PHỔ ĐÀ SƠN DỊ TRUYỆN
(Truyện Lạ Núi Phổ Đà)
Nam Hải Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ Dị Văn Lục
Pháp sư Chử Vân – Việt dịch: HT Thích Chân Thường

 

PHỔ ĐÀ SƠN DỊ TRUYỆN

Tập sách gồm những bài báo có chung một đề tài: truyền thuyết về Quán Thế Âm Bồ Tát ở núi Phổ Đà. Có một số bài, một số câu đoạn mang tính thời sự, hoặc nói đến quan hệ giữa Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng Trung Quốc, chúng tôi thấy ít liên quan đến chủ đề tập sách, nên đã lược bỏ không dịch. Trong một số bài, có những đoạn trùng lập, chúng tôi dịch gọn lại. Một số tiêu đề bài, chúng tôi có thêm bớt đôi chút cho dễ hiểu. Mong bạn đọc thông cảm.

Người dịch

LỜI TỰA CỦA TINH VÂN PHÁP SƯ

Tôi còn nhớ, vào mùa Đông năm ngoái (1952), tạp chí hàng tháng “Cây Bồ Đề” do cư sĩ Chu Bùi chủ biên, có nhờ Chử Vân Pháp sư viết bài cho tạp chí. Pháp sư có nói với tôi nên viết một bài nói về Phổ Đà Sơn, lúc ấy tôi cho rằng đó là một công việc tổn sức mà chẳng ăn nhằm gì, tôi bèn khuyên Pháp sư không nên tốn giấy mực vào đấy làm gì.

Sở dĩ tôi nói như vậy là vì tôi nghĩ rằng: thứ nhất viết về Phổ Đà Sơn tất yếu phải đề cập đến nhiều nhân vật, phong cảnh, sơn thủy, mà theo ý tôi, người Trung Hoa chúng ta hiện nay đang chịu ảnh hưởng nếp sống Âu Tây, suốt ngày lăn lộn đắm chìm trong dòng thác của vật dục, làm sao có thể tin được rằng: “Phong cảnh núi non, suối nước có thể hun dúc tín tình tốt dẹp lương tri của con người”. Nếu bài viết in ra, rồi họ cũng chẳng thích thú gì mà thưởng thức. Thứ hai là, viết bài về Phổ Đà Sơn, đương nhiên là không thể không phát huy thánh tích và cảm ngộ linh thiêng của đức Bồ tát Quán Thế Âm, như vậy thì tránh sao khỏi bị người ta chê bai, nếu không phải là loại “Một Ngàn Một Đêm Lẻ” của nước người thì cũng là loại “Liêu Trai Chí Dị” của Trung Quốc mà thôi. Vì hai lý do đó, tôi không thể không có một lời khuyên đối với ông bạn già của tôi rằng: không nên phí công giấy mực vào đó. Song, Chử Vân Pháp sư chưa tiếp thu ý kiến của tôi, tôi hiểu rõ tính tình của Pháp sư, làm việc gì, Pháp sư cũng có lòng tự trọng, và thường là ít nghe theo ý kiến khuyên nhủ của người khác, miễn sao không hổ thẹn với lương tâm, cho nên khi thấy Pháp sư quyết tâm cầm bút viết bài, tôi cũng không nói gì thêm nữa.

Bài viết của Pháp sư được đăng trên “Cây Bồ Đề” số 3, khi đọc cái tiêu đề “Phổ Đà Sơn Dị Truyền Kỳ Dị Văn Lục” (Ghi lại những điều kỳ lạ ở núi Phổ Đà), tôi cảm thấy cái tiêu đề thật là lý thú, nhưng, phải nói rằng, tôi rất có lỗi với Chử Pháp sư, bởi vì, thú thực, nội dung bài viết nói gì, tôi chưa hề đọc. Thế rồi, Cây Bồ Đề số 4, số 5, ngày qua tháng lại, Đông qua Xuân tới, cứ nối tiếp nhau ra mắt bạn đọc, tôi đi vân du khắp nơi, gặp rất nhiều người đề cập đến bài viết của Chử Pháp sư, họ đều nói rằng bài viết rất lý thú, sinh động, hoạt bát, bất kỳ ai, dù chỉ biết ít chữ cũng có thể đọc hiểu, người này nói thế, người kia cũng nói y như thế, nhiều người nói, tôi cũng phải nghĩ, và có lẽ, đến lúc này tôi phải xem lại cách nhìn của mình đối với bài viết của Chử Pháp sư.

Một hôm tôi bèn lần dỡ đọc hết trước tác lớn đó của Pháp sư đăng trên “Cây Bồ Đề”, và lúc ấy, cái hứng thú thực sự mới bật ra trong tôi.

Chử Vân Pháp sư vốn là đông môn đồng đạo thân tình với nhau từ hơn chục năm trước đây, khi tôi chủ biên tờ nguyệt san “Nộ Đào” (Sóng Dữ) và tờ tuần san (mười ngày một số) “Hà Quang” (Ánh Bình Minh, Ráng Hồng). Pháp sư là một trong những số người viết bài thường kỳ của chúng tôi, bài của Pháp sư tất nhiên tôi đã đọc nhiều. Sau khi đến Đài Bắc, tôi là người phụ trách một thời trong ban biên tập của tờ tạp chí “Nhân Sinh” về việc đặt bài, tất nhiên tôi không thể bỏ qua danh sách Pháp sư, sau này Tâm Ngộ Pháp sư chủ trì việc biên tập tờ “Nhân Sinh”, ngài thường nói, trong Phật giáo, tuy có một nền văn hóa, có một chân lý tối cao, nhưng phải nói, ít ai đã viết bài phát huy được điều đó, tôi có giới thiệu với ngài nên cố đặt nhiều bài viết ở Chử Vân Pháp sư.

Và nhiều bài diễn giảng của Pháp sư trong khi đi hoằng pháp ở các nơi đã được ra mắt bạn đọc. Cũng như các độc giả khác, tôi cũng cảm thấy bài viết của Pháp sư lời lẽ cởi mở tự nhiên, tế nhị sâu sa, nôm na dễ hiểu. Giáo lý đạo Phật vốn uyên thâm, không dễ gì thấu hiểu, nhưng với lối trình bày khéo léo giản dị, nên ai đọc cũng thấy sáng tỏ, chỉ riêng cái đó cũng khiến mọi người tấm tắc thán phục.

Tuy vậy, lúc đầu chính bản thân tôi cũng không ngờ “Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ Dị Văn Lục” lại giành được sự yêu thích của đông đảo độc giả đến thế, viết đến đây, tôi mới hiểu rằng ở Trung Hoa, không phải người nào cũng đang chìm đắm trong cơn xoáy của vật dục cả, quả thực họ đều rất hâm mộ cảnh núi non tuyệt đẹp của tổ quốc mình. Tôi càng hiểu rằng, chỉ có một số ít người cho rằng sự hiển thánh và cảm ngộ linh thiêng của Quán Thế Âm Bồ tát là cuộc kỳ ngộ tiêu biểu của “Một Ngàn Một Đêm Lẻ” hoặc là ma quỷ hiện hình trong “Liêu Trai Chí Dị”. Do đó, tôi thực sự vui lòng bộc bạch tất cả những cảm nghĩ khiếm khuyết của mình trước đây.

Giờ đây tôi lại rất may mắn được Chử Pháp sư giao cho toàn bộ những bài viết đã đăng và chưa đăng trên tờ “Cây Bồ Đề”, đưa sang Đài Bắc (Thủ phủ Đài Loan) để in thành sách, để tôi có dịp được đọc lại một lượt từ đầu chí cuối, quả thực là cái phúc cho tôi được toại nguyện, tăng thêm cho tôi biết bao nhiêu hiểu biết. Song Chử Pháp sư lại bảo tôi phải viết cho ngài vài lời tựa đề, điều ấy quả lại làm khó dễ cho tôi, từ chối mãi chẳng được, thôi cũng đành cứ viết đôi dòng gọi là cảm nghĩ đối với cuốn sách ra mắt bạn đọc vậy.

Là một trí thức của Trung Hoa, chúng tôi đều biết Trung Hoa có hai trước tác lớn về văn học, đó là “Thủy Hử Truyện” và “Tây Du Ký”, được Kim Thánh Thán coi là “Tài Tử Chi Thư”. Bộ Thủy Hử đã miêu tả một trăm linh tám vị anh hùng hảo hán trên Lương Sơn Bạc một cách sinh động. Họ là những người cùng hội cùng thuyền,tập hợp lại với nhau, lưu vong bốn biển, họ cướp của nhà giàu cứu tế cho người nghèo, thay trời hành đạo, sư miêu tả đó của bộ sách đã đánh vào tâm cảnh của biết bao con người, khích động lòng dũng cảm, không cam chịu sự trói buộc của hoàn cảnh. Câu chuyện, tuy trong Tống Sử chỉ vỏn vẹn ghi lại một câu “Lương Sơn Bạc thủy khấu Tống Giang gồm ba mươi sáu người bị Trương Thúc Dạ một đêm dẹp sạch”, thế là được phát triển thành một tác phẩm văn học vĩ đại nhất, nhưng sự ảnh hưởng của nó còn hơn nhiều so với bất kỳ một cuốn sách thuyết giáo nào. Tây Du Ký ghi lại câu truyện Đường Tăng Huyền Trang dẫn đám Tôn Ngộ Không sang Tây Trúc thỉnh kinh, tuy nhiên bộ sách viết thành câu truyện thần kỳ quái dị khôn lường, quả là khác xa hàng vạn dặm so với chính sử chép “Đại Đường Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Truyện”, nhưng tinh thần khổ hạnh, chí lớn kiên cường, vượt mọi gian nguy hiểm trở,tấm lòng từ bi bác ái vị tha của Pháp sư Huyền Trang được mô tả trong bộ sách, mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của mọi người. Truyện Huyền Trang trong chính sử (đã từng được Lương Khải Siêu tán dương là một bộ truyện ký vĩ đại nhất của thế giới), nhân vật Huyền Trang tuy có vĩ đại hơn đôi chút, nhưng đó chỉ là để cho một số trí thức trong giới sĩ đại phu đọc mà thôi, hoàn toàn không liên quan gì đến đám đại chúng đông đảo thông thường cả.

Tuy nói như vậy, không hề có ý hạ thấp giá trị một bộ Thánh điển mà được mọi người tôn là khuôn vàng thước ngọc, mà tôi muốn nói rằng số đông của chúng ta cần những tác phẩm đại chúng, cần những món ăn tinh thần mà họ có thể tiêu hóa được!

Một cuốn sách nhỏ như “Bạch Xà Truyện” đề cao một đạo lực thần thông của Pháp Hải thiền sư, làm cho người đọc hiểu được ngay Hòa thượng là người hàng phục được yêu quái ma quỷ, trợ giúp người lương thiện, một cuốn sách bằng thể thơ bảy chữ “Vương Thị Nữ Đối Kim Cương” và “Mục Liên Cứu Mẫu” đã phân biệt rạch ròi cái công đức tụng kinh niệm Phật với tội báo khinh mạn Tam Bảo. Tác giả của những cuốn sách đó chưa hẳn đã là do tín đồ Phật tử viết ra, ngày nay chúng ta cũng chẳng cần quan tâm đến việc nó có được ghi chép trong sử sách hay không, và cũng không cần truy cứu nó có nằm trong cứ liệu của bộ Thánh điển nào không, nhưng trong dân gian, ai cũng hiểu đó là sự báo ứng nhân quả của cái Thiện và cái Ác. Điều đó đâu phải là vị học đã từng đọc “Tam Tạng thập nhị bộ”, hoặc đã được nghe lời truyền giáo của một vị cao Tăng Đại đức nào đó! Mà, chính là vì họ đã chịu ảnh hưởng của những quyển sách nhỏ trên đây. Đó là một sự thực hiển nhiên không thể chối cãi được. Chúng ta không thể coi thường những quyển sách nhỏ đó, tác dụng giáo hóa của nó thực sự còn hơn cả sự giáo dục nào do nhà trường, rất nhiều, rất nhiều!

Trong công việc hoằng pháp ở trong nước, nhiều tín đồ Phật tử của chúng ta thường thích kể những truyện ly kỳ huyền ảo, dẫn kinh này điển nọ. Khi nói đến Phật pháp, hình như nếu không nói đến vài lần câu “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” thì cho là không thể hiện được cái học vấn cao siêu của mình, còn khi viết văn không đưa câu “Duy thức sở biến, duy tâm sở hiện” vào bài thì chỉ sợ rằng người đọc không biết được tài năng của mình. Kết quả là chưa đạt được gì, mà những giáo lý nhiệm mầu thực sự cần giới thiệu với đông đảo quần chúng, lẽ ra ta phải làm, thì vô tình hay hữu ý, đã nhường chỗ cho các tác giả của những cuốn sách nhỏ nói trên rồi! Là những người có thiện tâm làm công việc đẩy mạnh đại chúng hóa Phật pháp như chúng ta sao chẳng lấy đó làm hổ thẹn!

Chử Vân Pháp sư thấy được điều đó, cho nên khi nói Phật pháp hay viết về Phật pháp, ngài đều cố nói cho dễ hiểu, viết sao cho thật đại chúng, tất cả hướng về đông đảo người đọc. “Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ…” quả thực là một tư liệu vô cùng quý giá, giới thiệu cho đại chúng một cách thông dụng một nền Phật giáo ứng cơ của chúng ta.

Có một điều tôi cần phải nêu lên ở đây là, “Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ…” là một cuốn sách tuyệt nhiên không thể đem so sánh với những cuốn truyện nhỏ như “Bạch Xà Truyện”, “Vương Thị Nữ Đối Kim Cương” hay “Mục Liên Cứu Mẫu” đã nói ở trên được. Bởi vì những cuốn sách nhỏ đó đều do một cố văn nhân hỏng thi ở thời Minh Thanh tùy hứng mà viết ra, rất ít có cứ liệu thật sự. Còn như cuốn “Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ…” ở đây, tên sách tuy là “Truyền Kỳ Dị Văn”, nhưng đều là truyện có thực, đáng tin cậy, có thể khảo chứng được, về điểm này chúng ta không thể không đặc biệt lưu ý.

Chỉ có một điều rất đáng tiếc và rất lấy làm lạ là lòng người thời nay, cứ nói đến sự cảm ngộ linh nghiệm của Bồ tát là thấy đôi phần nghi hoặc, nói đến sự hiện thân của Bồ tát thì bao giờ cũng cho đó là truyện thần thoại. Người không tin Phật giáo như vậy đã đành, mà cả những người tín ngưỡng Phật giáo cũng phạm những sai lầm đó. Một điều không thể tha thứ được, đó là những người tín ngưỡng Phật giáo và đã nghiên cứu khá sâu về Phật pháp thế mà từ lời nói đến bài viết, họ cũng không dám đề cập đến sự hiện thân vô hình hoặc hữu hình trong sự cảm ứng của Phật, Bồ tát, chính họ cũng sợ người ta cười là truyện thần thoại, điều đó quả thực là một sai lầm vô cùng to lớn.

Khi chúng ta cần đọc tạng kinh, nhất là đọc đến Hiền Ngu Nhân Duyên kinh, Bách Dụ kinh, Kinh Luật Dị Tướng, Lục Độ Tập kinh v.v… trong đó chẳng đã ghi lại một số sự việc rất kỳ lạ đó sao? Nếu coi tất cả những truyện đó là thần thoại, thì quả thực, tôi không thể hiểu nổi chứng ta đặt trên cơ sở nào mà xây dựng lòng tin đối với tôn giáo và sự ngưỡng mộ lý tưởng tôn giáo.

Nói đến thần thoại, thì trong thế gian này, việc gì mà chẳng là thần thoại? Anh em Oai Tơ, khi chưa phát minh ra máy bay, nếu như có người nói rằng, một cái thứ nặng mấy ngàn cân như vậy mà lại có thể bay được trên không trung, lẽ nào chẳng bị người ta cho là thần thoại? Fran-kơ-rin khi chưa phát minh ra điện thoại, nếu nói rằng, người thân và bạn hữu của mình ở xa nhau hàng vạn dặm mà có thể nói chuyện với nhau được, lẽ nào chẳng bị người ta nói đó là truyện thần thoại? Vậy cho nên, có thể nói rằng, thần thoại tức là những việc ta chưa biết hoặc chưa nhìn thấy, nhưng không thể nói là không có!

Bom khinh khí được thí nghiệm ở Đại Tây Dương, đó là việc ta chưa trông thấy, nên mọi người đều tin rằng nước Mỹ có bom khinh khí; Quán Thế Âm Bố tát hiện thân hiển thánh ở Phổ Đà Sơn (thực ra trên toàn vũ tru đều có sự hiện thân của Bồ tát), đó là hiện tượng rất nhiều người từng thấy từng nghe, nhưng những người chưa thấy, chưa nghe thì nói rằng đó là thần thoại, đó chẳng phải là không hiểu gì cả đó sao?

Nhân duyên và phương tiện của Quán Thế Âm Bồ tát cứu nhân độ thế vốn có kinh sách chứng minh, trong đạo Phật có một bộ kinh điển vĩ đại gọi là “Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, Phẩm thứ 25 “Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn Phẩm” là một phẩm hoàn toàn nói về Quán Thế Âm Bồ tát. Tiếc rằng phẩm này chỉ lưu truyền và thịnh hành trong tín đồ Phật tử đã bước vào cửa Phật, còn đại đa số quần chúng chưa được biết Quán Thế Âm Đại Từ Đại Bi qua Phẩm Phổ Môn này.

Tuy họ chưa hiểu được Quán Thế Âm qua Phẩm Phổ Môn, nhưng ai ai cũng đều biết Quán Thế Âm, nói đến nguyên nhân nào của nó thì nhiều lắm, không cần nói gì khác, chỉ riêng cuốn sách “Quán Âm Đắc Đạo” được lưu truyền trong dân gian mà tôi cần nêu ra đây cũng đủ thấy rằng qua cuốn sách nhỏ “Quán Âm Đắc Đạo” này, mọi người đều có thể biết câu truyện về Quán Âm Bồ tát, mặc dầu những điều họ hiểu chưa hẳn là đã chính xác cả.

“Quán Âm Đắc Đạo”, hay còn có tên là “Đại Hương Sơn” là câu truyện kể rằng Diệu Trang Vương có ba nàng công chúa, nàng công chúa cả thích văn nên với một chàng phò mã văn quan, nàng công chúa thứ hai ưa võ, nên với một chàng phò mã võ tướng, còn nàng công chúa thứ ba thì lại thích tu hành học Phật, từ bi ái vật, xả kỷ vị nhân, sau thành được chánh quả ở Đại Hương Sơn. Cuốn sách nhỏ mang tính chất răn đời đó tuy khác rất xa với Quán Thế Âm trong Kinh văn, nhưng cuốn sách này sau đó được chuyển thành thể kịch nói, rồi quay thành phim ảnh, quả thực là khá nhiều người dù ngu si mù quáng cũng bị câu chuyện cảm hóa, vậy ai có thể phủ nhận giá trị đem lại lợi ích cho đời của nó?

Về Quán Thế Âm Bồ tát, không phải chỉ riêng Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa đề cập đến mà trong các kinh sách Phật điển khác như Bát Nhã Kinh, Chân Ngôn Nghi Quỹ, Bi Hoa Kinh, Quán Âm Thụ Ký kinh, thậm chí cả trong kinh điển Tịnh Độ Tông, Mật Tông đều sùng phụng và tôn kính Quán Thế Âm Bồ tát, nhưng tại sao đa số người đều biết tên của Quán Thế Âm Bồ tát là Diệu Thiện công chúa, mà không biết Quán Thế Âm Bồ tát còn có nhiều tên khác nhự Tịnh Thánh, Đại Hỉ Thí Vô Úy, Chánh Pháp Minh Như Lai, Kim Cương Bồ tát? Như vậy nghĩa là “Quán Âm Đắc Đạo” là cuốn sách đại chúng, còn kinh Phật là loại cổ dành cho các nhà học giả nghiên cứu, kiến thức của đám đại chúng là do các cuốn sách đại chúng cung cấp, công việc lưu truyền hoằng dương Phật giáo ngày nay rõ ràng là cần phải viết ra những cuốn sách đại chúng chính tri chính kiến! Sự ra mắt bạn đọc của cuốn “Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ…” quả thực có thể nói là một sự bổ khuyết cho các thiếu sót nói trên.

Thời đại ngày nay, quả thực là hỗn loạn rối ren đến cực điểm, ma quỷ múa may, tà thuyết lộng hành, nhân tâm không chốn quy y, tinh thần chẳng nơi ký thác, biển khổ mênh mông, rồi con người sẽ đi về đâu? Thiên tại nhân họa, làm sao giải thoát cho được? Đó là một vấn đề đang nung nấu trăn trở trong lòng mỗi người. Có cách nào giải quyết vấn đề này chăng? Duy nhất chỉ có một câu trả lời, đó là hãy tin vào Quán Thế Âm Bồ tát! Hãy đem tất cả bản thân mình quy y, gửi gắm vào Quán Thế Âm Bồ tát, hiểu rõ Quán Thế Âm Bồ tát là sự thị hiện của Đại Từ Đại Bi, Đại Trí Tuệ, Đại Dũng Mãnh, dù trước mắt chúng ta là những gì đau khổ, tai họa, phiền não, chỉ cần chúng ta nhất tâm bất nhị, thực lòng tín ngưỡng, xưng niệm, lễ bái, nếu chúng ta có được lòng từ bi, trí tuệ và dũng mãnh của Quán Thế Âm Bồ tát, thì Quán Thế Âm Bồ tát nhất định sẽ giải cứu cho chúng ta.

Thói đời ngày càng sa sút, nhân tâm chẳng giữ nền xưa, trong một xã hội tình đời đen bạc này, quả thực phải nhờ vào tinh thần Quán Thế Âm Bồ tát mới có thể cứu vãn nổi. Xã hội của chúng ta từ xưa đến nay, ngoài chốn thị thành ngày nay có một số nhân viên cảnh sát gọi là để duy trì trị an ra, còn các thị trấn khác và các vùng thôn xã hàng mấy chục vạn dặm, có lẽ không có đến một người lính cảnh binh nào, trật tự và an ninh xã hội đều dựa vào một vài đình chùa miếu mạo, vài bức Thánh tượng Phật, Bồ tát, vài câu giáo lý nhân quả thiện ác để duy trì, con người với con người, nếu có điều gì oan ức bất bình, có việc gì đem ra kiện cáo, thì chỉ một nắm hương, quỳ trước tượng Phật, Bồ tát thế là xong, cùng với mây bay khói tỏa, Ở đây ý tôi muốn nói rằng chỉ dựa vào chính trị, luật pháp và quân cảnh thì không thể duy trì được luân lý, đạo đức và an ninh xã hội được, phải làm cho mọi người có tín ngưỡng tôn giáo, đều hiểu ró báo ứng nhận quả thiện ác, đều quy y về Phật, Bồ tát, đó mới là yếu tố lớn nhất để ổn định xã hội.

Cho nên, đứng trước tình hình như vậy, mỗi người đều cần phải tin tưởng vào Quán Thế Âm Bồ tát!

Nhưng việc đã quá lâu rồi, thôi thì chẳng nói làm gì, ngay như hiện tại đây, nữ sĩ Trương Tinh Anh, phu nhân của tướng quân Tôn Lập Nhân, tổng tư lệnh quân đội Đài Loan, bà đã kể rằng chính gia đình bà đã được Quán Thế Âm Bồ tát cứu độ hộ trì, điều đó lẽ nào lại không đủ để chúng ta giữ vững lòng tin hay sao!

Đúng vậy, nhân dân ta, đại đa số là tín ngưỡng Quán Thế Âm Bồ tát từ hai câu “Nhà nhà A Di Đà, hộ hộ Quán Thế Âm”, thường nói trong dân gian cũng đủ thấy điều đó, song những người thực sự hiểu rõ ý nghĩa của việc tín ngưỡng Quán Thế Âm Bồ tát và sự tích hiển thành của Quán Thế Âm Bồ tát, thì cũng không nhiều. Đọc xong cuốn “Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ…”, tôi nghĩ chúng ta sẽ hiểu rõ hơn, nhận thức thêm một bước về Quán Thế Âm Bồ tát.

“Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ…” này không chỉ giới thiệu uy đức cảm ngộ của Bồ tát, mà có thể nói, cuốn sách còn như dẫn chúng ta đi thăm một chuyến Phổ Đà Sơn. Phổ Đà Sơn là một trong bốn danh sơn của Phật giáo, núi thuộc huyện Định Hải, tỉnh Chiết Giang, xưa có tên là Nam Hải (cho nên tên cuốn sách, trước dòng chữ “Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ Dị Văn Lục”, có ghi thêm hai chữ “Nam Hải”), nằm ở phía ngoài eo Tiền Đường, sông Dương Tử (tức sông Trường Giang ngày nay), đại để ở vào kinh tuyến Đông 6 độ 37′, vỹ tuyến Bắc 30 độ 10′, cách đảo Chu Sơn 60 dặm về phía Đông, nối liền một giải uốn lượn như mình rồng, dài 12 dặm, ngang trên 6 dặm, chu vi uốn khúc, trăm dặm có dư. Phía Đông giáp xứ Phù Tang (Nhật Bản), phía Bắc nối với Đăng Lại, phía Nam tiếp liền Mân Việt (Phúc Kiến, Quảng Đông), phía Tây thông sang Ngô Cối (Giang Chiết Cối Kê), sừng sững như tấm bình phong ở phía Đông Nam nước ta, và cũng là nơi trọng yếu của vùng hải cảng. May mắn sao, chúng ta được là người Trung Hoa, nếu không biết một chốn danh sơn kỳ thú như vậy trên mảnh đất thần châu này, thì thật là uổng phí! Giờ đây, đọc cuốn sách này, người đã có dịp đến Phổ Đà Sơn, có thể tăng thêm hiểu biết, người chưa từng đến, cũng có thể gọi là đem lại duyên phúc cho đôi mắt chăng!

Được sự ủy thác của Chử Vân Pháp sư, tôi đã rườm rà khá nhiều rồi, chiếm nhiều trang sách, chỉ làm bạn đọc thêm sốt ruột, bởi vì mục đích chính là để mọi người đọc truyện, để trực tiếp lãnh hội những điều viết trong cuốn sách này thì có lẽ tốt hơn, vậy xin dừng bút ở đây.

Dân Quốc năm thứ 12, Tiết Trung Thu, tại Nghi Lan.

Tinh Vân

1. VÀI LỜI BỘC BẠCH

Trước khi viết cuốn sách này, xin có đôi lời thanh minh, kẻ cầm bút này không thuộc dòng họ con cháu gì của Phổ Đà Sơn (tức là người cắt tóc xuất gia, trụ tại núi này), đồng thời cũng chưa bái pháp thụ ký ở đây (trên núi có Pháp phái, tức là Tiền Sơn Pháp pháp và Hậu Sơn Pháp phái, nghe nói Pháp tử của Pháp phái còn lớn hơn hơn cả tử tôn phái, phải tôn một vị trưởng lão làm Pháp Hòa thượng, đó là Gia phong của Phổ Đà), tôi chẳng qua chỉ là người trú khách được ghi tên vào bản danh sách của Phổ Đà Sơn vài năm, chứ không có chức quyền gì. Sau này vì được nhận vai Tri khách (ngoại giao, thù tiếp du khách) ở nhà khách chùa trước, cho nên đối với tình hình ở Phổ Đà Sơn có quen thuộc hơn đôi chút so với người chưa đến đây mà thôi.

Hai năm trước đây tôi có dịp đến bái phỏng Sư Đầu Sơn (núi Đầu Sư Tử), một thánh địa Phật giáo, danh thắng của tỉnh nhà, ở chùa Nguyên Quang, hang đá Sư Tử, tôi có dịp kể qua những truyện truyền kỳ ở Phổ Đà Sơn với các tăng chúng ở đó, và may được Tuệ Phong Pháp sư sau đó có ghi lại và định đăng lên tạp chí Giác Sinh, chẳng may Tuệ Phong Pháp sư gặp một trở ngai nhỏ, là bị mất toàn bộ bản thảo, đối với việc này, đến nay Pháp sư vẫn lấy làm tiếc. Lần này, cư sĩ Chu Phỉ, người sáng lập tạp chí “Cây Bồ Đề” có gửi thư cho tôi nói rằng: “… Tạp chí đang định làm phim và viết bài kỷ yếu về thắng tích và phong cảnh của bốn danh sơn, những truyện ở Phổ Đà Sơn, tất nhiên Pháp sư là người biết rõ, rất mong Pháp sư giới thiệu cho thắng tích Phổ Đà Sơn và những kỳ tích hiển thánh của Bồ tát, truyện dài có thể chia ra đăng liên tục trong nhiều số”. Cư sĩ Chu Phỉ muốn tôi cùng mọi người kết nghĩa pháp duyên, giới thiệu cổ tích danh thắng Phổ Đà Sơn và đại loại những truyện kỳ dị về Bồ tát hiển hóa ở núi. Về lý mà nói, tôi là một tín đồ Phật giáo, đối với danh sơn, đặc biệt đối với Quán Thế Âm Bồ tát đại từ đại bi cứu thế, đó là một việc phải làm, không có lý do gì để khước từ được. Song vì tôi sang Đài Loan với hai bàn tay trắng, những sách tham khảo về Phổ Dà Sơn hầu như không có đến một cuốn nào, nên không hạ bút được. Nếu chỉ dựa vào đôi điều trong trí nhớ, nói vài câu thần dị ly kỳ, e rằng tổn hại đến tôn nghiêm của danh sơn. Vả lại, các bậc Đại dức sang Đài Loan cũng có nhiều vị Pháp sư tu hành ở Phổ Đà Sơn như Ấn Thuận Pháp sư và Khánh Duy Đại đức, nhất là Khánh Quy Đại đức đã từng trụ trì ở đó mấy chục năm, mọi điều tai nghe mắt thấy ở đó, Đại đức tất nhiên biết khá cặn kẽ, biết nhiều hơn tôi hàng ngàn vạn lần, nếu tôi viết chẳng ra gì, sao tránh khỏi bị chê cười? Điều đó không phải là tôi “lo trời sập” như người nước Kỷ xưa kia mà chỉ e rằng sau đó sẽ mang tiếng cho sơn môn, người ta sẽ nói rằng: “Sao lại coi thường người Đại Đường đến thế, đất này hết người rồi sao? Người ở Phổ Đà được mấy năm mà cũng dám khua môi múa mép về danh sơn thắng địa này của chúng ta, thật vô lý!” Bởi vì đó là thói cũ của người Trung Hoa chúng ta: “Khi làm thì chẳng thấy ai, làm xong thì lại chê bai hết lời”.

Thổ lộ đôi câu bộc bạch, cũng là để có lời thưa trước với các bậc Đại đức tiên tiến, những lời thô thiển trong cuốn sách của kẻ cầm bút này chỉ là để bạn đọc tiêu sầu, giải muộn lúc trà dư tửu hậu mà thôi, chứ chưa phải là một luận tác gì khảo cứu điển xưa, mà là những thứ “dây dưa hạt cải”, “vọng thinh vọng ngôn” quả là mạo muội! Có điều gì sai sót, những mong các vị Thượng tọa, Đại đức thứ lỗi bỏ qua. Về nội dung, tôi cũng phân môn biệt loại, trình tự trước sau, nhớ điểm nào ghi lại điểm ấy, biết điều gì viết điều ấy, phần lớn theo thể tài kể truyện, cố tránh búa lớn đao to, cao đàm khoát luận viễn vông, để kể rõ lai lịch của Phổ Đà Sơn, những mẫu truyện về kỳ tích đã được truyền tụng hoặc còn ghi lại trong thư tịch, những truyện cảm ứng Bồ tát hiển hóa, những điều thần dị, đưa đăng từng số trên tờ nguyệt sang “Cây Bồ Đề”, nhằm giới thiệu với các đạo hữu chưa từng đến đại lục, và các độc giả đã từng đến Phổ Đà nhưng chưa được nghe truyện, để mọi người có dịp hiểu rõ thêm về Phổ Đà Sơn đất Nam Hải, một thánh địa Phật giáo, một trong bốn danh sơn của đất nước.

2. TÊN GỌI CỦA PHỔ ĐÀ SƠN VÀ KHẢO CHỨNG PHẬT ĐIỂN

Phật giáo Trung Quốc có bốn thánh dịa danh sơn, là đại bản doanh (tức căn cứ địa) của bốn vị Bồ Tát Ma Ha Tát (tức đại Bồ tát trong Bồ tát), quảng hóa quần sinh. Bốn danh sơn là: Ngũ Đài Sơn ở tỉnh Sơn Tây, là đạo tràng của Đại Trí Văn Thù Bồ tát; Nga My Sơn ở tỉnh Tứ Xuyên, là đạo tràng của Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát; Cửu Hoa Sơn ở tỉnh An Huy, là đạo tràng của Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát; Phổ Đà Sơn ở Nam Hải Triết Giang, là đạo tràng của Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát. Trong bốn danh sơn lớn và bốn vị Đại Bồ tát đó, nếu nói nhà nhà đều biết, người người đều biết, từ già trẻ gái trai, thì phải nói là Quán Thế Âm Bồ tát Đại Từ, Đại Bi, Cứu Khổ, Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm, Phổ Đà Sơn Nam Hải. Tục ngữ có câu: “Nhà nhà Di Đà Phật, hộ hộ Quán Thế Âm”, nhất là trong xã hội ngày nay, mây đen chiến tranh bao phủ, thiên tai nhân họa “chúng sinh bị khốn ách, vô lượng khổ bức thân”, thì ngài “Quán Âm Diệu Trí Lực” luôn luôn với con mắt từ bi theo dõi chúng sinh, tầm thanh cứu khổ, viên mãn vô ngại ra, hỏi còn ai có khả năng cứu độ chúng sinh trong cõi thế gian này ra khỏi khổ đau phiền não và tội ác? Điều mà tôi muốn nói giờ đây cũng chính là Phổ Đà Sơn và Quán Thế Âm Bồ tát đó.

Phổ Đà là cách gọi tắt của tiếng Ấn Độ, nói cho đủ là Phổ Đà Lạc Già, Bổ Đát La Già, hoặc Bổ Đát Lạc Ca v.v… Tiếng Trung Quốc dịch nghĩa là Tiểu Bạch Hoa Sơn. Phổ Đà Lạc Già vốn là tên của một quả núi, bởi vì người Trung Quốc có thói quen thích gọi tắt, có khi chỉ gọi là Phổ Đà, cũng có khi gọi là Lạc Già, lâu ngày tự nhiên thành tên hai ngọn núi riêng biệt. Phổ Đà Sơn sở dĩ được coi là đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ tát là bởi vì trong kinh điển Phật giáo có ghi rõ. Hồi đó, Ấn Độ có mấy cái tên Bổ Đát Lạc Ca. Trong quyển 68 kinh Hoa Nghiêm, có một đoạn kinh văn như sau: Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La nói với Thiện Tài rằng: Hỡi thiện nam tử, ở phía Nam này có ngọn núi, tên là Bổ Đác Lạc Ca, ở đó có Bồ tát Quán Tự Tại, ngươi hãy đến đó hỏi Bồ tát xem học hạnh Bồ tát và tu Bồ tát đạo như thế nào. Nói xong bèn đọc một bài tụng rằng:

Hải Thượng hữu sơn đa Thánh hiền
Chúng bảo sở thành cực thanh tịnh
Hoa quả thụ lâm giai biến mãn
Tuyên lưu trì chiếu tất cụ túc
Dũng mãnh trượng phu quán tự tại
Vì lợi chúng sinh trụ thử sơn
Nhữ ưng vãn vấn chư công đức
Bỉ đương thị nhữ đại phương tiện.

(Mặt biển có núi lắm hiền thánh
Mọi báu xây thành cõi thanh tịnh
Hoa quả cây rừng đầy khắp chốn
Suối chảy, ao sen chẳng thiếu gì
Dũng mãnh trượng phu quán tự tại
Vì lợi chúng sinh ở núi này
Nếu ai muốn hỏi việc công đức
Phổ Đà sẽ chỉ rõ cho hay).

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cứ theo đường chỉ dẫn của cư sĩ Tỳ Sắc Chi La mà đi, một hôm đến chân núi Phổ Đà, tìm kiếm đại Bồ tát khắp nơi, chỉ thấy cảnh vật xung quanh, bốn bề hang cốc, suối chảy quanh co, rừng cây rậm rì xanh tốt, cỏ thơm mền mại tỏa hương. Thiện Tài đi rẽ sang phía bên phải, trên một khoảnh đất bằng phẳng, thấy ngài Quán Tự Tại đang ngồi kiết già trên tảng đá Kim Cương Bảo (nay tảng dó đó tục gọi là Thuyết Pháp Đài, vẫn còn ở phía Tây núi). Xung quanh có vô lượng Bồ tát cùng ngồi trên bảo thạch, cung kính nghe Bồ tát Quán Tự Tại nói pháp Đại Từ Bi… Bồ tát nói: “Ta đạt được pháp môn Bồ tát Đại Bi Hạnh, bình đẳng giáo hóa cho mọi chúng sinh, liên tục chẳng dừng… Hoặc ta dùng bố thí, nhiếp hộ chúng sinh, hoặc dùng ái ngữ, hoặc dùng lợi hành, hoặc dùng đồng sự nhiếp hộ chúng sinh, hoặc hiện sắc thân để nhiếp hộ chúng sinh, hoặc ta biến hiện thành các loại lưới bất tư nghì sắc tịnh quang minh mà nhiếp phục chúng sinh… Hoặc bằng âm thanh, hoặc bằng uy nghi mà thuyết pháp, hoặc dùng thần biến để tâm họ tỏ ngộ, mà được thành tựu… Ta nguyện tất cả chúng sinh ở khắp cõi Ta Bà, nếu niệm danh hiệu ta, nhớ kỹ đến ta, nếu thấy thấy thân ta, thì đều được lìa khỏi mọi sự sợ hãi. Sau khi lìa khỏi mọi sự sợ hãi, bèn lại dạy họ phát tâm A Nốc Đa La Tam Điểu Tam Bồ Đề, trọn chẳng thoái chuyển”. Đó là chuyến đi cầu đạo lần thứ 28 trong 53 cuộc trải thân cầu đạo Bồ tát của Thiện Tài đồng tử, được gặp Quán Thế Âm Bồ tát và được nghe pháp yếu của ngài ở trong núi này, đại để như vậy… Lại nói, Quán Thế Âm Bồ tát là chính Pháp Minh Như Lai trước đây, sớm thành chính giác, vì có nhân duyên lớn với thế giới Ta Bà chúng ta, cho nên ngài muốn cưỡi con thuyền Từ Bi, quay lại tầm thanh cứu khổ, ba mươi hai ứng hiện, thị hiện Phổ môn, cũng là chỉ nhắm khiến mọi chúng sinh thoát lìa khổ hải, sang bên bờ giác mà thôi.

3. ĐỨC QUÁN ÂM KHÔNG CHỊU SANG CÕI PHÙ TANG SƯ TỔ TUỆ NGẠC SÁNG LẬP PHỔ ĐÀ

Kể rằng, vào khoảng năm thứ 2 niên hiệu Minh Trinh đời Lương, sau thời Ngũ Đại, Phật giáo Trung Quốc truyền sang Nhật Bản vào đời Đường, hồi đó có rất nhiều nhà tu hành xuất gia Nhật Bản du học cầu pháp, sang nước Trung Hoa để phỏng đạo tìm thầy, trong đó có Tuệ Ngạc hòa thượng. Ông vượt qua muôn dặm trùng dương, đến đại quốc Trung Hoa, một mặt để tầm sư học đạo, một mặt đi hành hương tham lễ thánh địa Phật giáo ở khắp nơi. Một hôm, ngài đến Ngũ Đài Sơn ở tỉnh Sơn Tây, trước hết ngài đến triều bái đức Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, rồi đi thăm cảnh đẹp, danh lam, ông thấy một bức Thánh tượng của đức Quán Âm Đại Sĩ, thanh tịnh trang nghiệm, trong lòng bỗng sinh thèm muốn, ước gì có được bức tượng đó mang về Nhật Bản để thờ cúng, lúc đầu dịnh bạch với thầy Tăng trụ trì ở đó ước vọng của mình, nhưng dự đoán làm như vậy chẳng chắc đã đạt ý muốn, cho nên ông đã chọn biện pháp cuối cùng là “Bất Dữ Nhi Thủ” (không cho mà lấy). Ông cho rằng, đó cũng là xuất phát từ một mối thiện tâm, muốn cho người Nhật Bản được nhìn thấy tượng mà sinh lòng kính tín. “Người quy y phúc tăng vô lượng, kẻ lễ niệm tội diệt hà sa”, làm như vậy chắc chắn không phải là phạm vào “giới trộm cắp không cho mà lấy” trong luật của Phật chế. Ông nghĩ vậy rồi đi đến quyết định lấy lén luôn bức thánh tượng mang đi.

Tuệ Ngạc hòa thượng lấy được bức thánh tượng là vật báu vô giá rồi, tất nhiên không dám ở lâu trên Ngũ Đài Sơn nữa, vội vàng nai nịt hành trang lên đường, sắm thuyền vượt biển, thẳng hướng về phía Đông. Khi thuyền đến quần đảo Chu Sơn, thuộc huyện Định Hải tỉnh Chiết Giang ngày nay, nơi đây còn gọi là vùng Đá Ngầm Tân La, bỗng giữa mặt biển hiện ra hàng loạt những búp sen bằng sắt (nay vùng này có tên gọi là “Thiết Liên Hoa”), thuyền không sao vượt qua được, suốt ba ngày đêm như vậy, thuyền cứ loanh quanh ở tại chỗ vùng núi Phổ Đà, thuyền cứ định quay sang hướng Đông, thì những búp sen đó lại hiện ra trên mặt biển ngăn đường. Lúc này Tuệ Ngạc hòa thượng bắt đầu thấy kinh hãi, lòng dạ rối bời. Tục ngữ có câu: “Không làm điều trái lương tâm, dù nghe sét đánh sấm gầm chẳng sao”. Lúc này ông mới ngồi tĩnh tâm xét lại xem mình có sự sai lầm gì không, ông thấy, bình sinh chưa làm điều gì thất đức, ám muội, tại sao hôm nay lại bị tai ách trở ngại trên mặt biển này? Tín đồ Phật giáo một khi gặp việc gì khó không biết giải quyết bằng cách nào, thì có một pháp bảo duy nhất là quỳ trước tượng Phật, xin cầu sám hối. Khi ông quỳ trước tượng Bồ tát, bỗng nghĩ ra bức tượng Bồ tát này là vật “Bất Dữ Nhi Thủ”, lúc này ông mới vỡ nhẽ, cảm thấy hổ thẹn, vội vàng quỳ trước tượng mà khấn rằng: “Kính tôn đại sĩ, kẻ đệ tử này vì thấy thánh tượng Bồ tát trang nghiêm, ở nước đệ tử, Phật pháp còn chưa rộng khắp, ít được nhìn thấy tượng thánh, đệ tử muốn thỉnh tượng thánh Bồ tát về Nhật để thờ cũng. Nếu chúng sinh trên đất nước của đệ tử không có nhân duyên được ngưỡng trông tượng ngài, thì đệ tử xin ở lại vùng núi này, xây dựng tịnh xá, thờ cúng thánh tượng”. Khấn xong thuyền lại tiếp tục đi, đến một cửa hang, hang này có tên là Triều Âm Động (động tiếng thủy triều), ông bèn cho thuyền cặp bến và ở lại nơi đây.

Hồi đó Phổ Đà Sơn còn là một hòn đảo hoang vu không một bóng người, tuy nhiên, đời Hán, cũng đã có người bạn thân của Hán Quang Vũ hoàng đế là Mai Tử Chân tiên sinh, nhạc phụ của Nghiêm Tử Lăng tiên sinh đến ẩn cư ở núi này để tu chân dưỡng tính (tức là am Mai Phúc ngày nay, trong am có giếng luyện đan của Mai Phúc tiên nhân, vì vậy mà Phổ Đà Sơn còn có tên là núi Mai Sâm, chính là chỉ nơi này). Nhưng rất ít có người biết giữa biển lại có ngọn núi này, cho đến đời Lương Minh Trinh vẫn còn là một hòn đảo hoang vu, chỉ có vài ngư ông làm nghề đánh cá, dựng ra mấy túp lều cỏ ở hẻm núi để ở. Lúc đó Tuệ Ngạc Tổ sư cho thuyền cặp bến, lên bờ đi tìm, tìm mãi xa xa thấy một túp lều cỏ bên cạnh hang Triều Am, đến lều, ngài gặp được người chủ túp lều là cụ già họ Trương, làm nghề dánh cá, khi nghe hòa thượng Tuệ Ngạc kể lại đầu đuôi câu chuyện, ông chài nghe xong vô cùng cảm động, đồng thời trong lòng cũng vui mừng khôn xiết, thấy Bồ tát không muốn sang đất nước Nhật Bản mà lại muốn ở lại cái chốn hoang sơn cùng cốc này, phải nói nơi đây quả thực có nhân duyên to lớn với Bồ tát rồi đó, dân chài gần đây chắc cũng có phúc đức và thiện căn lớn lắm cho nên mới được Quán Thế Âm hiển hóa ở núi này. Nghĩ dến đây, ông già nói với Tuệ Ngạc hòa thượng, với giọng khẳng khái, rằng: “Thưa Sư phụ! Dân của quý quốc đã không có duyên gặp Phật, thì xin mời Sư phụ cùng Bồ tát cùng ở lại núi này với chúng tôi, chúng tôi sẽ nhường lại nhà cửa đất đai để Sư phụ có thể dựng am thờ phụng Bồ tát, tôi ra biển mời bà con cùng về đây, lễ Phật và cúng dường Sư phụ, Sư phụ đừng về Nhật nữa”. Thế là Tuệ Ngạc thiền sư bèn lập am an trụ ở núi này và không về Nhật nữa, đặt cho am một cái tên “Bất khẳng khứ Quán Âm viện” (nghĩa là “Am Quán Âm không chịu đi”). Ngài Tuệ Ngạc từ đó trở thành sáng lập Tổ thứ nhất của Phổ Đà Sơn. Đó là lai lịch của Phổ Đà Sơn.

4. ĐỨC VĂN TÔNG THÍCH ĂN THỊT TRAI ĐỨC BỒ TÁT VÔ NGÔN THUYẾT PHÁP

Văn Tông hoàng đế đời Đường có thói quen thích ăn trai biển, bẹn hạ chiếu chỉ xuống cho dân chài ở vùng ven biển Đông Nam, hằng năm đến mùa trai béo phải đem cống. Bọn quan lại tham nhũng cũng thừa cơ vơ vét bốc lột dân làng, bắt phải cống dâng cho chúng, gây bao nỗi khổ cho dân làng, khắp nơi vang tiếng khóc than, oán hận. Bỗng một hôm, tên quan Ngự soạn (nấu bếp) của nhà vua được một con trai lớn, nhưng không sao cạy miệng ra được, kể cũng lạ. Khi quan Ngự soạn mang con trai biển đến trước mặt vua, bẫm rõ nguyên do, vua cầm con trai, khẽ búng một cái, kể cũng lạ thay, con trai bỗng há miệng, trong đó có một bức tượng Quán Thế Âm Bồ tát. Văn Tông hoàng đến thấy thế, vô cùng kinh ngạc, vội hạ lệnh cho quan giám cung đem bức tượng vào chiếc hộp đàn hương mạ vàng, đặt vào tôn miếu để thờ. Tiếp theo bèn vời Duy Chánh thiền sư, một bậc đại Tăng đạo cao đức lớn, vào chầu để thỉnh vấn. Thiền sư bèn thưa rằng: “Mọi vật hiện ra đều có ứng nghiệm cả, việc này có ý nhắc nhủ bệ hạ nên có lòng tin, tiết dụng, yên dân mà thôi. Kinh có nói rằng: người được ứng thân Bồ tát được độ, tức hiện thân Bồ tát mà được nghe thuyết pháp”. Vua nói: “(thiếu một đoạn)… pháp”. Sư nói: “Bệ hạ có tin không?” Vua nói: “Sao dám không tin?” Sư thưa: “Như vậy là bệ hạ đã được nghe thuyết pháp rồi đó”. Văn Tông hết sức vui mừng mà cảm ngộ, thệ nguyện giữ giới, không bao giờ ăn trai, nhân đó hạ chiếu cho các chùa chiền trong thiên hạ phải dựng tượng Quán Âm để kính cẩn phụng thờ, đó là lai lịch câu chuyện Bồ tát hiển hóa, các nơi kính ngưỡng phụng thờ, và cũng là nguồn gốc việc Phổ Đà Sơn giữ được hương khói đến ngày nay.

Tôi tuy chưa được nhìn thấy tượng Quán Âm hiện trong con trai, nhưng chính mắt tôi đã từng thấy tượng La Hán trong con trai. Tượng bán thân đó hiện đang để ở nhà bảo tàng An Bàn Thạch, phải loại khách hành hương đặc biệt, mộ tiếng mà xin xem thì mới được thấy, chứ người thường khó mà có dịp được thấy, nghe nói đến nay đã trải qua hơn 500 năm rồi, đó là một cái hộp sơn mài màu đỏ, trong hộp đựng một mảnh vỏ trai, trong vỏ trai có 18 bức tượng La hán thiên tạo, quả thật là một báu vật vô giá, kỳ tích thần dị bất khả tư nghị về Bồ tát hiển hóa, không phải là điều mà khoa học ngày nay có thể giải thích nổi.

5. CÔ GÁI THÀNH TÂM HƯỚNG PHẬT ĐẠI SĨ HIỂN HÓA ĐƯA CƠM

Tương truyền có một cụ già với con gái và con dâu vượt qua ngàn dặm sông nước hành hương thắng tích Phổ Đà, thực hiện chí nguyện thành tâm trong mấy năm trời, khi thuyền vừa đến Phổ Đà, đoàn người đang chuẩn bị rời thuyền lên bờ để lên núi dâng hương, bỗng cô con gái hành kinh, vì thân không thanh tịnh, nên không thể cùng đi với cha và chị dâu lên núi lễ Phật được. Cô nhờ chị dâu lên núi đứng trước Bồ tát khấn giúp, thắp hộ vài nén hương để nói rõ tâm nguyện của mình. Người chị dâu nghe thấy nói vậy bỗng bật cười và chê cô là quá ư cố chấp, cô gái càng xấu hổ và chỉ tự trách bản thân không có duyên được thấy Bồ tát, đành phải ngồi lại một mình trong khoang thuyền chờ cha và chị dâu lên núi dâng hương trở về. Nào ngờ lúc đó nước thủy triều đang lên, càng dâng càng cao, làm ngập cả con đường lên bờ vừa rồi. Đường đi bị mất, không có lối lên bờ, trong bụng lại đói, mà chẳng có thứ gì ăn được. Bỗng thấy một bà già tay xách giỏ cơm đi đến, luôn tay lấy đá sỏi ném xuống nước, vén áo lên thuyền nói rằng: “Già đem cơm đến cho cô nương ăn đây!” Nói xong liền bỏ giỏ cơm đấy đi ngay. Cô gái rất lấy làm lạ, cho rằng có lẽ cha sai bà già đem cơm đến cho mình ăn, cho đến tận chiều tối, cha cô và chị dâu mới từ trên núi xuống, lúc đó nước triều rút, đường đi lại hiện ra, quả thực khi cha con lên núi lễ Phật cũng quên khuấy cơm trưa cho cô gái ở lại dưới thuyền, đến khi về thuyền mới nhớ ra là cô chưa được ăn cơm trưa, do đó chị dâu vội hỏi: “Khổ quá! quên khuấy mất, làm cô bị đói trưa nay phải không?” Cô gái bèn nói: “Trưa nay đã có một cụ già mang cơm đến cho em ăn rồi, em tưởng cha và chị sai bà cụ đưa cơm xuống cho em đấy chứ. Thế không phải như vậy ư?” Cha và chị dâu nghe nói vậy, rất lấy làm lạ mà nói rằng: “Không hề bảo ai mang cơm cả!” Cô gái bèn đưa chỗ cơm ăn còn thừa ra cho hai người xem, để làm minh chứng. Lúc đó người chị dâu mới ngộ ra, nhất định là Quán Thế Âm Bồ tát hiển thánh, biến hiện thành một bà cụ già đưa cơm đến, để giúp một cô gái có lòng thành từ xa đến núi dâng hương lễ Phật, nhân vì trên mình không thanh tịnh, chỉ biết hổ thẹn và ân hận không có duyên được thấy mặt Phật mà buồn tủi, cho nên Bồ tát hiện thân biến hóa để cô gái được gặp và tăng thêm lòng tin, người chị dâu với cha vội vàng quay lại nơi điện thờ khấn bái để tạ ơn, thì thấy vạt áo của Đại Sĩ vẫn còn ướt. Bởi vậy sau này, ở nơi thuyền ghé bến lên bờ được đặt tên là “Đầu đường cô gái bị cười” (Đoản cô đạo đầu). Đó là câu chuyện về cô gái thành tâm, cảm ứng thấy Bồ tát hiển thánh đưa cơm để kỷ niệm nơi cô gái bị chị dâu chế diễu. Nơi đó bây giờ trở thành bến đò cho các khách hành hương cho thuyền cặp bến lên bờ, ngôi điện Bồ tát hiển thánh tức là am Từ Vân ngày nay, am đó nằm ngay cạnh bến đò chỉ cách vài bước, phía sau điện của am này, người đời sau có tạc một bức tượng cô gái để kỷ niệm, và khách hành hương cũng thường đến dó thắp hương lễ bái.

Ở đoạn đầu đường vào núi, có một cổng lớn trên đề bốn chữ “Đạo đầu bài phường” (cổng đầu đường), do cư sĩ Trần Tích Chu ở Vô Tích quyên tiền xây dựng vào năm Dân Quốc thứ 8, cổng được xây bằng bê tông cốt thép, công trình kiên cố, thế hình hùng tráng, kỳ vĩ hơn nhiều so với “Tử Dương Môn” ở núi Sư Tử, một danh thắng Phật giáo Trúc Nam trong tỉnh ta (chỉ Đài Loan). Tấm hoành trên cổng có nhiều danh nhân đề tự, như “Nam Hải Thánh Cảnh” của Điền Nam Vương Nhân Văn (tỉnh Vân Nam), “Đồng Đăng Bỉ Ngạn” (cùng lên bờ giác) của Đông Hải Từ Thế Xương, “Bảo Phiệt Mê Tân” (bè báu bến mê) của Hà Nam Phùng Quốc Chương, “Kim Thằng Giác Lộ” (đường giác dây vàng) của Hoàng Pha Lê Nguyên Hồng. “Hồi Đầu Thị Ngạn” (quay đầu là bến giác) của Giang Triều Tông; ngoài ra còn nhiều câu đối như:

– Hữu cảm tức thông, thiên giang hữu thủy, thiên giang nguyệt,
Vô cơ bất bị, vạn lý vô vân, vạn lý thiên.

(Có cảm ắt thông, ngàn sông có nước, ngàn sông nguyệt,
Không cơ chẳng khắp, muôn dặm không mây, muôn dặm trời).
của Đại Hưng Phùng Thứ;

– Nhất nhật lưỡng độ triều, khả thính kỳ tự lai tự khứ,
Thiên sơn vạn trùng thạch, mạc tiếu tha vô giác vô tri.

(Ngày hai đợt triều lên, khá nghe sóng tự dâng tự rút,
Thiên sơn muôn trùng đá, chớ cười ai vô giác vô tri).
của Tứ Minh Vương Vũ Tương;

– Đáo giá sơn lai vị yết phổ môn, đương tiên tịnh chí,
Độ na hải khứ dục đăng bỉ ngạn, tu tảo hồi đầu.

(Đến núi này, chưa bái phổ môn, trước nên sạch chí,
Vượt biển nọ, muốn lên bờ giác hãy sớm quay đầu).
của Giảng Nam Chiếu.

Nhiều câu đề từ và đối liễn đại loại như vậy, lời hay ý đẹp, không thể kể xiết được.

6. ĐIỆN THẦN VẬN Ở CHÙA PHỔ TẾ BIẾT CO RÃN NHƯ TÚI CÀN KHÔN

Chùa Trước là chốn tổ đình của Phổ Đà Sơn. Thời Lương Ngũ Đại, mới bắt đầu xây dựng chùa này, đặt tên là “Viện Bồ Tát Không Chịu Đi”. Sau vua Tống Thần Tông có sắc lệnh cho tu tạo lại, lấy tên là Bảo Đà Tự. Đến đời Thanh, cũng đổi tên nhiều lần, gần đây mới có tên là “Phổ Tế Thiên Tự”. Vì cả núi có hai chùa Phổ Tế, Pháp Vũ chia vùng quản lý, khu vực do Tiền Sơn quản lý gọi là Tiền Tự, khu vực do Hậu Sơn quản lý gọi là Hậu Tự, một số nhà cửa, am nhỏ thuộc phạm vi quản lý của Tiền Sơn, đều quy về nhà khách của Chùa Trước trông coi; một số am viện và cục Cảnh sát, cho nên nhà khách của Tiền Tự và Hậu Tự cứ được coi là tòa án hành chính cũng chẳng sao. Dù là tăng hay tục xung quanh am viện, nếu có chuyện xích mích tranh cãi xảy ra, mà không thể tự giải quyết được, thì, nếu thuộc Tiền Tự thì đến nhà khách Tiền Tự, nếu thuộc Hậu Tự thì đến nhà khách Hậu Tự, thế là thầy Tăng Tri Khách ở Tiền Tự cũng như Hậu Tự, chỉ cần “rung mình, hô biến” một cái là trở thành ông quan tòa ngồi trước khách đường hô đông chỉ bắc, phán quyết oai nghiêm. Bởi thế cho nên tăng tục ở trên chùa này đều quen gọi Chùa Trước, Chùa Sau mà không gọi tên chữ là chùa Phổ Tế hay chùa Pháp Vũ.

Chùa Trước là tổ đình của Phổ Đà, cho nên phòng xá rất nhiều, người ở đông đúc, có thể nói là nơi tiêu biểu cho Phổ Đà, điều đáng ca ngợi nhất và nhiều truyện thần dị khó hiểu nhất là Viên Thông Bảo Điện. Bởi vì Phổ Đà Sơn là chốn đạo tràng của Đại Sĩ Quán Âm, ngài tu chứng Nhĩ căn viên thông, có khi có người gọi là Viên Thông Đại Sĩ. Cho nên các điện lớn ở núi này phần lớn đều gọi là Viên Thông Bảo Điện. Bởi vì các điện lớn ở Chùa Trước vốn nổi tiếng có nhiều câu truyện thần dị, do đó, những người hiếu sự đặt tên là Thần Viện Điện, người thế tục lại đặt tên là “Điện Co Rãn”. Đọc chữ co rãn cũng có thể biết được ý nghĩa của nó rồi. Nghe những câu truyện truyền thuyết về ngôi điện này thì cảm tưởng như nơi đây là cái túi càn khôn trong tiểu thuyết, có thể co rãn lúc to lúc nhỏ, dù ít hay nhiều người nó cũng có thể chứa hết được, xưa nay chưa nghe ai nói đến nạn thừa người, cảm thấy Tăng nhiều điện nhỏ cả. Bản thân tôi lúc đầu cũng cho rằng đó là truyện thần thoại không có thực, cho nên cũng không để ý lắm. Sau này sư Triệu Tường trụ trì ở am Tích Thiện kể cho tôi nghe nhiều truyện như: Ở đây có 6000 vị hòa thượng tụng kinh nhiễu Phật mà không thấy chật chội. Sư kể: “Năm Dân Quốc thứ 25 có một vị khách hành hương vào núi dâng lễ cúng dường, làm cỗ chay mời hàng ngàn Sư Tăng tới dự, để kết pháp duyên. Hồi đó có thể nói là thời đại vàng son của núi Phổ Đà. Khách đến dâng hương cộng với Tăng chúng phải đến ba vạn người. Các Sư Tăng ở các châu huyện phủ đi hành cước cũng ùn ùn kéo đến núi này để dự hội, không khí náo nhiệt, đúng là nơi tập hợp của Tăng già trong cả nước. Hồi đó tôi nhận chức phó thủ kho ở Chùa Trước (chùa này còn có các chức Thủ quỹ, Tri khách) bởi vì làm chay cúng dường thường có lệ mỗi suất chay kèm theo một đồng lộc, chứng chay trưa xong, mọi người đi lễ Phật, ra khỏi trai đường (thường đọc kinh Dược Sư Tiêu Tai Diên Thọ), rồi lên đại điện nhiễu Phật. Lúc đó người nhận chức phó thủ kho phải đứng trước đại điện để phát lộc. Lúc phát lộc, vì không có tiền lẻ nên phát một thẻ tre rồi sau đó đến kho đổi lấy tiền, lúc đó các cửa ngách của đại điện đều dóng chặt, cử người chuyên trách đứng canh cửa đề phòng bất trắc, chỗ cửa vào chỉ vừa một người ra rồi vòng ra cửa trước lĩnh lộc, một người chỉ nhận một suất, không được nhận thay những thẻ tre mà tôi phát ra cho từng người, kiểm lại phải có hơn sáu nghìn thẻ. Việc đó chính tay tôi làm, mắt tôi thấy chứ không phải là truyện thần thoại, mà chính là việc có thật, ông có tin điều đó là truyện lạ không?”

Như trên, tôi đã nói, những truyện thần dị về Phật, Bồ tát, không phải là điều mà đám phàm phu tục tử chúng ta có thể nghĩ tới và nghị bàn cho ra lẽ được, ví dụ như truyên căn buồng của cư sĩ Duy Ma chép trong kinh Duy Ma, một căn buồng ngủ chỉ vỏn vẹn một trượng vuông mà có thể chứa được vài vạn nhân thiên, hỏi bệnh nghe pháp, vậy một đại điện chứa được sáu ngàn người thì có gì là lạ? Trên đây tôi đã dài dòng văn tự mất nhiều trang giấy rồi, độc giả chắc sẽ hỏi: “Vậy thì ngôi điện kia rộng bằng chừng nào?” Xin lỗi, kẻ cầm bút này chỉ có một cây bút, các bạn hãy từ từ, tôi xin thưa dần: ngôi điện đó có chín chín tám mươi mốt gian, cao hơn Văn Xương Các (tức Am Liên Trì), bốn tầng lầu, so với trong nước thì không lấy gì làm lớn, nhưng so với Đài Loan ngày nay, tôi đã đi khắp cả vùng Đài Loan, cũng chưa thấy có ngôi bảo điện nào to lớn và hùng vĩ như vậy. Theo tôi, ở Đài Loan, phải nói rằng điện chùa Siêu Phong ở núi Đại Cương là to nhất, nhưng so với đại điện ở Chùa Trước của núi Phổ Đà thì thực là người tí hon gặp người khổng lồ, kém xa lắm. Nay dùng phương pháp khoa học mà tính toán, thì 81 gian nhà như vậy làm sao có thể chứa nổi sáu ngàn người, huống hồ là giữa điện lại có ba ngôi tượng Phật lớn, hai bên tường lại thờ đến ba mươi hai bức tượng Quán Âm ứng thân, lại còn trừ căn phòng của điện chủ trông coi hương đăng, và còn mấy cái kệ cúng bày những thứ như mái trèo, bàn thạch, bồ đoàn v.v… Nhiều lắm chỉ có thể chứa được tối đa là hai ngàn người. Song, thực là đúng có sáu ngàn Sư Tăng ở đại điện nhiễu Phật, quỳ lễ, mà không cảm thấy chen chúc chút nào, cho nên người ta mới đặt cho đại điện cái tên là “Đại Điện Thần Vận Co Rãn” là như vậy.

7. BỮA CƠM CHAY NGÀN VỊ SƯ TĂNG ĐỨC LA HÁN HIỂN THÂN CÚNG DƯỜNG

Trong núi này, từ xưa đã có truyền thuyết rằng khi nào có trai chủ đàn việt đến núi, làm cỗ chay cúng ngàn Sư Tăng, thì thế nào cũng có một vị La Hán giáng trần ứng cúng. Nhưng vị La Hán xuống ứng cúng phần lớn là hiện hình thành một vị Tỷ khưu, trà trộn trong đám Sư Tăng người phàm khó mà nhận ra được. Vào mùa Xuân Dân Quốc năm thứ 17, có một vị cư sĩ đại nguyện tên là Bành Đại Dung ở đất Giang Tây, đến núi dâng hương, ông ta hiểu rằng khi chưa thành được Phật đạo thì trước hết phải kết được nhân duyên, và ông cũng hiểu rằng phải làm được việc phúc đức lớn lao ở chốn Tam Bảo, cho nên ông đã thành tâm phát tâm vô thượng Bồ Đề, tổ chức một bữa chay cúng cho một ngàn Sư Tăng, để kết thiện duyên với chúng Tăng. Đúng là người có thành tâm, Phật có cảm ứng, quả nhiên được gặp La Hán, ngài đã ban tặng cho ông ta một bức tượng Phật cổ, sau đó ông ta đi tìm khắp không thấy vị La Hán đó đâu nữa. Để tỏ lòng biết ơn, ông đã làm một đôi liễn dài, treo ở điện Đại Viên Thông để ghi nhớ ơn đó. Nay tôi xin chép đôi liễn cùng với lời bạt ở dưới đôi liễn đó ra đây: “Hằng hải triêu Phổ Đà, biến trực trai cúng thiên Tăng, mông lão Tỷ khưu, thí ngã cổ đồng Thánh tượng, tưởng thị ứng chân A La Hán. Thê sơn lễ Đại Sĩ, hỉ du trì lưỡng danh sát, xu Phạm Âm động, khan tha diệu tướng phân hình, lộ xuất phu tọa tử kim thân”. (Vượt biển đến Phổ Đà, soạn bữa chay cúng ngàn Tăng, ơn được sư già cho tượng Thánh cổ đồng, ắt là La Hán ứng chân thân. Đến núi lễ Đại Sĩ, vui du ngoạn hai tháp báu, tới động Phạm Âm, thấy diệu tướng biến hình, hiện thân vàng ngồi phu tọa). Lời bạt viết: “Dân Quốc năm Mậu Thìn, tháng trọng Xuân, theo lời hẹn ước của Trúc Lão sư tôn chùa Nghênh Giang tỉnh Giang Tây, đến đây dâng lễ, và nguyện bày bữa cơm chay cúng dàng chư Tăng, sau đó lên đại điện Viên Thông lễ Phật, Đại Dung cư sĩ đứng trước cửa điện đón tiếp chư Tăng, bỗng có một vị Tỷ khưu già trao cho một bức tượng đồng cổ, lúc ngửa mặt lên xem, thì không thấy bóng hình ngài đâu nữa, cho là A La Hán hiện thân thị pháp. Nay soạn đôi liễn treo trước cửa điện, để làm kỷ niệm, và để cúng khách thập phương, phát tâm tín nguyện, để trọn tấm lòng thành cảm ngộ. Bành Đại Dung, Đệ tử quy y Tam Bảo huyện Cát An tỉnh Giang Tây – Kiền thành kính soạn”.

Viết đến đây, có người đề nghị tôi kể qua cuộc nghi thức chứng trai của ngàn Sư Tăng, để tứ chúng đệ tử cửa Phật tỉnh Đài Loan chưa từng được đến nội địa biết thêm đôi điều. Song tiếc rằng lời lẽ, văn chương của tôi quá ư kém cỏi, nên cũng chỉ xin nói qua loa vài lời để thỏa phần nào tâm nguyện của vị Đại đức ấy. Nói đến duyên khởi của việc cúng trai, ấy là bởi xưa kia, hồi đức Phật còn tại thế, Mục Liên tôn giả có nguyện muốn cứu mẫu thân của ngài thoát khỏi nỗi thiêu đốt của đám ngạ quỷ đói khát dày vò, nên vào đúng ngày rằm tháng bảy, đặt trai cúng dàng chư Bồ tát Hiền Thánh Tăng, nhân đó mà được công đức hồi hướng việc mẫu thân ngài được thoát khổ, lên sống tầng trời, sau này các cư sĩ tín chủ đàn việt thập phương muốn siêu độ cho ông bà cha mẹ đã khuất, hoặc để tạo dựng phúc điền, sống lâu trăm tuổi, bèn đến các chốn danh sơn, bảo tháp, làm chay cúng dường chư Tăng phúc điền thanh tịnh ở chốn đại Tùng lâm. Tên gọi các cuộc cúng chay đó cũng có tên gọi khác nhau, như ở vùng tỉnh nhà thì gọi là “hồng trai”, hoặc “hương trai” hoặc trong nội địa lại có tên gọi khác như “hủ trai” (cơm chay đậu phu), “bình trai”, “thượng đường trai”, “thiên Tăng trai” v.v… nếu làm cơm chay lấy tên là “hủ trai”, “bình trai” (cơm chay bình thường), hoặc “như ý trai” thì không có gì đặc biệt lắm, nhưng nếu tổ chức một bữa “thượng đường đại trai” thì phải thỉnh được Pháp sư (Hòa thượng) bản tự (trụ trì) lên điện đường thuyết pháp. Ở núi Phổ Đà, đến dịp hội chùa hàng năm (từ ngày mồng một tháng giêng đến mười chín tháng hai), hầu như ngày nào cũng có vài cuộc “thượng đường đại trai”, đó là lệ thông thường. Nghi thức “thượng đường trai” cũng tương tự như trong các cuộc truyền giới ở chùa Đại Tiên mà ta thường thấy. Nay tôi muốn giới thiệu về “Thiên Tăng Trai” một chút.

Trong dịp hội chùa, thường phải có vài ba lần “Thiên Tăng Trai” (ngàn tăng). Ở các am nhỏ thường không tổ chức “Thiên Tăng Trai”, ngay cả ở Phật Đỉnh Sơn là một trong ba tùng lâm lớn cũng không đủ điều kiện tổ chức, mà chỉ ở Chùa Trước, Chùa Sau làm làm được, vì ở hai chùa này có địa bàn rộng rãi, người chấp tác cũng đông, nếu có một ngàn vị Sư Tăng đến ứng cúng (có khi lên đến sáu ngàn vị), nhất định phải có một cái nồi lớn để nấu cơm cho một ngàn vị Tăng ăn. Song, “cháo ít, sư nhiều” cũng lôi thôi phiền phức lắm. Muốn tổ chức “Thiên Tăng Trai” thì phải treo biển thông báo trước ba ngày ở cửa lớn Chùa Trước, để thỉnh Sư Tăng ở các chùa trong núi đúng ngày đến ứng cúng. Nghi thức Thiên Tăng Trai rất long trọng, buổi lễ Pháp sư thuyết pháp trên điện đường và trai chủ thỉnh pháp cũng long trọng trang nghiêm như các vị hoàng đế ra buồi chầu vậy. Lễ Tiết tôn sư trọng đạo thỉnh Tăng thuyết pháp, ai thấy cũng phải thán phục và cho là dịp may hiếm gặp. Trước tiên, do một vị sư phụ trách trật tự ở nhà khách tập hợp các Sư Tăng đến pháp đường, rồi Tăng Tri khách dẫn thí chủ tổ chức tăng trai đến lễ đường thuyết pháp (giảng đường) đứng nghiêm tại chỗ, thầy Duy Na thỉnh khánh tuyên bố “thỉnh trống, thỉnh chuông, đến phương trượng nghênh thỉnh Hòa thượng!” Đến phương trượng, trai chủ cầm hương do thầy Tri khách dẫn đến trước Hòa thượng làm lễ, Hòa thượng đăng tọa, sau khi trai chủ dâng hương đảnh kễ, thấy Tri khách thăp hương làm lễ, chắp tay quỳ dưới chiếu, thay mặt trai chủ thưa lời, nghênh thỉnh Hòa thượng. Đại ý thưa rằng: “Ngưỡng bạch Hòa thượng, đại từ mẫn nghe, nay có mỗ tỉnh, mỗ huyện, mỗ mỗ tín sĩ, đến núi dâng hương, mong cầu gây phúc diên thọ, kính bày Thiên Tăng Đại Trai, cúng dàng chư vị Sư Tăng, cung thỉnh Hòa thượng, thượng đường thuyết pháp, rộng lợi nhân thiên. Duy nguyện Hòa thượng từ bi, lặng tâm hạ cố, những mong chấp thuận. Muôn phần cầu xin, lòng thành khẩn khoản!”

Tiếp đó, thầy Duy Na hô “Đi từ dưới lên!”, thế là chuông trống nổi lên, lúc này toàn ban chấp sự đi theo, phía trước có hai người cầm hai cờ lớn có trường phan dẫn đường, hai hàng Sư Tăng đi theo, trước mặt Hòa thượng có hai chiếc lư hương xách tay, có thị giả truyền lư hương, bên cạnh Hòa thượng có bốn thị giả, một người cầm trượng thuyết pháp, một người cầm phất trần, một người cần bát, một người ôm bình, Hòa thượng mặc áo đại bào Hải Thanh màu vàng, khoác tổ y màu đỏ thắm, cổ đeo chuỗi tràng hạt lớn, nghiêm túc uy nghi, đi đến pháp đường, thầy Duy Na hô thỉnh một tiếng khánh, ngừng tiếng trống. Hòa thượng lễ Phật thăng toà, chư Tăng xướng hương tán xong, lúc đó có một vị Tăng ra thắp hương đảnh lễ ba lễ, rồi lên nhận pháp trượng của thị giả, bốn thị giả đi xuống, cúi đầu lễ ba lễ. Thầy Duy Na lại hô “Phạm âm long tượng chúng, đương quan đệ nhất nghĩa”, Hòa thượng cầm pháp trượng gõ xuống đất một cái, bắt đầu thuyết pháp, trai chủ quỳ nghe. Thuyết pháp xong, Duy Na lại hô: “Đế thính Pháp vương Pháp, Pháp Vương Pháp như thị” (Lắng nghe pháp của Pháp vương, Pháp của Pháp vương như vậy). Hô xong, Hòa thượng đi xuống, trai chủ tạ pháp, thầy Duy Na hô: “Chuông trống nổi lên, dưa Hòa thượng trở về trượng thất”.

Sau đó dâng cúng trước Phật, Hòa thượng đến trai đường ứng cúng, trai chủ bái trai, sau khi chứng trai xong, lên Phật điện tụng kinh lễ Phật, do Hòa thượng dẫn lễ, trai chủ theo sau Hòa thượng, chư Tăng tập hợp, theo hàng nhiễu Phật trước đại điện. Lúc đó các thầy Tri khách ở Chùa Sau, các thầy trật tự, thầy Tri khách… đều tề tựu mỗi người đều cầm hương bảng trực tăng cảnh sách, đứng nghiêm bốn góc, lại có rất nhiều thầy tuần chiếu, tay cầm cành liễu (hoặc roi mây) đi lại tuần tra xem xét, theo dõi các Sư Tăng, xem có ai có cử chỉ khinh mạn làm sai, như bá vai bá cổ, vi phạm uy nghi. Các thầy Tri chúng, Tri khách, trật tự (củ sát) như ông Đại Đội Trưởng chỉ huy bộ hạ của mình, thầy tuần chiếu, cầm roi duy trí trật tự như cảnh sát đang chấp hành phận sự, trông thật là uy nghiêm như đại quân sắp ra trận, người xem cũng phải sợ hãi. Hơn một ngàn Sư Tăng tề chỉnh, tĩnh tâm trì tụng lễ Phật. Nhiễu Phật xong, Hòa thượng tiến vào đại điện đứng quay mặt ra ngoài, trai chủ quỳ trước Hòa thượng, chắp tay nghênh đón chư Tăng tiến vào. Những người đứng ở cửa đại điện, phát lộc để kết pháp duyên, nghi thức đại để là như vậy.

Truyện này không phải là điều chủ yếu mà tôi muốn nói, nhưng cũng bổ sung thêm đôi chút. Các bậc Thượng tọa bề trên, cố nhiên là chẳng muốn nghe những chuyện thường tình này làm gì, nhưng đối với những vị mới phát tâm chưa được nghe đến bao giờ, cũng có thể lấy làm tham khảo.

8. CHUÔNG LỚN NẶNG BẢY NGÀN CÂN TREO TRÊN SỢ DÂY THỪNG CỎ BỆN

Nói đến cái chuông lớn cổ quái hiếm thấy này, bản thân tôi, trước khi đến núi Phổ Đà, cũng thường nghe người ta kể rằng: “Núi Phổ Đà có một cái chuông lớn, nặng hơn bảy ngàn cân, được treo bằng một sợi dây thừng bện bằng rơm ở trên gác chuông”. Hồi đó tôi cũng thuộc loại mắt ít thấy, tai ít nghe, nghe nói như vậy thì cho là chuyện lừa bịp, bịa đặt vô căn cứ, thần thoại nói xằng. Đến khi tôi lên núi Phổ Đà dâng hương, có người đề nghị đi xem chiếc chuông treo bằng dây thừng bện bằng rơm ở Chùa Trước, trong đầu óc vốn vẫn hồ nghi truyện đó trong mấy năm trời, tôi bèn cùng đi với mọi người xem sao.

Gác chuông nằm ở góc đông nam điện Thần Vận, bậc lên gác chuông rất hẹp, chỉ vừa một người lên xuống, cho nên vào dịp hội chùa, người đến xem chuông chật ních, chen chút nhau từ sáng đến tối. Trên gác chuông có một Sư thầy chân đi tập tễnh coi việc đèn nhang, hương nến, vừa làm nhiệm vụ tiếp khách, vừa thắp hương đốt nến cho khách lên thăm, đôi khi giải thích chuyện lạ về cái chuông ấy cho khách tham quan.

Tôi còn nhớ như in, thầy khoa chân múa tay kể cho chúng tôi nghe: “Chiếc chuông lớn này nặng bảy ngàn cân, dúc vào năm Gia Định thứ 13 đời Thanh, các vị thấy đấy, chuông lớn như vậy mà chỉ treo bằng một sợi dây thừng bện bàng rơm, đến nay đã gần ba trăm năm rồi, các vị thấy có lạ không?” Lúc đó có một ngài sĩ quan cũng nghi ngờ như tôi, ấy tay rút một đoạn rơm trong chiếc dây thừng ra xem, quả nhiên đúng là rơm thật. Lúc đó, sự thật đã thắng mọi lời hùng biện, chúng tôi không còn phải nghi ngờ gì nữa. Cái độ lớn của thân chuông to hơn nhiều so với chiếc chuông lớn của chùa Hàn Sơn trong câu thơ “Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự. Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” (Thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn). của Trương Kế đời Đường. Tiếng chuông âm vang, tuy chưa đạt đến mức “trên thấu tầng trời, dưới thông địa ngục” nhưng so với tiếng chuông ở các chùa khác dăm bảy trăm cân đến ngàn cân thì phải nói hơn hẳn.

Người đến xem như chúng tôi, ai cũng muốn đến cầm dùi thỉnh ba tiếng (chiếc dùi gỗ được buộc bằng dây gai bên cạnh chuông), mỗi lần thỉnh chuông như vậy, du khách lại cho thầy hương đăng vài xu gọi là tiền đèn nhang. Cái gác chuông cổ kính, cũ kỹ bao đời nay, phải chịu đựng một cái chuông lớn như vậy, trông nó như đang run rẩy ngã nghiêng như sắp đổ, nhưng biết bao các tín nam thiện nữ đến dâng hương lễ bái, các bậc tao nhân mặc khách đến du sơn ngoạn cảnh, các sĩ quan quân đội từng xông pha nơi chiến địa, các cháu học sinh đến tham quan ngắm cảnh, còn có cả các nhà học giả nghiên cứu triết học, khoa học… đến nơi đây để tận mắt nhìn thấy chiếc chuông treo trên sợi dây thừng bện bằng rơm rạ mà mọi người đều ca tụng, họ nhìn thấy sự thực rõ ràng, trong óc càng nảy sinh bao điều nghi hoặc, chưa tìm ra được đáp án cho điều kỳ lạ này. Có lẽ đây là một vấn đề khoa học ngày nay cũng chưa thể giải đáp được chăng!

9. BIỆN LỄ THIẾU THÀNH TÂM XIN TRẢ VỀ NGUYÊN CHỦ

Đến dịp hội chùa, khách thập phương đến dâng hương cúng nến ở Chùa Trước đông nghìn nghịt, quả thực có thể mở một cửa hàng bán hương nến ở đây, trong chùa đông không thiếu gì giá cắm nến, nhưng khi khách đến nhiều thì vẫn khó bề ứng phó, vừa thắp xong cây nến này thì cây nến khác lại đưa đến, đành phải hạ cây nến cũ xuống, đưa cây nến mới lên, cứ như thế, chỉ riêng loại nến thắp đở dang hạ xuống, mỗi ngày cũng phải tích lại được vài trăm cân! Nhất là khách hành hương ở Hàng Châu, Thượng Hải đến, thường họ đem đến những đôi nến 50 cân đến 100 cân. Thuyền hành hương đến thế nào cũng phải có một vài đôi cỡ đó, có người dâng nến, đem đến Phật tiền thắp lên, thầy hương đăng bất đắc dĩ phải tắt đi, thay nến khác cũng chẳng sao, vì họ cho rằng “tâm đáo Phật tri” (miễn có thành tâm, Phật đều biết cả), hay là “tiền đắc sơn môn, phúc về thí chủ”, miễn là có cúng tiền, phát tâm, giao nến cho thầy điện chủ là xong, có thắp hay không, họ chẳng quan tâm, dâng vào cửa Phật là đã toại nguyện. Nhưng cũng có một số người, thấy chưa thắp nến của mình thì chưa yên tâm, thấy người khác hạ nến của mình xuống thì cảm thấy không thoải mái.

Bây giờ tôi xin kể một câu chuyện về khách hành hương dâng nến, Bồ tát hiển thánh:

Có một vị khách hành hương từ xa đến lễ chùa, vì ông ta rất giàu có, nên ông mang đến một đôi nến rất to, phải đến 5, 6 chục cân. Khi ông đến Chùa Trước dâng hương. lại đúng vào lúc đông khách, thầy hương đăng phải châm nến mới, bận rộn tíu tít, nên thầy phải hạ đôi nến của ông khách giàu xuống, không kịp châm nữa. Khi thầy dặt đôi nến của thí chủ mới lên, thấy thầy châm nến cho người đó, thế là ông thí chủ nhà giàu thắc mắc, nến của mình chưa được thắp đã bị hạ xuống, cho là thầy Tăng có lòng tham, cố tình không thắp nến để bán lấy tiền. Đang cơn bực tức ông ta liền kéo tay đứa con trai cùng đi rời khỏi chùa, chẳng may trên đường về, đứa con bị cảm chết đột ngột. Ông nhà giàu không biết làm thế nào, đành phải sắm cỗ áo quan, thuê người đưa về chôn cất. Nào ngờ, vừa về đến cửa, thấy chính con trai của mình ra đón, nhìn thấy con, ông giật mình đứng sửng, không hiểu ra sao, rõ ràng hai bố con cùng lên lễ chùa, trên đường về con trai ông bị chết đột ngột, sao bây giờ lại sống ở nhà? Quả là truyện kim cổ kỳ quan! Do đó ông bèn hỏi ngay: “Con cùng đi lễ chùa với cha cơ mà! Sao bây giờ lại ở nhà?” Con ông trả lời: “Hôm vừa ra khỏi cửa chùa với cha, nhìn ngược nhìn xuôi chẳng thấy cha đâu cả, con tìm mãi, may bỗng gặp một cụ già, cụ nhận đưa con về được mấy hôm nay rồi”. Ông nghe câu chuyện con kể càng thấy lạ kỳ, như rơi vào đám mây mù chẳng hiểu ra sao cả. Rõ ràng con mình đã chết, mà chính tay ông đặt con vào quan tài, không hiểu nó sống lại lúc nào, mà làm sao lại chui ra khỏi quan tài về được đến nhà, không thể tin được, hay là con mình biến thành con ma để đánh lừa mình. Thôi cứ mở quan tài ra thì sẽ rõ thực hư. Ông bèn cho người cạy nắp quan tài ra, ngờ đâu, trong quan tài không phải là xác con ông mà là một đôi nến lớn, đúng như ảo thuật, phủ lên đôi nến có một mảnh giấy ghi hai dòng chữ: “Biện lễ thiếu thành tâm, xin trả về nguyên chủ!” Nhìn thấy đôi nến và mấy chữ đó, trong lòng ông cảm thấy vô cùng hổ thẹn, liền quỳ xuống khấn lễ không ngớt. Thì ra đó là Quán Âm Đại Sĩ hiển thánh. Từ đấy trở đi, hàng năm đi lễ chùa Phổ Đà, ông đều mang theo đôi nến rất to để cúng, không bao giờ thắc mắc với thầy hương đăng có châm hay không châm nến nữa.

10. ĐÂU PHẢI RỪNG TRÚC TÍA CHỈ LÀ ĐÀI GIẢNG KINH

Đài sen trắng A Di Đà Phật

Rừng trúc tía đức Quán Thế Âm.Hai câu thơ quen thuộc dễ hiểu đó, tôi nghĩ, đã là người Trung Hoa, thì ai cũng có thể nói ra miệng được, nhất là được thấy có một người ngồi trong Rừng Trúc Tía, một tay cầm tịnh bình, một tay nâng tượng Đại Sĩ Quán Âm tay cầm nhành dương, có Long Nữ đứng bên cạnh, chim anh võ miệng ngậm tràng hạt, Thiện Tài đồng tử quỳ lễ phía dưới, đó là bức tranh Thánh tượng tuyệt mỹ, không biết có bao nhiêu người nhìn thấy cảnh ấy mà lòng xao xuyến, bị cuốn hút theo! Thực tình mà nói, hồi tôi còn bé dã từng được nghe rất nhiều người kể rằng đến Nam Hải vào rừng trúc tía để tham bái Quán Thế Âm Bồ tát sống, khi tôi chưa đến Nam Hải, cũng cho rằng quả thực đúng là một bức tranh. Có một vị nữ Bồ tát sống, ngồi trong Rừng Trúc Tía xum xuê, có Thiện Tài Long Nữ, ngồi hầu bên cạnh có các thiện nam tín nữ vào núi dâng hương, nghe kể về Diệu pháp thần kỳ trở thành Phật Tổ.

Đến tháng giêng năm Dân Quốc thứ 36, cùng với mấy vị đạo hữu cùng học, kết bạn rủ nhau đến Nam Hải, vì chùa Pháp Vũ (Chùa Sau) đang vào dịp truyền giới, chúng tôi đành phải trọ lại ở Văn Thủy Đường của Chùa Sau. Ngay từ lúc còn ngồi trên thuyền, xa xa đã thấy tấm biển đề “Cửa Đầu Đường”, từ Thượng Hải nơi phồn hoa náo nhiệt đến nơi Phật quốc biển trời này, quả thực trong lòng thấy nhẹ nhàng thanh thoát vô biên, thế là, vai đeo chiếc túi vải vàng, cùng với cụ già là khách hành hương quen thuộc nơi đây, vào núi dâng hương lễ Phật cho thỏa tấm lòng mong ước từ lâu. Chúng tôi từ núi này băng qua núi khác, từ Chùa Trước sang Chùa Sau, từ Tự viện đến Am đường, thôi thì đi khắp chẳng thiếu nơi nào, nhưng có một điều cứ canh cánh trong lòng từ bao lâu nay là chưa trông thấy đức Quán Âm sống trong Rừng Trúc Tía, nhưng lại không dám nói ra điều này với bạn đồng hành, sợ bị chê cười cho là mình “quê mùa dốt nát”. Rồi sau này thế nào chẳng được gặp, nên cứ dấu kín thắc mắc đó chẳng dám nói với ai. Hôm sau, có người đề nghị đi lễ Rừng Trúc Tía, trưng cầu ý kiến xem vị nào muốn cùng đi, tôi là người đầu tiên giơ cả hai tay tán thưởng, vì trong đó có mấy vị đã đi rồi, nên không muốn đi nữa. Tôi chỉ tâm tâm niệm niệm sớm được đến Rừng Trúc Tía để nìn thấy Quán Âm Bồ tát sống đang giảng pháp cho mọi người cung kính ngồi nghe. Nhưng rồi khi đến nơi, chẳng thấy Bồ tát đâu, mà cũng chẳng gặp Thiện Tài Long Nữ, mà chỉ thấy khách hành hương và tín đồ lễ Phật xin thẻ, trong lòng càng cảm thấy kỳ lạ, rồi ngay cả Rừng Trúc Tía xum xuê nọ cũng chẳng thấy đâu.

Thế là tôi thất vọng hoàn toàn, cho rằng nơi đây chắc chắn không phải là Rừng Trúc Tía, nhưng hỏi những người cùng đi, họ lại nói rằng đây chính là Rừng Trúc Tía chứ chẳng có Rừng Trúc Tía nào khác nữa, do đó thắc mắc này của tôi không thể không tìm cách giải đáp thêm. Tôi quyết ý tìm Sư thầy của miếu này để hỏi cho ra nhẽ. Tôi tìm được thầy Tri khách để trao đổi, nói chuyện, để hỏi về nguồn gốc lai lịch của cánh Rừng Trúc Tía này và để hỏi rõ tại sao không thấy Quán Thế Âm Bồ tát ở trong rừng. Thầy bèn chỉ tay ra trước mặt, nói: “Chẳng là Rừng Trúc Tía đó thôi!” Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của thầy, chỉ thấy trên đài đó một phiến đá lớn, tôi nói: “Đó là một phiến đá, chứ đâu phải là Rừng Trúc Tía?” Thầy nói: “Ông cứ đến đó xem kỹ lại xem, trên phiến đá đó chẳng có trúc tía là gì?” Tôi hỏi rõ ý thầy như vậy là thế nào, muốn được thầy giải thích kỹ, thầy nói rằng có một câu truyện rất lý thú sẽ nói rõ tại sao Rừng Trúc Tía lại gọi là Đá Trúc Tía.

11. XÀ VƯƠNG MƯỢN NÚI BỒ TÁT HIỂN THẦN THÔNG

Truyện là như thế này: truyền rằng ở núi Phổ Đà có một vị Xà vương cùng với con cháu chiếm cứ cả ngọn núi này, và tuyên bố rằng: “Núi này của ta mở, cây này do ta trồng”, quả thực không có ai dám xâm phạm đến địa bàn của Xà vương. Có một lần Quán Thế Âm Bồ tát biến hóa thành một sư thầy già, đến hỏi mượn núi của Xà vương làm đạo tràng để quảng độ chúng sinh mê muội ở thế giới Ta Bà này. Để tỏ ra mình là người có chủ quyền của ngọn núi này, nên trả lời không cho mượn. Xà vương nói: “Đây là căn cứ địa, cơ nghiệp muôn đời của con cháu ta, sao có thể cho sư tăng các ngươi mượn làm đạo tràng để quảng độ chúng sinh được?” Bồ tát thấy Xà vương lập luận vô lý, bèn nói một cách không khách khí rằng: “Ông có tài năng bản lãnh gì mà dám từ chối không cho ta mượn?” Xà vương thấy hỏi đến bản lãnh của mình, thì liền nói ngay: “Ta có thể hiện được nguyên hình, quấn quanh ngọn núi này ba vòng”. Bồ tát cười và tỏ ra không tin, nói rằng: “Nếu ông có thể quấn được ba vòng quả núi này thì ta không mượn núi nữa. Nếu ông không có bản lãnh đó, không quấn nổi ba vòng thì sẽ làm sao nào?” Xà vương nói với giọng tự tin: “Đó là việc ta thường làm, có gì mà khó? Nếu ta không quấn nổi ba vòng thì ta sẽ đồng ý cho ông mượn núi để làm đạo tràng!” Bồ tát nói: “Đã nói như vậy, mong ông chớ nuốt lời!” Xà vương ưỡn ngực tuyên bố: “Đại trượng phu một lời đã nói, bốn ngựa không thể đuổi kịp!” Nói dứt lời Xà vương chỉ rùng mình một cái, lập tức biến thành một con trăn to rất dài, từ từ rãn mình quấn núi. Bồ tát lúc này cũng vận dụng diệu pháp thần thông, biến quả núi phình to dần ra, Xà vương càng cuốn đến đâu, thì Bồ tát cũng làm cho núi to ra đến đó, rốt cuộc là Xà vương không sao quấn trọn một vòng, lúc nào đầu và đuôi cũng cách nhau một đoạn. Bồ tát thấy Xà vương có vẻ bất lực rồi, bèn cười và nói rằng: “Ông không quấn được ba vòng, bây giờ nói sao đây? Chắc phải cho ta mượn núi rồi chứ?” Xà vương thấy không làm thế nào được, đành phải nói: “Ta hôm nay gặp vận không may thế nào ấy, mọi lần ta làm việc này chẳng khó gì, không hiểu tại sao hôm nay lại như thế này! Thôi được, ta có thể cho ông mượn núi, nhưng ông cũng phải hiện chút thần thông cho ta xem sao chứ, có vậy ta mới chịu thua!” Bồ tát nói: “Việc ấy có khó gì, ta chỉ cần chỉ tay một cái, trên tảng đá ở dưới đất này sẽ mọc lên những cây Trúc Tía”. Nói xong, ngài chỉ tay một cái, bỗng trên tảng đá hiện ra vô số Trúc Tía, nghe nói đó là tảng đá Trúc Tía. Sau này những người đi lễ, mỗi khi đến đây đều nhặt vài viên đá Trúc Tía mang về để làm kỷ niệm. Đó là lai lịch và điển tích về Rừng Trúc Tía ở núi Phổ Đà.

12. HẢI TRIỀU ÂM GẦM VANG NHƯ SẤM DẬY SÓNG CŨNG THÀNH TÂM LỄ QUÁN ÂM

Hồi trước khi tôi mới đến núi Phổ Đà, nghỉ ở nhà khách của Chùa Sau, đêm đó, vào lúc yên tĩnh, tôi nghe thấy tiếng sóng của nước triều lên ở “Bãi Cát Ngàn Bước”, âm thanh vang động như sấm rền, rầm rập như doàn kỵ mã lướt qua, âm thanh còn lớn hơn ngàn vạn lần so với âm thanh trong Thu Thanh Phú của Âu Dương Tu. Lúc đầu tôi tưởng đó là tiếng tàu tốc hành chạy với tốc lực tối đa, sau nghĩ lại, thật không đúng, bởi vì ở đây là giữa biển cả, làm gì có tàu hỏa? Quả thực là suốt đếm đó không ngủ được, sáng hôm sau dậy hỏi những người già trong núi mới biết đó là “Tiếng Thủy Triều”. Cái âm thanh vang động hùng vĩ đó của thủy triều, phải nói đây là lần đầu tiên được nghe trong đời tôi. Trong bài kệ ở Phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa có câu:

Phạm Âm Hải Triều Âm
Thắng bỉ thế gian âm

(Âm Hải Triều Phạm âm
Hơn hẳn âm thế gian).

Đến hôm nay tôi mới chứng nghiệm thấy câu nói đó không sai chút nào.

Tương truyền rằng tiếng Hải Triều ấy sở dĩ vang động khác thường như vậy, cũng có một câu chuyện kể lai lịch của nó, rằng Xà vương thua cuộc, phải cho Bồ tát mượn núi vô điều kiện để làm pháp tràng, nhưng ông ta hỏi lại rằng bao giờ trả núi lại cho nguyên chủ của nó, Bồ tát có nói với Xà vương rằng: “Khi nào núi này không nghe tiếng mõ của đệ tử ta nữa, khi nào không có tiếng Hải Triều ở Bãi Cát Ngàn Bước nữa, thì ta trả lại núi cho ông”. Núi Phổ Đà đến nay đã phát triển đươc ba tùng lâm lớn, hơn tám mươi ngôi chùa am điện, hơn 160 nóc nhà tranh, cho nên tiếng mõ tụng kinh hàng ngày không bao giờ dứt. Có thể ở đây có nhiều nguyên nhân nào đấy, con cháu Xà vương sống lại, phá rối chùa chiền, nhưng tiếng Hải Triều thì mãi mãi không bao giờ dứt được. Sóng Hải Triều cũng kỳ lạ, dù hướng gió có đổi thay, nhưng sóng vẫn từng đợt từng đợt dâng lên hạ xuống trước bãi Ngàn Bước. Có người nói đó là “Hải Triều lễ Phật”. Ôi, nước thủy triều kia là vật vô tri mà cũng biết lễ đức Quán Âm Bồ tát. Nếu gặp ngày có gió mạnh, sóng ở bãi cát dâng vút lên tận tầng mây, âm vang như sấm động, ù tai chóng mặt, từng đợt sóng đổ xuống như thác núi, rồi trải ra như tấm lụa, cảnh tượng biến hóa muôn hình vạn trạng, vào những ngày có gió mạnh dâng sóng, tôi một mình chạy ra bờ biển đứng trên một mô đá ngắm nhìn cái kỳ quan của biển cả mà người phàm tục ít ai được thấy đó, trong lòng bỗng thấy xao động lạ thường, như đang được sống một cảnh giới ngoài cõi tục, không ngọn bút nào có thể tả được muôn một.

13. CỬA SƠN MÔN CHÙA TRƯỚC IM ỈM ĐÓNG SUỐT NGÀY

Viết tới đây tôi bỗng nhớ ra một câu chuyện về Chùa Trước cần phải nói đến, xin bổ sung thêm, bởi vì truyện này ít ai đề cập, cho nên cũng dễ lãng quên. Đó là cửa Sơn môn Chùa Trước không bao giờ mở, khác hẳn với các chùa khác. Các chùa khác thì mở thường xuyên, còn cửa chùa này thi im ỉm đóng suốt ngày. Đào Uyên Minh đã từng viết một câu rằng: “Cửa tuy có, nhưng thường đóng kín”, có lẽ chính là để nói cảnh nơi đây chăng? Hồi tôi mới đến núi Phổ Đà, ngao du khắp chốn, bảy tám chục ngôi chùa lớn am nhỏ, không có nơi nào là không mở cửa, chỉ riêng có cửa Sơn môn Chùa Trước là không bao giờ mở. Tôi đã từng hỏi rất nhiều người, kể cả những người xuất gia từ núi này cũng đều trả lời rằng: “Biết như vậy, nhưng không tường lắm!” Vậy thì tại sao? Lý do gì? Hỏi hết người này đến người khác, chẳng ai nói cho ra nhẽ. Có một cụ già nói với tôi rằng: “Cửa Sơn môn này chỉ khi nào nhà vua ngự giá thân chinh tới chùa thì mới mở để nghênh tiếp Thánh giá, ngày thường không ai được phép mở”. Cụ già tên là Đông Hồng, quả là cụ như người nằm trong trống, chưa tỉnh giấc mê, cụ cứ tưởng là còn có Thiên tử, con rồng cháu tiên nào nữa xuất thế, thật là nực cười và đáng thương. Tôi nói: “Hiện nay là thời đại dân chủ rồi, làm gì còn có vua chúa nào xuất thế. Nếu ngàn vạn năm nữa không có vua ra đời thì cửa chùa cũng cứ đóng chặt hàng ngàn vạn năm ư? Xin hỏi thêm cụ, tại sao cứ phải có vua đến thì mới mở cửa!” Cụ gia tu hành này chỉ biết một mà không biết gì thêm hai, người ta nói sao thì cụ cũng cứ nói vậy, nên cuối cùng cũng chẳng hỏi rõ thêm được điều gì hơn. Sau này tôi nhận chức Tri khách ở Chùa Trước, thường phải tiếp chuyện với du khách, nhiều khi khách muốn biết lịch sử của chùa hoặc thắc mắc điều này điều kia, thôi thì cứ có câu hỏi gì là họ vô Chùa Trước để đòi giải đáp. Có người hỏi tôi: “Xin hỏi thầy, tại sao ở đây không bao giờ mở cửa?” Họ cứ hỏi đúng vào câu hỏi mà tôi không biết, thật là khó xử! Tôi cũng không thể lấy lời cụ già trả lời tôi để giải đáp cho khách. Do đó, đã bí thì thôi đành cứ đánh bài lờ, giả tảng là không nghe thấy, “nhìn xung quanh nói lãng sang chuyện khác”. Song đó không phải là cách giải quyết vấn đề một cách căn bản, dù sao cũng phải tìm ra đáp án thì mới được, sau này thế nào chẳng còn nhiều du khách hỏi cho bằng được! Về lịch sử chùa Phổ Đà, tôi có đọc tư liệu, nhưng cũng chưa tìm ra căn cứ, nên đành mượn chuyện thần thoại được truyền tụng để giải đáp vấn đề: các danh sơn ở Trung Quốc đều có lịch sử thần thoại lưu truyền lâu đời, đồng thời cũng là những câu truyện lý thú, nay tôi thu thập những truyện có liên quan đến Chùa Trước tại sao đóng cửa, để viết ra đây, cung cấp cho độc giả tham khảo.

14. QUÁN ÂM ĐẠI SĨ DU NGOẠN THIÊN THAI

Lại nói đến Quán Âm Đại Sĩ ở núi Phổ Đà rằng: một hôm, ngài muốn thay đổi không khí, tịnh mãi cũng muốn “động” một chút, muốn đi du ngoạn một phen, bèn tính truyện trèo lên ngọn núi cao nhất là Phật Đỉnh Sơn. Ngài dùng tuệ nhãn phóng tầm mắt nhìn về phía xa, thấy chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai là nơi có cảnh đẹp, có nhiều vị Đầu đà và Hòa thượng qua lại tấp nập, chắc đều là đồng đạo với ta cả. Thế là ngài quyết định “Ta phải đi một chuyến”. Nghĩ vậy, ngài nhún mình một cái rời khỏi bàn đạp Quán Âm (Bàn đạp Quán Âm ở bên cạnh khóm Trúc Tía, hiện nay trên tảng đá còn vết chân ngài, truyền rằng Bồ tát Quán Âm nhấn vào bàn đạp ở đấy nhảy qua biển). Đến cửa chùa Quốc Thanh, nơi đây núi non thanh tú, cây cối um tùm, rừng tre mườn mượt, cỏ mọc xanh rờn, quả là chốn “Thiên đường trong cõi tục”. Hơn năm trăm vị La hán ở chùa này, hàng ngày từng tốp từng tốp hai ba người chờ sẵn ở cửa núi, để đón khách đàn việt thập phương cùng thiện nam tín nữ đến chùa lễ Phật, phát tâm để có dịp rộng kết duyên lành, phát lộc lấy phúc. Từ xa họ nhìn thấy Quán Thế Âm Bồ tát đi đến, bèn sửa lại pháp y cho uy nghi long trọng, cho rằng đây là một bậc đại Hộ pháp có tiền, nhất định sẽ có nhiều của cải kết thiện duyên với chùa, cho nên họ vội vàng người nào người nấy nâng tà áo Pháp lên (đó là những động tác quen thuộc hàng ngày của họ) đồng thanh nói rằng: “A Di Đà Phật, xin kết duyên lành!” Quán Thế Âm Bồ tát bằng tuệ nhãn nhận ra họ đều là La hán sống, ứng hóa xuống cõi trần. Họ sắm vai Tăng như thật, họ vây quanh Quán Âm để xin hóa duyên, họ cũng không biết đây là người đạo một nhà, càng không nhận ra đây là vị đại Bồ tát ở núi Phổ Đà Nam Hải. Quán Âm bị vây chặt, ngài chỉ cười mà không nói gì. Cuối cùng chính Phương trượng đại Hòa thượng của chùa Quốc Thanh, là một bậc đạo cao đức trọng, dùng tuệ nhãn nhận ra người khách không mời mà đến này, ắt là một vị đại Bồ tát ở danh sơn nào đó, xuống chốn trần gian này để “du ngoạn bốn phương nhằm độ hóa”. Ngài bước lên gạt đám đông ra, chắp tay lễ và nói rằng: “Xin hỏi Đại đức từ chốn danh sơn nào quá bộ đến đây vậy?” Quán Am Bồ tát cũng đáp lễ: “Tôi là Quán Thế Âm từ bi phổ độ ở núi Phổ Đà Nam Hải, hôm nay vượt biển qua đây để xin được thưởng ngoạn danh sơn thắng cảnh”. Các vị La hán nghe nói đây là Quán Thế Âm đều tỏ ra vui mừng khôn xiết, thưa rằng: “Thật là dịp may, được đại Bồ tát hạ cố chốn sơn môn thanh bần này, thật là vinh dự cho chúng tôi, rất mong đại Bồ tát phải ở chơi chốn sơn môn nhỏ bé này vài ngày với chúng tôi để đám Tiểu La hán chúng tôi được hầu hạ đại Bồ tát. Chúng tôi sẽ xin làm món ăn La hán để mời ngài chứng trai với chúng tôi”. Sau này, câu truyện đối đáp này trở thành câu tục ngữ trong ngôn ngữ dân gian là: “La Hán thỉnh Quán Âm, khách thiểu, chủ nhân đa” (như câu tục ngữ Việt Nam thường nói: “Khách ba, chủ nhà bảy” – Lời Người Dịch).

15. BỒ TÁT BẮC CẦU, LA HÁN XÂY THÁP

Quán Thế Âm Bồ tát đến núi Thiên Thai du ngoạn đó đây, thắm thoát đã vài ngày, ngày nào cũng ăn cơm chay La hán do chính các vị La hán ở đây nấu nướng, hàng ngày thấy họ cày cấy vất vả, rồi tối đến lại tĩnh tọa tham thiền, trong lòng bất giác đem lòng kính mộ, nghĩ bụng: suốt ngày ta ở đây, họ phải phục dịch cúng dàng cũng thấy áy náy, nên muốn đền đáp lại một cái gì đó, gọi là để lại chút “thánh tích” cho chốn danh sơn này, mới không phụ hảo tâm của họ, và không uổng chuyến đi thăm này. Một hôm ngài nói với các vị La hán: “Núi này của các vị tuy có điện thờ rộng rãi, nhưng thiếu một ngôi bảo tháp to cao, đó là một điều khiếm khuyết, thiếu hẳn sự trang nghiêm. Tôi đề nghị các vị nên xây một ngọn tháp cho thêm phần trang nghiêm tráng lệ”. Trong đó có một vị La hán cướp lời nói luôn: “Bản sơn không có bảo tháp cũng không quan trọng, điều đau đầu nhất là giữa hai chởm núi đá cách nhau ngàn trượng mà không có một chiếc cầu bắc qua, quả thực là không tiện, người qua lại phải đi vòng khá xa, theo tôi, chi bằng bắc cầu trước rồi xây tháp sau”. Trong lòng Bồ tát cũng đang muốn làm một việc lợi ích gì đó, ngài bèn nói với các vị La hán với giọng thăm dò rằng: “Xây tháp là để cúng dàng đức Phật, chúng sinh sẽ đến đó lễ bái nhiên hương, công đức rất lớn. Xây cầu tuy cũng là việc quan trọng, nhưng xây tháp là việc không thể thiếu được. Vậy bây giờ ta có thể phân công nhau mỗi người một việc, năm trăm vị La hán xây tháp, còn một mình tôi bắc cầu cho các vị, như vậy có được không?” Năm trăm vị La hán nghe nói như vậy trong lòng lấy làm phấn khởi, đồng thanh nói rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Được Bồ tát phát tâm giúp đỡ chúng tôi như vậy thì còn gì bằng?” Bồ tát lại nói: “Thế là ta phải thi đua, hạn trong một đêm phải làm xong cả cầu lẫn tháp, xem bên nào làm xong trước!” Các vị La hán cũng đều là các thông, một đêm thì có gì khó đối với một việc nhỏ bé ấy, nên họ đều trả lời: “Được, được! Đã nói là làm, ta làm luôn đêm nay chứ!”

Cả hai bên đều có những tính toán riêng, Quán Âm Bồ tát nghĩ bụng, một đêm mà xây một ngọn tháp to lớn thì lấy đâu ra đủ gạch, vôi, ngói, vữa? Xem ra họ khó mà xong được. Còn ta chỉ cần thế này, thế này là xong một chiếc cầu. Các vị La hán thì nghĩ rằng: ” Chẳng lẽ mình có đến năm trăm đại La hán lại chịu thua một Quán Âm Bồ tát sao! Tục ngữ có câu rằng: “Hai bàn tay bằng sao được bốn quả đấm”, ngọn núi đá ngàn trượng, cao rộng như vậy, bắc một chiếc cầu mà chỉ một đêm thì dù cho có tài Thánh cũng không thể xong được! Do đó cả hai bên đều có tâm lý đánh giá thấp khả năng của nhau, đều cho mình là sẽ thắng cuộc.

Đêm đã khuya, từ trong chùa Quốc Thanh vang lên tiếng chuông “chỉ tĩnh”, đó là tiếng hiệu lệnh báo cho mọi người trong chùa biết đã đến giờ đi ngủ, phải giữ yên lặng. Các vị La hán chờ cho mọi người đi ngủ, rồi mới khởi công. Họ bắt đầu đại hiển thần thông, khuân gạch, chuyển đá, xẻ gỗ, xây tường, bận tíu tít. Quán Thế Âm Bồ tát cũng tò mò muốn biết họ làm ăn ra sao, nên ngài đứng nấp ở khe núi để ngầm quan sát. Trong đêm tối chỉ thấy bóng những cái đầu di động rất nhanh, thực là thần thông quảng đại, chỉ trong chốc lát là họ đã xây ngôi tháp lên rất cao, quả xứng đáng là “A La Hán có sáu môn thần thông”, không thể coi thường họ là bất tài bất lực được.

Lúc này Quán Thế Âm Bồ tát bỗng nghĩ thầm, mình thi đua với họ, mà sao chỉ cứ đứng nhìn người ta làm, mà công việc của mình thì chưa bắt tay, lúc này đêm đã vào khoảng canh tư rồi, nếu không bắt tay vào việc thì chuyến này thua mất. Ngài vội vàng phi thân, bay lên chỏm núi đá, vận dụng Diệu pháp thần thông đại Bồ tát, hai chân dang rộng, mỗi chân đứng một bên sườn núi, hai tay kéo hai ngọn núi lại, kể cũng lạ, đá trên núi lúc đó cứ mềm như bột dẻo, hai ngọn núi đá chụm đầu vào nhau, đó là “Thạch Lương Kiều” (cầu đá) ở núi Thiên Thai nổi tiếng bao đời nay trong lịch sử. Quán Thế Âm Bồ tát làm xong cầu, trời vẫn chưa sáng, ngó nhìn các vị La hán xây tháp vẫn chưa xong. Ngài cố tình trêu cho các vị một chuyến, bèn giả làm tiếng gà gáy, tiếng gà gáy sáng ò… ó… o… cứ vang lên khắp chốn núi rừng, các vị La hán cuống quýt, biết là tiếng gà vàng gáy ba hồi là đúng canh năm gần sáng rồi, nhưng ngôi tháp còn cái mái vẫn lợp chưa xong. Nhưng đã hẹn ước, công việc làm xong hay chưa làm xong, đến lúc này cũng phải dừng tay, thế là ngôi tháp không mái từ ấy có cái tên là “Thông Thiên Tháp” nổi tiếng trong lịch sử, do năm trăm vị La hán xây trong một đêm. Cũng có người nói rằng: “Công dức của La hán không viên mãn bằng Bồ tát, cho nên tháp cũng dở dang” (ngầm ý nói là tu đến bậc A la hán chưa xong, còn phải tu tiếp nữa – Lời Người Dịch).

Sáng hôm sau, các thị trấn ở xung quanh vùng núi Thiên Thai, bỗng nhiên nhà nào nhà ấy thấy biến mất ống khói, không cánh mà bay. Các nhà dậy nấu cơm sáng, do mất ống khói, nên khói bốc mù mịt, nhưng cũng không hiểu tại sao, thôi thì đành đục thủng một lỗ tường cho khói bay ra ngoài. Lúc đầu tưởng chỉ có vài nhà làm như vậy, ngờ đâu cả thị trấn đều làm như vậy cả. Bà con bị mất gạch ống khói, bèn đi báo chánh quyền địa phương, xin điều tra sự việc. Thì ra chùa Quốc Thanh bỗng hiện lên một ngôi tháp cao lớn mang cái tên là “Thông Thiên Tháp” (ngôi tháp thông với trời). Mọi người đều tấp nập đi xem, thấy gạch ở ngôi tháp đủ các cỡ, to to nhỏ nhỏ, viên thì đen viên thì trắng trông rất kỳ lạ. Lúc đó bà con trong thị trấn mới hiểu ra là gạch ống khói của mình đã vào ngôi tháp này đêm qua, và cũng hiểu ngay rằng đây là thần thông của năm trăm vị La hán, mà không hề kêu ca oán trách. Thế rồi lâu ngày trở thành thói quen, cho đến ngày nay, một điều rất lạ là nhà cửa ở thị trấn quanh vùng không ai xây ống khói, và cũng trở thành phong tục của các nơi khác. Qua đó, ta cũng biết thêm được một chút kiến thức về tập quán màu sắc địa phương.

Năm trăm vị La hán xây tháp, một đêm làm không xong, trở thành một điều đáng tiếc bao đời nay. Sau này mới biết là do Quán Âm Bồ tát cố tình đùa các vị La hán đấy thôi, nhưng các vị La hán trong lòng cảm thấy oan ức, đùa như vậy thật là tai hại, chỉ còn “nhất bộ thăng thiêng” (một bước nữa là lên tới trời) mà không xong. Trong lòng càng nghĩ càng bực, oán trách Bồ tát sang chơi mà lại nỡ làm như vậy, cả năm trăm La hán đều bị mắc lừa, mất mặt, làm lộ hết cái yếu kém của mình, sau này còn mặt mũi nào mà nhìn mọi người nữa. Họ càng nghĩ càng thấy bực tức trong lòng, do đó, họ bàn nhau phải triệu tập một cuộc hội nghị khẩn cấp để thống nhất nhận định và đi đến quyết định “Quán Âm Bồ tát núi Phổ Đà lừa bọn ta quá đỗi, ta phải chịu thiệt chuyến này, còn bị mất mặt nữa chứ, ta phải tìm cách báo thù một phen cho hả dạ”. Có một vị La hán đứng dậy đề nghị: “Bồ tát đến núi ta chơi mà lại làm như vậy, làm bọn ta mất mặt, vậy chúng ta cũng cùng đến núi Phổ Đà đại náo một phen cho trời long đất lở mới thỏa”. Mọi người đều đồng thanh tán thưởng: “Đúng! Đúng! Ta phải làm ngay, bấy giờ đang vào dịp hội chùa Phổ Đà (tháng 2), đến 19 tháng 2 lại là ngày đản nhật của Quán Âm, đi vào dịp này là hay nhất, thừa lúc khách thập phương đến đông, ta có thể trà trộn vào đám đông đi, ma không biết, quỷ không hay, ta sẽ tùy cơ mà hành sự”. Nói xong, mọi người đều đại hiện thần thông, đi mây cưỡi gió một mạch đến thẳng núi Phổ Đà.

  1. NĂM TRĂM VỊ LA HÁN ĐẠI NÁO PHỔ ĐÀ SƠN

Lại nói, năm trăm vị đại La hán rời khỏi núi Thiên Thai, đến chân núi Phổ Đà bèn bay xuống, biến thành các nhà sư nghèo đi hành hương khất thực, quần áo rách rưới lôi thôi, thậm chí có vị biến thành nhà sự mù lòa câm điếc, có vị còn biến thành nhà sư mắc chứng điên dại, thôi thì đủ các loại. Mục đích của các vị ấy là đến đây để phá rối chốn đạo tràng tề chỉnh, trang nghiêm, mỹ quan thanh tịnh của Bồ tát Quán Thế Âm, vì bị làm mất mặt, nên họ càng làm ra vẻ nghèo đói, cứ gặp khách đi lễ là vén vạt áo lên xin tiền – gọi là “Tiểu Hóa Duyên”. Khắp chốn núi rừng, dâu đâu cũng nghe tiếng hóa duyên (xin bố thí tiền) của họ: “A Di Đà Phật! Xin kết duyên lành!” Khách đi lễ thấy vẻ các nhà sự nghèo khổ tàn tật đều rủ lòng thương, người nào cũng ít nhiều bố thí để được phúc lành. Việc đó đến nay đã trở thành phong tục của Phổ Đà. Hàng năm cứ đến tháng hai, dịp hội chùa Phổ Đà, rất nhiều người xuất gia tu hành ở khắp nơi đều đến Phổ Đà để “Hóa Tiểu Duyên”. Hồi tôi đến trọ ở Phổ Đà, đôi khi cũng nhập vào đám đông cho vui và cũng vén vạt áo lên xin thí chủ Hóa Tiểu Duyên. Chẳng cần phải bảo ai, chen vào đám đông mà hóa duyên, thấy có toán khách hành hương đi đến, chúng tôi tự động xếp thành hàng một, cũng nâng vạt áo lên như mọi người. Thí chủ đi qua mặt, tùy duyên mà bỏ vào vạt áo thứ này thứ nọ để tạo duyên lành, nhiều khi chúng tôi được bố thí rất nhiều thứ, cũng có người còn bố thí cả kim chỉ, khăn mặt, bít tất, tiền bạc, đủ các thứ. Đó là lối Tiểu Hóa Duyên của La hán ở núi Phổ Đà lúc bấy giờ. Bởi vậy sau này họ cũng bắt chước làm theo, và đặt cho cái tên là “Cảnh giới La Hán”. Những thí chủ hiểu Phật pháp thì tỏ ra rất cung kính đối với đám khất sĩ Tiểu Hóa Duyên này, vì họ cho rằng chưa từng có cả các vị A La Hán hiển thần thông đứng lẫn trong đó, cho nên họ không dám tùy tiện khinh mạn. Đó là lai lịch của việc Sư Tăng hóa duyên ở núi Phổ Đà.

Các đại trai chủ giàu có, vào núi dâng lễ, tổ chức cơm chay cúng dàng cho hàng ngàn Tăng bảo. Năm trăm vị La hán cũng vào dự chay. Trước khi vào dự, các vị La hán có triệu tập một cuộc họp, thống nhất với nhau rằng, hôm nay đến dự chay, mọi người phải để bụng mà ăn một bữa cho ra trò, phải ăn làm sao cho cơm ở Trai đường không đủ, làm cho Quán Âm Bồ tát phải mất mặt về chuyện này, hạ uy tín của Bồ tát xuống, như vậy cũng coi là ta đã trả được thù rồi. Thế là năm trăm vị La hán như những ngôi sao hổ đói xuống trần, đọc xong bài chú cúng dàng, rồi cứ cắm đầu cắm cổ ăn lấy ăn để, “ba bát không đủ, năm bát chẳng no, bảy tám bát vẫn chưa dừng đũa”. Như một đội quân chủ lực ra trận, xông pha thiện chiến, chỉ trong vài phút mà cơm của Trai đường đã sạch sành sanh. Năm nghìn xuất ăn, năm trăm người đánh sạch mà vẫn ngồi chờ ăn nữa, còn những người khác chưa được ăn thì xôn xao, họ la lối ầm ỉ và còn thốt ra những lời khó nghe: “Trời ơi, nào là Phổ Đà là chốn danh sơn vang tiếng bốn biển mà đến cơm chay cho mấy Sư Tăng ăn cũng thiếu, sao gọi là chốn đạo tràng của bậc đại Bồ tát được? Nếu không cho chúng tôi ăn no thì chúng tôi không đi đâu cả”. Kẻ nói qua, người nói lại nhốn nháo cả Trai đường, cuối cùng thầy Trật Tự phải đứng ra xin lỗi: “Mời các vị tạm thời rời khỏi Trai đường, hôm nay cũng đã phải nấu thêm mấy chảo cơm lớn mà vẫn không đủ cho các vị ăn, bây giờ thì cũng đã muộn rồi, bữa mai chúng tôi nhất định sẽ không để các vị phải đói!” Đám chúng có người đứng lên nói: “Thôi được, nếu mai còn để chúng tôi đói, thì xin lỗi, chúng tôi sẽ đập vỡ cái nồi nấu cơm “ngàn Tăng” đấy!” Nói xong họ hầm hầm rời khỏi Trai đường. Việc này ngay cả Quán Thế Âm Bồ tát cũng không lường trước được, mà chỉ tưởng rằng họ là các Sư Tăng hành hương, chứ không biết là năm trăm vị La hán ở núi Thiên Thai đến trả thù, làm náo loạn lên như vậy để làm mất mặt Bồ tát. Mọi người đều bàn tán xôn xao về việc này: “Các Sư Tăng này không biết từ đâu đến, đúng là bụng La hán, nếu họ cứ ăn mãi như thế này thì núi Phổ Đà đến kiệt quệ mất! Mai đến giờ chứng trai, họ lại đến ăn vài chục tạ gạo chưa chắc đã đủ! Mà không cho họ ăn no, họ còn gây rối, thầy đầu bếp đang xin từ chức, không dám nấu cơm nữa, biết làm sao đây!”

Lúc đó bỗng có một thầy Tăng nói: “Tôi xin sung vào làm đầu bếp, dù có là “bụng La hán” thì cũng ăn không hết được cơm nhà chùa!” (thành ngữ “bụng La hán” trở thành một câu nói trong dân gian, chỉ những người ăn khỏe, ăn bao nhiêu cũng không biết no – Lời Người Dịch). Hôm sau, quả nhiên cái đám La Hán như hổ đói ấy lại kéo đến, họ lại mở trận “xung phong” (từ “xung phong” vốn là thuật ngữ quân sự dùng để chỉ việc đánh trận, sau này cũng trở thành từ ngữ thông dụng để chỉ việc ăn cỗ – Lời Người Dịch). Họ không biết rằng Bồ tát đã có chuẩn bị, cơm nước đầy đủ, ùn ùn mang lên Trai đường, họ ăn thả cửa, đến nổi người nào người nấy bụng phình ra như cái trống cả, không sao ăn được nữa, thế mà trong thùng cơm vẫn thừa. Lúc này thầy Trật Tự mới an tâm, mạnh dạn tuyên bố: “Xin các vị phát tâm ăn no, đã dám mở hàng cơm thì không sợ bụng khách to, cơm và thức ăn của chúng tôi đầy đủ, chỉ sợ các vị không có sức ăn thôi!” Lúc này năm trăm vị La hán đã biết ngay đó là thần thông quảng đại của Quán Thế Âm Bồ tát, biết rằng không thắng nổi Bồ tát, nên họ cũng đành lặng lẽ rút lui. Sau khi họ đi rồi, Bồ tát sai đóng cửa núi lại, không cho họ đến gây rối nữa. Các vị La hán thấy Bồ tát đóng cửa không cho họ vào nữa, bèn nói: “Thôi được, chúng tôi xem các vị đóng cửa mãi được không, cứ mở cửa là chúng tôi sẽ đến ăn!”

Đó là lai lịch của việc cửa Chùa Trước bao đời nay không mở, và đó cũng là câu truyện thú vị đậm màu sắc thần thoại. Sau này mới biết, thầy đầu bếp chính là Bồ tát hiện thân, cho nên mới ứng phó được năm trăm vị La hán, để các vị rời khỏi chùa. Chùa Phổ Đà, từ đấy có lệ khi dùng cái nồi nấu cơm của Bồ tát để nấu cơm, bao giờ cũng để lại một ít cơm nguội, ghế vào nồi cơm mới, rồi ăn đến nồi cơm mới cũng lại để một ít ghế vào nồi tiếp theo, cứ thế, thì lúc nào cũng đủ cơm tiếp đãi không lo cái nạn “Sư nhiều, cháo ít” nữa. Đến nay đã mấy ngàn năm rồi, nhưng vẫn còn lệ đó. Đó chính là xuất xứ của cái lệ “ghế cơm thừa” của Chùa Trước.

  1. THẦY THƯ KÝ THAY MẶT CAO TĂNG HAI LẦN RA YẾT THÁNH THIÊN TỬ

Phổ Đà Sơn là nơi danh sơn thắng địa, vừa là chốn đạo tràng xưa Bồ tát ứng hóa, là nơi xuất xứ của các bậc cao Tăng, đương nhiên bốn biển nghe tên, thiên hạ cũng bái. Cho nên bao đời qua, nhiều bậc đương kim Hoàng đế đã thân chinh hạ cố sơn môn. Có vị vì ngao du thắng cảnh mà đến, có vị làm theo lời tâm nguyện của đức Hoàng Thái hậu mà đến lễ Phật, kể từ khi chùa Phổ Đà ra đời, cửa sơn môn rộng mở đến nay, đã từng có biết bao đương kim Hoàng đế, các bậc vương công đại thần đến dâng hương, triều bái Quán Thế Âm Bồ tát.

Xưa kia Hoàng đế ra khỏi cung điện không tùy tiện dễ dàng như Tổng Thống ngày nay đi thị sát, do đó mà xe vua ngự đến Phổ Đà cũng không thuận tiện như Tổng Thống ngày nay đến sơn môn du ngoạn. Ngày xưa, Hoàng đế hạ cố đến nơi nào hoặc đến chùa nào, là việc hệ trọng vô cùng, nào là phải vệ sinh dọn dẹp chu đáo, nào là phải tổ chức đón rước đàng hoàng, biết bao người phải đau đầu nhức óc, để sơ suất là mang tội bất cung, thiếu thành tâm nghênh giá.

Có một lần, có một vị Hoàng đế (quên mất tên) thân chinh đến chùa Phổ Đà. Trước đó mấy hôm, các quan chức dịa phương đã thông báo việc này cho Phương trượng đại Hòa thượng của chùa Phổ Tế ở núi Phổ Đà biết, và chuẩn bị tổng vệ sinh gọn gàng. Ngoài việc quét tước còn giăng đèn kết hoa, mọi việc phải làm chu đáo để nghênh giá. Sau khi đại Hòa thượng nhận được thông báo, đúng là một việc “vừa mừng vừa lo”. Mừng là vinh dự được đón tiếp nhà vua đến chùa lễ Phật, để dân chúng tăng thêm lòng tin, đem lại vinh dự cho danh sơn, lo là mình không có học vấn, chỉ là một Hòa thượng tu hành trong núi, không những chưa được thấy vua bao giờ, mà ngay cả phủ huyện ở địa phương cũng ít gặp, nếu có điều gì sơ suất trong lễ nghi phép tắc, ắt bị mang tội bất kính đối với Thánh giá, chính việc này là việc đau đầu.

Trước ngày chính thức nghênh giá, Phương trượng chùa Phổ Tế có triệu tập một cuộc hội họp với những người đứng đầu trong Phổ Đà, một mặt là để trù hoạch mọi nghi lễ đón tiếp, mặt khác là việc đại Hòa thượng không dám ra mặt bái yết Thánh giá. Song, Hoàng đế là chủ một nước, Phương trượng là chủ một ngôi chùa, có lý gì mà không ra nghênh tiếp!

Nhưng vị đại Hòa thượng này là một nhà tu hành lâu năm, bình thường giảng kinh thuyết pháp thì ông nói rất hay, nhưng ra đám đông tiếp xúc với các vị tai to mặt lớn thì ông cứ ngồi im, chẳng biết nói gì. Hòa thượng tuy là người sống xa đời thường, nhưng một đức vua đại diện của cả nước đến, không thể không ra mắt theo lễ nghi. Tất nhiên khi gặp mặt vua, hỏi gì thì phải dáp nấy. Phải hiểu rằng nói chuyện với một ông vua trong thời đại chuyên chế, nếu để sai sót trong khi đối đáp, nặng thì ảnh hưởng ngay đến sơn môn, nhẹ thì cũng mác tội khi quân, quan hệ đến sự an toàn của Tăng chúng cả sơn môn, do đó phải đề cử một vị Hòa thượng biết ăn biết nói, có hiểu biết hơn người, để đại diện cho Phương trượng Hòa thượng mà tiếp chuyện. Kết quả là cuộc họp quyết định cử thầy Thư ký đại diện cho Phương trượng Hòa thượng tiếp giá. Thầy Thư ký này xuất gia từ tuổi trung niên, cũng đã từng là một nhân vật phong vân lặn lội trong trường chính sự, là người thấy nhiều biết rộng, bác học đa tài, không những có uy nghi nghiêm túc, mà tướng mạo lại trang nghiêm, cho nên ông được vinh dự hai lần tiếp chuyện Thánh giá, luận bàn Phật lý.

  1. PHƯƠNG TRƯỢNG GIẢ YẾT THÁNH GIÁ THIÊN TỬ THẬT BAN CÀ SA

Khi thuyền rồng của Hoàng đế từ Thẩm Gia Môn tiến về núi Phổ Đà, thầy Thư Ký dẫn đoàn thủ lãnh chấp sự đại diện cho sơn môn đứng chờ sẵn ở cửa núi, cung nghinh Thánh giá lên bờ, các bậc đại thần văn võ tùy tùng Thánh giá đều chắp tay kính lẽ vị Phương trượng giả. Hai bên đường giăng lụa kết hoa, tiếng pháp nổ ran, cảnh đón tiếp thật là trang nghiêm long trọng. Hoàng đế thấy Phương trượng Hòa thượng uy nghi tề chỉnh, đạo mạo trang nghiêm, qua câu truyện dẫn diễn nói tích, ứng dáp trôi chảy, đúng là “hỏi đâu đáp đấy, lời lẽ chân thành!” làm cho lòng rồng cởi mở, rất đỗi vui mừng, cho rằng vị Hòa thượng này như thế quả là xứng đáng với cái chức Phương trượng ở chốn danh sơn, quan tùy tùng loan truyền Thánh giá ban cho đại Hòa thượng một tấm Cà sa màu tím, và lạc trợ trai lương vài tạ, cả chùa tổ chức một bữa cơm chay để kết thiện duyên cùng Thiên tử. Hoàng đế lễ Phật tạ nguyện xong xuôi mới bãi giá hồi kinh.

Sau khi Hoàng đế đi rồi, vị Hòa thượng Phương trượng thật bấy giờ mới dám xuất đầu lộ diện, trong lòng mới thấy nhẹ nhõm như trút được tảng đá trên vai, lúc đầu, ông chỉ sợ thầy Thư Ký có điều gì sai sót, để lộ chân tướng thì sẽ mang tội, nay thấy thầy Thư Ký không những đã hoàn thành sứ mệnh của mình, lại được Hoàng thượng ngợi khen, ban cho Cà sa, thật là một niềm vinh quang vô thượng.

Sau khi thầy Thư Ký tiễn Thánh giá xuống thuyền trở về, thầy hai tay trân trọng dâng áo Cà sa đưa vào buồng Phương trượng. Hòa thượng Phương trượng thấy thầy Thư Ký bước vào, rất trân trọng mời ngồi, và nói: “Hôm nay nếu không có thầy giúp đỡ, thì tôi không biết ứng xử ra sao, thầy không những giải nguy cho tôi mà lại còn đem vinh quang cho cửa Phật. Đây là Hoàng thượng ban vật báu cho thầy, thầy hãy giữ lấy làm vật kỷ niệm”. Thầy Thư Ký thưa rằng: “Bạch Hòa thượng, tôi được ăn cơm của thường trụ, làm việc cho thường trụ, đó là điều tôi phải làm, xin Hòa thượng đừng khiêm nhường khách khí, tấm Cà sa này là vật vua ban cho Hòa thượng Phương trượng, tôi đâu phải là Phương trượng há đâu dám lĩnh nhận, Hòa thượng hãy nhận lấy, mới là hợp lẽ, sau này nó sẽ trở thành kỷ vật quý giá, làm cho chốn danh sơn này đời đời bền vững”.

  1. THẤY THƯ KÝ RA NGHÊNH THÁNH GIÁ, THIẾU LỄ NGHI MẮC TỘI KHI QUÂN

Sau đó một thời gian, không biết vì lý do gì, vị Hoàng đế này lại đến Nam Hải lễ Phật dâng hương, tất nhiên thầy Thư Ký lại phải đại diện cho Phương trượng ra tiếp giá. Thầy cũng ra tận cửa sơn môn đón tiếp, theo lý thì áo Cà sa tím Hoàng thượng ban cho, khi Hoàng thượng đến thăm chùa thì phải mặc ra nghênh tiếp để tỏ lòng cung kính, nếu không sẽ bị coi là khinh mạng coi thường Hoàng đế, mắc tội rất nặng, nhưng bởi vì thầy Thư Ký không phải là Phương trượng thật, tất nhiên không dám mặc áo Cà sa, do đó bị lộ, suýt mắc tội khi quân.

Hoàng đế đến Chùa Trước, an tọa xong xuôi, thấy vị Hòa thượng này không mặc áo cà sa của ngài ban, nhân đó Hoàng thượng hỏi thẳng tại sao không mặc áo cà sa ra đón tiếp, lúc này thầy Thư Ký không thể không tâu thật với Hoàng đế: “Muôn tâu Thánh thựng, nhân chủ ban tội, tôi không phải là Hòa thượng Phương trượng của bản tự, áo cà sa của bệ hạ ban cho Hòa thượng Phương trượng, tôi không phải là Phương trượng nên không dám mặc”. Vua nghe thấy nói vậy, lấy làm lạ, bèn hỏi: “Thầy không phải là Phương trượng, vậy thầy là ai? Phương trượng của thầy là ai mà không ra gặp ta?” Thầy Thư Ký thưa: “Xin bệ hạ chớ quở trách, Phương trượng của bản tự là người tu hành đã cao tuổi, suốt đời tu theo khổ hạnh, chỉ dẫn dắt chúng sinh tu hành đạo Phật, chưa hề xuống núi tiếp xúc với chốn quan trường bao giờ. Hơn nữa, ngài nói tiếng địa phương, e Thánh thượng nghe không rõ, mà mang tội với Thánh thượng, do đó ngài cử tôi đại diện ra đón Thánh giá, mong cầu Hoàng thượng xá tội”. Hoàng thượng hỏi: “Thầy không phải là Phương trượng thì là ai?” “Muôn tâu bệ hạ, tôi chỉ là Thư ký của khách đường bản tự”. Hoàng thượng không những không quở trách, mà còn vui vẻ nói rằng: “Thầy là một vị Thư Ký, lại có học thức rộng như vậy, lế tiết chu đáo, không phải là Phương trượng, không mặc áo của ta ban, lại chuyển cho Phương trượng, không ỷ thế vượt quyền. Thầy không những là một nhà sư ngoại giao có tài dối đáp, lại là một Hòa thượng tốt trung hậu chính đạo, ta quyền nghi luật lệ, ban riêng cho thầy một cái áo cà sa tím khác, để lần sau ta đến chùa, thầy sẽ mặc áo cà sa đó ra tiếp ta”.

Ở các tùng lâm khác, khi thỉnh chức sự đầu tiên là thỉnh Thư ký, rồi sau mới thăng lên chức Đường chủ, chức vị của Thư ký cũng giống như chức Chuẩn úy trong quân đội, đó là cấp tối thiểu để lên cấp cao hơn. Trước tiên là phải làm chức Thư ký đã, rồi sau mới lên dần. Nhưng riêng ở núi Phổ Đà thì có khác, thỉnh chức sự là thỉnh Đường chủ trước, rồi từ Đường chủ mới thăng lên Thư ký, và cả sơn môn chỉ có một Thư ký, không bao giờ có hai Thư ký. Nhưng ở các tùng lâm khác thì có đến hàng chục, hàng trăm Thư ký.

Thầy Thư Ký Chùa Trước là phải được Hoàng đế phong cấp cho, đó là câu chuyện tôi trình bày trên đây. Thầy Thư ký hai lần yết Thánh giá, lại được ban riêng áo cà sa tím, vượt ra ngoài quy định của triều đình. Câu truyện này tôi được các thầy Tri khách đồng liêu kể lại khi tôi còn làm Tri khách ở Chùa Trước là như vậy, cho nên, nhà nào có lệ riêng của nhà ấy, mỗi cái đều có nguyên nhân của nó!

  1. VÀO ĐỘNG PHẠM ÂM XEM KIẾP SAU

Khi tôi đến Phổ Đà được hai ngày, liền có một vị Tăng già rủ tôi đi xem kiếp sau. Tôi hỏi thầy đi xem ở đâu mà sao lại xem kiếp sau là thế nào? Thầy nói: “Ở đây có một cái hang đá, rất nhiều người đến đó xem kiếp sau của mình,, nếu kiếp trước của ông là lợn hay là chó thì trong động sẽ xuất hiện cho hoặc lợn ở kiếp trước của ông”. Tôi cho là ông nói đùa, và nói: “Thầy chửi tôi đấy à!” Thầy Tăng nghiêm nghị sắc mặt nói: “Không phải là nói đùa đâu, hoàn toàn là truyện thực đấy! Nếu kiếp trước của ông là người thì trong động sẽ hiện người”. Tôi nói: “Thế thì đó là kiếp trước, chứ đâu phải là kiếp sau như thầy nói?” Thầy nói: “Cũng có thể xem kiếp sau, nhưng ông phải khấn, tỏ nguyện muốn xem kiếp sau, thì trong hang sẽ hiện hình tướng kiếp sau của ông. Có khi là ông được sống ở từng trời, có khi là biến thành trâu bò ngựa dê, tùy thuộc kiếp này ông là con người như thế nào mà xác định báo ứng”. Tôi hỏi hang đá đó có xa không, thầy nói chỉ đi bộ hai tiếng đồng hồ là đến. Tôi nói: “Tôi không đi đâu, tôi không tin cái thứ ma quỷ ấy!” Thế là tôi cũng chẳng đi xem cái truyện kiếp trước kiếp sau ấy nữa. Mãi sau này tôi mới biết đó là hang Phạm Âm.

Nói đến hang Phạm Âm thì dài lắm, như mọi người đều biết, Quán Thế Âm Bồ tát có ba mươi hai phép ứng thân, ngài là vị Bồ tát “cầu gì ứng nấy”, cho nên kinh Pháp Hoa có nói: “Muốn ứng thân gì để độ sinh thì sẽ hiện thân ấy để nói pháp”. Nghĩa là chỉ cần chúng ta có thành tâm khẩn cầu Bồ tát thực sự, thì Bồ tát có thể “cảm thông” được ngay, và tùy nguyện mà tác thành cho, hiển hiện sắc thân Thánh tượng cho chúng ta xem. Cho nên các thiện nam tín nữ vào núi dâng hương lễ Phật, đều chỉ muốn được thấy Thánh tượng mà ngài ứng hiện. Do đó, ngài thường hóa hiện khác nhau cho tùy người đến xem, nhằm củng cố lòng tin đối với Phật giáo của thiện nam tín nữ đi lễ, đồng thời để giáo hóa cho kẻ ngu muội, độn căn cải tà hướng thiện. Có nhiều vị cư sĩ, Đại đức có thiện căn bền vững, đều được tận mắt nhìn thấy các loại Thánh tượng. Theo lịch sử của sơn môn được ghi chép lại trước đây, nói rằng Bồ tát hiện thân ở trong động Triều Âm, sau không biết tại sao lại đổi tên là động Phạm Âm. Trong đám người vào núi dâng hương ở thời nay, không có ai là không thấy Bồ tát hiện thân, một khi đã vào thăm động. Còn như có thể thấy hết được không, đó lại là vấn đề khác.

Điều đó không phải là để đề cao thần thoại, bao đời nay có rất nhiều vị Đại đức tu hành xuất gia, văn quan võ tướng, đã từng mục khích Bồ tát ở trong hang động, hoặc tỏa ánh hào quang, hoặc thần hiện những điềm báo ứng kỳ lạ, sự thực đó nhiều lắm, không sao kể xiết. Hồi tôi ở núi Phổ Đà, thường được đọc những tài liệu ghi chép lai các việc hiển thánh của Bồ tát. Sau đây tôi sẽ lần lượt kể về những truyện đó.

  1. ĐIỆN CỬU LONG (CHÍN RỒNG) MINH THÁI TỔ LÊN NGÔI

Pháp Vũ thiền tự là một trong ba tùng lâm lớn nhất của núi Phổ Đà, lại có tên là Chùa Sau (Hậu Tự). Chùa được xây dựng vào thời Vạn Lịch đời Thanh, quy mô rộng lớn, kiến trúc công phu hiện đại, nhà cửa khang trang tề chỉnh, cây cối um tùm. So với Chùa Trước (Tiền Tự) chỉ có hơn chứ không kém. Chỉ riêng có ngôi đại điện là không được hùng vĩ và thần dị bằng Chùa Trước. Ngôi đại điện chỉ lớn bằng cỡ 49 gian (Chùa Trước thì phải lớn bằng cỡ 81 gian) tục gọi là Cửu Long điện, vì là phía trên chánh điện có khắc trổ chín con rồng vàng cuộn mình chầu về một hướng, chạm trổ công phu tinh xảo, thần hiện tân kỳ. Nghe nói Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (Hồng Vũ) đã từng lên ngôi ở điện Cửu Long này (Chu Nguyên Chương đã từng xuất gia làm Tăng ở chùa Hoàng Giác), cho nên có chín con rồng vàng cuộn mình trên bản điện, đó là điển tích về điện Cửu Long.

  1. CHIẾC NỒI VẠN CÂN TRỞ NÊN VÔ DỤNG

Ở chùa Pháp Vũ còn có mấy truyện đáng được giới thiệu với độc giả, thì dụ như chiếc nồi nấu cơm nặng một vạn cân, nấu được 24 tạ gạo, có thể thấy Tăng chúng hồi đó ở đây rất đông đúc, hương đăng thịnh vượng biết chừng nào. Chiếc nồi “Ngàn Tăng” nặng vạn cân ấy nay vẫn cất đi, ít dùng đến, vì “nồi to, Tăng ít” cũng như tục ngữ có câu “Mổ gà không cần dùng đến dao giết trâu”, cho nên đúng là “Anh hùng không có đất dụng võ”, chỉ để các du khách tham quan, thiện nam tín nữ đến trước cái nồi mà lễ lễ, bái bái. Đôi khi cũng có người ném vào đó vài ba đồng tiền, để làm gì tôi cũng không biết tường tận được. Ngoài ra còn có những tấm long bào, áo tía, Thánh chiếu, sắc chỉ v.v… đều là kỷ vật quý báu của sơn môn. Ở Chùa Trước và Chùa Sau đều còn giữ lại những kỷ vật, bút tích, bi ký của các Hoàng đế xưa kia. Nhất là Chùa Sau còn giữ lại đôi nến rồng do vua Càn Long ban tặng, cho đến nay, những thứ đó đều vẫn nguyên vẹn, nhất là đôi nến bao đời trải qua nắng gió mà không bị chảy, có thể nói đó cũng là một vật báu vô giá để khách tham quan thưởng thức.

  1. NĂM BỘ LONG TẠNG HOÀNG THƯỢNG BAN HỘ TRẤN PHỔ ĐÀ THÀNH VẬT BÁU

Đối với nhà Phật, cái quan trọng nhất và cần thiết nhất là “Tam Tạng Thập Nhị Bộ Kinh Điển”, bởi vì đạo Phật khác với các đạo khác là ở chỗ, đạo Phật là một tôn giáo học vấn, có tới hơn chín ngàn quyển Đại Tạng Kinh để cung cấp cho tín đồ nghiên cứu.

Trong xã hội, dù là ở giới nào, tầng lớp nào, tin theo đạo Phật hay không tin theo đạo Phật, nhưng ai cũng hiểu rằng kinh điển của đạo Phật thật là phong phú, nghĩa lý cao siêu, đó là điều mà các đạo khác không thể sánh kịp.

Kinh điển của Phật giáo không những được tín đồ của mình coi trọng, mà cũng được nhà nước quan tâm. Kinh Phật vốn nổi tiếng là kho tàng văn hóa phương Đông rất quý giá, bởi vì, Kinh Tạng quả là một kho văn hóa thực sự, bao gồm đủ mọi mặt, như một bộ bách khoa toàn thư, trong đó bao gồm cả học thuyết vũ trụ, đồng thời nó cũng còn là những cái vượt lên trên các học thuyết. Vì nó quan trọng như vậy, cho nên toàn bộ kinh điển Đại Tạng của Phật giáo đều do nhà nước bỏ tiền ra in ấn, trang trí công phu, chế bản tuyệt đẹp, các sách hiện đại của Âu Tây ngày nay cũng không thể sánh kịp.

Các Kinh Tạng do nhà nước xuất bản gọi là Long Tạng. Chùa nào mà có được một bộ “Long Tạng ngự ban” của Hoàng đế, thì coi như là một vinh dự vô thượng, cho nên các chùa lớn ở trong nước đều cố thỉnh được một bộ Long Tạng để gọi là “Trấn Sơn Chi Bảo” (vật báu hộ trấn sơn môn).

Núi Phổ Đà được gọi là đất Thánh, một trong bốn danh sơn. Tạng Kinh đương nhiên là không thể thiếu được, núi Phổ Đà có tới năm bộ “Long Tạng ngự ban”. Chùa Trước có hai bộ, một bộ Nam Tạng, một bộ Bắc Tạng. Chùa Sau cũng có hai bộ, Phật Đỉnh Sơn một bộ. Năm bộ Kinh Tạng đó là “Trấn Sơn Chi Bảo” của núi Phổ Đà. Ngoài ra, các am điện khác còn có bộ Tục Tạng của Nhật Bản, rồi Đại Chánh Tạng, Am Song Tuyền có một bộ Tần Già Tạng, Duyệt Nghiêm Am có một bộ Tích Sa Tạng v.v… bởi vì Kinh Tạng là món ăn tinh thần của người xuất gia, đại phàm là một Tăng già học vấn quảng bác, đạo hạnh cao siêu, thì việc tu dưỡng nhân cách, trau dồi trí tuệ của họ đều do đọc Đại Tạng rồi tu hành theo pháp, và thể chứng cả. Ở núi Phổ Đà, số Tăng già do đọc nhiều Kinh Tạng mà trở nên các bậc Cao Tăng Đại đức, có thể nói là rất nhiều. Không nói gì đâu xa, chỉ riêng trong những nhân vật có quyền uy trong cửa Phật ngày nay, như các Đại đức Đế Nhàn, Ấn Quang, Thái Hư, đều chuyên tâm vào Đại Tạng, đi vào Bát Nhã Tam Muội, mà trở thành những bậc Đại sư một thời. Đế Nhàn do đọc Tạng, trung hưng Thiên Thai, đại hoằng Pháp Hoa. Ấn Quang ba mươi năm ở Chùa Pháp Vũ, chưa từng bước chân xuống núi, một bộ Tạng Kinh, giở đọc ba lần, sau trở thành đại Tổ sư thứ mười ba của Tông Tịnh Độ. Thái Hư đại sư đóng cửa tĩnh tâm trong núi ba năm, đọc hết sáu trăm cuốn kinh Bát Nhã mà giải ngộ Viên Thông, thể ngộ Tam muội, biện tài vô ngại, cuối cùng tiếng vang khắp chốn hoàn cầu, học vấn thông quán Đông Tây kim cổ, phát huy văn hóa Đông phương, trở thành lãnh tụ của phong trào Phật giáo, là một bậc đại sư một thời vĩ đại nhất trong giới Phật giáo đời nay.

Lại như Ân Thuận Pháp sư (nay sống ở Đài Loan) ngài tịnh tâm ở Tạng Lầu trên núi Phật Đỉnh, thâm nhập Kinh Tạng, nên mới trở thành một bậc siêu nhiên tuệ giải “có trí tuệ bao la như biển cả” như ngày nay.

Ngày nay ở núi Phổ Đà trầm luân đại nạn, không biết cái kho báu của nền văn hóa Đông phương kia, năm bộ Long Tạng “Trấn Sơn Chi Bảo” kia có còn được nguyên vẹn yên ổn hay không, đến nay tôi chưa được rõ!

  1. SƯ NHẬT ĐỒNG MƯU CÙNG HẢI TẶC TOAN CƯỚP KHÔNG BỘ ĐẠI TẠNG KINH

Năm thứ nhất, đời Thuận Trị triều Thanh, hải tặc Nguyễn Tuấn cũng với sư người Nhật, đồng mưu định cướp không bộ Đại Tạng Kinh của Hoàng thượng triều Minh ban cho vào năm Vạn Lịch thư 19, đem về Nhật Bản. Lúc đó ở núi Phổ Đà có sư Chiếu Trung, dẫn một đoàn gồm hàng trăm Tăng già, kéo đến Chu Sơn xin được yết kiến, thiết tha thỉnh cầu phải giữ lại Kinh Tạng. Hải tặc họ Nguyễn tức giận nói rằng: “Các người muốn lấy lại Tạng Kin, thì cứ xuống Long Cung Thủy Phủ yết kiến Diêm vương sẽ được!” Thế là bộ Đại Tạng Kinh được dóng hòm, đưa xuống thuyền, thẳng hướng biển Đông mà tiến. Lạ thay, thuyền ra đến biển, bỗng có cá lớn chận thuyền, mất mấy ngày liền không sao qua được. Lúc ấy thì dù có là trùm hải tặc, là ma vương giết người không nháy mắt, cũng không có phép nào mà thắng nổi thần lực Bồ tát, đành chịu cúi đầu nhận tội, cố thoát mà không sao thoát, cuối cùng phải quay thuyền trở lại, như va đầu vào tấm biển cấm cắm ở giữa đường. Mất khoảng nửa ngày, thuyền về đến bến. Các Sư Tăng trên núi biết được tin đó vui mừng khôn xiết, tiếng hoan hô vang động núi rừng, mọi người ra đón Pháp bảo về núi để vào Tạng Kinh Lầu như cũ.

  1. PHẬT TƯỢNG QUÁM ÂM GẮN NGỌC BÁU LẠI MỘT LẦN NỮA NGÀI CHẲNG CHỊU ĐI

Ở nơi cao nhất của Chùa Sau có một ngôi điện thờ Quán Âm ngực trần trân châu, tinh xảo trang nghiêm, mỹ quan kỳ diệu, là chỗ nổi bật nhất của cả sơn môn, đồng thời cũng là một góc quan trọng nhất của chùa, cho nên khu vực này được bài trí chỉnh tề tinh khiết. Bức tượng Quán Âm được đặt trong một hộp khung, cao khoảng năm sáu tấc, trước ngực đức Phật có gắn một hạt châu quý, long lanh sáng chói, đầu và chân đều nạm vàng, qua đó đủ thấy việc cúng thí của người xưa quả thật phong phú. Các đồ cúng bày trước Phật tiền và các tự họa, tranh sơn thủy treo hai bên tường đều là loại thượng hạng. Về tượng đức Quán Âm gắn hạt châu cũng có một câu truyện kể, nhân đây cũng xin nói qua. Truyền rằng bức tượng này trước kia để thờ ở Chùa Trước, đến đời Thanh, không nhớ vào năm nào, có một người Nhật Bản vào núi dâng hương lễ Phật, đi thăm khắp nơi từ chùa lớn am nhỏ, thấy rất nhiều loại tượng Phật khác nhau, cuối cùng chỉ thấy bức tượng Quán Âm gắn ngọc châu này là đáng giá, mỹ quan và tinh xảo hơn cả, quả đúng là một vật quý hiếm có.

Vị người Nhật này cũng như Tuệ Ngạc thiền sư, từ yêu quý bức tượng này mà nảy lòng ham muốn, từ ham muốn mà sinh lòng tham, không dứt được lòng tham mà sinh lòng ăn trộm, cho nên nhân lúc mội người không chú ý, ông ta bèn nhẹ tay nẫng luôn bức tượng, quay gót xuống thuyền, toan chuyến này một đi không bao giờ trở lại. Nào ngờ thuyền rời khỏi bến không xa, thì gặp ngay trở ngại, thuyền cứ bồng bềnh quay tròn trên mặt biển, không sao rời khỏi địa vực núi Phổ Đà, cứ loanh quanh mãi ở vùng nước xung quanh núi suốt mấy ngày liền. Lúc ấy, vị người Nhật ăn trộm tượng đó bắt đầu cảm thấy rờn rợn trong lòng. Rõ ràng là đức Quán Âm Bồ tát không muốn sang đất Phù Tang (Nhật Bản), nên cố ý trêu tức cho tên trộm biết tay, dù sao thì ngươi cũng không thoát khỏi tay ta, rồi để xem ngươi làm được gì? Chưa được sự đồng ý của ta mà ngươi dở trò ăn trộm, thì thuyền của ngươi không thoát được đâu!

Cuối cùng người Nhật Bản này nhận ra lỗi lầm của mình, không nên ăn trộm vật báu của danh sơn, nhất lại là một bức Phật tượng quý. Ông ta bèn quỳ trước mũi thuyền ngửa mặt lên trời thành tâm khấn vái: “Kính bạch đức Bồ tát, kẻ đệ tử này đã biết tội lỗi, không nên ăn trộm Thánh tượng quý báu của chốn danh sơn đem về Nhật Bản cúng dàng. Chính vì việc này mà làm ngài tức giận, làm cho thuyền của đệ tử không sao ra khỏi chốn này. Song, đệ tử cũng muốn trở lại Chùa Trước, đem trả lại bức tượng, nhưng sợ chủ nhân Chùa Trước quở trách, nên đệ tử không còn mặt mũi nào mà trở lại, khẩn xin Bồ tát từ bi, hãy cho phép đệ tử mang bức tượng trả về Chùa Sau để cúng dàng, không biết có được không? Nếu Bồ tát thương tình cho phép như vậy thì xin cho thuyền của đệ tử thuận buồm xuôi gió cập bến sơn môn Chùa Sau, để đệ tử được yên lòng”. Khấn xong, ngẩng mặt lên trời lễ mấy lễ, rồi cho thuyền nhổ neo. Kể cũng lạ, chiếc thuyền như có người lái, cứ tự động hướng về phía Chùa Sau, chỉ một lát là thuyền cập bến. Người Nhật Bản nọ cung kính đưa bức Thánh tượng vào Chùa Sau, dựng một ngôi điện để thờ. Từ đó, Quán Âm gắn ngọc báu lại trở thành Quán Âm “không chịu đi” một lần nữa.

  1. ĐÁM HIỀN SĨ ĐẾN THĂM SƠN ĐỘNG THẤY TẬN MẮT BỒ TÁT HIỆN HÌNH

Đại đức năm thứ 5 đời Nguyên Thành Tông, có học sĩ Trương Phùng Sơn cùng đám hiền sĩ đến thăm động Triều Âm, được mắt thấy ngài Đại Sĩ Quán Âm hiện tướng, phảng phất như ở vách đá, rồi lai thấy Thiện Tài đồng tử bỗng nhiện hình trên đỉnh động Thiện Tài, phảng phất trong đám mây lành, rồi đến hình Quán Âm, áo mũ long lanh châu ngọc, tay cầm nhành dương, các thần Hộ pháp thị vệ phía trước. Trương học sĩ cùng mọi người quỳ lễ, hào quang chiếu rực cả khu động, hồi lâu mới tắt.

Mùa xuân, năm thứ hai đời Hồng Vũ triều Minh, có quan Tào Sứ (phụ trách về chuyển vận hàng hóa) tên là Khổng Tín Phu, đi chở muối ở Xương Quốc, đi cùng còn có các quan phụ tá Vương Quốc Anh, Tiết Quốc Kỳ. Tháng tư, vào mùa hạ, qua núi Lạc Già vùng vàng rực Phổ Đà, đến lễ Phật ở động Triều Âm, tướng từ bi của đức Quán Âm ứng hiện, ánh rở, châu ngọc trang nghiêm, ráng hồng ẩn hiện, ngào ngạt hương trời. Mọi người ngưỡng trông, ai cũng tắm tắc đều cho là lạ.

  1. LÃO TRƯỢNG ĐƯỢC NHÌN THÁNH HIỆN HÌNH NGUYỆN DÂNG TRỌN TUỔI GIÀ CÒN LẠI

Đời nhà Thanh, có một vị Tăng đi hành hương làm việc nghĩa. Từ chùa Tiến Phúc ở Tràng An đến tận núi Phổ Đà Nam Hải. Đúng là phải trèo đèo lội suối muôn dặm núi sông, chịu đựng mọi nỗi gian nan thầy cùng với bảy nhà Sư ngoạn du khác đến thắp hương ở động Triều Âm vào lúc trời mưa, cầu khẩn chân thành, ước nguyện được nhìn dung nhan từ bi của Bồ tát. Mãi một lúc sau bỗng thấy trong động, hào quang ngũ sắc tỏa ra, trong ánh hào quang có hình tượng Bồ tát Quán Âm, bên cạnh có chim anh vũ trắng, trang nghiêm diện hảo, các vị khác cũng đều trông thấy, nhưng mọi người đều thấy một khác, hồi lâu mới mất.

Lại có một nhà Hán nho họ Trương, người Châu Trực Lệ bị ốm nặng, kéo dài mấy tháng không hết, một hôm nằm mê bỗng thấy ba vị Phạm Tăng, lấy tay xoa vào bụng thế là khỏi bệnh, ông bèn phát nguyện đi lễ bốn danh sơn. Một hôm đến núi Phổ Đà, sau khi đi lễ Bồ tát Quán Thế Âm xong, ra khỏi động định đi về, bỗng gặp một cụ già bèn đứng lại nói truyện. Cụ già nói: “Lão thấy tiên sinh từ xa đến đây hẳn là có ý định muốn thấy Bồ tát hiện thân chăng?” Ông Trương nói: “Tôi vượt qua bốn ngàn dặm đến đây, nếu được chiêm ngưỡng Thánh tượng một phen, thì chết cũng không ân hận, xin hỏi lão trượng có cách nào có thể nhìn thấy được đức Thánh tượng của ngài không?” Cụ già trả lời: “Chỉ cần thành tâm cầu khẩn ắt sẽ thấy”. Do đó ông họ Trương cùng hơn chục người cùng đi, quỳ trước động khấn lễ, bỗng thấy cửa động có ánh hào quang. Cụ già nói: “Bồ tát hiện rồi đấy”. Mọi người ngước mắt chăm chú nhìn, quả thấy hình dung Bồ tát từ vách đá hiện ra, nhưng chỉ là hình đứng nghiêng. Ông lại khấn: “May được Bồ tát hiện thân, mong được ngưỡng nhìn chính diện để xin đảnh lễ, sau này trở về còn nhớ hình mà khắc tượng cúng dàng”. Bồ tát lại quay lưng vào động, mặt nhìn ra biển, chỉ đứng cách đám đông trong gang tấc. Trông rõ hình tượng, ngài bận áo xanh, nửa thân chìm trong mây trắng, mọi người hoan hỉ rập đầu kính lễ, lúc ngẩng lên thì hình ngài đã tan biến trong vách núi. Cụ già nói: “Trước đây già cũng đã được nhìn thấy Bồ tát hiện thân, nên lão bèn gởi tấm thân này ở đây, hàng ngày quét tước sân chùa, vì ở đây lâu ngày, nên lão được may mắn thấy ngài mấy lần rồi”. Các sách đều có ghi lại những truyện nhiều người được thấy Bồ tát hiện thân như vậy, quả thực là không sao ghi hết được.

  1. GIẾT BÒ ĐƯỢC THẤY BÒ HIỆN HÌNH BỊ GIẾT HỒI TÂM HƯỚNG THIỆN, QUYẾT Ý SỬA LỖI XƯA

Bồ tát hiện hình cũng không phải là lúc nào cũng hiện một cách tùy tiện, có bậc quốc vương đại thần, họ nhìn thấy Bồ tát hiển thánh, họ sẽ bảo hộ Phật pháp, các bậc phú hào trưởng giả, sau khi tin Phật pháp, bèn phát tâm bố thí tiền của để hoằng dương Phật pháp. Hoặc có kẻ đại gian ác, nhìn thấy Phật tượng hoặc thấy hình tướng xấu xa, chúng cũng có thể cải ác hướng thiện, hồi tâm chuyển ý, làm một người dân lương thiện. Hoặc là người xuất gia tu hành được nhìn Thánh hiển, đó là sự cảm ứng đạo giao. Đúng như câu:

Bồ tát thanh lương nguyệt
Thường du tất cánh không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ tát ảnh hiện trung.

(Bồ tát như vầng trăng sáng tỏ
Thường ngao du khắp chốn không trung
Tâm chúng sinh dù sáng dù mờ
Soi vào đấy thấy mình hiện rõ).

Kẻ tầm thường không gặp Phật duyên, hoặc không có thiện căn, phần lớn là không được thấy Phật hiện, chỉ có số ít họa may mới gặp. Song, dù đã được thấy hay chưa được thấy, chỉ trong một sát na nào đó, ít nhất là tâm trong sạch, mà chỉ cần có một niệm tâm trong sạch đó là đã tạo cho bản thân một chút thiện căn rồi, cho nên theo tôi, vẫn nên đi xem một chuyến, chỉ có lợi chứ không có hại. Nếu không tin, tôi xin kể một câu truyện làm ví dụ để chứng minh.

Ở Thượng Hải, có một người mới tin Phật giáo. Bởi vì cuộc đời quá khứ của anh ta chuyên làm việc ác, ngày thường làm nghề giết bò để sống, tuy đã quy y Phật pháp, nhưng thói xấu khó trừ, chứng nào vẫn tật ấy. Một hôm được nghe tên Ấn Quang đại sư, anh ta xin quy y Ấn Quang đại sư ngay. Một hôm anh ta đi lễ ở núi Phổ Đà, nghe nói vào động Phạm Âm có thể thấy được kiếp trước của mình, cho nên anh ta cùng đi với một toán người, những người khác kể lại rằng họ được thấy các vị Bồ tát, riêng anh ta chỉ thấy một con bò vật vã đau đớn trong hang động, anh ta bỗng cảm thấy sờ sợ, trong lòng không yên, thầm nghĩ kể cũng lạ, có lẽ kiếp trước mình là một con bò, đầu thai vào kiếp này sao? Khi về tới chùa, anh ta kể lại cho pháp sư Ấn Quang nghe: “Bạch sư phụ, hôm nay con đến động Phạm Âm thấy được kiếp trước của con, con không biết cớ sao con thấy một con bò rất to ngủ ở trong động, thưa sư phụ, lẽ nào kiếp trước con lại là một con bò hay sao?”. Sau khi nghe xong anh ta kể, ngừng một lúc, pháp sư Ấn Quang nhẹ nhàng nói: “Đó không phải là kiếp trước của con, mà là kiếp sau của con đấy. E rằng sau khi con chết, phải làm một con bò. Con có giết bò bao giờ không? Nếu con đã từng giết bò, thì đó là nhân quả khó tránh dấy!”

Anh ta nghe xong lời giảng giải của Pháp sư, và bảo rằng kiếp sau mình sẽ trở thành con bò, thì trong lòng vô cùng sợ hãi, mồ hôi toát ra đầm đìa. Tự nhiên hai chân quỵ xuống, thỉnh cầu cư phụ cứu giúp. Pháp sư nói: “Dù sao con vẫn có thiện căn, cho nên Bồ tát mới hiện ra cho con thấy. Con hãy nói thật cho ta hay, con đã từng giết chết bao nhiêu sinh mạng, ta có thể đến trước bệ Phật xin ngài rủ lòng từ bi cho con sám hối. Đồng thời con phải mời các thầy Tăng siêu độ cho con ra khỏi oan gia trái chủ, phát nguyện từ nay trở về sau, thực sự sửa đổi lỗi xưa, quyết định không giết hại sinh mệnh, và hàng năm sắm vật phóng sinh để chuộc lại lỗi cũ. Nếu con làm được theo lời ta cải tà quy chánh, thực tâm sám hối, từ nay gắng làm việc thiện, thì mới có thể giữ được sắc thân của con, nếu không, đến Quán Thế Âm Bồ tát cũng không sao cứu nổi”.

Vị cư sĩ làm nghề giết bò đó sợ kiếp sau biến thành con bò bị người ta giết thịt, cho nên anh ta nhất nhất làm theo những lời răn bảo của pháp sư Ấn Quang. Từ đó anh ta không những không làm điều ác, mà còn trở thành một tín đồ Phật tử trung thành. Việc gì đem lại lợi ích cho chúng nhân, anh ta đều hăng hái làm. Qua câu truyện này, chúng ta biết được việc Bồ tát phóng hào quang hiện hóa, đều có ý nghĩa sâu xa cả.

  1. ĐẠI SƯ CHƯƠNG GIA MỤC KÍCH KIM THÂN SẮC TƯỚNG BỒ TÁT HIỆN HÌNH TRONG ÁNH HÀO QUANG

Từ năm Dân Quốc trở lại đây, không ít những người có quyền cao chức trọng, danh vọng quan viên, có thiện tâm tín ngưỡng thành tâm hộ pháp, đều được tận mắt thấy Bồ tát thị hiện, trên từ các bậc quốc gia nguyên thủ (như quốc phụ Tôn Trung Sơn tiên sinh), dưới kẻ tục tử phàm phu, chỉ cần có nhân duyên với Phật, thành tâm cầu khẩn thì Bồ tát có thể tùy duyên mà ứng hiện. Sau khi chống Nhật thành công, vào năm Dân Quốc thứ 36, ngày 11 tháng hai nhuận âm lịch, ngài Đại sư Chương Gia đương nhiệm vụ tài chánh phủ Tổng Thống, chủ tịch hội Phật giáo Trung Quốc đã đến núi Phổ Đà. Trước hết đại sư đến các Chùa Trước, Chùa Sau, lễ niệm Bồ tát Quán Thế Âm, sau đó đến động Phạm Âm, cùng đi có các Tăng Tri Khách ở Chùa Trước Chùa sau, cả đoàn tùy tùng gồm mười chín người, sau khi đại sư lễ động xong, cửa động bỗng phóng ra một đạo quang minh, trong ánh hào hóa hiện ra kim thân sắc tướng của Quán Thế Âm Bồ tát, mọi người trong đoàn ai cũng nhìn thấy. Hồi đó tôi cũng trụ tại núi Phổ Đà nhưng không có mặt trong đoàn người này, nên rất tiếc không có nhân duyên được nhìn thấy hình dung thị hiện của ngài, lúc đó trong đoàn còn có Trần Thế Sơ tiên sinh là Cảnh sát trưởng của sơn môn, cũng nhìn thấy tận mắt Bồ tát Quán Thế Âm hiện thân, ông vui mừng lắm và cho là dịp may hiếm có.

Đến Dân Quốc năm thứ 38, tôi cùng đi với Tưởng Tư lệnh khu bổ cấp cũng được thấy một lần, đó là một bức tượng ngồi, mặt trắng thân đỏ, chính Tưởng Tư Lệnh cũng thấy như vậy. Còn hình ảnh sắc tướng của ngài thị hiện trong ánh hào quang thì bản thân tôi cũng chưa được thấy, âu cũng là do “hạnh căn của đệ tử này quá mỏng” mà chưa được thấy, ở đây không dám nói xằng, mang tội lừa dối!

  1. VƯƠNG PHÚ ÔNG THẤY QUÁN THẾ ÂM QUYẾT THÀNH TÂM CẢI TÀ QUY CHÁNH

Còn nhớ một vị cư sĩ nói với tôi rằng, ở Quảng Đông có nhà phú hào họ Vương, ông thuộc loại tỷ phú trong giới ngân hàng. Bản thân ông theo đạo Thiên Chúa em gái vợ ông lại theo đạo Phật, cho nên cô thường khuyên nhủ chị ruột và các cháu đi lễ núi Phổ Đà, và nói rằng động Phạm Âm thiêng lắm, rất nhiều người đã thấy Bồ tát hiện thân. Họ vốn tò mò, lại có tiền do đó cũng cùng với em gái đi chơi một chuyến. Khi họ đến động Phạm Âm, quả là được nhìn thấy Bồ tát hiện thân và phóng hào quang trong động. Con gái út của Vương phú ông là một sinh viên đại học, thấy một Thánh tượng lạ kỳ như vậy hiện hình, cũng khởi dậy lòng tin. Khi trở về, cô cùng với mẹ sắm một ngôi tượng Bồ tát Quán Âm lập bàn thờ để cúng, sớm tối thắp hương lễ bái. Vương phú ông rất lấy làm lạ, trước đây ông đã từng khuyên hai mẹ con theo đạo Giê Su, họ không theo, bây giờ bỗng nhiên lại tin theo đạo Phật. Hỏi rõ nguyên nhân, thì ra là do hai mẹ con được thấy Quán Thế Âm Bồ tát hiển thánh trong chuyến đi lễ Phổ Đà; Vương phú ông không tin cho rằng làm gì có việc ấy? Vợ ông nói với ông: “Ông không tin thì có thể đến động Phạm Âm một chuyến xem, lúc đó ông sẽ tin tôi nói là đúng”. Vương phú ông nói: “Làm gì có thật, tôi là con chiên của đạo Thiên Chúa lâu năm, mà đến nay cũng chưa thấy Chúa thế nào cả, các người chưa tin đạo Phật thì làm sao có thể thấy Phật! Nếu tôi có đến đó mà thấy Phật thì tôi sẽ không tin Giê Su nữa, mà theo luôn đạo Phật”. Vợ ông hết sức động viên ông nên đi Phổ Đà một chuyến.

Quả nhiên khi ông đến Phổ Đà, chính mắt được trông thấy Bồ tát phóng hào quang thị hiện. Ông được thấy các hình tướng Bồ tát, cho nên khi trở về, ông vô cùng phấn khởi, bỏ luôn đạo Thiên Chúa mà theo đạo Phật, đồng thời hết sức ủng hộ Phật pháp và còn khuyến hóa rất nhiều bạn hữu cùng giới ngân hàng quy y đạo Phật.

  1. THẦY LANG HỌ PHÓ THẤY QUÁN ÂM BỎ TIỀN TU BỔ QUÁN ÂM MIẾU

Phố chùa Quang Hiếu ở thành phố Quảng Châu, có một ngôi miếu nhỏ tên là Quán Âm miếu, trong phường có một thầy lang tên là Phó Tinh Hoàn. Bình thường, đối với tiền bạc ông tỏ ra hơi keo kiệt, đó cũng là thường tình, không có gì là lạ lắm, nhưng bỗng nhiên ông dám bỏ ra tám ngàn đồng để sửa sang tu bổ miếu Quán Am. Việc đó cũng có một nguyên do đáng đề cập đến.

Thầy lang họ Phó lúc đầu cũng là tín đồ của Phật phái Long Hoa (tức tin Bồ tát Di Lặc – LND) thuộc loại đệ tử tiên thiên, nghĩa là tin thế thôi, nhưng cũng chẳng hiểu gì cho lắm. Nhưng cô gái thứ hai của ông ta, sau khi quy y Pháp sư Bảo Tĩnh, hàng ngày nghe giảng kinh, tự nhiên hiểu sâu Phật pháp, cô đã thuyết phục dược cha cô chánh tín Tam Bảo. Có một lần, mấy cha con cùng các cháu đến chùa Quán Tông ở Ninh Ba để thăm Pháp sư Bảo Tĩnh, tiện đường đi lễ Phổ Đà luôn, khi đến cửa động Phạm Âm, ông chính mắt thấy Quán Thế Âm Bồ tát tướng sắc trang nghiêm diệu hảo, đẹp tuyệt trần gian, hào quang rực rỡ, mấy cha con thấy cảnh tượng ấy vội vàng cúi đầu khấn lễ. Từ đó, thầy lang họ Phó thực sự phát tâm, dám bỏ ra hơn tám ngàn đồng để tu sửa miếu Quán Âm, và thỉnh pháp sư thuyết pháp, trang nghiêm đạo tràng, hoan nghênh tứ xứ tín đồ, niệm Phật lễ sám, cả gia đình ông ai ai cũng có mặt, bản thân ông đêm nào cũng đến đạo tràng, pháp hội đông vui xưa nay hiếm có, đó chính là thành quả sau cuộc đi thăm Phổ Đà được thấy Quán Âm hiển thánh.

  1. BA BÀ THÀNH TÂM LỄ PHẠM ÂM MỖI BÀ SỞ KIẾN LẠI KHÁC HẲN

Cư sĩ Mạc Chính Hy nói: “Tôi cũng đã từng tham gia pháp hội niệm Phật ở lầu Quán Âm một năm nay, quen biết khá nhiều Phật tử, trong đó một bà người Cao Châu, tỉnh Quảng Đông, bà ta họ Mạc cùng họ với tôi, theo tuổi tác có thể nói đó là bà chị tôi. Bà đã từng nói với tôi rằng: “Trước đây hai năm, bởi vì hoàn cảnh khó khăn, chồng bị thất nghiệp, con gái đòi đi học, đành phải vay nợ để ứng phó, nhưng mãi sau không trả nợ được, hàng ngày bà đến miếu Quán Âm, cầu Bồ tát đại từ bi phù hộ cho bà được trúng thưởng xổ số, quả nhiên bà trúng được hơn tám ngàn đồng. Thế là trả hết được nợ cũ, học phí của con gái không phải lo lắng nữa. Để cảm tạ ơn sâu của Bồ tát, đi đến đâu bà cũng kể truyện này. Một hôm thế nào lại gặp cô em gái thứ hai của thầy lang họ Phó, cô kể cho bà nghe được thấy Quán Thế Âm Bồ tát thị hiện ở núi Phổ Đà, bà rất muốn đi một chuyến nhưng số tiền còn lại chẳng được là bao, bà hàng ngày lại đi lễ khấn cầu Quán Thế Âm Bồ tát, nào ngờ lại trúng thưởng lần nữa. Thế là bà quyết định đáp thuyền từ Quảng Châu đến Thượng Hải, ở Thượng Hải bà lại tìm thấy hai người họ hàng cũng muốn cùng đi Phổ Đà. Ba người đến Phổ Đà, xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm ở trước cửa động Phạm Âm, niệm đến sáu tiếng đồng hồ liền mà chẳng thấy gì, nếu như lòng tin không vững vàng thì có lẽ phải bỏ về ngay như người đi tìm vàng đã vào được kho vàng rồi mà phải về tay không vậy. Họ tuy là giới nữ lưu nhưng đã phát nguyện, nếu không được thấy Bồ tát thì quyết định không chịu trở về. Khoảng chừng vào lúc bốn giờ chiều, ở cửa động Phạm Âm, như mở tấm màn trên sân khấu, đức Bồ tát Quán Âm bỗng hiện ra với sắc tướng trang nghiêm cao lớn, hào quang rực rỡ, kể ra cũng lạ, người đứng bên cạnh bà kể rằng chỉ trông thấy một bà, có cô hầu gái bê ra một chiếc ghế cho bà ngồi, và tiếp đó bưng đến cho bà một cốc nước trà. Còn bà bên phải thì lại kể rằng, bà chỉ thấy một tấm bài vị thờ thần, sau đó thấy con chó con chạy đi chạy lại.

Họ lại nghe thấy nói rằng, trong tháp Phật có xá lợi tỏa sáng, do đó đến tám giờ tối hôm đó, các bà vừa đi vừa niệm Phật, cho đến tận canh tư bỗng nhiên thấy trên đỉnh tháp có đóm sáng như ánh sao. Đốm sáng cứ lớn dần, chiếu sáng cả ngôi tháp, ánh sáng tỏa khắp mặt đất xung quanh tháp, lúc này thấy các Sư Tăng ở sơn môn đều tỉnh dậy, tụng kinh niệm Phật, cho đến khi ánh hào quang của Phật chiếu khắp sơn môn, rồi ánh sáng lại thu nhỏ dần chỉ còn một đốm nhỏ trên đỉnh tháp, lúc này vừa hừng sáng. Ba bà vất vả cả một ngày đêm, đến đây cũng có thể nói là họ đã được đền công xứng đáng. Ngay hôm sau họ mới đi du sơn ngoạn thủy, điều không bao giờ quên được đó là nơi đức Quán Âm thị hiện. Họ muốn đến xem lại chỗ đó một lần nữa cho rõ ràng, họ bèn trèo lên một tảng đá ở cửa động Phạm Âm, ngắm nhìn kỹ lưỡng, thấy chỗ Quán Âm thị hiện chẳng có gì lạ, chỉ là một tảng đá lớn, trên tảng đá có ba kẽ nứt, mọc vài cây nhỏ và đám cỏ xanh đong đưa trước gió. Họ nhận thấy uy thần của Bồ tát thật không thể tưởng tượng. Rõ ràng chỉ là một tảng đá lớn mà sao lại thị hiện thành Quán Âm Bồ tát sắc tướng trang nghiêm hiếm thấy trên đời này được!

  1. HAI CHỊ EM THẤY PHẬT HIỆN HÌNH QUYẾT ĐỐT SÁCH QUY Y PHẬT PHÁP

Cư sĩ họ Mạc lại kể thêm một câu truyện khác: ở Hồng Kông có hai học viện cùng rất nổi tiếng, đó là thư viện của nữ sĩ Tỳ Lý La và thư viện Hoàng Nhân. Có một cô gái họ Bằng, tốt nghiệp nữ học viện đó ra.

Cô nghe nói ở núi Phổ Đà có Quán Âm thị hiện, cô bèn từ Hồng Kông lên Thượng Hải. Cô có một người em gái đang học ở trường Khải Minh Thượng Hải. Khải Minh là một trường dòng của đạo Cơ Đốc. Cô em học ở trường này mấy năm, dù sao cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm, khó lay chuyển lòng tin và chỉ còn một tuần lễ nữa là được làm lễ rửa tội thông công chính thức trở thành con chiên của đạo Cơ Đốc. Nay cô chị gái từ xa đến thăm lại định đi xem Quán Âm sống, bất giác bật cười, cho rằng bà chị như người đang ngủ mơ, mê tín tiệu cực, chẳng khác gì các bà già ngu muội thường hay gặp, song họ đều là trí thức tất nhiên người nào cũng có lý sự riêng, không ai chịu ai, cuối cùng hai chị em kẻ cãi đi người cãi lại, đâm ra nặng lời, làm cha làm mẹ thì trong trương hợp này cũng không thể thiên vị bên nào được, còn làm chị thì nhất định bắt em phải cùng đi chơi một chuyến núi Phổ Đà, còn làm em thì lại cứ ngăn chị không nên đi lễ cái tượng gỗ ấy làm gì. Hai bên tranh biện chẳng ai chịu ai, cuối cùng họ đề ra quy ước với nhau, cô em nói: “Nếu em đi lễ với chị ở núi Phổ Đà, nếu quả thực trông thấy Quán Thế Âm, thì em sẽ theo đạo Phật với chị ngay lập tức, nếu cả hai chị em đều không thấy gì thì chị phải làm lễ rửa tội cùng em”. Cô chị gật đầu đồng ý. Hai bên còn đề ra mấy điều kiện khác nữa, rồi cuối cùng mới thuê thuyền đi lễ.

Đôi bóng hồng tha thướt quỳ trước động Phạm Âm, lầm thầm khấn vái. Quả nhiên màn trời mở rộng, rực rỡ hào quang tuyệt diệu nhân thiên, trang nghiêm đức tướng, Quán Thế Âm Bồ tát hiện hóa như ngàn hoa nở rộ. Bồ tát thần thông quảng đại biết trước rằng hai chị em đánh đố nhau mà đến nơi này, chính là để phân giải chánh tà, cho nên trước đấy ngài chỉ hiện hóa đơn hình, có một Quán Thế Âm, như vậy thì quá ư đơn điệu, lần này có hai chị em họ Bằng, ngài hiện thêm vài chục La Hán, đi đi lại lại, chắp tay nhiễu Phật, cảnh đó còn nhộn nhịp hơn cảnh “Tiên nữ rắc hoa” trong Bình Kịch gấp bội. Nói đến La Hán chắc độc giả cũng đã từng thấy, có những gia đình, trên những bức tường trong thư phòng, thường hay có tranh La Hán. Trong các vị La Hán đó, có người cao, người thấp, người béo, người gầy, có người mặt mũi kỳ dị, méo mồm, một mắt, thọt chân… đủ các loại. Hai chị em họ Bằng càng nhìn càng chăm chú, càng xem càng hứng thú, tự nhiên, chẳng ai bảo ai, quỳ sụp xuống đất, tỏ lòng kính mộ chân thành, tin sùng cực độ.

Hai chị em trở về với niềm vui thực sự. Về đến nhà, cô em kể lại cho cha mẹ nghe từ đầu chí cuối, không bỏ sót một chi tiết nào. Và từ đấy, bao nhiêu những cuốn sách dầy cộm, cái cô coi là kinh điển mà cô đeo đuổi bấy lâu nay, giờ đây cô coi nó như những tờ giấy lộn, một mồi lửa là xong. Và cũng từ đây, cô xây dựng cho mình một cơ sở để tâm hồn vượt ra ngoài cõi tục, giải thoát cho bản thân mình và giải thoát cho cả mọi người, để cùng đi tới một cảnh trời tâm linh thanh tịnh.

Gái lớn gả chồng, trai lớn lấy vợ, đó là lẽ thường tình của con người, ngay cả các bậc Thánh triết cũng coi đó là điều bất di bất dịch. Song, ở cô gái họ Bằng, đêm đêm suy nghĩ về cuộc đời mình, chẳng lẽ sau này chỉ trở thành một bà nội trợ, một bà quản gia hay sao? Âu là xây dựng một cuộc đời thanh tịnh ở chốn tùng lâm. Từ đó, cô cùng với chị gái nghiên cứu giáo điển Phật pháp, quy y Pháp sư Hải Nhân, trở thành đệ tử của ngài, ngày ngày thăng đường nhập thất.

Hải Nhân Pháp sư là người đức cao đạo trọng, học vấn tinh thâm, năm Dân Quốc thứ 22, Pháp sư đã từng đi hoằng pháp ở vùng Tây Quan Quảng Châu, thuyết giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm mấy tháng, ngày nào cũng đúng ba giờ chiều, lại giảng cho cô đệ tử của mình, trong cửa Phật gọi đó là giảng đường nhỏ. Hồi đó tôi còn làm việc ở tờ báo Công Bình, tục ngữ có câu: “Mãn bình bất động, bán bình dao” nghĩa là: Bình đầy nước, nước không sóng sánh, nước nửa bình, nước cứ vung ra, người biết được chút ít Phật pháp, nửa hiểu nửa chẳng, thường thích khua môi múa mép. Cũng do sự ảnh hưởng của tôi, một hôm, tôi rủ các vị trong tòa báo, từ giám đốc, thư ký tòa soạn, biên tập và phóng viên, đến pháp hội nghe thuyết giảng một chuyến xem sao, nghe nói đến Ni cô thuyết pháp, các vị đồng ý đi ngay để thỏa tính tò mò, thế là các vị quần áo chỉnh tề, giày tây mũ phớt, một đoàn súng sính lên đường đến nơi pháp hội, nghe chị em họ Bằng ngồi trên tòa giảng, thuyết pháp Liên Hoa, trong tiếng nhạc trời. Các vị trong tòa báo từ xưa đến nay vẫn cho mình là những cây bút tài ba, muốn cho hoa nở thì hoa phải nở, đã phóng bút thì khác nào như rồng bay phượng múa, giờ đây nghe chị em họ Bằng thuyết pháp, thật là lời vàng chữ ngọc, ngoài sức tưởng tượng, các vị phục sát đất. Khi về tòa báo, có vị hỏi tôi: “Ông Mạc này! Ông có nói hay được như thế không? “Tôi trả lời: “Tôi có nói được câu nào cũng chỉ là chắp vá, chưa được một giọt cam lồ của biển pháp, sao có thể so sánh với Ni cô họ Bằng… nếu đem so sánh thì ngàn lần tôi chưa được một, vạn phần chưa tới một phần”.

Trở lại câu truyện về hai chị em họ Bằng, sở dĩ họ có khả năng quy phục được đám trí thức, sức mạnh của nó vẫn là Quán Thế Âm Bồ tát, nếu không có truyện Quán Thế Âm Bồ tát thị hiện thì làm sao có thể đạt được thành công lớn như vậy? Song, truyện kể trên đây đều là xác thực trăm phần trăm, nhưng Quán Thế Âm Bồ tát làm sao lại có được biện tài kỳ diệu như vậy? Với những người đã tin ở Phật, đối với Quán Thế Âm Bồ tát, ngài đã thành đạo như thế nào, chúng ta cần phải biết căn nguyên của nó một chút, nếu chỉ ngày ngày lễ Quán Âm, thỉnh cầu Quán Âm, chi bằng ta phải tìm cách mình sẽ trở thành một Quán Âm. Sách nho cũng từng nói: “Thuấn là người, ta cũng là người, người có tài cũng có thể như Thuấn được”. Lại nói: “Văn Vương là thầy ta vậy, Chu Công há dối sao?” Lý thuyết của Phật giáo, về căn bản cũng có nhiều điểm giống như chủ trương của Nho gia, vậy nếu tôi muốn tự mình trở thành một Quán Âm thì phải làm những gì? Muốn biết tường tận, xin đợi hạ hồi phân giải.

  1. THÀNH TÂM TRAI GIỚI XIN HỒI HƯỚNG ĐỘNG PHẠM ÂM HIỆN CHỮ “ĐÀI LOAN”

Có một vị sĩ quan quân đội, tên là Hà Hoán Văn, người Vũ Tiến, tỉnh Giang Tô, mùa đông năm Dân Quốc 38, cùng bộ độ qua núi Phổ Đà, bởi vì từ nhỏ ông đã từng nghe biết núi Phổ Đà Nam Hải, là nơi danh sơn Phật tích, nay bỗng được đến thắng cảnh Phổ Đà quả là bất ngờ, do đó ông có một lời thệ nguyện, đến Phổ Đà ngày nào phải ăn chay ngày đó. Không rời núi, không ăn mặn, bạn bè đồng sự đều khuyên ngăn, thậm chí cố tình trở ngại, nhưng ông kiên chí đến cùng để giữ vững lời nguyền đó. Ông kể: “Một hôm tôi cùng một đám đông cùng đến động Phạm Ân, nghe người địa phương nói rằng, nếu thật lòng cầu khẩn, dâng hương lễ Phật, thì sẽ thấy được cảnh tượng thần dị hiện hình trong động”. Do đó chúng tôi bèn đến ngay động Phạm Âm, mọi người cũng muốn đến xem có thật được thấy cảnh lạ hay không để thỏa trí tò mò. Hồi đó trong tâm nguyện của tôi, cũng muốn có dịp rời lục địa đến Đài Loan, nào ngờ vừa khấn vái xong, hai chữ “Đài Loan” bỗng hiện ra trong động, chữ vừa to vừa rõ, lát sau một bức Thánh tượng Vô Lượng Thọ cũng hiện lên, kéo dài đến ba phút mới tan biến. Lúc đó trong lòng tôi cảm thấy vui mừng và thanh thản không sao kể xiết. Sau đó tôi hỏi các bạn cùng đi có thấy cảnh đó không, họ đều trả lời cũng chẳng thấy gì cả.

Từ sau buổi nhìn thấy cảnh tượng ấy khoảng mười ngay, chúng tôi sang Đài Loan thật, lúc đó tôi mới biết Phật pháp vô biên, đồng thời cũng thể nghiệm được một điều “có thành có thiêng”, “có cảm có thông”, đó là những câu danh ngôn chí lý. Câu truyện trên đây là do cư sĩ họ Hà đến tòa báo kể lại, và nhờ chúng tôi viết bài để biểu dương Thánh đức của Bồ tát và cũng để ghi lại sau này đỡ quên.

  1. TẠO THIỆN CĂN, NGHIỆP CHƯỚNG TIÊU TRỪ RỰC HÀO QUANG, BỒ TÁT THỊ HIỆN

Kinh có nói: “Tâm chúng sinh dù sáng dù mờ, soi vào đó thấy mình hiện rõ”. Chúng ta thường ít thấy Bồ tát thị hiện, đó là vì nghiệp chướng của chúng ta sâu nặng, chứ không nên trách ai. Và “mỗi người đều có nghiệp nhân, chớ nên so bì hơn thiệt”. Điều đó rất đúng. Tôi có một người đồng học, tức là Pháp sư Mật Hiển, ông ta cũng như tôi, nghiệp chướng nặng nề, ông đã đến động Phạm Âm nhiều lần, nhưng chưa lần nào được thấy Bồ tát thị hiện, mỗi ngày ông phải đi lại đến hơn hai mươi dặm, ngày thứ nhất không thấy gì, ngày thứ hai lại đến, quỳ một hai tiếng đồng hồ, vẫn chỉ thấy một đống đá vụn, ngoài ra chẳng thấy gì khác, ngày thứ ba ông lại đến, quỳ lễ khẩn cẩu, tự trách bản thân mình nghiệp sâu chướng nặng, không có duyên thấy Phật, nhưng vẫn không thấy gì cả. Ngày thứ tư lại đến, ông ta nói với tôi rằng: “Ngày nào tôi cũng đến, không đạt mục đích thề quyết không thôi. Cứ như vậy đi đi lại lại hơn hai mươi ngày, kết quả là đạt được sở nguyện, nhìn thấy Phật hiện trong ánh hào quang, và tôi toại nguyện trở về”.

Vị Pháp sư này nếu không có lòng chí thành và kiên trì nhẫn nại thì không thể mỗi ngày mất công đi đi lại lại mấy chục dặm đường, và không thể thấy Thánh tượng được. Qua việc này, nếu chúng ta không có phúc đức, nhân duyên, đi một lần không thấy, quyết không thể vì thế mà nản lòng, và cũng không thể coi đó là thần thoại mê tín, và càng không thể vì thế mà bỉ báng đạo Phật. Chúng ta phải biết hối hận sâu sắc, nghiệp ác và lỗi lầm kiếp trước, chỉ khi nào tiêu được nghiệp, trừ được chướng thì chúng ta mới có thể thấy được Thánh tượng như người khác. Nếu chúng ta không biết tự trách mình, cứ đi bỉ báng đạo Phật thì tội lớn lắm, phải chịu quả báo, chớ có oán trời trách người.

  1. KHÔNG CÓ NHÂN DUYÊN ĐƯỢC THẤY PHẬT

MỞ MIỆNG NÓI SẰNG, CHỊU ÁC BÁOTại sao kẻ cầm bút này lại nói như vậy với độc giả, mục đích cũng chỉ nhằm nói với các vị chưa đến Phổ Đà cũng như đã từng đến Phổ Đà, nhưng chưa được thấy Bồ tát thị hiện, rằng chớ nên vì chưa được toại nguyện mà tùy tiện bỉ báng, e rằng phải chịu những hậu quả cực kỳ bất hạnh. Nay tôi xin kể một truyện về một người do không tin Phật pháp, mở miệng chửi bừa, cuối cùng phải chịu quả báo rất xấu, để quý độc giả nghe.

Vào khoảng mùa thu năm 38 Dân Quốc, lúc đó thời cuộc rất căng thẳng. Thượng Hải, Ninh Ba lần lượt bị mất, hầu như phải rút về Chu Sơn để tự vệ, cho nên các đảo lớn ở Chu Sơn đều đóng quân dầy đặc từ các nơi rút về, nhất là các dảo chính vùng Chu Sơn, rồi Thẩm Gia Môn đều trở thành doanh trại, khắp nơi nhan nhản quân lính. Thẩm Gia Môn với núi Phổ Đà đối diện nhau, thuyền buồm chỉ hai tiếng đồng hồ là có thể đến, nơi đây đông thời là yết hầu quan trọng ra vào núi Phổ Đà, cho nên quân đội đóng ở Thẩm Gia Môn thường đi thuyền buồm vào Phổ Đà thăm chùa và du ngoạn thắng cảnh cổ tích. Một hôm vào buổi chiều, có một toán sĩ quan, binh sĩ vào núi thăm cảnh chùa. Sau khi thăm Chùa Trước và Chùa Sau, họ từng lớp từng lớp vào động Phạm Âm để xem Bồ tát ứng hiện.

Trong đám người này, có các loại trí thức trình độ khác nhau, tín ngưỡng khác nhau, có cả tín đồ Phật tử chân thành, họ thành tâm đốt hương lễ bái cầu khẩn, một lòng mong muốn được Bồ tát từ bi tiếp dẫn, và được nhìn thấy Bồ tát hiện thân trong ánh hào quang. Cũng có một loại, thấy người khác lễ thì mình cũng lễ, thấy người khác quỳ thì mình cũng quỳ, nghĩa là chẳng có ý định gì mà chũng chẳng phản đối, Ngoài ra, có một loại phần tử nguy hiểm, chịu ảnh hưởng của một nền giáo dục “mới”, nhiễm vào người một vài lọ mực tây, đọc được một vài cuốn duy vật lịch sử, hoặc gì gì đó, thuộc loại tri thức tự kiêu, tự mãn, tự cho mình là phái tân học, trong đầu đám người này lúc nào cũng cho rằng thờ cúng, lễ chùa, tín ngưỡng tôn giáo đều là loại mê tín dị đoan, ngu si mê muội. Còn người sĩ quan là tín đồ Phật giáo kia thì cho rằng đây là một dịp kỳ ngộ hiếm có, dù cho không có thời gian đến các bậc thiện tri thức để thỏa ước muốn tầm sư học đạo, nhưng không thể “đã đến núi báu mà về tay không” được, cho nên họ phát tâm chí thành tha thiết cầu Phật phù hộ, thị hiện để họ được thấy. Còn loại sĩ quan tự cho mình là loại tân học, họ quá chủ quan, nhìn Phật giáo với con mắt coi thường, tò mò, đến Phổ Đà chỉ là để du sơn ngoạn thủy. Căn bản trong đầu óc của họ phủ nhận có Bồ tát, cho nên tuy cùng đến Phổ Đà, cũng thăm động Phạm Âm, nhưng do tâm tư khác nhau mà điều họ trông thấy cũng khác nhau.

Trong đám sĩ quan nói trên, có một người, như đã nói ông ta không tin gì cả, cho nên người khác đều thấy Bồ tát hiện thân, còn ông ta chẳng thấy gì. Những người được thấy Bồ tát thì rất vui mừng, kinh ngạc, khấn lễ tỏ lòng cung kính, có người mừng quá, cảm động chảy cả nước mắt, thậm chí khoa chân múa tay, ca tụng không ngớt, cho là phải có phúc đức lắm mới được thấy Bồ tát, thật là quý hóa biết chừng nào! Bởi vì trong đoàn người đi xem, chỉ có một người không thấy gì, ông ta vì nghiệp chướng sâu nặng, cho nên bị các bạn khác chê cười và cho là ông ta không có phúc, không có nhân duyên với Phật, ông ta nghe họ nói, trong lòng tức quá, nói bừa:

– Các anh là những kẻ mê tín dị đoan, đúng là ban ngày thấy ma quỷ, trên đống đá vụn ấy làm gì có cái quái gì,các anh chỉ bịa đặt đẻ mê hoặc người khác. Các anh đang sống ở thế kỷ nào mà không biết à! Thế kỷ 20, ở thời đại nào? Thời đại nguyên tử! Ai cho phép các anh, đám người ngu xuẩn mê tín tôn giáo, nói láo để đánh lừa dân chúng? Các anh bảo thấy Bồ tát hiện thân, tại sao tôi không thấy? Có lẽ các anh thấy ma thì có!

Đám đông nghe anh ta nói, tức lắm, bèn tranh luận:

– Anh không biết tự tách mình nghiệp chướng nặng, phúc mỏng đức kém, không có nhân duyên thấy Bồ tát, khác gì người mù không thấy mặt trời, không thấy mặt trời là vì mù, chứ không phải không có mặt trời. Tội của anh nặng thì không thể thấy Bồ tát được. Cũng không thể vì anh không nhìn thấy Bồ tát mà bảo rằng không có Bồ tát. Đáng lẽ anh nên hối hận và sửa đổi sai lầm quá khứ của anh, và phải biết tự hổ thẹn, lại còn mở miệng hủy báng Phật Tổ, anh là một con người lắm tội quá, không sám hối hết được đâu! A Di Đà Phật.

– Hừ! Tôi nói vài câu như vậy mà gọi là có tội, tôi chẳng tin có tội gì cả, bọn mê tín dị đoan, lấy yêu quái lừa bịp mọi người mới thực là có tội!

  1. CHÀNG SĨ QUAN TỎ RÕ UY PHONG BẮN PHẠM ÂM, THỎA CƠN TỨC GIẬN

– A Di Đà Phật! Anh này càng nói càng sằng bậy. Chính mắt chúng tôi được trông thấy Bồ tát hiện hình, đó là sự thật, chẳng lẽ chúng tôi hoa mắt hay sao? Anh không biết tội của anh nặng biết chừng nào, lại còn bảo chúng tôi gặp ma, vậy anh cho Phật, Bồ tát là ma quỷ ư? Đúng là không sợ nhân quả, xuống địa ngục, ắt phải chịu quả báo!

– Tôi cũng chẳng tin có nhân quả, đó đều là lời lẽ của đám tín đồ mê tín các anh lừa bịp kẻ ngu si, làm gì có quỷ thần họa phúc, luân hồi, địa ngục! Tôi bài trừ mê tín, không những dám nói, mà còn dám bắn nữa đấy! Nếu có Phật, Bồ tát hiển thánh thực, thì các anh cứ khấn Phật, Bồ tát của các anh, làm sao cho tôi bị quả báo đi xem nào! Lúc đó tôi tin!

Nói xong anh ta giơ súng bắn ba phát về phía động, bắn xong, với giọng kiêu hãnh, anh nói:

– Tôi chờ đây, xem có Phật, Bồ tát nào không, tôi có bị quả báo không nào!

Anh ta tự đắc khoát súng lên vai, lúc đó có mấy tín đồ Phật tử sợ quá, cho là anh này điên mất rồi, hoặc bị bệnh tâm thần cũng chưa biết chừng. Thấy vậy, chẳng ai dám nhiều lời với anh ta nữa. Thấy trời cũng đã muộn, mọi người kéo nhau về núi Trước, xuống thuyền trở về Thẩm Gia Môn, anh chàng bắn súng chửi Phật nọ cũng xuống thuyền ra về.

  1. HIỆN ÁC BÁO XÁC NỔI TRÊN BIỂN HỒN XUỐNG LONG CUNG, GẶP THỦY TỀ

Thuyền đi được khoảng một tiếng, không biết thế nào, cây súng các-bin đeo trên vai của chàng sĩ quan nọ tự nhiên rơi xuống biển. Như chúng ta đều biết, súng đối với người quân nhân là sinh mạng thứ hai, tuyệt đối không được đánh mất. Cho nên khi súng rơi xuống biển, anh ta hoảng hốt như người hồn lìa khỏi xác, anh ta hô hoán ầm ỉ, đáng lý súng trường sắt nhiều gỗ ít phải chìm lỉm ngay, nhưng không biết có quỷ thần sai khiến hay sao, cây súng không chìm, mà cứ nổi lềnh bềnh trên mặt nước, trôi theo thuyền, lúc này anh chàng sĩ quan nọ lại cho mình là gặp đại hồng phúc, bèn cúi xuống mạn thuyền với tay vớt khẩu súng lên, chắc mẩm chuyến này sẽ trở về yên ổn vô sự, nào ngờ anh ta vừa với tay dướn mình, bỗng nhiên không làm chủ được mình nữa, ngã tòm ngay xuống nước, người trên thuyền trông thấy nhưng không sao cứu kịp nữa. Một cơn sóng biển dồn đến, thế là chàng sĩ quan nọ cùng với khẩu súng các-bin cuốn theo sóng, không còn thấy tăm hơi đâu nữa. Chắc cái con người hủy báng Phật, bài trừ mê tín thậm chí để tỏ oai phong, còn bắn ba phát vào động Phạm Âm nọ, lúc này đang báo cáo có mặt dưới Long cung rồi.

Kể cũng lạ, sáng sớm hôm sau, xác anh ta bỗng nổi lên trôi dạt về phía cửa động Phạm Âm. Từ bến đò đến cửa động phải cách đến hai dặm, khi mọi người thấy xác anh ta, bỗng phát hiện bị cá biển ăn mất một chân. Thế là câu chuyện quả báo truyền đi cả đảo, các đơn vị quân đội đóng ở Phổ Đà không có ai không biết chuyện này. Hồi đó tôi cũng ở núi Phổ Đà, sau khi truyện xảy ra, những người cùng đi với anh chàng sĩ quan nọ kể lại cho tôi nghe, sau này có người vẫn còn thắc mắc đến xin được giải thích, họ hỏi: “Quán Thế Âm Bồ tát đại từ đại bi, nghe tiếng kêu khổ của chúng sinh mà tế độ, mới chửi mắng vài câu, bắn ba phát mà Bồ tát cũng bực tức như kẻ phàm phu, nhẫn tâm xử anh ta tội chết”.

Tôi trả lời: “Lời anh nói mới nghe như có vẻ có lý, nhưng Phật giáo chủ yếu nhất là nhân quả, tục ngữ có câu: “Trồng dưa hái dưa, trồng đậu hái đậu”. Tự trồng nhân ác thì gặt quả ác, đó gọi là tự làm tự chịu. Mạnh Tử cũng nói: “Trời tạo nghiệt còn có thể tránh được, tự mình tạo nghiệt thì không thể sống được”. Đồng thời ta phải hiểu rằng, Quán Thế Âm Bồ tát vẫn là đại từ đại bi, quyết không vì ai hủy báng, chửi rủa vài lời mà đem lòng sân si tật đố, song chốn đạo tràng ở những danh sơn trong Phật giáo, thường có các vị thần tướng Hộ pháp ngầm bảo vệ danh sơn, hộ trì đạo tràng, thưởng thiện, phạt ác đó là trách nhiệm phải làm của thần Hộ pháp. Nếu trong Phật giáo, ở chốn đạo tràng, nơi danh sơn, không có các Kim cương dùng thần lực làm cho đám ma tà ác quỷ phải hàng phục để hộ trì Phật pháp, thì làm sao có thể tồn tại đến ngày nay, phải bị bọn ma quỷ ngoại đạo phá hoại tan tành từ lâu rồi chứ!

  1. HUYỆN TRƯỞNG HỌ VƯƠNG HỦY TƯỢNG PHẬT THẦN HỘ PHÁP NỔI CƠN LÔI ĐÌNH

Bây giờ tôi xin kể một câu chuyện để chứng minh lời tôi nói khong sai. Năm Chính Đức triều Minh, có một ông quan huyện họ Vương ở huyện Giang Âm, ông là một người hết sức thô bạo, xưa nay vốn không tin Phật. Một hôm ông triều tập các quan viên dưới quyền, nhưng không ai đến, ông tức lắm. Hôm đó, ở chùa Quán Âm gần đấy đang có pháp hội Quán Âm, trong chùa có một bức tượng Quán Âm bằng gỗ trầm hương rất thiêng. Chính hôm đó các quan viên trong huyện đều đến dự pháp hội, ông biết truyện, liền nổi cơn thịnh nộ, đùng đùng đến chùa phá phách, đốt tượng. Một hôm trong buổi làm việc, quan huyện tự nhiên thấy ngực đau nhói, thuốc gì uống vào cũng không hạ được cơn đau, ông biết đó là do đốt tượng nên mới bị như vậy, bèn thỉnh một vị cao Tăng đến làm lễ để xin sám hối. Thầy Tăng giải thích: “Hào quang Bồ tát phổ chiếu thập phương, cái thân huyễn ảo của ngài còn vứt bỏ, có đâu lại chỉ vì một bức gỗ mà giận dữ làm khổ người khác? Nhưng các thần Hộ Pháp muốn thực chứng quả báo hiện tiền, e rằng khó tránh!” Quả nhiên ông quan huyện đó thuốc thang chạy chữa mà không sao qua khỏi, đành chịu bỏ mạng.

Từ câu chuyện ngài sĩ quan nọ rớt xuống biển chết đến câu truyện ông quan huyện này hủy tượng mà phải chịu bỏ mạng, đều là do các thần Hộ Pháp trừng phạt kẻ ác cả! Vậy tôi xin khuyên các vị, nếu chưa tin Phật thì cũng chớ nên hủy báng Phật. Phật, Bồ tát tuy đại từ đại bi bao dung độ lượng, nhưng lại đụng chạm đến các vị thần Hộ pháp hay tức giận, các ngài ấy không chịu tha ai bao giờ. Đến lúc đó e rằng hối cũng không kịp, mong các vị sau này hãy lấy đó làm răn.

  1. THẦY HÒA THƯỢNG BIẾT TRƯỚC TƯƠNG LAI DẶN ĐỆ TỬ GIỮ XƯƠNG LÀM TƯỢNG

Hồi tôi chưa đến Phổ Đà, cũng đã từng nghe thấy có người nói rằng: “Núi Phổ Đà có tượng Quán Âm Bồ tát bằng xương bằng thịt thật như người thường, sau ngài tu hành đắc đạo rồi mới biến thành hình tượng”. Truyền thuyết đó cho đến nay vẫn có nhiều người cho là có thật. Tôi cũng từng nghe nhiều người thắc mắc hỏi tôi: “Pháp sư ở núi Phổ Đà có trông thấy tượng Quán Âm bằng xương bằng thịt thật bao giờ chưa…”. Lời đồn ấy, người nọ truyền cho người kia, càng truyền câu chuyện càng trở nên ly kỳ, ly kỳ hơn cả những điều tôi được mục kích. Về truyện thắc mắc này, nay tôi xin kể một truyện có thực để phá tan những mối nghi ngờ đó.

Trước đây, vào đời Thanh, có một Hòa thượng già rất có đức hạnh, công phu thiền định của Thầy cũng rất cao, Thầy thọ hơn chín mươi tuổi. Đệ tử của thầy cũng khá đông. Một hôm, đúng vào cái giờ thầy biết trước, bèn gọi các đệ tử đến dặn lại: “Sau khi ta chết, đừng hỏa táng, hãy để ta ngồi tọa trong chiếc bồn rồi đem chôn. Sau ba năm đào lên, mở nắp hòm nếu thấy thi thể của ta bị hủy hoại thì thôi, nếu hình hài vẫn còn nguyên vẹn như lúc sống thì các con thỉnh ta ra nạm vàng tạc tượng, đặt thờ ở cửa động, để mọi người đến lễ bái cúng dường”.

Đệ tử thầy làm đúng theo lời dặn. Sau ba năm đào bồn lên, mở nắp quả nhiên hình hài của thầy vẫn nguyên vẹn, dung sắc như lúc sống, y như người sống dang ngủ. Đồ đệ của thầy và các tín đồ bèn thực hiện đúng lời di chúc của thầy, đem nạm vàng thành tượng. Đến nay đã mấy trăm năm rồi, bức tượng vẫn còn, bức tượng đó đúng là trong xương ngoài da, ngồi phu tọa trên một tòa sen cao hơn một thước. Do đó người đời sau đặt tên là Cổ Phật Động. Bức tượng bằng xương bằng thịt đó chính là thầy Hòa thượng, chứ không phải là tượng thật của Quán Âm Bồ tát nào cả, mà cũng chẳng phải là những lời truyền thuyết nói rằng đó là Quán Âm Bồ tát tu luyện đắc đạo.

  1. LÁI ĐÓ BẮT CHẸT KHÁCH HÀNH HƯƠNG BỒ TÁT THỊ HIỆN NỐI BỜ SUỐI

Nghe nói, trước đây Phi Sa Áo (bến đò cát bay) là một con suối nhỏ, không có thuyền thì không qua được, do đó, thiện nam tín nữ muốn vào động Phạm Âm dâng lễ, nhất định phải lụy con đò ở bến này. Ông lái đò nhân đó bắt chẹt khách hành hương, ai qua đò cũng phải nộp một khoản tiền, nếu trong túi không có một xu nào thì chỉ có đứng bên bờ này nhìn sang Đông mà thở dài. Có nhiều nhà Sư nghèo từ xa đến hành hương nơi đây, họ vượt qua bao đường đất đến đây để được thấy Quán Thế Âm Bồ tát, nhưng bị cách trở bởi một con suối, trong túi lại không có tiền, đành cứ đi đi lại lại, ngưỡng vọng từ xa vậy chứ biết làm sao? Ông lái đò là một con người tham lam, không có lòng từ bi, ai không có tiền, ông dứt khoát không cho sang, từ đó có nhiều Phật tử tín đồ chân thành bèn khẩn cầu Đại sĩ từ bi phát tâm hiển thánh trừ giúp trở ngại này, để mọi người đều được thấy Thánh tượng Bồ tát thị hiện.

Một hôm bỗng có một nhà sư nghèo muốn qua suối, nhưng không nộp tiền đò, ông lái đò dứt khoát không cho qua, thế là đâm ra to tiếng. Nhà sư nghèo nói: “Ông ác quá đấy! Lấy tiền đò thì cũng nên xem người ta có tiền không chứ! Đối với người nghèo quá thì nên từ bi làm việc thiện, còn đối với người có tiền thì hãy lấy, bọn nhà Sư nghèo như chúng tôi đây làm gì có tiền, mà không có tiền thì không qua suối được, không được xem Bồ tát Quán Âm thị hiện. Ông ác quá chừng, xuống địa ngục tội lớn lắm đấy!” Ông lái đò nói: “Không sang thì thôi, muốn sang thì phải có tiền, không tiền thì xin ở lại!” Nhà sư nói: “Tôi sẽ không thèm đi thuyền của ông, rồi ông xem tôi có sang được suối không nhé! Kia kìa! Bên kia đang có một chiếc thuyền đang sang đón chúng tôi đó”. Ông lái đò ngoái cổ lại xem, thừa lúc đó nhà sư bèn vốc một nắm cát rắc xuống suối, chỉ một loáng sau biến thành cái bến cát nối liền sang bờ bên kia, cát bay phủ kín cả chiếc thuyền của ông lái đò. Từ đấy trở đi, qua suối không phải ngồi đò nữa, mọi người đều hiểu ngay đó chính là Bồ tát thị hiện. Và cũng từ đó, ông lái đò chuyên bắt chẹt khách kia cũng không còn bắt chẹt được ai nữa.

  1. TRUNG SƠN QUỐC PHỤ THĂM PHỔ ĐÀ BỒ TÁT THỊ HIỆN THÂN CHUYỂN XE PHÁP

Tháng tám, Dân Quốc năm thứ 5, Quốc phu Tôn Trung Sơn tiên sinh cùng với Hồ Hán Dân, những người đồng chí của mình đến Phật Đỉnh Sơn, Quốc phụ đã chính mắt thấy những điều linh dị, nay xin chép lại đây đoạn văn chính tay Quốc phụ viết trên nhan đề “Du Phổ Đà chi kỳ” (những điều kỳ lạ ghi lại nhân chuyên đi thăm Phổ Đà) để bạn đọc thưởng thức: “Nhân đi thị sát núi Tượng, quân cảng Chu Sơn, tiện đường qua thăm núi Phổ Đà, cùng đi có Hồ Hán Dân, Đặng Mạnh Thạc, Chu Bội Tiên, Chu Trác Văn và Trần Khứ Bệnh, bí thư Ty Dân chính tỉnh Chiết Giang, Nhậm Quang Vũ Hạm đội trưởng quân hạm Kiến Khang, chúng tôi ngồi trên quân hạm đến Phổ Đà Sơn, trời đã xế chiều, đoàn người kéo nhau lên bờ, gặp Sa môn Đạo Giai chùa Pháp Nguyên Bắc Kinh, chúng tôi được dẫn đến nghỉ chân ở chùa Phổ Tế, do trụ xứ chùa dẫn đi thăm, suốt dọc đường, núi đá thiên hình vạn trạng, bãi cát rừng cây như đón tiễn du khách.

Quanh co lên xuống hồi lâu, đã đến đài Thiên Đăng (Đèn Trời) của Phật Đỉnh Sơn. Từ trên đỉnh núi phóng tầm mắt nhìn ra phía xa, chân nhẹ bước, lòng bồi hồi, vòng vèo hồi lâu đã đến chùa Tuệ Tế, đến đây cảnh kỳ quan hiện ra trước mắt, cổng lầu Tam Quan trước cửa chùa hùng vĩ tráng lệ, sừng sững ẩn hiện trong làn mây, cờ phan tung bay trước gió, vài chục nhà sư đứng thành từng tốp như đang chờ khách, cảnh trang nghiêm khó tả, bỗng có một chiếc bánh xe hiện lên, càng đến gần càng thấy rõ, bánh xe quay rất nhanh, không nhìn rõ bánh xe làm bằng gì và sức mạnh nào đẩy bánh xe quay. Đang định hỏi rõ nguyên do, thì bánh xe bỗng nhiên tan biến không biết đi đâu.

Vào đến chùa Tuệ Tế, hỏi những người cùng đi họ đều nói không thấy gì. Nghe nói vậy, trong lòng càng làm lạ. Trong đầu óc tôi, vốn không có tư tưởng thần dị, nhưng rõ ràng đây là một cảnh giới khác thường linh dị, khi nhìn quanh đài Phật Đỉnh, ngẩng lên bầu trời, nhìn xuống vực thẳm, tựa hồ như cả vũ trụ nằm trên bàn tay. Bầu trời xanh biếc, sóng bạc rập rờn, gió nhẹ đong đưa làn mây cuốn, thuở bình sinh tôi đã đi nhiều, nhưng chưa thấy nơi nào thanh thoát hơn đây. Tai nghe tiếng sóng triều dâng, lòng như hòa chung với biển, thân như ảo ảnh hòa tan trong vũ trụ bao la, hình ta biến đi đâu mất, ý ta tiêu tán nơi nao, ôi, tâm cảnh ấy đang như sống trong mơ, bất giác đã xuống đến chân núi Phật Dỉnh, qua chùa Pháp Vũ rảo bước đến động Phạm Âm trong tiếng chuông ngân. Cảnh u linh buổi chiều hôm ập xuống, đoàn người vội vã trở về chùa Phổ Tế, nghe nhà sư Liễu Dư, Đạo Giai mạn đàm Phật lý, tâm cảnh lân lâng, như bay bổng trong không gian vô tận.

“Dân Quốc năm thứ 5, tháng tám, ngày 25, Tôn Văn ghi”.Lời dẫn: Bút tích của Quốc phụ và vật báu nay được đặt trang trọng ở nhà khách của chùa Phổ Tế. Hồi tôi làm tri khách ở nhà khách chủa Phổ Tế, có nhiều quan chức cao cấp của chính phủ ngưỡng mộ mà đến xem bút tích của Quốc phụ, nhân đọc bài ghi của Quốc phụ tự thuật những điều mắt thấy, những truyện ly kỳ thần dị, có người vốn không tin đạo Phật cũng phải tỏ lòng kính ngưỡng, tin theo. Những người là tín đồ Phật tử càng thêm kiên định Quốc phụ xuất hiện không phải là tư cách của một vương giả, mà còn thuyết pháp cho các bậc đại thần văn võ, có lẽ Bồ tát tỏa ánh hào quang thị hiện ngay trước mặt Quốc phụ, có thể là như vậy chăng? Trong bài văn của Quốc phụ có câu: “Trong đầu óc tôi, vốn không có tư tưởng thần dị, nhưng rõ ràng đây là một cảnh giới khác thường linh dị…” Rõ ràng đây không phải là một câu nói của những người không tin đạo Phật, cho rằng đó chỉ là một hiện tượng tâm lý, thần kinh quá ư nhạy cảm mà thôi. Họ muốn phủ nhận sự linh dị chính mắt Quốc phụ trông thấy, họ cho rằng Quốc phụ sẽ nghĩ mình đường đường là một bậc đại trượng phu, giữ trọng trách là một nguyên thủ của một quốc gia, đâu lại tin vào những thứ mê tín cũ rích của Phật giáo, viết ra như thế thì sẽ hạ thấp danh giá của mình. Nhưng, Quốc phụ không những không nghĩ như vậy, mà còn viết rất kỹ lưỡng những gì mình đã trông thấy, không để sót một chi tiết nào. Quốc phụ cũng không sợ ai nói mình là tư tưởng thủ cựu, mê tín Phật giáo. Tôi nghĩ, có lẽ trong đám độc giả của chúng ta không có ai cho rằng người viết đoạn văn trên sẽ hạ thấp giá trị của mình. Ở đây tôi mong các độc giả không theo Phật giáo cũng nên có một tấm lòng rộng mở khách quan như vậy. Đó cũng là tấm lòng cũng như sự mong muốn của tôi.

  1. QUỐC PHỤ THĂM PHỔ ĐÀ THUẬT LẠI TRUYỆN THẦN DỊ

Mùa hạ năm Bính Dần, Hộ Quốc Quân dành thắng lợi, Viên Thế Khải chết đột ngột. Lê Nguyên Hồng lên thay chức Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc, cuộc cách mạng của đảng ta kết thúc một giai đoạn. Lúc đó, Quốc phụ đang ở Thượng Hải, khẳng khái nói rằng: “Chuyến này Lê Công ra nhậm chức, thiên hạ sẽ ổn định!” Thấy bọn quân phiệt Bắc Dương đang rục rịch chờ thời gây hấn, chúng tôi thong dong trong khoảng núi sông, lặng lẽ theo dõi thế sự đổi thay. Ít lâu sau, chúng tôi có dẫn các vị Hồ Hán Dân, Đặng Gia Nhạn, Phùng Tự Do, Đán Hy, Đới Thiên Thu, Chu Trách Văn, Chu Bội Tiên… đi thăm các vùng phía đông và phía tây tỉnh Chiết Giang, đô đốc Chiết Giang là Lã Công Vọng và Trương Nhạc mở tiệc đón tiếp, Đới Thiên Thu uống quá chén, say li bì đến tận hôm sau chưa tỉnh, bỏ cuộc đi thăm Tây Hồ, hai vị Phùng và Đáng cũng vì bận việc không tới Hàn Châu được, Quốc phụ bèn bảo các vị Hồ, Đặng, Chu, Chu cùng đi, có Trần Khứ Bệnh bí thư dân chính tỉnh Chiết Giang được sự giới thiệu của Đặng Gia Nhạn cũng đi theo. Thế là đoàn người vượt Tào Nga, qua Vũ Huyệt, tới vùng Ninh Ba Trấn Hải, rồi đến Phổ Đà.

Núi Phổ Đà là chốn danh lam thắng cảnh của đất Nam Hải, sông núi thanh u, cây cỏ um tùm, đi trong cảnh đó có cảm tưởng như đang lâng lâng ngoài cõi tục.

Ngày hôm đó, Quốc phụ đáp xe riêng đi trước, các vị khác đến sau. Đến Quán Âm đường (tức chùa Tuệ Tế ở Phật Đỉnh Sơn), đi khoảng một dặm đến một khu rừng rậm. Quốc phụ bỗng nhìn thấy mấy nhà sư, chắp tay trước ngực, dáng như chờ đón khách, cờ phan phấp phới như ẩn như hiện, sau rừng cờ có hiện lên một vị Tôn thần. Quốc phụ chăm chú nhìn kỹ thì bỗng nhiên mọi thứ đều tan biến trong bầu không gian huyền ảo, không còn để lại dấu vết gì. Quốc phụ hỏi từng người cùng đi: “Các vị chắc cũng trông thấy chúng tăng tụ họp trong rừng rậm, lập đạo tràng đấy chứ? Cờ phan phấp phới, y hệt như những lá cờ treo trên nóc chùa”. Quốc phu vừa nói vừa chỉ về phía trước, mắt còn như đăm chiêu nhớ lại cảnh đã hiện ra trong giây lát vừa qua. Các vị cùng đi ngơ ngác, không biết trả lời sao. Lát sau Hồ Hán Dân dặn riêng mọi người chớ nên nói rộng việc này, e rằng mọi người lại lan truyền không lợi. Và sau đó cũng không ai dám tùy tiện bàn luận việc dó nữa.

Dân Quốc năm thứ 14, Quốc phụ mất, tôi đang ở Bắc Kinh, nghe mọi người đều truyền tụng rằng kiếp trước Quốc phụ là Động Thiên Cổ Phật, việc đó có liên quan đến việc Quốc phụ thấy Phật ở Phổ Đà Sơn. Ít lâu sau, một tờ tạp chí cho đăng bài “Phổ Đà Sơn du ký” (Ký sự chuyến đi thăm núi Phổ Đà) của Trần Khứ Bệnh viết, từ ấy đến nay, việc cũng đã qua, cảnh vật cũng nhiều thay đổi nên cũng không có thì giờ truy cứu lại tạp chí của Trần Khứ Bệnh, bất đồ gần đây lại phát hiện bút tích của Quốc phụ! Ôi! Thật là kỳ lạ! Bút tích của Quốc phụ ai ai cũng biết, có người cho đó không phải là nét chữ của Quốc phụ. Tôi với Trần Khứ Bệnh là bạn cũ với nhau, chữ của Trần quân là phỏng bút pháp của Tô Đông Pha, nhìn qua là nhận ra ngay, tôi có thể nói chắc chắn rằng: Đó không phải là chữ của Quốc phụ. Có người lại cho rằng: Quốc phụ sai thư ký của mình chấp bút, nói như vậy cũng chỉ là dự đoán. Tôi cho rằng không phải như vậy. Nếu đúng như vậy thì phải có chữ ký như đã thấy ở các quyển khác. Nay không thấy có, mà câu truyện lại lưu truyền sau khi Quốc phụ mất, lẽ nào người chết lại có thể gặp thư ký của mình đẻ bảo chấp bút giúp được chăng? Cho nên tôi có thể khẳng định lại một lần nữa là: việc Quốc phụ trông thấy điều thần dị là có thật, riêng bút tích của người thì rõ ràng là ngụy tạo.

Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 42 tháng 10

Đặng Gia Nhạn (Quế Lâm) viết tại Nhất Chi Lô Đài Bắc.

  1. BÚT TÍCH TIÊN SINH AI NGỤY TẠO THỬ TÌM LAI LỊCH RÕ THỰC HƯ

Nay xin đưa ra đây những lời dẫn của Pháp sư Ấn Thuận trả lời về vấn đề nói trên, để độc giả tham khảo, để chứng minh việc này không phải là người đời sau ngụy tạo.

Về bài “Phổ Đà Chí Dị” của Tôn Trung Sơn tiên sinh, có người cho rằng do Trần Khứ Bệnh viết thay, có người không tin là như vậy. Nhưng dù là thật hay giả, thì việc thấy điều thần dị ở núi Phổ Đà là điều không thể phủ nhận được. Tôi đọc bài viết của Triệu Quân gửi đến, nghĩ đến những lời giải thích mà tôi đã được nghe, nên có giữ lại bài đó để làm tài liệu tham khảo trong việc khảo cứu bài văn đó.

Dân Quốc năm thứ 23, vào cuối tháng 5 âm lịch, tôi từ Vũ Viện về Phổ Đà, lên Duyệt Tạng Lâu (Lầu đọc tạng kinh) ở Phật Đỉnh Sơn để đọc kinh tạng, Tri khách là sư Nguyệt Tỉnh và Tụng Lai, đến nói với tôi rằng gần đây Phổ Đà Sơn mới phát hiện bút tích của Quốc phụ. Thầy cầm bức ảnh đưa tôi xem, tôi có hỏi kỹ quá trình phát hiện bút tích, nghe ra cũng có tình có lý. Nên tôi mới viết một bài văn ngắn cho đăng trên “Phật Giáo Nhật Báo”.

Sự việc là như thế này, vị đại Tri khách Vạn Tùng ở Chùa Trước, tuy là người nơi khác đến, nhưng ở Phổ Đà rất lâu, rất quen thuộc mọi việc ở đây. Mùa hè năm ấy, nhận chức trụ trì ở Am Tịnh Độ, Am Tịnh Độ thực sự chỉ là một ngôi miếu nhỏ tương đối vắng vẻ hoang vu, một dịp tiếp khách, Vạn Tùng có đưa ra tài liệu này. Người trụ trì của Am Tịnh Độ, tôi không nhớ tên, tại sao lại có được tài liệu này? Nghe nói Tôn Trung Sơn tiên sinh, khi thăm núi Phổ Đà, hồi đó Phương trượng của Chùa Trước là Hòa thượng Liễu Dư, hình như cũng cùng dẫn đoàn người đi thăm các nơi. Khi đi thăm về, ăn cơm chiều ở buồng Hòa thượng Chùa Trước, Trung Sơn tiên sinh có nói đến việc nhìn thấy cảnh thần dị, Hòa thượng Liễu Dư nhân đó xin tiên sinh viết lại ít dòng để kỷ niệm. Hòa thượng kể rằng bài “Chí Kỳ” (ghi lại điều kỳ lạ) đó là tiên sinh viết trong phòng Phương trượng ở Chùa Trước. Ngay tối hôm đó, đoàn khách rời chùa xuống núi, sau khi Hòa thượng Liễu Dư tiễn khách về, quên khuấy mất việc đó, đến sáng hôm sau hỏi lại, thì không biết tài liệu đó biến đâu mất rồi. Thì ra hồi đó có một nhà sư là Thị giả ở phòng Phương trượng, tuổi còn trẻ, chưa hiểu gì lắm, song đối với Trung Sơn tiên sinh thì lại vô cùng ngưỡng mộ, nên ông đã dấu tài liệu đó đi. Sau hai mươi năm, cuộc sống chật vật, Am Tịnh Độ cũng hoang tàn, không sao duy trì nổi, và bản thân ông cũng biết mình không còn đủ tư cách và sự cần thiết để duy trì Am nữa, nên ông đã giao lại cả tài liệu nói trên.

Lai lịch của tài liệu đó, theo sự trình bày như vậy, thì cũng có thể gọi là hợp tình hợp lý! Nếu cho là ngụy tạo, thì người trụ trì của Am Tịnh Độ về văn chương, lời lẽ cũng như nét chữ, có lẽ cũng không sao ngụy tạo nổi. Vậy thì, người ngụy tạo là ai?

Chúng tôi đọc xong hai bài giải thích của Đặng tiên sinh và Pháp sư Ấn Thuận, khiến chúng tôi càng hiểu thêm lai lịch về việc này. Theo Đặng tiên sinh thì, Trung Sơn tiên sinh đúng là có thấy truyện thần dị, lúc đó ông ta cũng có mặt, chính tai ông cũng có nghe Quốc phụ kể lại những điều kỳ dị. Sở dĩ ông viết văn phủ nhận có việc đó, có thể có hai lý do sau đây: một là ông ta cho rằng họ đều là những người của một đảng cách mệnh, không nói những truyền “thần linh quái đản” mà phải bài trừ mê tín dị đoan, cho nên không chủ trương tuyên truyền đề cao việc đó được! Hai là ông lại là con chiên của tín đồ đạo Cơ Đốc, rất không muốn Quốc phụ “nói ra bằng lời, viết ra bằng bút” về những điều linh dị của đạo Phật mà người đã thấy, như vậy sẽ tăng thêm tín độ Phật giáo. Cho nên ông phải phủ nhận tài liệu đó là ngụy tạo.

Nhưng Pháp sư Ấn Thuận đã giải thích kỹ lưỡng về lai lịch sự việc lý bấy giờ, để chứng minh rằng bài văn đó đích thực là bút tích của Quốc phụ, nếu nói là ngụy tạo, thì ai là người ngụy tạo? Từ đó, chúng ta càng tin tưởng đối với bút tích của Quốc phụ.

  1. MÁU QUÂN NHẬT DÂY BẨN DANH SƠN TỰ BIẾT TỘI RÚT QUÂN TỨC KHẮC

Thời kháng chiến, người Nhật chiếm đóng khắp trên đất nước Trung Hoa. Dân Quốc năm thư 32, hồi tháng 7 có khoảng bảy, tám ngàn quân Nhật đóng ở Phổ Đà. Các am ở ven biển đều cs quân Nhật chiếm đóng. Quân lính thì cắm trại trên bãi biển, cho nên đối với các chùa chiền trên núi chúng cũng không phá phách gì. Song hàng ngày chúng lùng sục khắp các đảo nhỏ kiếm trâu bò gà vịt dê cừu, đem lên núi giết thịt, dây bẩn chốn danh sơn (trước khi quân Nhật đến đây, trên núi lúc nào cũng trai tịnh). Bỗng có một buổi tối, bên tảng đá Thiện Tài, phát hiện có ánh đèn, chúng bèn chiếu đèn pha để kiểm tra, trong đám mây mù chúng cảm giác như thấy có chiến hạn của quân đồng minh tấn công đến, chúng hoảng hốt nả pháo vào đám mây mù, nào ngờ sau đó chúng thấy chỗ nào cũng có đèn nổi lên, di động trên mặt biển. Quân Nhật càng tin rằng có quân đồng minh thật, bắn liền hàng loạt phi pháo vào núi. Thật là lạ, trên mặt biển bỗng xuất hiện rất nhiều đèn đỏ, di động dần về phía doanh trại của chúng trên bãi cát, đèn càng đến gần càng sáng, trông rõ cả mặt người đứng trên bờ, nhưng đèn chỉ ở trên mặt biển, không di động lên bờ, lúc đó quân Nhật hiểu ngay đó là Bồ tát hiện hóa, không muốn cho chúng phá rối đạo tràng của chốn danh sơn, chúng bèn quỳ rạp cả xuống, lễ khấn đèn đỏ. Sau đó ba ngày, thấy chúng tự động rút quân khỏi núi.

  1. LẦU ĐỌC KINH ƯU TIÊN THAM CỨU QUY ĐỊNH RÕ BIA ĐÁ CÒN GHI

Phật Đỉnh Sơn còn có tên là Bạch Hoa Sơn, hoặc là Bồ tát Đỉnh, nằm giữa bốn ngọn núi, cao tới 116 trượng. Đứng trên đỉnh cao nhìn về phía xa, biển trời mênh mông “có cảm giác như cả vũ trụ nằm trên bàn tay” (lời Quốc phụ), nhìn phía dưới, ánh hồng phản chiếu có ngọn núi in bóng trên mặt biển, trông tựa như những chiếc gáo tròn úp trên vũng nước. Trước đây có ngôi đình xây bằng đá trong có tượng Phật, nay dựng thành cây đèn tháp, để chỉ hướng cho tàu thuyền qua lại. Câu “Trèo lên đài Thiên Đăng (đèn trời) ở Phật Đỉnh Sơn” của Quốc phụ viết, chính là chỉ nơi đây. Từ chỗ đài Thiên Đăng đi xuống không xa là chùa Tuệ Tế, chùa này là một trong ba ngôi chùa lớn của Phổ Đà, được xây từ thời Minh, đến năm Càn Long thư 58 mới có thêm bảo điện Viên Thông. Năm Quang Tự thứ 33 có thỉnh được các sách kinh điển đại tạng từ Bắc Kinh đưa tới, sau có Hòa thượng Văn Chánh xây dựng mở rộng, nơi đây mới trở thành ngôi chùa lớn, xếp ngang hàng với Chùa Trước và Chùa Sau, và được coi là ba tùng lâm lớn của Phổ Đà, nhưng dù sao vẫn chỉ là hàng tùng lâm con cháu mà thôi. Chùa Tuệ Tế tục gọi là Phật Đỉnh Sơn, quả là một thắng cảnh yên tĩnh, là nơi tĩnh tâm tu hành, nghiên cứu Phật điển, đất cao người vắng, là chốn đạo trang thanh tĩnh nhất của cả vùng núi Phổ Đà. Quy mô cũng rất khả quan, Lầu Kinh Tạng sạch sẽ khang trang, thiết bị đầy đủ, hoàn thiện hơn hẳn các nơi khác, có nơi riêng đủ cho tám người ngồi đọc kinh tạng thường xuyên, đặt ra chế độ ưu tiên, như Ấn Thuận Pháp sư là bậc đại sư Phật học đương đại, là người đã từng đọc kinh tạng ở đây mấy năm liền, người đi sâu vào kinh tạng, nên trí tuệ của người mới được uyên bác như ngày nay.

Năm Dân Quốc thứ 36, tôi đến núi Phổ Đà, thấy có bia đá khắc chữ, ưu đãi những ai đến đọc kinh tạng, cho nên cũng rũ mấy vị đồng đạo cùng học đến Phật Đỉnh Sơn xin đọc. Sở nguyện của chúng tôi định ở đây ba năm, được thầy trụ trì chùa này nói rõ các chế độ ưu đãi đối với người đọc (theo quy định thì cứ tám vị Pháp sư đến đọc sẽ được cúng dàng người phụ dịch trà nước, phí tổn là trích từ mấy mẫu ruộng thì điền hộ pháp cung ứng, ngoài ra còn cúng dàng người đọc ở lại ăn uống, cho nên lầu đọc kinh này dường như không liên quan gì đến chùa cả, vì đó là người trước phát nguyện cúng dàng Tăng chúng thập phương ở lại đó để đọc kinh tạng, con cháu của bản tự không được chiếm dụng, có lời văn khắc trên bia đá minh chứng, điều đủ thấy người xưa hết lòng vị pháp, thành tựu Tăng tài). Có lầu đọc sách tốt như vậy cộng thêm có những quy định rõ ràng, có thể nói là hiếm có trong cả nước, nhưng thời ấy chúng tôi đến đó, trai lương của thường trụ không đủ, không thể làm theo quy định của người xưa, đời sống quá ư đạm bạc, nên khó duy trì ở mãi được. Chúng tôi ở lại vài ngày bèn rời đi luôn, một mặt vì lúc bấy giờ ở Chùa Trước đang giảng kinh Pháp Hoa, nên cũng xin đến nghe giảng, do đo mà không ở lại Phật Đỉnh Sơn nữa.

  1. CHÚ TIỂU QUYẾT KHAI SÁNG TÙNG LÂM TỪ BIỆT THẦY HẠ SƠN MỘ HÓA

Nghe nói tổ khai sơn của núi Phật Đỉnh là một vị Sa Di nhỏ tuổi. Có câu truyện truyền kỳ về việc này cũng khá thú vị. Núi Sau có một cái am tên Duyệt Lĩnh Am, một trong bốn nơi có nhiều nhà lớn, và cũng là nơi con cháu đông nhất của Phổ Đà, cho đến nay về quy mô cũng như về nhân số cũng không phải là nhỏ. Một hôm, chú tiểu Sa Di ở Am Duyệt Lĩnh, nhân lúc rảnh rổi, muốn đi tham cứu núi non trong vùng, hồi đó Phật Đỉnh Sơn vẫn còn là một bãi hoang vu, cỏ mọc um tùm, một ngọn núi hoang ít người biết đến, chú tiểu Sa Di đó như một nhà thám hiểm, vượt qua những mõm đá gập ghềnh, chỉ muốn trèo lên đỉnh cao nhất để xem sao. Quả là “có chí thì nên”, chú đã leo lên được đến đỉnh núi và phát hiện một vùng đất mới ở trên đó, trên một bãi đất bằng phẳng, có một chiếc bia đá cổ vuông vắn, trên đó có khắc bốn chữ ” Tuệ Tế Thiền Lâm”. Thấy thế, chú bỗng trở nên suy tư như ngộ ra một điều gì vậy. Chú đoán rằng trên núi này trước đây ắt đã có người xây dựng chùa chiền, nếu không tại sao ở đây lại có một bãi đất bằng, trên có bia đá? Người xưa có thể xây chùa ở đây, thì ta sao lại không xây dựng một chốn tùng lâm ở đây để cũng các Tăng già vào núi tu hành tĩnh tại, và để thoát khỏi vòng sanh tử sau này, như vậy thì ta mới toại nguyện.

Nghĩ đến đó, chú tiểu Sa Di trong lòng vô cùng phấn khởi, bèn xuống núi bàn bạc với sư huynh/phụ của mình về ý định mở một chốn tùng lâm ở trên Phật Đỉnh Sơn. Sư phụ của chú thấy đệ tử suy nghĩ còn non nớt, không biết lượng sức mình, biết rằng không thể làm nổi nên tỏ ra bực tức thấy đệ tử của mình cứ khăng khăng đòi làm bằng được. Cụ nói: “Con thấy làm được thì cứ đi mà làm, núi cao như vậy làm sao mà lên được, đúng là không biết lượng sức mình!” Thấy sư phụ coi thường khả năng của mình, bèn thề trước sư phụ rằng: “Thưa sư phụ, con quyết trèo lên tận đỉnh núi để xây dựng tùng lâm, thì mới thỏa nguyện”. Thấy đệ tử của mình nói vậy càng bực tức, nói: “Nếu con mà lên được đỉnh núi xây dựng được tùng lâm thì ta, dù là sư phụ của con, ta cũng nguyện nấu cơm ba năm cúng dàng các con ba năm”. Chú tiểu nghe sư phụ nói vậy, lại tỏ ý coi thường mình, chú càng quyết tâm thực hiện cho bằng được ý nguyện của mình. Dự định phải xuống núi ngay, vượt biển, đi mộ hóa khắp nơi, không đạt được mục đích thể không trở lại.

Từ đó, chú rời khỏi đất Thánh Phật quốc, nơi trang nghiêm thanh tịnh, không nhiễm một hạt bụi trần, rời khỏi cái nơi sớm tối nghe tiếng chuông quen thuộc, từ biệt người thầy cắt tóc thụ giới cho mình, hàng ngày dạy mình học kinh tu đạo, từ biệt các sư huynh hàng ngày ăn cùng mâm, học cùng chiếu với mình, thành tâm quỳ trước tượng Bồ tát Quán Âm, lặng lẽ khấn cầu: “Kính bạch Bồ tát Thánh Tôn, đệ tử xuống núi lần này để hóa duyên, nhằm xây dựng tùng lâm, cúng dàng thập phương Tăng bảo, một lòng vị đạo, duy nguyện Bồ tát đại từ đại bi thần mình gia hộ cho đệ tử được thành sở nguyện”. Khấn xong lễ ba lễ, rồi lên đường xuống núi.

  1. LẬP ĐẠI NGUYỆN BA NĂM VỀ NÚI CHỊU ĐẮNG CAY CUỘC SỐNG ĂN XIN

Chú tiểu rời khỏi chốn sơn minh thủy tú, từ biệt Phổ Đà, đắm mình trong biển người náo nhiệt, sống một cuộc sống gian khổ, dầm mưa dãi nắng, chiếu đất màn trời, sớm sớm ra phố phường náo nhiệt dập đầu xin mộ hóa, tối đến lại trở về gửi thân ở một ngôi miếu cổ hoang tàn. Do sức mạnh của lời nguyền thúc đẩy, cho nên dù có phải sống khổ cực cũng không hề tỏ một lời ta thán. Hàng ngày chú len lỏi từ ngõ này sang ngõ khác, tiếng mõ trên tay không bao giờ dứt, vào từng nhà đến từng cửa để hóa duyên, mặc cho ai chê cười hay khích bác, lạnh nhạt hay nặng lời, một con người xuất gia thế phát quen sống trong cảnh thanh tịnh chốn rừng sâu, nay bỗng nhiên phải lặn lội trong đám bụi trần ồn ào náo nhiệt, khó mà quen được, mắt phải nhìn những cảnh bẩn dơ, gối vẫn phải quỳ để xin từng xu, tai luôn nghe những lời chê cười mắng nhiếc! Bao nỗi đau khổ chứa chất trong lòng không bút mực nào tả xiết!

Đầu đội trời, chân đạp đất, suốt trong ba năm đằng đẳng, gối quỳ tay lễ, chú vượt qua bao thành phố, vượt qua bao đường núi gập ghềnh, đúng là vượt muôn sông ngàn núi, ngàn núi môn sông, sống trong những tháng ngày gian khổ nhất ở chốn trần gian, ba năm đằng đẳng, trán xước chân chai, có thể nói chú đã “nếm trải nỗi chua cay nơi trần thế”. Song, Phật, Bồ tát và các thí chủ như cố tình đùa giỡn với chú, hay là cho chú còn quá trẻ, suốt trong ba năm không có người nào phát tâm bố thí cho chú một đồng xu nào. Ba năm ấy, chú sống đúng như một kẻ ăn xin. Ba năm trôi qua, nhớ lại ngày ấy tức khí với thầy mà xuống núi hóa duyên, đã ba năm rồi mà chưa được một đồng xu nào, lời thầy dự đoán xem chừng có lý! Giờ đây còn mặt mũi nào trở về gặp bạn nhìn thầy! Nghĩ vậy bất giác ngẩng mặt lên trời òa khóc!

  1. THẢ MÕ, ĐI THEO DÒNG NƯỚC TRÔI ĐỌC THÁNH HIỆU TRỌN THÂN NGHIỆP BÁO

“Nhân đáo thường tâm xứ, nan miễn lệ lưỡng hằng” (con người đến lúc đau lòng, tránh sao khỏi hai dòng lệ rơi). Chú tiểu Sa Di bôn ba vất vả, ba năm ngậm đắng nuốt cay. Trong ba năm ấy, chú phải bước qua những chặng đường tưởng như không người nào có thể bước qua được, chú phải nếm nỗi khổ của đời, tưởng như không ai có thể chịu nổi, nhưng rồi cuối cùng không ai đem lại cho chú một sự đồng tình tín thiệm, không ai bố thí cho chú một đồng xu để chú thực hiện cái đại nguyện ôm ấp trong lòng. Chú chỉ biết than thân, gánh chịu cái nghiệp chướng nặng nề, có lẽ không bao giờ có thể làm trọn được cái tâm nguyện của mình. Lúc này, nỗi đau nhức nhối đẫ đến cực độ, chú không sao còn đủ dũng khí để đi tiếp chặng đường mộ hóa nữa, chú đi đến một dòng sông nhỏ, ngồi trên bờ nhìn dòng nước trôi, lặng lẽ như bộc bạch nỗi lòng: “Bồ tát ơi! Con chỉ hận một điều là nghiệp chướng của con quá nặng, phúc mỏng đức nông, khổ cực khuyến hóa ba năm, nhưng vẫn chưa gặp được một tín sĩ đàn việt nào trợ giúp tài thí để xây dựng tùng lâm, yên nơi dưỡng chúng, con cũng không biết ở phương nào có hộ pháp thiện tín, lạc trợ công đức, duy chỉ còn ngưỡng trông vào đức Bồ tát phù hộ độ trì cho con, nay con xin thả chiếc mõ gỗ này xuống dòng nước, chiếc mõ trôi đến đâu, con xin theo đến đó, nếu Bồ tát có thiêng liêng chỉ dẫn, thì chiếc mõ dừng lại ở đâu, con sẽ ở lại đó để hóa duyên”.

Nói xong, chú thả chiếc mõ xuống sông, chiếc mõ lững lờ trôi theo dòng nước, mõ trôi đến đâu chú theo đến đó, cứ như thế suốt mấy ngày trời, bỗng một hôm, chiếc mõ dừng lại không trôi theo dòng nước nữa, chú tiểu thấy vậy đoán chừng rằng chắc gần đây có đại hộ pháp đây, do đó chú bèn vớt mõ lên, ngồi dưới lùm cây bên bờ sông, gõ mõ và tụng niệm Thánh hiệu, một mặt chú tự nhủ nếu ở đây mà vẫn không cảm ứng được bậc cư sĩ đại tâm nào có lòng hộ pháp, thì ta thề sẽ nhịn ăn, chết đói bên bờ sông để trọn được cái nghiệp báo thân này. Sau khi chủ ý đã định, chú chuyên chú ngồi tĩnh tâm tụng niệm Thánh hiệu của Bồ tát.

  1. THẦY SA DI NIỆM CHÚ DẠI BI THÁI PHU NHÂN BỖNG NHIÊN KHỎI BỆNH

Chú tiểu Sa Di cứ gõ mõ tụng Thánh hiệu như vậy ba ngày ba đêm, suốt trong những ngày đêm ấu chú không ăn mọt hạt cơm, không uống một giọt nước, nhưng vẫn không một bóng người nào đến, bởi vì vùng này hoang vắng, gần đó không có người ở, cho nên chú ngồi gõ mõ suốt ba ngày liền mà cũng không có một đứa trẻ con nào đến xem chú, chú nghĩ bụng có lẽ đây là chỗ “sơn cùng thủy tận nghi vô lộ”, không còn con đường nào thoát nữa rồi, thế là mọi hy vọng tiêu tan, nhưng rồi lẽ đời cũng lạ, tưởng như đây là chốn “sơn cùng thủy tận” rồi, nhưng rồi “liễu ám hoa minh hựu nhất thôn” – một xóm nhỏ liễu rũ hoa cười – bỗng hiện lên, lóe lên một tia hy vọng.

Lại nói, ở vùng này cách đó hơn một dặm, có mọt bà phu nhân đại phú hộ, ốm nằm liệt giường đã hơn một năm nay, thuốc thang vô hiệu, bệnh không thuyên giảm, một ngày của bà dài đăng đẳng như một năm, chỉ mong có người nào đến chữa khỏi bệnh cho bà thì dù phải tốn kém bao nhiêu bà cũng không tiếc. Một hôm, đang nằm trên giường bệnh, nghe tiếng gõ mõ, lòng bà như cảm cảm thấy thanh thản hẳn, như một niềm an ủi vô biên, bà như quên cả nỗi đau của tật bệnh, bà lấy làm lạ cho rằng người gõ mõ chắc phải là một bậc y vương vô thượng. Bà bèn sai hai người đầy tớ lần theo tiếng mõ đi tìm người ấy về để chữa bệnh cho bà, bà tin rằng người này nhất định sẽ chữa khỏi bệnh cho bà. Hai người đầy tớ đi mãi, đến bên bờ một con sông, chỉ thấy một chú tiểu ngồi hướng theo dòng sông, nhắm mắt tay gõ mõ, miệng đọc kinh dều đều, cứ một tiếng mõ, một tiếng kinh. Hai người đến trước mặt chú, lên tiếng hỏi:

– Này, Thầy tiểu ơi! Thầy có biết chữa bệnh không, phu nhân nhà chúng tôi ốm đã lâu mà không có thầy thuốc nào chữa khỏi, phu nhân sai chúng tôi đi tìm thầy về chữa bệnh cho phu nhân đấy!

Chú tiểu nói:

– Tôi là người xuất gia tu hành không phải thầy thuốc, chưa học y thuật bao giờ, thì sao mà chữa bệnh được? Phu nhân của nhà hai bác ốm thì phải đi tìm y sư, chứ tìm tôi làm gì?

Người đầy tớ lại hỏi:

– Thế Thầy tiểu ngồi bên bờ sống này gõ mõ để làm gì?

– Tôi ngồi đây để hóa duyên lấy tiền xây dựng tùng lâm.

Câu nói đó hòa lẫn vào tấm đại nguyện của chú, nên nói với ai, câu mở đầu bằng những lời như vậy.

– Ở đây làm gì có người ở, chú hóa duyên với ai! Chẳng lẽ lại xin ngài long vương ở thủy tinh cung hóa duyên à! Thái phu nhân nhà chúng tôi nghe tiếng mõ của Thầy tiểu, bà thấy trong lòng thanh thản dễ chịu, nhất định bắt chúng tôi đi mời Thầy về nhà chơi, nếu Thầy chữa khỏi được bệnh cho phu nhân, thì Thầy muốn hóa duyên bao nhiêu sẽ có bấy nhiêu.

Chú Sa Di nghe nói có người chịu cúng dàng, vả lại mấy ngày rồi không có hạt cơm nào vào bụng, mặc dù không biết xem bệnh, nhưng biết đâu Bồ tát cảm ưng tấm lòng thành của ta mà thương cho cũng chưa biết chừng, ta cứ theo hai người này đến nhà phu nhân đang ốm ấy xem sao. Hai người đầy tớ vào bẫm với Thái phu nhân, một lát sau có lệnh truyền ra: “Lão phu nhân xin mời vào” Chú Sa Di bèn theo hai người hầu vào buồng bệnh. Kể cũng lạ, Thái phu nhân vừa trông thấy mặt chú tiểu trong người bỗng thấy nhẹ hẳn đi, bà hỏi Thầy tiểu có biết xem bệnh không, chú trả lời rằng từ bé chưa hề học y thuật, nên không biết xem bệnh. Thái phu nhân lại hỏi chú có biết đọc kinh gì không. Chú trả lời:

– Tôi mới xuất gia được vài năm, nên cũng không biết đọc kinh gì.

– Vậy chú tiểu biết gì?

– Tôi chỉ biết niệm chú Đại Bi, những cái khác thì không biết lắm.

Thái phu nhân nói:

– Tôi nghe tiếng mõ của Thầy trong lòng cảm thấy rất dễ chịu, vậy Thầy cứ niệm chú Đại Bi đi!

Thế là chú niệm liền mấy lượt chú Đại Bi một cách rất chân thành. Quả nhiên là Phật pháp vô biên, bệnh của Thái phu nhân bỗng nhiên khỏi hẳn, không còn đau đớn gì nữa, khỏe mạnh như người bình thường, chí bản thân bà cũng không tin rằng bệnh lại khỏi nhanh như vậy. Niềm vui của bà thật là vô tận, bà cho rằng Thầy tiểu đúng là Bồ tát sống, ứng hóa thị hiện để đến cứu khổ cứu bệnh cho bà.

  1. XÂY BẢO TỰ PHU NHÂN TÀI THÍ ĐỀN ƠN PHẬT, CỨU BỆNH CHÚNG SINH

Sau khi Thái phu nhân khỏi bệnh, thấy tinh thần đặc biệt sảng khoái, bà coi Thầy Sa Di như một Bồ tát sống để cúng dàng. Một hôm, ăn cơm trưa xong, Thái phu nhân bắt đầu hỏi:

– Thầy Tiểu này, Thầy từ đâu đến đây, lại ngồi gõ mõ bên sông làm gì?

Chú Tiểu nói:

– Tôi từ núi Phổ Đà Nam Hải đến, mục dích là xuống núi hóa duyên, định xây một đại tùng lâm ở đỉnh cao nhất trên núi Phổ Đà, để cúng dàng Tăng bảo thập phương đến lễ, tĩnh tâm tu đạo, ngờ đâu phúc tôi mỏng, trẻ người, khổ công mộ hóa ba năm, nhưng chưa được ai phát tâm tài thí, cho nên cuối cùng tôi phải nhờ ơn Bồ tát chỉ đường, tôi thả mõ xuống dòng nước, mõ chảy theo dòng nước đến nơi nào dừng lại tôi sẽ ở lại đó hóa duyên, cuối cùng mõ đã dừng lại ở vùng này, thế là tôi ở lại bên bờ sông để hóa duyên, nhưng đến tận hôm nay vẫn chưa có ai cho một xu nào.

Nói đến đây chú lại mũi lòng, bất giác hai hàng lệ cứ ròng ròng chảy xuống. Thái phu nhân nghe nói Thầy Tiểu ở núi Phổ Đà đến, lại được Bồ tát chỉ dẫn đến đây. Thầy Tiểu này tuy còn ít tuổi nhưng vì có nguyện lớn xây dựng tùng lâm đã phải chịu muôn ngàn cay đắng, bệnh của ta lại do Thầy Tiểu đọc chú mà chữa khỏi, rõ ràng là Bồ tát đã dẫn Thầy Tiểu đến chữa bệnh cho ta, cứu ta khỏi khồ, ta phải biết tri ơn báo đức, nguyện đem hết sức mình đến Phổ Đà xây chùa để báo ơn Phật. Nghĩ vậy, bà bèn nói với chú Tiểu:

– Thầy Tiểu này, việc này Thầy không phải lo, nay tôi đã khỏi bệnh, tôi có thể đem hết sức mình giúp Thầy làm trọn tâm nguyện. Thầy cũng không phải đi hóa duyên nơi khác nữa, mọi việc sẽ do tôi lo liệu. Thầy hãy trở về dựng một lều cỏ ở Phật Đỉnh Sơn, Thầy cứ ở đó tụng kinh niệm Phật, thế nào tôi cũng sẽ cho người đến đó xem xét, giúp Thầy xây dựng tùng lâm.

Chú Tiểu nghe nói có người lo liệu cho cả và sẽ xây chùa cho chú, chú vui như mở cờ trong bụng, lẩm nhẩm đọc câu “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát!”. Quả là Bồ tát không phụ lòng người có thành tâm khổ tu trọn nguyện. Theo đúng lời dặn của Thái phu nhân, chú trở về dựng một túp lều để ở, ngày ngày gõ mõ tụng kinh.

Kể từ khi chú Sa Di về núi, Thái phu nhân viết một bức thư khẩn, hỏa tốc đưa đến cho con bà đang làm quan ở trong triều, đại ý bức thư viết: “Bệnh tình của mẹ ngày một nặng thêm, ngày tắt thở chỉ trong một sớm một chiều, nhận được thư mong con về ngay, về sớm ba ngày còn được gặp mẹ, nếu muộn thì khó có dịp còn trông thấy mẹ”. Vì con bà làm quan rất to trong triều, lại rất hiếu thảo, nhận được thư hỏa tốc của mẹ, con bà vội vã về ngay, ngờ đâu về đến nhà thấy mẹ vẫn bình thường, không ốm đau gì, trong lòng cảm thấy có điều nghi hoặc, sau khi nghe mẹ kể lại vừa qua Bồ tát hiển thánh, dẫn một chú Tiểu về đọc kinh cứu sống cho mẹ, lúc đó con bà mới hiểu. Bà lại nói: “Về việc này trong lúc ốm mẹ đã thệ nguyện bỏ tiền đến Phổ Đà Sơn xây chùa lập viện, bây giờ con đưa công trình sư đến Phổ Đà, đến đỉnh cao nhất xem xét địa bàn, chọn một bãi đất bằng phẳng, rồi trở về, căn cứ vào địa thế làm sẵn một khung nhà, chở đến bờ biển dưới núi tìm cách đưa lên rồi bắt xà lợp ngói”. Con bà là một người hiếu thảo, đâu dám trái lời, vả lại ở trong nhà có của, phải làm trọn tâm nguyện của bà. Thế là con bà lập tức đưa một tốp thợ đến Phổ Đà Sơn cùng chú Tiểu quan sát địa bàn, chọn ngày khởi công.

  1. XÂY PHẬT ĐỈNH SƠN CHƯA TRÒN TÚC NGUYỆN ỨNG THÂN SA DI NỐI CHÍ KIẾP NÀY

Vì núi cao đường xa, thợ lại đông, trên núi không đủ nước cung ứng, thợ thuyền không thể làm việc ở trên núi được. Cho nên Thái phú nhân đã lường trước được, bà cho chuẩn bị vật liệu, gạch ngói, chạm trổ, khắc biển, mọi thứ sẵn sàng, rồi chở đến Phổ Đà để ở dưới núi, sau đó cho thợ lên trên núi san đất đắp nền, rồi đưa khung nhà lên lắp ghép là xong. Nếu vật liệu chuyển vận từ cửa núi Phổ Đà, thì sẽ tốn nhiều công, đồng thời đoạn đường núi này cũng khó đi, cho nên bà quyết định đưa vật liệu lên đỉnh núi từ chỗ bờ biển ở núi sau. Có lẽ do Bồ tát phù hộ, đúng vào cái hôm chuyển vật liệu lên núi, lại có mấy trăm thuyền đánh cá ở Phúc Kiến đỗ ở chân núi. Nhân tiện nhờ mấy trăm ngư dân giúp đỡ một tay, đứng dàn thành hàng một từ chân núi lên đỉnh núi, rồi cứ thế chuyền nhau đưa lên. Bởi vậy đến nay, người thuyền chài ở Phúc Kiến lên Phật Đỉnh Sơn ăn cơm sẽ được miễn trả tiền, coi như để trả thù lao ngày xưa. Lại nói truyện trong khi đào móng san nền, bỗng nhiên đào được một ngôi tượng gỗ, hình một cụ già, dáng mặt chú Sa Di y hệt như thầy Sư phụ của chú, do đó mọi người mới biết thầy tiểu Sa Di chính là cụ già thừa nguyện ứng hiện trở lại xây dựng tùng lâm, hoàn thành túc nguyện của cụ.

Qua mấy năm trời, chịu đựng bao khổ cực, cuối cùng có chí thì nên, đạt được mục đích. Lần đầu tiên tôi đến nhà Tổ thấy trên bàn thờ hai bức tượng gỗ, mặt giống nhau như đúc, lúc đầu tôi tưởng đó là hai anh em cùng xuất gia ở một nơi, sau đọc lịch sử núi Phổ Đà mới biết một bức tượng đào được ở dưới đất, còn một bức chính là vị Sư tổ Sa Di người sáng lập ra chùa này.

Bởi vì Sư tổ xuất thân Sa Di, cho nên ở núi Phật Đỉnh cho đến nay, Sa Di có thể đến trọ lại. Theo quy định của nhà Phật, chưa được thụ tam đàn đại giới, không có giới điệp thì không được trọ ở lại tùng lâm. Thường Sa Di đến Chùa Trước Chùa Sau không được trọ lại, nên đều đến Phật Đỉnh Sơn. Nhưng Sa Di vẫn là Sa Di, chưa nghiên cứu kinh điển, và cũng chưa hiểu Phật pháp lắm, có nhiều nơi có quy định không đúng Phật lý. Thí dụ hàng ngày sớm tối lên chùa làm xong khóa tụng phải lễ bốn mươi tám lễ gọi là lễ nguyện. Trong số danh hiệu xưng niệm, lễ cả Ngọc hoàng Thiên tôn Bồ tát. Do đó cho đến ngày nay, có nơi vẫn khấn lễ như vậy, giữ theo lối cũ tổ truyền, không biết uốn nắn lại. Đường đường là bậc tiểu Tỳ khưu mà lại lễ Ngọc hoàng Thượng đế (thiên cung) thật là buồn cười! Hồi tôi ở Phật Đỉnh Sơn, sớm chiều lễ nguyện, nhiều người vẫn lễ Thiên cung, tôi chỉ lễ Phật hiệu. Tôi rất mong vị Đại đức nào trụ trì Phật Đỉnh Sơn sau này, nên mau mau sửa lại để giữ nếp trang nghiêm, chớ để tiếng cười chê của thức giả.

53. PHẬT ĐỈNH SƠN “QUÁN ÂM GÁO NƯỚC” HIỆN CHÂN THÂN,

CƯ SĨ TRÀ DỊCH PHÁT NGUYỆN XUẤT GIA TU ĐẠOCòn một câu truyện ở Phật Đỉnh Sơn đáng kể ra đây, đó là truyện “Quán Âm Gáo Nước”. Quán Âm Đại Sĩ luôn luôn tùy loại mà hóa thân, chỉ cần chúng ta có lòng tin kiên định đầy đủ đối với Phật, Bồ tát, thì cuối cùng công đức sẽ đầy đủ, không mất đi vô ích. Đối với Bồ tát, cầu đâu ứng đó, tùy theo nguyện của chúng sanh mà ứng hiện sắc thân, có “cảm” ắt có “thông”, không tin, hãy nghe câu truyện “Quán Âm Gáo Nước” ở chùa Phật Đỉnh sau đây:

Vào Tết Trùng Dương, năm Dân Quốc thứ 38, cơ quan cao nhất đóng ở Phổ Đà Sơn là Chiết Đông Hành Thự (tức cơ quan hành chính ở vùng Chiết Đông), hôm đó có rất nhiều các vị quan chức lên Phật Đỉnh Sơn du ngoạn, theo tục lệ “Trùng Cửu Đăng Cao” (mồng chín tháng chín đi leo núi). Tôi cùng đi với đoàn du ngoạn, có cả tướng quân Du Tế Dân, trưởng ban Quân vụ Viên Kiến Huân tiên sinh. Sư trụ trì Khánh Quy Hòa thượng, tổ chức tiệc chay chiêu đãi, sau đó mọi người đề nghị cho đi xem “Bồ tát Gáo Nước”, ngày thường muốn xem phải dùng đèn pin hoặc nến đuốc, nhưng chỉ thấy lờ mờ không rõ, có một cái gáo nước bằng đồng có cán, để trong một cái hộp gỗ quý, hình cây tháp đặt trên bệ thờ, trên có khắc đoạn kinh trong Phẩm Phổ Môn chữ vàng, người thường không được tùy tiện lấy ra xem. Hôm đó vì người xem đông, lại đều là lớp trí thức, bậc yếu nhân của quân đội và chánh phủ, nên tôi đề nghị cho lấy chiếc gáo trong hộp ra để mọi người được nhìn rõ, để người nào không tin khỏi nghi ngờ. Hồi đó chính tay tôi thỉnh “Quán Âm Gáo Nước” ra để cho mọi người chiêm ngưỡng. Thánh tượng Bồ tát hiện lên trên cán gáo, trông hệt tượng cô gái đồng trinh, thần quang rực rỡ, ai trông thấy cũng sanh lòng kính mộ. Bởi vì mọi người không hiểu lai lịch của Quán Âm gáo nước, cho nên họ đòi hỏi được giải thích rõ.

Tôi giải thích theo lời kể của trụ xứ. Đó là vào khoảng hơn hai chục năm về trước, ở nhà bếp có một vị trà dịch (chuyên lo việc nấu nước pha trà), là một cư sĩ tại gia, phát tâm xin nguyện việc nấu nước cho nhà bếp để cúng dàng đại chúng, ông ta rất tín ngưỡng Quán Âm Bồ tát, thân ông thì phục dịch công việc, nhưng tâm vẫn chuyên chú tu hành, nghĩa là tu hành không làm trở ngại công việc phục dịch, phục dịch không ảnh hưởng gì đến tu hành, ông ta khác hẳn với một số người tu hành ngày nay, nếu có ai khuyên họ tu hành, thì họ trả lời gọn lỏn ba chữ “tôi bận lắm”, chứ họ không biết rằng gánh nước, bổ củi cũng chính là Thiền thượng thừa đấy!. Làm việc thì bằng thân thể tay chân, tu hành thì dùng tâm và miệng, như vậy thì làm việc và tu hành chẳng trở ngại gì nhau cả. Vị cư sĩ già hiểu được lý lẽ đó, cho nên ông đun nước hai chục năm, hai việc đó gắn liền với nhau, và làm việc có kế hoạch, cứ ba giờ sáng đã dậy, làm việc đến chín giờ đêm, nhưng cũng là thời gian tu hành từng ấy tiếng, bởi vì việc tu hành đem lại hứng thú trong công việc, tâm, miệng và tay chân cùng làm việc một lúc, tay cầm gáo múc một gáo nước, miệng đọc một tiếng Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, tay động, mồm đọc, tay làm việc không ngừng, mồn đọc không dứt, cứ như vậy liên tục hai mươi năm. Quả là người có thành tâm, Phật có cảm ứng, Bồ tát hiện thân độ ông xuất gia.

Một hôm ông cầm gáo múc nước, bỗng phát hiện trên cán gáo có một bức tượng Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện trên cán gáo, hình hiện rõ ràng, ông mừng lắm, chẳng khác nào Cô Lông phát hiện đại lục mới, ông vội vàng chạy vào phòng Phương trượng, bạch với đại Hòa thượng (thầy trụ xứ lúc bấy giờ). Đúng là một kỳ tích, đại Hòa thượng cũng hiểu đó là sự cảm ứng của một người tu hành có đạo hạnh, cả chùa nghe tin biết truyện, ai cũng tấm tắc, đúng là “người có công phu trời chẳng phụ” huống chi là Quán Thế Âm Bồ tát. Ngài luôn luôn “tầm thanh cứu khổ, tùy loại ứng hiện!” Tiếng đồn truyền khắp cả chùa, sau đó chiếc gáo múc nước được đưa vào bảo tàng ở chùa và có một tín đồ phát tâm làm một chiếc hộp đặt chiếc gáo vào đó và lập bàn thờ để cúng. Còn vị cư sĩ đun nước đã phát nguyện xuất gia để đền ơn Phật, nghe nói ông hãy còn sống, nhưng không ở chùa mấy năm nay rồi, nghe đâu cũng có một tín đồ nào đó đã mời ông về nhà để cúng dàng. Nghe xong câu truyện này, rồi đối chiếu với sự thật, đã có mấy vị quan chức ở huyện trước không tin đạo Phật, nay cũng xin quy y Tam Bảo, bước vào cửa Phật.

  1. THÀNH TÂM ĐI LỄ PHẬT, THOÁT HỎA TAI QUYÊN SINH ĐẾN ƠN PHẬT, ĐƯỢC CỨU MỆNH

Núi Phổ Đà từ khi khai sơn lập tổ đến nay đã hơn một ngàn năm, chưa bao giờ nghe ai nói rằng người đi lễ Phật, dâng hương lại bị sóng biển cuốn đi, càng không nghe nói có chiếc thuyền chở khách hành hương nào bị lật thuyền trên biển, hoặc có khách hành hương nào bị rơi xuống biển chết đuối. Đó chính là uy linh cảm ứng. Thậm chí có người cố quyên sinh trầm mình xuống biển để đền ơn Phật mà cũng không được chết. Ngược lại có nhiều thuyền không phải là đi hành hương, gặp nạn giữa biển thậm chí cả tàu thủy cũng bị đắm. Bây giờ tôi xin kể vài truyện có thật, vào núi dâng hương lễ Phật mà được cứu sống để chứng minh lời tôi nói không sai.

Truyện xảy ra vào đời Minh, có một cư sĩ họ Uông, ông quê ở An Huy, ở trọ trong một ngôi nhà trước cửa cụ Vương Trừng, một cửa hàng buôn ở Côn Sơn, tỉnh Giang Tô, ông có ý nguyện đi lễ Phổ Đà, nên ông đã thành tâm ăn trường trai suốt trong ba năm rồi mới đi lễ. Một hôm đúng vào ngày Tết, mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi, vừa bước chân xuống thuyền, bèn có người đến cấp báo cửa hàng cụ Vương bị cháy, ông phải về ngay để cứu cháy, bởi vì lửa sắp cháy lan sang nhà ông. Cư sĩ họ Uông nói: “Ta giữ tấm lòng thành ba năm trời, nay mới được như nguyện đi lễ Bồ tát Phổ Đà Nam Hải, lẽ nào vì ngôi nhà mà hủy bỏ ý nguyện của ta, nếu có bị cháy nhà ta cũng không về”. Do đó ông bảo nhà thuyền cứ căng buồm khởi hành thẳng xuống phía Nam, đến núi Phổ Đà lễ Phật. Sau khi lễ xong trở về Côn Sơn, thấy nhà cửa của cụ Vương cháy trụi, riêng có nhà của ông vẫn y nguyên như cũ, không bị hỏa hoạn, mọi người đều lấy làm kinh ngạc. Sự cảm ứng khó hiểu đó, đối với những người không tin đạo Phật cũng không thể không tin nữa.

Cũng vào đời Minh, có một đồng tử (con trai dưới 19 tuổi, chưa vợ), họ Tào, người Giang Âm tỉnh Giang Tô, từ nhỏ đã trì giới tinh nghiêm, đã phát nguyện xả thân cúng Phật, bản thân dành dụm được chút gì đều đem cho những người nghèo khổ. Năm Canh Tuất đời Vạn Lịch, khoảng tháng hai, chú theo một trưởng lão họ Trang đi lễ núi Phổ Đà, đến Mai Sầm Sơn (ở Phổ Đà), sau khi chiêm lễ kim dung của Quán Thế Âm, chú lặng lẽ đứng khấn và phát nguyện: “Nguyện xả thân này để báo ơn Phật”. Trên đường về, thuyền ra đến cửa biển, đến khỏi Liên Hoa, sóng gió bỗng nổi lên, chú đồng tử họ Tào chắp tay ngẩng mặt lên trời, rồi nhắm mắt nhảy vào sóng dữ, cụ Trưởng lão họ Trương trông thấy chú bị sóng cuốn chìm xuống đáy biển không sao cứu kịp, cụ bèn quay lại Phổ Đà, chọn ngày mời tăng chúng làm lễ sám và cầu siêu cho chú. Song truyện lạ xảy ra, vào khoảng trung tuần tháng bảy, chú đồng tử họ Tào bỗng đến thăm trưởng lão. Cụ vô cùng ngạc nhiên, hỏi rõ nguyên do, chú nói: “Hôm đó, khi cháu gieo mình xuống biển chẳng biết gì nữa, khoảng một lúc sau, bỗng có một nhà sư chở một chiếc bè đến, nói: “Ta đến cứu ngươi đây!” Thế là cháu được vớt lên bè, bè vun vút lướt trên sóng lớn chỉ trong chốc lát là đến một bãi cát ở Chu Sơn, nhà sư dẫn cháu vào nhà một bác thuyền chài, xin ở trọ, rồi trong nháy mắt nhìn lại không thấy nhà sư đâu nữa. Bác hỏi cặn kẽ nguyên do, cháu kể lại cho bác nghe đầu đuôi, cả nhà đều cho rằng đó là Bồ tát hiển tích xuống trần gian cứu độ chúng sinh. Đến hôm sau, bác thuyền chài đưa cháu vào chùa Trấn Hải ở Chu Sơn, cháu đã được Thủ tọa thụ giới thế phát, dạy cho các kinh chú, nay cháu xin phép về làng để đến thăm cụ”. Trưởng lão mừng quá, bèn bèn giữ chú ở lại, đưa chú về một cái am nhỏ ở chân núi xưa kia, cha mẹ chú gặp lại con trai, mừng mừng tủi tủi, tăng tục gần xa quanh vùng đó đều đến quy y, và từ đấy, vùng này thường xuyên vang tiếng tụng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát.

  1. HIỆN TỬ TƯỚNG, CẬU BÉ SỢ HÃI HAI ÔNG CHÁU THOÁT NẠN LẬT THUYỀN

Lại nói vào đời Minh, có một cụ già họ Trương, cụ người Cao Kiều, Tô Châu tỉnh Giang Tô, bình thường rất sùng kính đạo Phật, rất thích trai Tăng.

Mùa Xuân năm Tân Hợi, thời Vạn Lịch, cụ cùng với đứa cháu nội tám tuổi đến núi Phổ Đà lễ Phật. Cụ Trương lên chiếc thuyền thứ nhất, cháu cụ thấy trên thuyền toàn là người bị trói, sợ quá bèn lui lại phia sau, kéo áo ông lại không chịu lên thuyền, và cháu nói với ông những điều kỳ lạ mà cháu vừa thấy. Ông cụ nghe cháu nói cũng rất sợ hãi, liền rời thuyền lên bờ, gọi một chiếc thuyền khác, cháu cụ bảo vẫn sợ lắm, vẫn thấy những cảnh như cũ, không chịu cùng ông lên chiếc thuyền này. Ông cụ đành phải nghe theo lời cháu, lên bờ tìm đến một chiếc thuyền thứ ba, cụ hỏi cháu có thấy gì không. Cháu cụ trả lời: “Cháu thấy hai thuyền trước toàn là người bị trói, thuyền này thì không có”. Ông cháu đang còn do dự, bỗng có hai người đứng ở mũi thuyền hô to: “Chớ đi thuyền kia, hãy lên thuyền này, thuyền này chắc lắm!” Lúc đó hình như có người đẩy ở sau lưng, cụ bèn bế cháu nội lên thuyền. Vừa ngồi yên chỗ, nhìn lại hai người đứng ở mũi thuyền, và người đẩy sau lưng cụ đã biến mất. Thuyền nhổ neo, trời đã xế chiều, thủy triều bắt đầu dâng lên, sóng vút lên tầng mây cao như đỉnh núi. Hai chiếc thuyền trước chở toàn đám bụi đời, cướp biển, lái thuyền không thạo điều khiển, đón tránh thủy triều nên thuyền bị lật nhào, người trên thuyền không ai sống sót. Còn thuyền của hai ông cháu vững vàng đến đích.

Sau đó ba ngày, huyện lệnh Nhân Hòa nhân đi tuần thú cửa sông, khám nghiệm thi thể những người bị chết đuối, thì trong bao lưng mỗi người đều có quả trùy bằng chì của những tên đả thủ chuyên nghề đánh nhau, và đều có dao găm cài ở sau lưng. Sau khi kiểm nghiệm kỹ lưỡng mới biết toàn là những khí cụ giết người cướp của, nên mới bị chết bất đắc kỳ tử như vậy. Đúng là ác quả ác báo. Cho nên cháu cụ già đã trông thấy tử tướng của đám người này mà sợ hãi. Cụ già do có thành tâm đi lễ Phật, cộng thêm những ngày thường làm nhiều việc thiện, cho nên Bồ tát đã cảm ứng, mà tránh được tai nạn.

  1. GẶP BÀ LANG BÁN THUỐC BÊN ĐƯỜNG NHỌT ÁC TÍNH, BA NGÀY CHƯA KHỎI

Cư sĩ Viên Tĩnh kể rằng: “Bà chị ruột tôi tên là Xương Hòa, đã quy y Tam Bảo dưới pháp tọa của Pháp sư Đế Nhàn, bà thường xuyên tụng chú Đại Bi. Mùa Đông năm Dân Quốc thứ 15, trên ngón tay bỗng hiện một cái nhọt ác tính, thịt cứ sùi ra như thịt ốc nhồi, bà nói rằng hơi đụng vào là đau nhói đến tận tim gan. Bà đến tôi chữa, nhưng cũng vô hiệu, đi tìm thầy thuốc khác nhưng cũng chẳng ăn thua, bà buồn lắm. Vào khoảng tháng ba, dang tiết mùa Xuân, bà đi lễ Phổ Đà, lên đến đỉnh núi thấy một bà lang chữa bệnh, da mặt nhăn nheo, đầu tóc bạc phơ khoảng ngoài sáu mươi tuổi, ngồi bên đường bán thuốc chữa bệnh, ai chữa cũng khỏi ngay, người mua thuốc, kẻ đứng xem, vòng trong vòng ngoài tắc cả đường đi. Bà chị tôi cũng chen vào xin chữa Bà lang nhìn thấy ngón tay, đọc chú Dại Bi, rồi cho ba viên thuốc, dặn: “Về nhà, mua một đồng bạc ốc phóng sinh, ba ngày là khỏi”. Bà chị tôi lễ xong về nhà làm theo lời dặn. Đến ngày thứ ba, bà đang ngồi trên xe tay, bỗng có một người mặc áo trắng lướt qua, quệt ống tay áo vào cái nhọt ở đầu ngón tay, bà thấy hơi đau, thật là kỳ lạ, về nhìn vào đầu ngón tay thì nhọt đã biến đâu mất.

Khoảng vào thượng tuần tháng tư, tôi đến Hồ Nam nhìn ngón tay bà, không một vết sẹo, chứng tỏ cảm ứng của Bồ tát thật là linh nghiệm, thật là một điều không thể tưởng tượng được, cho nên tôi xin ghi lại truyện này”. Như vậy nghĩa là, một khi chúng sinh đả “cảm” thì Bồ tát ắt “ứng”, trừ phi nghiệp chướng của chúng ta quá nặng hoặc lòng thành chưa có mà thôi.

  1. TÀU THÁI BÌNH GẶP NẠN TRÊN BIỂN ÔNG CHÀI HÍ HỬNG PHÁT TÀI TO

Câu truyện xảy ra vào năm Dân Quốc thứ 18. Sau vụ tai nạn tàu Giang Á là vụ tàu Thái Bình. Nói đến vụ tai nạn tàu Thái Bình thì cả nước ai cũng biết, bởi vì số vàng bạc, mỹ kim rơi xuống dáy biển theo tàu chìm quả thực là không biết bao nhiêu mà kể, khách trên chiếc thuyền đó toàn là triệu phú sang Đài Loan. Nghe nói có một người đánh cá vớt được một cái xác chết của người đàn bà, số vàng trên người bà đó phải có vài trăm lạng, hai cổ tay, hai chân, trước ngực, sau lưng toàn là vàng, thế là người dánh cá bỗng phát tài to. Tin đó truyền đi, nhiều người làm nghề đánh cá đều nằm mê thấy giấc mơ vàng. Dân chài vùng Đại Sơn, suốt ngày lang thang trên mặt biển để may ra được “trúng quả trời cho”. Một hôm trên mặt biển, xa xa có một vật rất to lềnh bềnh trôi theo sóng, lúc đó có hai chiếc thuyền đánh cá đi tới, người trên thuyền đều trông thấy, họ mừng lắm, cho rằng thuyền này đúng là ăn to rồi… Cho nên mọi người đổ dồn vào theo dõi cái bọc to đang dập dềnh trên mặt nước. Lúc đó hai người thuyền chài lao xuống, vớt bọc hàng, ước lượng là phải lắm vàng, cho nên hai thuyền đã hợp sức nhau rất cản thận, họ đoán chừng không phải là vàng thì cũng là vật báu gì đó, họ khấp khởi cho rằng thuyền này đúng là phát tài to rồi.

  1. TƯỞNG BỌC VÀNG, NHÀ THUYỀN THẤT VỌNG TƯỢNG ĐỒNG NỔI, THẬT CHUYỆN LẠ KỲ

Lại nói, mấy ông chài xúm nhau lại mở bọc hàng ra, đều sửng cả người lại, bởi vì trong bọc chẳng phải là vàng bạc, mỹ kim, cũng chẳng phải của cải châu báu, mà chỉ là một bức tượng Phật bằng đồng, trang nghiêm kiểu Tây Tạng, nặng gần hai mươi cân. Đám thuyền chài vô cùng thất vọng, chỉ than thở là số phận hẩm hiu, không có phúc phát tài. Song cũng còn tốt, họ đều là tín đồ Phật giáo, tuy không được vàng bạc, mỹ kim nhưng được một bức tượng Phật bằng đồng rất trang nghiêm, cũng coi là không phải truyện dễ, nhất là bức tượng đồng nặng gần hai mươi cân không chìm xuống biển, mà lại nổi được lên mặt nước, trôi theo sóng biển, từ xa dạt về vùng Đại Sơn, cũng là có duyên với Phật lớn lắm. Vớt được bức tượng đó, hai nhà thuyền giờ đây cũng không nghĩ gì chuyện chia của nữa, mà lại tranh nhau ai cũng đòi đặt tượng Phật ở nhà mình, không ai chịu nhường ai, cuối cùng không có cách nào khác, phải giao cho địa phương chuyển lên huyện Định Hải, thế là chấn động cả huyện bởi vì đó lại là một vấn đề mà các nhà khoa học không sao giải đáp được. Rồi mỗi ngày có hàng ngàn dân chúng đến thắp hương, đỉnh lễ, dâng hoa làm cho các quan chức ở huyện phải ứng phó, thật là khóc dở mếu dở.

Cuối cùng để đỡ phiền phức phải đưa bức tường đồng đó đến Phổ Đà để thờ, đó là cách giải quyết hợp lý nhất. Lúc đó huyện cử phái viên cùng một đoàn người đưa bức tượng Phật lên núi, lúc đầu là đặt thờ ở chỗ có nơi thờ tốt nhất ở núi Phổ Đà, tức là Văn Xương Các. Lúc đó ủy ban tỉnh Giang Tô đang đóng ở Văn Xương Các, có chủ tịch ủy ban Định Trị Bàn, trưởng ty Kiến thiết là cư sĩ Tiền Triệu Như cũng chính mắt trông thấy. Sau có cuộc hội nghị của toàn núi, quyết định phải đưa tượng Phật đến thờ ở đại điện chùa Trước, bởi vì chùa Trước là chốn tổ của cả núi. Khi tượng Phật đưa dến đại điện, cũng còn nhiều chuyện náo nhiệt lắm. Hồi đó có một vị công trình sư nghiên cứu khoa học, tên là Hữu Phúc Thành, vì ông cho là truyện bịa, không tin, nên ông ta nói: “Nhất định trong tượng Phật phải có chất gì đó có thể nổi trên mặt nước được, chứ gần hai chục cân thì làm gì có chuyện không chìm?” Sau đó ông xem xét khảo cứu kỹ lưỡng, đúng là chẳng có gì khác. Thế là kiến thức của nhà khoa học cho khoa học là vạn năng nọ cũng phải mất thiêng rồi, từ đó ông ta mới hiểu, vấn đề Phật pháp không thể hoàn toàn dùng khoa học có thể giải thích được mọi vấn đề, và càng không thể lấy tình cảm của kẻ phàm phu mà nhìn nhận cảnh giới của Phật được. Phật pháp là cái gì đó không thể tưởng tượng được, đành chỉ dùng bốn chữ “bất khả tư nghì” (không thể nghĩ bàn) để giải thích, chứ không có cách nào khác để giải thích bức tượng đồng không chìm này.

  1. ĐẠI SƯ THÁI HƯ ĐẾN PHỔ ĐÀ ĐÓNG CỬA TĨNH TU KINH BÁT NHÃ

Nhiều bậc Đại đức cao Tăng có tiếng tăm trong Phật giáo, phần lớn đều xuất thân và trưởng thành lên từ chốn danh sơn, ví dụ như Đế Nhàn đại sư, Ấn Quang đại sư v.v… đều là những vị từng ẩn thân ở núi Phổ Đà, chuyên tu kinh tạng nhiều năm. Lại như vị lãnh tụ Phật giáo vang tiếng hoàn cầu là Thái Hư đại sư. Hồi Đại sư mới lên chín tuổi, cùng với bà ngoại đi lễ Phổ Đà và cũng từ đó, “hạt giống xuất trần” ở đại sư bắt đầu gieo xuống mảnh đất ấy, đến tuổi mười lăm, Đại sư đã nhìn thấu được nhân tình thế thái, không chịu làm nô lệ cho đồng tiền, và từ đó Đại sư phát nguyện xuất gia, đến tu hành ở núi Phổ Đà, nào ngờ đi nhầm thuyền lại đến một nơi khác, làm đệ tử của Hòa thượng Trang Niên, được xếp vào con cháu của Hòa thượng. Sau khi Đại sư xuất gia, vẫn còn duyên phận với núi Phổ Đà, Hòa thượng Chí Viên ở núi Phổ Đà lại là anh em cùng một giới sư với Đại sư, tức là hai cụ đều là giới đệ tử của Hòa thượng Kỳ Thiền đầu đà Bát Chỉ, cho nên Đại sư hồi còn trẻ vẫn được đi lại chốn Phổ Đà, Đại sư đã từng là giảng sư ở trường tiểu học Vũ Hóa ở Phổ Đà, rồi làm Tri khách ở nhà khách Chùa Trước, sau lại về ở một ngôi miếu nhỏ ở Núi Sau, gọi là thiền viện Thiền Na, đến nay ngoài cửa núi trên một phiến đá vẫn còn khắc bốn chữ “Thái Hư Lan Nhã” chính tay Đại sư viết. Nơi đó cảnh rất tĩnh mịch, những ngày đóng cửa núi, Đại sư thường cùng với Chí Viên, Dục Sơn làm thi phú trao đổi với nhau, hồi đó người ta gọi ba vị ấy là “Phổ Đà Tam Lão”. Ngoài ra Đại sư cũng thường đi lại luôn với Ấn Quang đại sư. Câu truyện đóng cửa núi cũng có một đoạn nhân duyên lý thú.

Hồi đó Đại sư vì có tham gia cuộc cánh mạng Tân Hợi (1911) ở chùa Bạch Vân, Quảng Châu, sau bị chánh phủ Mãn Thanh bắt, ra tù Đại sư thấy không thể ở lại Quảng Đông được, bèn trở về Chiết Giang đề xướng làm ba cuộc cách mạng của Phật giáo (cách mạng về giáo lý đạo Phật, về chế độ trong Phật giáo, và tài sản trong Phật giáo), nên lại phải đối đầu với Nhân Sơn Pháp sư. Từ đấy Đại sư bị rất nhiều người trong phái thủ cựu đả kích ác liệt, do đó vào năm Dân Quốc thứ 3, Đại sư phải lánh thân ở núi Phổ Đà, đóng chặt cửa núi, tiềm tu Phật điển trau dồi trí đức của mình. Trước khi đến Phổ Đà, Đại sư đã viết thư báo cho Hòa thượng Chí Viên biết, để Hòa thượng giúp đỡ nhờ tìm một nơi yên tĩnh, đóng cửa tu hành. Hòa thượng Chí Viên đã tìm cho Đại sư một căn buồng yên tĩnh và viết thư mời Đại sư đến. Khi đến Phổ Đà, trước hết Đại sư lên Tích Lân Đường để gặp thầy dẫn lễ hồi thụ giới, nào ngờ, thầy Hòa thượng già dẫn lễ hồi xưa đó đối xử đặc biệt khách khí, hỏi Đại sư đến núi có việc gì. Đại sư nói: “Tôi muốn đến đây đóng cữa tĩnh tâm tu tập vài năm”. Hòa thượng nói: “Thầy định đóng cửa ở chốn nào?” Đại sư nói: “Được giới huynh Chí Viên bố thí cho một nơi rồi”. Hòa thượng nói: “Chí Viên dóng cửa tĩnh tu cũng là do tôi gúp đỡ, thầy ấy sức đâu mà cúng dàng thầy đóng cửa. Thôi, thầy cứ ở lại Tích Lân Đường của tôi đây mà tĩnh tu, tôi sẽ cúng dầng thầy. Thầy xem căn phòng nào vừa ý thì thầy chọn mà đóng cửa. Và nếu thầy muốn lấy đại điện của tôi làm chốn tĩnh tu thì tôi cũng sẽ dành cho thầy”. Thấy thầy dẫn lễ nhiệt tình như vậy, cũng khó khước từ, do đó Đại sư quyết định ở lại Tích Lân Đường đóng cửa ba năm. Nơi tĩnh tu của Đại sư, tôi cũng có dịp đến đó, còn để lại nhiều bút tích của Đại sư, rất tiếc là thầy đang gia coi sóc nơi đó không sắp xếp lại làm nơi kỷ niệm để tứ chúng qua lại tham quan.

Hồi Đại sư đóng cửa tiềm tu, có rất nhiều quan viên trong chính giới đều đến Đại sư để xin quy y. Có một truyện cần ghi lại ở đây là: Vào khoảng tháng tám dương lịch, Dân Quốc năm thứ 5, khi quốc phụ Tôn Trung Sơn cùng với Hồ Hán Dân tiên sinh đến thăm núi Phổ Đà, có gặp Đại sư, tôi xem trong niên phả của Đại sư thấy có đề cập đến một vị cư sĩ quen biết Đại sư (tôi quên mất tên vị cư sĩ đó rồi) nói rằng Đại sư có tặng cho ông một tấm ảnh chụp chung với Quốc phụ, nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra bức ảnh ấy. Hiện nay chúng ta chỉ được thấy bức ảnh Đại sư chụp chung với Tổng Thống. Ngoài ra Đại sư còn làm nhiều thơ, có bài dâng tặng quốc phụ, có bài làm sau lúc thiền định. Đại sư hồi ở núi Phổ Đà đóng cửa tiềm tu, đã đọc hết hơn 600 cuốn Đại Bát Nhã Kinh, do đó mà khai ngộ, trí tuệ của Đại sư bắt rễ từ kinh điển, từ trong thiền định, chứ đâu phải là trí tuệ tà vọng từ bên ngoài vào, cho nên tôi nói Đại sư có một mối nhân duyên thù thắng với Phổ Đà Sơn là như vậy (đoạn này lược dịch – LND).

  1. (Từ chương 60 đến chương 64 nói về mẹ con Tưởng Giới Thạch đến núi Phổ Đà, nói về truyện xin thẻ. người dịch lược bỏ. Xin thông cảm).
  1. VUA CÀN LONG BA LẦN LÊN NÚI THẤY CHƯỚNG MẮT, SÂN HẬN NỔI LÊNP

hổ Đà là chốn danh sơn thắng địa trong nước cũng như thế giới đều biết, nhất là phụ nữ, trẻ con trong cả nước, ai ai cũng biết. Các bậc đế vương xưa kia, không thân chinh ngự giá thì cũng ban tứ sắc phong gởi đến. Do đó, nhiều cao tăng Hòa thượng có đức hạnh đều được hưởng ân trạch của vua chúa, ban tứ long bào, áo tía. Ở Chùa Trước, Chùa Sau hiện nay vẫn còn bảo tồn được những vật báu vua ban và sắc phong đế vương thưởng tứ, họ rất quý những báu đó. Nếu hỏi đến những bậc cao niên tu hành ở Phổ Đà thì ai ai cũng vui mừng kể lại những truyện được gặp các đế vương, đại thần. Vì sư ở Phổ Đà khá đông, có người tốt người xấu, long xà hỗn tạp, không sao tránh khỏi có người đạo hạnh thấp kém, thiếu đoan nghiêm, nhưng cũng có người là La hán thị hiện, dấu kín dức hạnh để lộ tật xấu, như nhà sư Hà Tế Công trong tiểu thuyết dân gian mô tả, kẻ phàm phu mắt tục thấy các Hòa thượng đó ăn mặc lôi thôi, uy nghi lại thiếu trang nghiêm, thì chướng tai gay mắt. Câu truyện truyền thuyết về vua Càn Long ba lần lên núi thăm Phổ Đà đủ chứng minh điều đó.

Truyền rằng, có một vị Hoàng đế, một mình ba lần đến thăm Phổ Đà, câu truyện khá lý thú, có người nói rằng đó chính là vua Càn Long ba lần xuống Giang Nam, ăn vận quần áo thường dân, lên đến núi Phổ Đà ba lần. Dù sao thì vẫn là truyền thuyết, nhưng cứ coi là như vậy đi, có người nói rằng vua Càn Long là tín đồ Phật giáo, kỳ thực thì chưa chắc là như vậy, bởi vì có nhiều đạo tràng ở chốn danh sơn đã từng bị ông ta phá hủy, ông ta đến đâu để cho nơi đó được tiếng thơm, đều nào là “tứ nhất ngự bi”, “lập nhất ngự bi đình” v.v…, nơi đó vốn đã đẹp, bị ông ta “ngự” một cái thế là chẳng còn gì nữa, việc đó không những người trong cửa Phật nói, mà người thế tục cũng nhiều người nói như vậy. Trước đây, phía trước Chùa Trước, trước khi có “Ngự bi đình” (cái đình đặt tấm đá vua ban), thì nước thủy triều thường dâng lên tận cửa Chùa Trước, đặc biệt là sóng ở hai bên chùa dồn vào một hướng đối nhau, rồi nối liền với nhau, thật là một cảnh kỳ quan, nhưng từ khi có “ngự bi” trấn ở đó, thì nước biển không dâng đến đó nữa, phía đông hiện nay sóng triều chỉ dâng đến bãi cát Ngàn Bước, phía tây chỉ đến Tây Phương Thuyền, đồng thời trên núi từ đó cũng rất ít xuất hiện các bậc tổ sư đức đạo cao dầy.

Chúng ta đều biết Hoàng đế Ung Chính là một tín đồ Phật giáo đại ngộ, nghe nói thời đó có quốc sư vào cung điện, Ung Chính Hoàng đế bắt vua Càn Long phải ra đỉnh lễ quỳ bái quốc sư, nhưng Càn Long cho rằng mình đường đường là Hoàng Thái tử, bậc “thiên thặng chí tôn”, tại sao lại phải quỳ trước mặt một ông sư nghèo, nhưng phụ hoàng nghiêm mệnh, đâu dám trái lời, đúng là “chí dám bực mà không dám nói”, lúc đó ông ta đã như vậy, nếu sau này quyền bính nắm trong tay, thì ông ta chẳng nể nang gì gì với mấy nhà sư nghèo ấy. Sở dĩ sau này ông ta không ra tay phá hoại Phật pháp, có lẽ vì Quốc mẫu Hoàng Thái hậu của ông ta là một Phật tử trung thành, ông ta chưa dám trái ý từ bi mẫu hậu. Dưới đây là câu truyện Càn Long ba lần thăm núi Phổ Đà.

  1. THẤY ĐÁM TĂNG RƯỢU CHÈ CỜ BẠC THỀ GIẾT SẠCH PHÁ TAN PHỔ ĐÀ

Càn Long Hoàng đế xuống Giang Nam, để đi du ngoạn khắp vùng thánh dịa danh sơn, một hôm ông đến núi Phổ Đà, vì ông ta đi chơi lén, mặc quần áo thường dân, nên không ai biết là đương kim Hoàng đế, cho nên mọi người tiếp xúc với ông ta tự nhiên như người thường. Ở Phổ Đà có một tập quán xấu là nhà sư cứ trông thấy khách đến là chìa tay xin “tiểu hóa duyên” (xin tiền lẻ). Bình thường mọi người ngồi đầy bên lề đường, ngoài cửa hoặc dưới gốc cây, truyện phiếm với nhau, nhưng khi nghe tiếng mõ, tiếng kẻng là kéo nhau vào trai đường ứng cúng ăn cơm, cơm xong lại ra ngoài truyện trò cười nói thoải mái, thật là thảnh thơi, vô lo vô nghĩ. Chả thế mà vua Thuận Trị, một ông vua phải lo đủ thứ việc nhà, việc nước, việc thiên hạ, việc gì ông cũng phải quan tâm, đầu óc rối mù, khi nói đến đám người xuất gia “dữ nhàn vô tranh” (chẳng tranh chấp gì với ai), phải thốt lên rằng: “bách niên tam vạn lục thiên nhật, bất cập tăng gia bán nhật nhàn” (trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày, chẳng bằng nhà sư nhàn nửa buổi), nói lên sự hâm mộ của ông đối với cuộc sống thanh thản của người xuất gia. Vua Càn Long thì khác hẳn, ông ta thấy đám sư tăng chỉ ăn mà chẳng làm gì này, thì tỏ ra khó chịu, lại thấy các nhà sư tụm năm tụm ba, xin được mấy đồng tiền còm xúm nhau lại đánh bạc, thậm chí có người còn hút thuốc, thấy thế, ông ta càng thêm tức bực. Ông ta ngẫm nghĩ: ở trong cung, ta thường nghe mẫu hậu nói về đạo hạnh cao siêu, uy nghi hết mực của các nhà sư núi Phổ Đà, ngờ đâu lại toàn là cái đám sư hư hỏng như thế này, chuyến này ta về cung phải tâu lại cho mẫu hậu ta rõ, cho quân đến tóm cổ bọn này lại.

Khi về cung, quả nhiên ông bẩm lại những điều mắt thấy tai nghe về sư ở Phổ Đà cho mẫu hậu, và còn nói rằng sẽ đem quân đến chém cổ hết bọn sư này và phá tan núi Phổ Đà. Thấy con mình có ác cảm với đạo Phật như vậy, bèn nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Con ơi, phụ vương, tổ phụ rồi đến mẹ của con đây đều là tín đồ Phật tử trung thành, con không thể vì một vài nhà sư thiếu tướng oai nghi đó mà định phá hủy danh sơn, đó là điều ngàn lần không thể làm được. Hơn nữa, con cũng không thể biết được những nhà sư đó là ai, chưa chừng họ là Bồ tát hóa hiện để thử tâm lý của con đấy. Tóm lại con hãy nghe lời mẹ, con ạ! Công đức của Phật thật là vô biên, con hãy nhìn vào Phật, đừng nhìn vào Tăng, con ạ!”

Lần thứ hai, Càn Long lại xuống Giang Nam, bỗng lại nghĩ đến đám nhà sư ở Phổ Đà, ông ta muốn lại dến đó xem có còn tình trạng như trước nữa không, khi đến Phổ Đà, lại làm ông bực tức thêm, hìn như các nhà sư đó cố ý trêu tức ông thêm, họ thấy ông đến bèn xúm lại xin tiền “A Di Đà Phật! Xin hóa duyên nào!” Cho họ tiền rồi, họ bá vai bá cổ nhau hò hét, rủ nhau đi uống rượu, hút thuốc, trông họ không còn tư thế gì của nhà sư tu hành nữa. Hỏi họ tại sao lại như vậy, họ trả lời rằng: “Đó là gia phong hải ngoại, cảnh giới La Hán, không việc gì đến ông”.

Câu nói đó làm Càn Long bực tức lên đến cổ, không sao chịu được nữa, ông quát:

– Hừ! Không việc gì đến ta à! Chuyến này ta trở về cho lính đến chém đầu hết bọn các ngươi, xem có việc gì đến ta không!

Các nhà sư đang say bí tỉ, chẳng cần hiểu ông nói gì, cả toán vỗ tay cười vang, rời đi nơi khác. Chuyến này làm cho Càn Long không còn nhẫn nại được nữa rồi, về triều vào đến hoàng cung, mẫu hậu thấy sắc mặt con khác thường, bèn hỏi chuyến này đến Phổ Đà có truyện gì làm con không vui đến như vậy? Vua Càn Long tâu rằng: “Mẫu hậu đừng nhắc đến nữa, đám sư mõ ấy làm con tức sổ ruột rồi, bọn họ xấu xa vô cùng, không còn kiêng nể gì nữa, họ nói rằng nào là “gia phong hải ngoại”, nào là cảnh giới La hán”, “không ai làm được gì họ” thật là không còn phép tắc gì nữa, hừ, không ai làm dược họ ư? Con nhất định sẽ đem quân đến giết sạch cho sướng tay, không để tên nào sống sót xem con có làm gì được họ không!” Mẫu hậu để cho con trai mình nói cho hả cơn tức giận, rồi mới nhẹ nhàng an ủi khuyên con: “Không nên vì một chuyện nhỏ mà nảy lòng sân hận, rồi động niệm sát sinh, họ nói rằng họ là La hán, rất có thể chính họ là La hán thị hiện để thử lòng con đấy! Rất mong con hãy nghe lời mẹ, nể mẹ, chớ gây tội sát”. Cuối cùng bà nhắc lại một câu: “Con ơi, công đức của Phật là vô biên, con phải nhìn vào Phật, đừng chỉ nhìn vào Tăng!”

  1. QUÁN ÂM BỒ TÁT HIỂN THẦN THÔNG TRẢ MŨ ÁO, CÀN LONG SÁM HỐI

Lần thứ ba, vua Càn Long lại đến Phổ Đà chuyến đi này ông ta mang theo một sự ác cảm cao độ, quyết ra tay một phen. Ông cho một đội thuyền đỗ sẵn ngoài khơi, dự định nếu đám sư Phổ Đà vẫn như trước, không chịu sửa chữa sai lầm, thì ta sẽ đem quân đến trừng trị không cần hồi báo cho mẫu hậu nữa, sẽ giết hết không để sót một tên nào, thì ta mới hả dạ. Ông thủng thẳng từng bước đi đến cửa núi, thấy đám sư vẫn túm nhau lại cờ bạc, tồi tệ hơn trước, lại có cả đám đàn bà con gái lẫn trong đám sư ấy. Càn Long đứng bên cạnh đám người xem họ đánh bạc, nghĩ thầm, cái đám sư nghèo này không thích sống nữa hay sao ấy, chết đến nơi mà vẫn chưa ngộ, có vài đồng xu quèn mà thích thú đến như vậy. Thôi được, ta cũng có tiền mang theo, để ta đánh với họ vài keo, cho họ thua sạch không còn một xu dính túi, xem họ còn đánh bạc nữa không. Nghĩ vậy ông móc túi lấy ra một đồng bạc trắng, đặt đánh với họ nhưng bị thua, ông đặt tiếp mấy keo nữa nhưng cũng đều thua cả, keo cuối cùng bị nhà cái vơ sạch, trong túi không còn xu nào, tức quá, lột luôn mũ trên đầu xuống đánh tiếp, lại bị nhà sư đứng cạnh vơ mất, đội luôn lên đầu, thấy thua mất mũ, Càn Long cay lắm, lột luôn cả chiếc áo bào quý đang mặc trong người đánh tiếp. Kết quả là lại bị một ni cô ngồi ở giữa vơ mất, mặc luôn vào người, cuối cùng họ còn hỏi ông rằng còn gì đáng giá để đánh nữa không? Nghe hỏi như trêu tức, cơn lôi đình nổi lên đến tận cổ, không giết hết đám sư này đi thì không xong, ông lập tức ra lệnh cho đám tùy tùng mặc áo thường cùng đi, hãy đứng coi không cho tên nào trốn thoát, một mặt cho đóng chặt cửa ngõ đại điện, canh gác cẩn mật, còn ông vội vã trở lại bến đò, dẫn đám ngự lâm quân đến vây chặt Chùa Trước để bắt cho hết đám sư đánh bạc.

Khi Càn Long vừa vào đến cửa núi, vẫn còn trông thấy họ cười cười, nói nói đi vào đại điện, đến khi đưa quân vào đại điện thì chẳng thấy một bóng sư nào nữa, không biết họ trốn đâu cả, lùng sục tìm khắp cũng không thấy. Hỏi đám thị tùng thì họ cũng bảo rằng có trông thấy họ đi vào đại điện, giờ chẳng thấy một bóng ma nào cả, thật là kỳ lạ. Cuối cùng, có người trông thấy chiếc mũ của Càn Long đội trên đầu một bức tượng Bồ tát rất trang nghiêm, bèn tâu rằng: “Tâu bệ hạ, mũ của bệ hạ đây thôi!” Mọi người rất lấy làm lạ, chú ý xem kỹ, lại thấy chiếc long bào của Càn Long không biết tại sao đang khoác trên người Quán Âm Bồ tát. Càn Long lúc này sửng người ra, ông mới ngộ ra là đám sư đánh bạc vừa rồi chính là Quán Âm Bồ tát ứng hóa thị hiện, ông sợ quá, bèn quỳ rạp xuống trước tượng Phật Quán Âm rập đầu đảnh lễ không ngớt, và nói rằng: “Đệ tử này là kẻ phàm phu mắt tục, không biết Bồ tát thị hiện, tâm khởi ác niệm tội thật đáng chết, từ nay con không dám coi thường sư tăng, khẩn cầu Bồ tát đại từ đại bi tha giáng tai họa cho con!” Khấn xong vội vã đem quân về triều, bái kiến mẫu hậu kể lại sự việc vừa rồi, và tâu rõ đã xin sám hối. Lúc này mẫu hậu bèn nói với Càn Long: “Mẹ đã nói với con rồi, con không nghe lời mẹ, bây giờ con mới tin, song mẹ dặn lại con một điều, từ nay khi nào con thấy nhà sư hành vi không đoan chính, quần áo không chỉnh tề mà nổi cơn bực tức, thì con hãy nhớ lấy lời mẹ dặn: Con ơi công đức Phật vô biên, hãy nhìn vào Phật, chớ nhìn vào Tăng!”

Hiện nay có một số ít Phật tử tại gia, thường hay đàm luận những thiếu sót của Tỳ khưu, là bậc đại đức cư sĩ nên lấy truyện đó làm răn, và nhớ kỹ câu nói của mẫu hậu… Bồ tát cũng biết rằng sau này trên núi cũng sẽ có một số sâu bọ làm bại hoại chốn danh sơn, nên ngài thị hiện để răn trước các bậc đế vương đương thời, đồng thời cảnh tỉnh chúng ta rằng không nên vì một số ít nhà sư xấu mà coi thường chốn danh sơn thánh địa, mục đích lớn nhất của chúng ta là “nhìn vào Phật chứ không phải nhìn vào Tăng!”

  1. BÀNH ĐẠI NHÂN THĂM NÚI PHỔ ĐÀ THẬT KHÔNG MAY, GẶP SƯ THOÁI HÓA

Trong Phật giáo cũng như trong đoàn thể đảng phái ngoài xã hội, có người tốt kẻ xấu, người trung kẻ gian. Lúc đầu ở Phổ Đà Sơn tất nhiều đều là các nhà sư phúc điền, thanh tịnh, “xứng đáng là người chủ công đức của nhân thiên”, nhưng càng ngày càng xa thời Phật tại thế, đạo pháp bị bại hoại dần dần, nên không sao tránh khỏi có một số sư tăng hòa thượng không giữ được thanh qui, cũng như trong xã hội cũng có kẻ hiền người ngu nằm trong đoàn thể. Người đời không xem xét kỹ, nên có những ý nghĩ sai lầm, có khi thấy một vài nhà sư thoái hóa không giữ được giới luật, có những hành vi bất chính mà họ vơ đũa cả nắm, cho tất cả sư tăng đều xấu cả, thậm chí vơ cả đạo Phật vào đó… Ý nghĩ và lời nó vô lý đó nếu từ miệng của kẻ không hiểu biết nói ra thì cũng bỏ qua, nhưng lạ nhất là nhiều vậc vương công đại thần cũng có những ý nghĩ sai lầm như vậy. Ở núi Phổ Đà nếu không có Bồ tát Quán Âm đại từ đại bi, linh thiêng phù hộ, có lẽ các vị quyền cao chức trọng ấy đã tiêu diệt sạch sư tăng ở đây rồi. Chẳng nói gì xa xôi, đời Thanh có một vị đại nhân Bành Ngọc Lân tiên sinh, vì thấy một nhà sư thoái hóa, có hành vi bất chính mà định giết sạch sư tăng ở Phổ Đà rồi đó.

Câu truyện như sau: Vào cuối triều Thanh, lúc đang xảy ra phong trào Thái Bình Thiên Quốc, ở tỉnh Hồ Nam xuất hiện một vị quan to, tên là Bành Ngọc Lân, tên tuổi hồi đó ngang hàng với Tăng Quốc Phan, Tả Tông Đường. Song tiếc là đám người này chỉ biết có Khổng Tử, không biết có Phật Đà, tâm lý bài ngoại đặc biệt quyết liệt, họ cho rằng đạo Phật là từ nước ngoài đưa vào, phải bài trừ tận gốc. Dưới con mắt của họ, tăng lữ là những con người thừa, gánh nặng cho quốc gia, và là hạng người lười nhác. Trước khi ông đến Phổ Đà, ông đã mang theo tâm lý ghét sư, dưới con mắt của ông, sư là đám người phải xóa sổ từ lâu, nhưng chỉ chưa có cớ gì để thực hiện ý đồ mà thôi. Có một lần, ông đến Phổ Đà đi khắp nơi, chỉ nhằm nhằm tìm kẻ hở xem có sư tăng nào phạm giới luật không, có ai có hành vi bất chính không. Thật không may, đúng vào lúc Phổ Đà có truyện. Ở Chùa Trước có một sư thoái hóa, thuộc loại lưu manh đến trọ, đúng vào hôm đó, hắn không biết từ đâu mua được một miếng thịt mỡ đem về sơn môn, không để ý bị Bành đại nhân trông thấy.

  1. BÀNH KHÂM SAI Ỷ THẾ LĂNG NHỤC TRỤ TRÌ ĐÒI NHÂN CHỨNG BẮT QUẢ TANG MỚI CHỊU

Bành đại nhân đang để ý theo dõi đạo Phật, thì thấy ngay một nhà sư xách thịt về chùa, đúng là “lạy ông tôi ở bụi này!” chẳng cần phải đi tìm đâu xa nữa. Trong lòng thầm nghĩ: bọn sư phá giới các ngươi thật là “đường lên thiên giới chẳng chịu đi, cửa địa ngục đóng mà cứ lao đầu vào!”, nhân dịp này ta sẽ có lý do xóa sổ hết bọn sư phá giới của cả núi”. Do đó ông lén theo gót mấy nhà sư xem họ đi vào bếp nào, định nắm chắc chắn nhân chứng rồi sẽ đến sư trụ trì, đến “tính sổ nợ”. Ông đứng từ xa chăm chú theo dõi, trông rõ mồn một, nhà sư vừa rồi đang rửa thịt, thái thịt, dóm bếp. Ông đợi lúc bỏ thịt vào nồi rồi mới hí hửng đến phòng Phương trượng. Phương trượng thấy có Bành đại nhân đến bèn niềm nở mời ngồi, pha trà thỉnh khách. Bành đại nhân nóng ruột, sợ nhà sư dưới bếp ăn hết thịt thì mất chứng cớ, không bắt được quả tang, cho nên không muốn nói chuyện khách sáo nữa, mà đi thẳng ngay vào vấn đề:

– Thầy chùa này! Chùa của thầy có bao nhiêu sư, họ có phải là những người giữ đúng giới luật của nhà Phật hay không?

– Chùa của bần tăng có hơn hai ngàn người xuất gia, trong chùa không có đàn bà con gái, và cũng không bao giờ ăn mặn, chỉ ăn chay, người nào cũng giữ rất đúng thanh quy giới luật.

– Hừ! Thầy quá tự khoe khoang đấy! Vừa rồi chính tôi còn trông thấy người của thầy nấu thịt lợn ăn đấy!

Thầy trụ trì nghe xong câu đó bèn cướp lời nói ngay:

– Xin đại nhân chớ nói đùa, trong núi chúng tôi tuyệt đối không có truyện đó!

Bành đại nhân nói:

– Đừng nói gì cả núi, riêng ở ngay chùa này đã có truyện đó, chính mắt tôi trông thấy!

– Đại nhân nói vậy, tôi không thể thừa nhận là có việc đó. Sư trong chùa chúng tôi giữ rất nghiêm giới luật, xin đại nhân chớ dùa chúng tôi.

Bành đại nhân thấy thầy trụ trì cứ khăng khăng không nhận có truyện đó, trong lòng càng bực tức, lớn tiếng mắng nhiếc:

– Các người toàn là một lũ sư láo lếu, bênh nhau, cùng một giuộc cả, chính tôi trông thấy rõ ràng, thầy còn cố cãi, bọn sư phá giới các người phải đem chém đầu hết.

Thầy trụ trì thấy Bành đại nhân bực tức, bản thân thầy cũng không biết đúng có truyện ấy, nên cũng không biết nói sao, đành cứ phải nói mạnh:

– Đại nhân nói oan cho người tốt, tôi không thể chấp nhận được, nếu quả thực có chứng cớ, thì lúc đó tùy ngài xử phạt!

Bành đại nhân nói:

– Được, thầy cùng đi với tôi, tôi sẽ cho thầy thấy chứng cớ, đúng sự thật thì tôi sẽ giết hết các sư trong cả núi.

Thật là thương cho thầy trụ xứ già, tay chân run lẩy bẩy lật đật chạy theo Bành đại nhân. Trong bụng cứ lẩm bẩm khấn danh hiệu Bồ tát đại sĩ, khẩn cầu Bồ tát phát tâm từ bi, nếu quả thật có truyện không may đó xảy ra thì mong ngài phù hộ độ trì, để sư tăng cả núi khỏi bị tai ách.

  1. QUÁN ÂM BỒ TÁT HIỂN THẦN THÔNG CỨU THOÁT SƠN TĂNG TRÁNH KHỎI NÀN

Bành đại nhân dẫn thầy trụ trì đến chỗ nhà sư nấu thịt lợn, thật đáng thương, tên tăng phá giới nọ vẫn không hay biết gì, vẫn lúi húi đun nồi thịt. Bành đại nhân nhìn thẳng vào mặt thầy trụ xứ, tay chỉ vào nồi thịt hỏi:

– Thầy thử hỏi tên này xem trong nồi đang nấu cái gì?

Thầy đành lên tiếng hỏi:

– Đại nhân đây hỏi thầy, trong nồi đang nấu cái gì?

Tên sư phá giới ngẩng đầu lên thấy thầy trú xứ lại đi với một vị tướng mạo đường đường, có vẻ là một quan lớn, vẻ mặt hầm hầm, đoán chắc là đến điều tra điều bí mật, hắn tái mặt, mất hết hồn vía. Đúng là có tật giật mình, hắn run lẩy bẩy nói:

– Dạ… dạ thưa ninh… đậu phụ ran ạ!

– Đại nhân đã nghe thấy nói gì chưa? Nói là ninh đậu phụ rán.

– Hừ! Đậu phụ rán ư? Chính tôi thấy hắn ninh thịt mỡ, lại còn định nói lừa ta là đậu phụ rán?

Lúc này Bành đại nhân chẳng còn nể nang gì nữa, xông thẳng đến bên nồi thịt mở vung ra để đám sư này thấy rõ chứng cớ, xem còn có cãi nữa không, rồi sẽ đem quân đến hỏi tội. Nào ngờ Bồ tát hiển thánh, nồi thịt tự nhiên biến thành nồi đậu phụ rán. Lúc đó chính làm cho cái ông Bành đại nhân định hại sư tăng nọ sững người. Ông ta nghĩ bụng: rõ ràng mình vừa trông thấy hắn xách thịt về, rửa thái bỏ vào nồi ninh, sao bây giờ trở thành đậu phụ rán thì cũng lạ thật! Chẳng nhẽ ban ngày ban mặt mà mình lại nhìn lầm à! Ông ta đang nghĩ như vậy thì thầy trụ xứ cũng trông thấy rõ ràng là nồi đậu phụ rán thật, cũng mạnh dạn hẳn lên, nói:

– Tôi đã nói rằng, sư tăng trên núi chúng tôi đều là người tốt, rất có qui củ cần tu phạm hạnh, ngài cứ không tin, bây giờ chắc ngài tin rồi chứ?

Bành Ngọc Lân lúc này vừa bực tức, vừa hổ thẹn, bực là vì mắt mình tại sao nhìn lầm, thịt với đậu phu cũng không phân biệt, thẹn là vì mình không nên quá căng với thầy trụ xứ, nói hơi quá lời, bây giờ đâm ra mắc cở khó xử, đành phải đổi giọng nhận sai:

– Xin lỗi, vừa rồi tôi nhìn lầm, bây giờ tôi đã tin ở đây đều là các nhà sư tốt cả. Tôi ngưỡng mộ chốn danh sơn này từ lâu, nay đến đây để lễ Quán Âm Bồ tát, sau này nhà chùa có gì khó khăn, tôi có thể giúp đỡ bảo vệ chốn đạo tràng của các thầy.

Từ đó Bành Ngọc Lân trở thành người đỡ đầu bảo hộ cho sơn môn. Truyện đó cũng nói lên rằng Bồ tát là bậc đại từ đại bi, đã hiển linh cứu sống của toàn bộ chúng tăng của sơn môn, làm cho người chưa tin đạo Phật phải tin đạo Phật, đủ thấy uy đức của Bồ tát quả thật là vô biên.

  1. MUỐN ĐƯỢC THẤY QUÁN ÂM THỊ HIỆN CHÀNG ĐỒ TỂ ĐI LỄ PHỔ ĐÀ

Truyền rằng có một người làm nghề giết lợn, nghiện rượu lại hay gây gổ, đối với mẹ già thì bất hiếu vô cùng, cử chỉ thô bạo, thường ra ngoài uống rượu say về nhà lại chửi mắng mẹ già, có khi còn đánh đập mẹ già một cách tàn bạo. Bà mẹ quả phụ ấy sinh ra một đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu với bà như vậy, bà chỉ tự giận mình là nghiệp chướng kiếp trước quá nặng, và chỉ than thở cho số phận của mình quá khổ. Trong nhà chỉ có bàn thờ Thánh tượng Quán Âm. Mỗi khi con bà đi vắng nhà, bà lại đến trước tượng Phật, quỳ khấn sám hối túc nghiệp, mong Quán Âm Bồ tát đại từ đại bi hãy thương xót cho cái tuổi già đỡ khổ, hiển linh cảm hóa cho đứa con ngỗ nghịch của bà, hồi tâm chuyển ý, cải ác hướng thiện, đừng đánh chửi bà nữa.

Đúng là người có thành tâm, Phật có cảm ứng. Đứa con của bà tuy bất hiếu với mẹ nhưng vẫn còn có chút lòng tin đối với đạo Phật, nên rất muốn được đi lễ núi Phổ Đà, lại đúng vào mùa xuân giêng hai, khách hành hương tấp nập kéo nhau đi lễ Quán Âm Bồ tát ở Phổ Đà rất đông, nếu Bồ tát không có cảm ứng thì làm sao có thể cảm hóa đám người này được? Anh ta lại nghe những người đi lễ Phổ Đà về, nói được trông thấy Quán Thế Âm Bồ tát sống, tất cả những cái đó đã khơi dậy cái tâm đạo trong con người anh đồ tể bất hiếu này. Thế là hắn cùng với đoàn người đi hành hương, ngày đi đêm nghỉ, lúc lên ngựa, lúc xuống thuyền, chẳng mấy chốc mà đã đến chân núi Phổ Đà.

  1. BỒ TÁT THỊ HIỆN CHỈ ĐƯỜNG VỀ NHÀ GẶP QUÁN ÂM LÃO MẪU

Đến núi Phổ Đà, anh tìm khắp để được thấy Quán Thế Âm Bồ tát sống, nhưng tìm khắp chùa này đến am khác, từ động đá này đến động đá khác chẳng thấy Bồ tát đâu cả, anh rất thất vọng và có ý oán trách. Bồ tát biết anh làm nghề giết lợn, lại ngỗ nghịch bất hiếu, nhưng cũng may còn có chút thiện tâm, biết lên chùa đi lễ, chỉ có điều là không biết hiếu thảo chăm sóc mẹ già ở nhà. Cho nên hôm nay đến đây, Bồ tát điểm hóa cho anh, để anh cải ác làm việc thiện, trở thành đứa con có hiếu, sau này chết đi khỏi đọa vào luân hồi. Bồ tát nghĩ vậy, bèn biến thành một nhà sư già, ngồi ở trước động Triều Am, để chỉ đường cho người đời đang lầm đường lạc lối. Anh chàng bất hiếu nọ thấy có một nhà sư già, đạo mạo uy nghiêm, đoán chắc là cụ ở chùa này đã lâu, phải biết tường tận mọi chuyện, anh ta bèn chắp tay vái chào và hỏi:

– Xin hỏi Thầy, không biết Quán Âm Bồ tát sống tại chùa các thầy ở chỗ nào, con đến đây tìm mấy ngày rồi mà không thấy, không hiểu thầy có biết không, bảo dùm con.

Cụ già nói:

– Anh muốn thấy được Quán Âm Bồ tát sống thì phải quay về nhà ngay. Bồ tát đã đến nhà anh rồi đó, anh mau về mà xin gặp, chớ bỏ qua dịp may mắn này.

Anh ta nói:

– Vâng, con sẽ về ngay, nhưng con chưa biết mặt Bồ tát, có khi gặp mà không nhận ra thì uổng quá.

Cụ già nói:

– Quán Thế Âm Bồ tát dễ nhận thôi, anh về nhà thấy bà già mặc áo trái, đi giày trái, đó chính là Phật Bà Quán Âm mà anh muốn gặp đấy! Anh phải thành khẩn quỳ xuống trước mặt bà già ấy mà lễ, tuyệt đối không được mảy may khinh nhờn.

Anh chàng bất hiếu nghe cụ già dặn dò xong, bèn vội vã lên đường về nhà, để thấy được Phật Bà Quán Âm. Hôm về đến nhà thì đã khoảng mười hai giờ đêm rồi. Mẹ anh ta từ khi đứa con bất hiếu phát nguyện đi lễ Phổ Đà, trong lòng cũng mừng thầm. Ngày nào bà cũng hương nến đều đặn, thành tâm khấn lễ Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, mong Bồ tát hiển thánh, cảm hóa cho đứa con bất hiếu của bà.

Một hôm sau khi lễ Phật xong, bà vừa lên giường chợp mắt được một lúc, lúc đó đã vào nửa đêm rồi, bỗng nghe tiếng gọi cửa, giọng quát tháo, bà nhận ra là tiếng của đứa con bất hiếu của bà, tiếp đó là tiếng đập cửa thình thình, bà đang mơ mơ màng màng, nghe tiếng con bà sợ quá, tự trách mình là sao lại ngủ say như vậy, để cái ông “Diêm vương sống” (con bà) này giận dữ, chuyến này bà biết thế nào cũng bị một trận đòn tàn nhẫn, môi bà lập bập, vội thưa:

– Mẹ ra đây! Ra ngay đây!

Trong lúc vội vã, hoảng hốt bà khoác bừa chiếc áo trái lên người, xỏ chân vào giày, chẳng phân biệt là trái hay phải nữa, thắp đèn vội vã ra mở cửa.

Hai tay bà run lây bẩy, mở then cửa, chờ sẵn một trận đòn của đứa con ngỗ nghịch đổ lên đầu bà, ngờ đâu vừa mở cửa, đứa con của bà nhìn thấy bà, sợ quá luống cuống, vội quỳ xuống trước mặt dập đầu lễ lấy lễ để, mồm còn lẩm bẩm:

– Con tên là… xin bái kiến lão mẫu Quán Âm.

Bà mẹ anh ta thấy thế không hiểu đầu đuôi ra sao cả, bà còn nói với con bà rằng, anh đừng nhầm, tôi là mẹ của anh chứ không phải là lão mẫu Quán Âm đâu.

Anh ta nói:

– Ở Phổ Đà, thầy sư già có nói với con về nhà thấy người nào mặc áo trái đi giày trái, đó chính là Quán Thế Âm Bồ tát đấy! Con không nhầm đâu, mẹ chính là lão mẫu Quán Âm rồi!

Bà già nghe con nói đầu đuôi như vậy, nhìn lại mình, thấy đúng là mặc áo trái, đi giày trái, bất giác bật cười.

  1. BIẾT LỖI CŨ NGHỊCH TỬ HỒI TÂM BỎ NGHỀ ÁC, NGUYỆN NGHE LỜI MẸ

Lúc này mẹ anh ta mới biết đó là cảm ứng của Quán Thế Âm Bồ tát, giáo hóa đứa con ngỗ nghịch của bà biết hồi đầu hướng thiện. Nay con bà đã biết coi bà như Quán Âm lão mẫu, và bà cũng thấy như phúc đến tâm linh, bà thẳng thắng răn dạy con bà:

– Vạn ác dâm vi thủ, bách thiện hiếu vi tiên (muôn sự vạn ác dâm đứng hàng đầu, trăm việc thiện hiếu là trước hết). Ở nhà con không hiếu thảo với mẹ già, thì làm sao con được hưởng điều tốt lành? Con muốn đến Nam Hải để được thấy Bồ tát Quán Thế Âm sống ư? Đứa con ngỗ nghịch bất hiếu thì làm sao có thể thấy được kim dung của ngài, con nên hiểu rằng, cụ già chỉ dẫn cho con ấy chính là Quán Thế Âm Bồ tát đấy, ngài sợ con ngỗ nghịch bất hiếu, e rằng sau này con chết đi phải chịu ác báo, cho nên chỉ đường cho con về nhà chăm sóc hiếu thảo với mẹ già, công đức đó cũng giống như được bái kiến Quán Âm Bồ tát sống vậy.

Con bà quỳ dưới đất nghe bà giảng giải, bỗng lương tâm tỉnh ngộ, nhận ra sai sót trước đây của mình, không nên ngỗ nghịch bất hiếu với mẹ già. Anh ta bèn quỳ trước bàn thờ phát nguyện, xin sửa lại lỗi xưa, làm một đứa con hiếu thảo, cải ác hướng thiện, bỏ nghề giết lợn, chuyển sang buôn bán nhỏ để nuôi mẹ già sống trọn tuổi trời.

Có rất nhiều người chỉ biết đi tìm miếu thiêng chùa lớn ở tận nơi xa để làm công đức, mà không biết việc chăm sóc hiếu thảo với cha mẹ, làm việc công đức ngay trong gia đình, làm cho gia đình sống hòa lạc. Cổ nhân có câu: “Cha mẹ nhỡn tiền không biết kính, công đức ở đâu chốn miếu thiêng?” Bạn đọc nghe câu chuyện trên đây, mới thấy rằng tín đồ Phật tử không những chỉ dâng hương lễ Phật, mà còn phải hiếu dưỡng cha mẹ mới thật sự là học Phật!

  1. TIỂU THƯ PHÁT TÂM BỐ THÍ ÁO TĂNG THIẾU MỘT SUẤT, LA HÁN ĐÒI BẰNG ĐƯỢC

Có một tiểu thư lá ngọc cành vàng, con ông Tể tướng phát tâm đi lễ Phổ Đà làm việc công đức, quảng kết chúng Tăng duyên. Vì cô giàu có, không thiếu gì tiền bạc, cho nên đi lễ chốn danh sơn, tất nhiên không chịu về tay không được. Cô nghĩ bụng: “Mình sở dĩ sanh vào gia đình một vị Tể tướng, đó là do kiếp trước đã gắng làm ruộng phúc, ra tay bố thí, tu được thiện quả. Nay sống trong một gia đình phú quý, nếu không lợi dụng của cải hiện tiền, gây dựng phúc điền, bố thí cũng dàng tăng phúc điền thanh tịnh, thì quả là sống uổng cả đời người nơi trần thế này!” Nghĩ vậy, cô quan sát xem ở chùa thiếu gì, cô sẽ bố thí cái đó.

Cô thấy các sư trong chùa phần lớn đều mặc áo rách vá cũ kỹ, cho nên cô phát tâm bố thí cho mỗi vị sư trên chùa một bộ áo Tăng, nắm vững con số lập danh sách, mua vải thuê may, sau đó phát mỗi vị một bộ theo danh sách liệt kê. Hôm phát áo Tăng, các sư Tăng tập hộp đầy đủ ở đại điện, do một vị đứng ra xướng danh, đọc đến tên ai, người đó sẽ đến trước mặt tiểu thư, do chính tay tiểu thư trao áo. Theo thống kê trong danh sách mỗi người một bộ, tính đủ cả. Nhưng phát đến người cuối cùng thì bỗng nhiên thiếu mất một suất, cô không biết người đó ở đâu đến. Thầy trụ xứ cũng không nhận ra đó là ai, lúc này cũng không kịp may thêm một bộ khác để phát, nhưng ông sư này cứ nhất định đòi bằng được áo mới chịu, ông mắng cô là coi thường ông.

– Tại sao người khác có, mà tôi cũng là người xuất gia tu hành, riêng một mình tôi lại không có phần, thế là thế nào?

Cô tiểu thư tươi cười dịu dàng nói:

– Thầy ơi! Rất xin lỗi thầy, việc này trước có đăng ký ghi tên, ghi tên trước đều có cả, nay trong danh sách không có tên thầy, tạm phải thiếu vậy, đợi tôi may thêm rồi biếu thầy sau có được không thầy?

– Không được! Không được! Tôi phải có ngay bây giờ, không có thì giờ ngồi đợi tiểu thư ở đây mà lấy áo, nếu không, tiểu thư phải cởi áo của tiểu thư cho tôi, nếu tiểu thư không chịu cởi thì tôi sẽ cởi!

Cô tiểu thư bị nhà sư nọ dồn đến mức khóc dở mếu dở, thẹn đỏ cả mặt. Cô cảm thấy cửa Phật không phải lúc nào cũng dễ mở, làm việc thiện cũng khó lắm thay! Cuối cùng không có cách nào khác, đành phải cởi chiếc xiêm đang mặc, đưa cho nhà sư cho êm chuyện.

  1. NGÀI TỂ TƯỚNG TỨC GIẬN KHỞI BINH QUYẾT RỬA NHỤC CHO CÔ CON GÁI

Sau khi tiểu thư phải cởi xiêm y để bù vào suất áo do nhà sư nọ đòi bằng được, trong lòng vừa tức vừa thẹn, xuống thuyền về thẳng tướng phủ. Về đến nhà cô vừa khóc vừa trình bày việc bị nhà sư trên chùa Phổ Đà đòi hóa duyên bộ áo xiêm đang mặc trên người cho cha cô nghe, ngài Tể tướng thấy con gái mình, đường đường là đấng nữ nhi lá ngọc cành vàng, mà lại bị một nhà sư ngang ngược nào đó bắt nạt lấy xiêm y, ông bèn nổi cơn thịnh nộ chửi mắng ầm ỉ. Nhân cơn thịnh nộ, ông lập tức ra lệnh phải san bằng núi Phổ Đà. Một đại đội binh mã do một viên tướng dẫn đầu, cầm lệnh tiễn ấn phù, uy phong lẫm liệt kéo quân đi đánh Phổ Đà.

Sau khi cô tiểu thư kể lại mọi truyện cho cha nghe xong, trở về khuê phòng, một truyện bất ngờ xảy ra (cô đứng sửng lại hồi lâu) bỗng thấy trên giường của mình hiện đâu ra bộ xiêm đã bố thí cho nhà sư ngang ngược nọ, nhìn kỹ đúng là bộ xiêm đó. Cô cuống quít, vội chạy đến sảnh đường bẩm báo lại với cha:

– Thưa cha, thật là lạ quá! Bộ xiêm của con rõ ràng là bị nhà sư đòi lấy bằng được, thế mà bây giờ bỗng lại ở trên giường, không biết là thế nào!

Tể tướng nghe con gái nói như vậy, ngài quả là người hiểu biết, bèn nói rằng:

– Chắc là Bồ tát ở Phổ Đà biến hóa thành một nhà sư để thử lòng thành bố thí và sự nhẫn nhục của con đấy, cha đã cho quân đến Phổ Đà, nếu họ giết hại sư tăng ở đó thì thật là gây ra tội lớn lắm!

Tiểu thư nghe cha nói như vậy, tự cảm thấy hổ thẹn trong lòng, cô không ngờ tới đó là Bồ tát La Hán thử thách tấm lòng nhẫn nhục thí xả của cô, nay cha cô vì việc của cô mà đem quân đến dánh Phổ Đà, nếu giết hại các nhà sư vô tội ở đó thì thật có tội lớn với Phật xuất thế, sám hối cũng không rửa sạch. Lúc đó cô bất giác quỳ xuống chân cha, khóc lóc khẩn cầu cha cô hỏa tốc tìm cách kéo quân về, để đỡ gây ác nghiệp phải đọa xuống dịa ngục. Bản thân ngài Tể tướng cũng sợ mắc tội, nên đã thân chinh cưỡi ngựa thiên lý, ra roi cố đuổi kịp đội quân, để tránh gây rối loạn ở Phổ Đà, làm sơn tăng sợ hãi.

  1. HAI LA HÁN GÂY GỔ ĐUỔI NHAU BAY TRÊN KHÔNG THI THỐ PHÁP THUẬT

Ngài Tể tướng dẫn đoàn tùy tùng suốt đêm không nghỉ, cấp tốc đến Phổ Đà Sơn, gần đến nơi thì gặp quân lính đang kéo nhau trở về. Ngài tưởng thế là sư Tăng ở Phổ Đà đã bị họ giết sạch, trong lòng nóng rực như lửa đốt, vừa gặp doàn binh mã ông hỏi ngay:

– Đã giết sư ở Phổ Đà chưa?

Ngài đại tướng lãnh binh lắc đầu:

– Dạ chưa! Dạ chưa! Chúng tôi hãi quá không dám ra tay, và cũng thấy không đủ bản lãnh, xin Tể tướng muốn giết thì cứ thân chinh dến đó mà giết, chúng tôi không dám giết!

Nghe nói chưa giết được ai, lúc đó ngài Tể tướng mới thở phào nhẹ nhõm, nhưng bộ tướng của ông lại hiểu lầm ý câu hỏi. Tể tướng lại hỏi:

– Các ông đến Phổ Đà thấy chuyện gì? Tại sao không dám hạ thủ.

Vị tướng quân lãnh binh bồi bẩm Tể tướng:

– Chúng tôi thừa lệnh Tể tướng, phát binh đến Phổ Đà, khi quân lính dóng ở quân hạm, chúng tôi cho tiền hạm đến trước thăm dò, nào ngờ vừa đến của chùa, thì thấy hai nhà sư nghèo đang đánh mạt chược (một loại bài bạc), chúng tôi thấy vậy bực lắm định giết quách hai tên đó ngay, nhưng họ vẫn thản nhiên, chết đến cổ mà vẫn chưa biết, thế rồi hai người gây gổ cãi nhau, đánh nhau luôn, chúng tôi nghĩ để họ đánh nhau rồi sẽ hạ thủ cũng không muộn, nào ngờ họ không phải là loại sư tầm thường, họ đuổi nhau bay lên trên trời, rồi họ đánh nhau ngay trên trời, cứ thế họ đuổi nhau lên tận mây xanh, chúng tôi thấy thế phát hoảng, không dám coi thường đám sư tăng ở chùa, chắc họ đều là La hán hiển hóa, xuống trần đùa nghịch cho vui, cho nên chúng tôi phải rút quân trở về.

Ngài Tể tướng nghe xong câu chuyện, miệng bỗng bật ra một câu: “A Di Đà Phật!” rồi nói với họ rằng:

– May mà các ông chưa giết nhằm các bậc Tăng Hiền Thánh, nếu không thì tội của cha con tôi không sao gỡ nổi.

Ngài cũng kể lại sự việc vừa xảy ra ở nhà cho họ nghe, ai cũng phải kinh ngạc và cảm thán về chuyện Bồ tát La Hán ở núi Phổ Đà hiện thần thông xuống đùa vui nơi trần thế, thật là chuyện không thể tưởng tượng được. Hành động của các bạc La Hán, quả thực không phải đám phám phu mặt thịt chúng ta có thể lường được. Từ đó, ngài Tể tướng cũng thành tâm tin theo đạo Phật, và nguyện bảo hộ chốn danh sơn Phật địa.

  1. PHỔ ĐÀ SƠN THẬT LẮM TRUYỆN LẠ KẺ PHÀM PHU HIỂU HẾT ĐƯỢC SAO

Tục ngữ có câu: “Sư tăng không tác quái, trai chủ không lễ bái”. Tất nhiên cũng có một số ít loại sư tăng xấu cố làm ra như vậy (để người ta tưởng lầm là “La Hán” ứng hóa, chứ thực ra thì họ đúng là loại sư biến chất), nhưng cũng có một số ư rất kỳ quái, có lẽ mỗi danh sơn đều có vài nhà sư như vậy, làm cho màu sắc của sơn môn thêm đa dạng. Đây tôi xin điểm vài truyện:

Hồi tôi chưa đến Phổ Đà, có một nhà sư gọi là Tiểu Quảng Đông (người Quảng Đông) là một người rất lạ, có người gọi là “bán tiên” (nửa tiên), có người gọi là La hán. Thầy ít nói truyện với ai, thậm chí ba năm không nói được sáu câu, không hóa duyên (xin tiền) của ai, và cũng không thấy Thầy ăn uống gì. Thầy không những không nói truyện, ngay cả ai muốn gặp để thấy mặt thầy cũng khó. Thầy nghe tiếng ai gọi tên là thầy chạy, thậm chí chạy lên núi, trèo lên cây để trốn không chịu cho ai thấy mặt, cho tiền thầy cũng không nhận, nếu có nhận thì thầy cũng chuyển cho người khác ngay, nếu không thì thầy quẳng ngay vào lư hương. Nghe nói, khi thầy chết, thầy tự vào rừng nhặt cỏ khô, củi cành, rồi ra bãi cát chất lên tự thiêu.

Nói đến nhà sư kỳ lạ ở núi Phổ Đà, có một câu truyện không ai có thể quên được, đó là truyện Tiểu La Hán. Tên thầy là gì không ai biết. Nghe nói trước thầy bị câm, ba năm không nói được một câu nào, nhưng thầy có một người anh ruột, nghe đâu là một vị sư trụ trì hoặc Phương trượng gì đó, thầy cũng rất quan tâm đến em ruột của mình, thương em bị khổ vì câm, nên bảo em cứ đến đêm khuya vắng vẻ thành tâm lễ Bồ tát Quán Thế Âm đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, Bồ tát nhất định sẽ cảm ứng và chữa khỏi bệnh câm cho em thầy. Tiểu La Hán nghe theo lời dặn của anh, ngày nào cũng vậy, cứ sau giờ chỉ tịnh, mọi người ngủ rồi là chú bắt đầu lễ Quán Âm Bồ tátt liên tục như vậy mấy năm, đúng là người có thành tâm, Bồ tát nhất định sẽ tùy nguyện mà cảm ứng. Tiểu La Hán dần dà nói được, không những nói được mà còn rất có duyên với mọi người, sống cởi mở rộng rãi, ít ốm đau, ít phiền não có phong độ của nhà sư Phụng Hóa đời đường, trong cả sơn môn từ già chí trẻ, Tăng cũng như tục đều biết Tiểu La Hán, và ai ai cũng thích gần, nhưng tính chú như điên điên dại dại, cho nên gặp ai chú cũng trêu ghẹo cho vui, nhưng chưa bao giờ thấy chú tỏ ra khó chịu tức giận và cũng không hề cãi cọ với ai bao giờ, suốt ngày lúc nào cũng tươi cười với mọi người.

Có một điều đặc biệt là chú có một cái bụng to kinh khủng, cái bụng của chú quả thật không thể coi thường được. Cái bụng ấy không những chứa được sự nhẫn nhục, mà người khác không thể chịu đựng được, mà còn có thể chứa đựng một lượng cơm mà người khác không sao chứa nổi. Bụng của chú không kém gì bụng của Bồ tát Di Lặc. Nếu không ai cho ăn gì thì chú cũng nhịn liền không cần ăn, nếu cho ăn thì dư bao nhiêu chú cũng ăn hết, không bao giờ từ chối, chú cho hết vào cái “túi da” trời cho của chú. Đồng thời một điều lạ lùng là các loại món ăn, chua cay mặn ngọt, thậm chí thiu thối thì chú cũng chẳng chê bao giờ, ăn tất. Có người cố tình đùa chú, thấy chú ăn bất kỳ thứ gì, kể cả cơm thừa canh cặn, hết hàng thùng rồi, họ mang thêm cho chú một thùng nước sôi để nguội, nói với chú: “Chú Tiểu La Hán này, ở đây có một ấm vại nước trắng, chú có uống hết được không?” Chú cười và nói: “Để thử xem sao!”, thế là chú cho miệng luôn vào vòi ấm tu ừng ực, chỉ một lát là cạn sạch cả ấm vại nước, nhả vòi thở phào một cái, cười và nói: “Còn nữa không?” Mọi người lấy làm lạ và phục lắm. Chú Tiểu La Hán có cái bụng to như vậy cho nên chú nổi tiếng về cái bụng ấy ở cả sơn môn, không ai không biết.

Chú còn có một cái đặc biệt khác là từ khi lễ Quán Âm Bồ tát, được cảm ứng mà biết nói đến nay, chú chưa hề ốm bao giờ, dù trời nóng hay lạnh, ăn chua ăn ngọt, cơm thiu canh hẩm, uống nước lã, nằm sương nằm gió, chú không bị đau bụng bao giờ, cho nên mọi người gọi chú là Tiểu La Hán kể cũng xứng đáng, đúng ra là một vị La Hán ngốc nghếch. Có một điều buồn cười nhất là, chú chỉ sợ bị người ta đuổi ra khỏi Phổ Đà, dù chửi mắng, đánh đập ghẹo trêu, lăng nhục, chú đều chịu đựng, nhưng tuyệt đối không thể khai trừ chú ra khỏi sơn môn. Nếu có người nói với chú: “Thầy trụ xứ định đưa chú ra khỏi sơn môn đấy!” thì chú nổi khùng ngay lên, và lôi cho bằng được người ấy đến trước mặt thầy trụ xứ. Thầy trú xứ phải trả lời rằng: “Không có việc đó, các đạo hữu đùa chú đấy thôi, chứ sao lại đuổi chú đi đâu được?” Lúc đó chú mới buông tay, đảnh lễ thầy trụ xứ rồi mới thôi. Tôi nghĩ sở dĩ chú không muốn rời Phổ Đà là muốn ngầm ở lại bảo vệ danh sơn, thị hiện thành một nhà sư dở người mà thôi.

Ở Chùa Sau có một vị đạo sĩ đến trọ (bởi vì ở Chùa Sau, cũng như ở Phổ Đà nói chúng, các đạo sĩ, đạo cô, Lạt ma tức Tỳ khưu Tây Tạng đều có thể trọ lại), vị đạo sĩ già này đã trọ lại tu học ở Chùa Sau hai mươi mấy năm nay rồi, ngày nào cũng lên đại điện làm lễ, đọc nhiều loại kinh, riêng phẩm “Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện” thì ngày nào thầy cũng tụng một lượt, hầu như thuộc làu; tiền hóa duyên được một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần thầy đều đưa xuống nhà kho để cúng chúng cả, đã hơn bảy mươi tuổi rồi, khi thấy chúng tôi, thầy rất khách khí, chắp tay nhường đường. Hồi ở Phổ Đà, tôi rất thích nói chuyện với những người này, có người nói rằng đó là Bồ tát hóa hiện thành người tu hành ngoại đạo đến cúng dàng Phật pháp, Quán Âm Bồ tát có ba mươi hai phép ứng hiện, Thiện Tài đồng tử có năm mươi ba lần đi xin học đạo, trong đó có rất nhiều Bồ tát thị hiện thành tướng ngoại đạo.

Ngoài ra tôi cũng tận mắt thấy mấy nhà tu hành, có người không bao giờ xin tiền hóa duyên của ai, có người lại chuyên đi xin tiền, người không xin tiền thì có cho, ông ta chỉ mỉm cười lắc đầu, còn người chuyên đi xin tiền thì trông thấy khách từ xa đã chạy đến xin cho bằng được. Ở Phật Đỉnh Sơn, có một vị tu sĩ già, ngày nào cũng đi ra ngoài hóa duyên, được đồng nào ông cho hết vào trong ống tay áo, không chịu tiêu xu nào, trong ống tay áo của ông phải nặng hơn chục cân, tiền nằm trong ống tay áo của ông có tờ hơn mười năm, có tờ phải đến hai chục năm, rồi tiền to tiền nhỏ đủ các loại, tiền đồng, tiền bạc, xu hào không thiếu loại gì, chẳng khác gì một cái kho giấy bạc. Không ai xơ múi được một xu của ông, ban ngày đi hóa duyên, ban đêm đọc kinh Hoa Nghiêm, lễ Phật dấu chân ông đứng lõm xuống rất sâu, hầu như suốt ngày đêm không thấy ông ngủ bao giờ, mấy chục năm chưa thấy ông tắm lần nào, nhưng trên người ông không thấy hôi hám, không có rận chấy, đó cũng là một loại người kỳ quái, một truyện lạ.

Có lẽ vào khoảng năm thú 37 Dân Quốc, ở Chùa Trước có một vị Lạt ma Mông Cổ, trọ ở Phổ Đà mấy năm, hồi đó tôi làm Tri khách ở Chùa Trước, ông thường đến lễ ở đại điện. Sau mọi người thấy ông là một người rất tốt, bèn chiếu cố xếp riêng cho ông một căn buồng nhỏ để tiện tĩnh tu, ban ngày ông đi hóa duyên, hoặc cùng mọi người chấp tác, ban đêm lễ tám mươi tám vị Phật, đọc mật chú… Bỗng một hôm, ông biết sắp về cõi Tây phương, trước khi tịch khoảng hai tiếng đồng hồ, ông vẫn còn đi hóa duyên ở ngoài phố, mua đậu răng ngựa rang ăn, khi trở về Vân Thủy Đường ở Chùa Trước, ông đi báo biệt với mọi người đồng học xin trở về, mọi người cứ tưởng ông sẽ lên đường về quê Mông Cổ. Sau đó ông về phòng, thắp nến, lễ mấy lễ, lên giường ngồi phu tòa, trùm chiếc khăn đơn lên người, nhắm mắt, thế là ông vãng sanh cõi Tây phương.

Tôi đến xem tận nơi, thấy ông tọa hóa trên giường như người nhập thiền định, thanh thản. Đây cũng là một truyện kỳ lạ.

Như chúng ta đều biết, một đạo tràng Bồ tát thị hiện ở nhân gian, thì không thể tránh khỏi tướng xã hội ở nhân gian! Cho nên dù tốt dù xấu, dù thần dị đến đâu, tốt nhất ta cũng không nên sinh lòng phân biệt, tâm cảnh của người trần tục không bao giờ có thể lường được cảnh giới Bồ tát! Khi ta thấy truyện lạ, người lạ như vậy, nếu cứ lấy những kiến thức hiểu biết hạn hẹp, bộ óc thông minh nhỏ bé của mình để nhìn nhận, thì sao có thể thấy hết được mọi lẽ.

  1. TĨNH TÂM TU ĐỨC TRONG AM NHỎ ÁNH HÀO QUANG CHIẾU TỎA THẬP PHƯƠNG

Lại nói về các nhà sư tĩnh tu ở Phổ Đà Sơn, trước đây có pháp sư Đế Nhàn, đại sư Ấn Quang, đại sư Thái Hư. Sau chiến tranh chống Nhật, hồi tôi ở Phổ Đà có năm vị đại tăng tĩnh tu ở đây, mỗi người một vẻ. Có một vị là người gốc Phổ Đà, đó là nhà sư Tu Phúc ở Am Duyệt Lĩnh, là một người tu hành có đức hạnh cao. Thầy chuyên tu tông Tịnh Độ, thuộc pháp môn niệm Phật, hồi đó tôi đã được thầy thường xuyên khai thị giáo lý. Còn bốn vị thầy khác là từ nơi khác đến, người đầu tiên mà tôi quen biết là pháp sư Diệu Thiện, nói đến thầy, về mặt hành vi, phẩm hạnh phải nói rất đáng để ta noi theo… vì thầy cũng là người đồng hương với tôi, nên mỗi khi gặp nhau, có điều gì đều tâm sự, về lai lịch xuất gia của thầy có vài nhiều kỳ thú, nhưng ít liên quan đến bài viết này, nên tôi tạm gác lại, nhưng có một đoạn trước khi đến núi Phổ Đà của thầy, là một câu tuyện rất buồn cười và trở thành giai thoại lý thú của Phổ Đà. Truyện kể nghe không tường tận lắm nên tôi đã hỏi kỹ thầy từng chi tiết, nay xin chép lại đây một phần những lời thầy kể lại với tôi, âu cũng là một tấm gương tốt cho những người xuất gia.

Thầy nói: “Hồi xưa, tôi tọa thiền ở chùa Thiên Ninh, thị xã Thường Châu, bị thổ huyết mấy lần. sau chuyển sang chùa Cao Mân, lúc đó bệnh phổi đã ở thời kỳ thứ ba, nhiều người nói là không sao cứu chữa nổi rồi, sau được thầy Quả Lão phát lòng từ bi, dành cho một căn buồng để tôi tịnh dưỡng ba năm, không niệm Phật, không tham thiền, không xem sách, không làm việc, mọi truyện gác lại hết, điều dưỡng suốt ba năm trời, tự nhiên cái bệnh bất cứu kia bỗng khỏi hẳn, chẳng cần thuốc men gì, ít lâu sau được thụ ký. Đến năm ba mươi tuổi, làm trụ xứ ở chùa Cao Mân, ở đó ba năm, lao tâm khổ tứ lo công việc, thế lực sa sút, nhưng thầy giới sư không cho thoái hưu, do đó tôi đành “treo ấn” trốn khỏi chùa, thế là phủi tay ra rũ áo ra đi, lòng thanh thản nhẹ lâng lâng, đi vào cuộc sống vân du sơn thủy bảy mươi ba mọi góc biển chân trời. Từ đó tôi bắt đầu tính toán cho sự nghiệp lớn của bản thân, tôi đến xin trọ ở chùa Linh Ẩn, Hàng Châu, kiếm được một chức nhỏ chủ điện ở đó, hàng ngày quét tước lau chùi điện Phật, thay nước, thắp hương trên bệ Phật, rỗi rãi tôi lại làm cái việc quen thuộc tọa thiền. Thầy trụ xứ cũng không biết tôi là ai, và tôi cũng không muốn cho ai biết tôi là ai, để được sống yên ổn tại đây. Nhưng “cảnh đẹp chóng tàn”, ở đây chưa được một tháng đã bị người khác nhận ra, thầy trụ xứ ở chùa Linh Ẩn định mời tôi ngày mai đền thầy ăn bữa cơm chay, tôi đoán trước được sự việc, nên vội vàng đeo túi “chuồn” thẳng một mạch đến chùa A Dục Vương ở Ninh Ba xin trọ lại ở đó, làm chân coi cửa và quét dọn, hàng ngày quét lá rụng, làm cỏ v.v…, chắc mẩm chuyến này không còn ai phát hiện ra mình nữa. Nào ngờ, chưa được hai tháng, một hôm khi tôi đang quét lá ở ngoài vườn, bỗng có một Phật tử ở chùa Cao Mân trước đây thấy tôi bèn cúi đầu kính lễ và nói: “Đại Hòa thượng đến đây từ bao giờ?” Tôi bực lắm, thế là cái “bát ăn” của mình bị đập vỡ, tôi quẳng luôn chiếc chổi trong tay, khoác túi, thôi: “ba mươi sáu chước tẩu vi thượng sách”, thế là lại ra đi. Trong bụng nghĩ thầm: cái gầm trời rộng lớn như vậy lẽ nào không cho ta một chốn nương thân được hay sao, núi Phổ Đà nằm ở giữa biển, có lẽ không có ai biết được ta, thế là tôi đến trọ ở Chùa Trước ở núi Phổ Đà. Đó là Dân Quốc năm thứ 33, trong nhà khách lắm muỗi nhiều rệp, trời lại nóng bức, ăn uống lại rất cực khổ, mỗi ngày chỉ hai bữa cháo điều đó tôi không lo, tôi chỉ sợ nhất là muỗi và rệp. Thế rồi có một vị pháp sư Mao Bồng, giới thiệu tôi đến ở Niệm Phật Đường cho tĩnh, hàng ngày có thể lên đại điện để lễ, một hôm tiếng chuông báo buổi lễ chiều vừa rung, bỗng vị sư già ở đâu đến trước mặt tôi quỳ xuống lạy, tôi cuống lên, nghĩ bụng chẳng lẽ cái hòn đảo giữa biển này cũng không có chỗ dung thân cho tôi sao? Trở về Chùa Trước, tôi định đeo khăn gói rời khỏi nơi này, nhưng trời sắp tối không có thuyền, thầy pháp sư đang gia Viên Chiếu ở Am Hồng Phiệt lại đến mời tôi bằng được,thế là tôi đành ở lại, suốt sáu tháng trời không ra khỏi cửa,sau đó tôi tĩnh tu trong một túp lều cỏ ở đó suốt ba năm”.

Nghe xong lời tự thuật đoạn truyền kỳ trên đây, tôi nói đùa: “Thầy treo ấn bỏ trốn, bỏ Phương trượng như cởi giày, ngang với đám Sào Phủ, Hứa Do ẩn sĩ rồi đấy!” Thầy nghe xong chỉ cười. Thầy sống quá giản dị, Nhan Hồi xưa kia, một giỏ cơm một bình nước, ở trong ngõ hẻm được coi là người hiền, nay, cuộc sống của thầy Diệu Thiện so với Nhan Hồi còn khổ hơn. Tháng 7 năm thứ 36, thầy rời hỏi núi, ở trong một túp lều cỏ, nghiên cứu Thiên Thai Chỉ Quán, giáo lý về tứ giáo nghi thầy tự tu cả rất tinh thông, giảng giải mạch lạc rõ ràng.. Tháng hai năm 38, thầy lại tĩnh tu Pháp Hoa ở Am Diệu Phong. Một hôm tôi gõ cửa hỏi đạo, sau buổi tham học, tôi hỏi: “Hàng ngày thầy bận tu luyện gì, có đủ thì giờ trò truyện với tôi được không?” Bị tôi hỏi như vậy, thầy cười nói: “Thầy không hỏi tôi, tôi cũng không để ý tính thời gian, bây giờ tôi tính lại thì mỗi ngày được bốn tiếng kinh Pháp Hoa, lễ Phật tám trăm lễ mất bốn tiếng, tĩnh tọa ba nén hương hết ba tiếng, sáng tối hai buổi học bài hai tiếng, hai bữa cơm mất hai tiếng, ngủ sáu tiếng, tổng cộng là hai mươi mốt tiếng, còn ba tiếng có thể nói truyện với thầy”. Tôi nghe xong tự thấy hổ thẹn thấy người lại ngẫm đến ta, từ ngày xuất gia đến nay, ngày tháng trôi qua, đức hạnh chưa thành, tuổi đời cứ đến, nhất là từ khi sang Đài Bắc đến nay, chạy ngược chạy xuôi, nói cho nó hay cũng là làm việc hoằng pháp, thực ra thì thật là xấu hổ, có làm được gì cho ra trò đâu?

Lại có một vị pháp sư khác tên là Thọ Dã, tĩnh tu ở Bách Tử Đường, thầy Thọ Dã là một tăng gì đại đức có danh tiếng ở trong nước, là một đại tăng ở chùa Quảng Tế, núi Ngũ Đài, một trong bốn danh sơn lớn. Thầy cũng là Phương trượng ở chùa Phổ Tế Thượng Hải. Thầy đã từng phát tâm vô thượng, chích máu viết kinh, thầy chích máu ở lưỡi và ở đầu ngón tay viết kinh Hoa Nghiêm gồm tám mươi mốt quyển, thầy đóng cửa tĩnh tu ở Bách Tử Đường, tôi cũng luôn bám lấy Thầy, gõ cửa hỏi đạo. Thầy là người Vô Tích, Giang Tô, xuất gia từ một ngôi miếu nhỏ ở huyện Như Cao. Thầy coi tôi như người cùng quê, nên không truyện gì không nói. Thầy nghiên cứu Ngũ Giáo Hoa Nghiêm rất chăm chỉ, thầy cho biết mỗi đêm chỉ ngủ hai tiếng, không ngủ trưa, do đó đủ thấy mức độ gia công dụng hạnh, hành giải tinh tiến của thầy. Sau vì đất nước chiến tranh, nghe đâu thầy sang Sài Gòn (Việt Nam) và ở lại đó dựng tùng lâm để quảng kết Tăng duyên.

Ngoài ra còn có một vị pháp sư Trần Không, thầy tĩnh tu tu ở Am Song Tuyền. Thầy người Kinh Môn, Hồ Bắc, chín tuổi xuất gia, tinh nghiêm giới luật, theo đại sư Thái Hư, một lãnh tụ Phật giáo tổng cộng hai chục năm, từng gánh chức chủ nhiệm giáo vụ Viện Giáo Lý Hán Tạng, chủ biên nhiều khóa báo Hải Triều Âm, suốt đời chưa làm Phương trượng (chức trụ xứ một chùa), tâm hồn thanh thản, dáng vẻ như một thư sinh đúng là một Phật tử hiền hòa thực thụ. Đệ tử của thầy có thể nói toàn là đám người “an bần lạc đạo”. Dân Quốc năm thứ 37, thầy đến sơn môn, đến Am Song Tuyền tĩnh tu ở đó. Pháp sư Tinh Dũng là đang gia của Am, cũng là đồng hương của tôi, cho nên tôi cũng trọ ở Am Song Tuyền để tự tu, cùng một am với pháp sư Trần Không. Thầy ở trên gác, tôi ở dưới nhà, sớm tối gặp nhau, có điều gì tâm sự với nhau, vô tình tôi trở thành người gác cửa tĩnh tu của thầy. Chúng tôi ở với nhau hơn một năm, trở nên đôi bạn đồng đạo tri âm, đại sư Diệu Thiện, đại sư Thọ Dã, pháp sư Trần Không, cả ba vị cùng tuổi, năm đó là bốn mươi mốt tuổi, có người nói họ là Tam Thánh phát nguyện đến tĩnh tu ở Phổ Đà, tôi cũng không để ý lắm đến câu nói đó.

Còn một vị lão Tăng nữa là thầy Đức Viên, thầy tu ở Am Bạch Y ở Bắc Kinh, đạo đức, giới hạnh của thầy rất tốt, tâm cúng dàng của thầy cũng đặc biệt rộng rãi. Khi chạy nạn về Phổ Đà cùng ở với đại sư Thọ Dã ở Bách Thọ Đường, thầy muốn tĩnh tu, nhưng không có người tác thành giúp đỡ, vì thầy Khánh Diệu đang gia ở Am Mai Phúc với tôi là chỗ đồng hương, cho nên tôi giới thiệu thầy đến đó tĩnh tu.

Mấy vị kể trên có thể nói là bậc mô phạm của Tăng chúng Phật giáo và cũng có thể là ngôi sao trí tuệ, lương thiện của nhân loại, tuy chỉ tu trong một căn buồng nhỏ, ngồi trên một chiếc chiếu con, nhưng ánh sáng đạo đức của họ tỏa khắp thập phương. Người xưa có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Tôi cũng may mắn được gần gũi các vị ấy, cho nên hồi ở Phổ Đà cũng làm được đôi việc, cũng gọi là rỏ được vài giọt sương móc đạo tâm, từ khi đến Đài Loan đến nay, bôn ba khắp nơi, ngược xuôi vất vả cho mọi người, cuộc sống chưa yên, nơi ở chưa định, có khi phải mượn mấy chữ quèn để kiếm sống, những giọt sương móc đạo tâm kia, rồi cũng không biết đã rỏ xuống nơi nào. Nghĩ đến đó thật đáng thương đáng tủi. Giờ đây lưu vong ở chốn chân trời góc biển, những tưởng nhờ chốn danh sơn, trong lòng không dứt khỏi nỗi xót xa vô hạn.

  1. CHỜ NGÀY TRỞ LẠI CHỐN DANH SƠN(Chương 78 đến 79, đề cập đến vấn đề cuộc chiến giữa Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng, chúng tôi tạm lược bỏ – LND).
  1. HƯỚNG DẪN THAM QUAN NÚI PHỔ ĐÀ

Núi Phổ Đà xưa nay vẫn là nơi thiện nam tín nữ cả nước gởi gấm tinh thần ở đó, nổi tiếng là nơi “cõi trời La Hán”. Tương truyền ngày 19 tháng 2 âm lịch là ngày thánh đản Quán Thế Âm Bồ tát, ngày 19 tháng 6 là ngày Bồ tát xuất gia nhập sơn tu đạo, ngày 19 tháng 9 là ngày Bồ tát đắc đạo. Trong ba ngày lễ trên, dịp hội chùa tháng hai là tấp nập đông vui nhất, hội tháng sáu phần lớn là khách du sơn nghỉ mát, nơi đây không khí vùng biển thoáng mát, nhiệt độ điều hòa, giữa trưa hè cũng không quá 20 độ C, sáng sớm và ban đêm hơi lạnh, nhưng ban ngày thì mát mẻ. Vùng nghỉ mát thiết bị đón khách đầy đủ. Tháng chín là hội nhỏ khách hành hương không đông lắm, vào tiết mùa thu khí trời dễ chịu, đến ngày hội tàu thuyền từ khắp nơi đổ về, các tỉnh trong nội địa đến Thượng Hải đáp tàu thủy đến Ninh Ba, rồi ngồi thuyền đến Thẩm Gia Môn, cách núi chỉ có một cái eo nhỏ, thuận buồm xuôi gió chỉ một tiếng đồng hồ là đến chân núi.

Trên núi có ba chùa lớn, hơn tám chục Am đường, có nơi đón tiếp đầy đủ, trong núi lúc nào cũng có vài chục ngàn người, không có việc ăn ở. Khách đến chân núi, có thể ngồi kiệu lên núi, nếu quen đường có thể đi tắt, qua các Am nhỏ, sư tăng ở đó tiếp đón ân cần, ai đến cũng có cảm giác như về nhà. Các Tăng Ni hành cước thường trụ lại ở Chùa Trước, Chùa Sau, ở lại đó rồi có thể đi lễ Phật hoặc vân du thánh tích.

Nếu đặt chương trình đi chơi ba ngày, lấy núi Trước và núi Sau làm nơi xuất phát đi theo hai ngã.

Ngày thứ nhất, đến núi Trước, chùa Phổ Tế là chùa chính thờ Quán Âm được xây dựng sớm nhất, quy mô rất lớn ai đi lễ Phật đều phải đến chùa này… Giữa bệ thờ có thờ tượng ngồi của Bồ tát, phía dưới bày mười tám tượng La hán mạ vàng trong khung tủ, muốn xem phải mời thầy chủ điện đến mở khóa, soi nến mới thấy rõ mặt tượng, có quả chuông 7000 cân treo trên một sợi dây thừng như trên đã giới thiệu, trong bếp có ba chiếc nồi “Thiên Tăng” (cho một ngàn tăng ăn), nồi La hán…, từ phía ngoài chùa đi sang bên phải có Tích Thiện đường, Ân Tọa đường, Thừa Ân đường, Tích Lân đường, Tức Lai viên, Thổ Địa đường (thờ Thổ Công của chùa), đi lên theo hướng Tây có thể thấy ngọn Thiên Đỉnh Phong, Đạt Ma Phong.

Theo đường tắt đã đi về hướng Tây, ven theo Am Bạch Tượng, Am Tu Trúc, Am Viên Thông, Am Mai Phúc (có giếng Mai Phúc, truyền rằng đây là nơi luyện đan của Mai Tử Chân), rồi đến Am Linh Thạch, tham quan tảng đá Rùa Nghe Pháp, Năm Mươi Ba Lần Hỏi Đạo v.v… Đi xuống phía Nam có Đại Phật Đầu, Kim Cương Động, Quán Âm Động, Am Giới Bình rồi đến bờ biển.

Hoặc đi từ Chùa Trước, hướng về Tây qua Am Bàn Đà (trước Am có ao phóng sanh), Am Phổ Tuệ, Am Bảo Liên,, Giác Thanh Hư, Am Phục Hy, rồi đến Kim Cương Động, lên hướng Bắc đến Bàn Đà Thạch rồi vòng về bờ biển. Ven theo bờ biển đi về hướng Đông đến Am Phúc Tuyền (Thiên Hậu Cung), Tây Phương Thuyền (có con thuyền làm bằng bê tông cốt thép, buộc bên bờ biển tượng trưng thuyền từ bi phổ độ chúng sanh sang bờ giác), di tiếp về phía trước qua Am Quảng Phúc, Am Từ Vân (thờ Đoản Cô) rồi đến Đạt Đạo Đầu (bến lên núi), hoặc từ đường Diệu Trang Nghiêm qua Phật Đỉnh Sơn xuống chùa, qua Am Hải Ngạn, Am Bạch Hoa (có nhiều Bích Họa Trúc Thiền), Tam Thanh Đường, rồi quay về Chùa Trước.

Hoặc chuyển hướng đi về Đông Nam, đến Nam Thiên Môn, qua Kim Sa đến Am Phật Thủ, Am Quán Âm, Am Tây Phương, rồi sang rừng Trúc Tía, Động Triều Âm (động này tương truyền thiêng liêng lắm, ở đây có thể nghe tiếng sóng gầm lúc thủy triều lên xuống), ngoặt sang Tây Bắc qua Am Tây Trúc, Am Chính Giác, Am Thiên Phúc, Thiện Hoa Đường, Bách Tử Đường, Tháp Đa Bảo, Am Liên Trì rồi về Chùa Trước.

Ngày thứ hai, xuất phát từ Chùa Trước đi về phía tả, qua phố Phổ Đà, có điện Dược Sư, Trừng Tâm Đường, Long Vương Cung, Pháp Hỉ Viện, Thanh Nhất Đường, Đại Bi Điện, Am Hưng Thiện, Am Hưng Thiện, Am Pháp Như, phòng Hồng Phiệt.

Đến đây, hoặc đi về phía tả lên Động Pháp Hoa, Động Thiên Môn, Am Diệu Phong, xuống hướng Nam đến Kim Tiên Các, rồi qua núi Sau. Hoặc theo đường lớn thẳng đến giếng Tiên, Kim Cương Các, vượt núi sang núi Sau. Theo đường lớn qua Am Duyệt Lĩnh, Am Hạc Minh, Am Đại Thừa (sau điện có tượng Phật nằm, dài mấy trượng), Am Thường Lạc, Am Hương Lâm, Am Trường Sinh, Đỉnh Quang Hy, Tâm Thanh Lương, Am Vũ Hoa, Am Thiền Na, Am Long Thọ, Am Chiên Đàn, Am Song Tuyền (sau am có hai con suối chảy song song, nước không bao giờ cạn), Am Hải Thự, Am Tích Thiện, Am Bạn Sơn, Am Định Tuệ, lên Thanh Lương đến Am Thường Minh, quay xuống phía dưới đến Am Di Lặc, Am Dương Chi, rồi đến Chùa Sau (chùa Pháp Vũ), Chùa Sau có vạc đồng lớn nặng vạn cân,có thể nấu hai mươi bốn tạ gạo.

Ra chùa đi về phía bên trái, lên núi suốt dọc theo đường có bậc đá, có lan can sắt, vừa đi vừa nghỉ, ngoái đầu lại ngắm sang hướng Đông, trời biển một màu, mênh mông khoáng đạt. Qua điện Lôi Tổ, đá Văn Thù (trên tảng đá có khắc bốn chữ “Hải Thiên Phật Quốc” (cõi Phật biển trời) rồi đến chùa Tuệ Tế Phật Đỉnh Sơn, là một trong ba chùa lớn, quy mô cũng khá khả quan. Phía Đông Bắc sau núi có Am Pháp Hỷ (đây có chè nổi tiếng), Tháp Xá Lị, Động Vân Thủy, Am Thiên Trúc, đều là những nơi dành cho các bậc ẩn tu. Ra khỏi chùa, từ ven núi đi về phía Đông qua ngọn Bồ Tát, Đỉnh Quang Hy, Động Sư Tử, Động Cổ Phật, qua Bãi Cát Bay đến Động Phạm Âm, đến đây có thể khấn cầu Bồ tát thị hiện, rồi qua Bãi Cát Bay đi theo ven biển qua Am Cực Lạc, Am Sân Đề, đến Bãi Thiên Sa, cát vàng rải khắp đi trên cát có cảm giác như bước trên chiếc đệm bông, vừa đi vừa ngắm triều dâng, đến Động Triêu Dương (xem mặt trời mọc) rồi quay lại giếng Tiên, trở về đường cũ ở Chùa Trước.

Đến ngày thứ ba, thả thuyền xuôi gió đến Lạc Già, qua khỏi Liên Hoa, nghe nói nơi đây có hai mươi bốn đợt sóng Liên Hoa cuồn cuộn, thuyền lướt trên sóng, dập dình như muốn lật, người không quen cứ nơm nớp không yên, ngọn sóng nọ dồn ngọn sóng kia, bọt nước vút cao, hiện màu ngũ sắc long lanh, đây cũng là một kỳ quan hiếm có.

Trên núi có cảnh Thủy Tinh cung, có bốn túp lều tranh mang tên: Lều Diệu Trạm, Lều Viên Thông, Lều Quán Giác và Lều Tự Tại, xuống phía dưới là Lạc Già Môn, thuyền bè vùng Lưỡng Đông, Phúc Kiến ra biển khơi đều phải qua đây. Góc phía Đông Bắc có tháp Hải Đăng, nhà thơ Đỗ Long thời Minh có thơ:

Bến mê rực sáng ngọn Hải đăng
Hào quang át cả ánh sao, trăng
Muôn kiếp linh quang còn sáng mãi
Năm Tổ qua rồi, ai truyền đăng.

HẾT