GIẢI THÍCH KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT

(Quán Vô Lượng Thọ Phật Nghĩa Sớ)

LỜI BẠT

Kinh Quán Vô Lượng Thọ là chánh nhân của Tịnh nghiệp[82], là thắng hạnh để đoạn trừ các tội chướng, là pháp môn mầu nhiệm để siêu phàm nhập thánh, là phương thuốc thần giúp trường sinh bất tử. Do đó, kinh nầy được nhiều đời thọ trì, nhiều người sớ giải. Như tập Nghĩa Sớ[83] của Thầy ta là Luật sư Linh Chi[84] đã tổng hợp các thuyết, cắt bỏ những chỗ rườm rà, văn từ giản dị, nghĩa lí rõ ràng, có thể cho là liễu đạt được ý chỉ của việc giải kinh. Ngài thường suy nghĩ nên ở mãi nơi Ngũ trược để giáo hóa dìu dắt chúng sinh trở về đạo Phật. Lại khi đọc Cao Tăng Truyện, đến đoạn pháp sư Huệ Bố cho rằng: “Cõi Tây phương tuy thanh tịnh, nhưng chẳng phải là chí nguyện của ta. Dù thọ hưởng an lạc trong hoa sen mười kiếp, chẳng bằng vào trong chốn Tam đồ cứu vớt chúng sinh bị khốn khổ”, thì thật đã phù hợp với chỗ hiểu, lại càng xem nhẹ Tịnh nghiệp, về sau bị nhiễm bệnh nặng, hình hài sức lực suy nhược gầy yếu, tâm thức mê man không biết nơi thú hướng. Bấy giờ mới biết chí nguyện tuy lớn lao, nhưng chưa đủ sức để kham nhận. Bất chợt, thấy lỗi của mình trước kia mà trong lòng tự thương cảm. Nhân xem Thiên Thai Thập Nghi Luận ghi: “Bồ-tát sơ phát tâm chưa chứng Vô sinh nhẫn, thì không nên lìa xa Phật”. Lại dẫn Trí Độ Luận rằng: “Cụ phược phàm phu[85] mà có lòng đại bi, nguyện sinh vào cõi ác để cứu độ chúng sinh là hoàn toàn không thể có”. Thí như chim non không thể lìa xa chim mẹ, bởi vì cánh còn yếu chỉ có thể tập chuyền cành. Do đó, Sư vứt bỏ sự nghiệp đã tu học trước kia, tìm học giáo lý Tịnh độ Tây phương hơn 20 năm, tạo sớ giải kinh, để khuyến dụ dẫn dắt người sau, tập Sớ giải này là một trong số đó.

Sư húy Nguyên Chiếu, tự Trạm Như, hiệu An Nhẫn Tử. Như đạo đức của Sư cao xa rực sáng mà trong Tăng sử chỉ nói Sư ưa thích Tịnh Độ, thì thật chưa nói hết. Biết được điều này từ trong bài tựa Lễ Sám Nghi của Ngài, nên ta tóm tắt đại ý nêu ra đây vậy. Sớ nầy, lúc mới Khoa văn[86] thì chương đoạn và lời giải thích không liên tiếp, còn văn kinh thì suốt từ đầu đến cuối rất dễ gây nhầm lẫn. Do đó, khi xem qua, liền phân chương mục ở trước văn kinh, rồi đưa sớ giải vào kinh, sau đó, chép lại thành một quyển, nhằm thầm giúp cho người xem đỡ tốn công.

Có người cho rằng: Khắc bản kinh này, cho in ấn lưu hành rộng rãi ở đời có được chăng? Như thế, đâu chỉ thuận tiện cho kẻ sơ học, mà còn làm tăng thêm tư lương cho người tu cầu vãng sinh Tây phương không ít. Tôi cho rằng lời của người này rất đúng. Kinh sớ nầy la sớ giải kinh của Phật Tổ, dẫu cho khắc bản lưu hành, lẽ nào là chí cao mà hạnh khuyết sao? Tôi bèn đưa nó vào thư viện để bổ sung cho những sách cần thiết. Nhưng không dám trao cho những vị tiền bối tài giỏi, mà chỉ thảo luận bàn bạc với những người cùng chí hướng. Bởi vì chỗ hiểu biết cạn cợt, nên nhất định có rất nhiều sai sót, nhầm lẫn. Xin đợi của những bậc tài giỏi đính chính, ngõ hầu những người xem chóng hiểu rõ và thực hành được pháp quán nầy, để cùng dạo chơi nơi Tịnh độ duy tâm, nguyện hạnh sớm thành tựu, mỗi mỗi đều thấy được A-di-đà bản tánh vậy!

Thích Trạm Huệ viết tại trượng thất Giới Quang, núi Lạc Đông, vào ngày mồng tám tháng Tư năm Nhâm Tý, niên hiệu Khoan Văn, thứ 12.

Mùa Đông năm Bính Tuất

  1. 2550 (11- 2006)

Chính Trang – Giác Vân

dịch và chú thích


[1] Rừng gai: cõi Ta-bà uế trọc.

[2] Thai ngục: thai sinh, một trong Tứ sinh. Nỗi khổ mà người nằm trong bụng mẹ phải chịu giống như ở trong ngục. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5024).

[3] Cõi báu: cõi Tây phương Cực lạc

[4] Ao vàng: ao Bảy báu ở cõi Cực lạc.

[5] Triều âm, (Hải triều âm): âm thanh vang rền như tiếng sóng biển, thường dùng để ví dụ cho âm thanh của Phật và Bồ-tát hoặc chỉ cho sự ứng hóa của Phật và Bồ-tát.

– Kinh Đại Bảo Tích, q. 40 (Đại 11,231 hạ) ghi: “Ngôn ngữ của Như Lai tùy theo từng loài mà hiện ra để chuyển hóa họ, không thể nghĩ bàn, nay ta sẽ nói sơ lược. Này Xá-lợi tử! Lời nói của Như Lai dễ hiểu, dễ biết, hòa nhã (…) là tiếng nói Phạm thiên, tiếng nói như hải triều, mây sấm, (…) lượng như hư không, là tiếng nói thành tựu bởi tất cả các thứ nhiệm mầu”.

– Kinh Đại Phật Đảnh Thủ-lăng-nghiêm, q. 2 ghi: “Đức Phật phát khởi lòng từ bi, thương xót A-nan và đại chúng, dùng tiếng như hải triều, dạy bảo khắp chúng hội”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1755).

[6] Danh lý (Danh nghĩa): danh xưng và nghĩa lý. Như nói “Chư hành vô thường” thì “chư hành” là “Danh”; còn “vô thường”  là “Nghĩa”.

Danh: tên, biểu hiện bản thể các pháp.

Nghĩa: nghĩa chân thật của bản thể các pháp.

Danh tức là tên gọi (danh) nhờ đó hiểu rõ nghĩa chân thật của bản thể các pháp. Nhưng trong đó, danh chỉ là giả lập, mặc dù nêu lên được nội dung, ý nghĩa vẫn không phải là bản thể của các pháp. Cho nên với nghĩa có hai mối quan hệ là Tương tức và Bất tức.

– Tương tức: như trong danh hiệu các Đức Phật và Bồ-tát, đã bao hàm nguyện lực và công đức rộng lớn bất khả tư nghị của các Ngài, nên danh hiệu với thật nghĩa của pháp thể không khác, danh tức nghĩa, nghĩa tức danh, gọi là danh nghĩa tương tức, danh nghĩa bất li, danh nghĩa bất nhị, cũng đồng nghĩa với Danh thể bất nhị. Ngoài ra chân ngôn, chú ngữ v.v… cũng thuộc về danh nghĩa tương tức.

– Bất tức: như lúc nói lửa thì không có nóng (nói lửa thì chỉ là Danh chứ chưa phải là lửa thật, nên không nóng). (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1034).

[7] Bản Địa, Thuỳ Tích: (còn gọi là Bản Tích): Phật và Bồ-tát vì cứu độ chúng sinh, từ chân thân của chính mình biến hóa ra rất nhiều phân thân thị hiện ra đời để hóa độ chúng sinh. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã thành Phật từ lâu xa (Bản môn), nhưng thị hiện ra liệt ứng thân 1 trượng 6 (Tích môn) để hóa độ chúng sinh. (TĐPH Huệ Quang, t.  I, tr. 274; t. VI, tr. 5664).

[8] Khai Thị Ngộ Nhập: từ ngữ trong kinh Pháp Hoa nói về mục đích của Đức Phật xuất hiện ở thế gian. Khai: khai mở Như Lai tạng; Thị: hiển thị, chỉ bày; Ngộ: liễu ngộ, giác ngộ; Nhập: thể nhập vào tri kiến Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2263).

[9] Thanh giáo: Giáo pháp được tuyên thuyết bằng âm thanh. Đây chính là thanh trần trong Lục trần thuyết pháp của Phật. Ma-ha Chỉ Quán 7, hạ ghi: “Tức là Tiệm, Đốn, Bất định, Bí mật, Tạng, Thông, Biệt, Viên, nếu hiểu được ý này thì biết được Thanh giáo khai hợp, hóa đạo. (PQĐTĐ, q. 7, tr. 6496)

[10] Bán Mãn: Bán Mãn nhị giáo. Bán tự giáo và Mãn tự giáo. Bán tự là chữ cái, còn Mãn tự là ghép những chữ cái thành từ và câu. Trong năm chương của luận Tì-già-la, chương Tất-đàm thứ nhất nêu rõ Bán tự sinh ra từ; nếu học hết năm chương thì gọi là Mãn tự.

Phật giáo mượn từ Bán tự giáo để chỉ chín thể loại kinh của Thanh văn Tiểu thừa, còn Mãn tự giáo chỉ kinh Phương Đẳng của Đại thừa.

Theo kinh Niết-bàn, q. 8, ban đầu thuyết pháp, Đức Phật nói bán tự, cho là căn bản các pháp, như: kí luận, chú thuật, văn chương, các ấm đều thuộc về thật pháp. Phàm phu học lấy cho là căn bản, sau đó mới biết được pháp ấy chẳng phải là thật pháp. Lại nữa, thế pháp là bán giáo, xuất thế pháp là mãn giáo.

Tóm lại, về mặt phán giáo mà nói thì toàn bộ giáo thuyết của Phật phân làm Bán, Mãn hay Quyền, Thật. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 266 ).

[11] Chánh biến tri hải: biển chánh biến tri, tức Chánh biến tri của Phật vì sự hiểu biết của các Đức Phật đúng đắn sâu rộng như biển, không thể đo lường được nên dụ như biển. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 929).

[12] Nhất thật cảnh giới: 1. Cảnh giới giác ngộ bình đẳng chân thật; 2. Tâm thể tự tánh thanh tịnh của chúng sinh; 3. Pháp thân Như Lai. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3241).

[13] Chiêm Sát kinh: kinh, gồm hai quyển, do ngài Bồ-đề Đăng dịch vào đời Tùy, Trung Quốc, được xếp vào Đại Chính Tạng,17. Nội dung kinh nói về những giáo pháp do Bồ-tát Địa Tạng vâng ý Phật hướng dẫn chúng sinh ở đời mạt pháp tu thiện nghiệp. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 917).

[14] Thượng cầu hạ hóa: trên cầu giáo pháp của các đức Phật, dưới hóa độ chúng sinh, là nội dung hành Bồ-tát hạnh. Tự lợi, lợi tha tu hành một cách chân thật thù thắng, tự cầu bồ-đề và hóa độ chúng sinh làm cho họ chứng được bồ-đề. Thượng cầu bồ-đề là tự lợi, hạ hóa chúng sinh là lợi tha, muôn hạnh Bồ-tát không ra ngoài hai điều này. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5723).

[15] Thân độ: thân thể và quốc độ mà phàm phu hoặc Phật, Bồ-tát lãnh thọ. Tức chánh báo và y báo. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5146).

[16] Đại sự nhân duyên (Nhất đại sự nhân duyên): cảm ứng một việc lớn. Tam Tạng Pháp Số ghi: “Nhất” tức nhất thật tướng; vì thể tánh của Nhất thật tướng rộng lớn nên gọi là “Đại”; nghi thức mà Như Lai xuất thế độ sinh gọi là “Sự”; chúng sinh vốn có nhất thật tướng này mà khéo thành cơ cảm Phật nên gọi là “Nhân”; Như Lai đã chứng Nhất thật tướng này mà khởi ứng độ sinh nên gọi là “Duyên”. Tất cả Như Lai xuất hiện ở đời đều vì khai thị Thật tướng mà chúng sinh vốn có, khiến tất cả được ngộ nhập tri kiến Phật. Lìa việc này thì chẳng phải là bản hoài xuất thế của Như Lai. Một việc lớn (Nhất đại sự), chỉ việc chuyển mê khai ngộ. Luận theo các kinh thì Đại sự trong kinh Pháp Hoa là Phật tri kiến, kinh Niết-bàn là Phật tánh, kinh Vô Lượng Thọ là vãng sinh Cực Lạc. Phẩm Phương Tiện, kinh Pháp Hoa ghi: “Các đức Phật Thế Tôn chỉ vì một Đại sự nhân duyên mà xuất hiện nơi đời”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1307).

[17] Kỳ sơn (Kì-xà-đa sơn, Quật sơn): núi Kỳ-xà-quật. Trung Hoa dịch là Linh Thứu sơn, Thứu Đầu Linh sơn. Núi này ở phía Đông Bắc thành Vương Xá, thủ đô nước Ma-kiệt-đà thuộc Trung Ấn Độ, là nơi đức Phật thường đến thuyết pháp, rất nổi tiếng.

Có thuyết cho rằng đỉnh núi giống hình chim thứu, lại có thuyết cho rằng trên đỉnh núi có rất nhiều chim thứu trú ngụ, nên có tên là núi Thứu.

Đây là nơi mà đức Phật đã nhiều lần diễn thuyết diệu pháp. Vua Tần-bà-sa-la (S. Bimbisra), nước Ma-kiệt-đà, sống đồng thời với đức Phật, vì muốn đến nghe pháp nên ông đã lập nhiều công ttình to lớn từ lưng chừng núi đến đỉnh núi như đoạn đường lên núi dài khoảng 3km được lát đá thành bậc cấp, mỗi bậc rộng hơn 10 bước. Trên đỉnh núi có một đài thuyết pháp của đức Phật thuở xưa… Ngoài ra, nơi đây ông Đề-bà-đạt-đa lăn đá hại Phật. Thạch thất là nơi đức Phật và ngài Xá-lợi-phất cùng hàng Thanh văn nhập định, chỗ Tôn giả A-nan gặp Ma vương nhiễu loạn, nơi đức Phật tuyên thuyết kinh Pháp Hoa, kinh Đại Phẩm Bát-nhã, kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, kinh Vô Lượng Thọ. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2115).

[18] Tam Chủng Tịnh Phước (Tam chủng tịnh nghiệp): ba chính nhân Tịnh nghiệp, cũng là ba nhân vãng sinh Tịnh độ:

1- Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ phụng sư trưởng, từ tâm bất sát, tu tập mười nghiệp lành;

2- Thụ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi;

3- Phát tâm bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4079).

[19] Ngũ khổ: năm thứ khổ não. Ngũ khổ này, kinh luận đều nói khác nhau. Ở đây nêu ra theo kinh Ngũ Khổ Chương Cú: 1. Chư thiên khổ; 2. Nhân đạo khổ; 3. Súc sinh khổ; 4. Ngạ quỷ khổ; 5 Địa ngục khổ.

[20] Quán địa pháp: pháp quán tưởng đất, một trong 16 pháp quán. Quán tướng phía dưới có kim tràng bảy báu nâng mặt đất lưu li, trên đất lưu li có dây vàng ròng đan khít nhau, mỗi thứ báu đều có 500 tia sáng nhiều màu sắc. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5246).

[21] Phân-đà-lợi hoa (puṇḍarỵka): bạch liên hoa, tức hoa sen trắng. Hoa Phân-đà-lợi rất to và thơm ngát, cánh hoa màu trắng lung linh như bạc, thường mọc trong ao A-nậu-đạt. Hoa này mọc trong bùn nhưng không bị bùn làm nhiễm ô, cho nên trong kinh luận thường dụ cho Phật tính, Pháp tính tuy ở trong phiền não mà không bị phiền não làm ô nhiễm. Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khi hoa này chưa nở thì gọi là Khuất-ma-la (Utpala), khi sắp tàn thì gọi là Ca-ma-la (Kamala), khi đang nở gọi là Phân-đà-lợi. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3583).

[22] Quyền thừa: còn gọi là Quyền giáo, Phương tiện giáo, là giáo pháp quyền lập, tức giáo môn được lập bày bằng phương tiện quyền giả để thuận theo ý của chúng sinh; là pháp phương tiện được lập ra để dẫn dắt hành giả vào Thật giáo, sau khi đạt đến cảnh giới Thật giáo rồi thì phải phế bỏ Quyền giáo.

Đối lại với Quyền giáo là Thật giáo hay Chân thật giáo là giáo pháp chân thật rốt ráo, tức giáo pháp được nói ra từ thật nghĩa nội chứng của đức Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3892 – 3893).

[23] Sớ giải của ngài Huệ Viễn: Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ (1 quyển), do ngài Huệ Viễn Tịnh Ảnh đời Tùy soạn.

[24] Duy tâm: tất cả sự tồn tại trong vũ trụ đều do tâm biến hiện, ngoài tâm khơng có pháp nào tồn tại. Tâm là bản thể chân thật duy nhất của vạn hữu. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1147)

[25] Thiên Thai Thập Nghi Luận (Tịnh Độ Thập Nghi Luận, A-di-đà Thập Nghi Luận, Tây Phương Tập Nghi): Luận, 1 quyển, do ngài Thiên Thai Trí Khải soạn vào đời Tùy, được xếp vào Đại Chính Tạng, tập 47. Nội dung y cứ vào pháp môn vãng sinh Tịnh Độ mà nêu ra 10 câu hỏi, sau đó theo thứ tự giải đáp… (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5261).

[26] Quán thứ chín: Phật Quán (Phật thân quán, Biến quán nhất thiết sắc thân tưởng): quán tưởng chân thân của Phật Vô Lượng Thọ. Thực hành pháp quán tưởng này sẽ thấy được tất cả các đức Phật.

[27] Thú nhập: Kinh Du-già, tr. 22, q. 37 ghi: “Thú nhập nghĩa là đạt được sức tăng thượng tịnh tín; hoặc tại gia xa lìa hạnh ác, thọ trì học xứ; hoặc xuất gia xa lìa các dục, thọ trì học xứ”.

[28] Nhị đế: Chân đế và Tục  đế.

Chân đế (Thắng nghĩa đế, Đệ nhất nghĩa đế): lí chân thật bình đẳng mà chỉ có trí của bậc Thánh mới nhận biết.

Tục đế (Thế tục đế, thế đế, Phú đế): chỉ cho sự tướng thế gian mà mê tình nhận biết. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3313)

[29] Quán tâm: quán chiếu tâm mình để làm sáng tỏ bản tính của tâm. Tông Thiên Thai đặc biệt thường dùng từ “Quán tâm”, như Nhất tâm tam quán, Nhất niệm tam thiên … đều là những dụng ngữ có liên quan đến quán tâm. Tu nhất tâm tam quán tức là đối với một niệm vọng tâm của chính mình phải quán nó là Giả, là Không, là Trung. Đối tượng để quán sát có: Tâm, Phật và Chúng sinh, trong đó, tự quán tâm mình là dễ dàng nhất. Vả lại, quán tâm mình cũng là quan trọng nhất, vì tâm mình là cội gốc của tất cả sự vật, cho nên nhấn mạnh việc quán bản tính của tự tâm. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa 2, q. thượng ghi: “Pháp môn được trình bày ở trên có gì khác với tâm? Chỉ vì chúng sinh pháp thì quá rộng mà Phật pháp thì quá cao siêu, rất khó đối với kẻ sơ học. Nhưng tâm, Phật và chúng sinh cả ba không sai khác, chỉ cần quán sát tự tâm thì dễ dàng hơn”. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3812)

[30] Tứ biện (Tứ vô ngại biện, Tứ vô ngại giải): bốn năng lực lí giải (tức trí giải) và năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ (tức biện tài) một cách tự do tự tại không trệ ngại. Bốn thứ này đều lấy trí huệ làm bản chất nên gọi là Tứ vô ngại trí; nếu nói theo năng lực lí giải thì gọi là Tứ vô ngại giải, còn nói theo năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ thì gọi là Tứ vô ngại biện. Đây là pháp hóa độ chúng sinh nên cũng gọi là Tứ hóa pháp.

Theo luận Câu-xá 27 thì Tứ vô ngại giải là:

1)  Pháp vô ngại giải (Dharma-pratisaṃvid): tự tại diễn bày, lãnh ngộ danh cú, văn chương của Pháp, đồng thời quyết đoán được vô ngại.

2)  Nghĩa vô ngại giải (Artha-pratisaṃvid): tinh thông nghĩa lí được trình bày bởi pháp, đồng thời quyết đoán được vô ngại.

3)  Từ vô ngại giải (Nirktipratisaṃvid): tinh thông phương ngôn của các địa phương một cách vô ngại, tự tại.

4)  Biện vô ngại giải (Pratibhna-pratisaṃvid): tùy thuận chính lí, tuyên dương vô ngại cũng gọi là Nhạo thuyết. Tức khéo tùy thuận sự mong cầu của người khác mà ưa thích nói pháp. (TĐPH Huệ Quang, t.V, tr. 4898).

[31] Bát âm: (Bát chủng thanh tịnh âm, Bát chủng phạm âm thanh, Bát phạm): tám loại âm thanh. Tiếng nói của Như Lai là lời nói thanh tịnh hòa nhã, có tám thứ công đức thù thắng, khiến cho các chúng sinh nghe rồi liền giải ngộ:

1)  Cực hảo âm (Duyệt nhĩ thanh): tất cả chư thiên, Nhị thừa, Bồ-tát tuy vị nào cũng có âm thanh rất hay, nhưng chưa đạt đến chỗ tột cùng; chỉ có tiếng nói của Phật khiến cho người nghe không nhàm chán mà được vào diệu đạo. Đó là tiếng hay nhất trong tất cả tiếng.

2)  Nhu nhuyến âm: do tâm tốt lành, Phật nói ra lời dịu dàng làm cho người nghe vui ưa thích, bỏ tâm cố chấp.

3)  Hòa thích âm: Phật thường trụ trung đạo, khéo giải thích một cách thong dong, phát ra tiếng hòa nhã, đúng đắn, khiến người nghe sinh tâm ưa thích, thể hội được lí.

4)  Tôn huệ âm: địa vị oai đức của Phật tôn quí, trí huệ thông suốt, tiếng Phật nói ra khiến người nghe tôn trọng và trí huệ được khai mở sáng suốt.

5)  Bất nữ âm: Phật ở trong định Thủ-lăng-nghiêm có uy đức đại hùng, tiếng Ngài nói ra khiến tất cả người nghe kính sợ, thiên ma ngoại đạo đều qui phục.

6)  Bất ngộ âm: trí huệ của Phật tròn sáng chiếu soi không ngăn ngại, tiếng nói ra chín chắn, chân thật, không sai lầm, khiến người nghe đều được chính kiến.

7)  Thâm viễn âm: trí của Phật thâm sâu, địa vị hạnh nguyện cao tột, tiếng Ngài nói ra từ gần đến xa, khắp đến 10 phương, gần nghe không lớn, xa nghe không nhỏ khiến đều ngộ được lí cực kì sâu xa.

8)  Bất kiệt âm: hạnh nguyện của Như Lai không cùng tận, ngoài ra trụ pháp tạng vô tận, nên tiếng Ngài nói ra khiến người nghe tìm được ý nghĩa.

Tám điều trên là nói về đức âm thanh của Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 366).

[32] Ứng tích: ứng hóa thùy tích. Phật, Bồ-tát thích ứng theo cơ duyên của chúng sinh mà từ bản thể thị hiện các thứ thân để cứu độ chúng sinh. (TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 5934).

[33] Viên quang: hào quang, vầng sáng hình tròn phóng ra từ đỉnh của Phật, Bồ-tát.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ (Đại 12, 343 trung) ghi: “Viên quang của đức Phật A-di-đà ví như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới, trong viên quang có trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 6029).

[34] Quang đài hiện độ: trong đài vàng hiện ra Tịnh độ. Quang đài là đài vàng được tạo thành do hào quang của Đức Phật. Theo phần Tựa kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Bấy giờ Đức Thế Tôn phóng hào quang ở giữa chặn mày, ánh sáng đó có sắc vàng ròng, chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương, rồi thâu trở về trên đảnh của Đức Phật, hóa thành đài vàng như núi Tu-di, các cõi nước thanh tịnh vi diệu của các đức Phật mười phương đều hiện bày trong đó”.  Phu nhân Vi-đề-hi chán ngán, muốn xa lìa các khổ vui, mong cầu vãng sinh Tịnh độ, nhân thấy trong các Tịnh độ, thế giới Cực lạc ở phương Tây là thanh tịnh nhất, liền cầu sinh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà.

Thật ra, các Tịnh độ ở mười phương do đức Thế Tôn thị hiện ra vốn không hơn kém nhau, sự đoạn hoặc chứng chân, hạnh mãn quả viên của các đức Phật cũng như nhau, nhưng vì tùy cơ ẩn hiển, hóa độ theo căn cơ nên đức Thế Tôn ẩn đi sự thù thắng của các Tịnh độ khác mà chỉ hiển bày sự ưu thắng của Tịnh độ Tây phương của đức Phật A-di-đà để tiếp dẫn phu nhân Vi-đề-hi. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3828); (Từ Điển Đinh Phúc Bảo).

[35] Phạm vương Loa Kế: vị Phạm thiên vương có búi tóc hình xoắn ốc trên đảnh đầu. Vị này đã từng cùng tôn giả Xá-lợi-phất vấn đáp trên hội Duy-ma. Kinh Tâm Giới Quán Pháp, q. thượng, ghi: “Đức Loa Kế phạm vương có năng lực thấy được Tây phương Tịnh độ (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2471).

[36] Đắc ích: một khoa trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ do ngài Thiện Đạo đời Đường, Trung Quốc phân chia khi trùng tân kinh văn trong hội Vương Cung của kinh Vô Lượng Thọ.

Thông thường, kinh văn được chia thành ba phần: phần Tựa, phần Chính tông, và phần Lưu thông, tức là Tam phần khoa kinh. Nhưng ngài Thiện Đạo đem ba khoa vốn có trong hội Vương Cung chia làm bốn khoa, tức sau phần Chính tông có thêm phần Đắc ích. Phần này bắt đầu từ câu “Thuyết thị ngữ thời…” đến câu “chư thiên phát tâm”. Theo cách phân biệt của ngài Thiện Đạo thì gồ có năm hạng mục: Nội phần tổng điệp (toàn bộ phần trong), Năng văn pháp nhân (người có thể nghe pháp), Vi-đề đắc ích (Vi-đề được lợi ích), Thị nữ đắc ích (người hầu nữ được lợi ích), chư thiên đắc ích (chư thiên được lợi ích). (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1461).

[37] Phước quán: còn gọi là phước huệ, tức là sự trang nghiêm của phước đức và trí huệ. Phước là tu các nghiệp thiện như bố thí, v.v…. Quán là Quán niệm chân lý. Phước thuộc về lợi tha, Quán thuộc về tự lợi. Trong Tịnh Độ Nguyên Lưu Chương Huyền Tự ghi “Phước Huệ song tu” (Từ điển Đinh Phúc Bảo)

[38] Định thiện, Tán thiện: Định thiện là định tâm tu thiện, là pháp tu quán Phật Tam-muội. Tán thiện là Thiện nghiệp được tu tạo với tâm tán loạn. Các ngài Huệ Viễn, Trí Khải, Cát Tạng đều cho 16 pháp quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là Định thiện và Tán thiện. Ngài Huệ Viễn cho rằng tu tập ba thứ phước gọi là Tán thiện vãng sinh, tu tập 16 chính quán gọi là Định thiện vãng sinh. Nhưng ngài Thiện Đạo thì cho 13 phép quán trước là Định thiện, ba phép quán sau là Tán thiện.

Quán Kinh Huyền Nghĩa Phần (Đại 37, 246 trung) ghi: “Yếu môn chính là Định môn và Tán môn trong Quán Kinh này. Định là dứt nghĩ để lắng tâm, Tán là bỏ ác để tu thiện”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1531; t. V, tr. 4243).

[39] Chánh thọ: (Sampatti): trạng thái thiền định đã dứt hết loạn tưởng, duyên lự, lãnh thọ được cảnh sở quán. Nhờ sức định khiến cho thân tâm được an lạc, cũng như gương sáng vô tâm hiện rõ mọi vật. Quán Kinh Huyền Nghĩa Phần ghi: “Chánh thọ: tâm tưởng đều dứt, tất cả duyên lự đều quên, tam-muội tương ưng”. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 945).

[40] Huyền Nghĩa phần: phần nói về yếu chỉ sâu xa của một bộ kinh. Huyền Nghĩa Phần này được thấy trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (4 quyển) của ngài Thiện Đạo đời Đường. Nội dung gồm một bài kệ phát nguyện qui y Tam bảo và bảy môn huyền nghĩa như Tự đề, Thích danh v.v…. để giải thích về yếu chỉ của kinh Quán Vô Lượng Thọ. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 2016).

[41] Lưỡng phàm Tứ quả:

* Lưỡng phàm, tức Nhị phàm: hành giả Tam thừa trước giai vị kiến đạo là phàm vị. Phàm vị có hai:

  1. Ngoại phàm: chỉ người do nghe giáo pháp mà tin, như bậc Tam hiền Tiểu thừa, hay giai vị Thập Tín của Đại thừa.
  1. Nội phàm: chỉ người chân chính thực hành giáo pháp và gần đến Thánh vị, như Tứ thiện căn của Tiểu thừa, hay giai vị từ Thập trụ Đại thừa trở lên. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, t. 3332).

* Tứ quả: bốn quả vị mà hàng Thanh văn thuộc Tiểu thừa chứng được. Giai đoạn theo thứ lớp là: quả Dự Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Hoàn và quả A-la-hán. Ngoài ra, luận Câu-xá 6, có liệt kê: quả An Lập, quả Gia Hành, quả Hòa Hợp và quả Tu Tập. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4837)

[42] Bốn ma (S. Catvro mrh): bốn thứ ma cướp đi sinh mạng và huệ mạng của con người.

  1. Uẩn ma (Skandha-mra): cũng gọi là Ngũ ấm ma, Ngũ chúng ma, tức là năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức chứa nhóm thành quả khổ sinh tử. Pháp sinh tử này có tác hại cướp đi huệ mạng.
  1. Phiền não ma (S. Kle‘sa-mra): tức là 108 phiền não trong thân làm não loạn tâm thần của chúng sinh, cướp đi huệ mạng, làm cho không thành tựu Bồ-đề.
  1. Tử ma (Mṛyu-mra): làm phân tán thân tứ đại của chúng sinh, gây ra sự chết chóc, làm cho người tu hành không thể kéo dài huệ mạng.
  1. Thiên tử ma (Deva-putra-mra): Cũng gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên tử ma: Ma vương ở từng trời thứ sáu của cõi Dục, thường làm hại việc thiện của người, ganh ghét pháp Hiền thánh, gây ra những việc nhiễu loạn làm cho người tu không thành tựu thiện căn xuất thế.

Trong bốn loại ma trên, ba loại ma trước thuộc nội ma, loại ma thứ tư thuộc ngoại ma. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4083).

[43] Thời mị (Tinh mị quỉ): một trong ba thứ quỉ. Vào giờ Tí (nửa đêm), quỉ này hóa thành tinh linh con chuột hoặc hình dáng thiếu nam, thiếu nữ hoặc biến ra các tướng đáng sợ để dọa nạt hay mê hoặc người tọa thiền. Bấy giờ, người tọa thiền đều biết giờ ấy là giờ gì, nếu là giờ Tí, biết nó là loài chuột, kêu thẳng tên nó thì nó sẽ tự tan biến. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5619).

[44] Ngũ Thiên Trúc: năm khu vực: Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung của nước Ấn Độ thời Trung cổ.

Theo Đại Đường Tây Vực Kí 2, địa phận của Ngũ Ấn như sau: chu vi rộng hơn 90.000 dặm, ba mặt đều giáp biển, phía Bắc giáp núi Tuyết, về địa hình thì phía Bắc rộng, phía Nam hẹp, có hình bán nguyệt, gồm hơn 70 nước (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3029).

[45] Tứ tướng, (Ngã nhân tứ tướng, Tứ kiến, Thức cảnh tứ tướng): bốn tướng lầm chấp đối với cá thể thân tâm của chúng sinh được nói trong kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật do ngài Cưu-ma-la-thập dịch, đó là:

  1. Ngã tướng: đối với pháp ngũ uẩn, chúng sinh vọng chấp Ngã sở là thật có.
  1. Nhân tướng: đối với pháp Ngũ uẩn, chúng sinh vọng chấp Ngã sinh trong nhân đạo là người, khác với các đường khác.
  1. Chúng sinh tướng: đối với pháp Ngũ uẩn, chúng sinh vọng chấp Ngã nương năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hòa hợp mà sinh.
  1. Thọ giả tướng: đối với pháp Ngũ uẩn, chúng sinh vọng chấp Ngã được sống trong một thời gian (từ sinh đến chết), dài ngắn khác nhau, do người mà có khác nhau. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4854).

[46] Luận sư Long Thọ (Long Mãnh, Long Thắng): Tổ của phái Trung Quán ở Ấn Độ, Tổ thứ 13 phó pháp trạng Trung Quốc, Tổ của tám tông tại Nhật Bản, sinh vào khoảng thế kỉ II, III thuộc dòng dõi Bà-la-môn, Nam Ấn Độ. Từ nhỏ, Ngài rất thông minh, đĩnh ngộ, học thông bốn bộ Phệ-đà, thiên văn, địa lí, sấm vĩ, bí tạng và các đạo thuật. Ngài từng cùng ba người bạn thân học phép tàng hình, lén vào cung vua để hành lạc. Sự việc bại lộ, ba người bạn bị vua chém đầu, riêng Ngài thoát khỏi. Do việc này, Ngài cảm ngộ được ái dục là gốc của sự khổ đau, liền vào núi đến trước tháp Phật xuất gia thọ giới. Sau khi xuất gia, Ngài nghiên cứu Tam tạng nhưng thấy chưa đủ, lại đến núi Hymalaya, được gặp một lão Tì-kheo trao cho kinh điển Đại thừa, mặc dù biết thật nghĩa, nhưng Ngài chưa thể thông suốt. Bởi Ngài từng đả phá giáo nghĩa của Luận sư ngoại đạo, cho nên sinh khởi tâm tà mạn, tự lập ra giới mới, mặc áo mới, ở riêng trong căn phòng thủy tinh. Khi ấy bồ-tát Đại Long thấy vậy thương xót, liền dẫn Ngài vào Long cung, trao cho vô lượng kinh điển Đại thừa. Lúc bấy giờ, vua Nam Thiên Trúc tin thờ Bà-la-môn giáo, công kích Phật giáo, Ngài đến đó giáo hóa, khiến vua bỏ Bà-la-môn giáo, quy y Phật giáo. Từ đó về sau, Ngài nỗ lực hoằng pháp, viết nhiều sách chú thích kinh điển Đại thừa, dựng lập thể chế cho giáo học Đại thừa, khiến cho học thuyết Bát-nhã Tánh Không đựơc truyền bá rộng rãi khắp Ấn Độ. Về già, Ngài ở núi Hắc Phong, có vị đệ tử là Đề-bà. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2491).

[47] Khai Nguyên Tạng Lục (Khai Nguyên Lục, Khai Nguyên Mục Lục, Trí Thăng Lục): mục lục, 20 quyển, do ngài Trí Thăng biên soạn vào năm Khai Nguyên 18 (730) đời Tống, Trung Quốc, được xếp vào Đại Chánh tạng, tập 55. Toàn bộ mục lục được chia làm hai phần:

1/ Tổng Quát Quần Kinh Lục: (từ quyển 1 đến quyển 10), tương đương với Đại Lục. Phần này theo thứ tự thời gian phiên dịch để nêu lên 176 tên người dịch 2278 bộ Kinh, Luật, Luận thuộc Đại, Tiểu thừa, tổng cộng 7046 quyển trong thời gian 664 năm, từ năm 67 đời Đông Hán đến năm 730 đời Đường….

2/ Biệt Phần Thừa Tạng Lục: (từ quyển 11 đến quyển 20), phần này phỏng theo cách phân loại mục lục của Pháp Kinh Lục, tương đương với Tiêu Chuẩn Nhập Tạng Mục Lục và Hiện Tạng Nhập Tạng Mục Lục. Biệt Phần Thừa Tạng Lục này lấy Kinh làm chủ yếu, phân làm bảy loại:

  1. a) Hữu dịch hữu bản lục: có tên người dịch và có bản dịch (q. 11 đến 13).
  1. b) Hữu dịch vô bản lục: có tên người dịch nhưng không có bản dịch (q. 14 đến 15).
  1. c) Chi phái biệt hành lục: những bản kinh lưu hành có riêng một chi phái (quyển 16).
  1. d) San lược phồn trùng lục: lược bỏ những rườm rà trùng lặp (q. 17).
  1. e) Bổ khuyết thập di lục: thêm vào những chỗ còn thiếu sót (q. 17).
  1. f)  Nghi hoặc tái tường lục: giải thích rõ lại những nghi hoặc (q. 18).
  1. g) Ngụy vọng loạn chân lục: mục lục các bản ngụy kinh (q. 18).
  1. h) Nhập tạng mục lục: mục lục của 1076 bộ kinh điển gồm 5048 quyển được đưa vào Tạng (2 quyển cuối).

Câu “Tất cả gồm trên 5000 quyển kinh điển” bắt đầu từ đây.

Sách này ghi chép rất đầy đủ và rõ ràng, là khuôn mẫu cho các Kinh Lục và Đại Tạng Kinh đời sau. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2255).

[48] Mân Thục: tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.

[49] Pháp sư Huệ Viễn (523-592) (còn gọi Tùy Viễn, Tiểu Viễn, Đại Viễn, Bắc Viễn): danh tăng Trung Quốc, thuộc phái Nam Đạo, tông Địa Luận, sống vào đời Tùy, họ Lý, người Đôn Hoàng (Cam Túc). Năm 13 tuổi Sư lễ sa-môn Tăng Tư cầu xuất gia. Năm 16 tuổi, theo Luật sư Trạm đến huyện Nghiệp Đô (tức huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam), nghiên cứu nhiều kinh điển Đại Tiểu thừa. Năm 20 tuổi, Sư y chỉ ngài Pháp Thượng thọ giới Cụ túc, học Luật Tứ Phần và những bộ luật khác với ngài Đại Ẩn….

Thời Bắc Chu, vua Vũ Đế ra lệnh phá hủy kinh tượng, bắt sa-môn hoàn tục, chúng tăng không ai dám kháng cự can ngăn, chỉ có một mình Sư dũng cảm ra biện bác. Sư nghiêm giọng tâu vua rằng: “Nay Bệ hạ cậy mình là vua nên phá diệt Tam bảo, đó là người tà kiến. Địa ngục A-tì không lựa sang hèn, Bệ hạ không sợ hay sao?” Vua nổi giận nói rằng: “Nếu làm cho trăm họ được an vui, trẫm sẵn sàng chấp nhận mọi điều khổ ở địa ngục”. Rốt cuộc nhà vua cũng phá diệt Phật pháp. Lúc ấy Sư ẩn tu ở Tây Sơn, quận Cấp, chuyên tâm trì tụng kinh Pháp Hoa, kinh Duy-ma để nguyện cầu cho Phật pháp không bị diệt mất.

Đến khi nhà Tùy hưng khởi, Sư mới khai đường giảng pháp ở Lạc Ấp, danh tiếng vang khắp xa gần, người đến qui y rất đông. Sư lại được vua Văn Đế kính trọng, ban sắc cho Sư làm chức Sa-môn Đô ở Lạc Châu. Sư mở thêm giảng đường ở các nơi như Trạch Châu, Định Châu, Thượng Đảng v.v…. và nhiều lần vâng chiếu trở về Tây Kinh, đích thân vào cung thuyết pháp cho vua quan. Vua rất vui mừng, bèn ban sắc cho Sư trụ chùa Hưng Thiện. Không bao lâu lại xây chùa Tịnh Ảnh, chuyên việc giảng dạy. Vì Sư trụ ở chùa Tịnh Ảnh nên còn gọi là Tịnh Ảnh Tự Huệ Viễn, để phân biệt với ngài Lô Sơn Huệ Viễn. Năm 587, vua sắc phong cho Sư danh hiệu Đại Đức. Năm 592, Sư lại được vua ban sắc chủ trì Dịch trường, chứng nghĩa và nhuận sắc văn. Về già, Sư lại thọ học Nhiếp Đại Thừa với ngài Đàm Thiên. Vì Sư nghiên cứu sâu xa hầu hết các học thuyết đương thời và tinh thông văn lí nên người đời gọi Sư là Thích Nghĩa Cao Tổ.

Sư thị tịch vào năm 592, thọ 70 tuổi.

Tác phẩm: Đại Thừa Nghĩa Chương (26 quyển), Thập Địa Kinh Luận Nghĩa Kí (14 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Sớ (7 quyển), Đại Bát Niết-bàn Kinh Nghĩa Kí (20 quyển), Pháp Hoa Kinh Sớ (7 quyển), Duy-Ma Kinh Nghĩa Kí (4 quyển), Thắng Man Kinh Nghĩa Kí (3 quyển), Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ (1 quyển). (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 2007).

[50] Tứ trụ (Tứ trụ địa): chỗ y chỉ căn bản để sinh khởi tất cả Kiến, tư phiền não trong ba cõi:

  1. Kiến nhất thiết trụ địa: tất cả Kiến hoặc trong ba cõi.
  1. Dục ái trụ địa: tất cả Tư hoặc trong cõi Dục. Trong các Tư hoặc thì tham ái là nặng nhất.
  1. Sắc ái trụ địa: tất cả Tư hoặc trong cõi Sắc.
  1. Hữu ái trụ địa: tất cả Tư hoặc trong cõi Vô sắc.

Tứ trụ địa này nếu thêm Vô minh trụ địa thì gọi là Ngũ trụ địa. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4891).

[51] Giả danh: danh từ được giả lập dùng để gọi các pháp do nhân duyên hòa hợp thành. Phẩm diệt tận định trong luận Thành thật, q. 13, chia giả danh ra làm hai: Nhân giả danh và Pháp giả danh.

  1. Nhân giả danh: thân người do năm uẩn giả hòa hợp, không có thật thể tồn tại, chia làm hai loại:
  1. a) Giả danh nhân ở uế độ: tức là người ở các cõi ác trược, do năm uẩn hữu lậu nhiễm ô hòa hợp mà thành.
  1. b) Giả danh nhân ở tịnh độ: tức Bồ-tát ở cõi Tịnh, do năm uẩn vô lậu thanh tịnh vi diệu hòa hợp mà thành.

Nếu so sánh Bồ-tát ở Tịnh độ và người ở uế độ thì tuy có thân khác nhau, nhưng đều do năm uẩn hòa hợp nên gọi là Giả danh nhân. Giả danh nhân ở cõi uế và cõi tịnh có nghĩa “Bất nhất bất dị”; người tu hành lúc lâm chung sinh về Tịnh độ, lìa bỏ thân người giả danh ở Uế độ; hóa sinh trong hoa sen thành người giả danh ở Tịnh độ. Trong quá trình này thì người ở cõi uế khi lâm chung lấy niệm trước làm nhân, còn khi trở thành người ở cõi Tịnh thì lấy niệm sau làm quả, cho nên nhân quả niệm trước, niệm sau tương tục.

  1. Pháp giả danh: các pháp từ nhiều duyên mà sinh, không có tính cố định, chỉ có tên suông. Theo phái Trung Quán, đứng về Tục đế thì các pháp là “giả”, còn đứng về Chân đế thì các pháp là “không”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1657).

[52] Ngoại đạo thờ lửa, (Sự hỏa Ngoại đạo): một trong các phi ngoại đạo thời cổ ở Ấn Độ. Phi này thờ phụng các vị thần như Hỏa thiên …  vọng chấp rằng sự thờ phụng cúng dường này là nhân để sinh lên cõi trời trong tương lai. Vì Sự hỏa ngoại đạo chủ trương lửa là miệng của chư  thiên, cho nên bỏ các vật cúng như ngũ cốc, bơ vào trong lửa để cúng dường chư thiên. Chư thiên được ăn thì ban phước cho con người.

Khi Đức Phật còn tại thế, pháp thờ lửa rất thịnh hành. Sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài có đến thăm ba anh em Ca-diếp thuộc phái Sự hỏa Bà-la-môn bên bờ sông Ni-liên-thiền, trước tiên Đức Thế Tôn hàng phục con Hỏa long, sau đó thị hiện các thần thông, ba anh em Ca-diếp quăng bỏ những dụng cụ thờ lửa xuống sông rồi qui y Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 4013).

[53]Kinh A-di-đà Đại bản, Tiểu bản: Đại bản: kinh Vô Lượng Thọ, Tiểu bản: kinh A-di-đà, theo sự phân biệt của tông Thiên Thai. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1206).

[54] Lục chủng chấn động: sáu cách chấn động, tức sáu tướng chấn động của mặt đất.

 

Theo phẩm Tư, kinh Đại Phẩm Bát-nhã, t1 ghi: “Sự chấn động của mặt đất tùy theo phương hướng mà có sáu tướng: Đông trồi Tây sụt, Tây trồi Đông sụt, Nam trồi Bắc sụt, Bắc trồi Nam sụt, bên trồi giữa sụt và giữa trồi bên sụt”.

Theo kinh Hoa Nghiêm, q. 16 (bản tân dịch), kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân, t.1 ghi: “Sáu tướng là: động, khởi, dũng, chấn, hống và kích (diêu)”.

– Động là lay động không yên. Khởi là từ thấp dần lên cao. Dũng là bỗng nhiên vọt lên. Ba tướng này chỉ cho hình thức địa chấn.

– Chấn là phát ra tiếng động ầm ĩ. Hống là tiếng rống mạnh mẽ của loài thú. Kích là phát ra tiếng dội ầm ầm. Ba tướng này chỉ cho âm thanh địa chấn.

Hình (hình thức) và thanh (âm thanh) mỗi thứ đều có một loại, gọi là chấn động. Sáu thứ đều có ba tướng: Tiểu (độc), trung (biến) và đại (phổ biến, đẳng biến) cho nên cộng chung có 18 tướng là: động, biến động, đẳng biến động, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích. Biến là bốn phía đều lay động, còn phổ biến là tám phía đều lay động. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2527).

[55] Nghiệp chủng (Nghiệp chủng tử, Nghiệp tập khí, Dị thục tập khí, Hữu chi tập khí, Hữu phần huân chủng tử, Hữu thụ tận tướng chủng tử): chủng tử của nghiệp quả, Nghiệp có nghĩa là tạo tác. Những sự tạo tác lành dữ huân thành chủng tử, gọi là Nghiệp chủng tử. Sự tạo tác này không thông qua tám thức mà chỉ thuộc Tư tâm sở, tương ưng với ý thức. Bởi Tư tâm sở lấy tạo tác làm tính, sai sử các tâm, tâm sở khiến thành thiện ác. Tư tâm sở tương ưng với thức thứ sáu, phát động thân, khẩu, ý khiến cho tạo nghiệp thiện ác rồi thành Tư chủng tử. Tư chủng tử này có hai tác lực: Công năng sinh hiện hành của phần mình và công năng giúp cho các chủng tử vô kí kém khác sinh hiện hành. Công năng sinh hiện hành của phần mình vẫn gọi là Danh ngôn chủng tử, không phải là nghiệp chủng tử. Công năng giúp cho chủng tử khác hiện hành mới gọi là Nghiệp chủng tử.

Tóm lại, Nghiệp chủng tử cùng Danh ngôn chủng tử chỉ là một thể, nhưng cứ nơi công năng khác nhau của Tư chủng tử trên phương diện tự tha mà phân biệt. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3115).

[56] Kết hoặc: kết sử, trói buộc chỉ cho phiền não. Vì phiền não trói buộc chúng sinh vào cảnh mê, khiến không thể thoát khỏi cái khổ sinh tử.

[57] Văn huệ và Tư huệ: Văn huệ là trí tuệ có được do nghe người khác giảng nói giáo pháp. Tư huệ là trí tuệ có được do chính mình tư duy. Còn Tu huệ là trí huệ có được do tu hành thật sự. (TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 5974).

[58] Tượng pháp và Mạt pháp: sau khi đức Phật nhập diệt, y cứ vào sự vận hành của giáo pháp mà chia ra làm ba thời: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.

– Tượng pháp là thời kì thứ hai trong ba thời. Thời kỳ mà giáo pháp tương tự với thời Chánh pháp. Thời kỳ này chỉ có giáo thuyết và người tu hành, ít người chứng quả.

– Mạt pháp là thời kỳ sau cùng. Thời kỳ này có nhiều người lãnh thọ giáo pháp tu hành, nhưng không thể chứng ngộ. Lúc bấy giờ Phật pháp suy đồi, tăng chúng trược loạn.

* Trong Ngũ Trược Bộ của Pháp Uyển Châu Lâm, q. 98, ghi: “Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, sẽ có năm thứ loạn:

  1. Tỳ-kheo thời vị lai học pháp với hàng bạch y.
  1. Kẻ bạch y ngồi trên tòa, hành tỳ-kheo ngồi ở dưới.
  1. Tỳ-kheo thuyết pháp, người nghe không tuân hành, vâng thọ; còn kẻ bạch y thuyết pháp lại cho là vô thượng.
  1. Tỳ-kheo sinh điên đảo, cho pháp thế gian là chân đạo đế, mà không thấu hiểu chánh pháp của Phật giáo, lấy sự trá ngụy làm tin.
  1. Các tỳ-kheo đời vị lai nuôi dưỡng vợ con, tôi tớ, chỉ thích tranh cãi với nhau, không vâng theo lời Phật dạy.

Về thời hạn của ba thời kì, có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng sau khi Đức Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp 1000 năm; có thuyết cho rằng Chánh pháp và Tượng pháp đều trụ thế 1000 năm, rồi mới đến thời kì Mạt pháp, thời kì này trải qua 10.000 ngàn năm, sau đó thì Phật pháp diệt tận; thuyết khác cho rằng Chánh pháp 1000 năm, Tượng pháp và Mạt pháp mỗi thời kì 10.000 năm. Nhưng nhìn chung các kinh luận đều cho thời kì Mạt pháp là 10.000 năm. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2673).

[59] A-tu-la: một loại quỷ thần hiếu chiến của Ấn Độ bị xem là ác thần và thường tranh đấu với trời Đế Thích; một trong sáu đường, một trong tám bộ chúng, một trong 10 giới. Các kinh thường nêu ra ba nhân sân, mạn và nghi khiến cho chúng sinh sinh vào A-tu-la. Nhưng kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt thì liệt kê ra 10 nguyên nhân sinh vào trong loài A-tu-la: 1/ Thân làm việc ác nhỏ; 2/ Miệng nói lời ác nhỏ; 3/ Ý nghĩ điều ác nhỏ; 4/ Khởi tâm kiêu mạn; 5/ Khởi tâm ngã mạn; 6/ Khởi tâm tăng thượng mạn; 7/ Khởi tâm đại mạn; 8/ Khởi tâm tà mạn; 9/ Khởi tâm mạn mạn; 10/ Lui sụt căn lành. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 56).

[60] Năm ác, Năm thống, Năm thiêu : năm thứ ác: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt (nói ác, nói dối, nói thêu dệt) và uống rượu. Nếu tạo năm điều ác này, hiện đời bị phép vua trị tội, thân gặp ách nạn, gọi là Ngũ thống (năm sự đau đớn); do năm điều ác này, đời sau chịu quả báo đọa ba đường khổ gọi là Ngũ thiêu (năm sự thiêu đốt). (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2909).

[61] Huyền đàm: gồm hai nghĩa:

  1. Luận bàn về tựa đề, chỉ thú, thể lệ hoặc tác giả trước khi giải thích phần chánh văn. Như: Khởi Tín Luận Huyền Đàm cua Phổ Ninh, Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Đàm  của Trừng Quán.
  1. Bàn luận tổng quát về huyền lí của Phật giáo. Như: Thập Huyền Đàm v.v… (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 2011).

[62] Biệt hành: lưu hành riêng biệt. Từ trong một bộ kinh điển lớn trích ra một phần để lập thành một bộ sách độc lập và lưu hành ở đời gọi là Biệt hành. Như phẩm Phổ Môn được trích từ kinh Pháp Hoa, làm thành kinh Quán Âm lưu hành độc lập với kinh Pháp Hoa. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 540).

[63] Thiên Bảo Tràng: một loại nhạc cụ của cõi trời, giống như tràng phan. Theo kinh Di-lặc Thượng Sinh, ở cung trời Đâu-suất có năm vị đại thần, vị thứ nhất tên Bảo Tràng có năng lực tuôn ra bảy báu, rải khắp trong cung tường, mỗi hạt châu báu lại hóa thành nhạc khí treo ở hư không, những nhạc khí này không người đánh mà tự chúng nó kêu. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 361).

[64] Thích-ca-tỳ-lăng-già bảo ( S: akrbhi lagna-maṇi-ratna. Còn gọi Thích-ca-tì-lăng-già ma-ni bảo, Thích-ca-tì-lăng-già thắng ma-ni bảo, Tì-lăng-già ma-ni bảo châu): một loại ngọc trang sức trên cổ của trời Đế Thích, thường phóng ánh sáng. Thích-ca-tì-lăng-già thông thường dịch là Đế Thích trì, nghĩa là “sở hữu của trời Đế Thích”, lại dịch là Năng thắng, Li cấu. Ma-ni là từ gọi chung các loại châu báu. Trong kinh cũng cho đây là vật trang nghiêm của Phật, Bồ-tát. Kinh Đại Phương Quảng Bảo Khiếp, q. thượng ghi: “Bảo châu tì-lăng-già ma-ni trên cổ trời Đế Thích soi chiếu khắp tam thập tam thiên, bảo châu thanh tịnh này dụ cho trí tính của Bồ-tát, có năng lực hiển hiện tất cả mọi việc”. Phẩm Nhẫn Giảo Lượng trong kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni, q. 5 cho rằng: “Trên đảnh núi Tu-di có ba thứ báu là uy hoa, thích-ca-tì-lăng-già ma-ni bảo, và bảo tinh; trong đó Thích-ca-tì-lăng-già ma-ni bảo có màu vàng ròng, do thiện căn sinh ra, tự nhiên chiếu sáng vượt qua Đao-lợi thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, đảnh núi Tu-di, đến tận Phạm cung. Bồ-tát từ cõi Diêm-phù-đề sinh lên cõi trời Đâu-suất nhờ năng lực của thiện căn nên vật báu này liền tự nhiên sinh trong tráp, tất cả ma sự tự nhiên hoại diệt”. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5443).

[65] Chân-thúc-ca bảo: còn gọi là Khẩn-thúc-ca bảo, kiên-thúc-ca bảo, (S. Kímuka) là loại đá quí có màu đỏ đẹp như hoa của cây chân-thúc-ca. Theo Di-lặc Thượng Sinh Kinh Sớ của ngài Khuy Cơ (Vạn Tục, q. 35, tr. 393 ha) ghi: “Chân-thúc-ca, hình dáng giống như viên bảo châu lưu li màu đỏ”. Màu sắc của lưu li có nhiều loại, nhưng đẹp nhất là màu đỏ. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 881).

[66] Nhất tâm, Thập lực, Tứ vô sở uý:

–    Nhất tâm: tâm chuyên chú vào một đối tượng nào đó mà không khởi vọng niệm. Nhất tâm có ba điều tịnh tín. Đó là: chí tâm (hết lòng), tín nhạo (tin ưa) và dục sinh ngã quốc (muốn sinh về cõi nước Cực lạc). Do đó, Nhất tâm bao hàm ba nghĩa: chí thành tâm, Thâm tâm và Hồi hướng phát nguyện tâm. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3227).

–    Thập lực: mười trí lực của Như Lai, đó là:

1/. Xứ phi xứ trí lực: xứ nghĩa là đạo lí. Như Lai biết một cách chắc thật đối với tất cả nhân duyên quả báo, nếu tạo thiện nghiệp thì biết nhất định được quả báo vui, gọi là Tri thị xứ.

2/. Nghiệp dị thục trí lực: Như Lai biết rõ nghiệp duyên, quả báo, sinh xứ trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại của tất cả chúng sinh.

3/. Tĩnh lự giải thoát đẳng trì chí trí lực: Như Lai tự tại, vô ngại đối với các thiền định, biết khắp và đúng như thật thứ tự sâu cạn.

4/. Căn thượng hạ trí lực: Như Lai biết đúng như thật chúng sinh căn tính thắng liệt, đắc quả đại tiểu của chúng sinh.

5/. Chủng chủng thắng giải trí lực: Như Lai đều biết đúng như thật tất cả các thứ dục lạc, thiện ác khác nhau của chúng sinh.

6/. Chủng chủng giới trí lực: Như Lai đều biết đúng như thật các giới phần khác nhau của chúng sinh ở thế gian.

7/. Biến thú hành trí lực: Như Lai đều biết đúng như thật về nơi đến của hạnh hữu lậu là lục đạo, nơi đến của hạnh vô lậu là Niết-bàn.

8/. Túc trụ tùy niệm trí lực: Như Lai đều biết đúng như thật đối với các túc mạng, một đời đến trăm nghìn muôn đời, một kiếp đến trăm nghìn muôn kiếp, chết kia sinh đây, tên tuổi uống ăn, khổ vui thọ mạng.

9/. Sinh tử trí lực: Như Lai dùng thiên nhãn biết đúng như thật về thời gian sinh tử của chúng sinh và cõi thiện, cõi ác ở đời vị lai, cho đến các nghiệp duyên thiện ác như đẹp xấu, giàu nghèo…

10/. Lậu tận trí lực: Như Lai đã đoạn hẳn các tập khí tàn dư vĩnh viễn chẳng còn sinh khởi; biết khắp và đúng như thật. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 5256).

–    Tứ vô sở úy: bốn sự tự tin, không sợ hãi, dũng mãnh và an ổn của các Đức Phật, đó là:

1/. Chư pháp hiện đẳng giác vô úy: đối với các pháp đều giác biết, trụ trong chánh kiến không bị khuất phục bởi điều gì, có sự tự tin không sợ hãi.

2/. Nhất thiết lậu tận trí vô úy: đoạn hết tất cả phiền não nên không có sự sợ hãi từ các chướng nạn bên ngoài.

3/. Chương pháp bất hư quyết định thọ kí vô úy: nói rộng về pháp tu hành chướng ngại, đồng thời không sợ hãi đối với bất cứ một sự bắt bẻ nào.

4/. Vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như  tính vô úy: giảng nói đạo xuất thế không hề sợ hãi điều gì.

[67] Cảm ứng đạo giao: mối tương giao và cảm ứng giữa Phật và chúng sinh. Đây là do cơ duyên của chúng sinh đã thành thục, khiến được các Đức Phật hưởng ứng, nên sự “cảm” của chúng sinh và “ứng” của Phật giao xen nhau. Hơn nữa, căn tính của chúng sinh nhiều đến trăm nghìn, nên sự ứng hiện khéo léo của các Đức Phật cũng vô lượng.

Theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa, t. 6, q. thượng, mối tương giao cảm ứng giữa chúng sinh và Phật có bốn trường hợp:

1)  Minh cơ minh ứng. (Cơ thầm ứng thầm): chúng sinh ở đời quá khứ chuyên tu ba nghiệp, ở đời hiện tại tuy chưa tu nghiệp của thân và miệng nên không nhận thấy sự linh ứng, nhưng nhờ căn lành đời trước (Minh cơ) mà thầm được lợi ích pháp thân (Minh ứng).

2)  Minh cơ hiển ứng. (Cơ thầm ứng hiển): chúng sinh ở quá khứ vun bồi gốc lành, cơ duyên đã âm thầm thuần thục, được gặp Phật nghe pháp, hiện tiền được lợi ích.

3)  Hiển cơ hiển ứng. (Cơ hiển ứng hiển): chúng sinh ở đời hiện tại tinh tấn tu tập ba nghiệp thân, miệng và ý mà cảm được lợi ích.

4)  Hiển cơ minh ứng (Cơ hiển ứng thầm): chúng sinh ở trong một đời siêng năng tu tập, chứa nhóm nhiều hành lành, tuy không hiểu rõ cơ cảm, nhưng vẫn thầm được lợi ích.

Ngoài ra, Pháp Hoa Huyền Nghĩa còn lập 36 trường hợp khác để triển khai nghĩa cảm ứng đạo giao, cuối cùng căn cứ vào 10 pháp giới mà phân tích chi tiết sự khác nhau này. Tóm lại, “cảm” của chúng sinh và “ứng” của các Đức Phật có đến 64.800 trường hợp. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 657).

[68] Đồng thể đại từ bi: quán chúng sinh với mình đồng một thể mà khởi bi tâm bình đẳng để cứu khổ, ban vui.

Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, xem nỗi khổ của chúng sinh như nỗi khổ của chính mình mà khởi lòng thương xót vô hạn. Kinh Đại Niết-bàn q. 16, bản Bắc ghi: “Như cha mẹ thấy con bệnh hoạn, sinh lòng khổ não, xót thương lo buồn, từng giây, từng phút. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, thấy chúng sinh bị phiền não trói buộc, các Ngài buồn khổ, lo nghĩ như mẹ thương con đỏ, đến nỗi các lỗ chân lông đều ra máu”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1598).

[69] Tuy duyên phó cảm, ứng vật tùy hình: tùy thuận nhân duyên giáo hóa chúng sinh. Tức các Đức Phật, Bồ-tát thuận ứng các duyên chẳng đồng như hoàn cảnh, căn cơ. Do đó, các Đức Phật thích ứng theo căn cơ của chúng sinh mà thị hiện mọi hình tướng để giáo hóa. Kinh Kim Quang Minh, 2 ghi: “Chân Pháp thân của Phật giống như hư không, ứng vật hiện hình, như trăng đáy nước”. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4667; t. VII, tr. 5926).

[70] Đương thể (Đương thể tức thị): ngay nơi đó chính là bản thể. Như đương thể của sóng là nước; đương thể của phiền não là bồ-đề; đương thể của sinh tử là Niết-bàn. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1630).

[71] Thập lực: mười lực của Bồ-tát, tức 10 tác dụng của Bồ-tát ở giai vị Vô Phược Vô Trước Giải Thoát Hồi Hướng thứ chín trong Thập hồi hướng. Đó là: Thâm tâm lực (trực tâm lực); Tăng thượng thâm tâm lực; Phương tiện lực; Trí lực; Nguyện lực; Hành lực; Thừa lực; Thần biến lực; Bồ-đề lực và chuyển pháp luân lực. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5256).

[72] Chúng ảnh hưởng (Ảnh hưởng chúng): các Bồ-tát vì giúp đỡ Như Lai trong việc giáo hóa, nên các Ngài ẩn quả viên cực của mình mà chỉ thị hiện trong hàng thánh chúng để nghe pháp, gọi là Ảnh hưởng chúng. Do vậy có thể nói Thích-ca Pháp vương như hình, như tiếng; còn Bồ-tát như bóng, như vang. Pháp Hoa Văn Cú Kí, q.2, hạ ghi: “Các Đức Phật và pháp thân Bồ-tát thuở xưa đã giấu cái cao tột của mình mà giúp đỡ đấng Pháp vương”; như các vì sao vây quanh mặt trăng, tuy không làm gì nhưng cũng có ảnh hưởng lớn, nên gọi là Ảnh hưởng chúng. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 125).

[73] Tử kim (Tử ma huỳnh kim): vàng ròng, là loại vàng tốt và quý nhất, đồng với vàng Diêm-phù-đàn ở Ấn Độ. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4920).

[74] Năm chúng xuất gia: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na-ni, Sa-di, Sa-di ni.

[75] Tịnh hạnh: giới hạnh thanh tịnh. Phẩm Tự, kinh Pháp Hoa ghi: “Tinh tấn giữ tịnh giới như giữ hạt minh châu”.

[76] Thất chi (Thất tụ): 1/ Ba-la-di; 2/ Tăng-già-bà-thi-sa; 3/ Thâu-lan-giá; 4/ Ba-dật-đề; 5/ Ba-la-đề-đề-xá-ni; 6/ Đột-cát-la; 7/ Ác thuyết.

[77] Trong nguyên bản không giải thích phần Quang minh.

[78] Ngũ trụ phiền não (Ngũ trụ địa phiền não): năm phiền não: 1/ Kiến nhất thiết xứ trụ địa; 2/ Dục ái trụ địa; 3/ Sắc ái trụ địa; 4/ Hữu ái trụ địa; 5/ Vô minh trụ địa. Vì năm hoặc này là sở y, sở trụ của tất cả phiền não và có khả năng sinh ra phiền não, nên gọi là trụ địa. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3042)

[79] Hai phần sinh tử: Phần đoạn sinh tử và Biến dịch sinh tử.

[80] Phạm âm (còn gọi Phạm thanh): âm thanh vi diệu, thanh tịnh của Phật, Bồ-tát, một trong 32 tướng quí của Phật. Theo luận Đại Trí Độ, q.4, Phạm âm của Phật có năm năng lực: 1/ Rền như sấm vang; 2/ Trong trẻo vang xa, người nghe tâm sinh vui mừng; 3/ Khiến người sinh tâm kính ái; 4/ Dễ hiểu; 5/ Người nghe không chán. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3464).

[81] Chúng đương cơ: Bà Vi-đề-hi v 500 thị nữ cng nghe Phật thuyết về cảnh giới của Đức Phật A-di-đà. Đây là Đại quyền phương tiện, chư Phật v Bồ-tt thị hiện để độ sinh.

[82] Tịnh nghiệp: hành nghiệp thanh tịnh. Tức ba chính nhân Tịnh nghiệp: Thế phước, Giới phước và Hành phước; cũng là ba nhân vãng sinh Tịnh độ:

  1. Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ phụng sư trưởng, từ tâm bất sát, tu tập 10 nghiệp lành;
  1. Thụ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi;
  1. Phát tâm bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4514).

[83] Nghĩa Sớ: chính l bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Nghĩa Sớ này .

[84] Linh Chi: tên thường gọi của Đại sư Nguyên Chiếu, vì trụ trì chùa Linh Chi ở Hàng Châu suốt 30 năm, nên người đời tôn xưng Ngài là Linh Chi Tôn Giả. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2452).

[85] Cụ phược phàm phu (Cụ phược phàm chúng): Kiến hoặc và Tư hoặc chưa đoạn hết. Phược là tên khác của phiền não; do phiền não có năng lực trói buộc loài hữu tình, làm cho đọa lạc trong cảnh khổ luân hồi.

Nói về thứ bậc tu hành thì Cụ phược phàm phu là chỉ cho hàng Tam Hiền, Tứ thiện căn, từ Kiến đạo trở xuống, cho đến tất cả phàm phu chưa đoạn hoặc. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 779).

[86] Khoa văn: phân chia văn kinh ra thành các chương, đoạn, điều, mục, v.v… để tiện giải thích.