PHỦ CHÂU TÀO SƠN BỔN TỊCH THIỀN SƯ NGỮ LỤC

SỐ 1987B

QUYỂN THƯỢNG

Sa-môn (Viễn Tôn) Tuệ ấn hiệu đính.

BÀI TỰA TÀO ĐỘNG NGỮ LỤC

Viên ngọc ở Kính Sơn, nếu không gặp được Minh Thế và Hòa Thị thì đã bị lãng quên trong Kinh thạch (nhà đá chứa kinh) rồi, đâu phải phô bày hết vẻ đẹp rực rỡ của nó. Nay ngọc còn đó mà Minh Thế và Hòa Thị khó được gặp nhau thôi.

Ngữ Lục của Đại Sư Hà Ngọc ở Tân Phong, trước khi chưa thịnh hành ở đời thì như mắt cá lẫn với hạt minh châu, vàng lộn với cát. Thượng tọa Mặc Nghi rất đau lòng vì Sự tệ hại đó. Nên từ bộ Ngũ Tông Lục của Quách Ngưng Chi, thu tập các sách, chọn lọc những tinh hoa, bỏ đi những thô thiển rồi viết thành bộ Ngữ Lục này.

Tôi cùng với Thượng tòa giao tiếp nhau rất thâm hậu, nên được Thượng tòa gữi cho tôi đọc bộ sách này. Tôi thầm nghĩ: Thượng tọa Mặc Nghi có lẽ là Hòa Thị của Đại Sư Hà Ngọc ở Tân Phong?

Tuy có Hòa Thị nhưng chẳng được gặp. Còn Minh Thế thì làm sao có thể đến đây được. Vui mừng thay! Đã trưng bày được văn minh của Đại Đông ta, đến đổi có được cái đẹp ngày nay. Môn đệ của Khổng Tử đâu dám đẹp với cái đẹp này, vui với cái vui này.

Ngữ Lục của Tân Phong đã khắc bản xong, thì Ngữ Lục của Hà Ngọc nay cũng hoàn thành. Nay kẻ bất tài này xin giới thiệu cái đẹp và vui đó, giúp cho mọi người khắp nơi biết được trí tuệ chánh pháp của Thượng tọa Mặc Nghi.

Rằm tháng 8 năm Canh Thân – Nguyên văn.

Quận Sơn Liễu Trạch Lý Cung Công Mỹ viết ở Thất Lục Trúc, Nam Song.

BÀI TỰA CỦA TÀO SƠN NGỮ LỤC

Cổ nhân nói: Ý ở ngoài lời”.

Lại nói: Được ý quên lời. “Ý” là chỉ, “lời” là tiêu chí. Chỉ khó được, tiêu chí dễ được, cho nên mượn tiêu chí dễ được ý chỉ khó được. Nếu mất ý chỉ thì làm sao lập được cái dụng của tiêu chí. Cho nên cổ nhân chỉ chấp vào tiêu chí.

Lại nói: Nó là “cát đằng”, lại gọi là “xao môn ngõa tử” (mượn miếng ngói để gõ cửa). Thiền giả Vân Châu khế hợp với Mặc Nghi , được Đại Sư Hà Ngọc nói trong lục Ngũ Tông của Quách Chánh Trung, lại được Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên với những trước tác biên ra. So sánh về Sự dị đồng, kiểm nghiệm về chân ngụy đề tựa là Tào Sơn Ngữ lục. Phụ vào Đồng Sơn Ngữ Lục rồi truyền bá rộng rãi thật là chí lớn thay! Nhưng tôi chưa từng biết điều đó. Quả thật người đắc ý soan cưỡng ép chấp lời sẽ là người xao môn ngõi tử đó sao. Thỉnh Thiền giả Chất Chi là Tuế Khoan thưa thỉnh hòa nam bảo vào mùa Xuân Tân Dậu, chủ nhân Nhạn Phong Nguyên Quang xin lễ bái soạn.

Không đắm trước hư thuyền, khéo chuyển linh cơ, quạ vàng bay đêm ngựa gỗ hí trong gió, bốn cắm, ba đọa tự nhiên nắm trong tay lại là năm tướng lỗ mũi nhọn chếm bùn, rượu Thanh Nguyên của nhà họ Bạch ngươì say mất đồ đạc, mày và mắt không biết nhau. A Sư còn tự mê, quê hương trùng độc từng đi qua. Giọt nước cũng khó thấm, miêu tả cái này, gạt bỏ cái kia, lưu bố rộng vẫn phân biệt đầu mối. Sa-môn Lâm Tuyên Nguyên Chỉ lễ bái ghi.

TỰA CỦA TRÙNG TẬP TÀO SƠN NGUYÊN CHỨNG ĐẠI SƯ NGỮ LỤC

Ngữ lục là gì?

Hà Ngọc Đại Cư Nguyên Chứng nói: Những điều được nói từ xưa đến nay. Cái còn của thời nay, với cái còn của người xưa, thì xưa có thể được. Còn nay chưa có thể được. Nếu chọn nay nó gượng lấy xưa mà có thể ư? Còn lấy nay mà có thể ư? Lẽ nào đều lấy kim cổ mà có thể ư?

Than ôi! Lấy cái này bỏ cái gì, chi bằng so sánh kim cổ mà chọn thì có thể. Tóm lại ngữ lục Đại Sư lưu hành ở đời đều là ngụy soạn. Phàm người thượng đường dạy đồ chúng, hoặc Thư tứ cấm tụng thêm trợ từ, để làm thượng đường, điều đó soạn bậy. Có thể biết vậy.

Ngữ Lục Đông tào với đối với Chi Na, tập lục của Quách Lê My cũng là ngày nay, còn xưa thì chưa có. Tuy nhiên, chẳng phải toàn bích. Quang Nhuận cũng chẳng thuộc về Yên Thạch. Vì thế kẻ bất tài rút từ giáo trong Ngũ Tông Lục của Hà Ngọc, lấy những điều đáng lấy, bỏ những điều đáng bỏ, hoặc biên ra để bổ sung chỗ thiếu, Ngữ lục thành rồi, đối với người xưa thích dạy đời sau, mang ơn ấy là trước hết.

Trưng cầu về giáo lý ấy, ở đời sau, người phụ chí ấy sao được

Trước. Kẻ bất tài sở dĩ muốn nhặt lấy cổ ngữ của người xưa. So sánh chân ngụy của xưa nay, truyền rộng giáo ấy và gắng gỏi. Mong rằng người sau mang chí này đặt vào hàng đầu để thể hội, nếu được vậy thì chúng ta và Tổ Sư đồng cưỡi con rùa bơi lội trong hồ sâu mênh mông há không vui ư?

Sa-môn Nghi Mặc Huyền Khế người Nhật Bản, Mùa đông năm Canh Thân thứ năm. Nguyên Văn lễ bái soạn.

PHỦ CHÂU TÀO SƠN BỔN TỊCH THIỀN SƯ NGỮ LỤC

QUYỂN THƯỢNG

Sư húy Bổn Tịch Họ Huỳnh, người Bồ Điền Tuyền Châu. Lúc nhỏ, Sư chuyên học Nho. Năm mười chín tuổi, Sư xuất gia ở Lành Thạch Phúc Châu, năm hai mươi lăm tuổi thọ giới cụ túc. Sau đó tham vấn Thiền Sư Động Sơn Lương giới.

Động Sơn hỏi: Xà-lê tên gì?

Sư thưa: Bổn Tịch

Động Sơn hỏi: Lại nói lên trên Sư đáp: Không nói.

Động Sơn hỏi: Vì sao không nói.

Sư đáp: Không gọi là Bổn Tịch.

Động Sơn phục chí khí của Sư. Từ đó Sư được vào thất hầu Động Sơn mấy năm. Một hôm Sư đến từ biệt ra đi.

Động Sơn mật truyền tông chỉ lại hỏi: Ông đi đến chỗ nào?

Sư thưa: Đi chỗ không biến dị

Động Sơn nói: Chỗ không biến dị lại có đến sao?

Sư thưa: Đến cũng không biến dị

Sư đến Tào Khê, lễ tháp Tổ trở về Cát Thủy, chúng nghe danh Sư đến thỉnh khai pháp vì mộ Lục Tổ nên Sư đặt tên núi là Tào Sơn. Không lâu gặp phải giặc loạn, Sư dời về huyện Nghi Huỳnh. Có người cư sĩ cúng ngôi nhà Hà vương cho Sư trụ trì. Sư đổi tên Hà vương ra Hà Ngọc. Nơi đây giáo hóa hưng thịnh, người học các nơi kéo về rất đông, Tông chỉ Động Sơn được rạng rỡ.

Sư dạy chúng: Tình phàm và kiến Thánh là khóa kín đường huyền, hẳn phải hồi hỗ nhau.

Người lấy chánh mạng thực cần đủ ba thứ đọa: Phi mao đới giác. Bất đoạn thanh sắc Bất thọ thực.

Lúc ấy Trù-bố-nạp hỏi: Phi mao đới giác là cái gì đọa?

Sư đáp: Là Sa-môn đọa (loại đọa)

Trù-bố-nạp hỏi: Bất đoạn thanh sắc là cái gì đọa?

Sư đáp: Tùy loại đọa.

Trù-bố-nạp hỏi: Bất thọ thực là cái gì đọa?

Sư đáp: Tôn quý đọa.

Nhân có vị Tăng hỏi Sư về Ngũ Vị Quân Thần Chỉ Quyết. Sư giải thích: Chánh vị tức không giới, xưa nay không một vật. Thiên vị tức sắc giới, có muôn hình vạn tượng. Chánh Trung Thiên trái lý theo Sự. Thiên Trung Chánh bỏ Sự vào lý. Kiêm đới là thần chánh duyên, không đọa các cõi, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng Chánh, chẳng Thiên nên gọi là hư huyền đại đạo không phân biệt được chân tông. Quân (vua) là chánh vị Thần là Thiên vị. Bầy tôi theo vua là Thiên Trung Chánh. Vua nhìn xuống thần là Chánh Trung Thiên. Đạo Quân Thần hợp là Ngữ Kiêm đới.

Tăng hỏi: Thế nào là quân?

Sư nói:

Diệu đức tôn hoàn vũ,

Cao minh lãng thái hư.

Tăng hỏi: Thế nào là thần?

Sư đáp:

Linh cơ hoằng Thánh đạo

Chân trí lợi quần sinh.

Tăng hỏi: Thế nào là quân?

Sư đáp:

Bất đọa chư dị thú.

Ngưng tình vọng Thánh dung

Tăng hỏi: Thế nào là quân thị thần?

Sư đáp:

Diệu dụng tuy bất động

Quang chúc bổn vô thiên.

Tăng hỏi: Thế nào là đạo Vua thần hợp?

Sư đáp:

Hỗn loạn không trong ngoài,

Dung hòa bình yên trên dưới.

Hồn nhiên vô nội ngoại.

Hòa dung thiên hạ bình.

Sư lại bảo: Lấy Quân, Thần, Thiên, Chánh nói không muốn cho phạm ở. Cho nên thần khen vua, không dám có lời chê bai vậy. Đây là

Tông pháp yếu của ta. Kệ rằng

Học giả tiên tu thức tự tông

Mạc tương chân tế nạp ngoan không

Diệu minh thể tận tri thương xúc

Lực tại phùng duyên bất tá trung

Xuất ngữ trực giao thiêu bất trước

Tiềm hành tu dữ cổ nhân đồng

Vô thân hữu Sự siêu kỳ lộ

Vô Sự vô thân lạc thủy chung.

Dịch nghĩa:

Học giả trước cần hiểu tự tông.

Chớ đem chân tế lẫn ngoan không

Tội thể diệu minh biết xúc chạm

Sức tại phùng duyên chẳng mượn trung

Thốt lời cần phải thiêu chẳng đến.

Thầm đi nên với cỗ nhân đồng

Không thân có việc siêu đường tẻ

Không việc không thần lạc thủy chung

* * *

Mạc tương chân tế nạp ngoan không

Diệu minh thể tận tri thương xúc

Lực tại phùng duyên bất tá trung

Xuất ngữ trực giao thiêu bất trước

Tiềm hành tu dữ cổ nhân đồng

Vô thân hữu Sự siêu kỳ lộ

Vô Sự vô thân lạc thủy chung

Học giả trước cần hiểu tự tông

Chớ đem chân tế lẫn ngoan không

Tội thể diệu minh biết xúc chạm

Sức phùng duyên chẳng mượn trung

Thốt lời cần phải thiêu chẳng đến

Thầm đi nên với cổ nhân đồng

Không thân có viện siêu đường tẻ

Không việc không thần lạc thủy chung

Kệ 1:

Bạch y tu bái tướng

Thường dân làm Tễ tướng

Thử Sự bất vi kỳ

Việc ấy chẳng lạ lùng

Tích đại trâm anh giả

Nhiều đời làm quyền quý

Hưu ngôn lạc phách thì

Thôi nói lúc lang thang

Kệ 2 (Dịch):

Tý thời đương chánh vị

(Giờ Tý đang chánh vị

Minh chánh tại quân thần

Rõ chánh vị ở vua tôi

Vi ly Đâu Suất giới

Chưa rời cõi Đâu Suất

Ô kê tuyết thượng hành

Gà đen đi trên tuyết trắng)

Kệ 3: (Dịch)

Diệm lý hàn băng kết

Trong lò băng lạnh kết

Dường hoa cửu nguyệt phi

Tháng chín hoa dương bay

Nê ngưu hống thủy diện

Trâu đất rống trong nước

Mộc mã trục phong tê (tư)

Ngựa gỗ hý, phi dài

Kệ 4: (Dịch )

Vương cung sơ giáng nhật

Vương cung mới giáng sinh

Ngọc thố bất năng ly

Thỏ ngọc chẳng thể rời

Vị đắc vô công chi

Chứa được ý vô công

Nhân thiên hà đại trí.

Trời người sao quá chậm

Kệ 5: (Dịch)

Hồn nhiên tàn lý Sự

Thuần chân chứa Sự lý

Trẫm triệu tốt nan minh

Điềm báo trước khó sánh

Oai âm vương vị hiểu

Oai Âm vương chưa rõ

Di-lặc khởi tinh tinh

Di-lặc há tỉnh tỉnh

Khi Sư hành cước hỏi thiền Sư Ô Thạch Quan: “Thế nào là chủ

Pháp Thân Sư Tỳ Lô.”

Nếu ta nói với ông tức có khác. Sư nêu giống Động Sơn.

Động Sơn nói: Giống như đầu lưỡi chỉ thiếu lời, sao không hỏi vì sao không nói?

Sư bước lên trước.

Ô Thạch nói: Nếu nói ta không nói tức miệng ta bị câm. Nếu nói ta nói thì khó xử cho lưỡi của ta.

Sư trở về kể cho Động Sơn. Đông Sơn gật đầu chấp nhận.

Vân Môn hỏi: Thế nào là hạnh Sa-môn?

Sư đáp: Ăn lúa mạ của thường trụ.

Vân Môn hỏi: Vậy đi thì thế nào?

Sư đáp: Ông có chứa được không?

Vân Môn đáp: Chứa được.

Sư hỏi: Ông làm sao chứa?

Vân Môn đáp: Mặc áo ăn cơm có gì khó.

Sư nói: Sao không nói mang lông đội Sừng?

Vân Môn lễ bái.

Sư dạy chúng: Các vị trọn giữ cách thức, sao không nói một chuyển ngữ, để dứt nghi cho ông ta.

Vân Môn ở trong chúng bước ra hỏi: Chỗ mật vì sao không biết có?

Sư đáp: Chỉ vì mật, cho nên không biết có.

Vân Môn hỏi: Người này làm sao thân cận?

Sư nói: Chớ nhằm chỗ mật mật mà thân cận Vân Môn nói: Không nhằm chỗ mật thì sao?

– Mới giỏi thân cận.

Vân Môn: Dạ dạ

Vân Môn hỏi: Người không dễ Sửa đổi đến Sư có tiếp không?

Tào Sơn: Không rãnh công phu.

Sư nhân Hòa thượng Mễ đến, chưa thấy nhau. Mễ bèn ngồi lên giường thiền. Sư không đi ra. Mễ bỏ đi.

Tri Sự bèn hỏi: Giường thiền của Hòa thượng. Vì sao là người khác ngồi ròi bỏ đi?

Sư bảo: Đi rồi lại đến.

Mễ quả nhiên trở lại gặp Sư.

Trí Cự đến tham hỏi Sư: Cổ nhân nêu người bên nào, học nhân không biết?

Sư nói: Lùi bước thì đã vạn không không còn một.

Ngay lời nói đó Trí Cự bỗng quên huyền giải.

Sư hỏi Kim Phong Chí: Từ đâu đến?

Chí đáp: Từ nhà đến.

Sư: Hiểu chưa?

Chí đáp: Bên này thì hiểu Sư hỏi: Việc bên kia thế nào?

Ngày hạ công bạch Hòa thượng.

Đúng vậy! Đúng vậy!

Tăng Thanh Nhuệ hỏi: Mỗ giáp con nghèo cùng xin Thầy cứu giúp.

Sư nói: Xà-lê Nhuê lại gần đây.

Thanh Nhuê đến gần.

Sư nói: Kẻ nghèo ở Tuyền Châu uống xong ba chén rượu vẫn nói chưa dính môi.

Cảnh Thanh hỏi: Lối tâm khi rêu phủ thì thế nào?

Sư nói: Điều này khó dẫn dắt

Cảnh Thanh hỏi: Đi đến chổ nào?

Sư đáp: Chỉ thấy rêu phủ không biết đi chỗ nào?

Lại hỏi: Cảnh Thanh hỏi: Lý Thanh hư rốt ráo khi không thân thì thế nào?

Sư đáp: Lý thì như thế còn Sự thì sao?

Như lý như Sự.

Dối một người Tào Sơn tức được, nhưng không che được mắt các Thánh.

Thanh Sư nói: Nếu không có mắt các Thánh, đâu soi được cái gì

Quan không thể dung tha, tư thông xe ngựa

Sư hỏi: Thượng Tọa Đức Bồ Tát nhập định nghe hương tượng (voi) qua sông rút từ kinh nào?

Tăng: Rút từ kinh Bát-nhã.

Sư nói: Trước định nghe, sau định nghe.

Tăng nói: Hòa thượng lanh lợi.

Sư nói: Cũng sát với gió, mới nói được một nửa.

  • Hòa thượng thế nào?
  • Dưới bãi cát nhận được.
  • Chỉ y đạo giả đến tham.

Sư hỏi: Có phải là Chỉ Y Đạo giả không?

Chỉ Y thưa: Không dám.

Sư hỏi: Thế nào là việc của Chỉ Y?

Chỉ Y đáp: Áo lông cừu vừa khoác vào thân, muôn pháp thảy đều như.

Sư hỏi: Thế nào là dụng của Chỉ Y?

Đạo giả đến gần “dạ” rồi đứng tịch.

Ông chỉ biết đi thế ấy? Sao không biết đến thế ấy?

Đạo giả liền mở mắt hỏi: Một tánh chân linh không nương bào thai thì thế nào?

Sư bảo: Chưa phải là hay.

Chỉ Y hỏi: Thế nào là hay?

Sư bảo: Chẳng mượn! Mượn!

Đạo giả: Trân trọng liền tịch. Sư dạy tụng:

Giác tánh viên minh vô tướng thân

Mạc tương tri kiến vọng sơ thân

Niệm dị tiện ư huyền thể muội

Tâm sai bất dữ đạo vi lân

Tình phân vạn pháp trầm tiền cảnh

Thức giám đa đoạn tán bổn chân

Như thị cú trung toàn hiểu hội

Liễu nhiên vô Sự tích thời nhân.

DỊCH NGHĨA:

Tánh giác viên minh không tướng thân

Chớ đem thấy biết đối xa gần

Niệm khác bèn lầm huyền thể ấy

Tâm sai sao được đạo chung thân

Tình phân muôn pháp chìm cảnh trước

Thức biện lăng xăng mất bản chân

Trong câu như thế toàn lãnh hội

Rõ ràng vô Sự tích thời nhân

***

Niệm khác bèn lầm huyền thể ấy

Tâm sai sao được đạo chung thân

Tình phân muôn pháp chìm cảnh trước

Thức biện lăng xăng mất bản chân

Trong câu như thế toàn lãnh hội

Rõ ràng vô Sự tích thời nhân.

Tăng cử: Lục Cắn Đại Phu hỏi Nam Tuyền: Họ gì?

Nam Tuyền đáp: Họ Vương

Lục Cắn hỏi: Vương còn có quyến thuộc không? Nam Tuyền nói: Bốn thần không mờ mịt Lục Cắn thưa: Vương ở địa nào?

Nam Tuyền nói: Điện ngọc rêu phủ.

Lục Cắn hỏi: Điện ngọc rêu phủ ý chỉ thế nào?

Sư đáp: Không ở chánh vị.

Tăng thưa: Tám phương đến triều cống thì thế nào?

Sư đáp: Ông ta không nhận lễ

Tăng hỏi: Dùng gì đến triều cống

Sư đáp: Trái thì chém

Tăng thưa: Trái là về phần của Thần, chưa xét rõ ý vua thế nào?

Sư đáp: Kín đáo không được yếu chỉ

Thế thì công việc điều hòa hoàn toàn trở về tướng thần.

Ông biết ý vua không?

Phương ngoại không dám luận bàn.

Đúng vậy! Đúng vậy!

Tăng hỏi: Học nhân toàn thân bị bệnh thỉnh Sư chữa dùm.

  • Không chữa trị?
  • Dạy ông cầu sinh không được, cầu tử không được.

Tăng hỏi Sư: Cổ nhân nói: Ta có đại bệnh, chẳng phải đời có thể trị được, không biết là bệnh gì?

Bệnh nhóm họp không được.

Tăng hỏi: Tất cả chúng sinh có bệnh này không?

Sư đáp: Mọi người đều có – Hòa thượng có bệnh này không?

  • Đang tìm chỗ hiện khởi không được.
  • Tất cả chúng sinh vì sao không bệnh
  • Tất cả chúng sinh nếu bệnh tức chẳng phải chúng sinh.
  • Không biết Chư Phật có bệnh này không?
  • Đã có vì sao không bệnh?
  • Vì y sợ hãi

Tăng hỏi: Sa-môn há không phải là người có đầy đủ từ bi? – Đúng

  • Bỗng gặp sáu giặc đến thì thế nào?
  • Cũng cần đầy đủ đại từ bi.
  • Thế nào đầy đủ đại từ bi?
  • Một kiếm vung hết
  • Sau khi hết thì thế nào?
  • Mới được hòa đồng.

Tăng hỏi: Mày và mắt có biết nhau không? – Không biết nhau

  • Vì sao không biết nhau?- Vì đồng ở một chỗ
  • Thế sao không phân ra
  • Mày lại không phải là mắt, mắt không phải là mày.
  • Thế nào là mắt?- Bỏ đầu mối – Thế nào là mày?
  • Tào Sơn lại nghi
  • Hòa thượng tại sao lại nghi
  • Nếu không nghi tức bỏ đầu mối.

Tăng hỏi: Năm vị đối khách thì thế nào?

Nay ông hỏi vị nào?

Con theo Thiên vị trung lai xin Sư hồng hướng đến Chánh vị trung tiếp nhận.

Sư nói: không tiếp Vì sao không tiếp?

Sợ rơi vào Thiên vị trung

Sư lại hỏi Tăng: Nếu không tiếp là đối khách hay không đối khách?

  • Là đối khách rồi.
  • Đúng vậy đúng vậy

Tăng hỏi: Vạn pháp từ đâu sinh khởi

  • Từ điên đảo sinh

Tăng hỏi: Khi không điên đảo thì vạn pháp ở đâu?

  • Ở tại chỗ
  • Ở chỗ nào?
  • Điên đảo làm sao?

Tăng hỏi: Ba cõi nhiều phương, sáu đường mờ mịt, làm sao biện biệt được sắc?

  • Không biện được sắc.
  • Vì sao không biện được sắc?
  • Nếu biện được sắc tức hôn mê
  • Sư nghe tiếng chuông bèn nói ada! ada!

Tăng hỏi: Hòa thượng làm gì vậy? – Đánh vào tâm ta.

  • Tăng không đáp
  • Sư hỏi Duy Na: Từ đâu tới?

Duy Na đáp: Đi kéo bình rượu đến.

Hoặc đến chỗ hiểm làm sao kéo?

Không đáp

Ngày nọ Sư vào Tăng đường hơ lửa.

Có một ông Tăng hỏi: Ngày nay rất lạnh

Phải biết có người không lạnh

Ai là người không lạnh

Sư gắp lửa dạy Tăng

Tăng thưa: Chớ nói không người thích.

Sư ném lửa xuống.

Con đến đây lại không hiểu.

Mặt trời chiếu xuống sông lạnh, sáng lại càng sáng.

Tăng hỏi: Người không cùng vạn pháp làm bạn là người nào?

Ông nói trong Châu thành rộng lớn như có nhiều người đi chỗ nào?

Tăng hỏi: Thế nào là kiếm không mũi? – Chẳng phải tôi luyện mà thành được – Việc dùng thế nào?

  • Người gặp đều mất mạng.
  • Người không gặp thì thế nào?
  • Cũng phải đầu rơi
  • Người gặp đều chết là cố nhiên, người không gặp vì sao cũng rơi đầu?
  • Ông chẳng nghe nói “hay sạch tất cả” sao?
  • Sau khi sạch hết thì thế nào?
  • Mới biết có kiếm này.

Tăng hỏi: Đối với tướng làm sao chân?

  • Tức tướng tức chân.- Làm sao hiển bày?
  • Sư đưa cái khay lên

Tăng hỏi: Huyễn vốn sao chân.

  • Huyễn vốn nguyên chân

Tăng nói: Chính khi huyễn sao hiển bày?

  • Tức hiển liền hiệp
  • Thế thì trước sau chẳng lìa huyễn
  • Tìm hướng huyễn không thể được.

Tăng hỏi: Tức tâm tức Phật tức không hỏi.

Thế nào là phi tâm phi Phật?

Sừng thỏ không dùng không, Sừng trâu không dùng có. Hỏi: Thế nào là người thường tại – Khó được.

Tăng hỏi: Nghĩ suy há không phải là loại? – Không suy nghĩ cũng là loại Thế nào là dị?

  • Không ai không biết đau ốm.

Tăng hỏi: Cổ nhân nói:

  • Người người đều có, đệ tử đang long đong, còn có không?
  • Trao tay cho người đến.
  • Tăng trao tay.
  • Sư gật đầu đếm 1, 2, 3, 4, 5, đủ

Tăng hỏi: Lỗ Tổ mặt xây vách biểu thị việc gì?

Sư bịt tai lại.

Tăng hỏi: Người xưa có nói: Chưa có người nào té xuống đất mà không chống đất đứng lên – Thế nào là ngã – Trụ thì đúng.

Tăng hỏi: Thế nào là đứng lên?

Sư đáp: Đứng lên

Tăng hỏi: Khi con trở về với cha vì sao cha không nhìn con? Sư nói: Lý hợp như thế

Tăng hỏi: Ân cha con ở đâu?

Sư đáp: Mới thành ơn cha con Tăng hỏi: Thế nào là ân cha con?

Sư đáp: Búa dao chém không đứt

Tăng hỏi: Áo linh y không treo thì thế nào?

Sư đáp: Tào Sơn hiếu xong

Tăng hỏi: Sau khi hiếu xong thì thế nào?

Tào Sơn thích say rượu.

Tăng hỏi: Kinh có nói:

– Biển lớn không chứa tử thi.

Tăng hỏi: Thế nào là biển lớn?

Sư đáp: Bao hàm vạn hữu.

Tăng hỏi: Đã là bao hàm vạn hữu Tăng hỏi: Vì sao không chứa tử thi?

Sư đáp: Người tắt hơi không dính mắc.

Tăng hỏi: Vạn hữu chẳng phải công của chúng, tắt hơi thì có đức của nó.

Tăng hỏi: Hướng thượng còn có việc không?

Nói: Có tức không được, đâu có thể Long Vương võ kiếm.

Hỏi: Sao có thể biết hết, khéo có thể đối chúng khổ nạn. – Không trình câu Hỏi: Nạn cái gì?

  • Dao rìu chặt không vào.
  • Thế thì vấn nạn còn không chịu không?
  • Là người nào?

-Tào Sơn

Tăng hỏi: Trên thế gian vật gì quý nhất? – Đầu mèo chết là quý nhất

  • Vì sao đầu mèo chết lại quý nhất?
  • Không có người nào mắc vào giá cảTăng hỏi: Không nói sao hiển bày – Chớ hiển bày chỗ nào?
  • Hôm qua đầu giường mất đi ba đồng tiền.

Tăng hỏi: Khi mặt trời chưa mọc thì thế nào?

  • Tào Sơn cũng từng đâu đến.
  • Sau khi mặt trời mọc thì thế nào?- Còn so với Tào Sơn lộ trình nữa tháng Sư hỏi Tăng: Làm gì?
  • Quét sân.
  • Trước Phật quét sau Phật quét- Trước sau quét một lúc – Qua giày vải với Tào Sơn.

Tăng hỏi: Ôm ngọc theo thỉnh Sư gọt giủa

  • Không gọt giủa- Vì sao không gọt giủa?
  • Phải biết Tào Sơn khéo tay.

Tăng hỏi: Thế nào là quyến thuộc của Tào Sơn?

Trên đầu đầy tóc bạc, trên đỉnh một cành hoa.

Tăng hỏi: Cổ Đức nói: Tất cả đại địa chỉ có người này. Chưa rõ là người nào”?

  • Không có thể có mặt trăng thứ hai.- Thế nào là mặt trăng thứ hai
  • Cũng cần Lão huynh ổn thỏa.
  • Thế nào là mặt trăng thứ nhất.
  • Nguy hiểm

Tăng hỏi: Học nhân trong mười hai thời làm sao giữ gìn” Như qua quê hương trùng độc, nước không được thấm một giọt.

Tăng hỏi: Thế nào là chủ pháp thân?

  • Gọi nước Tần không người.
  • Cái này chẳng tiện phải không?
  • Chém

Tăng hỏi: Thân cận đạo bạn nào để được thường nghe những gì chưa nghe

Đồng cùng một chăn mền.

Còn đây là Hòa thượng được nghe.

Thế nào làtừng nghe điều chưa nghe

Sư nói không đồng với gỗ đá Tăng:

Người nào ở trước ở sau?

Sư nói: Không thấy đạo thường nghe điều chưa nghe.

Tăng hỏi: Người trong nước võ kiếm là ai?

  • Tào Sơn
  • Định giết người nào?
  • Tất cả đều giết.
  • Bỗng gặp cha mẹ thì thế nào?
  • Chọn gì?
  • Tự mình đâu làm được
  • Ai làm sao được ta
  • Sao không tự giết
  • Không có chỗ xuống tay

Tăng hỏi: Nhà gặp kiếp nghèo thì thế nào? – Không thể bỏ hết – Vì sao không bỏ hết?

  • Giặc là người thân trong nhà
  • Một con trâu hống trên mặt nước, năm con ngựa hí đường dài là thế nào?

Tào Sơn biết bịt miệng lại, không nói.

Tào Sơn hiếu xong.

Tăng hỏi: Người thường chìm trong biển sinh tử là người nào?

Mặt trăng thứ hai

Còn cầu ra không

Cũng cầu ra chỉ vì không lối.

Xuất ly người nào nhận được y

Người mang gông sắc

Tăng hỏi: “Tuyết phủ ngàn núi, vì sao Cô Phong không trắng”? – Cần biết có dị trong dị – Thế nào là dị trong dị?

  • Không rơi vào sắc núi

Tăng nêu: Dược Sơn hỏi Tăng: Bao nhiêu tuổi?

  • Bảy mươi hai tuổi.
  • Bảy mươi hai phải không?
  • Đúng vậy.
  • Sơn bèn dành ý này thế nào?
  • Mũi tên trước còn như có thể, mũi tên sau bắn sâu vào người.

Tăng nói: Làm sao tránh được gậy này.

Vua sai đi, chư hầu tránh đường.

Tăng hỏi Hương Nghiêm: Thế nào là đạo?

Hương Nghiêm đáp: Rồng ngâm trong cây khô (khô mọc lý long ngâm)

Tăng hỏi: Thế nào là người trong đạo?

Hương Nghiêm đáp: Con mắt trong đầu lâu (độc lâu lý nhãn tình)

Tăng không lãnh hội bèn hỏi Thạch Sương.

Thế nào là rồng ngâm trong cây khô? (khô mọc lý long ngâm) Thạch Sương đáp: Vẫn mang niềm vui ở trong đó.

Tăng hỏi: Thế nào là con mắt trong đầu lâu?

Còn mang cái thức.

Tăng không lãnh hội bèn hỏi

Sư nói: Lão Thạch Sương nghe tiếng khởi kiến giải. Nhân đó Sư làm bài tụng:

Khô mộc long ngâm chân kiến đạo

Độc lâu vô thức nhãn sợ minh

Hỷ thức tận thời tiêu tức tận

Đương nhân na biện trọc trung thân

DỊCH:

Cây khô rồng ngâm thật thấy đạo

Đầu lâu không thức mắt rạng ngời

Hỷ, thức hết thời tin tức lặng

Người này biện đục hay trong)

Tăng lại hỏi Sư: Thế nào là Khô mọc lý long ngâm?

Sư nói: Huyết mạch không đoạn

Tăng hỏi: Thế nào là Độc lâu lý nhãn tình?

Sư đáp: Càn khôn bất tận.

Tăng: Có người nào được nghe không?

Sư đáp: Khắp đại địa chưa có người nào không nghe.

Tăng hỏi: Khô mọc lý long ngâm là chương cú gì?

  • Không biết chương cú gì? Người nghe đều mất mạng.

Tăng hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp?

  • Lấp sông ngòi lấp hầm hố.

Tăng hỏi: Thế nào là Sư tử?

Sư đáp: Các thú gần không được.

Tăng hỏi: Thế nào là con của Sư tử?

Sư đáp: Có thể nuốt cha mẹ mình.14

Tăng hỏi: Đã là các thú không gần được vì sao lại bị con mình ăn?

Sư đáp: Không phải thấy đạo; Con nếu rống lên, Tổ phụ đều hết.

Tăng hỏi: Sau khi hết thì thế nào?

Sư đáp: Toàn thân về với cha.

Tăng hỏi: Chưa rõ khi Tổ hết, thì cha trở về chỗ nào?

Sư đáp: Chỗ cũng hết.

Tăng hỏi: Trước đây, vì sao nói toàn thân về cha Sư đáp: Ví như việc của Vương tử thành một nước.

Lại nói: Xà-lê! Việc này không được, trí tuệ một mình nên biết cây khô lại nở một đóa hoa.

Tăng hỏi: Mới có thị phi nhưng mất tâm thì thế nào?

Sư đáp: Chém chém

Sư đọc kệ Pháp thân của Phó Đại Sư Đỗ Thuận làm bèn nói:

– Ý ta không muốn nói thế, đệ tử thỉnh chẳng làm kệ, lại giải thích: “Họ không phải là ta, là vốn không phải là họ, họ không có ta tức chết”.

Ta không có họ tức ta, họ như ta là Phật, ta như họ là lừa, không ăn không bổng lộc của vua, (Nếu gặp cơm vua phải ói mữa ra) mượn gì ứng truyện thư, ta không nói ngang thân, ông xem lông trên lưng, vừa như vẽ tuyết trắng còn sợ bà la ca

Tăng hỏi: Trăng sáng trên không thì thế nào? Sư đáp: Còn là kẻ dưới thềm

Tăng nói: Xin Sư nhận bậc trên.

Sư đáp: Sau khi trăng rụng rồi gặp nhau.

Sư lại nói: Có một người nằm vắt trên đầu núi vạn trượng đây là người nào?

Chúng không ai đáp.

Đạo Diên ra thưa: Không còn.

  • Không còn cái gì?
  • Mới được đánh không bể.
  • Sư nhận lời của Đạo Diên.

Tăng nêu: Tây Viên một ngày tự đến khe suối thiêu đáp.

Tăng hỏi: Sao không sai Sa Di.

Tây Viên vỗ tay ba cái, hỏi Sư:

Sư đáp: Một giống vỗ tay. Tóm lại Tây Viên làm lạ, đều chỉ là một ngón tay thiền. Bởi vì không rõ chỗ thừa đương.

Tăng lại hỏi Sư: Tây Viên vỗ tay há không phải là việc ngoài của nô tỳ?

  • Đúng.
  • Có việc không hướng thượng?
  • Thế nào là việc hướng thượng?

Sư quát to: Tên nô tỳ này

Nam Soái Bình Chung Vương ở Nam Châu nghe danh Sư.

Nên cho Sứ đến thỉnh nhưng Sư từ chối, chỉ gửi bài kệ của Thiền Sư Đại Mai để trả lời:

Tồi tàn khô mọc ỷ hàn lâm

Kỷ độ phùng xuân bắt biến tâm

Tiều khách ngô chi du bất cố

Dĩnh nhân na đắc khổ truy tầm

DỊCH:

(Cây khô gãy mục tựa rừng xanh

Mấy độ xuân về tâm chẳng sinh

Lão tiều trông thấy nào đoái nghĩ

Dĩnh khách thôi thì chớ hỏi phanh)

Sư làm kệ cấm:

Chẳng có lối hành tâm

Không treo áo xưa nay

Đâu cần chánh là gì

Nhưng kỵ lúc chưa sinh

Kệ dạy học nhân:

Tùng duyên tiến đắc tương ưng tật

Tựu thể tiêu đình đắc lực trì

Miết khởi bổn lai vô Sứ sở

Ngô Sư tạm thuyết bất tư nghì

DỊCH:

(Từ duyên tấn được bệnh tương ứng

Đến thể lặng dừng đắc lực chậm

Chợt khởi từ xưa không chỗ nơi

Thầy ta tạm nói Bất tư nghì)

Sư dạy chúng rằng:

Chư Tăng ở đây cốt dưới y áo hội thông được việc hướng thượng, chớ có rãnh rang qua ngày. Nếu chỗ thừa đương rõ ràng liền chuyển được chư Thánh về sau lưng mình, mới là tự do

Nếu chuyển không được, phải học được hoàn toàn đầy đủ, lại cần

đến sau lưng các Ngài khoanh tay, nói lời khoe khoang gì? Nếu chuyển được mình thì tất cả cảnh giới thô trọng đều làm chủ được.

Như có Tăng hỏi Dược Sư: Trong ba thừa giáo còn có ý Tổ không?

  • Đã có, Đạt Ma lại đến làm gì.
  • Chỉ vì có cho nên đến. Há chẳng làm chủ được chuyển được về chúng mình?

    Như kinh nói: Phật Đại Thông Trí Thắng mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp không hiện liền, không được thành Phật đạo

    Nói kiếp tức là trì trệ, gọi đầy đủ, cũng gọi là đoan tham lậu. Chỉ là dứt đầu mười đường (mười điều răn) không quên đại quả. Cho nên gọi ôm trụ đam trược gọi là thử kế thừa đương.

    Không biệt quý tiện. Ta thường thấy tòng lâm thích luận bàn một hai còn có thể thành lập được việc gì? Điều này chỉ bày bố được việc đã qua ông không thấy Nam Tuyền nói:

  • Dù ông đầy đủ trọn vẹn, vẫn còn kém Vương lão Sư một tuyến đường, cũng việc rất khó đến đây cần phải cẩn thận mới được rõ ràng tự tại.” Không luận thiên đường, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chỉ là tất cả chỗ không dời đổi. Vốn là người lúc trước mà không đi đường lúc trước, nếu có tâm vui thích tức thành trệ trước. Nếu thoát được thì chọn cái gì. Cổ Đức nói:
  • “Chỉ sợ không được luân hồi” ông cho là thế nào? Chỉ như người nay nói chỗ trong sạch thích nói việc đã qua, bệnh này rất khó trị, nếu là việc thô trong thế gian lại là nhẹ. Bệnh trong sạch là nặng, như vị Phật Tổ đều là trệ trước” Tiên Sư nói:
  • “Tâm suy nghĩ là phạm giới”. Nếu nói như ngày nay phá trai giới, tức nay ba thời yết ma đã phá rồi. Nếu là thô trọng tham sân si tuy khó đoạn lại nhẹ. Nếu vô vi, vô Sự trong sạch, thì đây chính là trọng không thêm.

    Tổ Sư ra đời cũng chỉ vì cái này, cũng không riêng vì ông. Nay chớ làm như rỗi. Mèo nhà trâu trắng (Lê Nô Bạch Cổ) tu hành lại nhanh, không phải là có thiền có đạo. Như ông tìm đủ thứ, tìm Phật, tìm Tổ cho đến Bồ-đề niết bàn bao giờ dứt bao giờ xong, đều là tâm sinh diệt. Cho nên không bằng mèo nhà trâu trắng (Lê Nô Bạch Cổ), mù mờ không biết, không biết Phật, không biết Tổ cho đến Bồ-đề niết bàn và nhân quả thiện ác. Chỉ biết đói thì ăn quả, khác thì uống nước, nếu có thể như thế thì không lo không thành xong. Không thành xong thì không thấy đạo, tính không thành vì thế biết có, mới có thể mang lông đội Sừng, cày bừa được tiện nghi này mới so được một tý, không thấy Phật Di-lặc A Tòng và các thế giới như: Diệu hỷ được người hướng lên, gọi là vô tâm, vô quý giải đãi Bồ-đề, cũng gọi là sinh tử biến dịch; Còn sợ là giãi đãi nhỏ. Về việc bổn phận làm thế nào? Cần phải cẩn thận mới được.

    Người người có một chỗ ngồi dù Phật ra đời cũng không lấy được, chỉ cần thể hội việc tu hành, chớ chạy theo danh lợi. Muốn biết việc này thành Phật thành Tổ cũng là chỗ đây. Đọa ba đường, địa ngục, sáu nẻo cũng ở đây. Tuy không có chỗ dùng, nhưng lìa nó không được, cần phải làm chủ nó mới được

    Nếu làm chủ không được, tức là không thay đổi. Nếu làm được chủ tể là thay đổi.

    Không thấy Vĩnh Gia nói: Phóng đãng lăng xăng chuốc họa ương.

    Hỏi: Thế nào là “phóng đãng lăng xăng chuốc họa ương?” Sư đáp: Chỉ chỉ là cái ấy – Làm sao tránh được?

    Đáp: Biết có tức được.

    Hỏi: Phải tránh thế nào?

    – Chỉ là Bồ-đề niết bàn, phiền não, vô minh luôn luôn không cần phải tránh.

    Cho đến việc thô trọng thế gian cũng thế. Hễ biết tức có

    Không cần phải tránh, tránh tức đồng với biến dịch. Cho đến thành Phật thành Tổ, Bồ-đề Niết bàn, những cái này đều là ương họa này là không nhỏ. Tại sao như vậy? Chỉ vì biến dịch. Nếu không biến dịch thì cần phải độc xử tự do mới được.

    * Đời Đường niên hiệu Thiên Phục (901) mùa hạ Tân Sửu, ban đêm Sư hỏi tri Sự:

    – Hôm nay là ngày tháng mấy?

    Tri Sư thưa: Ngày rằm tháng sáu

    Sư bảo: Cuộc đời hành cước của Tào Sơn, đến nơi chỉ biết chín mươi ngày là một hạ. Sáng mai giờ Thìn, ta đi hành cước

    Hôm sau đúng giờ Thìn, Sư đốt hương ngồi yên lặng mà thị tịch, thọ 2 tuổi, 3 tuổi hạ an táng ở phía Tây của núi. Thụy hiệu là Thiền Sư Nguyên Chứng, Tháp hiệu là Phước Viên*

 

 

Pages: 1 2