy triều, ngựa ngọc hý báo tin Xuân về, thuật lợi ứng tâm đều có thể, khi thoát được mọi việc đâu liên quan nhau.

Tiễn đưa tăng về Dự Chương Tỉnh Thân.

Khách phòng chân mộng gió cành không an, nhà tối nhớ lão nhân Sao, nhật tâm trở về cỏ tuyên hoa vàng, ngàn dặm tìm nhau chìa vôi kêu. Cây cây Đan Phong lá vàng rơi, tùng tùng lau vàng tuyết trôi nổi.

Tây Sơn thấu tỷ mưa Thu rửa, cửa sổ cuốn rèm xa xa màu xanh

Cùng với thiền nhơn giản

Đạo Hư minh xua tan tâm trạng mùa Thu, thửa ruộng che phủ nhìn xuống tấm gỗ, định khởi muốn nhìn sao Hán, thỏ, hồi cơ mất hết trâu núi tuyết.

Cùng thị giả Diễn

Cò trắng định ngờ việc thệ nguyện lạnh lẽo, gậy lê ném vào xả không có gì khó. Gió lau hoa tuyết thu bên bờ, thuyền chở trăng sương mênh mang đêm phủ trùm lên biển, thân tâm thênh thang chạy theo mộng, sông hồ hôi thối dạo quanh co, ngày khác truyền vật ngoài y, gọi liền quay đầu đến cây sào chùa.

Hiển thiền nhân xin tụng

Chổ hiển bày cơ phải ẩn, lúc bận trí tự nhàn, trâu đất mới ra biển, ngựa hay lại đến cửa ải, nước lạnh trong trăng soi, mây bay lặng lẽ tựa núi, nắm vững đường về phân hóa, không tạo tiếc rẻ nhà xưa.

Nhờ thiền nhân xin gạo cầu tụng

Bát quải đầu gậy xin đơn khâu. Ra sức khám phá thanh bần một điểm sầu, mưa đỏ mấy phen hoa đã lão, mây vàng vạn khoảnh lúa mùa Thu, đối duyên tay mắt toàn thân phải, ứng vật cơ quay càng u nhàn, lý về Thiền Dương nói chuyện bánh Hồ, da bụng cột tre no.

Tống Duyên Thượng nhân cầm bát.

Duyên khất thực nhân gian một tích trượng, khói núi xanh tuyết trơn khô khan, mảy gió chưa chấp nhận thiền trong chốn ồn ào, vừa xem mây gấm lạc vào hóa cơ, tự gắng sức cúng dường chốn tòng lâm, ai ngại bụi trần dùng quạt che áo chở về tăng no cơm thượng nhân, cùng nhau núi Xuân ca hái rau vi.

Cùng với pháp thượmg nhân nam cốc qua ở với Hoàng.

Khói nhạt mây xanh nước chảy ve ve, họ Hoàng buổi đầu an bình được tự tại, khắp nơi dê si không thu thập, tịch dương rơi xuống làm nhiễu loạn bờ dậu.

Đá lúc nhúc mây dày tìm nước đồng nội, lão ngại ta đi tự do chung tình non nước thuần là rượu, đêm nay gường trúc ngũ thật say.

Cùng với PhụThiền nhân.

Dạo khắp nơi vuốt râu hùm, kiếp không trong hủ mò có chăng? Trăng gió khắp nơi trăng chưa chuyển vào tận tủy sông núi bệnh khó nâng, kim để vào hạt cải cơ không trái, tiếng đàm loan thôi thấu đạo không khô, về chốn tùng lâm xem nghi vũ, Đan san xuất xứ chín bọc chim non.

Cùng với TungThiền nhân.

Gặp nhau trên đỉnh đá đen, thường gặp trên đường trường sanh chính là khi dạo núi, hoa rụng cỏ thơm phủ mơn mởn.

Vận Đoan Lăng-già cùng với Thủ tọa Sanh.

Ngồi trong túp lều cửu giang đông, cảnh trong gương dung hòa trong vuông tấc, thân Thuấn-nhã-đa đêm ngồi thiền khán, tay Mẫuđà-la lúc dùng thông, duyên sanh ai biết có hay không có, tự biết lặng chiếu không chẳng không, hợp với đạo Quan Âm hay ứng, tre điêu tàn mưa tơi tả gió tùng.

Trong ngực bình sanh núi ngoài mây. Ngày nhàn dạo núi, có khi rảnh chống gậy đi, chỉ biết một đời vui hang rỗng, nhớ tưởng mười phương chim vượn theo. Thấy rõ Thu bao núi gội mưa, ý người thanh tịnh gió than với tùng, trở về dạo chơi vui bất tận, ai gọi trăng hoàng hôn đánh chuông.

Từ biệt thượng thư Lục. Ngàn dặm đồng phong đức không lẻ loi, tâm Thu trăng sáng chiếu bình rỗng, hai đầu ngồi cắt sanh tử nào, một điểm viên mình khác có chăng, ngựa gỗ lạnh hý lũy cỏ xanh, trâu đất Xuân trồng ít mây trăng, thấy nghe Phật sự ai xoay lưng, chỗ dùng toàn cơ chuyển then chốt chính của đạo.

Cư sỹ Siêu Nhiên, được hỏi đạo ở Thiền sư Bảo Phong Tường, và muốn làm bài trường ca trở về để cảm tạ tôi cùng gặp nhau điếu viếng, để tẩm bút nói câu kế thừa.

Cửa cửa thông đến đường trường an, quen tay vói lấy vẫn thích hợp, gót chân đạp đến cửa Triệu Châu. Thân vàng trượng sáu một cọng cỏ, ta ban đầu gặp gỡ là người trong này. Pháp pháp viên thông thấy được hoài bão, gậy giầy bên nhau đến đạo tràng, không học si thiền quét sạch cửa, trời xanh mây trắng một đường thông, đi đường chim ai tìm kiếm. Sư Bảo Phong là con ngựa non, hợp nhau nhưng nay buồn quá muộn, Bàng vẫn uống hết nước Giang Tây, gọi Câu Chi lại đựng một ngón tay, trâu đất ra sức cày mùa Xuân không kiếp, người gỗ bưng báu núi Hình ra, về đi thôi hết vuốt râu hùm. Trong rừng gay gốc mặc tình ngả nghiêng, ánh nắng chói lói ban trưa đẹp.

Qua Vương Ngạn cùng ở ngoại ô.

Buổi sáng hiện bày dâu tằm, mây đêm cuộn vào khe núi, họa đồ

Duy-ma chưa cuốn lại, rõ được việc nhà nông bắt đầu nhàn Cùng với Phước châu Mãn Thiền nhơn.

Nhưng nay sau khi từ biệt riêng dặn dò, gia phong Tào Động chưa thành câu, trăng đầy rừng phượng lạnh không mộng, năm xưa xác rùa đốt vẫn còn linh, buồn bã không chạm vào đầu rắn độc, mục đích phải tỏ như sao tê giác, lại phải buông ra dang hai tay, lúc ấy gặp nhau nhìn đình châu.

Bỏ ăn xuất gia.

Sương sớm gậy lê dựng bên cô thiền, gia sơn xin ăn có ý để bớt duyên, lầm đường thuận gió kêu hỏa trúc, bay trên nóc nhà mờ mắt ánh khói tùng, canh thu, ba ba gỗ có vị thật, cây kê cơm trưa không có mùi tanh, ai nói khách nằm giường không ổn thỏa, ta không cành chạy mua sơn tiền

Lễ tháp Đại Dương Minh An được câu trung đạo.

Mãi tưởng nhớ cảnh đẹp đều là giấy cỏ và gậy, cầu vòng vắt ngang khe lạnh, đường tối mây mơn mởn, chim cưu trên cây nơi sườn núi gọi mưa, điền gia gà báo sáng, tâm này ai nói sáng, đi nhiễu tháp ba vòng.

Duy Thiền nhân ra xin cầu tán.

Then chốt sáng tỏ chuyển hóa cơ, xuất môn khí tượng ngát khắp nơi, khe sáng đẹp rửa sạch gấm hồng, liễu mềm trước gió xe tơ vàng ròng, rỗng rang không chướng ngại, lẫn lộn không mất ta, khắp nơi gặp nhau là ai, biết được khách lo gì thấy Phật, đùa người bán có mày dài.

Diệu thiền nhơn ra xin cầu tụng.

Kiếp hủ mênh mông rửa sạch duyên ma, chỗ diệu quán chơn tự thấy được, đích thực chưa nẩy mầm sáng được thật tế, linh linh vô đắc vào thiền sâu, nắm gió xoay biển cá côn lột vảy, trăng sáng cát lạnh cò không ngủ, gặp việc hòa nhập hay chuyển biến, ngại gì sóng cả kéo thuyền không.

Thủ tọa triết Quế Chương gần đây từ Song tuyền đến nhân đó viết câu tặng cho.

Gia lâm nằm yên một tổ mây, chán làm khách am nhà Lương, bẻ quế đưa tay chạm trăng lạnh, ngậm mắt châu cùng mộng du Xuân, sân không còn thấy chim mưa hoa, lộc nai hay đến kêu thần hang … năm lão phương lâm về nhà hỏi, cười nói với nhau đầu trắng mới.

Ngày mồng mười đầu năm giáp thìn Tuyên hòa, tôi muốn khăn gói theo sông Hoài từ Đông xuống Cẩm Quan, Thường thiền nhân chắp tay thỉnh, nhân đó ở lại ba tuyệt:

Núi hoa khám phá nụ hoa hồng mùa Xuân, hổ thẹn vô tư công tạo hóa, ai sợ năm tháng đầy cây xuân, phải lắng nghe chim hót nói gia phong.

Bụng rau nào dính một chút sầu, chỉ biết ngủ Xuân Đông như cháo, ngoài mộng tìm minh nơi nào có, trẻ em châu nhung đầu tóc xanh.

Điềm nhiên ai lưu tâm, dưới trăng sóng bạt ngàn gió lướt qua rừng cây, khác nhau gặp nhau xác định nơi nào, rõ ràng nói với chỉ như nay.

Tiễn đưa tọa chủ Đồng về thượng đảng.

Trăng thỏ thanh tịnh muốn phun sương, khách giữ thói quen về vung tay, ai nói quét sạch sự dơ bẩn của danh ngôn, ta cười hun thành hương tri kiến, gom đá làm đồ chúng đầu dễ gật, ngộ được lý không giảng nghĩa khó lường, đến nhà đem việc trầm cảnh nói thích nghi, không đối cơ khác phát huy phương cõi.

Biển giác cá kình dài lột cảy, trời xanh sừng sững trăng sáng sau

lưng, trong ngực thêng thang nuốt mây mộng, mép mày say sưa thấu thái hành, giường an tĩnh mỗi lần đến thành bầu bạn, một cây gậy đến nơi khác nuốt vào bụng người, về sau thăm tôi trước tiên truyền cánh nhạn, đến nơi khác cắt cỏ hoang ba đường.

Ngoài rèm đêm sáng trăng sương đầy trời, thiền tăng lại quên việc gia cơ, cây khô than với mây phải chiếu soi bên trong, rắn chết có độc càng đề phòng, nghe đàn đứng dậy múa là thói quen của ngài Cadiếp, buông gương thấy mất đầu là Diễn-nhã Đạt-đa điên, đúng là phải nhiều lần cắt cánh ruồi, lỗ mũi Tổ sư phải phóng quang.

Am Đại Minh để lại kệ.

Sơ lược tắt về sự lưu chuyển môn hạ, núi treo ngang cửa sổ đầu mái hiên nhà. Khi ý Đại Minh xưa đúng, đêm sương trăng đến bên hiên nhà.

Tâm tri Trang cầu tụng.

Người tự do trồng trăng cày mây, ruộng đất rõ ràng hợp với chơn, chỉ có màu vàng nhìn ra lửa nấu thành cơm, trâu trắng hôm nay đã chăn thành thục, luôn luôn tìm kế sống trên đầu cuốc, ngoài vật gia phong thân khắp nơi, mùa Thu nhìn toàn là lúa kê, no người tùng lâm sáng tinh thần.

Cùng với Đông thiền nhân.

Bạch Tần gió Thu đầu sông, chim xanh mộng theo cát nước chảy, trong sáng phát đạt trăng lên cao, thuyền chở đầy vào bãi hoa lau, vừa ý nên mừng đi về, sáu ngao phụ gánh về, khói sóng tuyết tan Thu lưỡi câu.

Thuần Bạch Thiền nhơn cầu tụng.

Trăng sáng hoa lau chưa được như, sáng trong tự chiếu xưa nay hư, ngồi cắt đứt mười phương phải lấy mũ, một tướng công thành phải buông cuốc. Người đá lưng chuyển sau khi trở về ngôi vị, đầu đài ngựa giỏi qua cửa ải ban đầu, khắp cả pháp giới thấy thân tướng, mới tin Tào Sơn giếng thấy lừa.

Am mây Lặc Đàm tình cờ làm.

Ánh mặt trời mây hồng phủ nửa am, sương núi mới ám chim gọi gió, không biết người ở trong cửa sổ, mắt mờ xông bếp trăm lự không.

Vận Siêu Nhiên cùng Đại sư Triết Quế Giác và lão Giản Phương trượng

Bụng bó ba bó tre, điềm nhiên nằm gia lâm, Đại Ngưỡng tịch cơ sâu, dụng nhanh như Trường Sa Cảnh Sầm, ngọc khua ở hang rỗng khe suối, trúc thưa trăng xuyên bóng vàng, nơi Sư thúc Đông Sơn, đạo này chưa nổi chìm.

Mượn âm vận của Tuyết Đậu tiễn cư sĩ Siêu Nhiên Triệu Biểu chi khi ở Lặc Đàm.

Một miệng uống cạn nước Giang Tây, gia phong Mã Tổ đề bạt lên, lão Bàng cúi đầu nối trần thơm, xưa, nay ai được như vậy. Đạo Siêu Nhiên cùng với người giao hảo, du nam ý thênh thang chẳng phải nhiêu ích cho nhau, gió mát thấu xương mắt xanh lạnh, giếng ngọc hủ băng cứng không tan, một giường duy nhất Tịnh Danh nằm, không trụ không nương thoát rỗng rang, nguồn thầm lặng mới là toàn đề. Pháp môn bất nhị khai mở ngày ấy, Phật sự viên thành tưởng quay về. Ra khỏi cửa đường hẻm bằng như lòng bàn tay, đến nhà con gái chỉ đầu tròn, đối nhau không nói được chơn thật.

Rừng Nam nơi ở mới.

Rừng núi bãi trúc xanh um, tôi nương tựa tĩnh dưỡng ở sâu, một đời tự túc vị nhạt nhẽo, ba đời bên ấy được tâm nhàn. Hang mây chưa thành ý ra khỏi hang núi, gió tùng hay tạo thành âm ven biển, vô cùng trong trẻo hứng thú cùng ai, tưởng có Ốc châu rừng Chi Độn.

Tiễn đưa thượng nhân Tung đến ở am.

Thế gian tạp nhiễm làm tăng trưởng bướu cổ ở người, về nằm bao phủ ánh sương trăng, được phép trong đó chuyển công lìa vi diệu, hủ ngọc đêm múc nước giếng lưu ly. Lời nhà tôi nghiền ngẫm hiểu khô cứng, no say về hai mắt lạnh, mây nước rành rành được ung dung, ngoài việc sáu cửa ai ngăn chặn.

Bụng thiền phải bó chặt như trúc bề, hãy xem trâu đực tự cày ruộng, truyền riêng không bán ba ngàn dặm, tai cây ai nghi hai mươi năm, một câu hợp đầu tôn khách họp, ngồi cắt đứt mười phương thiên chánh viên, khi khác ném gậy đến thăm nhau, vả lại chớ vô cùng bận rộn mờ về tay không.

Nấu măng dương xỉ có tỳ vết giàu bên Xuân, ai xem hiểu thừa kế người trong am, trời cúng hoa lạ công chưa thành, rồng ngâm cây khô bệnh khó hết, đêm thiền biến chất đều im lặng, ngày nằm ngại gì chim mỏi bay, ngày sau đến lại khám chư Tổ, ai câu được cá đuôi đỏ.

Vinh Thượng Nhân Phát làm người quản lý việc trà dầu ở La-hán đường xin tụng.

Thoát được mộng biết nhân duyên. Phật Phật tâm đều quên trước sau. Một điểm linh minh ngoài ba cõi, rất tịnh diệu trước vạn cơ, tôi luyện tự được môn đồ chốn tòng lâm, du hỷ ngại gì trên trăm đầu ngọn cỏ, trần cõi dọc ngang đều là việc hóa độ, người lập gia phong chỉ gió nắm tay lên không.

Tâm thượng nhân khất thực cầu tụng.

Người đi tâm khất thực, gió Xuân mênh mông rửa sạch chốn tòng lâm, khe tùng hương mơn mởn phấn vàng, bãi trúc xanh xao bao trâm ngọc, nấu nồi đất phân ngọc đầy đều bát, bình sạch đêm khuya múc trăng trong hồ sâu, trở về rửa sạch trong ánh sáng, đường xưa bụi trần không bẩn vàng.

Thăm Dương Tài Thúc không gặp để kệ ở trai đường.

Gọi gậy đứng lặng dưới nhà mây, núi lạnh Xuân về tìm bạn hữu, khói nhiễm cỏ mờ ba đường đen. Tuyết ban mai bừa đất lúa mì dưới chân, muốn cầu lời chơn phải sạch tưởng trần, nào sợ núi gió sanh lúa, không thấy Thi lang về Trương Anh, khi xanh xao đối với đá xương bồ.

Giải Thủ tọa và chức sự Thư ký chào nhau dùng kệ từ biệt.

Chim câu ra về hay kêu ra âm, gió chiều rụng lá thu trong rừng, đường cát mờ mịt nước dâng mêng mông, màng đêm dần dần phủ trùm núi, nhiều người đội mũ tự tỉnh thức, kéo tay áo bạn mới biết nhau, xin cùng cao nhàn không được thỏa nguyện, đóng cửa nằm yên tâm thanh thản.

Tình cờ thành dạy chúng.

Dương liễu mềm yếu trước gió, chuối bị mưa đập tiếng lạnh, chớ lấy thấy nghe cho là đúng, ai đem thinh sắc lừa nhau.

Thành Thị giả cầu tụng.

Nguồn chơn không bị gió làm lay động, bóng thỏ trong trăng in dưới nước trong, tình khô chỉ điềm nhiên, thầm lặng vị thiền no, gia phong mới mở rộng. Nghĩa đệ nhất năm ấy, cơ quay chuyển có nơi, vạn hóa đưa ra trong khẩy móng tay.

Ngày 2 mùa Đông canh tý, trời trong lành ấm áp, cùng với Thượng nhơn đi Nam Lộc. Ngang thì sườn núi lưu chuyển, dọc thì vang thanh trong. Cây thẳng che mát suối, lạnh nhưng không khốn khổ, đến rừng tre nhà người, uống trà rồi trở về.

Chân mây chốn đẹp xưa chưa đến. Hạnh thanh tịnh phát huy trí tuệ quên cả gồ ghề. Ai không gầy ít tựa vào gậy, ta cùng u nhân đồng tâm thưởng thức, men theo bờ khe tự uyển chuyển.

Bờ cây già cao um tùm. Phía Tây khe xin lửa nấu trà trong trúc nhà người lầu âm khánh.

Từ biệt Ngũ tổ Sơn Duyệt chúng.

Đông Sơn tụ tán cũng tiến thân. Hoa tỏa hương thơm dáng liễu tan trong khói, khẳng định xứ, căn, trần chẳng phải một. Khi dùng thì ngàn mắt thích hợp ngàn ngàn. Trong tháp Tổ có việc truyền nhau, ngoài núi người không lãnh hội đuợc thiền, ngày sau đạt được lời viên đốn, chưa hiềm nghi gõ gối gọi xuân ngủ.

Ngũ Tổ Thiền nhân Tương cầu tụng.

Gió Đông ngưng thổi mưa ướt hoa. Trên sông Hoài núi đẹp xanh đáng kể, buột giầy muốn tìm núi Bắc Nam. Cuộn y lại từ biệt Tổ Đông Tây. Cá vực chim bồ một nhà ồn náo. Bãi trúc khe rau hai đũa ngọt, khắp nơi gặp nhau ghi đựoc gì? Đêm lạnh trăng trên cây san hô.

Thượng nhân Vân trì bát xin tụng.

Rừng mây gió tuyết chiều thon thon. Nhỏ giọt tiếng lạnh biết dưới thềm. Một chút tâm cầu khẩn nguyện gậy giầy. Việc giáo hóa viên mãn do rèn luyện, ánh sáng như lau trăng không ngại. Thêu hoa lạc cỏ Xuân không hiềm nghi. Phân thân trăm ức khắp cõi nước, thấy nghe nghiêm kính ai đưa ra.

Thượng nhân Thanh trì bát cầu tụng.

Hoa lau đầu suối mắt liễu xanh, khi ăn trì bát ở thành Chúng Hương. Các nơi gần kề quyết ngờ đầu bạc trắng. Từ lâu khách tự mến tâm cảnh tịnh. Nghĩ mãi tuyết lạnh đích thân trình bày, không quên nước ấm nguyện đến chim hạc. Gã Tòng Lâm no ấm biết nhau thật ro.

Măng, dương xỉ núi Xuân thứ tự mọc.

Tiễn đưa thiền nhân Quảng.

Gió ấm kéo khách xuống đỉnh mây. gặp việc không tâm tức dạo thiền. Mắc tội biết ngay biến thân báo, ra khỏi cửa phải biết cởi ngược trâu. Khói xông gậy vào đường tắt Thanh La. Thuyền chở trăng về châu Bạch Điểu, trong ngoài ngang nhau còn công bặt tông tích, bỗng nhiên trời nước đều thành Thu.

Đại nhân Cần thăm, đặc biệt làm thơ tặng.

Nếu ông qua đến cửa ta, biết ngay Lương Tọai chí càng thành khẩn phá vi trần được quyển kinh, khi vạn tượng rối ren mắt rỗng rang, cùng với đời chi ly ai ý xấu. Người kỳ lạ gầy ốm góc cạnh tự vết Thu, về hưng thạnh đến nhà ẩn trong rừng, trăng sáng khắp núi xua tan bóng đêm.

Tiễn đưa Thượng nhân Kim về Thủy Nam.

Từ xưa đến nay nương vào sự gánh vác. Trên trăm đầu ngọn cỏ đâu có góc nhọn, nửa đêm vỗ tay cười với trăng, không thấy cóc ba chân phun sương, kiếp không có câu khá mầu nhiệm ông đi ai nói chuyện với ta, sau khi thấy thái bình Sư thượng đường, dám làm phiền ta đưa ra rõ ràng.

Tiễn đưa Thiền nhân Giác.

Trăng sáng nhà trống khách không ở. Hoành Tương cảnh đẹp dạo làm thơ, đường về nhiệm mầu không để bóng, trời nước từ nay một dáng Thu.

Tiễn đưa thượng nhân Nguyện về quê hương.

Đầu suối mua thuyền về bãi Ngạc, chèo thuyền gió mát giữa đêm trăng, đi hết núi thiều đến nửa tháng, con mây trắng đến cha núi xanh, câu cuối cùng ông lão Nham Đầu, đến đây sẽ biết hỏi không lời. Tháp không vết nứt trước gió sắc cao. Rỗng rang không ngăn cách mảy tợ. Dặn dò ở đây đi mau phải về. Con nhà ta phải toàn tài, không ngồi hai đầu đường sáng tối. Trong thiên về rồi trong chánh đến, từ trong hông ngực cái ha ha phong lưu biết được bao nhiêu.

Từ Lô Sơn Triết quế đầu rào treo phan về sau, nhìn về hồ Bành Lãi, cầm gậy đi qua trước thất sơn tăng nói kệ.

Cây rơi vào núi xương gầy, nước rút cát lưu dấu. Thuyền đánh cá đùa cả ngày trên sông, một chiếc lá hồng nhẹ nổi. Việc trong mắt chẳng phải thế tục. Tâm đạo nhơn nếu vượng lên, tiến lên đầu can phướn, mây nước mở gia phong.

Ra khỏi Khang Lô qua sông Hoài sơn lạy tháp chư Tổ làm giữa đường

Thuyền nhám cát bờ nước oai linh. Xuân trên bờ bùn sâu bẩn dây, quay đầu lại Khang sơn nhớ kết xã, tình thật nhà tổ việc truyền đăng, con cháu tiến lên sân tuyết được. Tuệ Năng cột dây giã gạo được y bát. Ngồi thất Thiếu Lâm xoay mặt vào vách chiếu soi, tâm địa trong sáng ánh như băng.

Cùng với tôn giả Tuyền.

Lông tơ buộc áo thân hình khô héo. Việc trong ngực một mình tỉnh ngộ, quên cơ ứng với dụng thì nhiệm mầu. mắt linh hoạt lạnh nhìn chỗ rỗng linh lợi, lời hay mây đẹp một mảnh Xuân. Khí trong mai tuyết biết sao rơi, nhưng nay công hết nương đầu trâu, chim hoa không đến gió quét sân.

Nhắc đến bạn đạo trong Du am và giản am.

Người chơn thật khắp mười phương, đến khắp nơi hiện bày rõ ràng. Ngỗng chúa uống sữa để nước lại, ong ở nhà hoa chọn được hương. Tâm như gương chiếu sáng không tỳ vết, đạo thênh thang thấy được thần quang, hay đến chốn chợ ồn náo trụ trong Tam-muội, chim bay trên không không lưu dấu.

Đạo giả Vận Truyền dao viện Lạc Tinh.

Gió dựng cát gốc lúa lớn cứng, lạnh bao hàm sao đá nước chảy cong cong, lên thuyền muốn qua cửa sổ, vin vào lan can nghi là bản đồ họa. Mây lau núi chứa ngọc chương xanh, mặt trời nổi trên sông vòng vàng tía, năm lão quay đầu vẫy gọi ta. Bạn rừng núi không ngại đêm gõ cửa.

Thượng nhân Hoài bước ra xin cầu tụng.

Giường Hồ phủ lông tơ sợ Xuân lạnh. Người xi năn Hoài đi vào chốn hoang vắng tuyết khô, tin gió vào hoa phơi bày rực rỡ, hồn trăng rơi xuống nước rửa mâm vàng. Tịnh Danh nhận cơm mất nhiều sức. Từ Thị mở cửa khảy móng tay, trong ấy đạt được diệu là thọ dụng của Phật, tất cả thành kiến không dối nhau.

Một người coi sóc việc đèn dầu trong điện hóa Phật và điện tăng đường cầu tụng.

Đèn Phật ai thắp sáng thay ta, nếu hoa sen nở tỉnh mộng, hương cỏ có tâm giữ trong sáng. Hoa lan tốt tươi không chân xanh lạnh sâu, thầm cày hóa bên ngoài rào biết ban đêm. Thật chiếu trong hủ bất giác tối, việc truyền gia thế cháu con, từ giáo sáng rỡ hiển môn đình.

Thiền nhân Lượng trì bát xin tụng.

Gia lâm một chiếc gậy bay, chỗ nấu khói xanh thoang thỏang, lặng lẽ trang nghiêm dựng bản thiền. Rỗng rang thông suốt cơ chuyển hóa. Khe lạnh nhiễm sắc thu, trăng lạnh đêm sáng khắp, không học sự thanh cao của Tây sơn, đây đi phải về sớm.

Thiền nhơn Sơ trì bát xin tụng.

Phật sự tạm thông cửa Hưng Hóa, khi dùng cân, rìu không dấu vết, toàn cơ vượt khỏi mé trầm luân, một câu nhổ sạch cội gốc sanh tử. Gió mát rửa sạch đá mài dứt sạch phiền, trăng sáng sắp theo đêm đài mờ, ngổng chúa chỉ uống vị tinh túy, nước sữa phân rõ ràng không lẫn lộn như ta.

Qua Am Bát-nhã.

Nhiều lớp hiên gầy dựng trên đầu lan can gãy. Các đảo thanh vi lạnh khắp gối, mắt nhìn hiểu cát chảy theo nước, thưởng thức tâm chơn cùng mây nổi trên bờ, chia đều sắc đồng nội nhà nối liền ánh sáng trên sông điểm phá đuổi theo thuyền, hiểu được nghĩa sâu xa của tông không Bát-nhã sum la vốn không ngại người thôi.

Am Đăng vân.

Đối khe xanh, cỏ sương bày lối đi thâm sâu, mong ta mê đồi hang, biết ai lầm bụi đất. La Môn nhìn sâu vắng, mây, bậc đá bước cao, thấp, vượn chim chưa bỏ nhau,cùng người ở cây khói.

Tiễn đưa Đạo giả Truyện về tỉnh mẹ.

Đêm đến sương dọa cuống quýt vàng, xin xùng người về nhớ hương lạnh, đến ngày bước qua cửa phải chuyển hết, đầu bạc không phải mẹ của ta.

Diệu hết công viên đến chỗ sâu xa, nếu người hiểu đúng cỡi trâu về, áo tơi nón gió hành lý cũ, hợp ý rõ ràng trên trăm đầu ngọn cỏ.

Thiền giả Viên cầu tụng.

Thân tâm khô kiệt mọi điều không nghĩ. Tròn lặng tự chiếu khi kiếp không. Gương trí diệu minh ào lưu vết cấu, linh cơ rỗng rang không qua mảy tơ. Đích thực đầu lâu nhìn mắt sống. Tỏ rõ cõi nước dụng giữa mày, phải như vậy thừa đường đi? Lỗ mũi chúc xuống biết chư Tổ.

Ba tuyệt trên đường Tà Xuyên vọng về Lư Sơn.

Vị chơn thật dốc lòng dựa cây gậy già. Tiếng gió rít lên qua rặng tùng, không người nói chuyện cảnh viên thông, cười nhìn mây bao phủ đá ở đỉnh cao.

Thanh sơn dạo bước quang eo suối. Tơi ông lo lưới trẻ dao động, ngày sinh xưa cởi cá đi, người nhà trên bờ họ Đào là ai.

Nước từ núi Ô Thạch chảy quanh về trước, người đi trên bờ Tà Xuyên lặng lẽ củi dâu dưới miếu cổ, ta đến không có rượu làm say Uyên Minh.

Đại sư Diệu Trạm cầu tụng.

Diệu thì không thô, trạm thì không lẫn lộn. Diệu trạm nhưng chiếu, sáng bóng không tỳ vết. Mây núi là chủ, trăng nước không cội nguồn, thân ngồi lặng lẽ, thênh thang hàm dung sáu môn, lỗ hỏng gió vào tạo thàng tiếng, hoa chịu ơn xuân, truyền nhau việc này, con con cháu cháu.

Thiều cốc viết bài ký Tuyệt cú viện Thắng Quả.

Gió bụi mịt mờ quyện với khói sông, lặng lặng chèo thuyền dường như có không, năm lão nhìn lại si dứt tuyệt, y nên ngờ ta đạt được công phu

Tiểu sư Tuệ Quả xin muối cầu tụng.

Bên trong vị còn thiếu chút ít. Lô Sơn thành tựu một nhà dương xỉ, măng, xin việc ông đi qua lau sậy vàng. Người có tâm nguyện ở cát trắng hải âu, nhà nhà đều dùng muối nấu canh, thôn thôn quét tuyết muốn lún ủng, vị đến thiền tăng mới nằm nghỉ trong trăng, viên thông chỉ là bờ vực sống.

Thiền nhơn Huy xin muối cầu tụng.

Lô Sơn đạm bạc đã nhiều thời, ai cùng tòng lâm rửa sạch hình dáng bại hoại, vì yêu băng biển để giúp vị trà, không ngại mưa Xuân phá cành hoa. Việc Tiên Đa-bà rõ biết hạnh, thân Thuấn-nhã-đa thích hợp khắp chốn, ý vui cắt đứt dòng thuyền đến bờ kia, đầu sông thuận gió xem cột cờ.

Tiễn đưa Thiền nhơn Nguyên qua Trường Lô.

Tổ nơi bờ sông đặt cành lau, rừng rậm tốt tươi quả đến đây. Sư môn anh em biết tên xưa, duyên pháp khắp nơi bị chậm trễ, trên cát nguyện lạnh hải âu ngờ tối, đầu nhà chữ thảo giờ nhạn đến, trăng sáng đò xưa phô bày rõ, ngàn dặm đồng phong không cách mảy tơ Lên am Vân Đỉnh miệng mỏng nói dựa gậy nói kệ.

Thang tuyết lên đỉnh mây, đến tìm Sư áo rách. Phá mõm núi nước liền một mạch, quế, tùng nửa vành trăng, thông hiểu tánh hươu, nai ngây dại, chán dáng hang gò no nê, nhớ lời dẫn dắt không đi, đứng lâu tựa cành gậy.

Thiền nhơn Cảnh cầu tán.

Chỗ lẫn lộn cần phải nhìn một bên, lúc này diệu ở trên đầu mảy tơ. Mây nhàn cuộn mưa trời thu rộng hoát, trăng sáng lan tỏa đêm nước lạnh. Chèo thuyền rẽ sóng trắng xóa hoa nhỏ vụn, gặp mộng kinh hải biết ảnh tròn, cơ chơn phân hiện chuẩn khắp nơi, lại ra lau vàng cầm cần câu.

Đạo nhơn Vận Tuyền qua Hương lâm.

Khói tùng tre rậm thông đường tắc. Bến vắng đá trắng lạnh leng keng, Ngãi Thiền đúng là dòng cam giá. Hương lâm lại thổi gió hoa chiêm-bặc, một khe lạnh dẫn ra ngoài vùng biên cương. Ngũ lão xinh đẹp ngồi ôm ấp, viết phẩm bình cửa sổ ý sâu xa, lạnh nhạt tin tức không giống như sấm chớp.

Bậc giáo hoá viên mãn cùng với đại chúng Viên thông xin nói kệ tiễn đưa.

Qua cửa thiền tăng thêm nhiều người, gường Hồ phá ngã thầm đạt được vị chơn. Đầu lâu đạo sống trước có chỗ, dùng tiến lên cục thịt đỏ vô trần. Tâm nguyện lau, măng xã Bạch Âu. Mắt mộng thấy cành hoa bướm mùa Xuân, tỏ rõ viên thông ý vô tận, khắp nơi ngã tư khách trong chủ.

Tiễn đưa Thiền nhơn chiếu đến Hồ Nam.

Hoành nhạc đón thu ngọc bích gầy, sông Tiêu Tương gợn sóng gió nứt lưu ly. Ban đêm thuyền chở trăng nhanh như tên, về đi thôi chừ hết hỏi bờ bến.

Về chốn xưa Nam Lộc

Cành dây kết bạn vui chơi, ôm giữ thói quen khó an ổn tìm chốn xưa. Mây nước mộng tưởng một mình ẩn, mắt ngắm nhìn rừng núi bốn cửa sổ rỗng, áo thu chưa ấm sợ mưa nhiều, cơm trưa không muối rau mềm ngọt, về đầu cảnh cũ thực hiện chí nguyện, đạo đồng chim tổ cùng cá vực.

Lễ thiền sư Thanh Ba Tiêu

Cháu Đại Ngưỡng đến yết kiến Ba Tiêu, phải tỏ viên tướng mới biết đam mê nguồn. Hoành sơn mưa khói rửa xương thu, gió thổi từ khe suối lướt nhẹ qua mặt còn dấu nắng. Lá xương bồ gầy nước, đá đẹp, cây tỳ-bà thầm lặng hiên cửa sổ, đầu gường ai dựng cây gậy, xin ta khúc thành thật tìm chân mây.

Trong đường Ba Tiêu.

Mưa mù mịt đường khách đầu sườn núi, trong núi nhà người nấu bay khói, ánh nước trúc hạc trợn mắt, gió lốc nhạn bay tà tà.

Trong đường Đại Dương.

Lòng người trung thành chốn đẹp, đầu giường mượn sức dây xưa.

Gió làm cây lá tan tác là tả, núi thu sương gầy gai góc.

Hai bài kệ lễ tháp Minh An

Lão Sư tịch không người kế thừa, tháp đá đứng nhiều năm, dặn dò kim vàng chỉ ngọc, hổ thẹn keo loan với dây đàn phụng. Giường đá nằm lạnh cọp thiền, mùa Thu thềm hoang vắng trùng cỏ nhảy, còn niệm trung thành nhớ trình mọi việc, không lời đứng gió Tây lạnh lẽo.

Gác bình ngọc tụng.

Gió sương ma sát sạch thu trong rỗng, trăng tắm ngân hà sáng phần ngoài. Lặng lẽ trong hủ ngọc tự chiếu, nhà truyềg thanh bạch mầu nhiệm gọi tên.

Đưa tăng về châu Phủ.

Không chịu làm bạn với mây rừng lạnh lẽo. Sơ sơn về yết kiến Xà-lê Ải, chẳng phải câu cột khô nếu sáng tỏ sẽ muốn trở lại quy phục tê giác.

Tiễn đưa bậc đứng đầu tông tịch Lộc môn.

Dệt cỏ an lành cúng thiền gia, một mảnh lưu ly trơn không tỳ vết, cửa đống vảy vảy nước không chảy, cửa sổ đóng dần dần mây mới đông. Ngồi lạnh gió trăng thu bồ đào, nghỉ chân giang hồ mộng chim âu, nhưng nay khắp chốn tìm người xưa, thầm thầm còn nhớ đầu mũi đau.

Trạch am tụng.

Rồng ngọc lột vảy, ghi việc trong am hết sạch. Thiền ở tổ phụng gấm, đi đường sương hang cóc, uống bên bờ trăng sáng này, rửa xương vi trần kia. Năm lá Xuân Thiếu Lâm, gia phong chưa bị mai một.

Lên đình ba núi Thanh Lương.

Gió bông mưa hoa một Xuân tàn, chưa chán đình này đêm dựa lan can, ẩn ẩn ba núi ôm sông trăng, cảnh giới trong mát bày tùng lạnh.

Tiễn đưa thượng nhơn Viên đến Long Thơ.

Lão sư đầu đỏ không lựa chọn. Sông núi xanh tốt ngọc ao Ngô. Vạn pháp sáng rỡ vào tề quán, trong bỗng mảy tơ vốn không lập, đạo nhân về làm khách dưới núi, lộc sương măng trúc mây côi bay, đến lúc Xuân đầy hang trâu đá, rau dương xỉ ai cùng chia phần.

Thị giả Cử cầu tụng.

Gió Thu sạch cốt phiền, hằng ngày giác ngộ thanh tịnh, tướng cùng sự thiền khô, đã nuôi no chính mạng. Lão trăng tắm ngân hà, hồn phách sáng rực rỡ, vị chơn vào bụng ai, chỉ biết trăm niệm lạnh ý Xuân dần sâu, tiễn khách đến cúi chân núi nhà ruộng, qua lại trên đường lại gặp Thượng nhơn pháp nhân đó viết vài lời để ghi lại việc gặp gỡ….

Dâu xanh bóng liễu đường trước núi, chân lúa mì thấm đượm một trận mưa. Đường rừng dương là Xuân nhà xưa, mắt lạnh Linh vân hợp đầu ngữ.

Một đám mây dài dài rửa mưa hoa, trúc sâu mới nghe lời Tử Quy. Thanh sơn mây trắng ta định cư, lòng khô nào tư lự về.

Chim dâng cành hoa làm lời Xuân, ngày gió rực rỡ khô khan mưa sớm, nước non phì nhiêu cây cỏ vui mừng, tiếng thơm và việc cả hai hiện bày không tính được.

Hoa về đường tắc chim chiều kêu. Nhà bếp nấu khói gió đưa từng làn, phía tây cửa sổ xưa có gường sườn trúc, duỗi chân xếp tay trở thành sinh động.

Cách một năm gặp nhau ốm thấy kinh. Gió đứng đầu khe nói ít giờ. Tình khép khách lên vách đá cạnh bờ nước câu cá, bốn bề mây phủ một áo tơi.

Tụng ba ấn dạy chúng.

Ấn hư không, ấn nước, ấn bùn. Không lời đào, lý thành đường tắt, nộp thuế theo phân chia, chăn trâu khắp nơi suối nước.

Ấn bùn, ấn không, ấn thủy, sấm lẹ không bằng bịt tai, bỗng nhiên cửa lầu gác mở tiêu được nhẹ nhàng như khảy móng tay.

Ấn nước, ấn bùn ấn không, ai truyền xưng gia phong tổ, mắt mộng bóng mê mờ một sắc, chuyển thân thể hợp toàn không.

Thiền nhân Cơ ra xin cầu tụng.

Phân thân khắp cõi nước thấy cơ hoá, khói xanh mấy nhà nấu buổi trưa, ngồi xoay mặt vào vách quán chiếu việc tùng lâm, ôm bát xin duyên mây nước đói. Chim ra khỏi hang thứ lớp truyền Xuân. Thuyền gợn sóng người ưa trăng theo nhau, trở về quyết có câu tham thiền từ lâu, cười biết thiền khô chỉ ngoài da.

Thiền nhân Tâm ra xin cầu tụng.

Muốn nhìn Thu sớm rừng gió yếu, lúa quyện mây vàng phù hợp tâm thành thật. Diệu ấn trong tay nào ngoài vật, trong ngực rỗng rang không dung chứa một cây kim. Nhà ai nấu nồi đất tuyết thơm, đêm sau thuyền về chèo vàng mềm, rửa chân bồ đoàn trên phiến đá tùng, quanh rào non nước có thanh âm.

Thiền nhân hóa duyên muối cầu tụng.

Đãi bùn cát rửa sóng nấu khô, một tấm chiếu người băng tuyết lạnh, đạt được ý thử sức hoa sen nổi, thầm biết tùy sức vào mâm rau, vạn duyên tốt đẹp giúp sức nhau, nhiều người hoà hợp tin không khó, không tượng có thần ít khám qua, mắt viên thông ở đầu lưỡi.

Gởi Hòa thượng Đại Hồng.

Uống trà từ biệt khỏi La môn, tiễn nhau còn nhớ nắm tay ấm, đoạn nhạn mấy khi về chữ bó buột, bèo theo chỗ nằm mọc rễ, gió Thu ngoài cửa sổ ôm lau tuyết, mộng lạnh đầu gường rơi hồn trăng, cán bụi trần năm tới luống nhọc chuyển, lại nghĩ viên hồng cùng chậu nấu.

Tiễn đưa thủ toạ Trí về quê hương.

Đầu tóc bạc như tuyết rơi vào thanh bần. Nằm lâu rừng gió mộng chuyển thân, một cảnh linh diệu về đến quê hương. Sáu căn rỗng rang ứng hợp người đến, trăng thu gió mát lan tỏa âm hồn sáng, mây nước trong rồng lột xác bày xương, con cháu phải ra sức chấn hưng gia pháp, hạnh này chưa thể lụn bại theo khách.

Lão nhân Tung sơn làm sáu bài kệ tiễn đưa.

Không thể an dưỡng tuổi già nơi chân rừng, phải xin ân thừa để phủi tóc, rửa chân biển cả việc năm lạnh, cuối cùng bạn tốt đến Thạch Xương Bồ Xắn áo lạ lùng không phải ta ở, nhớ việc xin thành tựu nay hợp thời. Sấm động biết chắc côn trùng ngủ Đông dậy, Xuân lạnh không cần buộc chặt càng hoa.

Rít rít tiếng chim kêu như khách tình. Hàng hàng mắt liễu nhìn người xanh. Bạn xưa dốc lòng Xuân sanh thành vạn vật. Múc nước dưới khe trăng vào bình.

Trong mộng kết sầu ba việc biến đổi. Tỉnh giác lại vui một khối Xuân. Thời tiết oanh hoa rửa sạch suy sụp. Không tin còn lạnh rét đến với người.

Phục hình tượng đúng chí nguyện. Việc sông hồ không quên nhau. Cam châu bạch điểu thu thành hàng ngũ. Lửa chài, Tôn canh hương cỏ bồng.

Ứng duyên phân bóng trăng đến ao. Dạo thế vô tâm như mây ra khỏi hang. Thoả ý trở về chóp đỉnh nhà, đám rau cùng nhau gắng sức cuốc.

Tiễn đưa Thượng Nhân Uyên.

Tơ đỏ không dùng treo ngô đồng đốt. Một khúc Tân Phong để tiễn ông. Đêm sau lão gió tùng tỉnh lặng, nhiều loài cầm thú không thấy trăng xuyên qua hang trống.

Tiễn đưa Thiền Nhơn Bình về bãi Ngạc.

Thuyền nổi trên nước Xuân đi về. Trong nhà có ruộng tốt thì có cơm canh. Khách về từ lâu một chút mây liệng, Nằm ổ xưa xem trăng canh ba. Người nghi ta ở chóm đỉnh nhà, ông đi rồi ai giúp ta bẻ gảy cùm chân, vì hỏi Nham Đầu cùng quỷ tử, khi nào giống lúc sống này?

Am Tư Thánh muốn qua viên thông.

Ta buổi đầu bơi thuyền đến cửu giang. Tìm sâu lan nhã núi rồng xanh, vẽ vương Ma-cật tựa lan can. Tạ thơ Linh Vận mở cửa sổ. Bàn Ngải thiền cao siêu giống luyện vàng. Luận bàn pháp thân phong nhã chẳng phải cọc khô. Mộng về chính là đường viên thông, trăng lạnh phương trên gõ tiếng chuông.

Lên am tường vân yết kiến Thủ Tọa Minh Đông Lâm.

Chặt cây ngâm nga sưng ở bụng, già nua chống gậy lên bậc sương dày, leng keng rơi vào hang suối sữa vang, sáo đàn đến cửa tùng thơm ngát, đêm lạnh cao mưa đông một màu. Thanh tịnh rỗng lặng mây sớm lan tỏa ngủ quang, xã tan gánh cây khô còn để dấu, y râu tóc mắt xanh nửa sóng biển.

Cùng Trưởng Lão Tín ở Thiên Trì.

Cuối năm tùng Lâm náo nhiệt lau gai, trong đó tỏ mắt biết rắn rồng, đang đi năm đường ta biết việc, ngồi một mình trên núi y là tác gia, Phật pháp từ đây như nhai sáp, bạn bè đi ở đây giống đoàn sa, hồi âm thư không gởi tư duy hết, ngàn dặm đồng phong hết so sánh.

Chu Hy viết lệnh Bình âm, 80 ngày chí sĩ về.

Lui về thỏa thích dạo đường xưa, gia lâm lúa gạo vừa thành Thu, lau vàng chiếu tuyết cát đầu nhà, trăng sáng sóng nổi thuyền cửa sông, đường cày ai theo sau phu tử, nay bỏ thiền kết bạn với Lão Tăng. Thử hỏi củi dâu hỏi đầm Đào Bành, phong vị thuần chơn tướng giống chăng?

Tú tài Chu xuất gia cầu tụng.

Mục tiêu tâm giải thoát pháp mão Đan hà, mượn sức cắt chút cỏ trước nhà. Ở trên bế tắc không phải than mất ngựa. Trong bát thật muốn đoạn nghi rắn, nhớ mãi cam lồ rửa cốt trần. Ý Tòng Lâm mở giác hoa, khi xưa trăng sáng cành lau qua tuyết, một hủ sắc Thu thuộc nhà ta.

Mục đồng.

Lão bò đực bước đi an ổn. Kẻ áo tơi si ca cười nhiều, ngoài vật buổi đầu không trần bại, trong ngực riêng có vườn gò đồi.

Dạo động chơn ty.

Hoa đào rửa gấm lạnh nước Xuân, cửa động dáng ngọc phát hoạ lan can. Tam phong xanh rậm phủ cửa nhà, chín giếng nổi sóng tuyết tung tóe, tiền thân Tượng Đế vốn lão Ngữ, việc sau hang thần ai thấy Nữ Lang thân gầy thanh đạm bạc nửa đầu, đợi khi nào xin hoàn Ngũ sắc.

Giữa Xuân qua núi Pháp Hoa Long Thơ, tìm am xưa đạo giả tụng kinh.

Đường tắt vào hang sâu, đến tìm am đạo giả. Âm phạm nay lặng lẽ, mưa hoa còn thườn thượt. Ban đêm trăng sáng nửa nhà, đèn xanh lạnh một khám thờ, mộng theo ca hát thổi đi, mượn đường qua Giang

Nam.

Thiền nhân Nguyệt ra xin cầu tụng.

Đạp tuyết đến nhà người, đầu cơ không sai. Hồn trăng thông mạch nước, tin Xuân vào hoa mai. Đi tìm hương thơm nấu, rộng thênh thang bó cật tre, phương trên chia Phật sự, trước tiên ta qua Tỳ-da.

Thiền Nhân Uyên ra xin cầu tụng.

Thấu triệt cội nguồn xanh bao hàm thu, đạo ai sáng lạnh ngưng động không thông, nhìn quanh hoa lau cùng trăng sáng, lại không một vật chướng ngại đầu thuyền, qua lại đạt được vi diệu dọc ngang tự do. Con ngao lớm đớm vội vã kéo ra, chính là núi tiên ngừng nghĩ.

Cư sĩ Trung Tử ở am Tức giác đến thăm Diệu Phong rồi đi về Tây, làm năm bài thơ tiễn đưa.

Việc cảnh hay đến thăm tôi, chống gậy hơi giống du tăng. Ngồi an nhàn đạt được lời thú vị, đáy lòng rộng lớn bao dung băng.

Mộng lạnh buổi sớm trăng treo đầu tùng, trăng thu xưa giếng hàm tân. Chí đạo trăm nhà chung dấu vết xe, đồng phong ngàn dặm thành xóm giềng.

Khi trước muốn xuống thang tuyết, mở lại phong linh hướng mặt trời, đến đây dặn dò chim hoa, không đến chốn Xuân đình lộn xộn.

Trở về ba đường cỏ Xuân, nằm mộng một vòng áo tơi, tóc bạc đèn nọc xua tan bóng tối, bên cửa sổ tối rửa sạch sóng vàng.

Đạo nhơn ngoài đời vẫn còn, bình trong am lúa không chứa, khách đi rồi không dung chứa rỗng không, kéo áo cùng nhau chia rau.

Tiễn đưa Thượng Nhân Nguyệt về quê hương.

Gió Tây cây ngã bày xương. Trăng Thu trong nước sóng rửa hồn, ý khách về nằm chân Tứ Minh, ba đời chư Phật miệng ngậm thiền. Đại thiên đều hoại ta không hoại. Ba mươi sáu tướng không tối. Kiếp không soi thấy hạt giống tạo hóa, hồi đầu ứng vật không căn trần.

Ngày hạ an cư đến hiên phía Đông Thượng Nhân Thật, trúc tắm mưa kiểu mới, nhân đây làm câu ca.

Thác Long ra khỏi Tòng Lâm, thoát gấm bày duyên mới, cất chứa dẫn đầu sừng, thầm thầm chia đều tiết mục. Dáng ngoài trần xinh đẹp, mây mù ngọc lạnh trơn. Xanh tốt rợp mát cửa sổ đông, tâm mắt quét sạch tục ác. Lặng lẽ rỗng rang đạo tình. Gầy ốm thấy phong cốt, ban cho ta Xuân bất diệt, vì ai khúc vô huyền, dây sắn sườn núi việc ngủ Đông, chỉ sợ sấm chớp mưa thúc giục, không thể ở lại nhà cao, song bích nhìn nhau lạnh nhạt.

Triều chu Tái Hoà kính dâng yết kiến.

Đến hạ nhân Lâm, cởi mũ quế lục triều, thân nhàn càng tôn sùng đạo. Tâm lặng mắt chiếu xanh. Ta ô độc chân thật, cái gì long đong như ngọc. Muốn học Đào Uyên Minh, phong thái cao khác tục. Mây trắng tâm không định . Nuí xanh cốt cách kỳ đặc, chiụ theo khách Liên xã cùng tấu khúc vô huyền. Phật xanh một niệm bình đẳng, kiếp Nhật há kéo dài. Đồng nghiêng che người xưa, đạo còn nhờ nhìn kỹ.

Có ý định đem trâu đá cho Thượng Nhân Ngộ.

Trâu thuần thục không cần roi lôi kéo, nằm hướng về nguồn xưa bên cây xanh, hang xuân ruộng ngọc nhìn giống xưa, Tuyết sơn cỏ thơm no rồi ngủ, đầu lưng cốt cách quý chuyển tải phong phú. Lỗ mũi khắp bờ tạo sông lớn. Đi đường khác đi rơi gào thét chớ quên đất trống khi chưa nảy mầm.

Ban đêm mưa ngủ ở Long Môn sáng sớm bên đài Linh Quang lễ tháp ngài Phật Nhãn.

Vừa lên Long Môn nhớ cảnh xưa, từng đợt sóng oai linh hướng đến người, rửa trần làn mây rửa mưa hoa. Mượn sức Thiên cù phá sấm sét làm tỉnh côn trùng ngủ đông. Đến khe gánh đầy nước. Phù đồ thờ cốt núi ngọc suy tàn. Muốn biết Phật nhãn không chướng ngại, phải đến đài Linh Quang ban ngày.

Qua núi đầu cọp.

Núi sừng sững thênh thanh như trời xanh đầu cọp. Mây mơn mởn trước núi sáng cỏ cây. Trúc nhả mầm gấm mưa Xuân no. Tùng ngậm phấn vàng ngát hương đồng nội. Gường đá co chân đi xa mỏi mệt. Cảnh đạo rửa tâm ngồi liền quên. Phương trên nấu cơm đi lan-nhã, chưa thể học ngu si lo khỏe mãi.

Thượng nhân Trần ra xin cầu tụng.

Khẩy móng tay nhẹ liền mở cửa, trăm ức thân hiện trăm ức cửa, hiện nhân duyên nhiệm mầu thông khắp nơi, việc này viên minh biến khắp cõi. Núi giữa hoa lấy mật râu vàng. Trên liễu oanh truyền xuân mắt xanh. Ngày về gọi nhau cơm đầy bát, cùng lúc giao phó người học thiền lâu.

Từ biệt Tú tài trâu.

Tiếng hay danh lợi nghe nói đến như dạo mộng, chịu đi xa nhà ngủ trên mây. Tình cao trong sáng bao núi ngăn trở chí, bản chất thanh đạm thầm tìm bạn tùng đá, ưa gia phong ta đập vào mắt thanh tịnh. Hỏi y về thời sự thầm lắc đầu, sáng nay tiễn đưa chia ly về ngồi một mình, rỗng rang đối diện khói lò nổi chử triện.

Dạo viện Vân Thê làm kệ tặng Lão thiền Thâm ở núi.

Đỉnh Tiêu Phong đỏ tiá đồ vàng. Phong linh âm vang náo trời xanh, đất trong lan ngọc ẩn hành đạo, dưới bậc thang mây mới lợp lều, hoài bảo giang sơn tốt không xấu, trăng sương hiên cửa sổ thường trong sáng. Mắt lão lạnh xanh bạn Da-xá, thắp hương tâm say sách Trúc Tiên.

Cùng với thiền giả Quán.

Thênh thang tịnh vào đạo tràng giác. Một đoạn trước thể xưa nay sáng. Cô thiền giống như chấp vào kiến giải. Thầm chiếu rõ ràng giống như xoay mặt vào vách. Thu sáng hoa lau tuyết hai bờ. Đêm lạnh nguyệt quế một thuyền sương, hình dáng xa xưa đường đi về, chữ nhạn thấp thấp đúng tịch dương.

Thiền nhân phát tâm cầu tụng.

Muôn chỉ bày đều theo nhau thành chánh quán, bước ra xin nằm trên bồ đoàn. Mưa lấm tấm chốn tỉnh lặng, mây trôi nhẹ. Trong trẻo như gió chà xát nước Thu lạnh, hết nhéo đầu mũi vẫn thấy đau. Ngồi mới tin đầu lâu khô, hoa lau trăng sáng việc ai, người ở giang hồ cầm cần câu.

Trưởng giả Kiết Tường cỏ mơn mởn, hương nhẹ lên cơ thông góc đường. Hết nhéo như người trình việc đã xong, đến được cùng ta mở gia phong, thầm dạo hai bờ ngoài lau tuyết. Ngồi mãi Ngũ Hồ trong khói nước, không chấp nhận ngủ Xuân mộng hồ điệp, thoải mái dẫn đến kiếp bình không.

Tiễn đưa thượng nhân Tùng đem thơ đến kinh tây.

Choàng áo che đầu người tự chiếu. Trên nhà trăng sáng chuyển cơ luân, chịu truyền ngàn dặm lời chìa vôi. Muốn Xuân hoàn toàn vui vầy, đồng phong núi tuyết cho là việc hàng ngày, Thạch Đầu bó nạn tre xưa rực rỡ. Gia Lâm về nằm an ổn mãi, mắt đều trong sáng không thấy thân.

Tú tài Tưởng Tân Thần cáo biệt làm thơ tặng.

Nhà tuyết cao lạnh ta từng qua. Mai thưa thớt đẹp đẽ tuyết lâm kha. Tiếng người Tống Sở keo kiệt không khuất phục, thử đến tông sấm sét khoa Liên Xã, hội sau phát nguyện như vẫn còn, thực hành đến này sạch niệm không còn gì, gió Xuân mát mãi quanh lan can, tuyết trắng trước lầu thuyền đùa thoi.

Thiền nhân Tân ra giáo hoá ở Trản Thác xin tụng.

Lời uống trà đi lan các nơi, tụ hội luận bàn nắm cán dài, dựa vào y hay ra lệnh, cùng trần hòa ánh sáng. Đầu lưỡi kiệt liêu hòa ánh sáng không xương. Lỗ mũi duỗi xuống thầm ngửi hương. Trản Thác đạt được lời này, thọ dụng của ta đúng lúc bình thường.

Ngày 3 tháng 3 năm giáp thân niên hiệu Tuyên Hoà, chùa Sơn Cốc gặp lại, lúc đó muốn xuống Trường Lô.

Gió ấm ở sơn cốc, xanh tía mùi hương quyến rủ lan tỏa.

Xuân thênh thang công tâm, không thiên lệch đây kia, buổi đầu không hình tượng, việc vinh nhục cũng tự nhiên. Mặt mây nhạt như chim hạc, sắc cỏ mơn mởn khói bay, mầm trúc bao khố beo, dương xỉ đâm chồi như nắm tay trẻ con, xây đắp phong phú đáng thích, răng, má ngọt cũng thuận tiện. Non nước rửa sạch niệm trần. Gió mây biết duyên trước. Sông lau nhớ đạo nhân, hai ngàn chúng ủng hộ. Mắt đảnh môn soi đời, trong hông nực biển nuốt sông, đồng với chim non tổ Đan Sơn.

Lông đủ liệt khắp nơi, nhưng nay muốn tụ hợp ở, gặp nhau mà quên năm, cầm roi thúc xe ngựa, không hổ thẹn không có nệm lót nhiều màu. Hải âu trắng đi thành hàng ngũ, nước nấu với rau, vỗ về trâu đá xanh. Mắt không vượt cao hơn, đến chợ An Huy, mua thuyền sa Lang, hồi đầu cảm tạ chư Tổ. Chỗ đạt được pháp giác ta, ngọn đèn trí tuệ sáng mãi không mờ, tâm hoa thơm ngát liền cành, ngày sau hàng con cháu, không ngại trước sum la.

Muốn qua Trường Lô cùng thượng nhân Thân nhà Ngư phủ.

Bờ cây leo muốn cắt đứt góc, cửa biển chiếu cói đùa gió mát.

Thuyền không rít hưng khởi không vực thẩm, quay đầu sông núi dáng khói xanh. Một sông lau tóc mi bạc trắng, nhưng nay an ủi thăm hỏi nhau, gió mát đêm tỉnh lặng khi trăng sáng mắt tròn ngập ánh sáng dưới tơ câu.

Dạo Quy Sơn cùng Học sĩ Hà

Ngũ một đêm Tào Khê nay đúng thời. Vĩnh gia thấy được chưa quên đều này. Thế nào gió sông Hoài cản ngăn hành sắc? không chống gậy được cùng nhau tham, đây phải ban ngọc bích đẹp, rựt rỡ trút xuống trong ngực, lời văn sắc bén chống với ai. Thiền duyệt lặng lẽ vui thích lại tìm ta, hẹn anh vào xã quên thời sự, mùa Xuân hoa nở đầy ao. Đạo ở Kim Lan đầu mối chưa xong, trở lại vui với đời đúng là niềm vui anh nhi.

Tiễn đưa thiền nhơn Tuệ đến Cảng nhập khẩu gạo.

Thạch Lương đưa ra điểm rõ ràng nhất, hàng nghìn hàng vạn một hạt giống. Ngày về cơm thơm sỏ lỗ mũi, gọi nhau múa dưới nhà.

Bánh Vân Môn, trà Triệu Châu, trong ấy rõ ràng đạt được chút ít. Thấy công án biết được vị, một ngàn hai trăm thiền tăng.

Mở bó nan tre bụng rỗng rang, ông đi ai lo nồi đất lạnh, mây ướt nước đón nhau thuyền đến bờ, việc tham học lâu không dối nhau.

Hoa lau trăng sáng nước mênh mông. Gió đẩy thuyền như tên phá ánh sáng lạnh. Đích thân đến Lô lăng gạo giá bao nhiêu, khi ấy mở miệng thì bằng nhau.

Nhân tiện đến Giang Tây, dặn dò lời Bàng công, trở về chính là toàn thân lơm, ngay đây mọi người biết thân ta.

Thuyền nổi đến sông Hoài thăm Thiền sư Quy Sơn.

Gió sương vù vù quét sạch chốn hoang dã. Cát um tùm, vảy mắt sạch hết. Bến sông Hoài từ từ sang chân núi Quy, mây hán phân chia tháp nhạn nhọn, bên rào ngọn mai điểm Xuân, ngoài sân bóng tùng trăng xiên xiên, huống nữa Thiền gia không cho ở trọ, thường đến thưa hỏi không hiềm nghi.

Cùng với bạn Hoàng Đạo.

Đầu ngươì mỡ cháy tâm thôi, đến dự lũ lượt thầm dạo bước. Tê giác choáng váng đến lúc đêm hồn trăng. Nhạn đi mất xứ bặt dáng Thu, trăm năm phân phó ba cây rui dưới Vạn tượng chênh vênh một đầu ngón tay, trở về lười nhát không mánh khóe, trước am chim hoa không tìm nhau.

Thuyền bồng bềnh ở nước Sương yết kiến Tri huyện Hàn khắc Minh.

Gió nam buồm căng bụng, nửa đêm qua bến sông, cá kình làm gợn sóng biển trăng mới lên. Núi tiên tìm cố nhân. Sóng lạnh ngàn dặm tuyết. Khói ấm xuân mười châu. Thành tựu lời Lê Xương, rất thẹn ta bắt chước nhíu mày.

Thiền nhân Xung cùng Thúy Sơn ra xin cầu tụng.

Trở về gia sơn tuyết chưa tan. Đến sau giờ tuyết xanh góc cao, hoát nhiên ngay đó đoạn ba me, trong này xuất sắc rút một mảy tơ. Hóa bát không ngại dạo biển huyễn, thuyền rỗng lo gì lái sợ sóng, Nhân duyên thuần thục kéo hai tay, chớ học nhà ta mất bả rượu.

Thiền nhân Lợi phát tâm xin khai khẩn ruộng biển

Đàn độ, lên chức hẹn tìm xa. Lợi tha mới gọi tâm xuất gia. Xin nhận ngay thẳng thì tòng lâm no.. Cày cuốc không nghi ngại bùn nước sâu. Mặt đất thật bằng mùa Xuân trồng ngọc. vết sóng cạn trong trăng nổi vàng. Cấy ruộng cơm nhiều việc nhà ta, một đoạn quy tắc được lão sâm.

Thiền nhân Trạm khai khẩn ruộng cầu tụng.

Thiền tăng muốn xây dựng gia phong này, thúc giục trâu già trong bùn nước. Xông pha chốn lẫn lộn ngã bóng trăng sáng. Khi chuyển cày xong gốc mây trắng. Làm ruộng gian khổ theo tổ ta, nấu cơm thơm no con cháu. Việc này khi về an ổn trên bồ đoàn, gương tâm tròn lặng vết xưa quên.

Tiểu sư Trí Khoan cùng với Quốc Thanh làm lời thỉnh.

Vào một bát là cuộc sống, tự đến nhà Hàn Sơn, Thập Đắc. bóng ngày câu ngọc lưu lại như trăng leo qua cửa. Xuân đượm phấn vàng mật hoa phòng, cõi Phật nấu trưa mùi hương thơm ngát ăn cơm Vân Môn no bụng đánh răng. Chuẩn theo thần thông mượn nơi nào. Cư sĩ Tịnh Danh ở Tỳ-da.

Thượng nhân Linh xin muối cầu tụng.

Hun đúc y trải qua bao gian nan. Lò nóng hừng hực nhìn trong đầu. Trong ấy rõ được sắc bóng từ xưa nay. Ngay biển cá hút khô khốc, phát triển gia phong sắp xếp mỏng nhạt, thấm vị nhiệm mầu phá chua cay, đạo nhân vui thích có ngày về, tuyết ôm mái tranh bất giác lạnh.

Thiền nhân Đoan xin muối cầu tụng.

Lò lửa nóng hực kết băng sương, nhà nông thu hoạch khéo có cách, gốc lưỡi phải nhờ vị nước mây. Đầu mũi giúp nhau hương dương xỉ và rau vi, quét sạch nhà tranh nhàn đống tuyết. Ngồi chiếu mâm vàng tịnh phát quang. Đạo nhơn đi rồi thành tựu việc, hương thấm nhuần ta tưới bụng khô

Giảng đạo cho cháu.

Từ biệt con sông hơn năm năm. bên biển hỏi thăm nhau chưa nghi ngại. ý sơn lâm cùng thế sự bao giờ dứt. Dáng gò hang gặp Thu càng gầy, hẹn đạo ta canh tân kế sống, người nghỉ đấu thơ công phu dày, con gái lấy chồng con trai lấy vợ ai làm việc nhà, cư sĩ còn tâm theo ngựa con.

Lân Nguyệt đường cầu tụng.

Áo phước điền ta là người xuất trần. Tìm chổ xây nhà cao với Nguyệt Lân. Trên gường đao vàng hương cắt quế. Trong hộp búa ngọc lạnh sửa vòng. Lạnh gầy vỡ mộng không hiềm bệnh. Thanh bạch truyền đời không hổ thẹn nghèo. Ngoài cửa sóng lặng chèo thuyền đi gật đầu trăng già lặng lẽ phân thân.

Khéo hiện không tiếp xúc

Mây nước ra khỏi cửa mênh mông, cùng nhau hiện, đáp nhau làm ngang nhau, trong tất cả thời không có niệm thứ hai. Tuyết Phong ở đây tạ Linh Quang.

Đại công không chủ tể.

Tin tức nhà ta thầm nhìn bên trong, chỗ xem rỗng rang mảnh trăng hàn, một sắc là công phải chuyển hết. Thạch Sương cuối cùng đầu lâu khô

Gởi Tri huyện Đồng ở Thạch Sầu.

Lều tranh đầu sông xa truy Đào, đấu gạo từ nay lười thắt. Sông Hán trượng phu cam chịu ngập. Cư sĩ Kỳ Sơn chán chim kêu. Tâm thu trăng sáng đêm tương chiếu. Đầu tuyết gió ấm thổi không tan. Thân ở đời vòng tay giao phí mộng, tùy theo hồ điệp đến bên hoa.

Ngày mồng hai sau thượng nguyên qua am sư Khiêm.

Ngang sông một đường tắt chia hai núi. Cây cối xanh um ban ngày cũng tối. dòng nước nhỏ băng lạnh có xương. Mây nhàn nước lạnh không cội gốc, thong thả xóm nhỏ đến nương cơm. Không lo ngủ xuân đến gõ cửa, cửa ghế xông lò lay chử triện, gường rùa lời trần đối với trong ấm.

Thiền nhân Ứng khai khẩn ruộng cầu tụng.

Gió lốc cầm gậy ra khỏi yên la. Thân tâm hành khất rất vội vàng, mủi kim nhỏ ném vào chỉ ngọc, thoi vàng chạy qua nơi âm thầm trong máy ứng duyên từng tảng mây thành mưa. Trăng tròn vành vạnh chiếu trên sóng, ý trọn vẹn liền quay đầu, ổ xưa nằm lạnh tuyết lâm ha.

Hai thiền nhân Cung và Giám trông coi việc nấu nước xin tụng

Xem nấu chảy vàng đưa vào khuôn, không ngại miệng rộng bụng khoan thứ. Đạt được diệu xúc mắt toàn thân, trên cục thịt đỏ thanh tịnh phóng quang, thiền tăng hoàn thành được ban thưởng, đàn na giúp đỡ chấp nhận ném gậy. Thử hỏi tâm này bạn Lăng-nghiêm, khế ngộ đạo viên thông chỉ là thông thường.

Vàng trong khuôn nấu rọt ra ngoài bờ lan, trên hội Lăng-nghiêm phân phó cho khách. Nói rõ xúc chạm mầu nhiệm y có đủ mắt, mảy trần không nhận toàn thân ta, rơi vào chốn lạnh nóng quên cả nước, đón nhận hòa ấm giống được Xuân. Cửa bể lò rèn un đúc nhau thành dụng cụ, sức nuốt mây mộng đúng người này.

Bảo Đà đi thuyền đến thăm sư huynh Chơn Yết

Người đến đích thân thấy được Quan Âm xưa, dấu tích giáo hoá nay ở núi nhỏ trên biển. Máy khói ngoài phần xương núi xanh, trong trời nước thấy được tâm bạch vân. vết thuỷ triều ngập bờ từng góc tuyết. Hồn trăng nổi sóng vàng rực rỡ. Căn cảnh nhất như năng sở đoạn, viên thông dạo bước pháp môn sâu.

Đạt được đến tìm huynh Chơn Yết, một mình chèo thuyền thuận sóng lướt, nối liền từng đoạn chữ nhạn trong mây, hải âu nhàn hẹn từ xa đến trên cát. Dầu trong vị mới nấu trà đỏ, phương xưa thuần mật thấm tỏi vàng, biển núi chỉ là cung cấp mâm với đũa, một đoạn gia phong không thế tình.

Cùng với bạn lành Xương Quốc.

Điều khiển thuyền lướt sóng cập vào bờ cát, riêng Nhăm tăng ở núi thành thực vài lời, mộng trao Trang Chu làm bướm ngoài cửa sổ, hết nghi thích rộng mưa thúc giục rắn trong rượu, nhà đêm không ngại tuyết ít trăng. Xuân trên núi biết mưa hoa, tưởng tượng núi xưa đường đi về, chiếu cửa gấm mới mắt lầm nhà.

Thượng nhân Hoá trì bát xin tụng.

Nay chuyện giáo hóa trao hết anh, trở về lại ta nghiệm con cháu, các trần chánh thọ đầy trong bát, một câu bao hàm che hết chậu, nơi khác gặp người biết đỉnh tuyết, ăn cơm nhà mình biết Vân Môn, tâm này chịu gánh sức đàn na, khai phá cơ chơn báo ân thí chủ.

Thiền nhân Đoan khai khấn đất xin tụng.

Mảnh đất thiền tăng có nguyên do đến, ý này cùng nha đưa ra hỏi đàn việt. Mùa xuân cày đất vén mây gấm buổi sáng, bờ trăng chia cắt luyện sáng lạnh, khi no buộc bụng ba bó nan tre, thành công dời thân sào năm thước, hợp nhau xem quy củ, tiếng trong hang hình trong gương giống nhau.

San coi viêc tắm rửa cầu tụng.

Trình bày xúc nhiệm mầu không rửa trần, trên hội Lăng-nghiêm người ngộ tâm, cá lặn hang sâu sào dò nước, hình hài cây khô một trời Xuân. Giọt nước lượng đồng tánh pháp giới. Lông tóc cấu tịnh thân rỗng rang, vườn nam nên hỏi khảy móng tay, chỗ dụng thầm thầm hang có thần.

Thượng nhân Truyền xin muối cầu tụng.

Người ở gần biển không làm ruộng. Cuộc sống thanh bạch là gia truyền. Bấm kêu tuyết dâng ngang chân núi, bờ ra bùn cát mặn hoa sen nổi. Sắc ngọc lạnh ra sức luyện. Dương xỉ rau vi thấm đượm hòa hợp duyên, đầu lưỡi nhiệm mầu có mắt viên thông, ngồi cắt đứt tùng lâm ngũ vị thiền.

Thượng nhân Sùng xin Mặc Am tụng.

Am này ở trong thầm lặng, thượng thủ bạch chùy mới đồng tham. Sắt mài rất sáng không điên đảo, thấy đúng Mạt Sơn không nam, nữ, ngồi trong nước trời hay trong trẻo, trước cửa mưa hoa dài thườn thược. Chứng được lời diệu vượt danh tướng, không mượn lông mày cười Thúy Nham.

Tuyết tạnh gởi Lưu Điện soạn.

Da dê nửa bộ trải giường, gia phong lạnh nhạt giống lão Bàng Thân ẩn dễ dàng nơi Bắc đẩu. Thảnh thơi há miệng hút giang tây, đèn khám đốt gần hương lay ghế, lều tranh ngồi thuyền tuyết ánh lên cửa sổ. Phương ngoài bạn tư duy với trần, trong ngực người an ổn giã gạo.

Dư Diêu Hồ thêu Quán Âm cầu tụng.

Đường chỉ thầm thầm qua mũi kim vàng, mỗi mũi kim niệm Quán Thế Âm, tịnh diệu trang nghiêm thành tướng hảo, ánh sáng cảm ứng phát ra thân tâm, sông ngang luyện sắc trăng nổi trên nước, mưa thấm cành hoa xuân ngát rừng. Trong thấy nghe còn đường siêu việt, khắp nơi Phổ môn chấp nhận tìm nhau.

Ngày kỵ Đan Hà.

Gió mát trăng sáng cảnh vắng lặng. Cá kình hoa phun tuyết nước mênh mông. Một điểm linh thiên người nào biết, hoài bão ngàn năm sáng cả đêm.

Duy-na Giám xin Nguyệt Đường tụng.

Bánh xe quế ai đem búa ngọc sửa, gió bên thềm cuốn cho phép lưu nhua, cửa sổ rỗng rang sáng không thấy tối. Thân tâm trong sạch rửa sạch thu. Hạc mộng tổ lạnh vách tùng quế, cá sợ sóng động câu nổi nước, thân gầy ngồi giường Hồ hương dao động, trong bình lặng chiếu thầm dạo bước.

Một thiền nhân ra xin cầu tụng.

Ánh chớp trước núi mưa Xuân khô, vận khí tòng lâm sạch suy tàn. Nước trong ngọc khơi khỏi thuyền đi xa, trên cần câu cá vàng nặng nhợ, giờ ngọ không ngại chia nồi cơm. Ngàn tăng vô niệm tụ tập trên bồ đoàn, hoá cơ diệu ứng phù hợp khắp nơi, toàn thân tay mắt không lừa dối.

Qua am Thượng nhơn.

Trở về dây leo móc lên khói che phủ. Câu trăng cày mây mệt cũng thế. Trên núi dưới núi nuốt lời Phật. Khe Đông, khe Tây chăn trâu hát. Hai mươi năm nấm cây không còn nghi. Một cái nắm tay được dụng gì? bình sanh làm hết nhàn mánh khóe. Cá đỏ không làm sao muối dưa.

Bạn Vương Đạo ở Tuyền Châu bỏ chiếu tre xin tụng.

Thu vào giường ngủ nước một phương, giang hồ gió trăng ngồi mát mẻ, khí mát bông bềnh tiên dạo chơi, thân nơi khói trời chim trắng bay.

Đại sư Chân Giới cầu tụng.

Bấc thơm ngồi giạ lông dê,… tâm thầm thầm trụ thiền. Quế tiên mầm hang thỏ. Thần chân vực rồng đẹp. Việc nhà mình thầm chiếu, ra theo bầy động duyên, ứng cơ chia tay mắt, không chỉ có ngàn ngàn.

Từ biệt giảng Sư Thông dẫn năm bài kệ.

Năm trước qua ta còn ít thành thật, thật là an ủi hằng ngày, đặc biệt sau này nhận được thư và tụng, vì bận xin ăn không rãnh trả lời. Thu đến khí trong được gặp nhau thăm, cùng dạo thuyền không được viết chữ không rõ ràng, rất thẹn với thời sau.

Đặc biệt khách đến lén nhìn từ xa. Nhìn nhan tùng vái chào về giảng đường, Thu ngang hai mắt xanh. Mây phủ bay hạt dành thơm, đoạt pháp hội bậc chí khí cao ngất. Mọi người kinh ngạc râu tóc ta sóng xanh, giường trúc ngang nhau đêm nói thầm, sông Hán mài rửa sao đẩu sáng.

Tháng năm nhân gian nấu mỡ, gió mát đối trần tiến lên, đá gật đầu minh chứng. Mượn miệng hư không giảng giải huyền. Theo loại thân Phật phân bách ức. Ra khỏi hồng trần bằng tam thiên, chưa rãnh hẹn nhau an ổn trên bồ đoàn, riêng đến chốn mưa hoa.

An ủi Phật tâm chưa tiêu điều. Rừng đen cao ngất còn tài cao. Tri kiến xông hương đầu lưỡi bén, danh ngôn cấu tịnh mắt góc cao. Chân đạp mây gấm lạnh đến Trăng, núi tiên suy sụp rãnh câu ngao, toại nguyện chấp nhận theo Ma cốc, tiếng tăm cao nhất Tào ta mạnh.

Hôm qua thư đến hẹn gặp tôi, hành lý để lâu chưa thành nó, lê vàng táo đỏ mới là Thu. Lão Bàng tóc mày trắng làm sao được, cùng nhau hái rau vi mây mơn mởn, không ngại chặt cây mưa ướt tơi, đứng trước giường thầm lặng hương lay triện, trăng trong bên cửa sổ treo nữ la.

Theo xin ăn đáp giáo chậm, chắc rằng tâm chiếu chưa nghi nhau, ba năm hẹn bạn cùng liên bích, ngàn phong đồng dâm cách mảy tơ, đánh đàn tranh mới mọc mầm vàng ra khỏi bùn, hoa dâm bụt lạnh đỏ bên dậu, mưa tạnh nắng ngưng chiều trời sáng, đến Nhạn Môn chữ đầu dưới chân.

Mẹ Trịnh Thông phán tán và dẫn.

Mẹ bác Sĩ Trịnh Võ Công ăn chay 50 năm. Đối với bốn oai nghi động tịnh thường niệm Phật Tam – muôi; càng về già càng siêng năng, ban đêm không giãi đãi. Đến năm tuổi vào ngày mồng tám tháng tám gà gáy canh một là ngồi an nhiên ra đi. Bác Sĩ viết đầy đủ gởi cho tôi. Nhưng sự ràng buộc của người già, thân hình như kén sắp lột xác được tự tại không lo sợ đều nhờ sức chánh niệm. Dùng tâm không tình cấu huân đều xấu, thường tròn lặng rỗng lặng riêng chiếu, thì dấu tích huyễn mộng, hoát nhiên tiêu hết, thế nên đất nước bị sụp đỗ, lửa gió tiêu tan đều thuận theo như như. Việc này đáng khen, nhân đó nói kệ tán thán:

Pháp hỷ là thức ăn. Từ bi là nhà ở. Tin Phật là trở về. Xem thân là tạm mượn. Chỉ chuyên trụ chánh niệm, đi ngoài trần nhưng không tỳ vết. Cơ nhàn vạn tượng đều sáng. Mắt linh hoạt đầu lâu dưới mày kia quên cũng là mộng điệp hiện ve sầu, tự đạt được cũng là mây muộn xạ hương. Thần dạo thanh tịnh chừ trời nước đồng Thu. Tân ấn diệu minh chừ trăng gió xua tan bóng đêm.

Thiền nhân Cơ phát tâm xin ruộng.

Biết rõ thoi máy xem vòng quay. Thiền tăng có ngàn ngàn tay mắt, muốn biết cơm phương trên Bạch Vân, xuất phát từ ruộng phụ quách mây vàng, suối vàng tưới mát trăng đầu suối. Trâu cày mỏi mệt khói phủ đầu non, hoà bùn với nước việc nhà ai, tham thiền lâu thiền không ngoài phận.

Thiền nhân Hư phát tâm xin ruộng

Hoài bão rỗng thênh thang xin đi dạo. Cơ duyên khắp nơi nhất định gặp nhau, đại nghĩa cuốc đất liền buông tay, được ý quên lời thầm gật đầu, trâu trắng cày về núi trăng sáng, đạo vàng cắt đứt Thu mây thôn giã, ngồi kiết già mãi toàn thân no, rõ ràng một bữa no không còn lo.

Sớm đi Ninh hải, giữa đường Thọ Ninh qua Phụng Hóa.

Biết đường tắt thoảng hương một trận mưa hồng, đào vách núi đá oai linh lên thềm không. Lời chim khuyên về Xuân hơn nửa, nhờ cơm nhà người ngay giữa trưa. Núi lạ xanh lạnh bất ngờ đứng trước đài, khe nước xanh mềm mại thông nhau, hoa dương chính là bèo trôi, dấu tích lại theo dòng nước Đông.

Mưa trở ngại núi Phú Thuyền.

Chống gậy lên Đảnh Phú Thuyền, lấy tạm cành tre làm gường ngủ. Non nước viền rèm biết thuộc ta, khói mù đầy gối mộng dạo tiên, biết đến hang măng hái dưa rau, rảnh đem hoa vào nhà kết thành đường, tưởng tượng mưa dưới núi xinh đẹp, Xuân lạnh vẫn có thể nằm giạ dê.

Bạn tốt Hành Thông xin tụng.

Gia phong rõ ràng như trăng rửa sương, đêm lạnh đạo nhơn ngồi giường dây. Thân an ai bắt chước thỏ ba hang. Phản chiếu tự như rùa lục tàng. Nghi như rắn cuộn tròn trong chén rượu. Diệu đồng mật ong được phòng hoa. Thầm dạo uyển chuyển đến nguyên cực, rỗng thênh không bờ bước phương xa.

Đạo nhân Diêu xin tụng.

Từ bi là việc phương tiện, ứng xứ có công phu, ứng biến tuỳ thanh sắc, mâm tròn hạt châu lăn.

Thích Trạch Dân ngày rằm tháng giêng cúng dường 3 vị tăng xin tụng.

Nhà anh nấu cơm biết rau vi, ngày cúng y phước điền ba vị Sư. Ly nổi trên biển lên sau bờ, giữa mây bay gậy khi qua cửa. Bồ liễu y đầy dẫy hương khí mới, khách qua lò đón lão mây bạc.Thí nhận tâm bình đẳng xưng khen nhau, trăng theo dòng nước xuống ao Xuân.

Thiền nhân Thời bước ra xin tụng.

Già có thể dưới cối gạo không giã. Vừa ra phiền nhau thành biến thông, hương thoảng từng làn xem gạo chính. Mưa nhiều thấy năm trúng mùa. Tay cầm bản vỗ truyền đại Sĩ. Dao cắt gậy quế Lương Chí công, diệu ứng quần cơ dứt đối đãi, Thu trong sông nhạt trăng đi trên không.

Thượng nhân Tiên ra xin cầu tụng.

Bát vá đem đến dũng cảm vào… nhà nhà kết nhân duyên thù thắng, ba ngàn cõi trọng Phật từ bi, 500 đời gọi tiên nhẫn nhục. Thơm ngát tùng lâm dần dần Xuân, ánh sáng theo dòng nước trăng xin đẹp. Việc tham học thiền lâu cùng cung cấp cho ngàn tăng, rửa chân ngồi thiền trên bồ đoàn cây khô.

Hành giả Phổ Uyên xin tụng.

Thoát hết cơ trần chơn xuất gia, tâm địa hằng giữ bình lặng là kế sống, cắt cỏ pháp đường theo chúng tăng, nhà giã gạo truyền y làm Tổ Trung Hoa, muốn biến hổ dưới núi Thạch Đầu, ngộ rỗng rang bóng cung rắn trong chén rượu, khô lạnh như thế tịnh tu đi, hạt giống Phật từ nay hết so sánh.

Thượng nhân Diệu Tuệ xin tụng.

Trong diệu có tuệ riêng tỉnh sáng. Trước cơ rõ ràng tự linh chiếu. Lão thỏ mộng lạnh ngủ hồn tịnh, thật tê giác tâm say đến cả sao. Dạo khắp các cõi tham học chư Phật. Trí phá bụi trần ra đại kinh, đá gật đầu vẫy đuôi trần, ngồi nhà mưa hoa một phen thơm.

Thiền nhân Tông bước ra xin tụng.

Vạn điều sinh sống một bát về. Tông tùng lâm còn thầm lặng không căn cơ, đường cày tự tin ta khô lạnh, diệu dụng phiền nhau anh phát huy, cây vả leo bên rào mùa Thu lan khắp, nữ la nơi cửa sổ trăng mơ màng, thời thời xứ xứ biết tin tức, vật tượng đền đen vào phạm vi.

Tiểu sư Tuệ Quả mang thư cho Hòa thượng Chơn vết Tuyết phong.

Tổ chim rãnh rỗi miệng kêu mãi. Tuyết già cúi đầu hết vào am, sanh tử đồng câu rốt sau, cũng nên ngàn dặm hỏi đồng tham.

Huynh giải đến lễ bổn sư Tuyết Phong.

Nam Sơn đi gặp Sư Tuyết Phong. Khe xưa suối lạnh nhìn chăm chăm. Triệt để không tỳ vết mới biết mình. Còn đường chuyển thân lại tên ai, con về chốn cha nào cầu quan tâm, mây từ núi đến không đợi gió thổi. Nhà tây cơ gọi dệt thành gấm, rún thoi lặng lẽ bay sơi tơ.

Cùng am chủ Biện.

Trên câu Giáp sơn được cá thơm, năm ấy không sân gậy hét. Hướng thẳng trước kiếp phân tay mắt, nguyên do có thể ngoài giáo hóa cơ cơ xoay, phải là kẻ dưới mày có gân, mới khế ngộ thấu triệt người không lưỡi, chiếu thấu tông mình biết vi tế, mặc cho thiên hạ hân hoan vui mừng.

Non nước Xuân Giáp Dần, sau cơn mưa đến thăm tri huyện Vương Uyên Minh.

Ai bảo Xuân chôn vui giầy răng, yểu điệu La môn ghi sai lạc cỏ um tùm tùng cúc đường tắt Uyên Minh. Núi khe rất đẹp nhà Ma-cật.

Đèn Phật thầm chiếu lạnh không mất, đối cảnh gương tâm thanh tịnh không tỳ vết, lại nghe cư sĩ Dung rất lười, chim ngoài sân mấy phen hoa rơi.

Thiền nhân phát tâm đánh chuông xin tụng.

Sương mù lan toả khắp hang núi. Gác đêm khi vừa gõ, theo gió qua đỉnh núi. Gọi trăng đến la song, hưởng ứng hang truyền vang, tiếng bay xa không ngại sông. Mộng về biết ý trời, hồ điệp mất cả đôi.

Bảo Phước bậc truyền giáo xin tụng.

Dạo cảnh tiên Mai Phước múc giếng khô. Nhưng nay mây nước yên ổn trong thiền. Môn hạ Thanh Nguyên cất vẫy sừng. Đầu giường Hoàng Bá vuốt râu cọp. Người học cây bá trước sân đứng trong tuyết. Nhà đàn-việt nấu cơm mềm như nấu châu, đem ý xin về chốn tòng lâm ấm. Tùng ăn áo sen rất khô gầy.

Thượng nhân Nhữ xây viện Diên Thọ xin tụng.

Tùng lâm còn thanh quy Bá Trượng, xây nhà an dưỡng cho Sư già, bệnh. Dựa ghế tâm lặng lại tự chiếu, đốt hương ngồi một mình dứt niệm khác, nhiệm mầu chánh niệm không ba đời, thanh tịnh hết mờ trăng một thềm, ý này muốn hỏi nơi nào? Cư sĩ Tỳ-da biết nhau nhiều .

Thăm Hoàng cấp sự thừa, đến Bảo Đà lễ đại sĩ Phổ Môn để lại kệ.

Thiền nổi ai sợ cửa biển, đến trượng thất tìm thượng nhân kia.

Lời xưa muốn tìm mắt xanh cũ. Tâm bạn không thoải mái đầu mới bạc trắng. Ông hoàng nằm giường dê hàng dậu buổi chiều, họ Mai tiên dạo Xuân đảo núi. Bánh Hồ bánh bao xem thủ đoạn, Quán Âm diệu trí ở khắp nơi.

Thiền nhân Khuyếch làm ruộng xin tụng.

Ruộng đất rộng lớn không gai góc. Mong hết hủ ngọc gương băng bằng, màu trắng lờ mờ mây ôm cày. Một mảnh luyện quang trăng phân đường cày, ý vì thiền tăng kéo giầy tre. Sức đàn-na trợ giúp cơm canh, sẽ thấy trâu vàng cười gọi nhau, khí tượng tòng lâm không tranh nhiều.

Tiễn đưa sửa đường phố ra xin.

Ngọn ngao trên biển bao phủ ráng chiều, bạn Mai Tiên xưa có sinh sống, ngủ yên mộng rơi vào trăng ba núi, thổi khí ấm thành một chuổi hoa treo, lái thuyền theo gió tìm trưởng giả, đến phân chia nồi cơm đất vào nhà ta, đợi anh về quét sạch màng nghi khác, bóng co cong trong chén không phải là rắn.

Rời Thiên Đồng đến học sĩ thái thú Ngô.

Ba cột năm hợp không tìm thứ khác, chìm lĩm lượn đi lượn lại cười vụng về. Vọng lập phải trái uổng dụ ngựa. Vui đồng kia đây biết quán cá. Sương mù tan cốt núi trọc hiện, đáp tiếng vang hang thần tàng phải rỗng rang, không làm dơ bẩn danh tự nhân gian, thân mây trăng tâm vốn như như.

Vệ lên làm người giúp việc ở dinh qua. Ngày 2 tháng chạp, gọi tôi đem rau cơm, ung dung vân tập ở nhà phía Tây, trong danh sách gọi là lục trạm. Ý là sáu xứ ngừng nghỉ lại đồng với một trạm nhiên, hơn nữa xin lời nhân đó làm kệ.

Sóng gió chưa thấy được nguồn linh. Lục xứ quên công thể trong lặng, tánh các pháp rỗng không mới được toà, vừa khẩy móng tay thì mở cửa, hàng rào hàn mai rơi Xuân mới sớm, tuyết đồng bên cửa sổ ban đêm không mờ. Vạn duyên sum la tâm ấn ấn, vượt thoát căn trần nhiệm mầu không tỳ vết.

Nhờ tuyết chỉ dạy người hành thiền.

Nhà nhà trồng ngọc khắp nơi nơi, ai bao áo khói tiến bước chậm, ngàn dặm đồng phong hết ngăn cấm, mười phương một sắc chấp khư khư, tỉnh mộng sáng ngời hai đầu đoạn. Ngồi an ổn thân tâm ba cõi không. Gia truyền trong sạch việc thiền tăng, trong đó chuyển xứ xem công phu.

Phù thập ngũ Lang xin tụng.

Bỏ trần lao rộng lớn mà sáng, tâm không linh chiếu hợp chưa nảy mầm, diệu tận nguồn cùng thành bản đắc, xưa nay chúng sanh cùng Phật đồng.

Trong tròn rỗng chấp nhận được dạo chơn, tê giác cách nước thông được điểm Thu. Cơ ứng vô tư lên đường chim, diệu đồng trăng sáng tĩnh theo dòng.

Mồng tám yết kiến giảng sư Chơn Ngộ Tây Khê.

Mưa hoa Pháp hội tự thơm trong bát chè mới nhận triện tơ xanh, mềm mại làm cây liễu bị gió cắt, lạnh ướt nhuỵ mai tuyết lấm tấm, không nghi ngại quyển vàng che mắt, cố ý phá vi trần lấy quyển kinh. Khí lớn suy nghĩ nuốt ba đời chư Phật, con cháu chưa làm bại gia phong.

Thiền nhân Vân cầm bát xin tụng.

Mây nước ngàn tăng cùng thầm cày, phiền anh xin ăn ra khỏi núi. Dương xỉ rau vi mưa đêm nảy mầm lạnh chân. Đào lý gió Xuân dệt thành gấm. Hang rỗng vừa kêu đồng hưởng ứng, châu tròn các màu hợp thành ánh sáng. Lên phương trên chia cơm thơm, trước tiên vì ta thấy Tịnh Danh.

Thượng nhân Phương cầm bát xin tụng.

Cuộn y biết được liên thành, ý muốn lên phương trên chia nấu, tăng và bát dùng cơm về ba nan tre no. Nhà ong hợp mật trăm hoa thơm. Tơ liễu bạn oanh điệu môi trơn. Mây gấm nhà người chiếu sáng mắt. ứng biến dọc ngang thấy mánh khóe, can mộc theo thân quen gặp trường. Cùng cư sĩ Lý.

Trong tâm thiền khô sạch rối ren, một chút hư minh lặng vẫn còn, cõi cõi nước nước thành tịnh độ, hoa hoa lá lá phát căn linh, vô tâm rất giống mây bị ướt, có chiếu lẫn lộn như trăng xua đi bóng tối, có duỗi dọc ngang đều ở ta, người chơn thật được môn tổng trì.

Thiền nhân Sum cầm bút xin tụng.

Sum la vạn tượng vốn đồng căn, việc này rỗng thông có hoá môn. Đương cơ rõ ràng vốn không dễ. Đại dụng khắp nơi không tỳ vết. Mảnh tâm sáng nhiệm mầu gia truyền tổ. Tòng lâm tham thiền lâu nhờ cây con cháu, duyên đến trở về xoay mặt vào vách, trời Thu rỗng trăng nước hoàng hôn nối tiếp nhau.

Ngày mồng năm sau lập xuân thượng nhân Bổn vận.

Tuyết quanh lầu gác đồng sở tá, mai xanh cành liễu mềm. Mùi hôi núi rừng vào lời mới, gió trăng trong lòng tôn khoa xưa, mộng trao bắp tay cong xuân rất khốn, khí như chai lão thế nào thầy mưa bác sấm ưa ganh ghét nhà thợ gốm thâu thập thoi trên vách.

Thiền Nhân Lương làm ruộng xin tụng.

Một mảnh ruộng tốt nhìn không bờ, khi xưa Phật Tổ truyền nhau nhiều, bốn phía mốc ruộng ai làm bạn. Cây ở trung tâm tự nở hoa, dạy người mây mùa Thu cuộn dáng liềm. Tiếng roi thúc giục trâu mặt trời Xuân tà tà, trở về thâu thập trao việc cày, chí khí thiền tăng hơi hơi giống.

Thiền nhân cổ bước ra xin cầu tụng.

Thân đại thiên giáo hóa khắp nơi, gương xưa không trần hang có thần, mới tin theo nhau không thể hỗn tạp, rõ ràng riêng bày là người nào.

Lang trung giang cầu tụng.

Tâm địa thanh tịnh thênh thang không bờ mé, một đoạn ánh sánh phá mê xưa, xoay chuyển vòng cơ việc phân hoá, trăm ngàn Tam- muội thấy khắp nơi.

Mưa tạnh ngẫu nhiên làm dạy Thiền giả.

Mưa mau tạnh mau ăn lạnh, việc tốt lành cao ngất đuổi theo buổi sáng tốt lành, bông liễu đùa gió ngờ thành tuyết, cây du khắp đất tiền mua được Xuân, sấm nhả tinh túy hoa trà bày nanh vuốt, khí ấm về dương xỉ đâm chồi như bàn tay xoè. Hoa đào vui mắt theo bươm bướm, ai giống Linh vân biết người xưa.

Thượng nhân Lai làm viện Diện Thọ xin tụng.

Dọn sạch gai gốc xây Lâm A xưa, tâm Bá Trượng lo nhiều đối với việc già bệnh, thấu triệt có không mới được ta, phần duyên sanh diệt không liên quan điều khác. Hang mây lạnh bao quanh đá gốc tùng, trăng sáng đầu núi treo gốc nhà, nếu ông ân cần thành tựu lời này, trong thành Tỳ-da hỏi Duy-ma.

Thiền nhân Đạo phát tâm làm ruộng xin tụng.

Đạo nhân muốn xin một túi tiền, vì ta bị cách chức gánh vác ruộng thành ngoài, nước cạn cởi trâu khoác trăng sáng, mây dày hạ cày phá khói Xuân, diệu dụng sức cày việc nhà ta, ngồi chiếu chơn cơ thiền chính mình, gởi lời đàn-việt giúp hảo tướng, nhiều năm dài ăn cơm duyên với tăng.

Lấy vần của học sĩ Hà dạy cho thị giả Tượng.

Ngọn tùng cao xanh tốt cỏ cầm bao quanh, mùa lạnh dáng kiêu gặp phải tuỵết sương, rối ren điêu tàn gió qua vận núi rừng, hết khó khăn khí tụ hình hang núi, trăng sáng mây tan trong lòng lạnh lẽo, núi Thu nước Thu góc mắt xanh, mài gạch ai hỏi lời Mã Tổ, phát diệu rùa khô một linh sáng.

Mộng Tề xin tụng.

Hương thoảng mưa hoa bay lất phất. Xuân khốn ngại gì hứng thú xếp tay ngồi. Ba lời chư Phật truyền nhau lời mớ, tỉnh giác vô ngã hư cháu con.

Coi sóc dầu đèn hóa điện đường điện xin tụng.

Nhà rộng trong sáng chiếu soi bồ đoàn, tiếp nối đèn chơn chưa rụi tàn.

Lặng lẽ không nói miệng lên meo. Ánh sáng không mất tấc lòng lạnh, sen nở trông giống sóng Thu nhẹ. Tỉnh mộng thầm nghi biết lậu khô. Thập pháp giới thân còn lưu bóng, mình người thấu triệt như xem gương.

Thượng Nhân Hải trông coi nhà tắm xin tụng.

Khí tượng ấm áp nửa bờ rào. Quả bầu điều hoà lạnh nóng, đến nổi thân đều là nước, biết ngay cục thịt đỏ rõ không trần cấu, diện mục bụi bặm đều rửa sạch, hình hài hang núi rửa sạch Xuân. Tuyên nói tiếp xúc nhiệm mầu Phật tử ở, trên hội Lăng-nghiêm có người này.

Ty lý Thời xin tụng.

Rửa sạch gương tâm hết bụi trần. Bản tế linh minh tự chiếu thần,

trong ấy hồi cơ tròn sáng tỏ, phân hoá thân trăm ức đại thiên.

Đại sư Hành Nguyệt xin tụng.

Mưa tạnh, đêm sáng mãi, trăng đi trên không. Ánh sáng chơn xua đi bóng tối thầm lặng bên trong. Một chút linh hư ấy ứng hiện, gương tròn mười phương chiếu mạnh mẽ. Đầu gường lò triện nổi tía lạnh. Đèn lồng trên vách đối diện với hồng lạnh, tông thừa trong ấy còn tin tức, bồ đoàn phướn giấy gia phong xưa.

Thượng nhơn Tề phát tâm trông coi nhà La-hán xin tụng.

Tu kết duyên với tăng nhân thanh tịnh, dầu xanh chè trắng cùng củi đen. Năm trăm thánh tôn giả mày rộng. Một ngàn hành khước ta. Nhà mây dáng cỏ hoa sen nở. Khí ấm lò đất kỳ lân nằm. Ma ngủ không đến ngồi thiền an. Ánh sáng tự chiếu tâm thầm lặng.

Con gái bạn đạo Hoa Đình Cố đều xuất gia cầu tụng.

Con gái đắp cà sa, để lại thân nhàn chốn tại gia, không tạo hầm hố xem giác địa, phải phá sạch bụi rậm trồng hoa ưu-đàm. Chấp nhận đầu bắc đẩu hang sâu. Uống hết nước tây giang mới hơi giống. Thoát ba cõi không còn ảnh tượng, cuộc sống đẹp như cư sĩ Tịnh Danh.

Tiễn đưa sứ Minh Chuyên.

Thênh thang không nương tựa thái hư. Khắp nơi chổ nào không gặp y, công thành mắt lạnh hai đuôi mày. Chiếu hết cả thân đến nhiều kiếp, Đại Ngưỡng thầm biết ý Đông Tự. Huyền Sa biết rõ thư Tuyết Phong, đem về buộc trong lòng ba bó nan, búa vàng theo nhau ở khắp nơi.

Thiền nhân Nguyệt bước ra xin cầu tụng.

Một tháng ở trong nước, động theo thuyền đi lại, phân thân được như thế. Khắp nơi đều thích hợp. Sông biển rơi toàn bích, rồng cá cắn giây câu, trở về thật vui mừng, đều được thôi tham sâu.

Thiền nhân Ứng ra xin cầu tụng.

Tuỳ xứ ứng thân thấy rõ ràng, hay thuận nhân duyên không trái chơn. Đầu cọp trên cây trình mánh khóe. Đầu lông sư tử bày tinh thần, hằng ngày tự nhận được tự do, khó truyền lại kinh nghiệm lâu năm. Hương ngát đầy thành cơm trong bát, khắp chốn tòng lâm mênh mông Xuân.

Vương quan sát cầu tụng.

Xem bên trong rỗng rang thanh tịnh, một điểm cực linh châu lăn trong mâm, thầm lặng toàn thân rõ có mắt, phân biệt rõ ràng ứng diệu không tỳ vết, trăng lưu dấu sông hồ mênh mông, hoa cây reo mừng bắt đầu vào xuân, côn bằng biến hoá đúng thời tiết, bèn cởi sừng dê nương theo gió.

Học sĩ Triệu xin tụng.

Trước thân sau thân riêng linh linh, tất cả Như Lai đều xuất phát từ kinh này. Khô hết tâm cuồn thì thấy tướng, nước thu trời trong trăng vằng vặc

Chu cán biện xin tụng.

Rửa sạch bụi trần trăm niệm Thu. Nguồn lặng lẽ chưa chia dòng, trong đó tự chiếu ngoài nhân duyên, nước trong xinh đẹp trăng bồng bềnh

Thượng nhân Cửu ra xin tụng.

Thiền tăng hăng hái tọa thiền, quải bát lạnh dây buộc vai gầy, Bóng tối tiêu vô tư xem trăng sáng, hoa sen nở không nhiễm bùn. Các việc tâm này mây nước đói, duyên cơm cháo nhà người nơi nào, gởi lời lão cư sĩ Tỳ-da, hợp nhau không ngại gọi Xuân ngủ

Khuyên toạ thuyền

Cơ chính yếu của chư Phật, Tổ, không gặp việc mà biết, không đối duyên mà chiếu, không gặp việc mà biết, thì biết này tự nó vi diệu, không đối duyên mà chiếu, thì chiếu này vốn nhiệm mầu. Biết này tự vi diệu, chưa từng suy tư phân biệt. Chiếu này nhiệm mầu chưa từng quên, suy nghĩ chưa từng phân biệt, biết này không gặp được nhưng kỳ diệu, chưa từng quên. Chiếu này không chấp giữ mà rõ ràng. Nước trong thấu đáy chừ cá lững lờ bơi. Rỗng rang không bờ bến chừ chim bay thăm thẳm.

Bài minh và tựa chuông núi Thụy Nham.

Thụy Nham ở Tứ Minh, cảnh non nước đẹp. Trong lòng thênh thang nhưng nuốt nhả mây gió. Buông thỏng tay chân nhưng rữa sạch tuyết dâng. Xây dựng chốn lan nhã tốt lành ở trong này. Cột nhà rong biển xanh, cửa sổ đơn sơ xiêu xẹo, chiếu nhau rực rỡ, gậy lê bên áo, gõ cửa ném thẻ. Khách mây nước, rậm rạp hai ngàn ngón tay, Phạm Công Toàn cúng chuông lớn nặng 0 đấu để thức tỉnh say mê, để đày tin tức, khiến cho bốn phương trong nước nghe được tiếng, mà biết được chốn ăn ở, cô xin bài minh ở tôi ghi rằng:

Phía tây biển có chùa xưa, đến tôn điểu đạo về bên Vân Thê. Tùng lâm nhận được thì bạn quý đến ở, chấn hưng quy củ đầy đủ đao thước, quanh mười hai ngọn núi xanh rì ngọc kêu leng keng. Đại hạ chúng vân tập tầng lầu trên hư không, cao bình công ta thí cho ai thanh tịnh. Mang pháp vĩnh khí lên núi Tiên Đồng, trong rỗng ngoài cứng nói sáng phá tối. Nhìn lên mặt trăng đến cửa đưa quạ xuống núi, chày đánh tiếng chuông du dương không chướng ngại. Một niệm nghe trọn vẹn các trần tự tại. Mười phương đồng hội một tiếng theo nhau. Ong hút hoa, kiến hôi cọp gọi gió rồng làm mây. Tôn khách thành thứ tự ăn ở dung nhau. Pháp tử vững vàng, tông Phật rộng lớn. Cuối tháng đêm tàn sương sớm trong lạnh. Hủ vàng âm đoạn ngọc rỉ bến khô. Gối mộng tỉnh sâu thiền gia chánh quán. Động theo sau tỉnh ở trở lại ban đầu âm vi diệu không nơi nào tìm được. Gởi vận lớn này đến chốn u trầm kia. Tiếng lẻng kẻng đập vào tai tâm thanh tịnh lặng lẽ. Thần ứng ở hang gió thổi qua rừng. Lâm râm từ từ nghe lại ban đầu, căn trần chợt quên tánh giác rỗng rang. Nắm không hết nhưng buông không cùng. Chơn minh rõ ràng tịnh trí như như. Tiếp xúc vào nó thì tiếng vang đoanh đoanh to lớn. Ngay đó diệt hết ngay đó phát sanh. Hóa bướm bóng tan trả nghiệp cá thanh tịnh. Non biển sâu thẳm trời đất bằng phẳng.

Bài minh am Bản tế

Bản tế bình đẳng không có xưa nay, đâu rơi vào các số mục một tâm tròn diệu. Một tâm tròn sáng tự chiếu linh nhiên. Vượt khỏi sanh diệt dung thông chánh thiên. Dung thông chánh thiên trong đó quên dụng công. Chim loan bay khỏi gương ngọc hạc ra khỏi lòng vàng. Ở như thế Phật Tổ đồng chứng. Tông đồng chứng Tịnh Danh thầm lặng.

Bài minh am Chí du.

Lao trắng cao tòa thứ nhất đến thiền Lão Huynh từ lâu theo nhau. Xây dựng sâu diệu đạo tạm cho là đạt sâu xa. Nắm được trần điều mục mây đến thiền tăng, ngày ấy nói với tôi: Sự động tỉnh của thiền gia như yến bay, thường ở trong đó. Phật dạy các tỳ-kheo không nên buông lung tâm ý, ở nhà một mình là hơn cả, đã gọi là am, là chổ ở của ta, thầy có thể gọi tên, tùy theo câu trả lời. Chí du: Hễ người tu đạo là Chí du. Thực hiện sự rỗng rang dữ diệu minh, hấp thụ tinh túy sống thanh bạch, cắt đứt vực thẳm buông chân, thân sanh chốn không kiếp, giữ được nhiệm mầu, quên hết đối đãi. Tự nhiên ứng hiện không phương sở. Tiếng vang trong hang trăng đáy nước. Khắp nơi không ngại. Tâm tâm nhất như. Mình và người đều quên. Phải trái tiêu hết. Vuông tròn lớn nhỏ, rõ ràng không còn khó khăn. Nếu được như thế đi vào trong nhân thế, khế hợp du hỷ tam-muội, đây mới có thể gọi là Chí du. Chỗ ở của thiền tăng đâu cần phải chôn mình trong túp lều tranh, cao ngất ngoài trần, vì nhân duyên làm bài minh:

Đạo nhân Chí du, rõ ràng không nơi chốn. Từ đây về sau biết đâu, tìm đâu để ở. Dấu tích từ xưa đến nay, ngôn thuyên đều diệt. Nước lạnh nuốt hư không, mây phủ thành tuyết rất là rõ ràng. Lại phải xoay quanh một bên, ngay đây gặp nhau, ai biết trong này, biết cũng quay đầu. Khói lạnh núi thu, lặng lẽ tự được. Dằng dặc Chí du, Chí du dằng dặc. Trời trước đất sau, thể hợp hư không, lý vạn tượng viên tròn. trong này thong dong, cơ nhanh như chớp, nên bao trùm mười phương. Thông chung một ấn, thông đồng một ấn, mười phương dung hợp, bónh trong gương tiếng vang trong hang, trăng trong nước gió đùa thông. Khi ứng hiện thì tự nhiên, ai chánh ai thiên, rõ ràng dứt tư lự, thích hợp chu toàn, về lại nhà xưa, hoa lau vàng rơi. Thuyền đêm lâm râm, hồn quế nghiêng lệch, Chí du như thế, thực hành chơn thật, không rơi người trời, có bao giờ mây thành băng đâu. Gia phong vắng tanh, không thể lải nhải, thân tâm khô khan, thuốc pháp trong mát, nơi xứ hẹn nhau, dựng am mà ở, ngoại lượng khó nhìn, chủ của trong chủ, Chí du như vậy, chân lạc như vậy, truyền cơ tối thượng dẫn chiêu thứ nhất.

QUẢNG LỤC KỆ TỤNG CỦA THIỀN SƯ GIÁC Ở NÚI THIÊN  ĐỒNG TẠI MINH CHÂU

Năm vị.

  • Thiên trong chánh: Trong xanh tinh hà lạnh thấm khắp, nửa đêm mục đồng gõ cửa nguyệt, trong tối kinh phá ngọc nữ ngủ.
  • Chánh trong thiên: Biển mây nương ước đảnh núi thần, người về tóc tai tơ trắng rủ, thẹn đối Tần Đài lạnh chiếu ảnh.
  • Từ trong chánh: Trăng đêm kình lớn trải vảy bày, lưng lớn xoa trời chấn động cánh mây, liệng dạo đường chim bay loại khó bao quát hết.
  • Đến trong kiêm: Thăm mặt chẳng nên kỵ húy nhau, phong hóa không tổn huyền ý, trong sáng có đường trời khác vậy.
  • Đến trong kiêm: Đẩu bính giăng bày trời chưa sáng, Hạc mộng vừa tỉnh hơi sương lạnh, ổ củ bay ra mây tùng ngã.

Năm Vương tử đản sinh.

Sao tỏa điện vàng lúc giáng sinh, xứng thể áo cung che da tuyết công đến chuyển thân toàn hợp, cha trong sáng ngầm đánh xe ngọc dời.

Sáng sinh.

Tâm hùng thoát lược chiến văn trường, thẳng nắm mây rủ kéo rồng bày, Quỳ Hoắc dâng vua vị quý, bằng lòng về đi thấy sáng nghiêm.

Chưa sinh.

Cam phận lẽ trong giữ cố cùng, cửa đường lặng lẽ gió chánh tây. Một réo bèn là phụng ngô sinh, chẳng hay bay lại trong loài cò.

Hóa sinh.

Tơ luân truyền được ra tướng cung, tuyên hóa thành Xuân loại chẳng bằng, khéo nắm ngay đường không chữ Ấn, vó ngựa trọn chẳng nhiễm bụi sình.

Nội sinh.

Tuổi diệu con trời từ hai con ngươi, Tôn quý oai nghiêm trấn sáu cung, phép bước xưa nay chẳng ra cấm, người mồ chỉ được tụng gió thơm.

Bốn khách chủ: Khách trong khách.

Tâm sự bình sinh buộc đầu mày, đầy mặt gió bụi, tóc mai bạc, đại để ra cửa không kỷ thuật, ngày nay làm sao lối bần sầu.

Chủ trong khách.

Chẳng mến bán buôn lợi vạn vàng. Chiều lại đường xưa hỏi tiếng nhà. Rành rẻ được báo song thân khỏe. Tránh sao khó bình mừng sợ tâm.

Khách trong chủ.

Ngự lầu thổi sừng sáu đường nghe. Ngựa vàng tướng quân ra thành cấm. Ngoài ngỏ hóa quyền rất có chuẩn. Chẳng thương phong vật đến thái bình.

Chủ trong chủ.

Chẳng động xe vàng muôn đức toàn. Rêu cung ngậm nguyệt chưa bày ban. Ngay đầu chữ húy trong vòng cấm. Ai dám mơ hồ phạm thánh nhan.

Bốn khoa chọn đoạt người chẳng đoạt cảnh.

Lười hỏi ai giữ quyền tạo hóa. Đầu cửa việc Xuân chánh ồn ào.

Mưa tạnh sắc hoa sáng như gấm. Gió ấm tiếng oanh trơn tợ đàn.

Đoạt cảnh chẳng đoạt người.

Nhàm thừa đường khách chợt nhớ nhà. Phản phất xuân nhiều hết tuyết hoa. Đáy trăng đường núi thông dẫm gót. Tâm về chưa ổn cách ráng mây.

Người cảnh cả hai đều đoạt.

Bải tần sinh hoàng đêm muốn tàn. Sông bạc sáng lòa tử vi lạnh.

Sao dời trăng tối không tin tức. Lầu mây chén rượu cạn khách tàn.

Người cảnh đều chẳng đoạt.

Mười phần hoa sự thuộc hơi ca. Cười vào bụi thơm vữa nát dạo khắp. Hoàng đạo thái bình không húy kỵ. Dọc ngang xứ nào chẳng phong lưu.

Mượn công rõ vị.

Ngọn tần ngừng gió chánh giữa đêm. Nước trời xanh biếc cùng ánh Thu. Trăng thuyền chẳng đụng bờ đây đó. Phải biết người sáo dụng ý hay.

Mượn vị rõ công.

Sáu cửa rổng thông đường chẳng mê. Thái dương trong ảnh chẳng đúng cơ. Ngang dọc khéo rung không riêng hóa. Vừa đúng đi theo đường chim về.

Mượn mượn chẳng mượn mượn.

Biết hết ngọt cay trăm ngọn cỏ. Mũi không dây kéo được vui chơi.

Chẳng biết có đi thành biết có. Mới tin Nam Tuyền nói làm trâu.

Toàn vượt chẳng mượn mượn.

Sương căm gió buốc cảnh lạnh lùng. Cửa ngọc khóa vàng tay run mở. Tùng lạnh đêm thâu không tiếng rít. Hạc già dời đậu ổ trăng không.

Kim chỉ xâu thông.

Vời vợi núi xanh dính Thu gầy. Lông tóc sơ sài phong cốt cũ. Mây trắng là con nương lâu ở. Gió trong mượn lực đỡ ra hang. Nhân gian mưa đủ bèn về lại. Tạnh nhạt lạnh rõ đồng đi đến. Trong ấy tin tức khéo chẳng truyền. Mây trắng vô tâm núi xanh thọ.

Chân thân.

Lúc một lá rơi thiên hạ Thu. Xứ chẳng phong lưu lại phong lưu.

Người gỗ lùi bước dây vàng đứt. Ngay đó không cơ dẫn trâu sắt.

Ứng thân.

Trong mâm song lục tin tia sáng tràn ngật. Gió lướt cỏ đè trăng cong tạnh. Ngăn đường bít lối đảy da ngu. Di-lặc lúc nào chẳng hạ sinh.

Trong cửa ra thân.

Vô vị chân nhân viên thịt đỏ. Đại thiên sa giới dính đầu lông.

Rành rành chẳng mượn việc nhà khác. Xứ dụng toàn công chỉ cái này.

Trong thân ra cửa.

Phóng khoáng trở lại rừng gai gốc. Té cưỡi trâu tự say ngâm ngâm. Ai ghét khói mưa ồn tơi nón. Chỉ bởi hư không chẳng treo kim.

Nhân xem Tiểu Thích-ca ở Ngưỡng Sơn nói thành Xướng Đạo hai bài

Cởi hết các duyên không chẳng không. Lặng vô biên tố dụ khó đồng. Phải biết nguyệt trai vật trong ruột. Thể lấy mây trong tê giác thông. Dựng hóa vào phòng đường chim vượt. Xoay lối lại diệu hiển gia phong. Thái bình người dạo về lại vậy. Mai tuyết mày sương trong chuyển công. Một niệm toàn siêu đầu nhiều kiếp. Người ngọc ngồi ngay xe trâu bạc. Qua lại dạo khắp nương tham diệu. Xoay đầu giữa đường vật lớn thay.

Lễ Tháp Tam Tổ Thiền Sư Trí Giám.

Đạo không chọn lựa, sông sâu núi vút, trăng lạnh trời xanh, chẳng nảy mầm cành lên Xuân hoa giác, không đầu cây ảnh ổ chim linh. Trụ trời cao vợi chừ tinh hà rối sạch, trâu đá gầm rống chừ động mây sinh bạc.

Lễ Tháp Tứ Tổ Thiền Sư Đại Y.

Tổ đạo đã truyền. Hoàng mai tuổi diệu. Bào huyễn chợt diệt. Trắng sạch không hình. Chân tướng rành rành chiếu lửa mở. Giáo âm lặng lẽ tỏa gió linh, tùng lão trăng treo lạnh vừa đêm. Hạc rét ổ mây mộng chưa tĩnh.

Lễ Tháp Ngũ Tổ Thiền Sư Đại Mãn.

Hoàng mai quả chín, ngó sen trắng hoa khoe, hỏi chỉ Phật tánh chủng khác thai phàm, áo truyền nam lãnh người đem đi, tùng già núi tây ta trở lại, song mượn thành hết việc, một chén gió trăng bụi lắng không.

Lễ Tháp Thiền Sư Đầu Tử Thanh.

Tháp tàng cốt ngọc, mây ân eo núi, vết trần ngoài sạch, đạo sáng trong bày, xuyên chỉ ngọc của kim vàng tiếp, keo loan của tơ phụng, chén Xuân còn mà hoa thơm cây úa, hạc đêm hót mà trăng rọi ổ không, gia phong thanh đạm chừ trâu đá uống nước, cháu con ngoan đẹp chừ trụ trời vuốt mây.

Tán thán chân hình sư tổ Phù Dung.

Mắt phụng hình hạc, tông môn lớn lao, lượng ngoài dẫn dắt, tiếng trước đánh xướng, cứ lệch chừ kiếm dài cậy trời, ứng cơ chừ châu sáng tại tay, Thái Hư có trăng chừ thỏ già ngậm sương, biển lớn không gió chừ kình hoa thổi sóng.

Bài minh Mặc chiếu.

Lẳng lặng quên lời, rành rành hiện trước, lúc soi rõ vậy, thể ở linh thiêng, linh thiêng riêng chiếu, trong chiếu lại diệu, trăng mốc tinh hà, tùng tuyết núi mây, tối mà càng sáng, ẩn mà càng hiện, hạc mộng khói lạnh, nước ngậm Thu xa, lắm kiếp không không, tướng cùng sấm đồng, diệu còn nơi mặc, công quên trong chiếu, diệu côn sao còn, tinh tinh phá tối, đạo của mặc chiếu, căn của lìa vi, suốt thấy lìa vi, thoi vàng máy ngọc, chánh thiên uyển chuyển, tối sáng nhân nương, nương không năng sở, đến thời hồi hổ, thuốc thiện kiến, đánh trống xoa độc, hồi hổ đến thời, giết muôi tại ta trong cửa ra thân, đầu cành kết quả, mặc chỉ chí ngôn, chiếu chỉ ứng khắp, ứng chẳng lạc công, ngôn chẳng xin nghe, muôn tượng sum la, phóng quang nói pháp, kia kia chứng minh, mỗi mỗi hỏi đáp, hỏi đáp chứng minh, vừa đúng tương ưng, trong chiếu mất mặc, bèn thấy xâm lăng, chứng minh hỏi đáp, tương ưng vừa đúng, trong mặc mất chiếu, lẫn thành thừa pháp, mặt chiếu lý tròn, sen nở mộng tỉnh, trăm sông về biển, ngàn non hướng núi, như ngỗng chọn sửa, như ong hút mật, mặc chiếu đến được, xoay tông nhà ta, tông gia mặc chiếu, thấu đảnh thấu đáy, thân Thuấn-nhã-ta, tay Mẫu-đà-la, thủy chung một đạo, biến thái muôn sai, họ Hòa dâng ngọc, tướng như vân tay, đương cơ có chuẩn, đại dụng chẳng cần, thiện tử trong vòng tướng quân ngoài ải, việc của nhà ta, trúng khuôn trúng khổ, truyền đi các phương, chẳng cần lời khắp.

Bài minh thất tịnh lạc.

Sắc thấy tiếng cầu, giữ đạo chưa chánh, tự được đến vực, thường lạc ngã tịnh, tịnh đó là thường, lạc đó là ngã, hai thứ giúp nhau, như củi cùng lửa, ngã lạc vô cùng, tịnh thường vô chung, lắng còn ngoài tượng, trí chiếu trong hoàn, trong hoàn tự rổng, chẳng có chẳng không, kín vận linh cơ, khéo chuyển chốt huyền, chốt huyền cơ chuyển, vốn điềm sáng hiện, tâm duyên chưa mầm, ngôn tượng sao biện, biện đó là ai, rành rành tự biết, bao gồm tuệ nhà, chẳng lẫn tư duy, tư duy chẳng lẫn, hoa lau chiếu tuyết, một đoạn ánh sáng, rổng rang ngời suốt, ngời suốt vô phương, đầu chẳng che giấu, lúc cưỡi thì ra, xen hóa thì xướng, xen hóa tùy nghi, tịnh lạc chẳng dời, không ngậm Hải ấn, vừa đúng không khuyết, công của không khuyết, trong ngoài rỗng chứa, pháp pháp tuyệt đãi, môn môn rổng thông, môn của rổng thông, đường của dạo đùa, rơi rụng căn trần, lau rưới trông nghe, trông nghe lên chức, tay mắt ngàn ngàn, kia mất cần cần, ta thường miên miên, diệu của miên miên, chưa vết điềm triệu, lạc của trong tịnh, chiếu của trong mặc, nhà của mặc chiếu, phòng của tịnh lạc, ở an quên nhọc,bỏ hoa lấy thật, minh của lấy thật, không được mà nói, lành thay hết hỏi, vào môn chẳng hai.

Bài ký Tăng đường.

Phàm, cười ấm ở Linh Sơn, ngồi lạnh ở Thiếu thất, Đông Tây rành rành ba mươi ba truyền, Lão Lô trao y bát mà trốn, khuyết sự hiển bày, mở đóng hút bày, gợn sống sáng lánh, há miệng mà nói, bày tâm mà ứng, đạo truyền khí nhận, nguồn sâu dòng dài, Nam nhạc thanh nguyên, thay dùng được người, hoặc nín chỗ có tông, sâu ngầm xa trốn, quét vết ngoài đời, nghiên cứu tử sinh, ăn tùng mặc sen, ẩn ổ ngồi cỏ, tối mà chẳng tỏ, trì dưỡng lão thành, có mộ phong đó, bắt chước mà thân đó, cày trồng giả thổi, hái múc nấu nướng, rau khe thóc đồi, cỏ khô tự chịu, xa xôi nhóm nhiều, mới dựng tăng đường mà gồm nhận đó, trai nằm nơi cỏ, thầy bạn đồng sự, mổ trình cắt trí, đuổi học xua tự, khéo hết tâm không, tông thông mắt sống, phát vượt ở thi thiết, quả đó năng mà đủ vậy. Cuối niên hiệu Kiến Viêm (1131) người bệnh loạn ly, tương Hán Giang Hoài, binh lửa tràn lan, các tôn túc chốn tòng lâm bỏ phế tám chín phần mười, áo lông bình tích, đến ẩn ở Đông nam, Tứ minh thiền tịch, vốn hiệu Tiểu Lô sơn, từ quận về phía Đông sáu mươi dặm, Đạo tràng thiên đồng, núi xoay quanh mà khí sâu, tùng nghiêng lệch mà da nứt nẻ, vách xanh nấm mọc, khói mờ mà xinh đẹp, cầu vồng gối khe, bụi rửa mà sạch bày, tôi ở núi bốn năm, mười phương đến học, mây tới nước đến, phòng chẳng có thể chứa hết, Tỳ-kheo hạnh sâu, xa lại thưa rằng: Bạn Bách Đình ngồi bày qua đêm dưới rèm, hết không tầm xích cùng nhận đơn bát, muốn chiêu mộ tịnh tín xây thêm lớn đường đó được chăng? Tôi chấp nhận rồi mà thợ khai mở rừng. Búa vang đến hang, hơn một năm mà đá tảng bày cột xếp, rường giăng xà khoét, trích xuyên bày, rui ngói vảy che, trước sau mười bốn gian, hai mươi giá, ba hành lang ngang qua, hai giếng trời, bạch ốc hứng mưa dưới không tường bậc, dọc hai trăm thước rộng mười sáu trượng, cửa sổ sàn giường sâu sáng nghiêm khiết, muôn chỉ ăn nghỉ vượt lay dung cùng, mới đầu dự tính từ mùa Đông năm Nhâm tý (1133) thuộc niên hiệu Thiệu Hưng (1131-113 thời Nam Tống) công thợ hoàn tấc ở mùa xuân năm Giáp dần (113) tổng chi phí tiền giấy hơn mười lăm ngàn. Đông ấm Hạ mát ngày hương đêm đèn, mở bát ăn cơm, rửa chân mà ngồi, cày cấy chăn giữ trong khoảng đó, dùng tịch lắng mà răn dắt, Thu chứa giếng cổ người Xuân hóa cơ, sâu chừ lặng thành, đẹp chừ dùng sáng, nước đầy khoa mà chảy, hang tùy gọi mà vang. Lý hợp bình đẳng, trí ứng tự nhiên, động tỉnh oai nghi, khuyên ngăn cùng ích, kiểm trách rò rỉ, mài ngời vết sẹo, nhuận ráp sáng lòa, mài giả sừng khuê, nêu cao xa đến, tìm vẽ người xưa, cho tâm giúp sức, đồng chẳng bẻn lẻn. Ôi! Khí yếu học tệ, mong dễ muốn nhanh, dùng cơ giới làm lối đi, phóng đảng làm đến, cày ở không lời, đuối không chỗ gặt, đánh ở cương biên, thắng không chỗ về, thấy nghe thánh quen, hiểu biết chìm tâm, điều Phật Tổ trách, ngoại ma được tiện, mầm xấu lầm lỗi đó, trị chẳng thể thư thả, lên gò của Côn Lôn, tháo nước của sông nguồn, rửa dơ của gan mật, tẩy màng của tâm mắt, vết sinh diệt mất mà diệu còn, dấu có không sạch mà quá lượng, mộng của đêm dài phá, nghi của nhiều kiếp trừ, chí của xuất gia thưởng, việc của hành cước xong, cùng theo bè bạn, ngõ hầu bao nhiêu?

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9