QUẢNG HOẰNG MINH TẬP
Cuối đời Đường, Sa-môn Thích Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản
QUYỂN 30
THIÊN THỨ MƯỜI: THỐNG QUY
– Đời Đại Đường, chùa Tây Minh, Sa-môn Thích Đạo Tuyên soạn
– Đời Tấn, Sa-môn Chi Đạo lâm làm thơ khen Phật (8 bài).
– Đời Tấn, Sa-môn Chi Đôn vịnh hoài đại đức Thiền sư làm thơ nói về Sơn cư.
– Đời Tấn, Sa-môn Thích Tuệ Viễn, soạn lời tựa thơ niệm Phật Tam-muội.
– Thơ niệm Phật Tam-muội của Tấn Vương Tề.
– Ca từ Pháp lạc của Vương Nguyên Trường, đời Tề.
– Lương Võ Đế thuật thơ Tam giáo
– Lương Chiêu Minh, ở chùa Khai Thiện làm thơ Pháp Hội.
– Lương Giản Văn ở chùa Đồng Thái, làm thơ về Phù Đồ.
– Văn năm ấm thức của Giản Văn vịnh.
– Thơ Bách Luận xả tội phước của Lưu Hiếu Xước, đời Lương.
– Thơ Mông Hoa lâm viên giới của Giản Văn đời Lương.
– Thơ Giản ngật phú ba mươi vận của Chiêu Minh đời Lương.
– Thơ Dự sám trực sớ của Giản Văn, đời Lương.
– Đời nhà Lương, Giản Văn ở chùa Hưng Nghiệp giảng thơ.
– Tập thơ Hòa ngũ minh của Nguyên Đế, đời Lương.
– Đời Lương, Chiếu Minh ở Chung Sơn giảng giải thơ các nhân hòa.
– Đời Lương, Hoàng Thái tử làm thơ Bát quan dạ thuật du tứ thành môn.
– Đời Lương, Giản Văn làm thơ dạo chơi chùa Quang Trạch.
– Thơ Bị u thuật chí của Giản Văn đời Lương.
– Đời Lương, Thẩm Ẩn Hầu lâm chung dâng biểu.
– Thơ lâm chung của Tạ Linh Vận đời Tống.
– Thơ lâm chung của Sa-môn Thích Trí Khải, đời Trần.
– Thơ Đạo núi và Tạp thơ của Hà Xử Sĩ, đời Trần.
– Trần Diêu Sát đến chùa Minh Khánh, Trướng nhiên hoài cổ.
– Thơ Dạo núi Nhiếp sơn của Thượng thư Linh Giang đời Tần.
– Thơ làm ở chùa Đại từ chiếu khi Lô Tư Đạo đời Bắc Tề theo hầu vua.
– Tạp thơ của Trương Quân Tổ, đời Trần (3 bài).
– Thơ Năm thứ Khổ của Sa-môn Thích Vong Danh.
– Thơ đến chùa Linh Nghiễm ở Phương Sơn của Dương Đế đời Tùy.
– Thơ lên lầu ngắm đèn xuân của Dương Đế, đời Tùy.
– Đời Tùy, Vương Vị thuật thơ Tịnh Danh.
– Thơ vào chùa Phụng Lâm của Tiết Đạo Hoành, đời Tùy.
– Thơ đến Tinh Châu, chùa Đại Hưng Quốc của Văn Đế, đời Đường.
– Thơ đến chùa Đại Từ Ân ở Kinh đô.
– Đời Đường, Pháp sư Tuyên ở Thường Châu vịnh Cao Tăng.
– Đời Đường, Pháp sư Tuyên đến Đông Sơn, Tìm hai Pháp sư Thù và Đàm.
THƠ KHEN PHẬT NGÀY MỒNG 08 THÁNG 04
Đời Đông Tấn, ở núi Ốc Châu, Sa-môn Chi Đạo Lâm
Ba xuân điệt gọi tạ
Dầu hạ ngậm ngọc sáng
An lành ngày thái bình
Mênh mông huyền vắng lặng
Bồ-tát thái linh hòa
Mênh mông nhân hóa sinh
Tứ vương ưng mà đến
Kiểu chưởng thừa vương hình
Phi thiên cổ nhược la
Đằng trạc rải chi anh
Duyên lãn đồi Long thủ
Phiêu nhị ế trôi chãy
Hoa sen dục thân ba
Nghiêng cành hiến triều vinh
Phương tân vụ bốn cảnh
Cam lộ nhuận bình ngọc
Trân tường doanh bốn tám
Huyền huỳnh diệu tử hình
Cảm long chẳng tình tưởng
Sợ hãi không chỗ làm
Huyền căn dân linh phủ
Thần điều tú hình danh
Viên quang lãng sáng đông
Dáng vàng diễm xuân tinh
Hàm hòa gồm tám âm
Thố nạp mùi thơm bay
Tích theo nhân sóng chất
Tâm và thái hư minh
Sáu độ khải cùng tục
Tám giải trạc thế anh
Tuệ trạch dung không ngoài
Không đồng vọng hóa tình
THƠ VỊNH NGÀY MỒNG TÁM (3 bài)
Đại khối huy khu tối
Sáng rực rỡ hai nghi
Muôn loài sinh hoa đẹp
Lóng trong ngưng huyền Thánh
Thích-ca nương linh hội
Viên thần đẹp cơ chánh
Giao dưỡng giữ điềm lành
Linh tri lưu tánh mạng
Động vi vụ hạ thi
Tịch vi vô trung cảnh
Chân nhân gieo thần hóa
Chảy, đọng vì có nhân
Rồng khen ấp Đâu-thuật
Phiêu cảnh bến Diêm-phù
Dừng xe ba xuân tàn
Ngựa bay Chu minh tuần
Tám phía vạch mây dày
Chín tầng trời rải hoa
Thần linh ca muôn khúc
Bàn giá tấu linh luân
Thuần trắng ngưng mưa thần
Lan tuyền đổi sắc thân
Đầu bộ ba tài thái
Dương thanh năm đạo dứt
Chẳng trái nên là quý
Vong kỳ nên kỳ thần
Xa ư, xa cổ tư
Tưởng thác do sự sinh
Tướng và đồ linh khí
Tượng ư, tượng hình kia
Xiêm vàng, màn chất lụa
Nguyên phục đà lụa xanh
Thần mà cung là tuệ
Tích mà động là hành
Nhà trống bày tiệc vui
Phát triển khởi tươi nhuần
Nghĩ tợ duỗi vui chơi
Ngã lượng tình tác giả
Ở đó sót chỗ chuộng
Tiêu tâm ngưng thái thanh.
THƠ THÁNG NĂM ĂN CHAY TRƯỜNG
Tinh lửa dưỡng trọng khí
Chu lìa thổ ngưng dương
Quảng chớ tán nguyên biến
Khởi gió nương hòa bay
Sức thấm nhuần vô biên
Bốn bộ kính vui mừng
Trong sạch lên nhà trống
Thanh tịnh hòa xuân sáng
Đêm sợ sương thu mạnh
Tiêu điều vịnh rừng đầm
Điềm tĩnh thành vị bàng
Dật dung nghiên xung cơ
Thải thài vận cung thương
Người thợ nắm thần nêu
Nương gió thổi cỏ thơm
Đạo hành nói hành sâu
Đẹp đẽ nói lý dài
Gắng gổ Duy-ma linh
Đức âm sướng du phương
Tráo lao mầu nghiêng huyền
Tuyệt trí do cận tạng
Lược lược vi dung giản
Tán tiếng chấn lưới đạo
Chọn phiền luyện câu trần
Ách đến dẹp chương hay
Rộng như sợ gió tan
Xa như ban đêm sáng
Ngụ ngôn há đã nương
Ý được thuyên tự táng
Thấm nhuần mầu tập dung
Ma ma khinh trần vong
Tiêu sách tình dữ đồi
Liêu lãng thần hiên trương
Ai cho bến tối xa
Nếu ngộ thì chống lại
Nguyện vi thầy Hải du
Chèo thuyền vào sông thương
Vượt sóng sấm nêu khách
Huyền quy hội đạo tràng.
TỰA THƠ “BÁT QUAN TRAI”
Gian Dữ Hà phiêu kỵ kỳ đương vi hợp thành Bát quan trai
Ngày 22 tháng 10, tập trung những người cùng ý tại Ngô Huyện dưới mộ Sĩ Sơn.
Sáng ngày mống ba là trai giới, Đạo sĩ, người tại gia gồm hai mươi bốn vị. Thanh hòa tú mục đâu không thanh tịnh.
Đến sáng ngày mồng bốn, các bậc hiền đều đi, tôi đã vui lặng lẽ nơi nhà vắng, lại có tâm tìm thuốc, liền một mình đi đến. Lúc đó bèn vẫy tay đưa về. Có tư tưởng hướng đến đường đi, tịnh cung hư phòng. Ngộ được chân ngoài thân, lên núi tìm thuốc và niềm vui bên vách đá và nước, để an ủi hai ba tình.
THƠ “BÁT QUAN TRAI” (ba bài)
Kiến ý làmpháp trai
Lý nhân khế minh trù
Tướng và kỳ ngày tốt
Mộc dục tạo gò nhàn
Vui vẻ lên nhà hiền
Sáng sủa tâm tu sạch
Yểu điệu khách bát trai
Không kiền tự ràng buộc
Tịch mặc năm tập chân
Hăng hái lệ tâm nhu
Trống pháp tiến ba khuyến
Cảm động lời dạy bảo
Xót thương nguyện hoằng giúp
Mọi nhà đều đồng thuyền
Lời Thánh nêu rõ ràng
Ứng với lời mong cầu
Tồn thành giáp thất lý
Ba cõi khen thanh tịnh
Tốt đẹp quy tể tướng
Rậm rạp như mây nổi
Ba hối khởi buổi sáng
Hai sám vào trưa tối
Minh cầm giới trong sáng
Bị lễ tẩm huyền dịch
Tiêu sách đình tân ly
Phiêu diêu thích theo gió
Tần ngần ở đường rẽ
Giơ tay hạ nửa chừng
Ruộng trong nhẹ rong ruổi
Tập tập lăng điện kích
Tức tâm đầu từng bước
Linh linh chấn kim sách
Dẫn lĩnh vọng chinh nhân
Hận hận nhớ nghĩ chứa
Khuất thân chẳng có ngã
Vật ngoài đã vắng lặng
Ngâm vịnh quy hư phòng
Thủ chân ngoạn u trách
Tuy phi một lần qua
Thả dĩ nhàn tự thích
Tĩnh một tán bồng lư
Từng âm vịnh đầu tiên
Hoành mạc chỉ rừng nhỏ
Để vườn lệ khích dũ
Tùng dung hà tưởng dật
Thái dược lên bờ cao
Nương vách lên ngoài tầm
Tiêu điều đến vạn mẫu
Nhìn núi vui thông tươi
Ngắm đầm buồn sách liễu
Giải đới dài chỗ rẽ
Ta-bà sông xanh hữu
Gió lạnh giải phiền não
Suối lạnh rửa ấm tay
Vắng lặng thần khí sướng
Kính như bàn rừng xuân
Đạt độ thầm ba tài
Hoảng hốt đáng thần ngẫu
Du quán đồng gò ẩn
Thẹn không hóa trữu ngay
THƠ VỊNH HOÀI
Cao ngạo nương thơ sách
Ngày qua rồi tháng lại
Như táng khốn sóng gió
Lưu lãng theo vật dời
Giữa đường cao vận ích
Yểu điệu kính trọng huyền
Trọng huyền ở hà hứa
Tìm chân ở trong lý
Lựa chọn vì ta dưỡng
Tiêu diêu khiến ta nhàn
Liêu lượng tâm thần sáng
Chứa đựng sáng tự nhiên
Bồi hồi trầm tình khứ
Rực rỡ lòng tươi mát
Do dự xem tượng vật
Chưa thấy hết toàn trâu
Lông Lân có chỗ quý
Chỗ quý ở quên nơm
Ngồi thẳng lân cao cảnh
Mênh mông nghĩ công lao
Nghiêng chân thân dây cương
Lĩnh lược gọi chung thư
Đến già cáp song huyền
Phi trang ngoạn thái sơ
Vịnh phát thanh phong tập
Xúc tư đều điềm đạm
Cúi vui chất văn tốt
Ngưỡng bi hai tượng tồ
Tiêu tiêu trụ hướng
Vắng lặng mông ấp trống
Mở mang việc ngàn năm
Tiêu dịch về không vô
Không có đâu bị thương
Muôn khác về một đường
Đạo hội quý tưởng thầm
Vong tượng xỏ châu đen
Khiến nước đục thành trong
Cơ quên soi nước trong
Úp gương về lóng lặng
Dung và làm đạo phù
Tâm và lý lý mật
Hình và vật vật sơ
Tiêu sách do việc đi
Riêng cùng thần minh cư
Mặt trời hy xuân phố
Du miến khen thời quan
Cảm vật nghĩ chỗ gá
Tiêu điều dật vận thượng
Còn nghĩ Thiên Thai cao
Phảng phất đều kính ngưỡng
Gió lạnh đẹp rừng lan
Ống sáo vang tiếng xa
Ven trời nuôi dây sắn
Thần sơ đều nhuận trường
Chu sa ánh chiếu soi
Phương chi diệu năm hiệp
Từng cạnh trọng vẫn sâu
Mắt mắt động đá rộng
Trong có tầm hóa sinh
Thân ngoài giải thế cương
Bão phát trấn hữu tâm
Huy huyền phất vô tưởng
Quỵ quỵ hình nhai đồi
Huýnh huýnh thần vũ sướng
Xoay vần vô tạo hóa
Phiếu miết lân nhân tượng
Nguyện đầu nhược nhân tung
Cao bộ gậy chấn sách
Nhà nhàn gá tĩnh thất
Vắng lặng hư thả chân
Dật tưởng tuôn trên đồi
Mông lệ vọng u nhân
Khái hỷ huyền gió thấp
Giao giao lìa nhiễm huân
Thời vô vấn đạo ngủ
Hành ca e nhân gì
Linh khê vô kinh lãng
Bốn núi không hạt bụi
Dư tương dạo núi xem
Giải giá chuyết chi luân
Phương tuyền đại cam lễ
Núi quả kiêm hành trân
Du lâm sướng khinh tích
Mưa đá tí vi thân
Sùng hư tập bổn chiếu
Tổn vô quy tích thần
Vì noãn noãn phiền tình
Giọt giọt trọng khí mới
Gần chẳng khách trong xứ
Xa sợ vi, vô vi
Cô tai tự có bạn
Đất sẽ nở hoa đẹp
Sáng trời chảy ánh quang
Thần lý mau chẳng mau
Đạo hội không lấn áp
Siêu siêu giới người đá
Ác huyền lãm cơ lĩnh
Dư sinh nhất hà tán
Phân chẳng giúp mé trời
Chìm vô minh đến vận
Biến bất dương ủy bính
Nhiễm nhiễm niên vãng tuấn
Du du hóa mong mãi
Kiều thủ hy bến huyền
Tưởng đăng cố chưa chánh
Sinh đồ tuy mười ba
Ngày đã tạo cảnh chết
Nguyện đắc lý vô thân
Đạo cao xung mật tĩnh.
THƠ “THUẬT HOÀI”
Chim lượn hót Côn Luân
Chí ẩn vọt hư không
Hoảng hốt về Linh hàn
Sắc bền thê nam ngu
Trạc túc khuy lưu lan
Thái luyện chứa thần sơ
Cao ngâm súc phương lễ
Bay liệng lên thần ngộ
Túc túc kha minh phiên
Mênh mông dục thanh khu
Tưởng lâu huyền vận dời
Cúi đầu đợi linh phù
Sông trong thành có lúc
Chắp cánh khiến nhọc người
Tổng giác đôn đại đạo
Hai mươi lộng song huyền
Lần lượt thích trường la
Cao bước tìm vua trước
Diệu tổn giai huyền lão
Vọng hoài lãng hào xuyên
Đạt quán đều làm được
Xuy lụy đều tự nhiên
Cùng lý ghét linh tân
Chiêu chiêu thần hỏa truyền
Hi di an xung mạc
Ưu du lạc tĩnh nhàn
Cao du không vị nếm
Quyến luyến phi nhã huyền
Nguội tâm ủy hình độ
Lớp lớp tùy hóa dời.
THƠ VỊNH ĐẠI ĐỨC
Tưởng xa còn nhiệm mầu
Gió lộng nhất hà sưởng
Phẩm vật nhóm huy hoàng
Sinh đồ liên hoảng hốt
Đã táng đại trừng chân
Vật dụ thì trí rộng
Xưa nghe bào đinh tử
Huơ giáo nhậm thần đến
Cẩu năng từ xung âm
Nhiếp sinh vẫn chỉ tay
Nương kia lai vật gian
Đầu thử im lặng chiếu
Xa độ suy cuộn duỗi
Vọng hoài gá võng tượng
Giao lạc doanh ức câm
Thần hội để cúi ngước
Đại đồng la muôn khác
Úy nhược đủ diện võng
Gửi gắm biển khu hương
Ủy hóa đồng trời đất.
BÀI TỰA ĐẠO NHÂN VỊNH THIỀN TƯ
Tôn Trường Lạc
Làm một tượng Đạo sĩ ngồi thiền và khen ngợi, có thể cho rằng: Phủ đối gởi tâm thành, cầu tham yên hoành ách. Thế núi rừng cao tuyệt.
Tưởng y nhân ở đây. Dư tinh kỳ chế tác, mỹ kỳ gia văn, bất năng mật dĩ, liêu trước thư một bài như dưới đây:
Vân sầm rất hoang sơ
Rơi rơi như tấm vải
Trở lại với suối lan
Túc lãnh tán gia thọ
Úy hội vi du cầm
Tranh vanh bặt nẻo bước
Trong có xung hy tử
Ngồi thẳng mộ thái sách
Tự cường giúp thiên hành
Chí hèn chẳng muốn đi
Ngọc chất lăng gió sương
Se lạnh xệ thanh thú
Dốc lòng khế thông lạnh
Trù mâu mát chiều về
Trong hội giữa hai dứt
Miên miên tiến việc thiền
Đầu nhất diệt quan biết
Nhiếp hai do thần gặp
Thừa điêu lụy ách hoàn
Lụy mười cũng ngưng chú
Huyền tâm đất vô khí
Diệu nghiên cách thô lự
Minh hoài di chấn kinh
Sợ sệt tứ u độ
Gặp lồng duyên sáu tịnh
Không đồng dứt thất trụ
Thệ hư thừa hữu lai
Mãi mãi là hữu đãi.
VỊNH SƠN CƯ
Ngũ Nhạc bàn thần cỏ
Tứ Độc chảy sông ngòi
Động cầu nhìn phương trí
Yên giữ nêu tĩnh nhân
Nếu không yên xuất xứ
Nương gá nhân hữu thường
Tìm nguyên còn chung cổ
Tưởng rỗng suốt ẩn dật
Ngọc sạch kia dưới núi
Tiếng vàng suốt sông nghi
Cuốn Hoa Tạng rối rắm
Chấn hạt phủi bụi trần
Dẫu từ sâu nhỏ khuất
Đạo và ngựa mạnh ruỗi
Tuấn vô đơn báo phạt
Phân chẳng đầu dương chân
Thở dài về núi rừng
Tốt đẹp dụng người tài.
BÀI TỰA TẬP THƠ “NIỆM PHẬT TAM-MUỘI”
(Đời Tấn, Thích Tuệ Viễn núi Lô) Tựa rằng: Gọi “Tam-muội” nghĩa là gì?
Nghĩa là chuyên tư tịch tưởng.
Tư chuyên thì chí nhất không phân biệt. Tưởng tịch thì khí rỗng thần sáng.
Khí rỗng thì trí điềm đạo soi chiếu kia. Thần sáng thì chẳng u chẳng suốt. Hai điều này chính là huyền phù tự nhiên, hội nhất mà chí dụng. Thế nên cảm vật thông linh, ngự tâm chân chánh, động ắt nhập nhiệm mầu. Đây là mượn việc tu để ngưng thần, chứa công để chuyển tánh. Còn hoặc như thế, huống thân ở tọa vong, minh hoài chí cực, trí lạc vũ trụ, đến chỗ đại phương vi? Xin nói về lúc ban đầu kia.
Bồ-tát mới lên đạo vị, vừa để ý huyền môn. Thể vắng lặng vô vi mà không đâu chẳng vi, sánh bằng thần biến kia. Khiến cho dài ngắn cách thường độ, lớn nhỏ trái lẫn nhau. Ba quang hồi cảnh để soi chiếu, trời đất co duỗi mà nhập hoài.
Lại các Tam-muội, tên kia rất nhiều. Công kia dễ tiến, niệm Phật là bậc nhất.
Vì sao gọi là cùng huyền cực tịch tôn hiệu Như Lai? Thể thần hợp biến ứng không từ phương hướng, cho nên khiến cho đây nhập định. Mờ mờ quên biết tức sở duyên để thành gương soi. Sáng thì soi chiếu bên trong sáng tỏ muôn tượng đều sinh. Chẳng phải chỗ tai mắt đến mà nghe thấy thực hành ư? Đối với đây thấy được thể ngưng đọng hư cảnh. Ngộ thì linh căn vắng lặng thanh tịnh tự nhiên. Xem xét huyền âm khấu tâm thính, thì trần lụy thường tiêu, trệ tình dung lãng. Không phải chỗ chí diệu của thiên hạ thì ai chung với ở đây. Xét theo đây thì nhất địch chi cảm bèn phát chín tập lưu phú, dứt trọng mê của hôn tục. Nếu dùng sở duyên của các định thất phu, chẳng được nói sự hơn kém kia, rất dễ chịu. Đây là do phụng pháp các bậc hiền đều cảm khế hợp nhất đạo, cảm đồi cảnh tấc bóng. Sợ lai trữ chưa chứa nhóm. Đối đây rửa tâm pháp đường, chỉnh y thanh hướng. Phần đêm quên ngủ. Đêm trước chỉ siêng năng, đồng đến với chín duyên. Ngưỡng viện siêu bước bạt mâu chi hưng thương xót dẫn dắt kẻ yếu tiến bộ, sách tấn người học sau kia. Do đây mà xét, huy hàn của các thiên đâu luống văn vịnh mà thôi?
NIỆM PHẬT TAM-MUỘI (Lang Da Vương Tề Chi)
Diệu dụng sâu mầu
Thiệp có lãm không
Thần do muội suốt
Thức để chiếu thô
Chứa vi tự dẫn
Do công vốn rỗng
Dứt ba quán kia
Quên mảy may kia
Tịch Hán hà thỉ
Lý mầu thông suốt
Dung nhiên quên thích
Bèn rộng linh huy
Tâm xa bờ cõi
Không được theo cơ
Dụng đó để vui
Hội đó để mong
Thần giúp thiên ngưng
Viên ánh mây sáng
Cùng hóa mà cảm
Cùng vật thành bầy
Ứng không dùng phương
Người thọ tự phân
Vắng lặng gương sâu
Vàng, nước bụi xen
Khái tự một đời
Túc chi tuệ thức
Nương gá uyên nhân
Nương nhờ sức thầm
Chuyển đổi công phu
Chỗ sâu chỗ rộng
Một niệm chí thành
Chú tâm Tây cực.
KHEN NGỢI TÁT-BÀ-ĐA LUÂN
Sâu thay đạt nhân
Thần kia thấu triệt
Cảm mộng hồn giao
Mở Thánh triết này.
KHEN NGỢI TÁT-BÀ-ĐA LUÂN VÀO NÚI CẦU PHÁP
Tiếng phát khắp núi
Tức phát u thành
Tiếng vào trong tai
Vui mừng Thần chánh
Vâng mạng tiêu du
Trăm lo đồng tối
Gởi tâm ở nguyện
Hóa chính hàng linh.
KHEN NGỢI TÁT-BÀ-ĐA LUÂN THỈ NGỘ MỤC CÚNG DƯỜNG ĐẠI SƯ
Quy đồ sắp mở
Cửa linh lại mở,
Thần công khó vẽ
Đợi tổn mà ích
Tin đạo quên mình
Vui không kỳ hạn
Không phải triết nhân
Ai tìm lời hay.
KHEN NGỢI BỒ-TÁT ĐÀM-VÔ-KIỆT
Vực sâu êm êm
Đạo huyền cùng tận
Như biển lớn kia
Trăm sông đều dẫn
Bờ không đợi bến
Đường vô toàn chẩn
Ba dòng mở nguồn
Nơi đây cùng dứt
KHEN NGỢI NIỆM PHẬT
Đẹp thay Chánh giác
Thể thần do không
Động không có bờ
Tĩnh không lân hư
Hóa mà chẳng biến
Tượng mà không mẫu
Chiếu chân tánh kia
Soi các thô kia.
MƯỜI HAI CHƯƠNG: PHÁP LẠC TỪ
(Đời Tề, Vương Nguyên Trường)
Trời dài mạng tự ngắn
Đời ngắn đạo thênh thang
Đường thiền xe rộng xa
Biển ái thuyền loạn khinh
Lụy trần chưa hề hết
Tâm thọ đâu đếm được
Bụi trần dùng gì rửa
Nước chánh có dòng trong.
HỮU CA BỔN KHỞI
Trăm thần rất cung kính
Ba linh sớm vượt qua
Thường chiếu khắp phương nêu
Huân phong động lan nguyện
Chu vinh tạo ao ngọc
Lông chim tô ngọc khuyết
Hạo thuế không luống đến
Giao luân đâu luống khởi.
HỮU CA LINH THỤY
Đã giữa xuân năm tốt
Sao sáng chưa nửa đêm
Thiên tự chung ngơi nghỉ
Muôn nước từng tốt đẹp
Kim thân giúp cảnh tối
Tóc đẹp mang thần quang
Biểu trần chỉ tịnh giác
Phàm tục là luân hoàng.
HỮU CA HẠ SINH
Nhận khí biến lìa cung
Trùng khác kính tầng điện
Tiếng ngân cảm tâm thần
Thân tu khởi vui vẻ
Sinh già rồi luân hồi
Bệnh chết đang bước đi
Mới là đến nước tịnh
Đâu kết ách thành luyến.
HỮU CA TẠI CUNG
Cành xuân nhiều bệnh yểu
Lá thu ít tốt tươi
Thân tâm trọn tàn diệt
Thân ái tạm thời sinh
Gió mạnh thổi Bắc Lũng
Nước mạnh gấp Đông Lay
Biết ba tình đã vui
Được một thên bền vững.
HỮU CA BỐN DU
Phi sách từ quốc môn
Đoan nghi yển giao thọ
Từ ái luống nghĩ nhau
Trong phòng không luyến mến
Phong lệ trái vãng đồ
Chân ngựa một đường về
Giơ tay tạm biệt người
Đắc đạo lại trở về.
HỮU CA XUẤT QUỐC
Minh tâm mở mười phương
Tịch lự chung bốn thiền
Chim xanh nương vết ẩn
Văn ly cảnh trọng xuyên
Thứu nham tiêu viễn thắng
Lộc dã cứu thanh huyền
Không hy vọng của báu
Làm sao dắt mông tuyền.
HỮU CA ĐẮC ĐẠO
Đình đình cao tới mây
Ngất ngưỡng thần sương kết
Trên sông không bồi hồi
Giữa cành đều biến diệt
Linh trí vắng thường nhiên
Phù ứng có đủ thiếu
Cảm vận lại có nghi
Nhàm chán cõi nhân gian.
HỮU CA SONG THỌ
Xuân sơn ngọc đã chứa
Đàn lâm cỏ đã rậm
Dẫn lửa về đốt cháy
Rót nước từ đê trong
Vườn nhà chẳng vết khác
Kỳ quan có đồng bạn
Ngang nhau không xưa nay
Tiếp Võ há Yến, Tề.
HỮU CA HIỀN CHÚNG
Xưa ông khinh năm tháng
Đây cũng trọng thời gian
Trong phòng bỏ diên đại
Dưới cửa bỏ trâm anh
Thiền duyệt gồm phương chỉ
Pháp hỉ quên cầm thanh
Một khác không thể nói
Vinh nục gì là tâm.
HỮU CA HỌC ĐỒ
Cao lớn đến hư không
Xa xôi tận gió xa
Đằng phương thanh Hán lý
Tiếng Phạm cao trong mây
Hoa vàng thật tốt tươi
Cây huỳnh đây hành xanh
Tâm thành duyên cảnh tịnh
Nghiệp sâu nối Thiên cung.
HỮU CA CUNG CỤ
Bóng tiếng không hề cách
Tối sáng đâu có gần
Hoằng từ gần rồi xa
Tuệ hậu phiến cao trần
Trong cõi đề phước lớn
Ngoài nước thấm nhân sâu
Muôn năm giữ phước nước
Ức triệu vui dân Đường
HỮU CA PHƯỚC ỨNG
Chùa Tê Huyền nghe giảng xong đến các phủ, cộng bảy vận ứng từ đồ giáo (Vương Dung đời Tề):
Nghiệp đạo hơn xa đây
Tâm địa nhàn hay rỗi
Quế cháy uất sơ tải
Lan trì thản tương bích
Hư diêm đối trường tự
Mái cao lâm quảng dịch
Phương thảo liệt thành hàng
Cây gia phân như tích
Gió thổi chuyển hoàn kích
Khói trong khói rộng đá cứng
Mặt trời gá chiếu hồng
Thông ánh thủy hoa bích
Sướng tai nhân ngoại thưởng
Trì trì xuân sắp tối.
THƠ THUẬT BA GIÁO CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
Lúc nhỏ học Khổng, Chu
Hai mươi rành sáu kinh
Hiếu nghĩa và phương sách
Nhân thứ Mãn Đan Thanh
Tiễn ngôn quý khứ phạt
Làm lành nơi thích sống
Trung niên xem sách đạo
Có tên và không tên
Diệu thuật chạm bảng vàng
Chân ngôn ẩn thượng thanh
Mật hạnh quý âm đức
Hiển chứng lúc trưởng thành
Tuổi già xem sách Phật
Như trăng soi các sao
Khổ tập mới hiểu biết
Nhân quả mới rành rõ
Giáo pháp chỉ bình đẳng
Chí lý quy vô sinh
Căn phân biệt khó đồng
Tánh chấp trước dễ sợ
Tột nguồn không hai tánh
Việc lành không ba anh
Cây xuân lớn ức thước
Cỏ nhỏ tài vân manh
Mây nhiều giáng mưa lớn
Tùy phần đều được tốt
Tâm tưởng khởi hiểu khác
Báo ứng có hình lạ
Sai biệt đâu tác ý
Sâu cạn vốn vật tình.
ĐỜI ĐƯỜNG, THÁI TỬ CHIÊU MINH LÀM THƠ “PHÁP HỘI CHÙA KHAI THIỆN”
Chim đậu vẫn chưa bay
Mạng giá xuất sơn trang
Khuất khúc lên lĩnh ngựa
Xen nhau vào ruột dê
Vừa thấy nguồn rậm rạp
Dần thấy núi xanh xanh
Sao rơi vùi cây xa
Sương móc khởi ánh trời
Ao âm túc tảo nhạn
Gió lạnh giục sương đêm
Đất này tin nhàn tịch
Thanh tịnh chỉ đạo tràng
Cây ngọc nước lưu ly
Màn lông vũ, giường vàng
Quế đỏ, đất san hô
Cờ thần, ngọc trăng sáng
Khiên la xuống thềm đá
Phan quế dựa thân tùng
Khe nghiêng trời sắp lặn
Khói sinh lầu nửa tạng
Ngàn năm có gì xa
Trăm đời quy ngã cùng
Gương vắng lặng vô phương
Pháp luân nhà tối sáng
Biển tuệ vượt thuyền từ
Trần căn lâu chưa gội
Thấm nhuần dũ ánh sáng
PHÙ ĐỒ CHÙA ĐỒNG THÁI CỦA GIẢN VĂN VỌNG
Xa thấy Quan Phật đồ
Ngọc bích lại rũ châu
Chúc quân vượt Hán Nhữ
Bảo dịch mại Côn Ngô
Trời sáng tia ánh tỏa
Phong ngâm cung riêng khác
Lộ rơi đầy Bàn hằng
Đồng sinh phụng dẫn chim
Cờ bay xen cầu vồng
Họa ô hiệp thần oan
Phạm thế lăng dưới không
Ứng chân tệ cảnh xu
Đế mã đều ngàn dây
Thiên y đều sáu thù
Ý vui khai biểu dài
Món báu hiện toàn thân
Khiến cho qua biển khổ
Lại khiến vượt ngã mạn
Nguyện hay đồng bốn nhẫn
Thường ra khỏi chín cõi.
VƯƠNG HUẤN PHỤNG HÒA
Phó quân ngồi bay quán
Bêu thành thuộc rừng lớn
Cửa vua tuy thông suốt
Lộ tháp lại ngàn tầm
Trúng lô xuất hán biểu
Tằng cung mạo vân tâm
Côn sơn ngọc chạm khắc
Nước đẹp vàng ánh sáng
Thuyền bàn đồng sương tay
Phụng đáp tợ thú bay
Trăng lặn thềm tây ám
Mặt trời đi đông xâm
Ngược dòng khai quyến thuộc
Ngọn bút động áo thần
Nguyện nương thuyền trở lại
Ra hẳn khỏi sông ái.
PHỤNG HÒA CỦA VƯƠNG ĐÀI KHANH
Ánh sáng thật xán lạn
Tháp vọt lên ngàn trượng
Nghi phụng khác chim linh
Kim bàn thay tay tiên
Tích củng thừa điêu giác
Mái cao đỡ mành châu
Đất báu như cát ao
Chuông reng như tiếng cây
Khoảnh khắc sinh ngàn biến
Nét vẽ họa muôn tượng
Sương mù lúc có, không
Thần tiên chợt đến đi
Sương sáng nửa tầng sinh
Cờ bay tiếp trên mây
Nghê đi đâu dám dừng
Gà bay đâu thể ngước
Khen lành giúp triết nhân
Lưu vịnh quy minh lưỡng
Nguyện nương thuyền bè kia
Bờ kia ai nói rộng.
PHỤNG HÒA CỦA DỮU TÍN
Xa xa lên bầu trời
Chiếu điện gần Đông kinh
Bóng dài đến hai cửa
Cao vượt quá chín thành
Cũng tích hành vân ngại
Phướn động làm chim sợ
Phụng bay như mới đậu
Sen nở như mới mọc
Luân trọng đối trăng tròn
Tiếng chuông giống tiếng loan
Vẽ dòng nước toàn chảy
Họa sắc mây nửa nhẹ
Bày vãng bàn như giọt (nước)
Ngọc vào lửa lại sáng
Tùy vọng uyển rộng lớn
Lại tiếp thành cát bạc
Dưới điện quế Thiên hương
Tiên Phạm nhập y sinh
Nghe tám món giải thoát
Mới bỏ sáu trần tình.
ĐÊM NHÌN TƯỚNG LUÂN TRÊN THÁP, GIẢN VĂN
Ánh sáng rõ phụng đáp
Trong sương thấy loan bay
Định dụng nước hương chư
Trì thiểm thừa lộ bàn.
PHÚ VỊNH NĂM ẤM THỨC CHI CỦA GIẢN VĂN
Nước chảy cuộn thần nhân
Tâm hình lại nương sắc
Sóng dục theo tình bay
Lưới ái tùy tâm kéo
Vàng đúc tuy đổi hình
Trảm trù phương vị cực
Bồ câu xem không rõ
Vượn vịn đây đâu dừng.
LƯU XƯỚC PHÚ VỊNH BÁCH LUẬN XẢ TỘI PHƯỚC
Tìm nhân, đường bèn khác
Và bỏ đường vẫn cùng
Tột khổ trở lại vui
Tột vui khổ lại sinh
Há không luân hồi ái
Đều mê đắm ở tình
Mỗi mỗi biết tấm tướng
Nhiễm lạc pháp lưu thanh.
GIẢN VĂN, MÔNG HOA LÂM GIỚI
Người ngu đắm thế lạc
Tục sĩ trọng hư danh
Ba không đã khó rõ
Tám gió thường dễ nghiêng
Người ta đều đồng vật
Vốn tự một khô, tươi
Tuổi già ưa cô đơn
Do sau thọ bá thành
Phi vi ưa phì độn
Trì thị yểm phùng nghênh
Cầm ngọc giữ nước Phiên
Chủ khí làm nguyên trinh
Ngày xưa vẽ chữ bạc
Lâu tự thẹn tông anh
Đây há đeo ấn vàng
Do đâu đức rộng lớn
Ở cao thường lo thiếu
Cầm đủ hay sợ đầy
Đây nói tin không mạnh
Lòng son tốt đáng nói
Ghe thuyền phụng lời dạy
Dắt dẫn giáng hoàng tình
Đèn tâm sáng nhà tối
Thuyền chắc ra biển ái
Tiết đây cao thu vãng
Khí trời mênh mông trong
Giao môn quang cảnh đẹp
Cầu năm mây móc sinh
Trong sen đỏ thanh tỏa
Sương tím ướt nhà đỏ
Diệp mới qua kính sơn
Suối chảy reo quanh núi
Áo xanh nương ven sông
Trán đỏ phát trong rừng
Được tám thứ giải thoát
Mới khiến sáu trần nhẹ
Khi nghe thì bỏ được
Không xả bỏ trọng thành.
GIẢN VĂN, MÔNG DỰ SÁM TRỰC SỚ VÀ HỌA (5 BÀI)
Hoàng tinh thương huyễn tục
Thánh đức xót kẻ mê
Chế sách khai nhiếp thọ
Tơ nhỏ rộng tuệ môn
Xưa, anh hùng đầy nước
Bạn pháp thạnh cõi trời
Lấp hết phược năm đường
Cùng dẹp oán bốn loài
Ba tu trừ ngựa ý
Sáu niệm tịnh tâm vượn
Sân rộng rừng đẹp đẽ
Đất lặng chim hót ca
Trên gió thổi ốc pháp
Chuông reo nơi mái hiên
Mai mới đều chưa nở
Quế rụng nhóm trở lại
Khói sớm chứa thềm đá
Thủy triều ngâm cửa sông
Một sớm khéo dẫn dụ
Mới mong khỏi lồng chim
LƯƠNG VÕ ĐẾ HỌA
Ngọc tuyền lậu đã hết
Cửa vàng sáng chưa thành…
VƯƠNG QUÂN ỨNG CHIẾU VÀ LỜI TỰA
Hoàng Thái tử, thơ phụng hòa sám hối. Bèn dâng Hoàng Thần, tột Thánh chỉ tức sớ hàng, cùng chỗ dùng mười vận tâm rộng lớn vui mừng chưa từng có vội sưu tầm các vận khác liền nêu lỗi lầm:
Nhất thánh trí sánh sáng
Đức vua sáng bốn biển
Gánh vác thật du thuộc
Độ thoát thật ở đây
Sám thuyết tề mông ngu
Suy tâm trừ khinh khi
Danh tăng dẫn định tuệ
Triêu anh nêu nguyên khải
Hoàn mê nhờ người lành
Phản tâm do chân thật
Hòa linh lẫn thổi âm
Phướn đẹp sáng màu tuyết
Bèo sáng muốn rút lá
Bụi tre muốn rũ cành
Hết lòng thương xót đến
Lòng thành tin gấp bội
Đẹp đẽ như sương mù
Hoa lan như hạt châu
Dẫn dụ muốn kế tục
Xá hào quỷ văn thái
THÁI TỬ CHIÊU MINH GIẢNG TỊCH SẮP XONG PHÚ BA MƯƠI VẬN Y THEO THỨ LỚP DÙNG
Pháp uyển gọi gia nại
Vườn này trúc đẹp dài
Linh giác vời ảnh nhau
Thần tiên và tê túc
Tuệ nghĩa sánh ngọc quỳnh
Huân nhiễm dụ lan cúc
Lý huyền sánh mười kế
Công sâu như chín nhà
Hoa thủy sợ ghe bạc
Phương cù xếp trục vàng
Lời nói dứt đã lâu
Phiền lao ràng buộc nhiều
Do đây mở mây tuệ
Muốn cho phục tâm trần
Tám nước nhuần tiêu nha
Ba minh mở các mắt
Chuông báu sáng không đều
Danh hương tối ngào ngạt
Tạm bỏ sáu xe ngựa
Bỏ đi hai xúc này
Cây ý tu hoa trời
Sen lòng nghe thơm phức
Đây dụ biển khơi động
Như trái Am-la chín
Diệu trí như gấm màu
Lời thâm đồng sương mốc
Khéo học đồng Phạm trảo
Chân ngôn khác tâm đồng
Thấu suốt bao gồm thành
Ngọc trúc bày vàng rực
Châu hoa rợp tám khe
Dòng ngọc thông chín hang
Thú xanh chợt xuống lên
Nhạn trời bay trở lại
Nói lớn thuộc lúc nghe
Ít nghe luống tự thẹn
Trời sáng tổ uyên ương
Gió qua nhà nhền nhện
Hoa rơi rải hương xa
Mây nổi cuốn loài xa
Sông rộng đồng vườn voi
Trung thừa như dừng riêng
Lửa sau khó vững chắc
Sơ tâm dễ lui sụt
Nên phải lìa hoa nước
Chẳng nên trái cây sơn
Núi cao không đáng quý
Rừng rậm đâu thể giữ (yên)
Khí nguyệt ít giữ bóng
Tâm khôi nhiều phương khác
Thấy ái đồng tìm ong
Dạo thiện như nguyên thục
Tám ấm núi tiên nhân
Bốn sáu thần long úc
Dược thọ thường rậm rạp
Cành thiền đâu điêu khắc
Nhờ đây vui nghe đạo
Hầu bỏ được lo lắng
Nguyện truy lộ xe báu
Thoát lý thân suy cốc.
VĂN GIẢN, RA GIẢNG CHÙA HƯNG NGHIỆP
Mộc phương sớm mang lấy
Giá ngôn chỉ tịnh cung,
Hai cánh còn in bóng
Nạo thổi tạp hoàn phong
Ngô qua hạ bắn tên
Ngựa ký ghi thẩm cung
Nước chiếu liễu xanh rờn
Khói bay đào hồng lợt
Do có sáu trần phược
Từ lâu năm triền che
Thấy Hạc luống biết lầm
Xét voi lý khó đồng
Mới biết thẹn bốn biện
Đâu thể nói ba không.
LƯƠNG NGUYÊN ĐẾ HÒA LƯU THƯỢNG THƯ THỊ NGŨ MINH TẬP
Đức vua thấm cõi nước
Rũ áo bày thái bình
Huỳnh đường thẹn mậu thật
Con tợ thẹn tiếng hay
Trị gia bày năm lễ
Công thành tấu sáu anh
Hấp dẫn lưu thần giám
Ghe thuyền động thấu tình
Pháp vương chỉ một pháp
Vô sinh tin bất sinh
Nhân nhân từ đây thấy
Quả quả từ đây rõ
Nguyên lương ngưỡng phó hậu
Hàm nhất chấn hồng danh
Quy tạng du khải thệ
Lỗ lại quan xuân khanh
Cung nhật đẹp khí này
Điện nguyệt khéo gió mát
Khí tiền tệ Tây quán
Màn che cuốn nam vinh
Cửa vàng luyện trống sáng
Bầu ngọc nghỉ canh đêm
Cung quý lưu hiểu hợp
Thành ô xâm thự minh
Lộ quang trên cành động
Bóng ráng trong nước nhạt
Kém cõi nay việc gì
Luống biết luyến pháp thành.
THƠ CHUNG SƠN GIẢNG GIẢI VÀ HỌA THEO CỦA THÁI TỬ CHIÊU MINH
Chung Nam gần cửa Hán
Cao chưởng vượt chu kinh
Đây lại thiếu Thiên lãnh
Khung long cách thành vua
Ngay đường lập quán châu
Lâm hạ dựng sơn doanh
Nam nhìn tận sông Hoài
Bắc ngắm tới sông Thương
Bộ đam thời trung túc
Phi giai hoặc thượng chánh
Nhà cửa họa vân khí
Trang thất vẽ tiên linh
Phó quân thương lưới đời
Quảng mạng tụy nhân anh
Đạo diên chung hậu nói
Loa bí xuất giao hướng
Vân phong hưởng lưu xuy
Thông dã ánh phong tinh
Duệ tâm gia đổ nhược
Thần tháo mậu lâm quỳnh
Đa tạ tiên thánh thường
Không ban hậu thừa vịnh.
TIÊU TỬ HIỂN PHỤNG HÒA
Tung Nhạc dựng chữ xưa
Bàn lãnh vượt Nam kinh
Tâm sáng trọng thiền thất
Ngựa chạy vượt quá thành
Xe vàng từ từ chạy
Ngựa kiềm nhảy lại hí
Đồ phương sau trần hợp
Địa huýnh trước già thanh
Quanh co do đài thọ
Không bằng bởi cờ bay
Cao tùy gió thổi lớn
Thế cùng nguyên thiên tinh
Khí hiết liên thông xa
Vân thăng thu dã bình
Bồi hồi đến thôn ấp
Trong ngoài thấy sông Hoài
Quả báo tôn thường trụ
Cạn tuệ ở vô sinh
Tạm giữ phép núi đá
Muốn biết phương đỗ tình
Đảnh lễ nhờ vui mừng
Chiêm ngưỡng nghe tiếng tụng.
LƯU HIẾU XƯỚC HÒA
Ngự hạc bay y thủy
Sách Mã ra vương điền
Ta dạo nơi Kỳ Thứu
Sánh việc thật sáng suốt
Dù đẹp che cảnh sớm
Cờ Châu kéo khói sáng
Lầu trước đẹp hang núi
Đề tổ đẹp rừng, ruộng
Huống ở đất đăng lâm
Lại đến gió mùa thu
Nhánh cao biến trăm hoa
U nhàn sạch sông suối
Đình loan đối tòa báu
Biện luận vui trời người
Yểm trần giúp nước biển
Chiều tối nhờ đốt đèn
Pháp bằng nhất dĩ tán
Già kiếm nghiễm tương toàn
Gặp gỡ nhiều tốt đẹp
Nương nơi bạn hiền tài
Lồi khéo tuy gồm dạy
Ân hận riêng bài cuối.
LƯU HIẾU NGHI PHỤNG HÒA
Vui đẹp đến mái Đông
Xe cộ đến vườn Tây
Tuy tột lễ dạo chơi
Trọn vì trần tục ồn
Đâu bằng hoằng bảy giác
Giơ linh khởi bốn cửa
Khí đêm sạch ống sáo
Trận sáng sớm giao nguyên
Gió núi loạn Thái mạo
Sơ cảnh đẹp văn viên
Lâm khai tiền kỵ sính
Kỉnh khúc vũ toàn truân
Yên bích phù chim xanh
Thạch lại hưởng phi bôn
Hồi tình dưới lầu gác
Hàng đạo phát chân nguyên
Bàn không đủ suối chảy
Chuế tảo mại huyền phồn
Khinh sinh gặp quá lầm
Linh tác liễn rồng chim
Nguyện dĩ đồng chim tước
Hà dụng ấp cù tôn.
BÁT QUAN TRAI DẠ PHÚ TỨ THÀNH MÔN LẠI SOẠN BỐN BÀI SƯU TẬP NGÔ ĐỆ NHẤT PHÚ VẬN ĐÔNG THÀNH MÔN BỆNH
Kính yêu ánh sáng kia
A triền sinh dễ bẻ
Vô nhân tuyết cỏ bờ
Lự trái Mang sơn huyệt
Khô cạn da, sáu tạng
Đau đớn các thân phần
Làm sao trong xúx linh
Lo khổ không tạm dừng.
MÔN GIÀ Ở PHÍA NAM THÀNH
Hư tiêu thật dễ phạm
Ách Đằng lại sẽ đứt
Thường tùy kha đã ít
Năm nay tin trường quyết
Đã đồng Ngựa non đi
Lại giống hoa hồng tàn
Một hôm, nghiên hanh bỏ
Cô đăng hành tự lập.
MÔN CHẾT Ở PHÍA TÂY THÀNH
Tâm chậm tuy đã khác
Cảnh diệt đâu hơn kém
Tùy theo gió nghiệp hết
Đều trở về luống dối
Năm ấm thật là giả
Sáu đường đâu có đứt
Suy tàn đều trở về
Ưu tư không kết nhau
CỬA SA-MÔN PHÍA BẮC THÀNH
Tục huyễn sinh ảnh không
Ưu nhiễu tâm trần tối
Ở đây trừ bốn triền
Bỏ đó, cầu Niết-bàn
Người học sau để tâm
Mới từ sâu xa khác
Đã buồn cảnh tướng không
Lại làm mây huyễn diệt
BÀI PHÚ THỨ HAI CỬA THÀNH PHÍA ĐÔNG – BỆNH
Không bệnh thật dễ lành
Bị bệnh nên có khỏi
Luống biết lợi năm màu
Trọn buồn rơi chín suối
Đã thông tuyết, sơn thảo
Bệnh nặng có ai thương
Lại lo chìm biển khổ
Do đâu quả Tịnh Thiên.
CỬA THÀNH PHÍA NAM – GIÀ
Xưa giống sen màu hồng
Tựa ở bênh ao trong
Nay như cây hoa trắng
Lại buồn trước gương sáng
Ba trẻ muốn ở đâu
Ngày khác dời về Tây
Thanh tôn không còn vui
Bồng tẩn khởi lại nghiên
CỬA THÀNH PHÍA TÂY – CHẾT
Cao đường tin bạn nghịch
Lý nghiệp hoại thường lôi
Ngọc hạp mới ủy sấn
Đài vàng không còn dài
Vãn thinh theo gần xa
La ảnh mang thông treo
Đâu thể giữ mười niệm
Chì ứng theo bốn duyên
CỬA THÀNH PHÍA BẮC – SA MÔN
Kinh hành dưới rừng cây
Cầu đạo chí bền vững
Đã có sức thần thông
Chấn tích xa ngược khói
Một là bốn nguyện rộng
Chí đạo đâu thể đắm
Không thể thọ nhiều kiếp
Bất luận năm dài ngắn
THỨ 3: CỬA THÀNH PHÍA ĐÔNG – BỆNH
Bệnh triền miên trăm năm
Tự thương không năm phước
Tươi mãi vẽ hòm rắn
Không gặp Nai vị tiên
Tạp khí mê hình vẽ
Nằm ngồi cầu ngủ nghỉ
La Nhu khởi tái hoan
Lâm chi phương sĩ mộc.
CỬA THÀNH PHÍA NAM: GIÀ
Tuổi trẻ ưa hoa thêu
Suy mộ dần la nghị
Luống thương tuế nhiễm nhiễm
Bày thơ chẳng nhiều lắm
Tóc hạc từ hiên miện
Đài bối nấu với tiêu
Thông bách vừa nương nhau
Yêu thích mấy lúc hòa
CỬA THÀNH PHÍA TÂY – CHẾT
Nhớ nghĩ lúc bình thường
Ngao du vườn Thượng Uyển
Thường ở dưới thông bách
Xuân quang luôn sáng tươi
Kết căn tố nhân quả
Nhánh lá duyên xương thịt
Tự nên như loa ốc
Thẳng đây theo gió dao
CỬA SA-MÔN Ở THÀNH PHÍA BẮC
Ở đời chán ràng buộc
Nhờ ruộng có lúa ngon
Thường mặc áo nhẫn nhục
Bỏ đây mặc tơ lụa
Nguyện dắt chúng ba đường
Khiến điều phục mười sử
Châu nguyệt như trầm thủ
Thìa vàng chưa cạo mắt
THỨ TƯ: CỬA THÀNH PHÍA ĐÔNG BỆNH
Lụa tím chưa có được
Sông Chương luống lại xa
Vừa gặp bệnh thái mã
Bí dục bỏ chạy theo
Đã không chín chuyển thuật
Lại thiếu muôn vàng lạ
Không xem trao cương chưởng
Chỉ mộng ao hoa sen
CỬA THÀNH PHÍA NAM: GIÀ
Ngày trẻ ca hát
Nhìn lại tiếc dung nghi
Một mai già yếu đến
Tóc bạc rũ trắng xóa
Đã thương muôn việc hết
Lại nhớ đến chín cửa
Thừa hiên ý ở đâu
Ngồi một mình như vậy.
CỬA THÀNH PHÍA TÂY: CHẾT
Một hơi thở nay dứt
Bình sinh đâu khuôn phép
Ngày dài hiểu lộ xúc
Ngàn năm ai có biết.
Nhà đẹp một khi bỏ
Màn thông thật khó nhìn
Muôn năm cất châu ứng
Ngàn năm thôi ngọc kỳ.
CỬA THÀNH PHÍA BẮC – SA-MÔN
Thâm tâm không thể nhiễm
Chánh đạo cũng khó khăn
Mới dứt khổ năm dục
Và bỏ ba tà cách (ách).
CỬA THÀNH PHÍA NAM: GIÀ
Tuổi nhỏ ưa lụa hoa
Ngày sau đến Tây thiên
Ngọc hạp phương ủy khái
Đài vàng không kéo dài
Nương không lự khó tĩnh
Tập đường lành cũng vậy
Bỏ thân không nương gá
Một chén đâu đợi lường.
THƠ NHIÊN ĐĂNG NGÀY MỒNG TÁM THÁNG GIÊNG
Ta thọ giao vô cực
Hoa vân y số trọng
Chức trúc năng vi tượng
Phược địch khéo thành long
Rơi như tro nhị thạnh
Rải dầu ướt vẽ núi
Thiên cung bỗng nhiên thấy
Đăng vương nguyện sẽ gặp.
GIẢN VĂN DU QUANG TRẠCH
Bách tía rũ liễu xanh
Hòe nhẹ phất gió tuệ
Tám suối sáng nương cây
Bốn quế noãn lâm không
Thúy võng tùy yên bích
Chu hoa cộng ngày hồng
Phương vui bủa mây rộng
Sáng từ lưu tịnh cung.
ĐỜI LƯƠNG, GIẢN VĂN Ở U TRẬP, CẦM BÚT SOẠN TỰA RẰNG:
Chánh sĩ đời Lương
Giản lăng tiêu cương
Lập thân hạnh rồi
Trước sau như một
Gió mưa đêm tối
Chim kêu không thôi
Chẳng khinh nhà tối
Huống lại ba sáng
Nhiều đến như thế
Mạng cũng ra sao
LẠI LÀM LIÊN CHÂU (BA BÀI)
Bài một:
Tôi nghe có người xưa giàu mà nay nghèo. Có thể gọi nhiều mà giúp cho thì ít. Đây là do độ tố dưới lầu, có riêng suy thần. Thông bách kiều nam không dư bạch xã.
Bài hai:
Tôi nghe nói có thể che lấp. Lòng nhân có thể nuôi chúng sinh. Đây là vì muốn coi thường sự chết kia. Có đức thì sẽ sáng. Binh giẫm nơi nghĩa, không nghĩ chẳng phục.
Bài ba:
Nghe có đạo hạnh thì năm phước đều tốt. Vận hạ thì sáu cực vang xa, đây là do: Lân xuất mà thương, đâu chỉ Khổng Tử, đường cùng thì thương. Đâu chỉ nối tông.
LẠI LÀM THƠ RẰNG:
Hốt hoảng sương mù tan
Vi vu thông bách rợp
Núi sâu bạch dương xưa
Đường vắng trần vàng sâu
Không hề ngàn mặt trăng
Đâu có chín vàng đỏ
Trong cửa thường chìm mất
Trời xanh soi chiếu tâm.
Tháng 10 bị giết ở tỉnh Vĩnh Phúc, băng hà vào năm bốn mươi chín tuổi. Khi băng hà nhằm niên hiệu Thái Thanh thư năm.
THƠ LÂM CHUNG CỦA TẠ LINH VẬN ĐỜI TỐNG
Cung Thắng có để lại
Nghiệp quý không cùng tận
Khê Sưu lý đã vội
Hoắc Tử mạng cũng mất
Thê thê hậu sương bách
Nạp nạp xung gió khuẩn
Gặp gỡ cũng có lúc
Tu ngắn chẳng chỗ thương
Hận ta chí quân tử
Không được chết trên núi
Tống tâm trước chánh giác
Bệnh này chịu đã lâu
Chỉ mong muốn đời sau
Oán thân đồng tâm trẫm.
LỜI BIỂU, LÚC LÂM CHUNG CỦA THẨM ẨN HẦU
Thần Ước nói:
Thần bị bệnh đã lâu
Đến nay thì hóa
Hình thần sắp lìa
Đã được mười tháng
Thân rất đau đớn
Không gì dụ được
Bình thường lúc khỏe
Không nói lời này
Dơ tay ngồi kiếm
So đây là nhẹ
Kính mong thâm nhập pháp môn
Bệnh này đau đớn
Trong thương ngoài thứ
Thật vốn nhân tình
Cúi xin Thánh tâm
Trọng gia suy rộng
Thần lúc qua đời
Không còn ân hận
Tuy dần dã tốt
Cũng vẫn kêu buồn
Kính khải
THƠ LÂM CHUNG CỦA THÍCH TRÍ KHẢI, SA-MÔN ĐỜI TRẦN
Ngàn tháng vốn khó đủ
Ba thời lý dễ khuynh
Đá lửa không thường cháy
Sấm sét đâu sáng lâu
Di văn không đầy ống
Như vậy đời sau mê
Suối vàng mới u nghẹn
Thung lũng vừa se lạnh
Một sáng sương lộ hết
Đêm chỉ có tiếng thông.
ĐỜI TRẦN, GIANG TỔNG VÀO CHÙA THÊ HÀ Ở NHIẾP SƠN VÀ BÀI TỰA (1 bài)
Ngày mười tám tháng mười năm Nhâm dần, vào chùa Thê Hà ở Nhiếp Sơn. Lên đỉnh núi cao, trong lòng rất vui.
Ngày 2 tháng 10 năm Quý mão, năm đầu niên hiệu Chí Đức, lại đến chùa này. Pháp sư Bố truyền giới Bồ-tát. Ngày 2 tháng 10 năm Giáp Thìn, kính dâng tượng vàng. Trở về núi, thời gian công việc có giới hạn, không được ở lâu.
Ngày 1 tháng 11 năm Ất tỵ, lại được lễ bái, bèn ngủ lại trong núi. Hằng đêm quyến luyến thê thần theo nghe. Nhưng luôn tay không ngừng, củi trên tay buông, vội tiếp bài này ghi làm mục lục, người đời sau biết chí của tôi.
Tâm tĩnh chứa băng tuyết
Mộ xỉ bách dâu du
Thái tức ba xuyên tấn
Buồn thay câu nhân thế
Tế duật giai thải hoạch
Cuối cùng cụ nghiêm khô
Trạc lưu rót tám nước
Khai khâm nhập bốn câu
Núi này linh diệu hợp
Nên cùng với trời đất
Thạch lại vừa sâu cạn
Khói núi lẫn hữu vô
Khuyết bi ngang xưa trục
Bàn mộc nằm giữa đường
Hành hành đã trải qua
Từng bước nghe khập khễnh
Cao tăng dấu càng xa
Thắng địa tâm hợp nhau
Tiều ẩn các hữu đắc
Chu thanh riêng chẳng vượt
Di phong chứa quế thơm
Sánh đức dụ sinh con
Ký ngôn khách đi xa
Thê nhiên thương kẻ hèn.
Ngày 12 tháng 11 niên hiệu Chí Đức, thăng đức thí sơn trai.
TAM TÚC QUYẾT ĐỊNH TỘI PHƯỚC SÁM HỐI
Bốn trí không cao tâm
Ba trí khởi u tâm
Phân biệt tránh nhân vật
Dừng nghỉ ở núi rừng
Khúc nhàn đình xu hưởng
Giao chi rơi mạn âm
Đài ao chứa tuyết đông
Cửa chuồng để súc về
Đá màu chẳng mới cũ
Ngọn núi đâu xưa nay
Xe lớn sao thăm thẳm
Ngựa bèn chạy xa xăm
Vì sao tu sáu niệm
Chí thành ở một tiếng
Chưa phiếm thuyền từ xa
Luống khiến nguyện biển sâu.
Chùa Thê Hà, Nhiếp Sơn. Sơn phòng dạ tọa giản từ tế tửu chu thượng thư tinh đồng du quần nhan giang linh công.
Thân sạch thờ châu giới
Chẳng phải học thuyền vàng
Thềm trăng thời gối ngang
Vân nhai túc giải yên
Mái phạm điều tâm dễ
Thiền đình dứt thì khó
Thạch gian dòng nước sạch
Song núi lá hết lạnh
Ông nghĩ xe Bắc Khuyết
Tôi tiếc mũ Đông Đô
Phiên sấu đêm chung tận
Đồng chí không bàng hoàng.
TỪ HIẾU KHẮC NGƯỠNG ĐỒNG LINH QUÂN NHIẾP SƠN CHÙA THÊ HÀ, SƠN PHÒNG DẠ TỌA SÁU VẬN
Giới đàn thanh thạch lộ
Linh tướng tử núi vàng
Ảnh tiến cáp quy y
Xan nghênh rồng che chở
Sáng sớm nói kệ thật
Đêm lạnh liễm sơ chung
Khê lan tịnh chứa ác
Nhân trí riêng theo khách
Năm thiền thanh tịnh lự
Bảy giác sạch trong tâm
Xin đối với nơi này
Thường nắm tay gặp nhau
TRẦN CHỦ ĐỒNG GIANG BỘC TẠ DU NHIẾP SƠN CHÙA THÊ HÀ
Khi tâm tể Bàn Khê
Chẳng liên quan Trúc Lâm
Thức Nhạc thông xanh sáng
Núi Kê mặt trời lặn
Trời sáng mây nổi ít
Núi trống trăng sáng sâu
Tàn phá bóng cây khô
Úa héo cây mây mưa
Thôn đêm sương chim bay
Đường gió lạnh vượn hú
Tự tìm đường xuất tục
Há đây muốn rút tâm.
ĐẾN CHÙA THÊ HÀ Ở NHIẾP SƠN VÀ LỜI TỰA
Niên hiệu Trinh Minh năm đầu thái tuế, ngày 19 tháng năm Đinh mùi, ngày Quý hợi, vào Nhiếp Sơn, Pháp sư Bố mở tuệ. Nhớ Tạ Linh Vận nhóm họp. Về núi cũ vào vách đá suy nghĩ.
Đạo nhân Đàm Long có một bài thơ, mười một vận nay soạn ra, để học chương lạc lễ
Khi mưa phùn đã tạnh
Đầu tháng tư mát mẻ
Ngủ đêm trong đồng trống
Vội lên tận đơn hà
Kính ngưỡng bậc cao đức
Kháng chí trần vật biểu
Ba thông suốt đã ngộ
Muôn điều có sao ít?
Trước sau tình đã gởi
Minh kỳ lượng không ít
Nương áo vào suối rừng
Mạch khí tối sáng mát
Gió thổi mặt lành lạnh
Đợi trăng lên sáng tỏ
Khói núi dứt đã xưa
Vân lộ bài chinh đảo
Đường tắt lân sâm trầm
Phan điều tích yểu đảo
Bình thường quên thị phi
Suy yếu đâu xót thương
Năm tịnh từ đây có
Bảy trần không ưu phiền.
NẰM TỊNH DƯỠNG Ở CHÙA THÊ HÀ VỌNG VỀ TỪ SÁT TỬU
(Giang Linh Công)
Dứt tục tục không bạn
Tu tâm, tâm tự sạch
Liên nhai chiều khí hợp
Hư vũ tối mây mù
Nằm sẵn bìm tiếp hộ
Đá xanh lâu thành thềm
Cây khen không có ý
Thú giỡn tợ quên tâm
Người xưa bày sáng hẹp
Tâm hẹn trái hang núi
Chỉ thương cây đỗ thơm
Có thể làm ta sạch.
TỪ TẾ TỬU HIẾU KHẮC NGƯỠNG HÒA LINH QUÂN
Thượng tể nói bốn không
Huýnh xe trong tám đạo
Đổng lương chứa mạch khí
Nghiêm trang đối nguyệt cung
Hương thơm đâu cần lửa
Hoa rụng không theo gió
Khe thông không dị quát
Thiền quế lưỡng phân tùng
Hư bạt thật là lụy
Do đâu bỗng đều đồng
Tạm thời trái sơn bắc
Có thể hướng đông tường.
Tháng giữa xuân niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai. Pháp sư Bố ở chùa Thê Hà, Nhiếp Sơn. Mỗ nhĩ thời chung. Tôi vào ngày 1 tháng này, kính vì sư, dân lập sám Niết-bàn, lại làm bài thơ này: Không thể đồng một quán
Sinh tử cũng một điều
Huống đây trừ diệt hết
Đâu thiết yếu ở đời
Nhân đạo lìa chúng sinh
Minh kỳ xuất thế xa
Quyến luyến vào gian khúc
Khi xưa đến đỉnh núi
Thạch lưu thùy liền dứt
Sương thông cũng tự tiêu
Trên núi mây đen nghịt
Ngoài hang sương phấp phới
Chớ nói không đại ẩn
Trở về tức sáng nay
NGÀY 13 THÁNG 2 NĂM CANH DẦN ĐẾN TINH XÁ NÚI HỔ KHƯU
Buông chèo thương hồi khúc
Tìm núi tịnh thấy nghe
Thường theo tánh cỏ thơm
Phải phân với người tục
Tháp miếu đều lưu động
Đài hoa bên núi thơm
Lồng kín xuất đam quế
Tản mạn nhiều mây trôi
Tình u khởi tuần vật
Chí xa dễ kinh người
Do đâu quen cá chim
Không mong khuất huyền huân
Giang Linh Công ghi rằng:
Ngài Tuệ Viễn ở núi Lô Sơn khi chưa xuất gia, bắn cung rất giỏi, bắn được một con Hạc trong hang Hạc, sau đó rình xem Hạc mẹ, thấy không động tịnh gì. Xem kỹ thì thấy nó đã chết trong hang, nghi rằng: Hạc mẹ kia vì thương con nên đã chết, mổ bụng ra thì thấy ruột đứt từng khúc. Pháp sư từ đó bỏ cung nỏ, phát tâm Bồ-đề.
Đời Tống, có ni sư Pháp Huỳnh, người phương Nam, không rõ nhân duyên xuất xứ. Thường hay ăn ngũ cốc. Không mặc tơ lụa, giới đức rất tôn nghiêm, thiền định được nhiều sự thông suốt, có đảnh lễ Tử Trương
Sử Quân ở Quảng Châu, liền được cung kính. Theo Sử Quân trở về nước Ngô. Lại theo xuất Tây, tự biết ngày mất. Sau khi chết chớ hiện trong quan tài, chỉ để cho chim quạ ăn, như vậy cho đến hết. Khiến cho vua y theo lời dặn đem vào rừng vắng, để bảy ngày bảy đêm, chim thú không dám xâm hạm đến thi hài, bèn đem về tẩn liệm. Con gái thứ tư của vong tổ Thân Sử Quân đến Huỳnh Ni thọ giới, sắc chỉ tôi ghi lại đó.
THƠ ĐẾN CHÙA HANG HỔ TRÊN NÚI CỦA TRẦN GIANG LINH
Trong trần chứa huyên lự
Ngoài vật bỏ các tình
Đất đây tin cao ráo
Gò cao in bờ ruộng
Xe đông đúc đi xa
Cờ phấp phới lơ lững
Tế tùng xiên nhiễu kinh
Nếu cao nữa tạng trời
Cây xưa không cành lá
Vùng vắng nhiều khói mù
Phân hoa xuất chim vàng
Treo đá dưới suối mới
Um tùm như song thọ
Thanh hư giống tám thiền
Gá thần trên đài tím
Buông ý bên mây trắng
Mất công than thuốc ít
Do đâu bằng năm lớn.
TRỊ TRUNG VƯƠNG HUÝNH PHỤNG HÒA
Cảnh đẹp nhiều thắng tích
Đạo tràng thật đất này
Tạo hóa vốn linh kỳ
Nhân công đều tạo tác
Hiên phòng bóng rợp nhau
Thềm cửa đều khác nhau
Cao sáng lưu duệ thưởng
Thanh tịnh thiền định sâu
Vui dạo cùng khắp núi
Nhờ xuân đến cỏ thơm
Hoa đẹp chiếm mắt người
Sơn thu chia đáng vui
Phong cảnh cùng hoa tươi
Nước, đá chiếu nhau đẹp
Tượng pháp không nhiễm trần
Chân Tăng dứt danh lợi
Cùng nhau đã phục tâm
Nghe đạo cùng khắc ý.
KÝ THẤT THAM QUÂN LĂNG TRÁC PHỤNG HÒA
Gà gáy động túy gia
Nại uyển quyện thần du
Tiêu đỏ vượt chín đạt
Dù xanh quá tầng lầu
Tuế hoa mãn áo thơm
Hồng thái bị xuân châu
Bảo xuy đến gió xa
Cờ bày ánh sáng nổi
Nhánh cao ẩn đường tắt
Suối quanh dòng nước nhẹ
Quanh co hoa cỏ hợp
Tiếng chim hót trong veo
Tiếng kim bàn thanh phạm
Tháp vọt ứng tiếng dùi
Mây tuệ mới bềnh bồng
Nước pháp đang lững lờ
Thật quy luống nhờ giáo
Tin hiểu thẹn khó dạy.
TIỀN THẦN HÌNH NGỤC THAM QUÂN KHỔNG ĐẢO
Thánh tình tưởng ngoài cõi
Chỉ giá ra Tây nam
Ngựa trước nghe phụng, quản
Xe sau động Rồng, tham
Dạo chơi chẳng nhàn hạ
Hang kín có khám linh
Gồm thấy người dứt tâm
Ngồi yên đầm trong sạch
Thiền thực đâu cần lúa
Áo mây không đợi tằm
Tần, Hạnh nhờ hang cốc
La, cát, leo, thông, nam
Tiếng chim từng êm đềm
Xuân huề thúy dục hàm
Hoặc tâm tùy giáo sai
Pháp vị cùng ban ơn
Nương nhờ tám giải thoát
Dứt hẳn tham sáu trần
CHÂU DÂN TIỀN SỬ HÌNH NGỤC THAM QUÂN VƯƠNG ĐÀI KHANH
Vua ta kính thắng đạo
Lời vua xin nghe theo
Xe lớn chuyển trục đỏ
Ngựa ô đạp tơ xanh
Kêng trong soi dù cao
Cây lớn cờ phất phới
Tân đồ phân tạp đạp
Cảnh vật đều nương tựa
Rường bay thông khe đạo
Hiên nhà tiếp nền núi
Rừng hoa đến thềm hướng
Chia chảy quanh ao cong
Ai nói không thắng cảnh
Mây núi riêng ở đây
Trần tình bởi dễ đắm
Nên đạo tánh khó tu
Nương ân phụng giáo nghĩa
Mới đáng mở thọ trì.
TÂY TÀO THƯ TÁ BÀO CHÍ TÙNG GIÁ CHÙA NÚI HỔ QUẬT
Thần tâm quyện vật tự
Phỏng đạo bặt trần hiêu
Rừng mới che bóng ra
Phong khứ quản thinh xa
Tức đồ nương cảnh đẹp
Thuế giá chỉ tiêu núi
Năm lại tiết là trọng
Khí đồng xanh mới thoảng
Lá ngắn sinh cây cao
Sơ hoa mọc cành sớm
Gió xa đối mây chìm
Khói bay lẫn mưa gió
Lại ở đây thiếu thốn
Ban tên cuối nhà Liêu
Nguyện nương khe liền sông
Kế ảnh đèn tuệ chiếu
Biết được báu trong áo
Đất từ bi mới nhiều.
TRẦN TÙNG SỰ HÀ XỨ SĨ NGÀY XUÂN THEO TƯỚNG QUÂN ĐẾN CHÙA NÚI
Lan đình chán tục thưởng
Nại Uyển ngắm hoa năm
Mới vào đường núi thơm
Liền gặp nhà, xe lửa.
Cửa từ vài chiếc lá
Cây đạo một rừng hoa
Tuy ngộ chuộc ách đằng
Trọn thương ở rương rắn
PHÁP SƯ BIỆT TÀI Ở TƯƠNG VỀ DĨNH BẮC (3 bài)
Nương các việc sắp xa
Cầm áo bỗng buồn bã
Nam Sở trường sa hẹp
Tây Phù đường sá xa
Lìa đình hoa đã rơi
Thú riêng mã tân kiêu
Mặt trời chia ngàn dặm
Tương tư không một điều
PHÁP SƯ KÍNH HUẤN GIẢI TẶNG
Tiêu biểu Đạo lâm tục
Tăng Tuệ Viễn núi Lô
Mãi sơn tức cao thế
Ngồi trên chén qua sông
Mưa pháp thường thường rơi
Mây thơm thật nhiều đám
Giống như sắp vũ hóa
Đến giúp ở trần la.
THIÊN “THÔNG SĨ NHÂN”
Cung rồng đã nhập đạo
Cửa phụng bỏ vinh hoa
Khám thiền tám tưởng tịnh
Hang nghĩa bốn trần nhẹ
Lọng thơm, mây pháp khởi
Đèn hoa lửa tuệ sáng
Tự nhiên quên chấp trước
Chẳng chỉ ngộ vô sinh.
TRẦN THẨM HUÝNH TÙNG ĐẾN CHÙA THIÊN TRUNG THIÊN, ỨNG LINH
Đất phước cỏ mới mọc
Danh tăng cùng đến đây
Dương chi sinh cây chung
Tích trượng chú dòng thác
Tòa đá giảng buổi sáng
Khám núi đêm ngồi thiền
Chẳng phải nước Xá-vệ
Bán đất lấy vàng bạc
ĐỒNG SƯU TRUNG THỨ KIÊN NGÔ CHU XỨ SĨ HOẰNG NHƯỢNG ĐẾN CHÙA MINH KHÁNH
Linh Thứu ba tầng tháp
Yêm Viên một giảng đường
Chim thuần theo tiếng khánh
Thú quen nhiễu giường thiền
Đính cúc núi không rượu
Thông ban đêm có hương
May mắn đồng cao thắng
Nơi đây sáng tâm vương.
TỰ THƠ THEO VUA ĐẾN CHÙA ĐẠI TỪ CHIẾU, BẮC TỀ, LƯ TƯ ĐẠO
Hoàng đế như trên duệ thống thiên đại minh ngự cực. Đàn áp chín đời, khu giá trăm vua. Chí đức thượng thông, nhân sâu hạ lậu. Oai lăng, Tây được thinh giáo, Đông tiệm. Bố chánh hợp cung, hiếu nghi đại thất. Trương lạc đồng dã, có tính núi miêu. Trời không ưa thật, thần chẳng ban cho. Lông lân hiệu lực khác, núi đầm ban phước. Hoa Duệ cùng theo, u hiển đều giúp. Tám chánh chỉ tựa, sáu phù bình an. Lại, nương chí sâu xa ngưng thần thanh tịnh. Phủ lậu khu vực, có di hình hữu. Cứu tinh dân nơi khổ khí, giúp cõi Dục nơi ách thành. Thân tâm lên được cảnh tịnh lạc, sinh linh nhờ đó được thần lực của bậc Điều Ngự. Trong cung thì đức dày giúp vật, chánh vị lệ thiên. Đạo quan thiệu lăng, nghiệp du sân tợ. Mây tuệ buổi sáng khởi, bốn loài dừng lâu ở thốn hợp kia. Đèn từ bi ban đêm đốt. Chín phục chiếu ánh sáng kia, bèn quyện tham hư. Thật duy Đường cựu sơn xuyên Châu Vệ khâm mang nghiêm huýnh, đông giao thắng địa bèn xây bảo phường. Nghiêm như hóa thành, nhanh như vọt lên. Cảnh giẫm Tây Lăng, khí hợp Nam Cung. Gió thu chấn dã, sương trắng lạnh lẽo. Thánh chủ ngự biện tuần du thuận theo thời nuôi dưỡng chúng sinh. Sáu rồng lên xe bảy Thánh đều đông. Cờ đẹp phất phới, ngọc chạm bánh xe. Hỏi trăm năm mà trụ liễn, triều vạn linh để xét lúc. Hùng cừ những loài thích bay, nhập tham trung lũy. Bạn hổ điện cửa vàng, hướng về xe riêng. Sắp khuất hạ bộ, gặp cõi tịnh này. Đều ưa nhìn Linh Thứu, dùng thích dạo cung rồng. Thân tâm kính lễ rất thành kính. Khóa hư dẫn tịch bèn phát ca vịnh. Tuy sự hơn đánh xe mà nghĩa đồng gõ sừng. Cũng do: Ung dung mạnh mẽ, thuật tán tốt đẹp. Đâu như: Cao sóc văn từ, phủ trần nam chúc. Vương cốc trùng kiện, tài thí nữ công.
Tác giả hai mươi sáu người, lời ấy như vậy.
Gió huyền quan đông hộ
Nội phạm trật tây lăng
Sông lớn mở hộp báu
Đất phước hạ dây vàng
Tú nhi cao đáng soi
Họa cũng điệp tương thừa
Ngày ngự không khó giả
Vận sư vốn dễ nương
Dương thất nghi Đình Toại
Hiện âm giống đục băng
Huýnh đề bay tinh một
Trường mi đường tâm ngưng
Tinh môn ánh sáng chuyển
Lối cung tối mây bay
Thần núi hiệu linh vật
Nước như dâng điềm tốt
Hư bạt thao ân ghi
Vi khưu nguy tự lăng
Ưu đồ luống mong đợi
Châu lãi mãi khó hơn
THƠ NĂM ĐIỀU KHỔ
Sinh khổ
Đáng lo thân là họa
Sinh thì lo cùng sinh
Tâm thần thường khổ riêng
Vinh nhục kinh sợ nhau
Ánh mai không chiếu lâu
Đèn tối tơ bao lâu
Trọn thành một nhóm khổ
Gượng tìm danh ngàn năm.
Lão khổ
Lúc trẻ thích ngày thêm
Già đến năm khổ lấn
Hồng nhan đã hết đẹp
Tóc bạc nào ngâm lâu
Sân thềm chỉ nhờ gậy
Phủ sáng không hơn trâm
Cam phì và yêu lệ
Luống có tâm lúc mạnh.
Bệnh khổ
Rút gươm bình bốn biển
Giơ mác khiếp muôn người
Một mai trên giường gối
Xoay chuyển nhờ người đỡ
Sắc trẻ theo da bớt
Rên rỉ và đau đớn
Lụa là tuy đầy đủ
Mắt riêng buồn thất vọng.
Tử chết
Đáng tiếc khí lăng vân
Bỗng theo sương mai tan
Từ biệt bao ngày tươi
Riêng xuống chốn suối vàng
Ao đài đã không có
Gò mã hướng ứng không
Chỉ ở nơi thông bách
Ngàn năm thường gió mạnh
Thương yêu mà xa lìa khổ
Ai chịu trong tâm thương
Biệt ly sau mới nghĩ
Khi nào dắt tay nhau
Huyên thuyên không xa được
Tuy nói vạn dặm cách
Còn hy vọng trở lại
Xuống dưới chốn cửu tuyền
Chẳng có lúc gặp nhau.
Năm ấm lững lẫy khổ
Trước đi không từ biệt
Sau đến chẳng thân lâu
Mã mới thành nhà cũ
Kế nhau như vây cá
Mậu lăng ai biện được
Lìa núi cách thức Tần
Ngàn năm và hôm qua
Mỗi món đều thành trần
Định biết đất ngày nay
Lại là người khi xưa
Đâu thể lấy xương người
Lại đem chôn thân ta.
THƠ ĐẾN CHÙA MINH KHÁNH
Địa linh cư năm tịnh
Sơn u vắng bốn thiền
Cung trăng soi gương đá
Hoa tán nhiễu sen núi
Giữa ráng sáng cờ hiện
Hơi mảy hợp lò khói
Thông cao lớn dù xếp
Nước mạnh, suối phân nhỏ
Gió thổi muôn âm thanh
Đường đi trăm hoa tươi
Ngày xưa tìm chân thật
Kết bạn thường quyến luyến
Sơn đình bộ hoặc mị
Cỏ giữa sông nước trôi
Do đây sự huân tập
Liền dứt được phan duyên
Sao nói theo mây mưa
Nghĩ đây thật buồn bả
Luống có hướng phía Nam
Hội toại đông lưu toàn
Thơ vịnh hoài Trương
Quân Tổ, đời Trần
Vận hình không nêu khác
Tâm lặng không ham muốn
Ngồi nghỉ ngơi vương hầu
Cửa xoay về trục vàng
Gió đến vịnh du thanh
Lân tụy nguồn không nhơ
Đây là thuyền trung tử
Do đó kiểu dật túc
Cần gì vui u nhàn
Áo xanh nêu lìa tục
Trăm năm nếu không xa
Hôm qua cũng chẳng ngắn
Hy đằng nhìn duỗi chiếu
Nắng nay thay nhau soi
Một đi đều nghịch lữ
Đâu tiếc chớp qua mau
Khư khư không bè đảng
Và ngọc đá lẫn lộn
Quái thần cõng nghiệp uế
Vốn là do tâm khúc
Gió linh khởi sóng về
Mây bay vọt nghịch lân
Cẩu trạc nam dương tú
Cố nhóm ba tạo tân
Miến hoài kết đêm vắng
Vị tháo vịnh chung thần
Gần chứa thời vô cấu
Ai cũng phủi bụi trần
Tình xa gởi cực tắc
Túc điều độc ngao thần
Tương vọng đông minh lý
Đâu mong tây triều bến
Ngã sùng đạo vô phế
Trường diêu nhớ người nghĩa
Diêu độn rải hình hành
Trượng sách nghỉ Nam Dĩnh
Tao động ủy lãng tích
Ngô tĩnh đạm di tánh
Phủ quyển theo lão thoại
Huy luân và tráng vịnh
Nhìn xa riêng nhớ tưởng
Tiêu thần thổi trần chánh
Thời vô hỷ tuệ ngẫu
Dứt vận ai sẽ nghe
Tập tử tốt phương nêu
Có vui là âm lịnh
Dĩnh bày lăng sương thanh
Ba hi ba xuân thạnh
Phất cách kỳ tiêu tường
Há tranh với dâu, du.
Tôi vốn bất tài giáp
Dị tình quên điêu ánh
Tuy chẳng ánh dương dựa
Khanh gõ khánh làm gì.
TẶNG SA-MÔN TRÚC PHÁP QUẬN (ba bài)
Sa-môn Trúc Pháp Quận đi xa trở về Tây Sơn. Làm bài thơ đề tặng Ngài. Nhân cũng giỡn cợt. Lược bớt hai kinh cùng làm để khen ngợi.
Hoa Dương Nhạc tươi đẹp
Không mây gối núi bay
Chót vót, suối lưu linh
Núi đẹp thông xanh tốt
Núi treo cao chót vót
Hang kín chánh ẩn kín
Núi đỏ dựa lạ kỳ
Thất xanh thiền sáu thông
Thần khí thật vắng lặng
Xa xôi bặt dấu vết
Chỉ quán chấp vô vô
Hoàn dính mắc không không
Vật ngoài đâu đại bi
Riêng đến đồng chẳng huyền
Không thấy Xá-lợi-phất
Chịu khuất Duy-ma-cật
Chí nhân như ảnh hưởng
Linh tuệ đào ức cõi
Ứng phương tro quyền hóa
Triệu loại nhờ từ vui
Mờ mờ chứa trần mê
Hằng ở cửa núi đóng
Bỏ thông, chẳng chiếu suốt
Đổi hình không diệt hết
Rõ thay, Như Lai giáng
Khoát hỷ khải tán huyệt
U tinh bị hư hoại
Ai như A-duy sát
Xa tạ mong huyền trù
Cần gì tự thanh khiết.
Xa xa thành vui nêu
Cao ngất núi nổi mây
Vượt cao mười hai núi
Riêng cảnh đẹp Diêm-phù
Đan lưu hoàn nền vuông
Dao đường lâm tiễu đảnh
Khe thấm nước cam tuyền
Núi mọc đầy phương chi
Rỡ rỡ đẹp hóa luân
Miễu miễu lăng nham chánh
Cung kính nhìn diệu giác
Hơi thở hy linh vĩnh
Nếu như được trúng tâm
Chỗ dứt đều yên tĩnh
Luyện thần siêu dõng mãnh
Vạn vật được tiêu diêu
Đâu cần nương hình ảnh
Gắng tìm pháp Đại thừa
KHEN NGỢI KINH ĐẠO THỌ
Nguy nga nước Vương-xá
Sum sê vườn Linh trúc
Trong có thần hóa trưởng
Quán thể không thiện quyền
Quở trách cảnh mờ sáng
Đâu biết vết chân thật
Rộng lớn đạo nhiệm mầu
Giải phát chí thần vui
Phiêu hốt lăng hư khởi
Không nói thọ tuệ khó.
KHEN NGỢI KINH TAM-MUỘI
Vết vượt mười hai thiêu
Giới nhờ Tam-muội thành
Hiền hạnh rất vi diệu
Chí đạo tuệ để sáng
Chín bổn đã không động
Tứ thiền không đồng tối
Sâu xa không khởi diệt
Mới tự không tùng sinh
Xưa hỏi đạo khí luân
Đâu lường Niết-bàn linh.
TỰA THƠ
Thơ tĩnh lặng pháp quận, kinh thông diệu viễn, gắng gỏi thanh tịnh. Tuy nói mà không hết ý, gần gũi có bao nhiêu? Chí nhiệm mầu, thần không đâu chẳng thông suốt. Phàm chưa thể minh đạt huyền thông, ác được bất hữu ngưỡng tán chi vịnh tai. Tôi tưởng hình dung đức tốt.
Tuy nương giữ đường khác nhưng nêu ký huyền đồng, kính đại trả lời, chưa đủ tốt đẹp mỗi người đều nói chí ấy, lời ấy rằng:
DỮU TĂNG UYÊN ĐÁP
Vận Chân phát đã xếp
Muôn tượng đã nêu bày
Tinh linh cảm thầm hội
Biến hóa đâu không trải
Sóng gió sinh tử luống
Càng luân mới không tên
Bỏ gốc mà theo ngọn
Hối xan sinh hữu tình
Luống chẳng dứt đáng dục
Trái tông về vô sinh
Đạt quán đều có không
Xác ve thật sáng tỏ
Tiêu diêu các diệu tân
Ngưng ngọng ở huyền minh
Đại từ thuận biến thông
Hóa dục đâu thường dừng
U nhàn tự có chỗ
Đâu chung với Bồ-tát
Ma-cật phong vi chỉ
Quyền đạo nhiều chỗ thành
Mênh mông khắp thiên hạ
Ai biết đường tình sầu.
Mênh mông bản chất thành
Rộng lớn Tứ thiên sáng
Ba thần hoàn Tu-di
Trăm ức đồng một tượng
Khói linh hòa đào ấm
Hội chi có diệu trường
Đại từ giúp chúng sinh
Thầm cảm như bóng vang
Chúng Sa-di đông đúc
Xan xan vạn tâm kính
Ai không thích Đại thừa
Triệu định đối huyền nang
Ba pháp tuy thành rừng
Cư sĩ cũng có nhiều
Không thấy rồng có sừng
Sái lân lăng tiêu thượng
Xúng tâm vượt gửi xa
Sóng mang xa riêng đi
Nhiệm mầu thường chiếu sáng
Duy-ma tôi đã từng
Nếu chưa lễ thiện quyền
Cùng tôi đồng phảng phất
Mênh mông đầy khắp cõi
Xả bỏ các phế tưởng.
DỮU TĂNG UYÊN ĐÁP
Xa nhìn hoa trên núi
Trời tím lồng ba ngày
Quỳnh nham sáng nhà ngọc
Ngọc rưới thấm bến linh
Đan Cốc đình cây giao
Lý Dĩnh động củi sáng
Tiếng ẩn do xen nhau
Loan phụng bay hồi nghi
Giao long rưới Phi lân
Trung hữu xúng mạc sĩ
Vui đạo nghĩ nhiệm mầu
Cao thượng ngưng huyền tịch
Muôn vật bỗng tự khách
Một mình dạo phương ngoại
Vượt thế dứt phong trần
Kiểu tưởng mong dấu vết
Từng bước tìm được người
Ngâm vịnh rồi bỏ đi
Vịnh hoa đâu đáng quý
Gội chí tám nguồn giải
Liêu lãng khoát minh thần
Nghiêng cơ thông vi diệu
Giác ngộ bỗng quên thân
Cư sĩ thành có bạn
Nhìn lại chẳng nghĩ thân
Mượn hỏi giữ thường đồ
Vì sao biết trái chân.
DƯƠNG ĐẾ RA MẮT CHÙA LINH NHAM, PHƯƠNG SƠN
Phạm cung đã ẩn kín
Linh tụ cũng trầm trầm
Bình giao đưa qua ngày
Núi cao bóng mát xa
Huýnh phiên phi thự lĩnh
Sớ chung hưởng trú lâm
Tiếng ve sầu kêu gần
Suối nhổ khe đá sâu
Kháng tích thiền chi địa
Phát chí tâm Bồ-đề.
PHỤNG HÒA, PHƯƠNG SƠN, CHÙA LINH NHAM, ỨNG GIÁO, CHƯ CÁT DĨNH
Danh sơn trấn sông biển
Phạm vụ giá gió khói
Họa cũng lâm thông cái
Tạc dũ đối sen núi
Sấm nổi dưới nền thềm
Mây về trước rường cột
Linh quang nói ngày đêm
Áo nhẹ mấy kiếp năm
Gấp bội hương làm thực
Thường dùng làm phước điền
NGÀY RẰM THÁNG GIÊNG Ở THÔNG CÙ KIẾN ĐĂNG, BAN ĐÊM LÊN LẦU PHÍA NAM. TÙY DƯƠNG ĐẾ
Pháp luân chuyển cõi trời
Phạm thinh cõi trời đến
Đăng thọ ngàn tia chiếu
Hoa diễm bảy cái nở
Bóng nguyệt ngưng dòng nước
Gió xuân chứa mai đêm
Cờ động muôn đất vàng
Chung phát đài lưu ly.
PHỤNG HÒA THÔNG CÙ KIẾN ĐĂNG ỨNG GIÁO – CHƯ CÁT DĨNH
Đường thơm lặng cảnh khuya
Đuốc pháp sáng khác nhau
Khi chuyển ánh sáng dời
Hoa đào sinh, nhánh rụng
Khói bay quanh định thất
Ánh sáng chiếu ao ngọc
Lầu các đăng lâm bãi
Ca quản thừa không dời.
XẢ CHU ĐĂNG LỤC THỊ TUỆ NHẬT ĐẠO TRÀNG NGỌC THANH HUYỀN ĐÀN ĐỨC CHÚNG. TÙY DƯƠNG ĐẾ
Trời tịnh, sao mây quyện
Ngày nêu sông dài trong
Gió thổi hoa rừng rơi
Thổi quanh gió liễu rụng
Cô hạc thệ khiển bầy
Đề Oanh xa kêu nhau
Liên chu chỗ nước hết
Đường họa luân phân nửa
Sông biển đều từ xa
Đông Tây đều khen ngợi
Đã huân sức thiền tuệ
Lại nhờ sức vàng đỏ
Có đến ba sông khác
Không hề xem bốn cửa
Ở đâu được diệu đạo
Siêu vượt lên bờ kia.
TÙY TRƯỚC TÁC VƯƠNG TRỤ NGỌA BỆNH MAN VƯỢT THUẬT TỊNH DANH Ý
Tôi – Man Hải bị bệnh nằm đã hơn nửa tháng. Thiện hữu là Pháp sư Ngung khuyên tôi dùng kinh Tịnh Danh nhiệm mầu để điều phục thân tâm. Sức bệnh, thô bày ý kia kính Pháp sư Giản: Khách đi hơn muôn dặm
Mịt mờ trên biển xanh
Năm núi thường rậm rạp
Trăm vượt nhiều khí độc
Đều mệt nhọc thân tâm
Do đây nên bị bệnh
Đồng lôi đã thật xa
Bởi Kim đá khó tìm
Bọt bóng thật đáng thương
Thấm áo riêng ngao ngán
Thành Tỳ có Trưởng giả
Bình thường trước đã có
Lại mượn nhân duyên lớn
Gắng dụng tâm hồi hướng
Đường tâm để điều phục
Đối đây nghĩ thật tướng
Nước bọt vốn khó mất
Thành càn không có tướng
Sinh đây không chí lý
Ngã này đều luống dối
Cầu đó không thể được
Ai thọ nghiệp chướng kia
Tin đó – Đại y vương
Năng lực này vô lượng.
TIẾT ĐẠO HÀNH TRIỂN KÍNH DÂNG CHÙA PHỤNG LÂM
Tịnh độ tiếp hang kín
Tháp báu đối núi ách
Rừng Phụng ở hang đỏ
Đất Rồng xa cát trắng
Độc nham lâu hướng xuất
Phức đạo gác trùng nhau
Động mở sáng sương rơi
Thạch thấp hiểu vân nùng
Trúc cao, lọng mây thấp
Gió thổi tiếng hòa chung
Nhà mát đổi liễu nhỏ
Gian ảnh lạc thông cao
Châu quế nổi trăng sáng
Tòa sen nở Phù Dung
Ẩn mất luống có ý
Tâm chứa nhóm theo nhau.
ĐỜI LƯƠNG, CHÙA KHAI THIỆN, PHÁP SƯ TẠNG PHỤNG HÒATHƠ TAM GIÁO CỦA VÕ ĐẾ
Nguồn tâm vốn chẳng hai
Học lý cùng về chân
Bốn chấp mê theo dược
Sáu vị thêm cực khổ
Giúp duyên bởi tạp phẩm
Tập tánh không đồng theo
Chí giác theo vật hóa
Một đạo mở khác bến
Đại sĩ thanh tịnh giúp
Huấn nghĩa bèn tinh trần
Chu, Khổng còn trung hiếu
Lập hạnh triệu quân thân
Họ Lão quý tải dục
Tồn sinh do thân ngoài
Nói lời ngàn lý thiện
Phân vị cùng thế trân
Hễ chẳng không thì có
Ba minh dường chưa đến
Gần thức khép đường rẽ
Phân trần nghi khác trần
Đâu biết ngộ là tiệm
Cùng tột vốn đồng bậc
Ngã Hoàng thể hội này
Gương đẹp xuất cơ thần
Quyến ngôn đều quy bí
Hồi chiếu dẫn chúng sinh
Cố duy tàm túc thực
Gặp gỡ điều tốt đẹp
Nguyện cùng nhậm minh giải
Tuế mộ đều có nhân.
THÁI TÔNG VĂN HOÀNG ĐẾ RA MẮT TINH CHÂU, CHÙA HƯNG QUỐC CA
Hồi loan đến đất phước
Tận mặt ngắm cỏ thơm
Phạm chung xen hai tiếng
Pháp nhật chuyển hai vòng
Bảo sát xa nương đường
Thiên hoa gần mùa xuân
Chưa đeo, lan còn nhỏ
Không tơ, liễu còn mới
Viên quang thấp nguyệt điện
Ảnh vụn loạn gió tre
Đối đây giữ tưởng khác
Siêu vượt lìa tục trần.
VĂN ĐẾ VỊNH PHƯỚN TRƯỚC ĐIỆN PHẬT
Mờ sáng nghi chuyển điện
Đằng hư dáng cầu vồng
Hang hiện trong sương mờ
Cúi ngước trong mây trắng
Phân phi vừa sương hướng
Kéo lôi hoặc theo gió
Nghĩ đây khinh bạc chất
Không cánh gượng diêu không.
THƯỜNG CHÂU, CHÙA HOẰNG THIỆN, PHÁP SƯ TUYÊN
Vâng hòa Đậu Sử Quân Pháp sư đồng kính Vịnh Cao Tăng.
TRÚC PHẬT ĐỒ TRỪNG
Đại thệ thương lầm than
Thừa cơ nhập sinh tử
Trung châu pháp đã mở
Cát pha bạo cũng dừng
Lỗ trống sáng cả nhà
Chỉ tay rõ ngàn dặm
Đạo thạnh chú hoa sen
Tai sinh ngâm cức tử
Mai thạch duyên tuy tạ
Lưu sa hóa mới đầu
THÍCH TĂNG TRIỆU
Bát-nhã chỉ bặt vết
Niết-bàn vốn không tên
Bậc hiền chưa thỉ giác
Chi tử xướng hy thinh
Vua Thái than lý nghệ
Đồng thọ ấp từ thanh
Suốt âm nghe trần nhạc
Tĩnh khó động Trung Nguyên
Thích Nghiệm trong phương bào
Kỳ tài rồi lại sinh
NGÀY MÙA THU ĐẾN CHÙA ĐÔNG SƠN HAI PHÁP SƯ THÙ, ĐÀM
Cây đổ thọ tê táo
Nước trong, dòng lặng lẽ
Thuộc đây khí buồn thay
Phục tư la lữ thích
Đâu dụng tả ưu phiền
Suối núi kế du lịch
Vạn trượng khuy thâm gian
Ngàn tầm ngưỡng tuyệt trần
Bàng lĩnh trúc so le
Vịn sắn bìm mà đi
Hành hành rất sâu kín
Khứ khứ càng vắng lặng
Quả gặp dứt bạn tâm
Cành cao mới treo cao
Viên nhiễu đều chiên-đàn
Đốn lương há cát sỏi
Diệu pháp không thể lường
Thân kinh giải oán địch
Tâm vui liền đảnh lễ
Đạo còn ở tai mắt
Tuệ lực đã thông suốt
Lưới nghi cũng xé rách
Há dứt thẳng phiền não
Mới mong cứu đắm chìm
VUA YẾT KIẾN CHÙA ĐẠI TỪ ÂN
Cung nhật khai trăm nhận
Điện nguyệt cao ngàn tầm
Dù hoa bay bóng tròn
Cờ hồng kéo bóng mát
Ráng nương dao lung trướng
Tùng châu rừng võng tế
Liêu khuếch biểu khói mây
Siêu nhiên vật ngoài tâm
CHÙA ĐẠI TỪ ÂN SA-MÔN HỌA
Hoàng phong thổi cây ấy
Chí đức tốt rừng thiền
Hoa tiên sáng mặt trời
Cờ thần kéo bóng xa
Nương điện lồng hà ảnh
Gác cao xuất tâm mây
Cỏ nhỏ trông nước từ
Ân quang nặng lại sâu.