QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT NHƯ Ý LUÂN NIỆM TỤNG NGHI QUỸ

Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện, Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Huyền Thanh

 

Y theo Kinh Quán Đỉnh Đạo Trường nói về cách tu Pháp Môn Đà La Ni để cầu mau chóng xa lìa biển lớn sinh tử.

Thoạt tiên phải vào Đại Trường Quán Đỉnh trong Hải Hội của Chư Phật Như Lai. Thọ Quán Đỉnh xong, phát Tâm hoan hỷ theo Thầy thọ nhận Pháp Tắc niệm tụng. Sau đó ở tĩnh thất, nơi rất thượng thắng là chỗ rừng, sông, núi, xây dựng Đạo Trường, và đặt bày Bản Tôn. Người tu hướng mặt về phương Đông. Nên dùng Cù Ma Di (Gomayī: phân bò) xoa lau đất ấy, mài Bạch Đàn hương làm bùn hương rồi dùng xoa Đàn. Hoặc vuông hoặc tròn, lớn nhỏ tùy ý. Ở trên Đàn rải các danh hoa, đốt hương, thắp đèn, cúng dường. Lấy 2 cái bình sạch đựng đầy nước thơm, đặt ở trong Đàn dùng để cúng dường. Hành Giả tắm gội hoặc chẳng tắm gội đều không có chướng ngại. Có điều nên vận Tâm suy tư quán sát “Tất cả chúng sinh vốn có tính thanh tĩnh” bởi vì bụi trần che bám mà chẳng thấy bản tính Chân Như Thanh Tĩnh. Vì khiến cho thanh tĩnh nên phải chí Tâm, chắp tay LIÊN HOA tụng Mật ngữ này.

Chân ngôn là:

“Án sa-phộc bà phộc thú độ hám”

Do sức gia trì của Chân Ngôn này cho nên 3 nghiệp của Thân, Khẩu, Ý đều được thanh tịnh. Sau đó cúi 5 vóc sát đất, quy mệnh lễ tất cả 10 phương Chư Phật, các Đại Bồ Tát, Đại Thừa Phương Quảng ở khắp 10 phương. Rồi quỳ gối phải sát đất, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện rồi chí Tâm tụng kệ này:

_ Quy mệnh Chính Đẳng Giác mười phương
Diệu Pháp tối thắng, chúng Bồ Tát
Dùng nghiệp thanh tịnh “Thân, Khẩu, Ý”
Ân cần chắp tay cung kính lễ

_ Luân hồi vô thủy trong các cõi
Nghiệp Thân, Khẩu, Ý tạo nên tội
Như Phật, Bồ Tát đã sám hối
Nay con Trần sám cũng như vậy

_ Trong hạnh nguyện Chư Phật Bồ Tát
Ba nghiệp Kim Cương sinh phước đức
Duyên Giác, Thanh Văn với Hữu tình
Gom chứa căn lành, tùy hỷ hết.

_Tất cả “Thế Đăng: ngồi Đạo Trường
Nay con quỳ gối xin khuyến thỉnh
Chuyển xoay Vô thượng Diệu Pháp luân
Bao nhiêu Như Lai chủ Tam giới
Bậc đến Vô Dư Bát Niết Bàn
Con đều khuyến thỉnh trụ đời lâu
Chẳng bỏ Bi Nguyện cứu Thế gian

_ Phước sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh
Nguyện con chẳng mất Tâm Bồ Đề
Chư Phật, Bồ Tát trong diệu chúng
Thường làm bạn lành chẳng chán bỏ
Xa lìa tám nạn, sinh vô nạn
Túc Mệnh Trụ Trí, trang nghiêm thân
Mau lìa ngu mê đủ Bi Trí
Đều hay mãn tú Ba La Mật
Giàu có sang quý sinh thắng tộc
Quyến thuộc rộng lớn hàng đông đầy
Bốn Vô Ngại Luận, mười Tự tại
Sáu Thông, các Thiền đều viên mãn
Như Kim Cương Tràng với Phổ Hiền
Nguyện, tán, hồi hướng cũng như vậy.

_ Tiếp, vì đối trước Thế Tôn, ngồi kiết già hoặc bán già, khởi tâm đại từ “Con tu Pháp này vì tất cả chúng sinh, nguyện mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề”. Trước hết, các loại hương dùng để xoa bàn tay. Sau đó kết Phật Bộ Tam Muội Gia Đà La Ni Ấn. Chắp 2 tay lại giữa rỗng, mở 2 ngón trỏ rồi co lại phụ với lóng dưới của 2 ngón trỏ. Liền thành Ấn ấy.

Đặt Ấn ngay trái tim, tưởng Đức Như Lai có 32 tướng tốt, 80 tùy hình tốt đẹp, mỗi mỗi rõ ràng như đối diện trước mắt. Chí Tâm tụng Chân Ngôn này 7 biến. Chân Ngôn là:

“Án đát tha nghiệt đổ nạp-bà phộc dã sa-phộc ha”

Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn, liền cảnh giác tất cả Như Lai đều hộ niệm gia trì cho Hành Giả. Dùng ánh hào quang chiếu chạm thân thì bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt tăng trưởng thọ mệnh mau tăng trưởng phước tuệ. Thánh Chúng của Phật ủng hộ tùy hỷ. Đời đời kiếp kiếp xa lìa các nẻo ác, hóa sinh trong hoa sen, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.

_ Tiếp, kết Liên Hoa Bộ Tam Muội Gia Ấn. Chắp 2 tay giữa rỗng, mở bung 2 ngón trỏ, 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh rồi hơi co lại như hình hoa sen mới nở, rồi đặt ngang trái tim.

Tưởng Quán Tự Tại Bồ Tát có đầy đủ tướng hảo, hoa sen đặc biệt kỳ diệu. Liền tụng Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn ở bên phải đỉnh đầu. Chân Ngôn là:

“Án bả ná-mô nạp bà phộc dã, sa-phộc hạ”

Do kết Ấn này với tụng Chân Ngôn, liền cảnh giác với các bậc cầm hoa sen của hàng Quán Tự Tại Bồ Tát, tất cả Bồ Tát, Thánh Chúng trong Liên Hoa Bộ thảy đều hoan hỷ, gia trì hộ niệm. Do ánh hào quang của tất cả Bồ Tát tiếp chạm vào thân thời bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt. Tất cả Bồ Tát thường làm bạn lành.

_ Tiếp, kết Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Ấn.

Nghiêng tay trái hướng lòng bàn tay ra ngoài. Đem lưng chưởng phải đặt lên lưng chưởng trái. Hai ngón cái, 2 ngón út cùng móc nhau như hình cái chày Kim Cương.

Đặt Ấn ngay tim, tưởng Kim Cương Tạng Bồ Tát cầm chày Diệu Kim Cương với uy quang tướng hảo. Liền tụng Chân Ngôn 7 biến, rồi bung Ấn ở bên trái đỉnh đầu.

Chân Ngôn là:

“Án phộc-nhật lô, nạp bà-phộc dã sa-phộc hạ”

Do kết Ấn với tụng Chân Ngôn liền cảnh giác tất cả Kim Cương Thánh Chúng, gia trì ủng hộ cho nên bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt, tất cả sự đau khổ chẳng vướng vào thân, thường được thể bền chắc của Kim Cương, tất cả các Ma chẳng dám xâm nhiễm.

_ Tiếp, kết Hộ Thân Bị Giáp Kim Cương Giáp Trụ Ấn

Cùng cài chéo 10 ngón tay trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, dựng 2 ngón giữa sao cho đầu ngón chạm nhau. Co 2 ngón trỏ như hình móc câu, đặt ở lưng ngón giữa đừng để chạm nhau, kèm 2 ngón cái đè lên 2 ngón vô danh liền thành.

Đem Ấn gia trì 5 nơi trên thân mình là: vầng trán, vai phải, vai trái, trái tim, cổ họng rồi buông Ấn trên đỉnh đầu. Đều tụng Chân Ngôn 1 biến. Chân Ngôn là:

“Án phộc nhật la lang-nghĩ bát-la niệm bả-đá dã sa-phộc ha”

Do kết Ấn với tụng Chân Ngôn gia trì liền thành Bị Kim Cương Giáp Trụ. Bao nhiêu loài Tần Na Dạ Ca, các Thiên Ma, loài gây chướng ngại, đều lui tan chạy trốn. Tất cả đều thấy Hành Giả tỏa hào quang bọc quanh thân có uy đức tự tại.

Nếu ở núi rừng và nơi hiểm nạn thảy đều không sợ hãi. Bao nhiêu tai nạn về nươc lửa, tất cả ách nạn, cọp, sói, sư tử, đao, gậy, gông cùm, xiềng xích … thảy đều tiêu diệt. Người nhìn thấy đều vui vẻ. Sau khi chết chẳng bị đọa vào nẻo ác, thường sinh ở quốc thổ tịnh diệu của Chư Phật.

_ Tiếp kết Địa Giới Kim Cương Quyết Ấn.

Đặt ngón vô danh của tay phải vào bên trong ngón út và ngón vô danh của tay trái. Đặt ngón giữa vào bên trong ngón trỏ và ngón ngón giữa của tay trái. Bên trái cũng như vậy đều để đầu ngón hướng ra ngoài. Các ngón khác kèm đầu ngón dính nhau.

Liền tưởng Ấn thành cái chày Hỏa Diễm Kim Cương. Đem ngón cái chạm mặt đất rồi rút kéo. Một lần rút, một lần tụng cho đến 3 lần liền ngưng. Tùy ý là tiêu chuẩn lớn nhỏ của tâm Hiền thánh Kiên cố địa giới. Chân ngôn là:

“Án Chỉ lý chỉ lý Phộc nhật la Phộc nhật ly bộ luật mãn đà mãn đà Hồng phát tra”

 

Do kết Ấn với tụng Chân Ngôn gia trì địa giới cho nên phía dưới đến Thủy Tế như Kim Cương Tọa. Thiên Ma và các đồ chúng chẳng thể gây não được. Chỉ dùng chút ít công sức đều mau được thành tựu.

_ Tiếp kết Phương Ngung Kim Cương Tường Ấn.

Dựa theo Địa Giới Ấn lức trước, mở 2 ngón cái dựng đứng bên cạnh như hình bức tường.

Tưởng Ấn như hình cái chày Kim Cương. Xoay bên phải 3 vòng biểu thị cho Tâm lớn nhỏ liền thành cái chày Kim Cương bền chắc. Kim Cương Bồ Tát còn chẳng có thể trái ngược được huống chi các kẻ khó điều phục khác. Tỳ Na Dạ Ca với độc trùng, loài có nanh vuốt bén nhọn chẳng dám đến gần. Chân Ngôn là:

“Án tát la tát la phộc nhật-la bát la ca la hồng phát tra”

_Hành Giả tiếp nên tưởng ở trong Đàn có hoa sen 8 cánh lớn. Trên hoa có tòa Diệu Sư Tử, trên Tòa có lầu gác 7 báu có Lưu Ly rủ treo, lụa là, phướng lọng, cây báu bày hàng với áo Trời vi diệu rũ treo. Chung quanh có mây hương giăng phủ Trời tuôn đủ loại hoa như mưa, các âm nhạc hòa tấu, bình báu, Át Già, thức ăn uống mỹ diệu của cõi Trời, ngọn Ma Ni làm đèn. Tác quán này xong thì tụng kệ là:

Dùng lực công Ta

Lực Như Lai gia trì

Cùng dùng lực Pháp Giới

Cúng dường khắp mà trú

Nói kệ này xong. Tiếp kết Đại Hư Không Tạng Phổ Cúng Dường Ấn. Chắp 2 tay lại, đem 2 ngón giữa, bên phải đè bên trái hướng ra ngoài cài chéo nhau bám dính lên lưng bàn tay. Đem 2 ngón trỏ dính nhau như hình báu.

Kết Ấn thành xong, tụng Chân Ngôn 4 biến. Phổ Cúng Dường Chân Ngôn là:

“Án nga nga nẵng, tam bà phạ phộc nhật-la hộc”

Do kết Ấn này với lực tụng Chân Ngôn gia trì nên nơi tưởng cúng dường và vật báu thật đều không khác, tất cả Thánh Chúng đều được thọ dụng.

_ Tiếp, nên kết Bảo Xa Lạc Ấn.

2 tay cài chéo bên trong, rồi ngửa lòng bàn tay, 2 ngón trỏ phụ dính nhau, đem 2 ngón cái đều vịn dưới gốc ngón trỏ.

Tưởng Ấn thành xa lộ bảy báu; Kim Cương điều khiển 7 báu bay trên Hư không đi đến Thế giới Cực Lạc thỉnh các Thánh Giả. Liền tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“Án đô lễ đô lễ Hồng” 

Do kết Ấn này với tụng Chân ngôn gia trì nên Xa Lạc 7 báu đến Quốc thổ Cực Lạc. Lại tưởng NHƯ Ý LUÂN QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT với các Thánh Chúng quyến thuộc vây quanh cỡi xa lộ báu đến trong Đạo trường mà trú ở Hư Không.

_ Tiếp, kết Xa Lộ Ấn liền tụng “Thỉnh Xa Lộ Chân Ngôn”. Đem 2 ngón hướng về thân bát (khều bới) đầu 2 ngón giữa.

Tụng 3 biến Chân ngôn là:

“Ná ma tất-để dã địa-vĩ ca nam, đát tha nghiệt đa nẫm. Án phộc nhật-la lãng ngân-nhĩ yết lị-sa dã sa-phộc hạ”

 

Do Chân ngôn Ấn này gia trì nên Thánh chúng từ Bản Thổ đi đến trụ trên Hư Không của Đạo Trường.

_ Tiếp, kết thỉnh Bản Tôn Tam Muội Gia Giáng Chí Ư Đạo Trường Ấn. 2 tay cài chéo bên trong rồi nắm lại thành quyền. Co ngón cái trái vào lòng bàn tay, đem ngón cái phải hướng về thân triệu mời.

Tụng Chân ngôn 7 biến. Chân ngôn là:

“Án A lô lực ca, a tất xa a tát ca , sa-phộc ha”

Do Chân Ngôn Ấn này gia trì nên Quán Tự Tại Bồ Tát chẳng làm ngược lại Bản Thệ liền đi đến Đạo Trường mà nhận sự cúng dường này.

_ Tiếp, nên Tịch Trừ các loài gây chướng. Kết Liên Hoa Bộ Mã Đầu Quán Tự Tại Bồ Tát Chân Ngôn Ấn.

Chắp 2 tay lại, co 2 ngón trỏ, ngón vô danh vào trong lòng bàn tay sao cho các ngón chạm lưng nhau. Dựng mở 2 ngón cái hơi co lìa đầu ngón, 2 ngón út, 2 ngón giữa đều hợp dựng liền thành.

Tùy tụng Chân Ngôn Ấn trên đỉnh đầu, xoay bên trái 3 vòng tưởng Tịch Trừ các loài gây chướng nạn. Tất cả chư Ma nhìn thấy Ấn này xong liền lui tan bỏ chạy. Liền xoay bên phải 3 vòng liền thành Kết Giới. Minh Vương Chân Ngôn là:

“Án A mật-lý đổ nạp bá phộc Hồng phát tra sa-phộc hạ”

_ Tiếp, kết Thượng Phương Kim Cương Võng Ấn

Dựa theo Tường Ấn lúc trước. 2 ngón cái vịn lóng dưới 2 ngón trỏ.

Tụng Chân Ngôn 3 biến đem Ấn lên trên đỉnh đầu xoay bên phải 3 vòng. Chân Ngôn là:

“Án vĩ sa-phổ la nại-la khất-xoa phộc nhật la bán nhạ la Hồng phát tra” 

Do kết Ấn này với tụng Chân ngôn gia trì liền thành Kim Cương bền chắc chẳng thể hoại

_ Tiếp, kết Kim Cương Hỏa Viện Mật Phúng Ấn.

Đem tay trái đè lên lưng tay phải, dựng 2 ngón cái.

Tụng Chân ngôn 3 biến. Xoay quanh bên phải thân 3 vòng tưởng bên ngoài bức tường Kim Cương có 2 lớp lửa bùng cháy vây quanh. Chân ngôn là:

“Án A tam mãng ngân-nhĩ Hồng phát tra”

_ Tiếp, kết Át Già Hương Thủy Chân Ngôn Ấn.

2 tay nâng cái bình đưa ngang trán phụng hiến.

Tưởng rửa chân của Thánh Chúng. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô Tam mãn đà một đà nam nga nga nẵng sa mãng sa mang sa-phộc hạ”

 

Do hiến nước thơm Át Già nên Hành Giả được 3 nghiệp Thanh Tĩnh, rửa sạch bụi nhơ phiền não.

_ Tiếp, kết Hiến Liên Hoa Tòa Ấn

Chắp 2 tay lại giữa rỗng, duỗi mở các ngôn vô danh, giữa, trỏ rồi co lại như hình hoa sen hé mở.

Tưởng Chư Thánh với Bản Tôn ở trong ngôi lâu các báu đều ngồi ở vị trí của mình quyến thuộc vây chung quanh. Mỗi mỗi phân biệt rõ ràng. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“Án Ca ma la sa phộc hạ”

Do kết Liên Hoa Tòa Ấn gia trì phụng hiến nên Hành Giả sẽ đựơc mãn túc 10 Địa, thường được tòa Kim Cương.

_ Tiếp, kết Phổ Cúng Dường Ấn

Chắp 2 tay lại sao cho ngón tay bên phải đè ngón tay bên trái hỗ trợ cài nhau ở lóng trên liền thành.

Tụng Chân Ngôn 3 biến. Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng vô biên mây biển hương xoa, mây biển vòng hoa, mây biển hương đốt, mây biển thức ăn uống và đèn sáng đều thành sự cúng dường rộng lớn thanh tĩnh. Liền tụng Phổ Cúng Dường Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“Ná mô Tát phộc Đát tha nghiệt đế tỳ dạ. Vĩ thấp-phộc mục khế tỳ-dược tát phộc tha khiếm niết ná-ninh để-sa-phả la tứ hàm nga nga nẵng kiếm sa-phộc hạ”

_ Tiếp, nên tụng Tán Thán Kệ

1)Ca ma la mục khư

2)Ca ma la lộ tả na

3)Ca ma la sa na

4)Ca ma la hạ sa đá

4)Ca ma la sa mẫu nễ

6)Ca ma la ca ma la

7)Tam tất phộc

8)Sa ca la ma la

9)Khất-xoa la na

10)Na ma tất đế

 

 

Tiếp nên suy tư, tưởng ngay lồng ngực của thân mình như hình mặt trăng đầy ánh hào quang chiếu sáng. Trên mặt trăng có hoa sen 8 cánh, ở trong thai hoa sen có viên Bảo Châu Như Ý như màu pha lê hồng, tỏa ánh sáng hào quang rực rỡ chiến soi vô lượng thế giới, ở trong ánh hào quang tuôn ra Bản Tôn Như Ý Luân Quán Tự Tại Bồ Tát có đủ 6 cánh tay, tướng tốt đẹp viên mãn, trú tướng suy tư.

Tác quán đó xong, khởi Tâm Đại Bi. Liền kết Như Ý Luân Căn Bản Ấn. Chắp 2 tay lại, co 2 ngón trỏ như hình báu, co 2 ngón giữa cùng dính nhau như cánh hoa sen, hợp dựng 2 ngón cái liền thành.

Tưởng Như Ý Luân Bồ Tát như ở ngay trước mắt, mỗi mỗi phân biệt rõ ràng.

Liền tụng CĂN BẢN ĐÀ LA NI 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô la đát nẵng đát la dạ dã

Nẵng mô A ly-dạ phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la-dã, mạo địa tát đát-phộc dã, ma hạ tát đát phộc-dã, ma hạ ca lỗ ni ca dã.

Đất nễ-dã tha. Án chước khất khất-la ngoa để chấn đa ma ni ma hạ bả nạpminh lỗ lỗ để sắt-xá, nhập-phộc la a ca la-sái dã Hồng phán tra sa-phộc hạ” 

 

_ Tiếp, kết NHƯ Ý LUÂN TÂM ẤN

Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trướoc. Đem 2 ngó vô danh, 2 ngón út. Bên phải đè bên trái, cùng cài chéo nhau bên ngoài liền thành.

Tụng Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu. Chân Ngôn là:

“Án, bả ná-ma chấn đá ma ni nhập-phộc la Hồng” 

_ Tiếp, kết TÂM TRUNG TÂM ẤN

Dựa theo Tâm Ấn lúc trước, đem 2 ngón giữa cùng cài chéo nhau bên ngoài, 2 ngón út phụ dựng liền thành.

Tụng Tâm Trung Tâm Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu. Chân Ngôn là:

“Án phộc la ná bả nạp-minh Hồng” 

Liền trì niệm châu. Cầm tràng hạt trong lòng bàn tay dùng Tâm Trung Tâm Chân Ngôn gia trì 7 biến. Sau đó cầm tràng hạt đặt ngay trái tim. Theo ký số niệm tụng mãn 1.080 biến, trú nơi Tam Ma Địa của Bản Tôn. Đoạn tuyệt các Duyên khác, mỗi mỗi rõ ràng. Xong biến số rồi, đặt tràng hạt trong lòng bàn tay đưa lên đỉnh đầu để đội rồi để vào chỗ cũ. Sau đó kết Căn Bản Ấn, Tâm Ấn, Tụng Tâm chú liền nhập vào Tam Ma Địa Quán. Liền quán mặt trăng tròn nơi trái tim dần dần lớn ra bao trùm cả Pháp giới, chẳng còn thấy Thân Tâm chỉ thành Pháp Giới Thanh tĩnh. Hết thời gian bữa ăn, từ Tam Ma Địa xuất ra.

Tiếp kết Phổ Cúng Dường Ấn, hiến hương hoa đẳng với nước Át Già, tán thán, phát nguyện.

Liền kết Hỏa Viện Kết Giới Ấn. Trên đầu xoay bên trái 1 biến liền thành Giải Giới.

Tiếp kết Xa Lộ Hương Ấn hướng ra ngoài bạt (khều bới).

Tiếp kết Nghinh Thỉnh Ấn, hướng ra ngoài khêu bối.

Tiếp kết Hộ Thân Ấn, ấn vào năm nơi xong.

Tiếp kết Tam Bộ Tam Muội Gia Ấn liền ra khỏi Đạo Trường tùy ý Kinh Hành. Đọc tụng Kinh điển Đại thừa. Để trợ giúp cho Tất Địa Thượng Trung Hạ đã mong cầu trong Tâm Hành Giả, nếu ngày ngày 3 thời hay y theo niệm tụng này thì tiêu diệt đựơc tội chướng, đắc được Đại Trí Tuệ, thành tựu được Tam Muội, Bản Tôn hiện ra trước mặt, hay được Công Đức như Kinh đã nói.

QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT NHƯ Ý LUÂN NIỆM TỤNG NGHI QUỸ

_Hết_