PHẬT TỔ THỐNG KỶ

Nhà Tống, Năm Canh Định, đất Bốn Minh, Đông hồ. Sa-môn Chí Bàn soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 3

(PHẦN THƯỢNG)

CHUYỂN PHÁP LUÂN (GỒM 5 THỜI)

Lời tựa: Nói Pháp độ người là yếu chỉ lớn của việc Như Lai ra đời. Người có Lợi – Độn, pháp có Đốn – Tiệm, cho nên ai nấy nghe pháp đều được ngộ nhập. Cũng như vua thầy thuốc theo bệnh cho thuốc, thuốc ứng hợp cơ nghi thì mọi bệnh đều hết. Lời Sớ chẳng nói thế sao? Nay trước sau Phật chuyển đủ năm vị pháp luân. Chuyển pháp này để độ tâm người khác khiến đều được ngộ. Đây là ý nghĩa của việc chuyển pháp luân vậy.

Như Lai chuyển pháp luân, một đời năm thời gồm có tám giáo.

Chuyển pháp luân: Luân, nghĩa là lăn nghiên nát. Như Lai nói pháp để chuyển hóa tâm người, đối với pháp rất tự tại như Luân vương vận chuyển xe báu vô ngại. Lại như tam luân khó nghĩ bàn của Như Lai là thân luân thì hiện khắp, Khẩu luân thì thuyết pháp, Ý luân thì xét Cơ, hay vì chúng sinh cán nát tất cả hoặc lụy. Pháp Uyển nói rằng: Luân vương có hai thứ về Tài luân vương thì có bốn bậc là:

  1. Kim luân có ngàn căm hóa độ khắp bốn châu, khi con người sống tám vạn tuổi ở kiếp trụ thì ra đời.
  2. Ngân luân có bảy trăm năm mươi căm, hóa độ ba cõi thiên hạ trừ Bắc châu.
  3. Đồng luân có năm trăm căm, hóa độ hai châu Đông và Nam.
  4. Thiết luân có hai trăm năm mươi căm, chỉ hóa độ ở Nam châu, như A-dục vương.

Về pháp luân vương: Nếu tuổi thọ của người giảm còn một trăm năm thì Như Lai ra đời.

Về một đời: Chung chỉ cho tám tướng riêng ở trong năm thời. năm thời lại có chung và riêng. Diệu Huyền nói rằng: Căn cứ vào Bán Mãn của năm vị mà luận về riêng thì có giới hạn riêng. Còn luận về Chung thì chung cho trước sau. Như Hoa Nghiêm thì chỉ riêng cho thời đầu còn chung thì đến đời sau. Về Lộc uyển thì đã bỏ lệ này mà nói pháp. Nay luận về một đời giáo hóa thì chỉ ở nghĩa riêng.

Luận về năm thời, là nghĩa lấy từ ba kinh. Đó là phẩm Tam Chiếu của Hoa Nghiêm, phẩm Ngũ Vị của Niết-bàn và phẩm Tín Giải của Pháp Hoa. Bốn vị đại đệ tử đã hiểu rõ các văn này. Cho nên văn kinh nói rằng: Bốn đại đệ tử vào sâu ý Phật, hiểu rõ giáo pháp về năm thời của một đời, thứ lớp trước sau. Lời văn ấy nói việc này.

Về tám giáo, thì Diệu Lạc có nói: Hóa nghi bốn giáo là đại cương của phán giáo. Còn Hóa pháp bốn giáo là cương mục của thích nghĩa, vậy nên biết Đốn… là Phán Tạng… là Thích Nghĩa. như xét biết Hoa Nghiêm là Đốn thì lấy Biệt Viên mà giải thích. Cho đến xét Pháp Hoa không phải Đốn cũng không phải Tiệm thì dùng thuần Viên mà giải thích. Đây là phép tắc giải thích kinh của các nhà ngày nay vậy. Diệu lạc lại nói: Nếu làm hao mòn các kinh chỉ dùng Tạng… thì văn ấy út thông. Nếu giải thích Pháp Hoa mà không dùng tám thứ Đốn… nêu ra để ngăn sai lầm. thì các kinh khác chỉ luận về căn cứ thích hợp được ích lợi Cho nên chưa cần phải dùng Đốn… Nếu giải thích Pháp Hoa thì cần phải nói rõ một đời, cho nên phải cần dùng Đốn… để bao quát trước sau. Phụ Hành nói rằng: Tạng… bốn giáo thì gồm thâu tất cả kinh Điển Đại Tiểu thừa, đó là: Nhân quả rõ ràng, các giáo đều lập giáo chủ, khắp độ các cơ trước sau đầy đủ, thì đều không ngoài bốn thứ này. Đốn… bốn giáo chỉ là Lực Bất Tư nghì của Như Lai khắp bày ra hay giấu kín, thừa hay thiếu mà điều đình thuần thục cả mọi căn cơ, vì phá tà lập chánh, dẫn Tiểu thừa về Đại thừa, bỏ thiên bày Viên, hội Quyền về Thật… mà các bộ có năm vị cùng sinh nhau lợi vật vô cùng, đúng lúc xuất hiện hay diệt độ.

Nói năm thời:

1. Thời Hoa nghiêm. Nói đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, tên kinh có đủ cả nhân, pháp, dụ. Biệt Hạnh Huyền

Ký nói rằng Đại Phương Quảng là pháp, Phật là Xá-na quả nhân, Hoa Nghiêm là dụ, vì dùng các hoa địa nhân làm trang nghiêm quả đức (văn kinh). Kinh này gồm có bảy xứ, chín hội. Hội xứ không phải một, nên lấy đó nêu tên kinh.

2. Thời Lộc uyển: Phụ Hành dẫn Đại Luận nói rằng: Nhân địa của Như Lai xưa là một con Nai chúa. Vua Ba-la-nại vào núi săn bắn, bắt được một nai mẹ đang có mang, sắp đem ra nấu cổ. Nai mẹ bảo nai chúa rằng: “Con mình bị giết oan.” Nai chúa bèn đến chỗ vua xin thế mạng. Vua nói kệ đáp rằng:

Ta là người đầu nai
Ngươi là nai đầu người
Lấy lý mà làm người
Không lấy hình làm người.
Ta bắt đầu từ nay
Không ăn tất cả thịt
Ta tu vô úy thí
Tất khiến ngươi an lòng.

Nơi đó bầy nai ở yên nên gọi là Lộc uyển, cũng gọi là Nại uyển tức đặt tên theo cây. Cũng gọi là Tiên uyển vì có hai vị Tiên ở đấy, đây là do chỗ mà nêu tên đất, mượn tích của nhân hạnh xưa vậy.

3. Thời Phương đẳng: Bốn giáo cùng nói thì gọi là phương, bốn cơ đều đủ thì gọi là đẳng. Đây là từ pháp mà được tên. Y vào bộ mà lập giáo nên Tục Di Ký nói rằng: Tên Phương đẳng có hai ý. Như kinh điển Đại thừa từ lạc mà có sinh tô, vì như Tu-đa-la sinh ra Phương đẳng. Đây là căn cứ vào thời thứ ba nhắm vào bộ giáo liền có ba thừa bốn giáo khắp các cơ. Nếu như ngài Phổ Hiền nhìn thấy kinh Phương đẳng này bằng mắt của chư Phật, bèn nói thẳng Viên Lý không phải là thời thứ ba (theo văn kinh). Phổ Hiền Phương đẳng chính là nghĩa Phương Quảng bình đẳng. Chỗ các bộ Đại thừa nói về viên lý thì đều gọi là Phương đẳng.

4. Thời Bát-nhã: Hán dịch là Trí Tuệ vì tôn quý nên không dịch, là một trong năm thứ không dịch. Nói đủ là Ma-ha Bát-nhã, đây là đặt tên theo kinh.

5. Thời Pháp hoa Niết-bàn: Cả hai kinh đều nói về khai hiển, đều thuộc vị đề hồ, nên họp thành một thời. Đây là đặt tên theo kinh. Pháp Hoa nói đủ là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do diệu pháp nên có ba nghĩa là thí, khai, phế, nên lấy liên hoa làm dụ.

Về Niết-bàn thì nói đủ là Ma-ha Bát-niết-bàn Kinh. Hán dịch là Đại Diệt Độ. Đại tức là Pháp thân, Diệt là Giải thoát, Độ là Bát-nhã. Một kinh mà cả trước sau, chỉ nói về ba đức.

Ấy là năm thời. Đặt tên năm thời không ngoài ba nghĩa (dụ, xứ, pháp) như Hoa nghiêm thì từ dụ, còn Lộc uyển thì từ nơi chốn, Phương đẳng, Bát-nhã, Niết-bàn đều từ pháp. Riêng Pháp hoa thì từ pháp và dụ.

Cũng gọi năm vị. Đây có hai nghĩa tương sinh và đậm nhạt. Về tương sinh, Diệu Huyền nói rằng: là sau Đốn đầu tiên, Kế đến đó là Khai Tiệm. Nên kinh Niết-bàn nói rằng: Từ Phật mà có mười hai bộ loại kinh văn, từ mười hai bộ loại kinh văn mà có Tu-đa-la. Ví như từ bò mà có sữa, từ sữa mà có lạc… thứ lớp tương sinh nên không lấy đậm nhạt. Lại bảo rằng: Khi nói tiếng sữa thì ý không nằm ở chữ nhạt vì ban đầu là gốc. Nói đậm nhạt thì nghĩa như nói năm vị trong kinh chỉ là dụ năm thời đậm nhạt của một đời thuyết giáo. Dù đậm nhạt khác nhau nhưng đều từ bò mà ra. Nguyên Thảo Đường nói rằng: Tương sinh là dụ cho giáo, còn đậm nhạt là dụ cho cơ. Dụ cho giáo thì có thứ lớp, từ đốn mở ra tiệm, tiệm lại chuyển nhập sâu vào va cuối cùng thì gặp nhau ở Viên. Dụ về Cơ thì có hơn và kém. Trước từ điếc câm bị quở trách đào thải và rốt cục thì đều được thọ ký (theo Văn Kinh). Chỉ có một thứ năm vị mà có hai thứ ví dụ là năng thí thì chung mà sở thí thì riêng. Nay luận về thứ lớp một đời giáo hóa thì chỉ lấy nghĩa tương sinh.

Về phẩm Tánh Khởi của kinh Hoa Nghiêm (bản cựu dịch). Ví như mặt trời lúc mới mọc sẽ chiếu trước hết đến các núi chúa, Kế đến đó mới chiếu đến các núi lớn, rồi mới chiếu tới núi báu Kim cang. Sau mới chiếu khắp nơi, chiếu khắp tất cả đại địa mà ánh mặt trời không hề nghĩ rằng ta đang chiếu trước tiên đến các núi chúa rồi lần lượt sẽ chiếu khắp đại địa. Nhưng núi thì có cao thấp, chiếu thì có trước sau. Đức Như Lai cũng như thế. Ngài thành tựu ánh vô lượng sáng trí tuệ, vô biên pháp giới trước chiếu đến hàng Bồ-tát, Kế đến chiếu đến Duyên giác. Kế đến chiếu đến Thanh văn rồi đến hàng chúng sinh quyết định thiện căn tùy ứng hiện mà được giáo hóa (Tam tạng Bồ-tát), cuối cùng mới chiếu đến tất cả chúng sinh… Lại nói rằng ví như mặt trời mặt trăng xuất hiện thì ở thế gian cho đến núi cao hang thẳm không nơi nào không chiếu đến (Văn Diệu Huyền họp núi lớn và núi báu thành hang sâu, như văn đã trích).

Kinh Niết-bàn nói rằng: Khi Đức Phật nói hai mươi lăm thứ Tammuội, Bồ-tát Vô Cấu Tạng bạch Phật rằng: Như Phật đã nói chư Phật và Bồ-tát thành tựu các công đức trí tuệ trăm ngàn vạn ức thật khó nói hết. Ý con cũng bảo việc đó không bằng kinh này đã sinh ra A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đức Phật nói: Ví như từ bò mà có sữa, từ sữa mà có lạc, từ lạc mà có sinh tô, từ sinh tô mà có thục tô, từ thục tô mà có đề hồ, đề hồ là vị cao nhất. Phật cũng như thế. Từ Phật mà có mười hai bộ kinh, từ mười hai bộ loại kinh văn mà có chín bộ Tu-đa-la. Từ Tu-đa-la sinh ra Phương đẳng, từ Phương đẳng sinh ra Bát-nhã, từ Bát-nhã sinh ra Niết-bàn. Còn vị đề hồ ví như Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai.

Thích Thiêm nói rằng: Niết-bàn năm vị chuyển biến thật ra chỉ là một chất sữa. Hoa nghiêm ba chiếu không đồng nhau, kỳ thật chỉ là một mặt trời. Nay diễn nói ví dụ bình địa của Hoa nghiêm để đối với Tam-muội. Sau Niết-bàn, số lượng tuy không đồng nhưng nghĩa thì rõ ràng bằng nhau… Lại nói: Hoa nghiêm chỉ nói đất bằng. Nay lấy các ví dụ của Phương đẳng, Bát-nhã, Pháp hoa. Về Phương đẳng như trong giờ ăn, Bát-nhã như ở trong vùng, còn Pháp hoa như ở chính giữa.

Nói về tám giáo, tức đốn, tiệm, bí mật, bất định là hóa nghi còn tạng, thông, biệt, viên là hóa pháp. Đó là tám giáo. Hóa nghi thì như toa thuốc còn hóa pháp thì là vị thuốc.

Nói giáo, có nghĩa trình bày lý lẽ để độ người, tức là lời lẽ cũa Thánh nhân hóa độ muôn vật. Về hóa nghi bốn giáo là cách thức hóa độ của Như Lai, nên dụ như toa thuốc. Còn hóa pháp bốn giáo là pháp cứu độ để trừ bệnh cho chúng sinh, nên dụ như vị thuốc. Nghĩa lý căn bản của hóa nghi bốn giáo chỉ là tạng, thông, biệt, viên. Tuy gọi chung là giáo kỳ thật không có thể riêng.

Dẫn văn làm chứng về tám giáo. Trước hết là hóa nghi bốn giáo.

Như kinh Hoa Nghiêm: Khi mới phát tâm bèn thành Chánh giác. Diệu Huyền nói: “Như mặt trời mới mọc trước chiếu núi cao.” Đây là như duyên Hoa Nghiêm mà được ích lợi lớn gọi là Đốn giáo tướng. Kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng: Từ một đạo thanh tịnh mà lập ra hai, ba, bốn thứ Diệu Tạng. Kế đến chiếu vào các hang sâu, đây như Tam tạng. Kế đến chiếu khắp đất bằng, đây như Phương đẳng, Bát-nhã đều là Tiệm giáo tướng. Kinh Đại thừa có lúc nói sâu, có lúc nói cạn. Còn kinh Tịnh Danh nói: “Phật chỉ dùng một thứ tiếng mà mọi chúng sinh đều hiểu. Đấy là Bất định giáo. Trong Đại Phẩm nói: “Ta thấy ở cõi Diêm-phùđề chuyển luân lần thứ hai. Đại Luận nói rằng: “Chuyển luân bây giờ cũng giống như chuyển pháp luân lúc đầu.” Đấy là Bí mật giáo.

Kế đến là hóa pháp bốn giáo: Diệu Huyền dẫn Trường A-hàm nói rằng: “Phật nói bốn đại giáo.” Thiêm nói rằng: “Chỉ có bốn, ngoài ra thì là tạng… Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: Bốn thứ Tu-đa-la, trong đó có bốn thứ trí đoạn trừ vô minh.” Ngài Chương An riêng giải thích để đối với bốn giáo. Thiêm nói: Nghĩa rất tương ứng với bốn giáo. Song đây là căn cứ theo nghĩa để đối nhau, chưa thấy nói mục đích lập tên. Nay căn cứ vào bốn giáo nghĩa dẫn kinh Pháp Hoa nói rằng: Kẻ ham thích học ba tạng Tiểu thừa tạo ra luận, nay chính ta muốn luận về thật nghĩa của Tam tạng, thì đây đều là danh nghĩa của tạng giáo. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Vì nói Tu-đa-la đầy đủ. Đại Phẩm nói rằng: “Muốn dùng Nhất thiết chủng trí để biết tất cả pháp thì phải học Bát-nhã.” Kinh Pháp Hoa là lấy bình đẳng đại tuệ vì đại chúng mà nói, các điều nói ra đều là chân thật. Còn kinh Niết-bàn thì có một hạnh gọi là hạnh Như Lai, đó là Đại Bát-niết-bàn. Đại Luận nói: “Ba trí, kỳ thật chỉ có một tâm mà được… thì đều là danh nghĩa của viên giáo cả.”

Về văn, chỉ có hai tên thông biệt nhưng ở khắp các văn, là chỗ lập nghĩa của Đại sư. Như bốn giáo nghĩa dẫn Đại phẩm nói rằng: Cả ba thừa đều có được trí Tát-bà-nhã, cả ba thừa cũng đều được thật tướng của các pháp trong Trung luận. Đây đều là nghĩa của Thông giáo. Thông tức là đồng vậy. Cả ba thừa đều thọ học nên gọi là Thông.

Kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng: Ma-ha Bát-nhã và biển không của Hoa nghiêm đều tuyên nói Bồ-tát tu hành trải nhiều kiếp. Còn kinh Niết-bàn nói rõ về năm hạnh. Và Đại luận thì không cùng với Bát-nhã đoạn trừ các biệt hoặc… Đây đều là nghĩa của Biệt giáo. Biệt nghĩa là tên của Bất cộng.

Về danh nghĩa của tám giáo, nói thẳng là đối với Đại thừa thì các bộ ở thời đầu gọi là Đốn, những trung gian Tam-muội dẫn Tiểu thừa hướng đến Đại thừa nên gọi là Tiệm. Một tiếng mà hiểu khác, không hiểu được lẫn nhau nên gọi là Bí mật. Nghe Tiểu thừa mà chứng Đại thừa, nghe Đại thừa mà chứng Tiểu thừa nên gọi là Bất định. Cả ba thứ kinh, luật, luận đều chứa pháp nghĩa nên gọi là Tam tạng. Cả ba thừa cùng tu mà Bồ-tát lợi căn thông Biệt thông Viên nên gọi là thông. Pháp của riêng Bồ-tát thứ lớp đoạn trừ và chứng đạo, khác với Tạng Thông ở trước và Viên giáo ở sau nên gọi là Biệt. Khi giáo, lý, trí, đoạn, hạnh vị nhân quả tất cả đều viên dung nên gọi là Viên.

Xem bản đồ về bốn giáo đối gặp năm thời (ở dưới)

Diệu Huyền giải thích về “Như thị ngã văn” nói rằng: Nếu như Thị không phải vượt bỏ tám thứ thì làm sao lại được nghe kinh này (văn kinh), đây phải lấy bộ giáo mà phân định, căn cứ vào bộ thì không phải là Viên bao gồm hết, nên vượt bỏ tám giáo. Nếu chỉ căn cứ vào Giáo thì nghĩa của Viên xưa nay lại không có hai thứ. Cho nên Thiêm nói rằng: Viên giáo trong tám giáo. Còn mang theo cái thiên mà nói Viên thì cũng thuộc về Tiệm. Nay Viên của Pháp hoa thì mở Thiên làm sáng tỏ Viên, ngoài Viên không có pháp nào khác.

Đốn giáo đầu tiên, tức là thời Hoa nghiêm thứ nhất theo bộ, thời, vị mà có tên là Đốn. Đây gọi là Như Lai mới thành Chánh giác ở đạo tràng tịch diệt, bốn mươi mốt vị Pháp thân đại sĩ và hàng Thiên long bát bộ đã thành thục từ đời trước… cùng lúc đồng vây quanh như mây bao phủ trăng. Lúc đó Như Lai hiện thân Lô-xá-na nói Tu-đa-la viên mãn, nên gọi là Đốn giáo.

Đốn giáo thì có hai nghĩa ước theo bộ theo giáo: Nếu theo bộ thì riêng ở thời Hoa Nghiêm, còn theo giáo thì chung cả các thời khác. Nay chính là theo Bộ mà nói về Đốn giáo. Đốn là đối với ba thứ tiệm, hóa, nghi ở dưới mà nói. Đoạn văn dưới nói rằng: Từ bộ, thời, vị mà có tên là Đốn vậy. Hoa Nghiêm là bộ, chiếu trước là thời, sữa là vị, hợp ba nghĩa này là bộ, thời, vị, là phân biệt với các thời khác. Về thời Lộc uyển sau đó thì cũng có thể nói từ bộ, thời, vị mà có tên là Tiệm đầu tiên. Từ đây về sau theo lệ này.

Mới thành Chánh giác, đây là căn cứ vào Tích của Đại thừa đầu tiên mà nói, không phải là Bản của lúc mới thành.

Đạo tràng tịch diệt, tức Tịch năm trụ phiền não và diệt hai thứ sinh tử, kiến hoặc có một trụ, tư hoặc phân làm ba và trần sa họp với vô minh làm một trụ, là phần đoạn sinh tử ở cõi đồng cư. Mà biết dịch sang tử ở cõi Phương tiện thật báo. Đạo tràng chứng đắc cũng như chỗ sàng sải lúa thóc ở đời, trừ bỏ vỏ thóc năm trụ để được hạt gạo thật tướng. Những kinh mới dịch thì Bồ-đề đạo tràng có tên khác nhau mà nghĩa đồng.

Về bốn mươi mốt vị, thì Diệu Huyền nói rằng: Kinh Hoa Nghiêm nói ba mươi tâm và mười Địa cùng Phật địa nữa là bốn mươi mốt vị. Vì phá vô minh mà hiển bày Lý trung đạo pháp tánh, nên gọi là Pháp thân.

Pháp thân có hai nghĩa:

  1. Tỳ-lô-giá-na thì gọi là tánh đức Pháp thân.
  2. Phá từng phần vô minh để đạt đến chỗ rốt ráo thì gọi là tu đức Pháp thân.

Nay theo văn này là nghĩa tu, gồm cả tánh và đức. Kinh Bốn Niệm Xứ nói: Hoa Nghiêm là trước đó không có thập tín và sau đó không có đẳng giác. Ngọc Tuệ Giác nói: Không thể đem vị ở trong bộ mà vấn nạn về chúng của kinh Hoa Nghiêm này. Bởi kinh Hoa Nghiêm các vị đều nói đến mười, cho nên ghép Đẳng giác vào Thập địa. Quang Minh Ký nói: Hoa Nghiêm không nêu Đẳng giác vì Thập địa là Đẳng giác vậy. Nay nói kinh này nêu bày các chúng nên mới có Đẳng giác. Nếu trước đó không có thập tín, tức Hoa Nghiêm đã nói về mười phạm hạnh thì đó là Thập tín rồi. Cho nên bốn giáo nghĩa nói rằng: Mười thứ phạm hạnh thì đồng với thập tín của Viên giáo. Nay văn kinh chỉ nói Pháp thân đại sĩ nên không cần phải nêu thập tín nữa.

Về Thiên long bát bộ đã thành thục từ đời trước, tức các kinh khi giới thiệu chúng thì có nói đến các rồng… nên dùng Niết-bàn bốn cú mà liệu giản thì có:

  1. Thừa gấp mà giới chậm, là bốn thú nghe pháp mà ngộ đạo.
  2. Giới gấp mà thừa chậm, là kẻ ham thích quả báo ở hàng trời người mà không nghe pháp.
  3. Thừa giới đều gấp, là hàng thiên nhân nghe pháp mà được đạo.
  4. Thừa giới đều chậm, là bốn thú không nghe pháp.

Chúng này đều là đã được nghe kinh Hoa Nghiêm ở đời trước. Còn kẻ đang gieo trồng hoặc đã thành thục là những chúng được giải thoát ở hiện tại và tương lai. Chỉ quán có nói: “Dùng thân ở tam đồ gặp Phật Di-lặc để nghe kinh Hoa Nghiêm” là nghĩa này vậy.

Về tám bộ thì như đã thường nói.

Về Như mây bao phủ trăng, thì như Diệu Huyền nói: Bà con của Pháp thân như mây bao phủ trăng cùng giáng thai mẹ. Đây là dụ cho tướng giáng thai mẹ. Nay bốn giáo nghi lấy dụ về tướng chuyển pháp luân và quyến thuộc, hai nghĩa đều hợp. Mây là dụ cho cơ, còn trăng là dụ cho Giáo chủ. Kinh Nhân Vương nói: Đêm trăng rằm thì tối tan trăng tỏ để dụ cho trí đức Tiệm Viên của Như Lai, các hoặc mờ tối đã dứt hẳn, việc đoạn kết đã thành tựu.

Về Lô-xá-na, Hán dịch là Tịnh Mãn, dứt hết các ác gọi là tịnh, muôn đức tròn đủ gọi là Mãn, tức là Tự Báo thân vậy. Cũng gọi là sáng suốt chiếu khắp. Như trong Đại Luận có nói: Ánh sáng vô biên, sắc tượng cũng vô biên, thân tôn quý đặc biệt tức là Tha Báo thân. Nay nói về giáo chủ tức là căn cứ vào bốn minh mà lập nghĩa, chính là Đức Thích-ca hiện thân tôn quý ngồi dưới cội cây. Như Giải Báng Dẫn Kinh nói rằng: Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn không rời các cội cây mà vẫn bay lên núi Tu-di đến cung điện trời Đế Thích nói pháp. Vậy hội Hoa nghiêm há không phải là một trong trăm ngàn ức Ứng thân của Phật đã nói đó ư?

Về Tu-đa-la, Hán dịch là Khế kinh, vì năng thuyết và Sở thuyết đều khế lý khế cơ. Cũng là tên chung của mười hai bộ kinh. Văn tuy Kiêm và Biệt nhưng ý của Bộ là Viên.

“Nếu theo cơ theo giáo chưa khỏi kiêm cả quyền nghĩa là khi mới phát tâm bèn thành Chánh giác”… Đó là vì Viên cơ mà nói Viên giáo. Các nơi đều nói thứ lớp hàng bố thì là vì Quyền cơ mà nói Biệt giáo. Thế nên theo bộ là Đốn, theo giáo gọi là Kiêm (thấy trong Diệu Huyền nói về Thập và bốn Giáo Nghi).

Phát tâm có ba thứ:

  1. Giải hạnh phát tâm, có năm phẩm.
  2. Tương tợ phát tâm, tức Thập tín.
  3. Chân chứng phát tâm, tức sơ trụ.

Đây là Chân chứng phát tâm, tức là phát tâm lý tánh ba nhân, để chứng từng phần về lý ba đức. Bốn Giáo Nghĩa nói rằng: Hoa Nghiêm nói mới phát tâm bèn thành Chánh giác, tức là phát chân vô lậu, đoạn dứt vô minh mà nhập vào Sơ phẩm. Khởi Tín Luận nói: “Bồ-tát phát tâm ấy tùy theo nguyện lực có thể thấy được tám tướng.” Diệu Lạc nói rằng: Hoa Nghiêm và Khởi Tín trình bày lời văn sáng tỏ, sơ trụ, tám tướng… Phổ Hiền, Phổ Nhãn ba thứ không sai khác… Đó đều là văn Viên giáo cả.

Hàng bố là bảy chỗ tám hội, nên nói là mọi nơi. Hàng lối xếp bày có sâu cạn, nên gọi là Hàng bố. Kinh này nói có hai môn Viên dung và Hàng bố. Thích Thiêm nói rằng: Hoa nghiêm hội xứ nói rõ hạnh vị không ngoài Biệt và Viên. Nhưng phần lớn ý kinh đều gồm chứa các nghĩa rất khó phán định. Bắt đầu từ trước Sơ trụ cho đến trước vị Đăng địa thì toàn là nghĩa của Viên. Từ Trụ thứ hai đến trụ thứ bảy thì lời văn thứ lớp lại giống với nghĩa của Biệt. Ở trong bảy trụ đó thì đưa ra từ một đến nhiều tướng tức là tự tại. Kế đến là hướng, hạnh, địa. Lại nghĩa là thứ lớp khác nhau. Lại mỗi mỗi ngôi vị đều có hai môn Phổ Hiền, Hàng bố, cho nên biết là Kiêm dùng Văn Viên mà tiếp dẫn.

Kinh Hoa Nghiêm nói: Như mặt trời mới mọc, trước chiếu đến các núi cao (Diệu Huyền).

Mặt trời là dụ cho Giáo chủ, còn núi cao là dụ cho các cơ Biệt Viên. Vì Đại cơ muốn thuần thục thì phải nhờ ánh sáng Tuệ của Như Lai chiếu đến.

Kinh Niết-bàn nói: Từ bò mà được sữa là ví từ Đức Phật mà có được mười hai bộ kinh (Diệu Huyền).

Huyền Văn nói: Đại cơ thọ lãnh giáo pháp liền phá vô minh. Còn Hạnh như đề hồ (Văn) thì đây là chỉ cho cơ núi chúa Hoa nghiêm vậy. Niết-bàn nói: Từ bò mà có sữa, đây là căn cứ vào một thời thuyết pháp mà chỉ cho hàng Thanh văn câm điếc. Cho nên Huyền Văn nói rằng: ba giáo phân biệt, tức gọi là Đốn giáo, cũng tức là đề hồ, năm vị phân biệt tức gọi là Nhũ giáo. Nay nói từ bò mà có sữa tức là vị đầu tiên vậy.

Phẩm Tín Giải nói rằng: Liền sai người bên cạnh (Như Lai là chính, Bồ-tát là bên cạnh, tức là Phật gia bị cho bốn vị Bồ-tát nói bốn mươi Địa: Bồ-tát Pháp Tuệ nói Thập trụ, Bồ-tát Công Đức Lâm nói Thập hạnh, Bồ-tát Kim Cang Tràng nói Thập hướng và Bồ-tát Kim Cang Tạng nói Thập địa. Gấp đuổi theo đưa về (đem Đại giáo mà giảng tắt cho Tiểu cơ nên nói là “gấp đuổi theo”. Đại thừa đã có từ xưa nên gọi là “Đưa trở về”. Lại tánh đức vốn tự có nên gọi là “Đưa trở về”. Kẻ cùng tử kinh ngạc (chợt nghe đại giáo trái ý nên kinh sợ , không biết nên ngạc. Lớn tiếng kêu oan (sinh tử là khổ, phiền não là oan. Vì nghe sinh tử tức Niết-bàn và phiền não tức Bồ-đề liền đau khổ mà lớn tiếng kêu oan). Sứ giả bắt gấp (vì nói cho họ sợ sệt khiến họ bỏ ác, tức là gấp rút). Dùng sức mạnh đem về (bên trong không có cơ bên ngoài lại ép dạy Đại thừa). Kẻ cùng tử tự nghĩ rằng mình vô tội mà bị bắt nhốt ở đây tất là phải chết (chúng sinh vì tội lỗi nên phải đọa vào ngục sinh tử. Bồ-tát cũng đồng tội mà vào ngục. Hàng Tiểu thừa vì không có tâm đại bi nên khi bảo vào sinh tử thì cho là mình bị bắt nhốt cho nên mất hẳn tuệ mạng của cả ba thừa). Càng thêm sợ hãi (vì nghĩ các việc như thế…) chết ngất ngã lăn ra đất (kẻ tiểu trí không hiểu té nằm trên đất vô minh). Người cha từ xa nhìn thấy (kẻ tiểu trí khó biết được đại giáo nên gọi là xa, kết duyên với con nên gọi là nhìn thấy) mà bảo sứ giả rằng (Bồ-tát là sứ giả). Tôi không cần người này (không cần hiện thân tôn quý khiến hàng Nhị thừa thấy được) chớ cưỡng bắt đem về (đã không có đại cơ nên e thương tổn thiện căn). Sứ giả bảo rằng: Nay ta thả ngươi ra (nói không giáo hóa nữa). Người cùng tử vui mừng (vì không còn bị đại giáo câu thúc nữa) bèn đến xóm nghèo để kiếm ăn (chỉ muốn cầu đạo pháp ở Bốnđế. Lời chú văn từ trên đều trích từ Pháp Hoa Văn Cú). Đây nên hiểu nghĩa thế nào? Đây là Như Lai nói giáo môn Viên Đốn, dùng Đại thừa mà dắt dẫn kẻ Tiểu cơ, khiến họ phải chết ngất (kinh Diệu Huyền, quyển mười).

Lời thuật rằng: Hoa nghiêm có ba tên, từ xưa đã có là Tịch trường, Thời trường, Tận vị lai tế và Pháp giới được nêu làm tên thứ tư. Lại phân ba tên trước là thuộc Sự, còn một tên sau là thuộc Lý. Đây đều là nhầm lẫn nhiều đời. Nay dốc lòng luận về nghĩa này thì chỉ có ba tên:

1. Tịch trường. Diệu Huyền dẫn phẩm Phương Tiện nòi rằng đầu tiên ngồi ở đạo tràng hai mươi mốt ngày suy tư là để nói Đức Thích-ca đầu tiên nói về Đốn giáo (từ quyển đầu đến quyển thứ ba mươi sáu là phần trước).

2. Thời trường. Diệu Huyền đã dẫn Pháp Tánh Luận nói về ba chỗ Độn căn nhập pháp giới (từ quyển ba mươi bảy trở đi là phần sau).

3. Tận vị lai tế. Pháp Hoa Văn Cú nói rằng: Ở hội cuối Hoa nghiêm mới mở ra Tiệm giáo. Diệu Lạc nói rằng: Vả đây gởi nhờ một hội thuyết giáo ở cõi Ta-nà là dùng để thông hiểu ý này. Nên biết rằng Hoa nghiêm tận vị lai tế, tức là kinh này luôn ở hội Linh sơn đâu khác, khắp mười phương mà thay nhau làm chủ và bạn (hai tên trước thấy ở Diệu Huyền, còn một tên sau thấy ở Diệu Lạc) Tuy có đến ba tên nhưng kinh được nói ra không thứ nào không phải là Hoa Nghiêm, về lý được trình bày thì không thứ nào chẳng phải là Pháp giới. Hoặc khi nói về thai mẹ, thì Diệu Huyền nói rằng Đức Phật từ cung trời Đâu-suất giáng sinh thì cùng với cả bà con Pháp thân đều giáng thần vào thai mẹ và ở trong đó ngài luôn nói Diệu Pháp (Văn kinh). Lúc đó chưa chuyển pháp luân, nên phải thuộc vào tướng cõi Thật báo tân vị lai tế.

Về chuyên giáo hóa khắp Đại cơ, có thuyết nói về “Hải Không”, Diệu Huyền dẫn kinh Vô Lượng Nghĩa, Kế đến đó nói về Văn Hải Không của Bát-nhã Hoa Nghiêm. Đây chỉ là nhân của Bát-nhã nhập vào pháp giới được xếp vào thời Trường. Song thai mẹ và hải không không phải riêng có hai tên. Nên xét kỹ.

“Thời trường” chung cả các thời sau. Lời thuật rằng: Lời bình về Thời Trường thông đến ba xứ đó là Pháp môn. Hải Không của Bát-nhã, Phật Tuệ của Pháp Hoa và Tâm Địa của Niết-bàn.

Diệu Huyền dẫn kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng:

Kế đến nói Bát-nhã trải nhiều kiếp tu hành Hải Không của Hoa Nghiêm, Pháp Hoa hội nhập vào Phật tuệ, tức là thông đến hai kinh (Thích Thiêm nói rằng: Do Bát-nhã mà cũng được tên là Hoa Nghiêm, vì Phật tuệ của Pháp Hoa không khác thời đầu. Lại Diệu Lạc nói rằng: Phải biết rằng nói theo Pháp giới luận thì không đâu không phải là Hoa Nghiêm, nói theo Phật tuệ thì đâu cũng là Pháp Hoa cả). Đây chứng tỏ là thông cả Bát-nhã và Pháp Hoa vậy.

Lại dẫn kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói rằng: “Nay ở trong tòa này ai nấy đều thấy không giống nhau. Hoặc có người thấy Như Lai nhập Niết-bàn, hoặc thấy Báo thân của ngài sinh trong Liên Hoa Tạng Hải nói Pháp môn Tâm Địa cho trăm ngàn vạn ức Thích-ca.

Diệu Huyền lại nói: “Mặt trời nếu có lặn xuống thì cũng còn chiếu sáng trên các đỉnh núi cao.” Cho nên Liên Hoa Tạng Hải thông suốt đến sau khi Niết-bàn. Đây là bằng chứng Hoa Nghiêm thông cả Niết-bàn. Lại dẫn Pháp Tánh Luận nói rằng: ba xứ Độn căn nhập vào Pháp giới. Đây là nói việc thông cả ba thời sau, nay lại bàn đến. Diệu Huyền nói rằng: Nhân Bát-nhã mà nhập vào Pháp giới thì tức là Hải Không của Hoa Nghiêm (do trải nhiều kiếp tu học Bát-nhã, nay phát ra Không Trí mà được nhập vào Pháp giới, Quán Hoa Nghiêm Hải Tạng đều là rốt ráo không). Lại nói: Hội Hoa Nghiêm kéo dài, nhưng ngày xưa vì Tiểu cơ chưa được nhập vào nên như câm như điếc. Nay nghe được Bát-nhã liền có thể nhập vào (Đây nêu việc nhờ Bát-nhã được nhập vào Pháp giới làm đầu mối. Pháp Hoa và Niết-bàn cũng theo lệ này mà được nhập vào. Người đời sau muốn căn cứ vào văn này mà xếp chung cả Bát-nhã. Nhưng không biết rằng Văn thông đến hai kinh và ba xứ nhập Pháp giới, thì làm sao mà hiểu rõ tên Thời Trường? Thích Thiêm nói rằng:

  1. Lấy Pháp giới làm Hoa Nghiêm (Đây tức là ở Tịch Trường hai mươi mốt ngày suy tư tận vị lai tế là riêng vì hàng Lợi căn Đại cơ thường nói về Giáo Viên Đốn của Hoa Nghiêm. Nêu cái lý Sở thuyên pháp giới để làm tên vậy).
  2. Lấy Thời Trường Thông đến các thời sau (tức là ba xứ Độn căn nhập vào pháp giới. Người Độn nhất khi đến hội Pháp hoa khai hiển thì mới được vào.

Hai nghĩa trên đều thông thế nên hễ có Đại cơ thì Hoa nghiêm không dứt (là giải nghĩa pháp giới ở trên). Tiểu cơ thì dùng giáo pháp lần lượt. Thế nên Độn căn cũng còn thấy hẹp hòi (là giải thích Thời trường ở trên do căn Độn nên còn thấy hẹp hòi. Vậy phải học lần lượt qua nhiều giáo pháp mới nhập được vào Đại cơ.

Lại Diệu Lạc dẫn phẩm Nhập Phật Cảnh Giới (quyển 3) thì ngài Văn-thù bảo ngài Xá-lợi-phất và sáu ngàn Tỳ-kheo rằng: “Các ông nên khéo thành tựu mười thứ Đại tâm thì sẽ chứng được Phật địa.” Từ xưa cũng đều nói rằng: Hoa Nghiêm Thời Trường mới là kết tập các giáo pháp sau này. Đến thời Bát-nhã trở đi, mới có thể nói là khiến các Tỳ-kheo thành tựu được mười Đại tâm. Đây mới là Nghĩa đúng lúc phải chuyển giáo vậy. Kết các ý trong phần nhập Hoa Nghiêm nên gọi Thời trường (văn). Có người căn cứ vào lúc chuyển giáo mà cho rằng Hoa Nghiêm ngang hàng với Bát-nhã, thì khác nào chẳng biết việc ngài Kinh Khê dẫn phần sau của kinh này có hàng Thanh văn từ Thời trường mà chứng được Bát-nhã. Đó là bằng chứng Thời trường thông đến Bátnhã vậy. Xưa chưa từng xét thời đầu có ngang hàng với Bát-nhã, nếu không thì vì sao ngài Kinh Khê giải thích Huyền Văn về ba xứ nhập Pháp giới, thì làm sao nói Thời Trường lại thông đến các giáo thứ lớp của Tiểu cơ sau này ư? Lại có kẻ bảo rằng (Xa Khê Vân Sư): Dù thông với Niết-bàn mà không phải thông với Pháp Hoa, là nói có ngăn ngại về Điều cơ vô công của Như Lai lấy đó mà vấn nạn. Nếu hay suy nghĩ kỹ về lời nói hội nhập vào Phật tuệ của Pháp Hoa thì ý này sẽ tự tiêu mất còn có ngại gì?

Về Hoa Nghiêm Giáo chủ, lời thuật rằng: Luận về Hoa Nghiêm

Giáo chủ thì căn cứ vào thuyết của bốn Minh Giải Báng mà chia ra hai nhóm cần hiện hay không hiện Thân Tôn quý. Nhóm cần hiện thì như các kinh Phạm Võng, Hoa Nghiêm và Quán Kinh… các tướng phần nhiều là thân to lớn. Còn nhóm không cần hiện thì phải dùng thêm sức gia trì khiến đối với thân thấp kém mà không coi thường. Thấy ba mươi hai tướng tức là thân to lớn không bờ mé vì biết thân một trượng sáu là pháp giới. Nay muốn rõ thuyết này khảo xét các kinh văn thì thấy có hai nghĩa:

1. Căn cứ vào bổ xứ Bồ-tát mà bảo là “Dưới cội Bồ-đề” mới thành Chánh giác. Nếu không phải là bổ xứ thì há lại nói là “mới thành”. Lại có kệ rằng: “Ca-diếp từng đến ở điện này. Thế nên chỗ này rất tốt đẹp.” Như thế mười bài kệ đều khen mười Phật quá khứ. Mỗi Phật đều đã có bổ xứ thì biết đó là Phật giấu tướng đẹp. Đó là thân phần đoạn sinh diệt cùng với Ứng thân ở cõi đồng cư không khác.

2. Căn cứ vào việc bay lên cung trời. Nghĩa là lúc đó Đức Thế Tôn không rời cội Bồ-đề mà vẫn bay lên núi Tu-di (Hoa Tạng Cốt Nguyệt nói rằng: Không động mà lên, ứng cơ được chỗ) tới điện Đế Thích mà thuyết pháp (tức mười Phật Ca-diếp trước từng ở điện này. Bay lên tức là nghĩa hiện khởi). Đâu không phải Hoa Nghiêm là ngàn trăm ức ứng thân đã nói, thân này đã khắp trùm cơ Biệt Viên, thấy đó là Tôn quý, đâu cần gì phải chỉ thân nhận chức ở Hoa đài ư? Đây tức là phá thuyết tịnh giác chỉ ở cõi Thật báo ẩn giấu thân tôn quý mà ứng hiện ở cõi Đồng cư. Bởi Đại sư có nói: Ba phẩm Tướng Hải đều ứng cơ mà hiện. Biệt giáo thì dùng Biệt tu duyên hết thành tựu tướng này, tức là Tướng tôn quý do tu mà thành, nên gọi là Báo thân. Về Viên giáo hay biết rõ Nhị tu là tánh, tu đức vô công chính là tướng tôn quý của tánh cụ, nên gọi là Pháp thân. Căn cứ theo đây thì biết rằng: ngay nơi tánh mà luận Bản nên gọi là Pháp thân, còn nhắm vào cõi đồng cư thì gọi là Ứng thân và độ cơ mà hiện khởi thì gọi là tướng tôn quý (Báo thân). Nó khác hẳn với thuyết của tịnh giác tu thành tướng tôn quý ứng ngang với thuyết đồng cư. Song nay Đức Phật theo cơ theo giáo để định ra thân, thì chính là sinh thân ở cội Bồ-đề hiện khởi Tôn quý là để ứng với cơ Biệt Viên chính là hợp với thuyết Đức Thích-ca đầu tiên nói Đốn giáo của Diệu Huyền (Thích-ca là Sinh thân, còn nói Đốn giáo là Xá-na) cũng hợp với bốn Giáo Nghi nói về Đức Như Lai hiện thân Lô-xá-na để nói pháp (Như Lai là sinh thân của Thích-ca hiện khởi thân tôn quý nên chuyển gọi là Xá-xa). Đời có người lấy thuyết Nguyệt Đường nói rằng: Cảnh vốn định thân thì chính là Thích-ca, do có cảm mà thấy tướng thì 0 là Xá-na.

Song Đốn giáo đầu tiên chưa chắc là thuần giáo. Pháp thân Bồtát mà cũng có người phàm phu Đại căn tánh. Đây có hai nghĩa: Nếu Đương thể là Viên đốn mà được ngộ, thì liền phá vô minh, nhập vào bậc Sơ trụ của Viên giáo. Đây là đề hồ. Nếu người Sơ tâm tuy có nghe Đại giáo nhưng chỉ mới được nhập vào Thập tín, chỉ là vị đầu tiên nên gọi là sữa. Nói là sữa, ý không phải ở vị nhạt vì là ban đầu mà cũng là gốc (hàng nội Phàm Viên giáo sáu căn thanh tịnh tức là thập tín. Sơ Tín là đoạn kiến hoặc từ nhị tín đến thất tín là đoạn tư hoặc từ bát tín đến thập tín là đoạn trần sa hoặc ở nội ngoại giới. Vì chưa phá hết vô minh nên chỉ gọi là sữa). Nếu người có căn tánh thì, dù đại giáo vẫn cho là tiểu như câm điếc. Bởi tiểu cơ chưa đổi nên còn toàn chất sữa vậy (Diệu Huyền 10).

Hoa Nghiêm hai vị bốn cơ. Lời thuật rằng: Từ xưa dạy kẻ mới học là Bản đồ về thời và vị. Trên nói Cao Sơn thì dưới đối là Nhũ Vị. Chưa từng thấy có ai luận đến. Nay xét về Huyền Văn thì thời Hoa Nghiêm có hai vị và bốn cơ khác nhau:

  1. Thuần dạy Pháp thân, tức là phần chứng Trung đạo bốn mươi mốt vị, đây gọi là đề hồ.
  2. Phàm phu đại căn, nhập vào bậc Sơ trụ của Viên giáo, chứng một phần Trung đạo trở đi, cũng gọi là đề hồ.
  3. Mới vào thập tín, tuy ở bốn trụ nhưng vì chưa phá vô minh nên chỉ gọi là sữa.
  4. Tiểu căn câm điếc toàn như vị sữa.

Song gọi là đề hồ thì có hai Cơ, còn gọi là sữa thì cũng có hai cơ. Diệu Huyền nói rằng: Ở Tiểu cơ thì như sữa, ở Đại cơ thì như đề hồ, chỉ là phần nhỏ ví dụ không thể coi như toàn thể. Như Thiêm có nói: Hoa Nghiêm phần dụ ở vị đầu tiên mà chưa được Đốn của Hoa Nghiêm và hai giáo Biệt viên, chỉ có tướng thứ lớp năm vị (Văn) nên biết thế. Gọi Hoa Nghiêm là sữa chính là theo ý từ Đốn khai Tiệm để triển khai sự hóa độ.

Hai mươi mốt ngày định cơ. Lời thuật rằng: Các văn gọi hai mươi mốt là Nghĩ cơ, thì không có luận bàn gì khác. Song Huyền Văn có nói: Ở phần đầu kia (Hoa nghiêm) dứt khoát không có hàng Thanh văn, phần sau mới có, tuy nghe pháp vẫn như câm như điếc. Cho nên với nghĩa Thần trí căn cứ vào việc này mà bác bỏ không có hàng Thanh văn ở phần đầu, vậy thì vì sao lại phải định cơ Nay xin nêu hai nghĩa cho thật hết ý:

  1. Trong ba tuần đầu dứt khoát không có Thanh văn, đây là Như Lai nghĩ cách thích hợp để giáo hóa mà thôi.
  2. Phần sau mới có, hình dạng giống như câm điếc. Đây là Như Lai đã thật sự giáo hóa.

Nói trước có ý độ hóa, thì như ở phẩm Phương Tiện có nói: “Trước ngồi ở đạo tràng hai mươi mốt ngày suy tư.” Thích Thiêm thì nói: Bảy ngày đầu suy nghĩ muốn nói Viên giáo, bảy ngày Kế đến suy nghĩ muốn nói Biệt giáo, bảy ngày thứ ba muốn nói Thông giáo đều không có Cơ nên chỉ nói Tam tạng”, Thích Thiêm lại nói: Theo Đại cơ là lúc đạo tràng vắng lặng (tịch tràng), còn theo Tiểu cơ thì sau khi thành đạo rồi chỉ suy nghĩ mà chưa nói’. Diệu Lạc nói rằng: Tiểu cơ thì thấy hai mươi mốt ngày là thời gian ngưng đọng không nói pháp. Còn Đại cơ thì thấy trước sau không thay đổi. Đây đều là Như Lai có ý định giáo hóa. Nói việc giáo hóa thì như Văn Cú nói rằng: Hội cuối Hoa Nghiêm mới khai về Tiệm giáo. Diệu Lạc giải thích rằng: Cựu Kinh nói rằng: Đức Phật ở rừng Thệ-đa nhập Tam-muội Sư tử tần thân, ngài Xá-lợi-phất từ Kỳ viên đến không thấy Đức Như Lai đang tự tại trang nghiêm, cũng không thấy các Đại Bồ-tát quyến thuộc, vì chỉ Vô trí nhãn mới có thể thấy được, cũng không thể khen ngợi.” Đây tức là văn như câm như điếc. Ở cuối hội đó chính là thời kỳ đầu của Tiệm giáo. Nay khảo xét lời hai Tổ thì đều chỉ rằng câm điếc là ở phần sau ban đầu của tiện giáo biết rõ là trong mười hai năm ở Lộc uyển. Lệ như Diệu Huyền bảo là: “Phương Đẳng Đờn Ha ứng với mười hai năm trước.” Lấy đó mà suy thì biết là hội cuối ở rừng Thệ-đa Đức Như Lai định việc truyền giáo, vì do Thanh văn trước tập học Tiểu thừa chưa thể nghe nổi Đại thừa nên có dạng như câm điếc. Do đó phải nhờ ngài Tịnh Danh để mời đến, đó là nghĩ cách quở mắng đều ở trong mười hai năm. Về không thể nghi, tức là bốn Giáo Nghi nói về điếc câm ở hội Hoa nghiêm, còn Đờn Ha là ở thời Phương đẳng. Đây chỉ là căn cứ theo bộ mà luận, kỳ thật chưa phải là đúng nghĩa. Kinh lại nói: Mong Bồ-tát Quang Minh… mỗi vị nói mười kệ để khuyên dạy hàng Thanh văn. Bài kệ đầu quở trách rằng: Tất cả các Duyên giác và các đại Thanh văn kia đều không thể biết được hạnh cảnh giới của Bồ-tát (đây là phần sau gồm cả phần trước, căn cứ theo văn), đây đều là việc nghĩ cách giáo hóa thích hợp. Người xưa vì không phân biệt các văn, không rõ về ý hóa khác với sự hóa của Như Lai, xem lẫn lộn nhau nên có nhiều cách nói khác nhau.

Về bảy xứ tám hội là theo Cựu Kinh sáu mươi quyển, do ngài Bạtđà-la dịch ở đời Tấn. Tông Thiên thai đã dẫn dùng. Còn bản Tân Dịch tám mươi quyển, là do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch ở đời Đường có thêm một hội Phổ quang minh, đó là bảy xứ chín hội, ở phẩm thứ ba mươi chín, thì chỉ có a-tăng-kỳ Tùy hảo quang minh là do chính Phật nói, còn các hội khác đều gia bị cho các Bồ-tát nói.

Hội thứ nhất, ở Bồ-đề đạo tràng nói sáu phẩm là:

1. Thế Chủ Diệu Nghiêm (Đức Phật khi mới thành Chánh giác ở tại A-lan-nhã Bồ-đề đạo tràng tại nước Ma-kiệt-đề), ngài Kinh Khê nói: Thành đạo từ lâu thọ hương có khác không đồng với dưới cội Bồ-đề nói trong A-hàm, nhiệm vận ở nơi Tích là Biệt Viên giáo vậy.

2. Như Lai Hiện Tướng: (Phật Bạch Cao Tướng Hữu Bồ-tát nói kệ rằng: Thân Phật to lớn đầy khắp pháp giới…)

3. Phổ Hiền Tam-muội (Ngài Phổ Hiền nhập Như Lai tạng trần Tam-muội, hiện ra vi trần cõi Phật).

4.  Thế Giới Thành Tựu (Ngài Phổ Hiền nói thế giới thành tựu phải có đủ mười việc và mười nhân duyên).

5. Hoa Tạng Thế Giới (Ngài Phổ Hiền nói biển thế giới như lưới trời giăng mắc khắp trên hư không).

6. Tỳ-lô-giá-na (Ngài Phổ Hiền nói tên Phật ở thế giới này. Cựu Kinh thì nói Phật Thích-ca cũng gọi là Lô-xá-na nhưng Tân Kinh thì gọi là Tỳ-lô-giá-na. Diệu Lạc nói: Pháp Báo không phân hai, ba, chớ biện giải, chính là chỗ nói này vậy).

Hội thứ hai, ở Bồ-đề tràng tại điện Phổ quang minh nói sáu phẩm là:

1. Như Lai Danh Hiệu (Ngài Văn-thù nói tên Phật ở mười phương thế giới).

2. Bốn Thánh Đế (Ngài Văn-thù nói tên và nghĩa bốn đế).

3. Quang Minh Giác (Ngài Văn-thù nói kệ khen, Phật phóng quang).

4. Bồ-tát Vấn Minh (Ngài Văn-thù hỏi ngài Giác Thủ… về nghĩa phá vô minh. Ngài Pháp Thủ Bồ-tát nói: Như kẻ đếm châu báu của người khác, chính mình không có nửa xu, đối với pháp không tu hành chỉ thích học nhiều thì cũng thế. Như người giỏi toa thuốc, bệnh mình không thể cứu, như người điếc tấu nhạc, không thể nghe tiếng hay. Ngài Hiền Thủ lại nói: người vô ngại tất cả, một đường ra khỏi sinh tử).

5. Tịnh Hạnh (Ngài Văn-thù đáp ngài Trí Thủ rằng: Tất cả hạnh nguyện thì như khi ăn cơm, phải cầu nguyện chúng sinh, thiền duyệt làm thức ăn, pháp hỷ đầy đủ. Các kệ đều rút từ phẩm này).

6. Hiền Thủ (Ngài Văn-thù hỏi ngài Hiền Thủ về công đức của tâm Bồ-đề… thì tín là mẹ phát sinh mọi

Hội thứ ba, ở cung trời Đao-lợi, nói sáu phẩm là:

1. Thăng Tu-di Sơn (Đức Phật ngồi ở cội Bồ-đề, không rời tòa ngồi mà vẫn bay thẳng lên núi Tu-di. Trời Đế Thích khen rằng: Phật Ca-diếp từng ở tại điện này, thế nên chỗ này rất tốt. Như thế căn cứ vào lời khen mười Phật quá khứ đều nói chỗ này rất tốt. Ngài Kinh Khê nói rằng: Không động đậy mà bay lên, phó cơ được chỗ).

2. Sơn Đảnh Kệ Tán (Phật ngồi trong điện trời Đế Thích, mười vị Bồ-tát pháp tuệ… đều nói kệ khen thắng tuệ của Phật rằng:

Hiểu biết tất cả pháp
Tự tánh vốn không có
Hiểu pháp tánh như thế
Thì thấy Lô-xá-na).

3. Thập Trụ (Ngài Pháp Tuệ nói mười trụ, mỗi trụ đều khuyên tu mười pháp).

4. Phạm Hạnh (Ngài Pháp Tuệ nói tu tập phạm hạnh có mười pháp).

5. Phát Tâm Công Đức (Ngài Pháp Tuệ đáp lời Đế Thích hỏi là các công đức của phát tâm là Phật chủng không hề dứt, nhất niệm mà biết được thế giới rộng hẹp, kiếp dài ngắn có Phật hay không Phật, một Phật hay nhiều Phật, Nhất niệm mà biết kiếp thành hoại của thế giới ba đời, các thứ chúng sinh khác nhau. Ngài Kinh Khê nói: Chỗ duyên của Phát tâm chính là cảnh được quán, đủ ba đế không có tánh không, tất cả đều giả mượn, bình đẳng…).

6. Minh Pháp (Ngài Pháp Tuệ nói Bồ-tát sơ phát tâm lìa mười thứ phóng dật, tu mười thứ pháp, đầy đủ đại công đức, thành tựu được Phật trí. Ngài Kinh Khê nói rằng: Minh là sở chứng, pháp là phương pháp).

Hội thứ tư, ở cung trời Dạ-ma nói bốn phẩm là:

1. Thăng Dạ-ma Thiên (Phật lên đây, các trời thỉnh Phật nhập điện).

2. Dạ-ma Kệ Tán (Công Đức Lâm… đều nói kệ khen Phật, ngài Giác Lâm đọc kệ rằng:

Tâm như thợ vẽ khéo
Tạo các thứ ngũ ấm
Tất cả trong thế gian
Không gì ngoài danh sắc.

Lại nói rằng:

Tâm và Phật cũng thế
Phật, chúng sinh cũng vậy
Tâm Phật và chúng sinh
Là ba thứ không khác.

Nếu người muốn hiểu biết, ba đời tất cả Phật, nên Quán tánh pháp giới, tất cả duy tâm tạo).

3. Thập Hạnh (do ngài Công Đức Lâm nói).

4. Thập Vô Tận Táng (Ngài Công Đức Lâm nói).

Hội thứ năm, ở cung trời Đâu-suất nói ba phẩm là:

1. Thăng Đâu-suất Thiên (Phật lên đây các trời mời Phật nhập điện)

2. Đâu-suất Kệ Tán (Ngài Kim Cang Tràng… khen Phật) 3. Thập Hồi Hướng (Ngài Kim Cang Tràng nói kệ rằng:

Pháp tánh biến khắp tất cả chỗ
Tất cả chúng sinh và quốc độ
Ba đời đều ở chỗ vô dư
Cũng không hình tướng có thể đắc).

Hội thứ sáu, ở cung trời Tha hóa nói một phẩm là Thập địa (Ngài Kim Cang Tạng nói rằng: Dùng mười Địa đối với các Thiên vương, giống như đất phát sáng đối với các trời Đao-lợi).

Trùng hội thứ bảy, ở tại điện Phổ quang minh nói mười một phẩm là:

1. Thập Định (Ngài Phổ Hiền nói nhập mười thứ Tam-muội).

2. Thập Thông (Ngài Phổ Hiền nói mười thứ thông).

3. Thập Nhẫn (Ngài Phổ Hiền nói mười thứ nhẫn).

4. A-tăng-kỳ (Phật nói cho Tâm Vương Bồ-tát biết có a-tăng-kỳ nhiều không thể nói không thể nói số kiếp để khen ngợi công đức vô lượng của ngài Phổ Hiền).

5. Thọ Lượng (Ngài Tâm Vương Bồ-tát so sánh số kiếp dài ngắn của các thế giới).

6. Bồ-tát Trụ Xứ (Ngài Tâm Vương ở núi Thanh lương tại phương Đông bắc là nơi ở chung của ngài Văn-thù với vạn Bồ-tát. Lại nói nước Chấn Đán (Trung Quốc) có hang Na-la-diên).

7. Phật Bất Tư Nghì (Liên Hoa Tạng Bồ-tát nói diệu đức bất tư nghì của Như Lai).

8. Thập Thân Tướng Hải (Ngài Phổ Hiền nói mười thân của Như Lai, mỗi mỗi đều có mười Hoa tạng thế giới hải vi trần số tướng người to lớn).

9. Như Lai Tùy Hảo Quang Minh (Phật bảo ngài Bảo Thủ nói tùy hảo quang minh chiếu khắp mười Phật sát trần giới, địa ngục gặp ánh sáng này liền dứt khổ và các hàm thức được sinh lên cung trời Đâusuất).

10. Phổ Hiền Hạnh (Ngài Phổ Hiền nói tu hành mười pháp).

11. Như Lai Xuất Hiện (Đức Phật phóng ánh sáng tên là Như Lai Xuất hiện. Ngài Phổ Hiền nói bản nguyện của Giá-na).

Hội thứ tám có ba chỗ, ở điện Phổ quang minh nói một phẩm là Ly Thế Gian (Ngài Phổ Hiền nói Tạp hạnh của Quảng Lệ Bồ-tát).

Hội thứ chín, ở rừng Thệ-đa (tức vườn Cấp cô độc) nói một phẩm là:

Nhập Pháp Giới (Lúc đó Đức Thế Tôn nhập vào Sư tử tần thân Tam-muội, ngài Xá-lợi-phất và các đại Thanh văn ở tại rừng Thệ-đa đều không thấy thần lực của Như Lai cũng không thấy các Bồ-tát đang đại hội vì thiện căn không đồng. Bởi xưa không tu tập môn Kiến Phật thiện căn, xưa cũng không khen ngợi các thần biến của chư Phật, nên không thể thấy nghe nhớ… vì chỉ dựa vào Thanh văn thừa mà xuất ly. Ngài Văn-thù từ giả Phật đi về cõi nhân gian ở hướng Nam, lúc đó ngài Xá-lợi-phất và sáu ngàn Tỳ-kheo cùng đến chỗ ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù khuyên dạy họ mười điều khiến họ hành đạo Bồ-tát thì liền được Vô ngại nhẫn Tam-muội thấy được cảnh giới của tất cả Phật nên đều thấy được chư Phật. Ngài Văn-thù khuyên xong liền đi về phương Nam đến phía Đông Phước thành, nói pháp cho Đồng tử Thiện Tài, khiến ngài cầu quả Bồ-đề và gần gũi các Thiện tri thức. Từ đây đi về phương Nam qua một trăm mười thành tham học với năm mươi ba Thiện tri thức, nhập đạo tràng Phổ Hiền, được tất cả Phật sát vi trần số môn Tam-muội, khắp thấy ngài Phổ Hiền ở mười phương cõi, đây đều là dựa vào Kinh Khê rút từ Mạnh Mục của kinh Hoa Nghiêm).

Thích Thiện nói rằng: Có ba bản được cất giữ ở Long cung: Bản Thượng có mười ba thế giới vi trần số phẩm, bản Trung có bốn mươi chín vạn tám ngàn tám trăm bài kệ, bản Hạ có mười vạn kệ, bốn mươi tám phẩm. Nay chỉ có ba mươi chín phẩm thì biết là kinh này đến đây chưa hết (Ngài Long Thọ vào Long cung xem kinh thấy hai bản Thượng và Trung thì ngươi đời không xem nổi, nên chỉ có các tụng trong bản Hạ được lưu hành mà thôi).

Ngày chín tháng hai Như Lai trong bảy ngày đã một lòng suy tư ngồi dưới gốc thọ vương mà quán niệm. Ngài tự nghĩ rằng: Ta đã chứng được pháp thậm thâm khó hiểu, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể biết được. Còn tất cả chúng sinh thì phước mỏng căn độn làm sao có thể biết được pháp ta đã chứng. Vậy thà ta nên nhập Niết-bàn. Lúc bấy giờ có Đại phạm Thiên vương từ cung trời đến chỗ Đức Như Lai bạch rằng: Thưa Thế Tôn! Từ khi thành đạo Vô thượng đến nay, vì sao ngài vẫn im lặng mà không nói pháp. Có những chúng sinh ở thời quá khứ đã gieo trồng phước đức, họ đủ sức nghe pháp. Cúi mong Thế Tôn vì chúng đây mà dùng sức đại Bi để chuyển diệu pháp luân. Các Thích Đề-hoàn Nhân cho đến trời Tha hóa tự tại cũng lại như thế. Lúc đó trời Phạm thiên đến ba lần mời thỉnh. Say bảy ngày thì Đức Phật yên lặng nhận lời. Ngày thứ mười bốn, ngài dùng Phật nhãn quán sát chúng sinh về các căn thượng, trung, hạ và các phiền não. Suốt hai mươi mốt ngày, suy nghĩ rằng ta nay sẽ triển khai pháp môn Cam lồ, ai sẽ được nghe trước? A-la-la có phát nguyện: “Thành đạo rồi trước xin được độ, thì trên không trung có tiếng nói ông ấy vừa mệnh chung hôm qua.” Lại nghĩ đến Ca-lan thông minh cũng đáng được nghe trước. lại có tiếng trên không trung: “Tối qua ông ấy vừa mệnh chung.” Lại nghĩ đến năm người vương thần do vua sai đi, quá khứ đã phát nguyện, cũng đáng được nghe pháp trước. Ngài liền từ tòa ngồi đứng dậy và đi đến thành Ba-la-nại (kinh Nhân Quả, văn cú dẫn kinh Nhân Quả so với hai mươi mốt ngày của kinh Pháp Hoa không khác. Lại Thích Thiêm dẫn đủ các kinh nói hai mươi mốt ngày (3x) đều không đồng chỉ có kinh Nhân Quả thì tóm tắt giống ý của Sư ngày nay, cho nên các văn ghi chép về Đức Phật phần nhiều căn cứ vào kinh này. Hai Tiên nhân A-la-la và Calan cùng năm ông Kiều-trần-như đều thấy trong Bản Kỷ, quyển hai).

Ngày ba mươi tháng hai, Đức Thế Tôn đến bến nước không bờ đê của con Rồng mù vảy bông mà ngồi nhập định suốt bảy ngày, phóng luồng ánh sáng vào nước thì mắt Rồng được mở và tự nhớ ánh sáng của ba Phật đã thấy trước đây (ba Phật là Câu-lưu, Na-hàm, Ca-diếp trong Hiền kiếp) thì mắt liền thấy lại như xưa. Rồng liền ra khỏi nước gặp Phật. Trời mưa suốt bảy ngày, Rồng dùng thân quấn quanh Phật bảy vòng vương bảy đầu để che chắn cho ngài. Bảy ngày hết mưa Phật xuất định, Rồng hóa làm một Đạo sĩ trẻ, Phật liền dạy cho pháp Tam tự quy (giống như Đề-vị quy tăng ở vị lai). Đây là loài bàng sinh được gặp Phật trước nhất (kinh Nhân Quả).

Ngày bảy tháng ba, Thần cây biết Đức Phật ngồi nhập định bảy ngày (đây là ngồi nhập định bên bờ nước, Thần cây đây không phải là Thần cây Bồ-đề) chưa có ai dâng cúng thức ăn. Vừa lúc đó có năm trăm khách buôn từ dãy núi trước mặt đi ngang qua xe trân bị kẹt bánh không đi được. Có hai người lớn là Đề-vị và Ba-lợi cùng đến thần cây để cầu phước.Thần cây liền bảo họ rằng: Đức Phật đang ở bên bờ nước, các ông là người may mắn cúng dường thức ăn cho ngài trước tiên. Hai người liền đem cháo mật dâng lên Phật, bốn Thiên vương liền lấy bát thơm tự nhiên trong đá cùng dâng lên ngài (theo kinh Nhân Quả, kinh Phổ Diệu thì nói bốn Thiên Vương mỗi vị dâng lên ngài một bát bằng đá xanh). Đức Phật nghĩ rằng lấy một bát thì không vui lòng các vị kia, bèn nhận cả bốn bát đặt vào tay trái lại lấy tay phải vỗ thành một bát khiến bốn phía đều nhìn thấy (kinh Thụy Ứng), rồi Phật chú nguyện, khi ăn xong ngài liền truyền cho các thương buôn Tam quy: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng ở tương lai (kinh Nhân Quả). Trước hết Phật nói về các thứ ngũ hành, sáu giáp, âm dương và lịch số. Khi tin phục rồi Phật mới khiến quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng ở tương lai. Lúc đó ông Trưởng giả Đề-vị được quả Tu-đà-hoàn (Hán dịch là Dự lưu, là người được Sơ quả). Lại nói cho năm giới, năm giới là mẹ của chư Phật, vì muốn cầu Phật đạo thì phải đọc kinh ấy, muốn cầu A-la-hán (Hán dịch là Vô sinh, là người đã chứng bốn quả Thánh) cũng đọc kinh ấy. Đề-vị bèn được Bất khởi pháp nhân (Vô sinh pháp nhẫn), ba trăm người đều được tín nhẫn, hai trăm người được quả Tu-đà-hoàn, năm trăm khách buôn và BốnThiên vương được Nhu thuận pháp nhẫn (kinh Đề-vị, phụ chú rằng: Căn cứ vào Tam bảo sáu, xưa có kinh Đề-vị một quyển. Sau đó ngài Đàm Tinh ở đời Ngụy soạn ra bộ Đề-vị, Ba-lợi hai quyển có thêm phần Ngũ Hành Ngũ Phương. Lại nói rằng: Núi Thái sơn ở phương Đông, nhà Hán gọi là Đại nhạc, không biết là tiếng Phạm hay Ngụy đến nỗi người đời sau cho là bản giả, nên lấy bản một quyển cho là chính thức). Đức Phật thọ ký cho Đề-vị ở vị lai sẽ thành Phật hiệu là Mật Thành Như Lai (theo kinh Phổ Diệu).

Những gì thuộc Đề-vị? Lời thuật rằng: Đức Phật nói năm giới là pháp dạy cho hàng trời người chính là hiển bộ. Đề-vị nghe pháp Tiểu thừa mà chứng Đại thừa, là Bất định. Đó là hiển bày giáo bất định vậy. Nếu ước định về thời gian thì đó là hai mươi mốt ngày sau hội Hoa nghiêm và sau bảy ngày nhập định bên bờ nước. Đây là bảy ngày thứ năm. Như kinh Nhân Quả đã nói: Nếu gom góp các kinh thì đó là pháp dạy hàng trời người, còn thuộc về ba tạng thì như bốn giáo nghĩa đã nói.

Kế đến là Tiệm giáo gồm có ba thời: Lộc uyển là thời Tiệm đầu, Phương đẳng là thời Tiệm giữa và Bát-nhã là thời Tiệm cuối. Gọi chung là Tiệm giáo.

Thuật rằng: Đây là nhóm Xá-lợi-phất… thuộc Tiểu cơ không được lợi ích gì trong hội Hoa nghiêm, nên từ Đốn mở ra Tiệm để lần lượt hướng dẫn mọi người được vào đó là thời Lộc uyển Tiệm đầu. Do pháp bốn đế và Thập nhị nhân duyên mà cùng chứng quả Tiểu thừa, là thời Phương đẳng tiệm giữa. Riêng bác bỏ Tiểu thừa để cùng hâm mộ pháp Đại thừa, là thời Bát-nhã Tiệm cuối chuyển đổi thuyết giáo giao tài sản để lãnh biết nghiệp nhà, nên gọi chung là Tiệm giáo.

Thời thứ hai là Lộc uyển: Phật vốn dùng Đại thừa để hóa độ chúng sinh, nhưng vì họ không kham nổi nên suy nghĩ tìm phương tiện mà đến Ba-la-nại (Hán dịch là Giang nhiễu thành, ở Trung Ấn Độ, trong thành có vườn Lộc uyển). Ngài lấy đạo Nhất thừa mà phân biệt nói có ba thừa, tức là triển khai Tam tạng giáo. Không phải chỉ riêng có Đức Thích-ca giấu kín vô lượng thần đức để dạy Tiệm giáo này, mà chư Phật quá khứ cũng đều thế. Phải biết rằng sau thời Đốn giáo đầu thì tiếp theo mới mở Tiệm giáo. Tiệm cơ đối với Đốn giáo hoàn toàn mới như là vị sữa, Tam tạng Giáo điển chuyển đổi họ từ phàm thành Thánh cũng dụ như biến đổi sữa thành lạc, thứ lớp tương sinh không có vị đậm nhạt (Diệu Huyền 10). Vì căn tánh của hàng Tam thừa đối với Đốn giáo không có lợi ích. Nên từ Bất động tịch trường mà đi đến Lộc uyển, đổi trang phục Xá-na quý báu mặc vào lớp áo của thân trượng sáu dơ xấu, trước vì năm người mà nói về bốn đế, Thập nhị nhân duyên và Sáu độ… (theo bốn Giáo Nghi, pháp hoa văn cú nói rằng quá khứ gọi là căn, vị lai gọi là tánh, tức Đại mà Tiểu, nên gọi là Bất động. Thân Tôn Đặc Ứng nghĩa cao quý định tuệ trang nghiêm nên với trang phục quý báu, còn sinh thân ứng nghĩa yếu kém Nhẫn sinh pháp não dụ lớp áo dơ xấu. Đức Phật sinh trong hàng người có hình dáng cao đẹp gấp bội phần nên cao trượng sáu. Cũng như Đức Di-lặc cao ba mươi hai trượng thì người lúc đó cao mười sáu trượng vậy).

Nếu xác định về thời gian thì đó là thời Kế đến tiếp chiếu ánh nắng vào hang sâu, nếu ước định về vị thì đó là sữa sinh lạc. Từ mười hai bộ loại kinh văn mà sinh ra chín bộ Tu-đa-la (theo Diệu Huyền 10).

Phẩm Tín Giải nói rằng: Lúc bấy giờ, trưởng giả muốn khuyến dụ con mình (không dạy Đại thừa nên không muốn bỏ côi cút) nên mật sai hai người (ẩn Thật là Mật, dùng Quyền là Sai, Thanh văn, Duyên giác là hai người) thân hình tiều tụy (Nhị thừa không tu tướng hảo) không có oai đức (không có mười Lực, Vô úy) đến nói từ từ với kẻ cùng tử (Tiểu thừa giáo dài dòng dụ cho nói từ từ) mướn người hốt phân (khổ tập là phân). Lúc đó hai người liền tìm kẻ cùng tử (xét biết người có cơ duyên) khi đã gặp liền nói mọi việc (nói việc thuê làm). Bấy giờ kẻ cùng tử nhận giá tiền rồi hốt phân (nhận lấy giá Diệt, Đạo). Người cha nhìn thấy con vừa thương vừa lạ (thương vì con chỉ cầu A-la-hán, lạ vì không cầu Phật đạo – Từ trên đều là tề giáo từ đây trở đi là thám lãnh. Lại nhân một ngày khác ở trong cửa sổ (thiên kiến nhỏ hẹp). Xa thấy thân con (bỏ Tiểu thừa xa Đại thừa nên là xa thấy) gầy mòn tiều tụy (Sức trí và phước yếu kém nên gọi là gầy bên trong sợ vô thường nên gọi là mòn, bên ngoài gặp tám khổ nên gọi là tiều tụy) phân đất bùn sình (bốntrụ là phân đất vô minh là bùn sình) nhầy nhụa dơ bẩn (đã từ lâu biết là phương tiện coi là đồ chơi) liền cởi bỏ y phục và chuỗi ngọc sang quý (giấu Báo thân có đeo chuỗi ngọc giới định huệ và y phục Tịch diệt nhẫn…) mặc áo thô xấu dơ bẩn (thân trượng sáu là thô, sinh, pháp hai nhẫn là xấu. Nhẫn có tình buồn thì gọi là Sinh nhẫn, không có tình buồn thì gọi là Pháp nhẫn, đó là các pháp thuộc nóng lạnh, gió mưa… Thô là thô tục) tay phải cầm đồ hốt phân (đối trị các thứ kiến, tư hữu lậu. Tay trái dụ cho Thật, tay phải dụ cho Quyền) nói với người làm (đích thân bảo con làm) ngươi hãy siêng làm và nên an tâm xem ta như cha ngươi (giống chứ chưa thật) từ nay trở đi ngươi hãy tự xem như con ruột của ta (gần được bậc Thánh tức là thế Đệ nhất). Lúc đó kẻ cùng tử vui mừng vì cuộc gặp gỡ ấy nhưng vẫn tự coi mình là khách làm người hèn hạ (tự biết không kham việc nối Đại thừa). Suốt hai mươi năm làm việc hốt phân (Kiến đế có một giải thoát, một vô ngại, Tư dung có chín giải thoát, chín vô ngại cộng thành hai mươi. Chú trên đều trích từ Pháp hoa văn cú).

Đây nên hiểu ý gì? Đây là sau hội Đốn giáo thứ hai thì giấu thân Xá-na mà hiện làm Tỳ-kheo thuyết giảng ba tạng giáo điển, suốt cả hai mươi năm luôn bắt hốt phân được tiền một ngày công là Kiến tư hoặc đã dứt được tâm vô lậu thanh tịnh (Diệu Huyền 10).

Trong hai mươi năm. Lời thuật rằng: “Hai mươi năm” nói trong phẩm Tín Giải được nêu ra ở ba nơi đều có ý riêng.

1. Hai mươi năm luôn khiến hốt phân (ví dụ đang dạy dỗ). Thấy Đế có một giải thoát, một vô ngại. Tư duy có chín giải thoát, chín vô ngại, nên gọi là hai mươi (theo Văn Cú đây có bảy giải thích).

2. Kinh nói hai mươi năm làm việc nhà (ủy thác nghiệp nhà) Trụ ở Vị Nhị thừa đổi thành giáo Đại thừa (Văn Cú).

3. Từ khi thấy con trở về đã hai mươi năm (định về thiên tánh của cha con) là người thuộc cơ Nhị thừa nhưng lại cảm Phật thừa (Văn Cú).

Một lần hai mươi trước tức là dùng tám nhẫn tám trí mà đoạn Kiến hoặc họp làm một giải thoát một vô ngại. Dùng chín vô ngại và chín giải thoát để đoạn từ hoặc thì chung lại gồm có hai mươi. Hai lần hai mươi sau chỉ là họp hai nghĩa. Diệu Lạc nói: Đoạn kiến hoặc là một, đoạn từ hoặc là một. Phụ Hành nói rằng: Kể về người thì có Nhị thừa, kể về Lý thì có hai đế chân tục, kể về hoặc thì kiến và tư hoặc đều phá hết. Hỏi rằng: hai nghĩa là thế, còn mười nghĩa là sao? Đáp: Nhị thừa thì mỗi thừa có mười trí (mười Trí tức: Thế trí, Tha tâm trí…). Đây là nghĩa ba văn trước sau đều thấy có hai mươi.

Ngày tám tháng ba, Đức Thế Tôn đi về phía trước vào vườn Lộc uyển ở nước Ba-la-nại (kinh Nhân Quả).

Đức Phật thành đạo từ ngày tám tháng hai, từ ngày chín đến ngày hai mươi chín tháng hai là tròn hai mươi mốt ngày ở tịch tịnh đạo tràng (nhập định nói kinh Hoa Nghiêm). Đến ngày sáu tháng ba là bảy ngày nhập định bên bờ nước, thì tròn bốn tuần. Đến ngày bảy tháng ba nhận thức ăn của Trưởng giả Đề-vị dâng cúng. Sau đó mới đến vườn Lộc uyển, đến ngày tám tháng ba là đúng ba mươi lăm ngày. Kinh Niết-bàn nói: Các ngày Đản sinh xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân đều đúng ngày mồng tám cả.

Đầu tiên nói pháp BốnThánh đế cho các ông Kiều-trần-như. Nay các ông cần nên biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, Đức Phật ba lần nói về pháp bốn đế và Thập nhị hành pháp luân (theo kinh Nhân Quả, kinh Pháp Hoa nói Đức Phật đại thông nhận lời thỉnh mà ba lần chuyển pháp luân về mười hai hành).

Theo Thanh văn tạng giáo thì người nương vào bốn đế sinh diệt.

1. Khổ đế, gồm hai mươi lăm hữu và hai báo Y Chánh (bốn châu, bốn ác thú Sáu dục, Phạm thiên, bốn Thiền, bốn không xứ, Vô tưởng, bất hoàn A-na-hàm) riêng là hai mươi lăm hữu, chung là sáu đạo sinh tử.

2. Tập đế tức Kiến và Tư Hoặc (Kiến hoặc có tám mươi tám sử, Tư hoặc có tám mươi mốt phẩm).

3. Diệt đế, tức diệt hết các khổ tập trước mà hiện bày chân lý.

4. Đạo đế, tóm tắt thì có giới định tuệ, nói rộng ra thì có ba mươi bảy Đạo phẩm (hợp là bảy khoa, từ một là bốn Niệm xứ đến bảy là tám Chánh đạo), hai Đế trước là nhân quả thế gian (Khổ là quả, Tập là nhân). Hai Đế sau là nhân quả xuất thế gian (Diệt là quả, Đạo là nhân.

Đây là dựa theo bốn Giáo Nghi).

Về ba chuyển có: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển.

Thị chuyển là chỉ rõ hình tướng. Như nói rằng đây là khổ cho đến đây là đạo…

Khuyến chuyển là khuyên nên tu. Như nói rằng: Đây là khổ các ông nên biết, cho đến đây là đạo các ông nên tu.

Chứng chuyển là dẫn việc mình đã chứng. Như nói rằng: Đây là khổ, ta đã biết không cần biết nữa.

Về luân, có nghĩa là nghiền nát. Nếu chỉ có giáo pháp mà không thực hành thì đâu thể phá tan các hoặc, nếu giáo và hạnh giúp nhau thì có thể phá hoặc (Diệu Lạc quyển tám).

Về Thập nhị hành pháp luân, có hai cách giải thích:

1. Căn cứ theo bốn đế giáo, nghĩa là ba lần chuyển bốn đế là giáo, Thập nhị tức là năng chuyển.

2. Căn cứ theo mười sáu Hạnh, nghĩa là ba chuyển đều sinh bốn hạnh: Nhãn, trí, minh, giác làm hạnh, mười hai tức là chuyển vậy (theo Văn cú, nói mười sáu hạnh, nghĩa là khổ pháp nhãn là nhãn, khổ pháp trí là trí, tỷ nhẫn là minh, tỷ trí là giác. Còn ba đế kia cũng thế cộng lại thành mười sáu).

Lúc đó ông Kiều-trần-như được Pháp Nhãn Tịnh (tức là Sơ quả, theo phẩm Dược Vương của Diệu Kinh, Diệu Lạc nói rằng: Há vua và phu nhân cùng tám vạn người đều trì kinh này tất phải nghe phẩm ấy thì đều chứng tiểu quả hay sao? Là vì tên đồng nhưng khác nghĩa, cần khéo châm chước. Căn cứ theo đây thì biết tên pháp Nhãn tịnh thì chung cho cả Đại thừa và Tiểu thừa). Thần đất vui mừng hô to: “Hôm nay, ở tại đây Đức Như Lai chuyển diệu pháp luân.” Chư Thiên ở trên không trung bèn lần lượt truyền nhau câu nói ấy lên đến cõi trời A-ca-nị-sất (Hán dịch là Sắc cứu cánh thiên). Đức Thế Tôn biết tâm niệm của bốn người kia nên lập lại nhiều lần về bốn đế và họ cũng đều được Pháp nhãn tịnh. Khi ấy cả năm người cùng bạch Phật xin được xuất gia. Đức Thế Tôn gọi năm người: “Thiện lai, Tỳ-kheo!” thế là râu tóc của cả năm người đều rụng, thân tự mặc áo ca-sa liền thành Sa-môn. Phật lại nói cho họ về năm ấm, vô thường, khổ không, vô ngã. Họ được lậu tận ý giải và thành A-la-hán. Ở thế gian mới bắt đầu có sáu vị A-la-hán, một vị A-la-hán là Phật bảo, bốn đế pháp luân là Pháp bảo, năm vị Ala-hán kia là Tăng bảo. Tam bảo đã đầy đủ, ấy là phước điền của thiên nhân (kinh Nhân Quả).

Năm thứ năm (năm Giáp Thân) có con vị Trưởng giả tên là Da-xá, thông minh lanh lợi. Vào nửa đêm thấy trên không trung có ánh sáng. Mở cửa tìm theo vùng có ánh sáng thì đến vườn Lộc uyển, được Phật nói cho nghe pháp bốn đế liền thành A-la-hán, xin Phật được xuất gia. Phật gọi: “Thiện lai, Tỳ-kheo!” thì liền thành Sa-môn. Khi ấy cha của Da-xá đến chỗ Phật tìm con, được nghe Phật nói pháp liền được Pháp nhãn tịnh và thọ Tam tự quy là vị Ưu-bà-tắc đầu tiên. Số bè bạn của Da-xá gồm năm mươi vị Trưởng giả, nghe tin Da-xá xuất gia, cùng đến chỗ Phật và xin xuất gia. Phật gọi: “Thiện lai, Tỳ-kheo!” Liền thành Sa-môn. Bấy giờ mới có năm mươi sáu vị A-la-hán. Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: Các thầy hãy nên đi du phương giáo hóa chúng sinh. Khi ấy các thầy Tỳ-kheo đảnh lễ từ giã Phật. Đức Thế Tôn liền từ Ba-la-nại đến nước Ma-kiệt-đề. Chiều tối nghỉ đêm tại chỗ của Ưu-lầu-tần-loa Ca-diếp. Phật hàng phục được Rồng lửa và truyền cho Tam quy y, bắt nhốt trong bát đưa cho Ca-diếp xem, ông khen việc chưa từng thấy. Phật biết Ca-diếp có căn duyên lần lần thuần thục, liền dắt ông đến bồ sông Ni-liên. Khi ấy có Ma vương đến thỉnh Phật nhập Niết-bàn. Thỉnh đến ba lần Đức Phật mới đáp rằng: “Số người cần được độ chưa độ hết.” Ma vương nghe xong liền trở về bản cung. Bấy giờ ông Tần-loa Cadiếp cùng năm trăm đệ tử của mình xin được xuất gia. Đức Phật gọi: “Thiện lai, Tỳ-kheo!” Liền thành Sa-môn. Phật nói pháp bốn đế lần lần ông mới chứng quả A-la-hán, bèn đem quăng hết đồ thờ lửa xuống dòng sông. Khi đó hai người em của ông là Nan-đề và Già-da ở phía hạ lưu thấy đồ thờ lửa của anh mình theo dòng nước trôi xuống, hết sức kinh ngạc, liền đến tìm anh thì thấy anh đã mặc áo ca-sa. Mỗi em đều cùng với hai trăm năm mươi đệ tử của mình xin Phật xuất gia. Phật gọi: “Thiện lai, Tỳ-kheo!” Liền thành Sa-môn và được quả A-la-hán. Đức Thế Tôn và Tần-loa Ca-diếp cùng một ngàn vị Tỳ-kheo đang ở thành Vương xá đều đến chỗ vua Tần-bà-ta-la (là cha của vua A-xà-thế). Vua cùng bách quan ra tận ngoài thành đón Phật. Đức Phật sau đó nói pháp cho vua và tám vạn na-do-tha Bà-la-môn, đại thần và nhân dân đều được Pháp nhãn tịnh (theo kinh Nhân Quả).

Trong nước có vị Trưởng giả tên là Ca-lăng đến dâng cúng cho Phật khu vườn Trúc (theo Tây Vức ký thì Linh sơn và vườn Trúc đều ở cách thành Vương xá khoảng năm dặm) có thể dùng làm tinh xá. Nhà vua ra lệnh cho các quan xây dựng giảng đường và nhà ở, rồi đón Phật vào thành rước về ở tại vườn Trúc. Trong số các vua gặp Phật thì Tầnbà-ta-la là người trước nhất. Các Tăng-già-lam ở vườn Trúc là đầu tiên (theo kinh Phổ Diệu, kinh Trung Bản Khởi nói có Trưởng giả Ca-lan-đà trước đây đã dâng cúng cho Tiên Ni-kiền, nay tiếc là không cúng cho Phật. Chúa quỷ biết rõ ý nghĩ liền triệu quỷ Dạ-xoa đến bảo hãy đuổi Ni-kiền đi, Ni-kiền sợ hãi bỏ chạy. Trưởng giả vui mừng mời Phật về ở).

Năm thứ sáu (Ất Dậu). Phật ở tại núi Tượng đầu nói pháp cho Long vương và Quỷ thần (kinh Thập Nhị Du).

Năm thứ bảy (Bính Tuất), Bà-la-môn Xá-lợi-phất giữa đường gặp Tỳ-kheo Kỳ-bà nói kệ cho nghe liền được Pháp nhãn tịnh. Trở về, ông đọc kệ lại cho bạn thân là Mục-kiền-liên nghe, ông này cũng được Pháp nhãn tịnh. Sau đó mỗi người bèn dắt một trăm đệ tử của mình vào vườn Trúc xin Phật xuất gia. Đức Phật gọi: “Thiện lai, Tỳ-kheo!” thì tất cả râu tóc đều tự rụng và mình mặc áo ca-sa, liền thành Sa-môn. Đức Phật lại rộng nói pháp bốn đế cho hai trăm vị đệ tử này và họ cũng thành A-la-hán. Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị đại A-la-hán này ở nước Ma-kiệt-đề làm lợi lạc khắp chúng sinh (theo kinh Nhân Quả). Lúc đó có vị Bà-la-môn tên là Ca-diếp là nhà giàu có bậc nhất đã bỏ nhà vào núi tự cạo bỏ râu tóc. Khi ấy giữa không trung có tiếng chư Thiên bảo: “Ngài nên đến gặp Phật.” Ngài Ca-diếp liền đến vườn Trúc, nghe Phật nói pháp liền chứng được quả A-la-hán. Vì ngài có oai đức trí tuệ lớn nên được gọi là Đại Ca-diếp (theo kinh Nhân Quả). Ngài Ca-diếp gặp Phật ở tháp Đa tử cầu xin xuất gia, ngài lấy chiếc áo xấu để cúng Phật làm tòa ngồi giá trị mười vạn lượng vàng, Phật liền trao cho ngài chiếc nạp y Thương-na (theo kinh A-hàm, Thương-na, Hán dịch là Thảo y (áo cỏ), nạp y tức là năm thứ nạp y của Đầu-đà. Nay nói Thương-na tức là lấy cỏ làm áo vậy).

Năm thứ tám (Đinh Hợi) vào mùa Đông năm ấy, Đức Phật ở tại nước Tỳ-xá-ly nhân con của Tu-đề-na đã chánh tín xuất gia, sau trở về quê lại cùng người vợ cũ sống chung. Vị Tỳ-kheo này không còn tịnh hạnh nữa. Các Tỳ-kheo bèn nêu tội bạch lên Phật, Phật liền họp chúng quở trách rằng: “Việc làm của ông không hợp oai nghi, trái tịnh hạnh, không phải việc đáng làm.” Đây là lần đầu tiên chế ra giới dâm, mới phạm lần đầu chưa kết tội (theo Tăng-kỳ Luật).

Năm thứ chín (Mậu Tý), ở nước Xá-vệ có vua Ba-tư-nặc (Hán dịch là Hòa Duyệt), có quan đại thần là Tu-đạt nhà rất giàu có, ưa cứu giúp những kẻ nghèo đói già cả côi cút, nhân đó có tên là Cấp Cô Độc. Có lần đến thành La-duyệt (tức thành Vương xá) gặp Thế Tôn được nghe ngài pháp Bốnđế mà chứng quả Tu-đà-hoàn. Nhân đó xin Như Lai đến giáo hóa nước Xá-vệ Thế Tôn bảo nơi ấy không có tinh xá. Ngài Tu-đạt thưa rằng khi về nước sẽ tạo lập. Phật bèn sai Xá-lợi-phất cùng đi xem đất đai, thì thấy chỉ có đất vườn của Thái tử Kỳ-đà (Kỳ-đà, Hán

dịch là Chiến Thắng vì khi Thái tử sinh ra thì vua cha chiến thắng nên đặt tên ấy) là được chỗ mà thôi. Ông Tu-đạt bảo Thái tử là muốn mua lại khu đất ấy. Thái tử nói: “Nếu ông đem vàng ròng lót kín hết thì ta sẽ giao cho.” Ông Tu-đạt bèn sai người dùng voi chở vàng đến, không bao lâu cả tám mươi khoảng đất gần đầy. Kỳ-đà nghĩ rằng: “Chắc Đức Phật có oai đức lớn lắm nên khiến người này đã coi nhẹ vàng đến thế.” Bèn bảo thôi đừng lót vàng nữa, đất vườn này của ông còn cây cối của ta. Rồi tự xây nhà cửa và cùng tạo lập tinh xá, làm hang đá cho Phật và một ngàn hai trăm năm mươi phòng riêng.

Khi đó vua Tịnh Phạn sai sứ đến thành Vương xá thỉnh Phật và Tăng. Đức Thế Tôn phóng ánh sáng làm rúng động đất đai truyền đến nước Xá-vệ, ai nấy đều thấy rõ giấu đạo thiêng. Vì hai người cùng lập tinh xá nên gọi là vườn Kỳ-đà Cấp cô độc (kinh Hiền Ngu).

Vào mùa Đông năm ấy phật ở thành La-duyệt, nhân Đàn-ni-ca ở nơi vắng vẻ ngồi thiền trong am cỏ, bị người dở mất bèn cất lên nhà ngói. Phật bảo phá bỏ sau đó ông ta dối trá rằng: Vua cho lấy gỗ tốt bị vua quan nhân dân quở trách không cho vào thôn nên không còn chỗ ở nữa. Các Tỳ-kheo bèn nêu lỗi trình Phật, mới bắt đầu chế ra giới trộm. Khi Phật ở tại thành Tỳ-xá-ly đã nói cho các Tỳ-kheo về quán bất tịnh. Khi đã quen với định này rồi thì chán sợ thân mạng, khen ngợi sự chết khuyến khích nên chết, Tỳ-kheo Nan-đề nhận giết mướn người Phật bèn chế ra giới sát.

Lúc bấy giờ, nhân lúc thóc mắc mỏ nên việc khất thực khó khăn. Có người đang sống bình thường bên bờ sông Bà-cầu bỗng khoe là có được phép của bậc Thượng nhân. Hàng Cư sĩ tín tâm bớt phần cúng thí. Sau đến chỗ Phật hỏi rõ nguyên do, Phật bèn quở trách và chế giới vọng ngữ. Từ đây trở đi tùy việc vi phạm mà chế ra giới cấm (Tăng-kỳ luật).

Khi đó vua cha nghe tin con đã thành đạo từ sáu năm nay, bèn sai Phạm chí Ưu-đà-da đến bạch Phật rằng từ ngày cách biệt đến nay đã mười hai năm (từ xuất gia đến thành đạo là sáu năm, từ thành đạo đến nay là sáu năm, cộng là mười hai năm) nay mong được gặp Phật một phen. Ưu-đà-da vâng lệnh vua đến chỗ Phật cầu xin xuất gia liền được chứng A-la-hán. Phật nghĩ rằng nay nên trở về nước để độ cha mẹ. Bèn sai Ưu-đà-da về nước trước và hóa mười tám phép thần biến, vua càng thương mừng. Liền ra lệnh cho quần thần và muôn dân ra tận ngoài thành bốn mươi dặm để chào đón Phật. Phật với thân trượng sáu tướng hào quang minh, thân ánh sáng vàng rực rỡ như vầng trăng giữa muôn sao. Thấy các Phạm chí ở tu lâu trong núi thân thể đen đúa hôi hám đứng hầu bên Phật khác nào đám quạ đen đậu bên núi vàng. Vua cha bèn ra lệnh chọn năm trăm người hào tộc trong nước cho làm Sa-môn để đứng hầu hai bên Phật, khi ấy như Phụng hoàng ở bên núi Tu-di (theo kinh Phổ Diệu). Bấy giờ Đức Phật vào cung ngồi trên điện. Vua và thần dân ngày ngày dâng cúng trăm thức ngon. Đức Phật nói kinh pháp độ vô lượng người. Gia-du phu nhân dắt con là La-hầu-la đến thăm hỏi Phật (lúc đó sáu tuổi). Bấy giờ các quan đều nghi ngờ bởi Thái tử bỏ nước ra đi đã mười hai năm, do đâu sinh con. Phật bảo các quan rằng: Gia-du thủ tiết trong trắng nay hãy xem bằng chứng. Do đó Đức Thế Tôn biến hóa chúng Tăng đều giống y như Phật. Gia-du bèn cởi vòng đeo tay làm tin trao cho La-hầu bảo rằng: “Hãy đưa vòng này cho vị nào là cha của con.” Ngay lúc đó La-hầu liền đem vòng đến đúng Đức Thế Tôn. Vua và quần thần đều khen: “Quý thay, thật con Phật!” (kinh Phổ Diệu).

Lúc đó cả bọn tám người dòng họ Thích như A-na-luật, Điều-đạt, Nan-đà, Bạt-đề, Nan-đề… đến ngày xuất gia bèn cởi áo quý giao hết cho Ưu-ba-ly rồi bảo: Ngươi sống nhờ bọn ta vậy hãy lấy các áo quý này để sinh nhai. Ưu-ba-ly cũng nguyện xuất gia, bèn treo hết các áo dưới cành cây rồi cùng đến chỗ Phật. Lúc đó ngài A-na-luật xin Phật độ trước Ưu-ba-ly để diệt thói kiêu mạn (theo luật Đàm-vô-đức). Bấy giờ Nan-đà lần lượt lạy chư Tăng khi đến trước Ưu-ba-ly thì nghĩ là không đáng lạy. Phật bảo: Chỉ trọng việc thọ giới trước sau chứ không phải do sang hèn (theo Đại Trang Nghiêm Luận, Nan-đề là con vua nên sang, còn Ưu-ba-ly là tôi tớ nên hèn). Phật bảo Đề-bà-đạt-đa (tức Điều-đạt) rằng: “Ông nên ở tại gia lo việc bố thí không nên xuất gia.” Bảo thế ba lần. Đề-bà-đạt-đa liền sinh ác ý nghĩ rằng: Ông Sa-môn này có tâm đố kỵ, vậy ta phải tự cạo đầu khéo tu phạm hạnh.” Về sau ông ta phạm tội ngũ nghịch, bị luồng gió ánh sáng thổi vào thân, Đề-bà liền hối tiếc niệm: “Nam-mô Phật”, nhưng vừa nói “Nam-mô” thì liền rơi vào địa ngục. Đức Phật bảo A-nan rằng: Đề-bà ở trong địa ngục trải một đại kiếp sau đó chết rồi sinh làm BốnThiên vương, dần dà sinh lên Tha hóa tự tại, thân sau cùng sẽ thành Bích-chi-phật tên là Nam-mô (theo Tăng Nhất A-hàm, đây là nói Đề-bà-đạt-đa khi mới xuất gia. Từ khi phạm tội ngũ nghịch thì là chuyện sau. Các việc nói đây đều là ý kinh Tiểu thừa. Còn như trong kinh Pháp Hoa Phật nói: Nhờ Đề-bà-đạt-đa làm Thiện tri thức nên nay ta sớm thành đạo Bồ-đề và thọ ký cho ông ấy làm Phật Thiên Vương. Đây là Đại thừa mở tích hiển Bản vậy).

Chính năm này Phật nói kinh Ương-quật-ma-la (Diệu Huyền bảo rằng sau khi thành đạo sáu năm mới nói).

Năm thứ mười (Kỷ Sửu), Phật ở nước Câu-da-ni vì nhóm tám người Bồ-tát Bà-đà-hòa mà nói kinh Ban-chu, chỉ rõ việc khổ hạnh (kinh Thập Nhị Du).

Năm thứ mười một (Canh Dần), năm này A-nan lên tám tuổi được bạch ba Yết-ma thọ giới Cụ túc (ba Yết-ma chung với Yết-ma-đơn bạch trước nên gọi là bốn. Yết-ma dịch là Nghiệp, nghĩa là tạo ra thiện nghiệp). Ngài lại độ cho một trăm mười vị A-la-hán thọ ba ngữ giới. Đây là lần đầu tiên dùng dao báu đệ cạo râu tóc. Phật lại dặn dò nhóm Kiều-trần-như… truyền giới cho các Sa-di khắp ba châu thiên hạ (theo tăng-kỳ Luật). Năm này Phật ở tại núi Liễu nói pháp cho Vương đệ là Thuần Chân-đà-la (kinh Thập Nhị Du).

 

(Phần Ha)

Năm thứ mười hai (Tân Mão), Phật sai ngài Mục-liên về thưa cùng vua cha và Gia-du rằng: Thái tử La-hầu nay đã được chín tuổi nên cho xuất gia. Gia-du đáp rằng: Như Lai lúc làm Thái tử cưới ta, chưa tròn ba năm thì trốn đến rừng vắng, sáu năm cần khổ chứng quả Phật trở về nước, nay lại muốn bắt con ta, sao tàn ác đến thế! (đây là trở về nước Ca-tỳ-la). Bấy giờ, Mục-liên dùng mọi phương tiện khuyên dỗ nhưng tuyệt nhiên Gia-du không nghe. Đức Thế Tôn bèn sai Hóa nhân ở trên không trung bảo rằng: Nàng có nhớ việc đem năm trăm đồng tiền bằng bạc để mua năm cành hoa sen dâng lên Đức Phật Định Quang chăng? Lúc đó nàng mong đời đời được làm vợ ta. Ta bảo: “Bồ-tát nhiều kiếp đều phát nguyện bố thí tất cả không trái ý người khác.” Nàng bằng lòng nên chịu làm vợ ta. Nàng thề rằng: Tùy ý chàng bố thí thề không hối tiếc. Mà nay nàng lại thương tiếc La-hầu, không cho đi xuất gia. Gia-du Đà-la nghe nói liền nhớ lại việc đời trước rõ ràng như mới hôm qua. Nên lòng thương tự nhiên nguội lạnh, liền nắm tay La-hầu giao cho ngài Mục-liên.

Lúc ấy vua Tịnh Phạn liền tập hợp các hào tộc trong nước, mỗi nhà phải cho một đứa con theo với La-hầu. Cả thảy năm mươi cậu cùng đến chỗ Phật. Phật bảo A-nan cạo tóc cho La-hầu và năm mươi công tử. Lại bảo ngài Xá-lợi -phất làm Hòa thượng, ngài Mục-liên làm A-xà-lê. Khi đó La-hầu không thích nghe pháp, Phật bèn nói cho nghe kinh Vị Tằng Hữu, được thọ mười giới, La-hầu liền chứng bốn quả Thánh (theo kinh Vị Tằng Hữu Nhân Duyên). Khi đó vua Tịnh Phạn đến chỗ Phật thưa rằng: Thuở xưa Phật xuất gia còn có Nan-đà, nay Nan-đà cũng lại xuất gia, bao nhiêu tình thương đều đổ dồn vào đứa bé này. Nay lại xuất gia thì rõ là quốc Kế đến sẽ dứt hẳn. Đức Phật bèn nói pháp để an ủi vua. Rồi tập họp các Tỳ-kheo lập quy chế rằng: “Nếu cha mẹ không bằng lòng thì không được xuất gia.” (theo luật Di-sa-tắc). Đức Phật lại đến đầm nhơ (uế) nói pháp cho Đà-quật-ma (kinh Thập Nhị Du). Phật lại nói bát quan trai giới cho các Tỳ-kheo (kinh Bát Quan Trai Giới). Lúc đó Phật ở thành La-duyệt, có đám mười bảy đứa thiếu nhi, đứa lớn nhất mười bảy tuổi, nhỏ nhất mười hai tuổi vì tín tâm mà xuất gia, được các Tỳ-kheo độ cho đại giới, nhưng đêm lại khóc lóc vì không kham nổi ngày chỉ ăn một bữa. Phật hỏi biết được liền ra quy chế là phải đủ hai mươi tuổi mới cho thọ đại giới (theo luật BốnPhần). Mỗi nửa tháng Phật đều nói giới. Vì chúng Tăng tập họp mệt nhọc nên cho mỗi Tăng-giàlam được kết đại giới riêng (Bốn Phần Luật).

Năm thứ mười ba (Nhâm Thìn), Phật trở về nước Ma-kiệt-đề nói Pháp cho vua Phất-ca-sa (kinh Thập Nhị Du). Ngài Bồ-tát Lâu-chí xin Phật lập giới đàn để Tỳ-kheo thọ giới. Phật bảo nên lập ở phía Đông nam ngoài viên Kỳ viên (luật Bốn Phần). Giới đàn được lập trên đất có ba lớp làm ranh để biểu tượng cho ba Không. Trời Đế Thích lại thêm một cái chảo úp để che Xá-lợi. Đại phạm Thiên vương đặt một viên vô giá bảo châu trên cái chảo úp, đó là năm lớp biểu hiện cho năm phần Pháp thân. Viên bảo châu của Phạm vương to bằng chiếc bình năm đấu. Người có phước đức lớn mới nhìn thấy được nó có ánh sáng chiếu xa đến tám trăm do-tuần. Còn kẻ phước mỏng thì thấy nó như đống mực đen (theo Nam Sơn Giới Đàn Đồ Kinh).

Năm thứ mười bốn (Quý Tỵ), Đức Phật đến cội cây Khủng cụ nói kinh Bản Khởi cho Bồ-tát Di-lặc (kinh Thập Nhị Du).

Năm thứ mười lăm (Giáp Ngọ), Phật lại trở về nước Ca-tỳ-la nói Pháp cho vua cha và độ dòng họ Thích đến tám vạn bốn ngàn người đều chứng quả Tu-đà-hoàn (kinh Thập Nhị Du). Phật lại trở về quê cũ đi trên không trung cao ngang đầu người khiến vua cha muốn rờ đụng chân Phật không cần phải cúi mình (kinh Phân Biệt Công Đức, đây là khiến cha mẹ phải kính lại, để chứng tỏ muốn sinh phước. Nhưng với Phật thì được chứ các Tỳ-kheo ở đời mạt pháp đức hạnh kém e rằng chưa xứng đáng để cha mẹ kính lại). Phật nói cho vua cha và đại chúng về Quán Phật Tam-muội, thân Phật sắc vàng ròng ánh sáng vô lượng. Khi đó năm trăm người dòng họ Thích vì còn tội chướng nên thấy thân Phật là vị Bà-la-môn gầy ốm da đen như than. Phật nói những người thuở xưa mắc tội tà kiến nay xưng niệm danh hiệu Phật và làm lễ sám hối thì sẽ thấy được thân Phật sắc vàng như núi Tu-di và cầu xin Phật xuất gia thì sẽ được quả A-la-hán (theo kinh Quán Phật Tam-muội).

Khi Phật mới về nước thì bà Đại Ái Đạo xin được xuất gia (tức là Di mẫu của Phật là Ma-ha Ba-xà-ba-đề) xin đến ba lần vẫn không cho.

Khi Phật trở về nước lại thì lại xin xuất gia nữa và cũng như trước Phật vẫn không cho. Ngài A-nan bạch Phật: Bà Đại Ái Đạo hết lòng muốn thọ trì pháp luật, mong Phật chấp thuận. Phật bảo: Muốn vậy thì phải trọn đời tuân giữ pháp Bát Kỉnh. Khi ấy bà Đại Ái Đạo được xuất gia, là vị Tỳ-kheo-ni đầu tiên (theo kinh Trung Bản Khởi). Tỳ-kheo-ni phải thọ trì pháp Bát Kỉnh là:

  1. Tỳ-kheo-ni trăm tuổi vẫn phải lạy vị Tỳ-kheo mới đủ một hạ.
  2. Tỳ-kheo-ni không được chê mắng thầy Tỳ-kheo.
  3. Tỳ-kheo-ni không được nói lỗi của Tỳ-kheo nhưng Tỳ-kheo được nói lỗi của Tỳ-kheo-ni.
  4. Thức-xoa-ma-na phải theo Tăng chúng mà cầu xin thọ đại giới.
  5. Tỳ-kheo-ni phạm tội tăng tàng mỗi nửa tháng phải ở giữa hai bộ Tăng mà làm Ma-na-đỏa.
  6. Tỳ-kheo-ni trong mỗi nửa tháng phải ở trong Tăng bộ mà cầu giáo thọ.
  7. Tỳ-kheo-ni không được kiết hạ an cư ở chỗ không có Tỳ-kheo.
  8. Tỳ-kheo-ni hạ chưa giải phải đến chỗ chư Tăng xin người đến tự bốn (Bốn Phần Luật).

Phật bảo A-nan rằng: Sau khi ta diệt độ thì chánh pháp còn một ngàn năm, nay do có người nữ xuất gia xuống còn năm trăm năm. Sau khi dạy cho pháp Bát Kỉnh thì trở lại là một ngàn năm (theo pháp Trụ Ký của Thiện Kiến Luận).

Lời thuật rằng: Như Lai ở tại mười sáu đại quốc trong mười hai năm mà thuyết giáo độ người, ngài đã nói bốn kinh A-hàm và tóm tắt các điều dạy răn của bảy Đức Phật. Đến năm ấy mới bắt đầu rộng nói về giới tức hai trăm năm mươi giới của Tỳ-kheo và năm trăm giới của Tỳ-kheo-ni. Tùy hai chúng phạm đâu thì chế cấm giới đó, nên sau đó Phật kết tập thành các điều chương để làm căn bản cho người xuất gia tuân giữ.

Thời thứ ba là Phương đẳng, là thị hiện một cõi Phật mà có sạch nhơ không đồng, hiện bày một thân mà có lớn nhỏ khác nhau, dùng một thứ tiếng nói pháp mà tùy loại đều hiểu, vì thần lực không chung nên có sạch nhơ, nghe thì có khen chê, ngửi thì có Chiêm-bặc và không Chiêm-bặc, như hoa thì có đeo vào thân hoặc không đeo. Như tuệ thì có như thế hoặc không như thế. Như thế thì gọi Tịnh Danh Phương Đẳng (Huyền Kinh quyển 11).

Kế nói Phương đẳng, tức là Kế đến Tiểu thừa nói Đại thừa. Đức Phật vốn muốn trao cho chúng sinh pháp Đại thừa, nhưng vì họ không kham nổi, nên từ Đại mà nảy sinh ra Tiểu thừa để khiến họ đoạn đứt các kết mà thành tánh. Tuy là có việc giúp ích này nhưng không phải là điều mong muốn của Phật. Do đó mà tiếp theo nói các kinh như Phương đẳng, Duy-ma, Tư Ích và Ương-quật-ma-la (Ương-quật-ma-la, Hán dịch là Nhất Thiết Thế Gian Hiện, là con của Bà-la-môn, năm mười hai tuổi mà sức vóc bằng một người lớn hoàn toàn. Cậu ta đến trước Phật nói kệ, Phật khen lành thay, liền thành Sa-môn, cúi lạy dưới chân Phật và thành A-la-hán. Ngài quở trách mười chúng đệ tử của ngài Văn-thù như Đế Thích, Phạm thiên, BốnThiên Vương… Đức Phật bảo: Ở phương Nam có nước Nhất-thiết Bảo Trang Nghiêm, có Phật tên Đại Tinh Tấn tức là Ương-quật-ma-la đây vậy. Diệu Huyền quyển mười nói rằng: Kinh Ương-quật được nói trong sáu năm, kinh này được nói sau thành đạo sáu năm, nay Đại sư dẫn chứng coi là thời thuyết giáo thứ ba, do lấy xưa kể vào nay vậy). Quở trách hàng Tiểu thừa ôm chặt lấy quả vị (chỉ riêng hàng Thanh văn) chê trách lỗi Tam tạng đoạn diệt (gồm cả hàng Bồ-tát Độn căn). Cho nên Thân Tử và Thiện Cát chuyên về Tiểu thừa, ngài Thân Tử không nghe oai đức của Đại thừa, Thiện Cát mù mịt nên bị mất bát (kinh Tịnh Danh nói: Tu-bồ-đề thưa: Khi xưa con khất thực thì Duy-ma-cật lấy bát của con đựng đầy cơm rồi bảo rằng: Nếu có thể đối việc cơm nước bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng. Nếu đối các pháp bình đẳng thì ăn uống cũng bình đẳng. Khất thực như thế thì mới có thể lấy thức ăn. Nếu chê Phật hủy pháp thì không được nhập chúng, trọn không được diệt độ. Ông nếu được thế thì mới được lấy thức ăn. Lúc đó thưa Thế Tôn, con nghe nói thế thì mù mịt không biết trả lời sao, bèn để bát cơm đó định ra khỏi nhà. Ngài Thân Tử sợ việc dính hoa (trong nhà Duy-ma, có một Thiên nữ bảo ngài Xá-lợi -phất rằng: Kết tập chưa xong thì hoa dính đầy mình, kết tập xong rồi thì hoa không dính nữa). Vì không biết lời nói ấy thế nào nên không biết đáp ra sao (Thích Thiêm nói rằng: Lấy không trí làm chủ ở nhân đạo, nên mượn việc của hai người này). Song Phương đẳng quở trách giáo ở sau Tam tạng, lúc bị quở trách thì ở vào mười hai năm trước (tức thời Lộc uyển thì trước Phương đẳng mười hai năm. Cựu dịch nói là trong mười hai năm là lầm). Làm sao biết được? Ấy là do tìm thấy các lời kể thuật quở trách xưa mà nghiệm ra việc trước. Những ai đã nhờ giáo pháp mà đắc đạo, chứng bậc Vô học, mong báo đền ân sâu của Phật, tâm tướng thể tín, không còn giận dữ. Từ xưa đến nay đã mặc tình chê bai Ươngquật và Tịnh Danh, nay đã được cái lợi thẹn bỏ Tiểu thừa mến mộ Đại thừa (Diệu Huyền 10). Chê Thiên bài Tiểu, thán Đại khen Viên (Diệu Huyền 10).

Về chư Thiên, như phẩm Bồ-tát của kinh Tịnh Danh quở trách ngài Di-lặc rằng: Thế Tôn thọ ký cho nhân quả là dùng thời nào mà thọ ký, thời quá khứ hay vị lai hay hiện tại? Tất cả chúng sinh đều tập theo tướng Bồ-đề. Nếu Di-lặc diệt độ thì tất cả chúng sinh cũng phải diệt độ. Lại bảo: Về Bồ-đề, thì không thể lấy thân mà được, không thể lấy tâm mà được. Lại kinh Ma-la nói: Ngài A-la-hán Ương-quật chê trách mười hàng đệ tử Thích, Phạm, BốnThiên vương… của ngài Văn-thù, là lấy Viên mà chê trách cái Thiên của Tam giáo.

Về bài Tiểu, như phẩm Đệ Tử, ngài Mục-liên nói pháp cho Cư sĩ, thì ngài Tịnh Danh quở rằng: Phàm nói pháp thì phải nói đúng như pháp, tức không có danh tự. Vì nói năng đều dứt nên pháp không có nói. Vì lìa giác quán là cái dụng biểu hiện Tam giáo, để phá ba thứ không nên của ngài Mục-liên:

1. Bên ngoài nói tướng như pháp, bên trong hiểu tướng như pháp, là dùng “Thông giáo tức không” mà bài bác cái “Chẳng tức không”. Vậy nói pháp không đúng lý.

2. Bên ngoài hiểu rõ căn duyên, bên trong khéo tri kiến được vô quái ngại, là dùng biệt mà phá.

3. Bên ngoài luôn từ niệm chúng sinh, bên trong nghĩ báo đền ân Phật là dùng viên mà phá. Lại Ương-quật chê trách mười hàng đệ tử là lấy cái đại của Thánh môn tam giáo mà bài bác cái Tiểu của Tạng.

Về thán Đại, như phẩm Chúng Sinh. Ví như người ảo thuật thấy kẻ bị nạn thế nào thì Bồ-tát quán thấy chúng sinh cũng thế. Như người trí thấy trăng trong nước, bóng trong gương, ánh lửa trời nóng thì Bồ-tát thấy chúng sinh cũng thế. Nay chung ví dụ chúng sinh tức là cái ý hai giáo Thông Viên vậy.

Về khen Viên, ngài Văn-thù bạch Phật rằng: “Bậc Thượng Nhân kia không ai đối đáp bằng, thấu suốt thật tướng, khéo nói pháp yếu.” Đây là khen ngài Tịnh Danh vậy. Khi ngài Văn-thù vào nhà ngài Tịnh Danh, Ngài Tịnh Danh nói rằng: Thiện lai, Văn-thù! Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy! (Đây là khen ngợi ngài Văn-thù vậy).

Bốn giáo cùng nói, Tạng là chữ Bán, Thông Biệt Viên là chữ Mãn, đối Bán mà nói Mãn, nên nói là Đối giáo (kinh Niết-bàn nói: Ví như Trưởng giả chỉ có một đứa con trai, lòng luôn thương nhớ, ngày đêm ân cần chỉ dạy có chữ Bán mà không dạy chữ Mãn, bởi do sức người con chưa kham nổi vậy. Bán là chín bộ Tiểu thừa, Mãn là mười hai bộ Đại thừa. Ước về người và về lý so sánh có thể biết).

Nếu ước về thời, tức là giờ ăn (giờ Thìn, ánh sáng từ Đất bằng chiếu ra).

Nếu ước về vị thì từ lạc sinh ra sinh tô, đây là từ Tu-đa-la sinh ra Phương đẳng (Diệu Huyền quyển 10).

Phẩm Tín Giải nói: Từ đây về sau tâm tướng thể tín nhập và xuất đều không nghi nan (Văn Cú nói rằng: Tướng, lẫn với tín. Nghĩa là đối với Tam tạng mà được Niết-bàn thì không hư dối. Nay nói cho Bồ-tát pháp Đại thừa này thì cũng không hư dối. Đây tức là con tin cha. Phật biết những ai đã diệt hết Kiến, Tư hoặc thì nghe pháp Đại thừa sẽ không chê bai, kẻ vô lậu lợi căn lắng nghe và sinh lòng tin. Đây là cha tin con vậy. Do đây mà thấy được thân tôn quý. Nghe giáo Đại thừa thì gọi là Nhập. Lại bị quở trách là còn thấy thân trượng sáu. Nói pháp Tiểu thừa thì gọi là xuất, tức Đại Tiểu xuất nhập mà không còn nghi nan. Song nơi ở thì vẫn là chỗ cũ (tuy nhập xuất mà không nghi nan thì được vào Đại thừa, mà gọi là việc của Bồ-tát, không phải do trí mình phân biệt, không nhất định phải quay Tiểu hướng về Đại, cũng vẫn ở bậc A-lahán, mà không nói là ở vị lai sẽ được làm Phật).

Đây nên hiểu thế nào? Đây là nói sau Tam tạng, Kế đến nói Phương đẳng, đã được đạo quả rồi thì tâm tướng thể tín. Nghe Đại thừa thì gọi là nhập, trụ ở Tiểu thừa thì gọi là xuất. Quở mắng nói khó thì gọi là không nghi nan. Lại tiến vào bên trong nhà thì thấy được các quần thần hào tộc đầy sức đại công đức, nên gọi là nhập. Còn xuất là chỉ nghỉ qua đêm ở am cỏ Nhị thừa cảnh giới, nên gọi là xuất. Tâm tướng thể tín, nghĩa là chứng quả A-la-hán rồi thì nghe mắng không còn sân giận mà trong tâm lại hổ thẹn, không dám lấy pháp của Thanh văn, Bích-chi ra dạy người khác nữa (Diệu Huyền, quyển 10). Kinh Tịnh Danh nói: A-nan bảo rằng: “Lúc đó tôi thật hết sức hổ thẹn.” Kinh Pháp Hoa nói rằng: Than ôi tự trách sâu sắc rằng vì sao lại tự khinh mình. Đây là tủi thẹn về Tiểu thừa. Không biết làm thế nào để được tuệ vô thượng của Phật (đây là mến mộ Đại thừa vậy).

Bộ giáo Phương đẳng lập tên – Cựu Kinh nói Phương đẳng lập tên chỉ là phân biệt sự lý chứ chưa đủ để đến tận cùng nghĩa của nó. Nay dựa vào văn các kinh Sớ Ký mà giải thích tường tận. Kinh Quang Minh nói rằng: “Có một vị Tỳ-kheo đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng.” Quang Minh Huyền nói rằng: “Giáo của Phương đẳng thông suốt cả ba thừa.” Kinh Tân Bản nói: “Muốn sinh vào hàng trời người, muốn chứng bốn quả Bích-chi-phật, muốn được quả Phật… đều phải Sám hối để diệt trừ tội chướng. Đâu chỉ ở Phương đẳng?”. Tục Di Ký nói rằng: “Tên Phương đẳng có hai nghĩa:

1. Như Đại Kinh từ lạc mà sinh ra sinh tô, cũng như Tu-đa-la mà sinh ra Phương đẳng. Đây là ước vào thời thứ ba gọi là Phương đẳng, tức là ích lợi cả các cơ ba thừa bốn giáo.

2. Còn như Phổ Hiền quán gọi Phương đẳng, là nói thẳng về viên lý. Nay sở dĩ phải dẫn Phương đẳng vì e bảo là đồng với Phổ Hiền quán.

Từ Lý mà đặt tên nên phải dẫn văn Tam Thừa Sám Hối, để xác định tên này đích thị là từ bộ giáo Phương đẳng chứ không phải chuyên về Sự Lý. Các văn luận về Phương đẳng có ba thuyết:

1. Theo Sự, Đại Kinh từ Tu-đa-la sinh ra Phương đẳng, là kinh Vô Lượng Nghĩa. Kế nói về Phương đẳng. Thích Thiêm điều hợp sinh tô, bài xích Phương đẳng, kinh Quang Minh đọc tụng Đại thừa Phương Đẳng, Quang Minh Huyền, giáo của Phương đẳng thông cả ba thừa… đều chỉ vào thời giáo thứ ba.

2. Theo Lý, kinh Phổ Hiền Quán nói kinh Phương đẳng này là mắt của chư Phật.

3. Sự Lý đều thông, kinh Chỉ Quán nói rằng Bát-nhã có bốn phương pháp, tức là bốn môn vào ao Thanh lương, tức là Phương vậy. Cái Lý được khế hợp bình đẳng với đại tuệ tức là đẳng vậy.

Nay thời thứ ba căn cứ vào Tứ minh mà lập nghĩa, đích thực là từ Bộ Giáo để xác định tên này mà không phải chuyên về Sự Lý vậy.

Năm thứ mười sáu (Ất Mùi). Phật ở tại vườn cây Yêm-la trong thành Tỳ-da-ly nói kinh Duy-ma-cật (Tỳ-da-ly, Hán dịch là rộng lớn nghiêm tịnh. Yêm-la, Cựu dịch là Nại, hình nó giống trái lê, hoa nhiều hạt ít. Duy-ma-cật, Hán dịch là Tịnh Danh, ba thứ cấu hoặc đã hết có đại danh xưng đây là bộ chủ của kinh Phương đẳng).

Năm thứ mười bảy (Bính Thân). Phật nói Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh (kinh nói: Phương Đông có Phật hiệu là Nhật Nguyệt Quang, có Bồ-tát Phạm thiên tên là Tư Ích đến đây hỏi Phật).

Năm thứ mười tám (Đinh Mậu). Phật ở trên đỉnh núi Lăng-già bên bờ Nam hải, nói kinh Lăng-già A-bạt-đa-la Bảo, ngài Đại Tuệ Bồtát hỏi Đức Thế Tôn rằng: Ngoại đạo còn ngăn cấm không cho ăn thịt, huống là Đức Như Lai Đại Bi thương xót chúng sinh mà cho phép mình và người được ăn thịt ư? Đức Phật đáp lời Bồ-tát rằng: Có nhiều nguyên nhân không được ăn thịt. Nghĩa là tất cả chúng sinh từ xưa đến nay do xoay vần thường làm bà con với nhau, vì là thân thuộc nên không được ăn thịt. Thân thể là do những thứ bất tịnh nuôi lớn. Do đó không nên ăn thịt. Chúng sinh chỉ nghe hơi đều rất sợ sệt như bọn Chiên-đà-la. Do đó không nên ăn thịt. Vì ăn thịt khiến các chú thuật không linh nghiệm, do đó không nên ăn (Hoa Nghiêm Sao nói rằng: Núi Lăng-già là nơi ở của loài Dạ-xoa-la-bà. Hán dịch là Không thể tới, chỉ kẻ có thần thông thì mới đến được. A-bạt-đà-la, Hán dịch là Du nhập, nghĩa là các đại chúng của Phật vượt đến bờ kia của biển, nhận lời mời của vua Dạ-xoa bay lên không trung mà đến. Thích Thiêm nói rằng: Như trong số kinh Đại thừa thì kinh Phạm Võng đứng đầu, nói thế này: Nên biết Lăng-già được nói sau bốn kinh A-hàm, là Tiệm giáo đầu tiên. Phật đáp lời Bồ-tát không nên ăn thịt, nên biết vẫn còn ở trong phần Tiểu giáo). Lại nói kinh Kim Quang Minh, kinh Lăng-nghiêm Tam-muội (Lăng-nghiêm, Hán dịch là Kiện Tướng, vì phân biệt các thứ Tam-muội nhiều ít, cạn sâu, cũng như vị đại tướng biết rõ sức của binh lính nhiều ít, thấy rõ cờ quạt thứ lớp, Kinh Thắng Man Phu nhân (nói đầy đủ là Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Phương Tiện Đại Phương Quảng Kinh, Thích Thiêm nói: Thắng Man là con gái của Mạt-lợi Phu nhân. Mạt-lợi và vua đã tin Phật nên viết thư cho con gái. Cô này nói kệ với sứ giả rằng:

Ngưỡng mong Phật Thế Tôn
Ra đời vì chúng sinh
Cũng nên thương xót con
Hãy mau đến nơi này.

Vừa nghĩ như thế thì Phật hiện lên không trung và nói kệ rằng:

Như Lai diệu sắc thân
Thế gian không ai bằng
Không sánh khó nghĩ bàn
Thế nên hay tin lễ.

Mạt-lợi là cô gái do cây mít sinh ra, là phi của vua Ba-tư-nặc.

Năm thứ mười chín (Mậu Tuất), khi Phật mới thành đạo, vào năm thứ mười sáu, Phật biết các Bồ-tát gánh vác pháp tạng. Ở trong khoảng hai cõi trời Dục và Sắc giới, xuất hiện một thềm báu, triệu tập rộng rãi đại chúng chư Phật Bồ-tát mười phương đều cùng lên thềm báu. Đức Phật bay lên không trung mà nói kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập. Các Bồ-tát muốn đến nhập hội thì tùy theo đức độ của mình mà hiện tướng. Như ngài Không Tạng thì hiện ra khoảng không, ngài Hải Tạng thì hiện ra nước, nhưng đều không thấy các ngài mà đại chúng chỉ thấy khoảng không và nước (các Bồ-tát khác thì hiện tướng đều thuộc loại này).

Lúc bấy giờ các Thiên long cùng nói rằng: Từ nay trở đi bọn chúng con nguyện hộ trì chánh pháp, nếu các quốc vương có đánh đập những kẻ xuất gia trì giới hoặc hủy giới thì chúng con sẽ không hộ trì nước ấy nữa. Hàng đệ tử Thanh văn sẽ đều hướng về nước khác, khiến cõi nước ấy không còn phước điền, khiến cõi nước ấy khởi lên các dịch bệnh đói kém đao binh, gió bão hạn hán phá hoại mùa màng. Khi ấy Đức Thế Tôn phó chúc cho Tỳ-thủ Yết-ma Thiên tử, Ca-tỳ-la Dọa-xa Đại tướng, mười bảy Thiên nữ mắt hai tròng, mỗi người cùng với năm ngàn quyến thuộc… Các ông nên hộ trì cõi nước Chấn Đán, nếu ở đó có xảy ra các việc như cãi cọ, tranh đấu, chiến trận, đói kém, dịch bệnh, gió mưa lạnh nóng… thì nên khiến dứt hết và hãy khiến pháp nhãn của ta ở lâu trên đời. Phật bảo ngài Di-lặc và các Bồ-tát: Ta nay vì thương xót các chúng sinh nên phân các quả báo này làm ba phần: Một phần để tự thọ dụng, một phần dành cho các Thanh văn tương ưng với thiền giải thoát Tam-muội kiên cố, sau khi ta diệt độ, khiến họ không thiếu thốn và một phần dành cho người cạo đầu mặc áo ca-sa tụng kinh Thanh văn mà phá giới ở thời chánh pháp hay tượng pháp khiến họ không thiếu thốn. Chớ khiến các ác vương cùng não hại nhau và xin gởi các hàng thí chủ vào tay các ông (theo Đại Tập Kinh, Phật Tạng Kinh nói phải nên một lòng tu hành chớ nghĩ đến việc ăn mặc, trong tướng bạch hào của Như Lai đã dành một phần cúng dường cho các đệ tử xuất gia trong đời mạt pháp đều không hết được. Phật nói: Giả sử có người xuất gia mà không trì giới thì người ấy cũng đã được giấu ấn Niết-bàn rồi. Nếu như có kẻ đến đánh mắng hoặc giựt y bát và các vật cần dùng của họ, thì kẻ ấy phá hoại báo thân của chư Phật, móc bỏ tất cả tai mắt của hàng trời người và mọi sự xử đoán của các quốc vương quần thần. Như thấy kẻ xuất gia tạo các tội nghiệp lớn như đại sát, đại đạo, đại ô uế, phạm hạnh, đại vọng ngữ và các việc bất thiện khác, thì chỉ đuổi họ ra khỏi nước, không cho ở chùa để đồng sự với các Tăng chúng, chứ không được đánh đập chửi mắng hạ nhục và các thứ hình phạt khác. Nếu ai cố tình trái pháp mà hình phạt thì kẻ ấy xa lìa hàng trời người, tất phải đọa địa ngục, huống là đánh mắng người xuất gia giới hạnh đầy đủ ư? (Kinh Đại Tập).

Ngài Xá-lợi -phất… bạch Phật rằng: Chúng con tuy được gọi là con Phật, nhưng đều là lỗi của Như Lai chứ không phải lỗi chúng con. Vì sao? Vì nếu Như Lai quyết bảo là không có Tam thừa thì há chúng con không thành Chánh giác sao? Vì sao Như Lai không cho chúng con thấy nghe dự vào hàng Thánh? Lúc đó, ngài Thân Tử… đều cởi bỏ y và khóc lóc, cả đại thiên đều rúng động mạnh (kinh Anh Lạc).

Lời thuật rằng: Kinh Anh Lạc nói: Ngài Xá-lợi -phất sau khi bị quở trách thì tâm dần dần hướng về Đại thừa nhưng cũng còn oán lời Phật nói, cho rằng: “Nếu không có Tam thừa thì chúng con đã thành Chánh giác rồi. Đây đều là lỗi của Như Lai chứ không phải lỗi của chúng con.” Kịp khi đến thời Pháp hoa nói pháp đầy đủ thì bảo rằng: “Chúng con đồng nhận pháp tánh. Vì sao Như Lai lấy pháp Tiểu thừa để mà hóa độ cho, ấy là lỗi của chúng con chứ không phải lỗi của Thế Tôn.” Thế mới biết kinh Anh Lạc nói khi không hiểu phương tiện thì lỗi ở Phật, khi nhờ Pháp Hoa mà nhập vào pháp tánh thì lỗi ở mình.

Phật ở tại tinh xá Kỳ hoàn. Lúc đó vua Ba-tư-nặc cúng giỗ cha, tổ chức tiệc trai mời Phật vào cung thiết đãi. Lúc đó trong thành cũng có các Trưởng giả Cư sĩ cúng dường trai phạm, đợi Phật đến dự. Phật bèn sai ngài Văn-thù chia lãnh các Bồ-tát và A-la-hán đến thọ thực với các trai chủ. Chỉ có A-nan đi xa chưa về, ngài đang một mình trên đường về. Hôm đó vì Phật và chúng Tăng đều đi chứng trai không ai cúng, nên ngài ôm bát vào thành thứ lớp khất thực thì gặp nàng Ma-đăng-già dùng chú Phạm thiên bắt ngài vào dâm thất. Như Lai lúc đó biết việc, khi thọ trai xong trên đường về, ngài liền phóng từ đỉnh một luồng sáng trăm báu có hoa sen báu ngàn cánh trên đó đều có hóa Phật ngồi kiết già tuyên nói thần chú, Phật lại sai ngài Văn-thù đến đọc chú dắt A-nan và Ma-đăng-già đến chỗ Phật. Ngài A-nan gặp Phật bèn đảnh lễ khóc lóc tiếc cho mình từ vô thủy đến nay chỉ ham học nên đạo lực chưa đầy đủ. Liền ân cần thưa hỏi về phương tiện đầu tiên được quả Bồ-đề của mười phương Như Lai. Đức Phật bèn nói cho A-nan pháp tên là Đại Phật Đảnh Thủ-lăng-nghiêm Kinh (Lâm Gian Sáu nói: Các bậc Trí nghe ở Thiên Trúc có kinh Thủ-lăng-nghiêm thì luôn cầu nguyện kinh sớm đến cõi này).

Lời thuật rằng: Cả một đời thuyết giáo cốt yếu cuối cùng là ở chỗ khai hiển, mà công khai hiển mầu nhiệm nhất thì phải quy cho Pháp Hoa. Các kinh khác có nói về Viên thì đều là nghĩa của Phương Đẳng

Tứ Giáo cùng nói, mà Cô Sơn thì muốn xem Lăng-nghiêm đồng với Pháp Hoa về vị đề hồ. Ấy là không nghĩ rằng Phương đẳng là kinh bao gồm mà mất đi ý chỉ, Pháp Hoa là thuần nhất không xen tạp vậy.

Thuật rằng: Phật nói kinh Phương đẳng đến đây đã được tám năm. Nay chỉ nêu các kinh đương thời để thấy nghĩa mà Tứ giáo đều nói.

Thời thứ tư là Bát-nhã, người lớn thì trông nhờ cái dụng của ánh sáng, còn trẻ em thì chết vì ánh sáng. Cho nên văn có nói: Chỉ nói với Bồ-tát sự thực ấy mà không nói cho ta cái chân yếu này. Tuy là ba người cùng học nhưng chỉ có hai người được chứng, nói đầy đủ như ở Đại Phẩm (Huyền Kinh quyển một, Thích Thiêm nói: Bồ-tát nhờ ánh sáng Bát-nhã là dụng của các pháp, còn hàng Nhị thừa như đứa trẻ mới sinh được bảy ngày, nếu nhìn vào mặt trời thì sẽ mù mắt. Vì vô minh hoàn toàn có nghĩa như là chết).

Kế nói các kinh Ma-ha Bát-nhã, Hoa Nghiêm, Hải Không, Lịch Kiếp Tu Hành, đây là sau thời Phương đẳng mà nói về Đại Phẩm, Đại Phẩm hoặc nói về vô thường, vô ngã hoặc nói về không, hoặc nói về bất sinh bất diệt đều trải qua từ sắc tâm cho đến bậc Nhất thiết chủng trí. Mỗi câu hồi chuyển nói rõ pháp tu hành. Lại có trăm ngàn Tỳ-kheo, vạn ức trời người chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán. Người ở bậc Bích-chi-phật, nghiệm ra là cộng Bát-nhã còn nói Hoa Nghiêm, Hải Không, (Thích Thiêm nói: “Còn nói” trở đi là nói về “bất cộng Bátnhã”, “Cộng” thì chung Thông cả Nhị thừa, còn “bất cộng” thì là Biệt Viên, không chung với Nhị thừa). là căn cứ vào pháp tánh luận thì Độn căn Bồ-tát có ba chỗ nhập pháp giới: Một là Bát-nhã; hai là Pháp Hoa; ba là Niết-bàn. Nhân nghe Bát-nhã mà nhập Pháp giới tức là Hoa Nghiêm Hải Không (Diệu Huyền quyển 10). Kế đến nói Bát-nhã chuyển giáo, phó tài, Dung thông, đào thải. Trong thời Bát-nhã này không nói tạng giáo, không kèm thêm hai thứ Thông Biệt mà chính nói về Viên giáo thôi (Tứ Giáo Nghi, tập Giải nói rằng: Chuyển giáo, là tu Bồ-đề thì chuyên hiểu về không, Xá-lợi thì chuyên về trí tuệ, Phật dùng Bát-nhã là pháp không tuệ để gia bị cho hai vị ấy chuyển làm Bồ-tát nói các pháp không, chẳng điều gì là chẳng thanh tịnh, từ đây trở đi chuyển độ người khác. Kinh nói rằng: Chúng ta tuy bị các thứ đào thải, nói pháp Bồ-tát nhưng không trông mong chứng đắc nên gọi là chuyển giáo. Phó tài, ở thế gian thì bảy báu của Trưởng giả là tài, còn xuất thế gian thì Pháp Vương Bátnhã là tài. Nếu ước theo ý Phật, lấy Bát-nhã này gia bị cho hai người thì tức là Phó tài. Như ở Nhị thừa chỉ nói là Giai thuyết. Cho nên Đại Phẩm nói rằng: Há hàng Thanh văn dám nói ra điều chi, nếu có nói ra thì đều là do sức Phật. Nếu ước theo ý hóa độ thì chỉ là lãnh biết gia nghiệp, kín đáo hoàn thành lợi ích riêng, đến thời Pháp Hoa mới được gọi là Phó tài. Nên kinh nói rằng: “Những thứ ta có hiện nay đều là của con ta.” Dung thông, Như Hội bát-nhã thì tất cả pháp đều là Ma-ha-diễn, chính là Pháp Tam Giáo Dung thông. Không phải là Dung của Viên dung. Như Thích Thiêm nói: Nếu lấy Viên mà bài xích Tam và lấy Viêm mà bài xích Tạng thì Viên dung là Viên. Hoặc lấy Tam Giáo mà chê Tạng thì tức là Dung thông làm Dung. Đào thải, Đại luận nói Đào thải là giặt rửa lóng trong, lấy nước không tuệ mà lắng lọc chọn lựa vậy. Thích Thiêm nói: Phương đẳng quở trách hơi khác nghĩa “Cộng”. Nay Kinh Bát-nhã này chính là Cộng Bộ. Phụ Hành nói: Dụng phụ là Thông giáo, dụng chánh là Biệt Viên, gia bị cho hàng Nhị thừa kín đáo hoàn thành lợi ích riêng. Thích Thiêm lại nói: Trước đối với Phương đẳng nghĩa đã thành Thông cho nên đến thời Bát-nhã thì chỉ cần hai thứ này. Nói bất cộng, là nói ý của bộ. Ý tuy không Cộng nhưng còn có Phương Đẳng mới nhận Tiểu thừa. Đến đây thì cần có Thông. Cũng có người ở bên Đại thừa mà được Tiểu thừa. Thế nên phải gồm dùng. Nay ước về Thiên và Viên đối nhau mà luận, nên nói là kèm theo hai thứ để nói Viên. Như Nhân Vương Bát-nhã nói bốn kệ Vô thường khuyên vua Phổ Minh từ ngôi bỏ nước, thì nghĩa giống ba tạng, nói về trợ đạo, không phải là ý chính của bộ.

Nếu ước theo thời thì ở trong vùng (Thích Thiêm quyển một, Ngu cũng viết là Ngung, nói thời gian đã qua lúc mặt trời sắp đứng bóng nhưng còn ở vòng ngoài, nên gọi là Ngu Trung. Lại âm dương gọi Dần Thân Tỵ Hợi là bốn Ngung).

Nếu ước theo vị thì nó là từ sinh tô sinh ra thục tô. Đây là từ Phương đẳng sinh ra Bát-nhã (Huyền Thiên quyển 1), phẩm Tín Giải nói: Lúc bấy giờ Trưởng giả có bệnh tự biết mình không bao lâu nữa sẽ chết (Văn cú – cơ đến là sinh, cơ hết là diệt, hóa cơ sắp hết nên không bao lâu sẽ chết) nên bảo kẻ cùng tử rằng ta nay có nhiều vàng bạc châu báu (Lý thì không nhiều nhưng ước theo các môn nên nói là nhiều. Vàng này là dụ cho Lý Biệt giáo, Biệt ở Bồ-tát tức là Bất cộng Bát-nhã. Lý được nói là hai giáo Biệt viên. Bạc là dụ cho Lý Thông giáo cùng Nhị thừa đồng chứng, tức là cộng Bát-nhã. Lý được nói là Thông giáo. Lý Bát-nhã không ngoài hai thứ này. Châu báu: là nói về tất cả pháp môn). Kho lẫm đầy tràn bao nhiêu trong đó đều lấy cho con, con nên biết rõ (là Định môn tức một trăm lẻ tám thứ Tam-muội, còn kho là tuệ môn tức là mười tám Cảnh không. Kho lẫm định tuệ hai thứ Thông Biệt đều bao gồm tất cả thiền định trí tuệ, trong đầy ngoài tràn, Bồ-tát hành trì Bát-nhã nên biết rõ hai môn rộng hẹp, nên gọi là bao nhiêu. Tự làm là lấy, dạy người là cho). Kẻ cùng tử lãnh lệnh lãnh biết mọi vật nhưng không có ý mong lấy một bữa ăn (Thiện Cát tuy nói Bát-nhã nhưng tự bảo là ta không có phần ấy). Song anh ta vẫn ở chỗ của mình (cũng ở bậc A-la-hán). Đây hiểu nghĩa như thế nào? Đây là từ sau Phương đẳng Kế đếnnói Bát-nhã, Bát-nhã Quán Tuệ tức là nghiệp nhà trải từ danh sắc cho đến chủng trí, tức là các vật. Thiện Cát… chuyển giáo tức là nhận biết. Chỉ nói cho Bồ-tát mà mình không tự chứng, nên không trông mong nhận lấy (Huyền Kinh quyển 10).

Năm thứ hai mươi bốn (Quý Mão), Phật ở tại núi Linh thứu, vườn Cấp-cô-độc, cung trời Tha hóa tự tại và Trúc lâm cả bốn chỗ mười sáu Hội nói kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật (núi Linh thứu ở cách thành Vương xá năm dặm trong nước Ma-già-đà, Trúc lâm ở gần bên thành, còn vườn Cấp cô thì ở nước Xá-vệ, đều thuộc Trung Ấn Độ).

 

Đại Phẩm Bát-nhã bốn mươi quyển, xét theo Tạng Kinh Mục Sáu nói rằng: Ma-ha Bát-nhã ba mươi quyển, Quang Tán Bát-nhã mười quyển. Ngài Long Thọ dùng bản này viết bộ Trí Độ luận một trăm quyển. Ngài Trí Giả dựa vào bản Luận này mà viết lời Sớ hai mươi quyển (nay còn ở Cao Ly cchưa đến Trung Quốc) Còn mười kinh Phóng Quang, Kim Cang …. là dịch khoảng đời Tấn, Tống. Đến đời Đường ngài Pháp sư Huyền Trang mới dịch ra Đại Bát-nhã Kinh sáu trăm quyển. Nên biết mười Kinh trước đều là văn trùng dịch. Văn các bộ mà ngài Trí Giả đã dẫn chính là nghĩa trong Đại Phẩm, do Ngài La Thập dịch ở đời Tấn, bản này có trước bộ Đại Bát-nhã được dịch ở đời Đường.

Lời thuật rằng: Tứ Giáo Nghi nêu rõ: Các kinh tên Bát-nhã chung riêng và trùng dịch rất khó phân biệt. Nay chỉ nêu chung về kinh Đại Bát-nhã thì như Đại Phẩm, Tiểu Phẩm, Thiên Vương, Văn-thù, Kim Cang… mười kinh đều là trùng dich từ Đại Bát-nhã, những quyển Biệt Hành nay không nêu ra. Bởi vì Ma-ha tức là Đại Phẩm. Lại Thích Thiêm có nói: Xưa phán định Bát-nhã có năm thời: Một là Ma-ha; hai là Kim Cang; ba là Thiên Vương; bốn là Quang Tán; năm là Nhân Vương. Đây chưa thể dùng được vì Quang Tán chỉ là một phần trên của Đại Phẩm. Xét đây thì lại biết Quang Tán không phải trùng dịch. Câu nói: “Đây chưa thể dùng được là của ngài Kinh Khê để phá chung về lỗi năm thời của các Sư xưa.”Đại Phẩm Bát-nhã bốn mươi quyển, xét theo Tạng Kinh Mục Sáu nói rằng: Ma-ha Bát-nhã ba mươi quyển, Quang Tán Bát-nhã mười quyển. Ngài Long Thọ dùng bản này viết bộ Trí Độ Luận một trăm quyển. Ngài Trí Giả dựa vào bản Luận này mà viết lời Sớ hai mươi quyển (nay còn ở Cao Ly chưa đến Trung Quốc). Còn mười kinh Phóng Quang, Kim Cang… là dịch khoảng đời Tấn, Tống. Đến đời Đường ngài Pháp sư Huyền Trang mới dịch ra Đại Bát-nhã Kinh sáu trăm quyển. Nên biết mười kinh trước đều là văn trùng dịch. Văn các bộ mà ngài Trí Giả đã dẫn chính là nghĩa trong Đại Phẩm, do ngài La-thập dịch ở đời Tấn, bản này có trước bộ Đại Bát-nhã được dịch ở đời Đường.

Năm thứ hai mươi lăm (Giáp Thìn), năm thứ hai mươi sáu (Ất Tỵ), năm thứ hai mươi bảy (Bính Ngọ), năm thứ hai mươi tám (Đinh Mùi), năm thứ hai mươi chín (Mậu Thân), năm thứ ba mươi (Kỷ Dậu), năm thứ ba mươi mốt (Canh Tuất), năm thứ ba mươi hai (Tân Hợi), năm thứ ba mươi ba (Nhâm Tý). Phật ở núi Kỳ-xà-quật trong thành Vương xá nói cho vua Ba-tư-nặc nước Xá-vệ, về Bát-nhã Ba-la-mật mười bốn chánh hạnh. Lại dặn dò vua rằng: “Khi nước sắp loạn thì giặc ngoài đến xâm lấn, mặt trăng, mặt trời và các sao biến đổi, có các nạn lớn về lửa, nước, năm giống thóc không mọc, gió bão nắng hạn… thì phải thỉnh trăm vị Pháp sư, thiết lập trăm cao tòa, mỗi ngày hai thời giảng nói kinh này (nay hai bài giảng văn sớm tối thấy ở đây), bách bộ quỷ thần thích nghe kinh này sẽ hộ trì đất nước ông muôn dân an lạc, vua chúa vui vẻ. Như khi vua đi thì để kinh trên bàn bảy báu cách trước một trăm bước. Như khi vua đứng thì để kinh trên tòa có màn bảy báu, ngày ngày cúng dường như thờ cha mẹ.” Lúc đó mười sáu vua nước lớn nghe pháp xong rất vui mừng liền giao quốc sự lại cho em mình mà xuất gia tu đạo và chứng được tất cả các hạnh của Bát-nhã Ba-la-mật (theo Nhân Vương Vấn Bát-nhã Kinh, Thiêm Nhân Vương nói rằng: “Như Lai thành đạo được hai mươi chín năm thì nói cho ta Ma-ha Bát-nhã. Cho nên biết Bát-nhã ở sau thời Phương đẳng, cũng biết Nhân Vương ở sau Đại Phẩm. Theo kinh Trường A-hàm thì mười sáu nước lớn là nước Xá-vệ, nước Ma-kiệt-đề, nước Ba-la-nại, nước Tỳ-xá-ly, nước Ca-tỳla-vệ, nước Câu-thi-na, nước Kiều-tát-la, nước Kế đếnTân, nước Cưulưu, nước Già-la-càn, nước Càn-đà-vệ, nước Sa-đà, nước Tăng-già-la, nước Kiện-noa, nước Quật-xà, nước Ba-đề).

Năm thứ ba mươi bốn (Quý Sửu) Phật thành đạo đã ba mươi năm, ở tại thành Vương xá bảo các Tỳ-kheo rằng: Ai có thể vì ta mà thọ trì mười hai bộ kinh và cúng dường giúp đỡ ta. Lúc đó ngài Kiều-trần-như bạch rằng: “Con xin hầu hạ.” Phật bảo: “Ông đã quá già làm sao giúp ta được, cho đến năm trăm vị A-la-hán Phật đều không nhận. Ngài Mục-liên nhập định thấy Phật để ý A-nan như mặt trời mới mọc chiếu ánh nắng về vách phía Tây, liền bảo Kiều-trần-như. Trần-như nói với A-nan rằng: “Ngài nên hầu hạ Như Lai.” A-nan thưa: Xin Như Lai chấp nhận cho tôi ba điều:

  1. Không nhận y cũ của Như Lai.
  2. Không theo Như Lai mà nhận thỉnh riêng.
  3. Cho tôi ra vào tự do.

Phật bảo: Tốt lắm! Đầy đủ trí tuệ để phòng việc chê bai ganh tỵ.

Bởi vì sao? Nếu như có người bảo ông vì cơm ăn áo mặc mà hầu hạ Như Lai, thế nên không nhận y cũ, không theo nhận thỉnh riêng và ra vào đúng lúc thì không thể làm lợi ích rộng lớn cho bốn bộ chúng. Cho nên ta chấp nhận cho A-nan ba điều (kinh Niết-bàn).

Lời thuật rằng: Kinh Niết-bàn nói Phật bảo ngài Văn-thù rằng: “A-nan em ta hầu hạ ta đến nay đã hơn hai mươi năm.” Lại phần sau kinh có nói: A-nan đọc kệ rằng: “Ta làm thị giả đã hai mươi năm.” Cho nên biết năm này mới làm thị giả.

Năm thứ ba mươi lăm (Giáp Dần), năm thứ ba mươi sáu (Ất Mão), năm thứ ba mươi bảy (Bính Thìn), năm thứ ba mươi tám (Đinh Tỵ), năm thứ ba mươi chín (Mậu Ngọ), năm thứ bốn mươi (Kỷ Mùi), năm thứ bốn mươi mốt (Canh Thân), năm thứ bốn mươi hai (Tân Dậu). Đức Phật đến thành Vương xá, thọ trai xong liền bảo La-vân dọn rửa, ông lỡ tay để bát rơi vỡ thành năm mảnh. Phật bảo: Sau khi ta diệt độ một trăm năm thì các Tỳ-kheo chia Tỳ-ni tạng thành năm bộ. Một trăm năm sau Cúcđa Tôn giả có năm đệ tử, mỗi người có chấp thấy riêng:

  1. Bộ Đàm-vô-đức, tên pháp là Tứ Phần (Hán dịch là Pháp Mật).
  2. Bộ Tát-bà-đa, tên pháp là Thập Tụng (Hán dịch là Nhất Thiết Hữu).
  3. Bộ Ca-diếp-di, tên pháp là Ngũ Phần (Hán dịch là Trọng Không).
  4. Bộ Di-sa-tắc, tên pháp là Ngũ Phần (Hán dịch là Bất trước Hữu Vô Quán).
  5. Bộ Bà-sa-phú-la, bản Luật này không đến Trung Quốc (Hán dịch là Độc Tử). cả năm bộ này đều lấy Tăng-kỳ Luật làm căn bản.

Năm thứ bốn mươi ba (Nhâm Tuất), năm thứ bốn mươi bốn (Quý Hợi), năm thứ bốn mươi lăm (Giáp Tý).

Lời thuật rằng: Phật nói các kinh Bát-nhã đến đây đã được hai mươi hai năm.

3) Thứ ba là Bí mật giáo: Như Lai đối với pháp được tối tự tại hoặc trí hoặc cơ hoặc thời hoặc xứ, ba mật bốn môn đều vô ngại không cần hỏi (Trí là nói về quyền mưu của Đại Thánh, Cơ là nói thứ lớp không đồng. Không chọn về thời gian và nơi chốn, thân khẩu ý mật, tùy bốn môn nào đều vô ngại tự tại thích hợp thời mà lập Hội). Ở tòa này nói đốn mà ở mười phương nói tiệm và bất định; ở mười phương nói đốn mà ở tòa này lại nói tiệm và nói bất định, ở tòa này không nghe mười phương và ở mười phương không nghe tòa này (mười phương và tòa này đối nhau) hoặc đều nói đốn, nói tiệm, đều bất định (căn cứ vào Văn nghĩa của Thiêm mà thêm ba chữ “đều”. Cũng nên nói mười phương và tòa này đối nhau). Còn mỗi thứ không biết nhau, đối đây mà Hiển mà đối kia là Mật (đây là người không thấy nhau, Pháp không cùng nghe, lẫn lộn không biết nhau thì được ích lợi bất định). Đây là ước tòa này và mười phương đối nhau (Thiêm Khoa). Hoặc vì một người thì nói đốn hoặc vì nhiều người lại nói tiệm, nói bất định. Hoặc vì một người thì nói Tiệm, hoặc vì nhiều người thì nói đốn, hoặc đều tiệm, đều đốn, đều bất định (nghĩa như trước thêm ba chữ “đều”). Mỗi người không biết nhau làm Hiển Mật lẫn nhau (đây là người thấy nhau, pháp cùng nghe, không biết lẫn nhau, thì được lợi ích bất định). Đây là ước một người và nhiều người đối nhau (theo Thiêm Khoa Thiêm nói rằng: Một phương đã thế thì mười phương cũng thế). Hoặc ở một tòa thì im lặng mà mười phương nói hoặc mười phương im lặng một tòa nói, hoặc đều im lặng, đều nói, mỗi thứ không biết nhau, làm hiển mật cho nhau. Đây là ước tòa này và mười phương, nói và im lặng đối nhau (Thiêm Khoa, từ trên đều do Diệu Huyền Thích Thiêm) vã đã mượn ba pháp, huống là nói ra tướng của nó.

Bí mật được tên, thì Diệu Huyền nói rằng: Hiển bày bất định. Còn bí mật bất định thì Thiêm Thích nói rằng: Vì đối với bí mật đều cần hiển bày (v.v…) Do bốn vị trước có một loại Cơ mà không hiểu hiển bày nên phải cho vào Bí mật. Thế nên sức Như Lai khó nghĩ bàn đã nói cách ẩn kín, cốt là khiến chúng sinh không biết lẫn nhau, mà được ích lợi cả Đốn và Tiệm vậy.

Bí mật lập thể, thì Thiêm Thích Huyền Văn nói rằng: Thân, khẩu, ý Mật tùy bốn môn nào cũng đều vô ngại. Lại Thiêm nói: Vì Bí mật không ngoài bảy thứ này, nên Dật Đường lấy ba mật bốn môn làm thể cho đương thể, hai lý chân trung làm thể cho sở y, Thạch Pha lấy bảy giáo làm thể cho Sở dụng, tuy đều là có chỗ căn cứ nhưng cần yếu là lấy bảy giáo để làm đủ nghĩa.

Bí mật văn chứng, đây có hai nghĩa:

1. Nghĩa chứa nhóm kinh luận. Diệu Huyền dẫn kinh Niết-bàn, Bồ-tát Ca-diếp thì lập ba mươi sáu câu hỏi. Như Lai khen rằng: Khi ta mới thành Phật cũng có Bồ-tát đến hỏi nghĩa này, câu nghĩa đã hỏi công đức cũng đều như thế (đây là đích thân Phật tuyên nói). Lại Kinh Bát-nhã, các Thiên tử đều xướng lên rằng: Tôi thấy chuyển pháp luân lần hai ở cõi Diêm-phù-đề, nay chuyển giống như lần đầu (đây là chư thiên truyền rao).

2. Tên do ngài Long Thọ dịch ra. Đại Luận giải thích kinh Bát-nhã nói rằng: Pháp luân của chư Phật có hai thứ: Một là hiển; hai là mật. Chuyển lần đầu thì Thanh văn thấy có tám vạn ức người (đây là Hiển bất định giáo), còn các Bồ-tát thì thấy có vô lượng a-tăng-kỳ người được Vô sinh nhẫn (Đây là Bí mật bất định giáo).

Bí Mật không truyền, Văn Cú nói rằng: Bí mật là giấu kín không truyền. Ký nói rằng: Phật giáng sinh bảy lần không thể thuật lại được. Ngay cả A-nan cũng không nhận được há là sư suy lường của người hoằng giáo, A-nan không phải không truyền bí mật, nhưng vì ứng cơ Bí mật nên không truyền đó thôi. Cho nên Bí mật không dùng mà chỉ toàn là Hiển lộ thế nên truyền bí mật cũng gọi là truyền Hiển. Các Sư đều nói rằng: Các Thánh ứng cơ bí mật vẫn không biết lẫn nhau, cho nên không thể truyền. Như trong Niết-bàn, Như Lai đích thân tuyên nói Bátnhã. Cho nên các Thiên tử rao truyền đều kết tập thành văn, lại thành Hiển lộ nên có thể truyền vậy.

Bí mật hoành bị, Thiêm nói rằng: Bí mật hoành bị không thời nào không khắp (v.v…) há đối với Pháp Hoa mà có bí mật ư? Cần biết Hiển lộ là luận dọc thì tuy ở tại bốn thời nhưng có Hoa Nghiêm – Lộc uyển là Đại Tiểu thừa cách biệt nhau. Còn bí mật là luận ngang thì cả ẩn Hiển ở tại Cơ, không thời nào không khắp, nhưng khắp ở bốn thời trước chứ không khắp ở thời Pháp Hoa. Lại Thiêm nói rằng: Năm vị thì đường tiến dọc, đều có bán, mãn, bí mật, bất định. Đây là giải thích văn Diệu Huyền để phá các Sư phương Nam chỉ dùng năm vị (chỉ được Phương Tiện), các Sư phương Bắc riêng dùng bán mãn (chỉ được Kỳ thật). Nay các nhà dùng năm vị thành bán mãn, bán mãn thành năm vị. Cho nên nói rằng: Vị nào cũng đều có bán mãn bí mật và bất định. Đây là giải nghĩa để thành nhau một lượt như thế không phải là bảo trong Pháp Hoa thì có bốn vị bí mật bất định của các thời trước. Cho nên văn Diệu Huyền nói rằng: Huyền thật đều dạo chơi như Chim có hai cánh, tuy lại đều dạo chơi (năm vị Bán Mãn đều dùng) hàng tàng đúng chỗ (năm vị bán mãn chung thành gọi là hành, nghĩa là chữ Mãn chung thành vị đề hồ của Pháp hoa. Chỉ khi biến khắp bốn vị Bán Mãn thì gọi là Tàng, nghĩa là chữ Mãn không đến được vị đề hồ của Pháp Hoa).

Pháp Hoa không phải bí mật mà là bí mật (Huyền Văn). Pháp Hoa là Hiển không phải mật. Lại nói rằng: Pháp Hoa là bí mật còn Bát-nhã không phải bí mật. Thiêm nói: Cái trước là Hiển không phải bí mật, nghĩa là không phải mật của giấu kín. Như ở giáo trước có hàng Nhị thừa phát tâm không khiến cho kẻ chưa phát tâm biết được, thế nên là ẩn. Nay xem Bát-nhã là mật thì đây là cái mật của Diệu bí (kín nhiệm)

không có trong Bát-nhã nhưng rất cao quý trong Pháp Hoa. Lại Diệu Huyền nói rằng: Bát-nhã không nói Nhị thừa làm Phật, nên không phải bí mật. Lại Diệu Huyền dẫn Đại Luận nói là các kinh khác không phải bí mật, Pháp Hoa là bí mật. Thiêm nói: Không phải bí mật trong tám giáo, chỉ là cái trước chưa nói là Bí mà mở rồi thì không còn là Bí nữa (tức hơn bốn mươi năm không hề nói).

Ba nghĩa bí mật, Thiêm nói: Cần biết rằng Bí mật lợi đồng mà nghĩa khác (v.v…). Nay nêu các văn đủ nói lên ba nghĩa:

1. Chân Bí. Huyền nói Pháp Hoa là bí mật. Thiêm nói: là mật của Bí diệu.

2. Ẩn bí, Tự có hai nghĩa Phật và Đệ tử. Huyền dẫn kinh nói rằng hơn bốn mươi năm giấu kín không nói. Đây là điều ngày xưa chưa nói, đứng về phía Như Lai là Bí vậy. Diệu Lạc nói rằng: Trong ba lượt tư luận là Bí. Pháp nói mỗi lượt thì có Đại xa nghe được Mật giáo. Đây gọi là hàng lợi căn lượt đầu. Tham dự hiểu rõ các việc Thí Dụ Nhân Duyên đối với hàng Trung Hạ chưa ngộ nên gọi là Mật. Mật này có chỗ được nghe nên đứng về phía Đệ tử là Bí vậy.

3. Bí mật, tức Diệu Huyền đã lập giáo Bí mật. Như Lai kín đáo ứng cơ không biết lẫn nhau. Thiêm nói đó là mật của Ẩn mật vậy.

Thứ tư là Bất định giáo. Do bốn vị trước có cơ phát bất định, nghe Đại thừa chứng Tiểu thừa hoặc nghe Tiểu thừa chứng Đại thừa. Ở trong nói Tiệm lại được ích lợi về Đốn, ở trong nói Đốn lại được ích lợi về Tiệm. Đây là có phân biệt về hai nghĩa Bộ giáo:

1. Ước về bộ mà luận dọc, tuy ở Cao sơn nói về Đốn, Tịch trường Bất Động mà vẫn đi du hóa ở Lộc uyển (Đây là chỗ bất định. Thiêm nói: Đây bất động bất ly bay lên du hóa. Đây là chỉ cho Tiệm nói bắt đầu từ Đốn giáo, bất động ở Đốn mà vẫn dạy Tiệm). Tuy nói bốn Đế sinh diệt mà không ngại, không sinh không diệt (Đây là pháp bất định. Lộc uyển tuy có dạy Tiệm mà không bắt đầu ở Đốn, hai vị đã thế, các vị khác đều chuẩn theo đây). Tuy nói cho Bồ-tát về Phật cảnh giới nhưng vẫn có hàng Nhị thừa được đoạn trí. Tuy chỉ năm người chứng quả mà không ngăn được tám vạn chư thiên được Vô sinh nhẫn (Đây là nghĩa bất định). Nên biết tức Đốn mà Tiệm (ở Đốn mà được ích lợi của Tiệm), tức Tiệm mà Đốn (ở Tiệm mà được ích lợi của Đốn – Thiêm nói:

Tuy chỉ cho Bồ-tát Phương đẳng và Bát-nhã nhưng ở hai thời đó đều có Tiểu quả, mới được và đã được như thường nói. Tuy năm người chưa chứng quả nhưng không ngăn được tám vạn chư Thiên được Vô sinh nhẫn (Đây chỉ là lại bắt đầu Tiệm giáo nói Bát-nhã cho nghe. Trước là căn cứ về Pháp, đây là căn cứ về người. Đắc quả không giống nhau nên chứng pháp bất định).

2. Ước theo giáo mà luận ngang. Trong vị sữa được Biệt viên đối nhau để biện Bất định. Giáo môn trong vị lạc tuy không có hai thứ khác nhau, bèn cùng với tám vạn một người đối biện. Sinh tô và thục tô thứ ba và bốn đối biện (Bát-nhã kèm cả thông, biệt, viên là ba, Phương đẳng bốn giáo nói chung là bốn) nên biết là Bất định, ước bộ ước giáo khắp bốn thời trước (đều thấy ở Diệu Huyền, Thích Thiêm).

Bất định được tên, Huyền Văn. Cả đất Nam – Bắc đều dùng chung ba thứ giáo tướng: Một là Đốn; hai là Tiệm; ba là Bất định. Lại các Sư xưa riêng lập Phương Bất Định. Nghĩa là không phải thứ lớp riêng làm một duyên. Như Kim Quang Minh, Thắng Man…, là vậy. Biết tên bất định đưa ra bởi các Sư xưa. Thiên thai đã thêm Bí mật là bốn giáo thì mới đủ nghĩa.

Bất định bày thể, Chỉ quán, Diệu Huyền, Tứ Giáo nghi dẫn kinh Tịnh Danh nói Phật dùng một thứ tiếng diễn nói pháp, chúng sinh tùy loại mỗi người đều hiểu. Đây là dẫn chứng về Bất định. Nay các Sư dùng một thứ tiếng để làm thể của Đương thể, hai Lý chân trung là thể của Sở y (nghĩa là một tiếng chung cả Đại Tiểu thừa đều hiểu đầy đủ). Văn Bất định làm chứng. Diệu Huyền dẫn Đại Kinh hoặc có thời nói sâu, có thời nói cạn, ứng hỏi liền ngăn, ứng ngăn liền hỏi (Thiêm ứng hỏi, nghĩa là đặt câu hỏi (Thụy Ứng), ngăn, nghĩa là đáp câu hỏi. Hỏi và đáp ngang hàng nên thành Bất định).

Huyền Kinh dẫn Đại Kinh nói bỏ độc trong sữa thì có thể giết người. Cho đến đề hồ cũng có thể giết người (v.v…). Chỉ Quán dẫn kinh Tịnh Danh nói: Phật dùng một thứ âm thinh mà tất chúng sinh mỗi người đều hiểu hoặc có sợ sệt (thế giới) hoặc có vui mừng (làm người) hoặc sinh chán ghét (đối trị) hoặc hết nghi ngờ (đệ nhất nghĩa). Đây là Như Lai thần lực Bất cộng pháp (v.v…) Thiêm dẫn Đại Luận nói: Chuyển lần đầu thì tám vạn người được Vô sinh nhẫn; ông Kiều-trần-như được Sơ quả. Đây là bằng chứng về bất định giáo vậy.

Để chất độc bất định, Huyền dẫn kinh Niết-bàn nói năm vị trí với ngôi vị Tứ Giáo (ba giáo trước, giáo nào cũng đều thành năm vị, đầy đủ ở Huyền Văn). Cho nên biết ba giáo năm vị trước đều thô, Viên giáo một vị đều diệu (có người bảo nên nói năm vị đều diệu. Kinh nói: Ví như người bỏ chất độc vào sữa thì có thể giết người. Cho đến vị đề hồ cũng có thể giết người.

Đây là ví dụ về dụng của hai thứ: Một là căn cứ chung về Đốn Tiệm nói giáo Bất Định mọi nơi đều thấy được Phật tánh; hai là căn cứ về hạnh bất định. Tâm hạnh của người tu ví như sữa, Thật tướng ví như chất độc. Chất độc này có công năng giết người. Đây là nói trí tuệ có sức phá tan Vô minh, từ nhiều kiếp lâu xa đến nay nói cái độc thật tướng đặt trong sữa tâm kẻ phàm phu và cái tuệ độc phát sinh không thể định được. Hoặc phát sinh ở vị đầu, hoặc phát ở vị sau, không thể xét định được thứ tự. Cho nên nói bỏ độc trong sữa cho đến vị đề hồ, trong cả năm vị đều có nghĩa giết chết… Nếu ở trong Viên giáo mà phát khởi, lần đầu tiên nghe kinh liền phát vô minh mà thấy Phật tánh là trong vị sữa giết người. Còn sáu căn thanh tịnh trở đi thì là lạc, sinh tô, thục tô… giết người. Nếu bậc Sơ trụ trở đi là vị đề hồ giết người (Huyền Văn, đầu tiên nêu ba giáo trước, tùy ở vị nào kín đáo thấy được Trung đạo tức là trong vị sữa giết người cho đến vị đề hồ giết người. Các Sư xưa nói rằng: Độc là dụ cho Phật tánh, để là dụ cho thể đầy đủ, năm vị là dụ cho năm đường. Lấy một chất độc mà để vào sữa tâm phàm phu thì tùy ở năm đường mà thọ thân khác nhau, nhưng độc tánh vẫn không mất. Khi độc tánh phát ra rõ ràng thì không luận là thuộc thân nào, như ở đại đạo mà phát, tức là ở vị đề hồ mà phát, nghĩa đã bất định nên nói giáo bất định). Một thứ tiếng bất định, Phụ Hành dẫn Khởi Tín Luận nói rằng: Một Viên Âm diễn nói thì các loại khác nhau đều hiểu. Lại trong tám mươi vẻ đẹp của Như Lai thì một âm có thể báo đến các thứ tiếng, các loại khác nhau ở các phương khác nhau đều được lợi ích. Như Lai vốn không dùng tất cả âm từ mà có thể ứng khắp tất cả âm từ, thì cùng đây đồng nghĩa bất định. Thiêm dẫn kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Phật dùng một diệu âm, khắp cõi nước mười phương các tiếng đều đầy đủ, mưa pháp thảy thấm nhuần.” Lại Đại Luận nói rằng: “Muốn được một âm biến khắp mười phương thì phải học Bát-nhã” (đây đều là một âm của Đại thừa). Luận Tỳ-đàm nói rằng: Phật vì bốn vua dùng Thánh ngữ nói bốn đế thì hai vua hiểu, hai vua không hiểu (tiếng Phạm thiên), lại dùng tiếng Tỳ-đà-la nói bốn đế thì một vua hiểu, một vua không hiểu. Lại dùng tiếng Lê-xa nói bốn đế thì bốn vua đều hiểu. Vì bốn vua mỗi người đều có ý niệm không giống nhau. Phật nói ba lần để ứng với các niệm ấy mà giải thích chung về Bí mật bất định. Thiêm dẫn Đại Luận nói, chư Phật có hai thứ pháp luân: Một là Hiển; hai là Mật. Chuyển lần đầu thì Thanh văn thấy tám vạn chư Thiên được Vô sinh nhẫn. Các ông Kiều-trần-như chứng được Sơ quả (nay các nhà Bất định lấy làm căn cứ), còn các Bồ-tát thì thấy có vô lượng a-tăng-kỳ người được Vô sinh nhẫn cho đến Thập địa, Nhất sinh bổ xứ thì gọi là Mật (nay các nhà Bí mật lấy làm căn cứ). Thiêm nói: Diệu Huyền dẫn Đại Kinh nói hoặccó thời nói sâu, có thời nói cạn… thì gọi là Bất Định. Vì do kia đây cùng hiểu lẫn nhau. Nếu Bí mật thì không biết lẫn nhau. Vậy Bất định và Bí mật thì đều là không phát xuất từ đồng nghe khác nhận (Đồng nhận giáo một âm của Như Lai nên nói là đồng nghe. Biết lẫn nhau hoặc không biết lẫn nhau nên gọi là Khác nhận). Lại Thiêm nói: Bất định và Bí mật, chỉ có biết lẫn nhau (Bất định), còn không biết lẫn nhau (Bí mật) là để phân biệt hai thứ khác nhau.

Giải thích chung về Hiển và Mật, Định và Bất định bốn trường hợp:

1. Giáo Hiển lộ nhất định: Người cùng thấy nhau, Pháp cùng nghe, cùng biết lẫn nhau có lợi ích nhất định. Diệu Huyền nói: Như phân biệt trước, chỉ căn cứ vào Hiển lộ mà nói về tướng Tiệm Đốn năm vị. Thiêm nói: Luận chung về Hiển lộ đều thuộc về Tiệm đốn.

2. Giáo Hiển lộ bất định: Người cùng thấy, pháp cùng nghe, cùng biết lẫn nhau, được lợi ích bất định. Diệu Huyền nói: Trong một thời, một nói, một nhớ nghĩ có đủ bất định. Đây bèn là Hiển lộ bất định.

3. Giáo Bí Mật nhất định: Tự nó phân hai, tự có người không thấy nhau, có pháp không cùng nghe, không biết lẫn nhau mà được ích lợi nhất định (đây là tòa này mười phương đối luận). Tự có người thấy nhau, pháp cùng nghe không biết lẫn nhau, được lợi ích nhất định (luận về một người đối nhiều người).

4. Giáo Bí Mật bất định: Tự phân hai. Tự có người mà không thấy nhau, pháp không cùng nghe, không biết lẫn nhau mà được ích lợi bất định (Đây là ở tòa mười phương đối luận). Tự có người thấy nhau, pháp cùng nghe, không biết lẫn nhau mà được lợi ích không nhất định (một người và nhiều người đối luận) Nay hai giáo Bí mật và Bất Định chỉ là Bí Mật Bất Định (Giáo Bí Mật) Hiển lộ bất định (giáo bất định). Văn Diệu Huyền nói: Nay Pháp Hoa là Hiển lộ không phải Bí mật, là Tiệm Đốn không phải Tiệm Tiệm, là Họp không phải Bất Họp, là đề hồ không phải là bốn vị kia, là Định không phải Bất định.

Thứ năm là thời Pháp Hoa Niết-bàn

Thuật rằng: Diệu Huyền nói: Nay Phật ở núi Linh thứu tám năm nói pháp. Khi sắp nhập Niết-bàn thì đồng ở tám năm. Đây là thời đồng Diệu Huyền nói Pháp Hoa là yến tiệc của Đại vương. Còn Niết-bàn là vị đề hồ. Đây là vị đồng, lại Huyền Văn nói: Giáo ý của hai kinh thì mở đầu và kết thúc đều đồng. Đây là Khai Hiển đồng. Tứ Giáo Nghi dẫn kinh Niết-bàn nói rằng: Từ Ma-ha Bát-nhã sinh ra đại Niết-bàn, nên họp với Pháp Hoa làm thời thứ năm vậy.

Nói Pháp hoa là như ánh sáng chiếu khắp cao thấp đều bằng nhau hoặc cúi đầu hoặc nói nhỏ, hoặc còn tán loạn, hoặc thiện chút ít đều thành Phật đạo cả (Thiêm nói: Kết chung loại tán loạn và thiện chút ít là không đâu không mở các nhẫn thành Phật). Không để có người diệt độ một mình, đều phải lấy cái diệt độ của Như Lai mà diệt độ, đủ như kinh nay đã khéo dùng (Diệu Huyền quyển một). Diệu pháp khó hiểu nên phải nhờ dụ để dễ bày: Vì sen nên có hoa, đây là dụ vì Thật mà bày Quyền (Thiêm nói tuy bày Quyền nhưng vốn là Thật). Văn nói: Tuy chỉ bày nhiều thứ đạo nhưng kỳ thật chỉ là Phật thừa (hai giáo làm nhân cho người, Biệt giáo dạy đạo, năm thời tám giáo nên nói nhiều thứ đạo). Hoa nở thì Sen hiện, là dụ cho việc mở quyền hiển thật. Văn Kinh nói: Mở cửa Phương tiện để chỉ bày tướng chân thật (chỉ Thật là Quyền, Quyền áng che Thật. Gọi cửa phương tiện là nay mở ra chỉ cho Quyền làm Thật, ở Quyền mà thấy được Thật nên mới gọi là mở cửa phương tiện. Chỉ là chỉ bày, tức chỉ chỗ thấy đạo). Hoa rụng thì sen thành là dụ việc bỏ quyền lập thật. Văn kinh nói: Chánh trực bỏ phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng (Bỏ là bỏ cái tên riêng, đã mở rồi thì đều Thật, không có Quyền nào có thể luận. Nghĩa đương ở bỏ mà Quyền đổi làm Thật, chỗ bỏ kia cái thể mất tiêu. Nếu còn dính ở duyên sau thì lại thuộc vào bày vẻ ra không phải là ý ở đây. Từ trên là văn về ba ví dụ của Tích môn. Lại sen là dụ cho Bản. Hoa là dụ cho Tích. Từ Bản mà hiện Tích, Tích phải nương ở Bản (Tích không đứng riêng, Bản định hiện ra Bản). Văn Kinh nói: Ta thật thành Phật đến nay đã từ lâu xa (đầu tiên nói Bản), chỉ vì giáo hóa chúng sinh nên phải nói như thế, ta thuở nhỏ xuất gia và chứng được Tam Bồ-đề (chính nói về hiện Tích). Lại hoa nở là dụ cho mở Tích, còn Sen hiện là dụ cho hiển Bản. Văn kinh nói: Tất cả người đời đều bảo rằng đến nay ta mới thành đạo (thuật việc xưa còn mê tích). Ta thật thành Phật đã từ na do tha kiếp (chính nói việc khai Tích). Lại hoa rụng là dụ cho bỏ Tích, còn sen thành là dụ cho lập Bản. Văn Kinh nói: Chư Phật Như lai phép đều như thế (dẫn việc đồng chư Phật) vì độ chúng sinh đều là thật không dối (chính nói việc bỏ Tích, bỏ rồi thì Tích không còn, nên nói là đều Thật. Thật chỉ là Bản, Quyền chỉ là Tích. Không phải Hoa sen không lấy dụ về Quyền Thật. Bản Tích Diệu Pháp không phải là Diệu Pháp này nên không lấy dụ ở hoa sen. Ý chỉ của một bộ không nêu ra Bản Tích. Từ trên là văn về Bản môn ba dụ).

Nhập vào sen nên có hoa, hoa thật đầy đủ, có thể dụ cho tức Thật mà bày Quyền (vì sen mà có hoa, hoa áng che Thật, vì Thật mà bày Quyền). Thật ở trong Quyền, thể nó không khác). Hoa nở thì sen hiện, có thể dụ cho tức Quyền mà Thật (Cơ chín thì cần mở, mở cái hay che của nó. Ý mong quả gần gọi đó là che. Bỏ quả gần kia thì gọi là mở, mở cái mở vào, tức là cái hay che kia vậy). Hoa rụng thì sen thành, sen thành rồi cũng rụng, có thể dụ cho không phải Quyền, không phải Thật (Hoa rụng là dụ cho không phải Quyền, sen thành là dụ cho không phải Thật. Mở rồi liền bỏ, lúc đó không có đường nào khác. Mở lý giáo hạnh nhân. Vì đồng một lý nên thật đã lập rồi thì đồng ngầm có ba đức, cho nên biết ba đức không phải là Quyền Thật). Các nghĩa như thế… cho nên Hoa sen dụ cho Diệu Pháp (Diệu Huyền quyển một).

Nói khai Quyền hiển Thật, tức là mở hội Đốn Tiệm trước mà nhập vào chỗ không phải Đốn không phải Tiệm (Tập giải nói rằng: mở cái Đốn của Hoa Nghiêm, cái Tiệm của ba thời. Bốn thời ba giáo đều là chỗ mở không đồng với Hoa Nghiêm. Câm điếc nên không phải Đốn không đồng với ba thời. Thứ lớp nên không phải Tiệm. Nay Kinh khai hiển không thứ nào là không thành Phật. Cho nên nói từng nhập vào chỗ không phải Đốn, không phải Tiệm). Nói Quyền Thật thì tên chung cả xưa nay, nhưng ý nghĩ không đồng (ba giáo trước Quyền Thật bất tức, Đại Tiểu thừa cách nhau. Pháp Hoa thì Quyền Thật không hai, Quyền tức là Thật, ngoài Thật không Quyền. Nghĩa này không giống với Kinh xưa. Quyền Thật tùy thuận, cơ nghi tất đàn gặp nhau mà thôi. Kinh này vì Thật mà bày Quyền thì ý ở tại thật. Mở Quyền hiển thật thì ý ở tại Quyền. Ý này không đồng). Cho rằng Pháp Hoa trờ về trước thì Quyền Thật không đồng, Đại Tiểu thừa cách nhau (Hoa Nghiêm là Đại thừa ngăn cách với Tiểu thừa. Lộc uyển là Tiểu thừa ngăn cách với Đại thừa. Phương đẳng đồng tòa, Đại Tiểu thừa đều nghe. Bát-nhã Dung thông căn cứ vào người mà thành ngăn cách, nghĩa thấy ở Huyền Văn). Như thời Hoa Nghiêm thì một Quyền một Thật (Quyền là Biệt, Thật là Viên, mỗi thứ đều không tương tức nhau. Vả lại lấy Hoa Nghiêm mà luận ba Tiệm, khá biết). Vì sao? Vì bộ Đốn đầu thì một thô một diệu. Một diệu thì cùng Pháp hoa không hai không khác. Nếu là một thô thì cần phải đợi Pháp hoa mở hội bỏ xong, mới bắt đầu gọi là diệu (một diệu mà không khác, thì ước theo giáo hiển thật là đồng nhau. Còn một thô mới được diệu thì điểm lại các cách biệt ở trước tất thấy rõ dung và tức). Kế đến thời Lộc uyển thì chỉ thô mà không diệu (chỉ một tạng giáo). Còn Phương đẳng thì ba thô một diệu (tạng, thông, biệt là thô, còn viên giáo là diệu). Bát-nhã thì hai thô một diệu (thông, biệt là hai thô, viên là diệu, đây trở về trước là ý nghĩa khắp các thời xưa). Kịp đến Pháp hoa hội thượng gồm mở, hội, bỏ bốn vị thô ở trước (mở bốn vị thô ở trước, hội bốn vị thô ở trước, bỏ bốn vị thô ở trước, cho nên chỉ dùng chung một chữ gồm, gọi là mở, hội, bỏ) khiến thành một Diệu thừa (ở bốn thời trước có hai giáo của Nhị thừa, ba giáo của Bồ-tát, Nhân lý giáo hạnh thô thiển sai khác. Đến nay thì Pháp Hoa hoàn toàn vi diệu. Biệt Hạnh Ký nói: Vì Thật mà bày Quyền, khai Quyền hiển Thật; hội Quyền quy thật, bỏ Quyền lập Thật. Thứ Quyền thật này các bộ khác dứt khoát không có, đây là ý nghĩa thời này vậy). Các vị Viên giáo lại không cần mở, vốn tự Viên dung không đợi phải mở vậy (ở Viên Đốn xưa không cần mở mà tự Diệu. Trong thời Hoa Nghiêm thì Phổ Hiền, Phổ Nhãn ba thứ không sai khác tập họp cả Nhiễm Tịnh tất cả đều Viên dung. Tịnh danh khó nghĩ bàn mà lổ chân lông đều dung nạp lưới tư ích sáng suốt. Tư ích khắp bày không đâu không phải là pháp giới. Các pháp Bát-nhã trộn đồng không hai, các pháp viên diệu này cùng với Phật tri kiến của Pháp hoa ngày nay thật không hai không khác, há có thể lại mở ra khiến chúng thành Diệu ư?). Chỉ là kiêm, đản, đối, đới trong bộ, cho nên không bằng Pháp hoa thuần nhất không lẫn lộn, riêng được tên diệu, rất đáng tin vậy (Hoa Nghiêm kiêm ở hàng bố sai khác, Lộc uyển chỉ một thứ thô sinh diệt Phương đẳng Đại thừa đối với Tam tạng là Bán. Còn Bát-nhã có phương tiện đới, thông, biệt. Cả bốn vị này không bằng Pháp Hoa thuần nhất Phật thừa, chỉ nay gọi diệu thì nghĩa là thế).

Cho nên Văn kinh nói: Trong mười phương Phật độ chỉ có một thừa pháp, không hai cũng không ba (chỉ có một thừa Viên Diệu, không có Thông giáo Bán Mãn đối nhau hai thứ, không có ba thừa trong Tam tạng, không có hai Đới của Bát-nhã, không có ba thứ đối nhau của Phương đẳng. Nghĩa này rút ra từ Văn Cú. Kệ thấy ở chương tổng chư Phật. Đây là văn chứng tỏ giáo chỉ có một). Chính gặp lúc bỏ phương tiện chỉ nói đạo vô thượng (ba giáo phương tiện chỉ riêng nói Phật tuệ, là pháp trên hết ở thế gian, là con đường thẳng tắt nhất. Đây là văn giáo chỉ có một trong chương Thích-ca. Nay lấy nghĩa của đạo để chứng cho hạnh chỉ có một. Chỉ nói pháp cho Bồ-tát không nói cho Tiểu thừa (Ngày xưa phương tiện gọi là hóa Tiểu thừa, ngày nay khai hiển thật là Bồ-tát như kẻ cùng tử kia tự cho là khách, Trưởng giả xem thấy thật là con ta, Khai hiển Tiểu thừa làm Phật, cho nên nói rằng không nói cho Tiểu thừa. Bồ-tát thì trên cầu Phật dưới hóa độ chúng sinh, nhân ắt dẫn đến quả. Cho nên nói rằng chỉ gọi Bồ-tát. Đây là theo nghĩa dẫn văn để chứng cho người chỉ có một. Nếu căn cứ vào Kệ ở chương chư Phật thì nói rằng chỉ giáo hóa Bồ-tát. Là pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ (Chúng sinh và chánh giác nhất như không hai, tất cả không ngoài Như, đều lấy Như làm vị. Chánh giác xuất thế cũng lấy Như làm vị, cũng lấy Như làm tướng. Thế gian và chúng sinh lại cũng thế. Tướng thế gian đã thường trụ, há không phải là Lý chỉ có một (thấy trong Văn Cú…).

Thiều nói rằng: Tướng có thể biểu thị bằng cờ xí, vị có thể ở lâu, tướng vị của chúng sinh và Phật không khác, hiển mê tức Lý, Lý tức thường trụ, Phật và chúng sinh luôn khế hợp với Lý đó. Nay lấy chương Phật vị lai để dẫn chứng về Lý chỉ có một. Lúc đó người chưa được diệu chỉ Pháp hoa mà chỉ thấy trong bộ có các ví dụ về ba xe, kẻ cùng tử, hóa thành… bèn cho là không bằng các kinh khác. Bởi không biết việc nên lại sự quyền biến của bốn thời trước để hiển bày ra xe lớn. Chỉ giao phó nghiệp nhà cốt để đến Bảo sở. Nên đến nỗi phải mang lỗi chê bai (từ trên là rút từ Tứ Giáo Nghi, diệu chỉ tức là cái diệu của Tích môn ba lần hiển khai đầy đủ. Lần đầu nói pháp nhắc lại cái quyền biến của bốn thời, hội ba thừa về Nhất thừa, ngài Thân Tử là bậc thượng căn được thọ ký. Lần Kế đến là nói ví dụ nêu rõ ba xe và một xe. Nói ví dụ về pháp trước, bốn vị đại đệ tử bày ví dụ kẻ cùng tử được gia nghiệp, là kẻ trung căn tín giải được thành Phật. Lần ba là nói giáo hóa mười sáu vị Vương tử và các hàng hạ chủng trung gian nay đã được thọ ký. Có dụ hóa thành bảo sở là hàng hạ căn một ngàn hai trăm Thanh văn… được lợi ích. Người không thấy điều đó nên đến nỗi phải chê bai. Như Sư Thanh Lương, Lý Trưởng giả… không biết ý chỉ này bèn cho là không bằng vậy).

Nếu ước về thời gian thì mặt trời đúng ngọ, đứng bóng không nghiêng lệch (Pháp Hoa khai hiển thì ba thừa chín cõi đều được ngộ nhập. Cũng như vầng mặt trời đúng ngọ thì khắp nơi đều sáng. Đó là giờ Dần thì chiếu lên núi cao, giờ Mẹo thì đến hang sâu, giờ Thìn thì chiếu khắp đất bằng, giờ Tỵ chiếu trong vùng vậy. Đời Tống hai vị Pháp sư Nghiễm và Quán cùng Thái tử Hà Thừa Thiên đã luận về nước ở giữa và một bên, y theo chu Lễ dùng một thước năm tấc để trên ngọc khuê, lập ra một cái biểu tám thước đến tiết Hạ chí vào giờ Ngọ mà đo bóng mặt trời, cũng có chút bóng thừa ra nên biết ở phương này không phải là nước ở giữa, cũng vào giờ này thì ở Thiên Trúc bóng không lệch nên biết đó là nước ở giữa, bóng một tấc trên mặt đất bằng cả vạn dặm trên trời. Nay nói bóng nghiêng tức là bóng thừa ra một bên.

Nếu ước theo vị thì từ thục tô sinh ra đề hồ, đây là từ Ma-ha Bát-nhã sinh ra Pháp Hoa (Huyền một – kinh Niết-bàn chỉ nói từ Bát-nhã sinh ra Niết-bàn. Nay Văn Huyền nói sinh ra Pháp Hoa là vì hai kinh đồng một vị nghĩa lập ra đã nói ở đây.

Phẩm Tín Giải nói: Sau đó ít lâu (cách Pháp Hoa không xa) cha biết ý con đã dần thông thái (Cơ không còn cách xa nữa) thành tựu chí lớn (liền phát đại tâm) tự hổ thẹn với tâm trước (muốn cầu Đại Đạo). Nên khi sắp lâm chung (hóa duyên sắp hết) liền bảo người con (đám học trò đã theo học với hai vạn ức Phật) cùng hội họp thân tộc (cả mười phương Pháp thân Bồ-tát có ảnh hưởng, phần lớn đều là đồng nghiệp với Phật Thích-ca ngày xưa) liền tự tuyên nói rằng: Đây là con ta (theo học với ta tức là con ta) đã bỏ ta trốn đi (xưa người này là Đại thừa đã đi vào sinh tử) hơn năm mươi năm (trải khắp sáu thú). Xưa ta ở tại thành này lo lắng kiếm tìm (xưa ở vị Pháp thân thường dùng hai trí quán sát tìm kiếm cơ nào có thể hóa độ) bỗng trong lúc ấy thì được gặp lại (ngày nay mới được cảm ứng đạo giao). Đây thật là con ta, ta thật là cha nó (ta từng ở chỗ hai vạn ức Phật giáo hóa Pháp Đại thừa kết hội với họ làm cha con để định thiên tánh). Nay tất cả bao nhiêu tài vật mà ta có (muôn hạnh muôn đức Đại thừa, hạnh làm nhân, đức làm quả) đều là của của con ta (trước nói chỗ thu vào là chỗ con ta biết chỉ cho Đại Phẩm đã học từ xưa, đã được giao phó Bát-nhã rộng hẹp, cộng và bất cộng pháp. Đây là chính thức giao cho gia nghiệp). Khi kẻ cùng tử nghe cha nói thế, hết sức vui mà thưa rằng: Con vốn không có ý mong cầu điều chi (với Ba tạng thì bản tâm không cầu. Đến Phương đẳng thì tâm thẹn Tiểu thừa mong muốn dứt tuyệt nên không mong cầu. Đến thời Bát-nhã thì tuy lãnh thọ nhưng không cho là phần của mình nên không mong cầu). Nay kho báu này tự nhiên đến (như đây không cầu mà nay tự được).

Đây nên hiểu thế nào? Tức là sau thời Bát-nhã Kế đến nói Pháp Hoa. Trước đã hiểu biết kho tàng các vật, sau không cần nói mà chỉ giao phó gia nghiệp mà thôi. Ví như trước chuyển giao đều biết rõ pháp môn, không cần phải giảng lại Quán pháp, chỉ phá ngay am cỏ cho một xe lớn thọ ký làm Phật (Huyền mười, Thọ là trao cho, Ký là ghi việc. Mở cho Thọ ký đều có chung riêng. Chung là mở cho tất cả chúng sinh đều được làm Phật. Riêng là mở cho kẻ đang nói được ngộ nhập. Chung là ghi cho được A-nậu Bồ-đề. Riêng là ghi rõ tên, nước và kiếp).

Năm thứ bốn mươi sáu (Ất Sửu). Sau khi thành đạo được bốn mươi hai năm Phật nói kinh Pháp Hoa (Cú Ký dẫn luận Pháp Tánh, nói kinh Pháp Hoa có hai chỗ, hai hội. Hội trước là nói ở tại Linh sơn, Hội sau là nói ở trên hư không, sau đó lại trở về Linh sơn, Pháp Hoa lấy vô lượng 61 nghĩa làm tựa, pháp Phổ Hiền hạnh làm kết).

Pháp Hoa Giáo chủ căn cứ theo lập nghĩa của Tứ minh Pháp Hoa nói ba mươi hai tướng gọi là Tôn đặc, vì đó là Pháp thân, ấy là Sinh thân tức Pháp thân nên là Tôn đặc. Đây là ở chỗ khai quyền mà từ thân thấp kém hiện bày cao quý nên nói là Tôn đặc. Long Nữ muốn trình bày cái tướng Quyền Diệu, nên nói Pháp thân đủ ba mươi hai tướng. Mỗi mỗi tướng này đều là lý hiển hiện Pháp thân khắp nơi. Cho nên ba mươi hai tướng thì tướng nào cũng cùng khắp. Pháp đã đủ muôn Đức thì tướng cũng cần phải đủ. Diệu thân này không gọi là Tôn đặc thì còn thân nào nữa. Đây dứt khoát khác hẳn nghĩa Sinh thân của Tịnh giác đã định. Đến như tức một mà luận ra ba, thì chỉ ba mươi hai tướng diệu lực Như Lai, nếu là Tam tạng thì thị hiện có phần ngang nhau gọi là Sinh thân. Cũng với ba mươi hai tướng diệu lực của Như Lai mà từ chung nhập vào cơ riêng thì thị hiện có phần không bằng nhau gọi là thân Tôn đặc. Cũng với ba mươi hai tướng diệu lực của Như Lai ấy vì Viên giáo Cơ thì thị hiện mỗi mỗi tướng tức là Pháp môn Bản Tánh Sở Cụ gọi là Pháp thân. Do ba Cơ cảm với Như Lai thì tức là một thân mà hiện ra ba tướng.

Năm thứ bốn mươi bảy (Bính Dần), năm thứ bốn mươi tám (Đinh Mão), năm thứ bốn mươi chín (Mậu Thìn). Vua Tịnh Phạn bệnh nặng, nghĩ muốn gặp các con. Khi đó Phật ở tại thành Vương xá cách đó năm mươi do-tuần (Vua cha cai trị nước Ca-duy-la, còn thành Vương xá ở nước Ma-kiệt-đề đều thuộc Trung Ấn Độ, nay nói năm mươi do-tuần tức cách khoảng hai ngàn dặm) bảo Nan-đà, A-nan và La-vân cùng dùng thần túc đến cung vua. Khi bay lên không trung thì phóng luồng ánh sáng lớn chiếu đến thân vua đang bệnh liền được an ổn. Đức Phật lấy tay rờ trán vua nói rằng: “Vua cha giữ tịnh giới, tâm cấu đã lìa, nay nên vui vẻ lắng nghe kinh pháp.” Khi ấy vua cha đang nằm, chắp tay có ý đảnh lễ thì liền mạnh chung. Các người họ Thích tẩm liệm xong liền đặt quan tài trên tòa Sư tử. Đức Phật và Nan-đề để tang đứng ở đầu quan tài còn A-nan và La-vân dưới chân. Vì muốn dạy kẻ bất hiếu đời sau nên Phật muốn đích thân khiêng quan tài. Bấy giờ đại thiên thế giới tất cả đều rung động. Các trời dục giới và rồng quỷ thần đều đến dự tang lễ. Khi ấy trời Bốn Thiên vương quỳ xuống xin được khiêng quan tài, các vị ấy đều biến thành hình người, Đức Thế Tôn tay bưng lư hương đi trước, cùng đưa đến mộ. Còn một ngàn La-hán ra đến bờ biển thì chất củi Chiên-đàn thơm ngát và đốt quan tài. Các Vương tử thu nhặt hài cốt để trong bình vàng, rồi xây tháp cúng dường. Phật bảo chúng hội rằng: Vua cha vì tịnh hạnh nên sinh lên cõi trời Tịnh cư (theo Tịnh Phạn Vương Nê-hoàn Kinh, người sinh ở Ngũ tịnh cư thì được quả A-na-hàm).

Xưa vua Ba-tư-nặc (Vua nước Xá-vệ) cầu hôn với Ma-ha-nam dòng họ Thích. Nhà này đem đứa tớ gái gả cho và sinh một con trai tên là Lưu Ly. Năm lên tám tuổi Lưu Ly về quê ngoại để học võ thuật. Lúc đó ở đấy mới xây một giảng đường định mời Phật và chư Tăng đến giảng thuyết, Lưu Ly không biết lên ngồi trên tòa Sư tử. Các người họ Thích giận mắng rằng: “Mày là con kẻ hầu sao dám vào đây mà ngồi?”, bèn đánh té xuống đất. Về sau khi lên ngôi vua, Lưu Ly bèn dẫn binh đánh dòng họ Thích. Ngài Mục-liên ba lần bạch Phật, Phật nói: “Đó là duyên kiếp trước nay phải chịu quả báo.” Vua Lưu Ly vào thành bắt các người họ Thích đem chôn chân xuống đất rồi cho voi đạp lên giết chết. Có đến chín ngàn chín trăm chín muôn người, máu chảy thành sông. Lại chọn năm trăm gái đẹp định đem về làm thiếp. Có một nàng mắng rằng: “Ta đâu thèm lấy con của tỳ nữ.” Cả năm trăm người đều mắng thế. Lưu Ly cho chặt tay chân của cả năm trăm người rồi quăng xuống hầm. Khi trở về nước Xá-vệ, anh là Thái tử Kỳ-đà ra chào. Vua Lưu Ly hỏi: “Ta đi đánh bọn họ Thích, vì sao không theo tiếp ta?”. Kỳ-đà đáp: “Tôi không thể giết hại chúng sinh được!” Vua liền rút kiếm giết chết Kỳ-đà. Ông này chết rồi được sinh lên cung trời Đaolợi. Cả năm trăm cô gái kia than oán vang đến tai Phật. Phật đến bên nói pháp, cả bọn đều chứng Pháp nhãn tịnh, khi chết được sinh lên trời. Đức Phật trở về vườn Cấp cô độc bảo các Tỳ-kheo rằng: “Bảy ngày nữa Lưu Ly và cả binh lính sẽ chết hết”. Đến sáng ngày thứ bảy, vua cùng binh lính kéo đến bờ sông vui chơi. Bỗng nhiên trời sấm sét mưa to gió lớn, vua và binh lính đều bị nước cuốn trôi. Chết rồi liền đọa vào địa ngục A-tỳ (Hán dịch là Vô cứu). Phật nhân đó nói cho các Tỳ-kheo biết là do nghiệp đời trước các người họ Thích đã bắt cá giết chết, nay phải chịu quả báo như thế (kinh Trường A-hàm, theo kinh Hưng Khởi Hành nói thì: Ở quá khứ tại thành La-duyệt có một ao rất nhiều cá. Người trong thôn đến bắt. Cá nhảy lên bờ trốn đi. Có một con cá tên Du, một con tên Đa Thiệt, cùng bảo nhau: “Bọn ta không có lỗi gì mà họ đến bắt giết ngang, đời sau ta quyết phải báo thù.” Đám nam nữ trong thôn lúc ấy nay chính là các người họ Thích, còn con cá Du kia chính là vua Tỳ-lâu-lặc (Lưu Ly), Đa Thiệt thì nay là quan tướng quốc tên Ác Thiệt. Lúc đó ta là một cậu bé thấy cá nhảy đi thì vui mừng lấy gậy đánh vào đầu cá. Nên khi vua đánh dòng họ Thích thì ta nhứt đầu. Khi vua Lưu Ly giết các người họ Thích thì A-nan rất sầu khổ liền đến chỗ Phật nói rằng: Con và Như Lai cùng dòng họ Thích, vì sao Như Lai sắc mặt vẫn rạng rỡ như thường? Phật bảo: Ta tu Không định, ba năm nữa thầy hãy trở lại hỏi ta (kinh Niết-bàn). Ngài Mục-liên đem bốn, năm ngàn người họ Thích mà ngài quen biết bỏ trong bình bát đem giấu trên hư không. Khi vua Lưu Ly kéo quân về, Phật bảo lấy bát ra xem thì tất cả người trong bát đều chết. Nhân đó Phật nói pháp vô thường. Vô số người đều chứng quả Tu-đà-hoàn (kinh Pháp Cú Dụ).

Năm thứ năm mươi (Kỷ Tỵ), năm thứ năm mươi mốt (Canh Ngọ), năm thứ năm mươi hai (Tân Mùi). Mùa Đông tháng mười một đã đến, Phật ở tại giảng đường nhiều lầu của tinh xá Đại lâm, ở nước Tỳ-xá-ly bảo các Tỳ-kheo rằng: Ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn, liền nói cho họ nghe kinh Phổ Hiền Bồ-tát Hành Pháp.

Lời thuật rằng: Thần Chiếu Kinh Sớ nói rằng: Tháng Kiến Tý đã đến dạy chúng hành pháp là phần kết của kinh, thì biết chỉ nói Pháp Hoa trong bảy năm thôi. Nay theo phần kinh đã khai hiển, lại hai kinh Đồng vị nên gọi chung là tám năm.