PHỤ LỤC 1:
Ðại kinh hợp tán
(Lời khen ngợi chung kinh Vô Lượng Thọ)
Muốn tu Tịnh Ðộ ắt phải đọc kinh này vì kinh này là cương yếu của mọi kinh Tịnh Ðộ. Không đọc kinh này thì chẳng thể thâm nhập, có đọc mới có thể tổng trì. Người tu Tịnh nghiệp chẳng thể không đọc vì kinh này thuật đủ không sót nhân quả thế gian, xuất thế gian, sự khổ điều vui. Không đọc kỹ chẳng thể chánh tín. Ðối với những y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, pháp thức tu trì nếu không đọc kinh này thì khó lòng hiểu nổi.
Kẻ tu Thiền cần phải đọc kinh này vì pháp môn này chính là vô thượng thâm diệu Thiền. Vì Di Ðà chính là tự tánh, vì Tịnh Ðộ chính là duy tâm. Có Thiền, có Tịnh Ðộ như hổ mọc thêm sừng. Hơn nữa, Thiền chính là Tịnh, Tịnh chính là Thiền; ngoài Tịnh chẳng có Thiền, chẳng tin Tịnh Ðộ chính là chẳng tin Thiền, mà cũng chính là chẳng tin vào tự tâm vậy.
Người học Mật cần phải đọc kinh này vì tự ngay đầu kinh, đức Thượng Sư thuyết pháp, nhập địa vị Quán Ðảnh, thọ ký Bồ Ðề, đến đạo tràng trang nghiêm, Bổn Tôn phóng quang, toàn bộ bốn thứ mạn đà la đều được đầy đủ. Hơn nữa, cõi Mật Nghiêm nào khác với Cực Lạc.
Người tu theo tông Hiền Thủ chẳng thể không đọc kinh này vì các đại Bồ Tát cùng tuân hạnh đức của Phổ Hiền đại sĩ, chỗ nào cũng dẫn dắt về Cực Lạc; vì kinh này thuần hiển lý sự vô ngại, mà cũng vì kinh này chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm, vì Cực Lạc chính là Hoa Tạng.
Tông Thiên Thai chẳng thể chẳng đọc kinh này vì hễ thành kính đọc theo kinh văn này thì Chỉ lẫn Quán đều vẹn, chẳng cần phải theo thứ lớp mà vào ngay môn viên đốn tự tại; vì cảnh chính là tâm, tâm chính là cảnh; vì hội tam quy nhất. Lại cũng chính vì kinh này chính là như kinh Pháp Hoa đã dạy: ‘Chỉ một sự thật duy nhất, còn hai sự khác thời chẳng phải là chơn thật’.
Pháp Tướng tông chẳng thể không đọc kinh này vì y báo, chánh báo cõi Cực Lạc chính là Pháp Tướng, vì tín nguyện trì danh chính là Duy Thức. Do nguyện sanh mà ngộ vô sanh, do Y Tha chứng được Viên Thật, vì nhập hữu đắc không, chuyển thức thành trí.
Người đã trì kinh Tiểu Bổn càng lại nên đọc kinh này, đốn giác tâm địa khai minh. Ðã đọc kinh này lại đọc kinh Tiểu Bổn mới thấy chỗ giản dị, vi diệu, tinh thuần, thiết thực. Nương theo kinh này phát tâm Bồ Ðề, một bề chuyên niệm thì mới đắc nhất tâm bất loạn, chẳng thể chuyên niệm thì thật khó mà nhất tâm.
Người đọc Quán kinh xong nên đọc kinh này để càng thêm tin ‘tâm này làm Phật, tâm này là Phật’, vì kinh này càng giảng tường tận về việc tu tập ba phước. Hơn nữa, so với những pháp nhật quán, thủy quán cho đến bảo thọ, Bồ Tát Phật quán trong Quán kinh thì cách tu tập trong kinh này lại càng thiết yếu, dễ tu hơn nữa.
Kẻ chưa tin Phật càng chẳng thể không đọc kinh này vì kinh này có khả năng phát khởi chánh tín, nhân duyên nguyện lực xuất sanh thiện căn, vì kinh này có thể gieo hạt giống đạo vĩnh viễn vào mảnh ruộng thức ô nhiễm. Ðọc kinh này thì dẫu chẳng tin Phật cũng chẳng trở thành kẻ ác.
Kẻ thích văn tự càng chẳng thể không đọc kinh này vì kinh này chọn lọc những điều thanh nhã, giản khiết từ cả năm bản dịch Hán, Ngụy, Ðường, Ngô, Tống; đọc kỹ sẽ hiểu phương pháp hành văn khiến cho văn chương càng thêm cao diệu; lại nếu dùng Bát Nhã để quán chiếu văn tự thì sẽ thông đạt được Thật Tướng.
Người hướng đến Ðại thừa nhất định phải đọc kinh này vì trong kinh nói: ‘Ðúng như lời dạy mà tu hành thì chẳng phải là Tiểu thừa, đáng gọi là đệ tử bậc nhất trong pháp ta’. Người này đã từng gặp gỡ đức Phật quá khứ, được thọ ký Bồ Ðề, vô lượng ức Bồ Tát thảy đều cầu pháp môn vi diệu này, tôn trọng nghe nhận, có nhiều vị Bồ Tát muốn được nghe kinh này mà chẳng được nghe.
Kẻ học Nho chẳng thể chẳng đọc kinh này vì một bề chuyên niệm chính là ‘thành ý chánh tâm’. Phát Bồ Ðề tâm mới có thể ‘minh đức tân dân’, cùng sanh Cực Lạc thì mới có thể ‘chỉ ư chí thiện’. Sự tịch cảm của kinh Dịch, sự tinh nhất của kinh Thư, sự không điều gì chẳng kính của kinh Lễ, sự suy nghĩ chẳng tà của kinh Thi đều gồm trọn trong kinh này.
Chẳng luận là kẻ đang theo việc quân, người làm việc nước, kẻ đang học hành, người bận kinh doanh ai cũng không thể không đọc kinh này vì kinh này đối trị tham, sân, si, tiêu nghiệp, đoạn trừ tập khí, tăng phước khai huệ, uốn nắn tâm người, cải hóa phong tục, tiêu tai hóa kiếp, khiến cho vận nước xương long, thế giới bình an. Kinh này chính là vô tận bảo tạng vậy.
Chẳng luận tăng, tục, trai, gái, ai cũng không thể không đọc kinh này vì kinh này độ khắp ba căn, trị lành các bịnh, dẹp khổ ban vui, là đèn sáng phá tối tăm, là thuyền từ để vượt biển nghiệp, thật là Nhất Thừa liễu nghĩa, tổng môn của vạn thiện, được mười phương chư Phật khen ngợi. []
(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch xong ngày 02 tháng 07 năm 2002)
Nguyện xin việc chuyển ngữ bản chú giải này nếu có chút phần công đức nào thì đều xin hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, hết thảy u hiển thánh phàm cùng sanh Cực Lạc, cùng chứng đại Bồ Ðề.
PHỤ LỤC 2:
Niên Sử Năm Bản Hán Dịch
Vạn Từ soạn
Như quyển Chú Giải nầy đã cho biết rằng kinh Vô Lượng Thọ khi được chuyển dịch sang Hán văn có đến 12 bản dịch khác nhau, lưu truyền được đến ngày nay chỉ còn 5 bản. Khi chuyển dịch sách nầy sang Việt ngữ, chúng tôi xin nêu ra sử và bối cảnh của 5 bản dịch nầy.
1-Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh được dịch vào năm 186 bởi ngài Chi Lâu Ca Sấm dưới thời vua Linh Ðế triều Hậu Hán (25-220 sau CN).
Ngài Chi Lâu Ca Sấm là người nước Ðại Nhục Chi, đến Lạc Dương vào những năm cuối thời Hán Hoàn Ðế (147-167). Trong khoảng 178-189, ngài dịch được hơn 20 bộ kinh như: kinh Ðạo Hành Bát Nhã, kinh Bát Chu Tam Muội, kinh A Xà Thế Vương, kinh Thủ Lăng Nghiêm…
Ngài là người đầu tiên dịch thuật và truyền bá kinh điển thuộc hệ Bát Nhã vào Trung Quốc. Riêng kinh Bát Chu Tam Muội góp phần hình thành tư tưởng Di Ðà Tịnh Ðộ vào thời kỳ sơ khai, như về sau có ngài Lô Sơn Huệ Viễn lấy kinh nầy làm nền tảng để lập nên Bạch Liên Xã.
Ngài là người giới hạnh thanh cao, cần mẫn tu tập, suốt cả đời lấy chí nguyện hoằng dương Phật Pháp làm trọng trách. Phong cách phiên dịch của Ngài là không câu nệ nơi lời văn trau chuốt, mà chỉ cần dịch toát được ý kinh. Ngài mất vào năm nào sử không ghi rõ.
2- Phật Thuyết A Di Ðà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Ðàn Quá Ðộ Nhân Ðạo Kinh do ngài Chi Khiêm dịch vào năm 228 vào đời Ngô (222-280)
Ngài Chi Khiêm vốn là cư sĩ, tự là Cung Minh, xuất thân từ nước Ðại Nhục Chi. Dưới thời Hán Linh Ðế (168-189), theo học với ngài Chi Lượng là đệ tử ngài Chi Câu La Sấm.
Cuối triều Hậu Hán, xảy ra cục diện loạn lạc Tam Quốc phân tranh, Ngài chạy loạn vào đất Ngô, được Ngô Vương Tôn Quyền triệu kiến, lại hỏi về những điều thâm áo của Phật Pháp, ngài Chi Khiêm tùy nghi ứng đáp minh bạch. Ngô Vương rất cảm phục tôn Ngài làm Bác Sĩ để dạy cho Thái Tử Tôn Lượng.
Trong khoảng năm 222-253, Ngài dốc sức dịch được hơn 30 quyển kinh như: Kinh Duy Ma Cật, Kinh Ðại Bát Nê Hoàn, Pháp Cú, Bát Sư…. Văn phong của Ngài rất uyển chuyển lưu loát.
Lúc Thái Tử lên ngôi, Ngài lui về ẩn cư nơi núi Khung Ải, gạt mọi việc đời, theo ngài Trúc Pháp Lan tu tập. Mất năm 60 tuổi.
3- Vô Lượng Thọ Kinh do ngài Khang Tăng Khải dịch vào năm 252 tại chùa Bạch Mã, Lạc Dương.
Hiện nay các sử liệu còn lưu lại cho chúng ta biết rất ít về ngài Khang Tăng Khải, chỉ biết rằng Ngài xuất thân từ Thiên Trúc. Cuối niên hiệu Gia Bình (252), Ngài đến ngụ tại Lạc Dương kinh đô triều Tào Ngụy (220-263) một trong ba nước thời Tam Quốc. Trong thời gian ở Lạc Dương, Ngài ngụ tại chùa Bạch Mã, nơi đây Ngài dịch các kinh sau: Úc Già Trưởng Giả Vấn Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Tứ Phần Tạp Yết Ma…
4- Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, bản nầy trích từ kinh Ðại Bảo Tích, do ngài Bồ Ðề Lưu Chí dịch vào năm 706 vào đời Ðường (618-907).
Ngài Bồ Ðề Lưu Chí là người Nam Thiên Trúc, xuất thân từ giai cấp Bà La Môn, tinh thông thiên văn, địa lý, lịch số, chú thuật, y phương, cùng các học thuyết ngoại đạo. Năm 60 tuổi ngộ được chỗ thâm diệu của đạo Phật. Năm 67 tuổi xuất gia tu hạnh đầu đà. Từ đấy Ngài nổi danh là uyên bác.
Vì nghe danh nên vua Ðường Cao Tông (650-683) cho người cung thỉnh Ngài sang Trung Quốc hoằng pháp; vì lòng đại bi thương xót chúng sanh trong vòng sanh tử, Ngài nhận lời mời. Ðến Trung Quốc không bao lâu thì vua Cao Tông băng hà. Năm Trường Thọ thứ 2 (693), Võ Hậu Tắc Thiên thỉnh Ngài trụ tại chùa Phật Thọ Ký ở thành Lạc Dương; tại đây Ngài dịch được 11 bộ kinh như : Phật Cảnh Giới, Bảo Vũ… Võ Hậu Tắc Thiên cũng hạ chiếu thỉnh Ngài dịch và giảng Kinh Ðại Bảo Tích.
Năm 706 đời vua Ðường Trung Tông, Ngài dời đến chùa Sùng Phước, Trường An, tiếp tục dịch thêm được nhiều kinh khác. Công trình lớn nhất của Ngài là duyệt và dịch lại những hội chưa hoàn chỉnh của Kinh Ðại Bảo Tích, Ngài làm việc ròng rã suốt 8 năm để hoàn tất việc nầy.
Tháng 9 năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời vua Ðường Huyền Tông, tại chùa Trường Thọ, Lạc Dương, Ngài tuyệt thực, không thuốc men mà thần sắc vẫn tươi tỉnh. Ngày 5 tháng 11 Ngài an nhiên thị tịch. Vua truy tặng chức Hồng Lô Ðại Khanh, ban thụy hiệu là Khai Nguyên Nhất Thiết Biến Tri Tam Tạng.
Về tuổi thọ của Ngài thì có thuyết cho rằng 166 tuổi, nhưng có nơi lại nói rằng 156 tuổi và khi sang Trung Quốc thì Ngài đã 123 tuổi.
5- Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Trang Nghiêm Kinh do ngài Pháp Hiền dịch vào năm 980 dưới thời Bắc Tống (960-1127).
Hiện nay chúng ta chỉ còn biết rằng ngài Pháp Hiền xuất thân từ Tây Vực. Năm 980 Ngài dịch kinh tại phủ Hà Trung. Năm 982 được vua ban hiệu Truyền Giáo Ðại Sư. Ngài mất năm 1001 được vua ban thụy hiệu là Huyền Giác Ðại Sư. Kinh điển do Ngài dịch khoảng 120 bộ.