PHẬT TỔ NGŨ KINH
Dịch giả: HT. THÍCH HOÀN QUAN

D:\Tạng Thư Phật Học\PDF convert\Phật Tổ Ngũ Kinh\media\image2.pngCHÂN DUNG HÒA THƯỢNG
HOÀN QUAN THÍCH GIẢI NĂNG

KINH THẬP THIỆN

(CHÚ GIẢI)

LỜI DỊCH GIẢ

Trải qua thời gian phục vụ Đạo pháp chuyên lo giáo dục Tăng Ni,, tôi hằng nghĩ đến hai vấn đề: Phương pháp giáo dục và bài vở soạn dạy, nó phải luôn luôn được cải tiến để đáp ứng nhu cầu hiện tại và theo kịp đà giáo dục tân tiến ngày nay.

Riêng về các lớp Trung Tiểu học Phật giáo, tôi nhận thấy không thể loại bỏ hẳn các Kinh bằng Hán tự được, nhưng cũng không thể đem cả bản Kinh chữ Hán ra dạy như cách dạy hơn mười năm về trước, vì những lý do sau đây:

Một, hiện nay chúng ta chưa có ba tạng Kinh điển bằng Việt ngữ.

Hai trình độ Tăng Ni sinh hiện giờ rất kém về Hán tự.

Ba, hiện nay Tăng Ni sinh không phải chỉ chuyên lo học kinh điển như trước kia, mà còn phải lo học cả các môn thế pháp như: toán,, lý, ,hóa v.v… để “giật lấy mảnh bằng’,…)nếu dạy theo lối cổ điển như thời kỳ chúng tôi còn ngồi “mài” trên ghế Phật Học Đường, thì chắc không có một ai theo học.

lẽ đó mà lối day kình điển cần phái diỉợc cái tiến. Chúng ta phai làm sao cho các Tăng Ni sinh sau khi

mãn Trung học Phật giáo; có một số vốn Hán tự khả dĩ nghiên cứu được những bộ Kinh khác; giúp cho Tăng Ni sinh kém Hán văn vẫn học Kinh bằng chữ Hán và thấu triệt được một cách dễ dàng; giúp các Tăng Ni sinh có đủ thì giờ vừa học chương trình Phật pháp vừa theo chương trình thế pháp mà không phủi e ngại trước hai chương trình quá, nặng nhọc,

Để thỏa mãn các nhu cầu cấp thiết trên, tôi tuy tự biết khả năng mình có giới hạn, nhưng trong thời gian đảm nhận dạy tại các Viện Phật Học, vẫn cố gắng đem những Kinh Luận có trong chương trình, soạn dịch ra thành từng bài, để thỏa mãn phần nào trong nhu cầu hiện tại và góp một phần nhỏ vào công việc đào tạo Tăng tài, xây dựng Đạo pháp.

Vì lẽ đó, mà hôm nay bộ Kinh THẬP THIỆN này ra mắt các bạn, tôi không tham vọng gì hơn là giúp các bạn Tăng Ni sinh có đủ sách học tập, để khỏi biên chép mất thì giờ, và củng để giúp phần nào cho các bạn mới bước chân vào ngành Phật sự bạc bèo này.

Thể thức trình bày các bài trong bộ Kinh, chúng tôi trình bày theo lối một bài giảng văn ngoại ngữ:

Trước tiên là nguyên văn chữ Hán của bản Kinh, kế đó là phần dịch nghĩa rồi đến phần giải thích từ ngữ, sau là đại ý của bài; cuối cùng là giảng giải ý Kinh.

Theo thể thức này ,chẳng những Tăng Ni sinh dễ dàng thấu triệt từng bài học của mình, mà người dạy cũng thâu lượm được nhiều kết quả.

Ngoài ra, khi soạn dịch bộ Kinh này, chúng tôi còn nhắm vào hai mục đích sau đây:

Một là giúp tài liệu cho các vị Trụ trì, không đủ phương tiện gởi đệ tử vào các Phật Học Viện để thụ huấn, có thể theo đây mà dẫn dắt con em trên đường tu học.

Hai là giúp các vị cư sĩ mới vào đạo, muốn tìm hiểu, nghiên cứu Phật pháp rất tiện lợi, vì nó là một bộ Kinh căn bản cho tất cả pháp môn tu hành, nền tảng của Tam thừa Thánh quả.

Mặc dù chúng tôi đã cố gắng trong công việc biên soạn này, nhưng không sao tránh khỏi sự thiếu sót, vụng về, vậy kính mong các bậc cao minh vui lòng chỉ giáo cho, chúng tôi rất cảm tạ và sẽ cố gắng trong kỳ tải bản sau này cho được hoàn hảo hơn.

Sa Môn THÍCH HOÀN QUAN

LỜI NÓI ĐẦU

A. KHẾ LÝ VÀ KHẾ CƠ

Hôm nay giảng Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, trước khi giảng Kinh văn, tôi xin bàn qua mấy lời ở đầu Kinh.

Tất cả kinh điển của Phật giáo đều gọi là Khế Kinh, nghĩa là khế lý và khế cơ. Tất cả giáo pháp của Phật đều kiến lập trên nguyên tắc này. Chữ khế là hợp. Khế lý là hợp với chơn lý của tất cả pháp: Pháp tánh, Pháp tướng chơn thật của muôn sự muôn vật, chính là trí huệ tuyệt đối của Phật, tự mình chứng được rồi đem chỗ thân chứng ấy mà khai thị chúng sanh, khiến cho đều được chứng nhập. Ấy là Phật y theo nguyên tắc khế lý mà thuyết pháp. Khế cơ là hợp với thời tiết, nhân duyên, căn tánh từng chủng loại. Nghĩa là Phật tìm những phương tiện thích hợp với chúng sanh mà nói pháp, khiến cho chúng sanh đều được giác ngộ. Đủ hai nghĩa như trên mới gọi là Khế Kinh.

Nay y cứ vào hai nghĩa ấy mà nói nghĩa đại khái của Kinh này.

I. THẬT NGHĨA CỦA KHẾ LÝ

Thật nghĩa của Khế lý là nghĩa chơn thật của chơn lý khế hợp với các Pháp tánh tướng.

Sự khế hợp thật tướng của chơn lý này, không vì thời gian mà thay đổi, không vì bờ cõi mà sai khác; không luận thời đại nào, dịa phương nào, chủng loại nào, cũng đều là như thế cả.

Nay xin chia làm ba đoạn để thuyết minh thật nghĩa Khế lý của Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.

1. THẬP THIỆN NGHIỆP LÀ MỤC TIÊU CỦA THIỆN HẠNH THẾ GIAN VÀ XUẤT THẾ GIAN

Nghiệp (Karma) là hành vi, mười Thiện nghiệp là:

Thân nghiệp, có ba: Không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục.

Ngữ nghiệp, có bốn: Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói ác khẩu, không nói thêu dệt.

Ý nghiệp, có ba: Không tham lam, không sân hận, không ngu si tà kiến.

Hợp cả thân, ngữ, ý thành mười nghiệp lành, trái lại là mười nghiệp ác.

Nghiệp không nhứt định là lành hay là ác mà cần phải xem tánh chất của nó mới minh định được. Nếu trong tâm thiện thì phát ra hành vi lợi lạc chúng sanh, ấy là Thiện nghiệp; nếu trong tâm ác thì phát ra hành vi sẽ tổn hại chúng sanh, ấỵ là ác nghiệp. Nếu muốn biết thiện hay bất thiện của mười nghiệp về thân, ngữ, ý, ta phải xét đến kết quả về tương lai tốt hay xấu.

Mười diều thiện này không những là Thiện hạnh của thế gian mà còn là cơ bản của xuất thế gian nữa, nên trong Kinh Phật luôn luôn nói đến. Vì thế mà mười điều thiện này là Đại Tổng trì (Đại-đà-la-ni) của tất cả Thiện hạnh thế và xuất thế.

Thế gian do mười Thiện hạnh này mà được quả tốt nhơn thiên. Loài Trời là chúng sanh ở thế giới tốt đẹp hơn loài người cũng do tu hành mười Thiện nghiệp mà được thành tựu. Tóm lại, tất cả phúc báu ở cõi Trời và cõi Người đều do tu mười Thiện nghiệp mà được.

Thông thường, trong Phật pháp, người ta cho những hành vi đạo đức của loài người là Ngũ giới: Không sát, không trộm…chỉ muốn sanh về cõi Trời thì mới cần đủ hành vi đạo đức của mười điều thiện. Từ cõi Dục trở lên cõi Sắc và Vô Sắc, ai muốn sanh lên đó, mặc dù đều phải tu Tứ thiền, Bát định, nhưng cũng phải căn cứ trên mười Thiện nghiệp này.

Đến như nghiệp xuất thế siêu thoát tam giới để thành quả Tam thừa: Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát Bồ-đề cùng không thể không lấy mười Thiện nghiệp này làm căn bản mà được thành tựu. Vì thế mà giáo pháp Đại thừa đều thâu nhiếp vào mười Thiện nghiệp. Nhờ giới mà sanh định,, nhơn định mà phát ra trí huệ. Vị thứ hai là Ly Cấu Địa trong Bồ Tát vị chính là do tu mười điều thiện này mà thành tựu đạo nghiệp,nghĩa là do giới tăng thượng mà thành định, tức là thân tu mười Thiện nghiệp, đến phần vi tế ác nghiệp nơi thân, ngữ, ý cũng đoạn trừ tận gốc. Tâm không tán loạn và được an ổn, chính là nhờ tu mười Thiện hạnh rồi tiến sâu từng công

phu một. Đến như khi từ định thành huệ thì cuối cùng sẽ đả phá được vô minh tà kiến, Vô lậu trí huệ phát sanh, đây chính là cái đạo cứu cánh của mười Thiện nghiệp.

Vì lẽ đó mà nghiệp quả xuất thế thanh tịnh của bậc Tam thừa cũng bao quát trong mười Thiện nghiệp. Đây là lý thú chơn thật của Thập Thiện Nghiệp Đạo.

2. THẬP THIỆN NGHIỆP LẢ CHÁNH NHƠN TẠO THÀNH THIẾN QUỐC Ở NHÂN GIAN

Con đường thiết thực nhứt để biến đổi nhân gian trở thành Lạc quốc là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nếu muốn đạt được mục đích đưa nhân loại đến chỗ an lạc, không thể không thực hành Thập Thiện mà thành tựu. Hiện tại thế giới đánh giết lẫn nhau đều do buông lung làm mười điều ác, chẳng làm mười điều thiện. Giả sử ai ai cũng thực hành mười điều thiện thì thế giới này lập tức biến thành thế giới an lạc.

Các nhà tư tưởng trên thế giới, không luận là các nhà truyền giáo, các nhà học vấn trong mọi ngành, đều nuôi hy vọng tạo thành một thế giới an lạc tương thân tương ái không cần tìm những phương pháp xa vời, chỉ cần thực hành mười Thiện nghiệp thì cảnh Thiên quốc của Thánh Hiền xưa nay và lý thuyết đại đồng bên Trung Quốc cũng như lý tưởng thế giới hoàng kim của người Tây phương đều thực hiện không khó vậy. Chúng ta chỉ cần đem mười ác nghiệp đổi thành mười Thiện nghiệp thì tức khắc biến thế giới năm trược này thành ra Lạc quốc thanh lương. Đây là điều mong muốn không thể chần chờ của thế giới nhân loại ngày nay.

Ngài Lô Sơn Huệ Viễn Đại sư bảo rang: “Mười Thiện nghiệp này, nếu có thể từ một nhà, một làng, đến một quốc gia mà thực hành thì lập tức phong tục thuần mỹ, hình phạt bãi bỏ, trở thành một nước thái bình thịnh vượng…”. Đức Phật nói trong bốn châu chỉ có nhân dân ở Bắc Câu Lô Châu là phước lạc tự tại hoìì cả cũng đều nhờ kết quả tu mười Thiện nghiệp. Phật lại nói: Khi Chuyển Luân Thánh Vương ra đời thì bốn biển thanh bình, thiên hạ an lạc và nhân dân ai ai cũng tu hành Thập thiện. Chừng ấy bằng cớ cũng đủ chứng minh cho Đạo lý này vậy.

3. THẬP THIỆN LÀ CĂN BẢN CỦA Bổ ĐỂ NIẾT BÀN

Hai quả Chuyển y Bồ-đề Niết-bàn của Tam thừa đều lấy Thập thiện làm căn bản. Vì mười Thiện nghiệp có công năng ngăn đón các hành vi độc ác, đối trị tất cả hành vi bất thiện, giải thoát tất cả khổ sanh tử, chứag được quả Đại Niêt-bàn. Đoạn trừ hết mầm móng của mười ác nghiệp thì công đức mười Thiện nghiệp phát triển đến cực điểm. Lại đem mười Thiện nghiệp độ khắp tất cả chúng sanh trong thế gian, tức là viên mãn quả Đại Bồ-đề. Đây là một định luật. Thật vậy, không thể nào không viên mãn mười Thiện nghiệp mà có thể chứng được đạo quả Tam thừa.

II. ỨNG CƠ ĐỐI TRỊ

Đức Phật thuyết pháp bao giờ cũng thích hợp với căn cơ của chúng sanh. Nay giảng Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo này cũng ứng cơ mà đối trị để cứu vãn phần nào sự ldiố não thảm khốc của thế giới. Vì muốn đem sự khỏ não thảm khốc kia chuyển thành an lạc thì phi Thập Thiện Nghiệp không thể được. Ở đây cũng có ba phần:

1. ĐỐI TRỊ BỆNH Ỷ LẠI BÊN NGOÀI QUÊN MẤT PHẦN MÌNH

Thế giới hiện tại đang ở trong tình trạng căng thẳng, luôn luôn đe dọa nhân loại ,lại thêm thiên tai nhân họa làm điêu đứng con người, sự thống khổ không biết đến đâu là cùng. Những phương pháp cứu vãn thiết thực nhứt là thực hành mười Thiện nghiệp; chứ không ngồi oán trời trách người, cũng không cần hướng cầu bên ngoài, trách nhiệm là ở nơi mình mà thôi. Không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh hoặc người nào, hoặc xã hội bất lương, hoặc bắt tội điều kiện vật chất không đầy đủ. Giả sử trên thế giới này, ai ai cũng có tư tưởng ỷ lại thì chắc chắn không có người nào dám đứng ra chịu trách nhiệm. Lại còn có những hạng người chẳng cầu nơi người hay ở nơi vật mà đi cầu đạo với Thượng Đế, quỷ thần cho đến tin Phật mà cũng không ngoài mục đích cầu khẩn ấy. Họ chẳng biết rằng cái ý nghĩa chơn chánh của Phật pháp là mỗi người tự hiểu rõ lý nhân quả đúng như pháp để trở lại cầu ở nơi mình.

Như khi Phật còn tại thế, đường đệ của Ngài là ông A Nan, cứ ỷ lại vào Phật để Phật ban cho phép “Tam Muội”, không chịu lo tu tập, đến phải mắc nạn Ma Đăng Già. Ông A Nan là bậc đa văn đệ nhứt trong hàng đệ tử của Phật mà còn không thể ỷ vào Phật được. Như thế đủ biết trong Phật pháp, trách nhiệm là hoàn toàn tại nơi mình; nếu bỏ nơi mình đi cầu với thiên thần quỷ vật mà muốn cải tạo thế giới xã hội, điều đó quyết không bao giờ được! Còn như trước đem mười ác nghiệp nơi tự tâm dổi thành mười Thiện nghiệp, rồi sau cầu Phật thì mới có hiệu quả. Xưa đức Khổng Tử bệnh, ông Tử Lộ xin Ngài cầu đảo, Ngài bảo rằng: “Khưu này cầu đạo đã lâu rồi”. Như thế, đủ biết hướng bên ngoài mà cầu với tạo vật quỷ thần là việc làm không có lợi ích. Điều cốt yêu là tu chính nơi mình và khuyên mọi người thực hành mười Thiện nghiệp, mới mong vãn hồi được nhân tâm thế đạo.

2. ĐỐI TRỊ NHỮNG HẠNG NGƯỜI MẮC BỆNH NÓI HAY LÀM DỞ

Hiện nay có những hạng người ý nghĩ và lời nói có vẻ phi thường, đưa ra nhiều lý luận cho là siêu phàm, nhập Thánh, nhưng xét trên việc làm thực tế thì không có gì là siêu phàm cả. Ngay nơi lời nói và việc làm tầm thường, họ cũng chưa hề làm đến. Chỉ có nói khoác một cách ngây dại và nó đã trở thành thông bệnh của nhân loại ngày nay. Người ta cũng hô hào, đề xướng ra những lý thuyết này hay lý thuyết khác, nhưng trên sự thực hành càng không đem lại một kết quả nào. Thật là nguy hiểm! Họ chỉ biết khoe khoang lớn lối mà không nhìn lại sự thực hành, như thế mà đem ra trị đời thì càng trị thì càng rối. chẳng khác nào đội một tảng đá ngàn cân mà nhảy múa trong đám đông thì không làm sao tránh khỏi sự nguy hại cho mọi người chung quanh và cả chính mình nữa.

Chẳng những việc trị đời như thế mà việc học Phật cùng không khác. Như có một bọn cuồng thiền chỉ biết lớn lối khoe khoang ngoài đầu môi chót lưỡi, không biết kiêng kỵ, sợ sệt gì hết, tự cho mình là Phật, rồi tha hồ đàm huyền, thuyết diệu mà cử chỉ thì không hợp với đạo chút nào. Muốn trị cái bệnh điên cuồng ấy? cần phải thực hành theo mười Thiện nghiệp. Trái lại dù cho nhà đại kỹ thuật thấy rộng, nghe nhiều cũng chỉ là cái nhân đọa lạc chứ không thể nào thành được hạnh Bồ Tát của một chơn chánh Phật tử.

3. ĐỐI TRỊ NHỮNG HẠNG NGƯỜI CÓ BỆNH THAM VỌNG CAO, TÀI ĐỨC KÉM

Hiện tại có những hạng người, chí lớn sánh với trời cao mà tướng mạng mỏng như tờ giấy, đã chẳng chịu tự lo trau giồi đức hạnh lại còn luôn luôn có ý đè ép mọi người để tự đưa mình lên. Nếu chẳng biết thay đổi cõi lòng chuyên tu Thiện nghiệp để vun bồi phúc đức thì càng đưa mình lên chừng nào càng hạ thấp mình xuống chừng ấy, không còn cách cứu gỡ.

Tâm cao vọng không phải là xấu, mà cốt phải vun bồi phúc đức. Như công đức Phật quả và oai lực Thiên Long cũng đều do phúc đức mười Thiện nghiệp mà thành tựu. Nếu tâm chỉ tham vọng cao xa mà chẳng tu Thiện nghiệp vun trồng phúc đức thì trọn ngày chỉ lẩn quẩn trong vòng phiền não mà chẳng đem lại một kết quả tốt đẹp nào, lại còn tự lao mình vào con đường tự sát nữa cũng nên.

Xưa có một vị Pháp sư giảng Kinh rất hay mà người nghe không thích, sau gặp một vị Thánh Tăng bảo rằng: Nhà ngươi vì thiếu phúc đức, từ nay nêri tu phúc đức, làm nhiều việc lợi tha. Pháp sư ấy y theo lời dạy thực hành, về sau thuyết pháp quả rất được nhiều người nghe. Vì thế, thiết tưởng ở đời ai muốn thành tựu được đại nghiệp, ắt cần phải tu bồi nhiều phúc đức, tu tập mười Thiện hạnh lợi mình lợi người.

B. GIẢI THÍCH ĐỀ KINH VÀ ĐỀ DỊCH

I. GIẢI THÍCH ĐỀ KINH

Đại khái giáo điển Đạo Phật chia làm ba tạng: Kinh, Luật và Luận. Đây thuộc về Kinh tạng.

Như trước đã nói, Kinh là Khế Kinh. Nghĩa là những lời giáo huấn của Đức Phật lúc nào cũng hợp lý, hợp cơ, không thể đổi dời. Kinh này do Phật nói ra nên gọi là Phật thuyết. Phật đây chính là ứng thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sanh ở Trung Ấn Độ, đầy đủ vô lượng công đức cứu cánh viên mãn đồng với hư không, khắp cùng pháp giới, ai cũng tôn kính. Thích Ca là họ Ngài, Trung Hoa dịch là Năng Nhân. Mâu Ni là tên Ngài, Trung Hoa dịch là Tịch Mặc, y theo bản nguyên, thuận với cãn cơ chúng sanh mà khai thị tế độ nên nói ra Kinh này và lấy tên là THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH. Mười diều thiện sẽ giảng ở Kinh văn. Chữ NGHIỆP tức là hành vi, là những hành vi về đạo đức học, về luân lý học. Theo Phật pháp có thể gọi nó là THIỆN HÀNH HỌC. Muốn định nghĩa chữ THIỆN NGHIỆP cần phải căn cứ vào những hành vi đối với không gian có lợi ích cả mình lẫn người. Trái lại, nếu chỉ biết lợi mình, không nghĩ đến kẻ khác hoặc là tham lợi trước mắt, chẳng nghi hại về sau, đều thuộc về ác nghiệp cả. Lấy mục đích lợi tha Thiện nghiệp làm lợi ích cho đại chúng, kết quả cả mình và người đều lợi. Lấy mục đích hại tha ác nghiệp làm tổn não đại chúng, kết quả người và mình đều hại. Nội dung của thiện ác đại khái là như thế. ĐẠO là con đường đi, có nghĩa là thông suốt. Thập Thiện Nghiệp là con đường bằng phẳng sáng suốt, chẳng phải như thập ác nghiệp là con đường tối tăm nguy hiểm. Nếu ai đi trên con đường Thập Thiện Nghiệp chắc chắn gần, thì đến được Lạc quả nhân thiên, xa thì đến được Thánh quả Tam thừa. Cho nên gọi là Thập Thiện Nghiệp Đạo.

II. GIẢI THÍCH ĐỀ DỊCH

Kinh này Phật nói dưới Long cung chép bằng Phạm văn. Đời nhà Đường, Ngài Thiệt Xoa Nan Đà nước Vu Điền dịch ra văn Trung Hoa. Nước Vu Điền tức là tỉnh Tân Cương bây giờ, về đời Đường chưa thuộc về bản đồ Trung Quốc. Ngài thông cả Tam tạng, đã từng dịch Kinh Bát Thập Hoa Nghiêm. Đồng thời cũng có Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng Pháp Sư dịch Kinh này và lấy tên là THUYẾT HẢI LONG CUNG ĐẠI TẠNG KINH. Do đó, ta có thể tin chắc Kinh này đối với lịch sử đúng sự thật do Phạm vãn dịch lại.

BÀI I

DỊCH NGHĨA

A. PHẦN CHỨNG TÍN

Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Phật ở tại Long Cung Ta Kiệt La, cùng tám ngàn chúng Đại Tỳ-kheo, ba vạn hai ngàn các vị Đại Bồ Tát đồng tụ hội.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói sáu món chứng tín, để cho chúng sanh tin thọ. Sáu món chứng tín là:

  1. Tín thành tựu: Như vầy
  2. Văn thành tựu: Tôi nghe
  3. Thời thành tựu: Một thuở
  4. Chủ thành tựu: Phật
  5. Xứ thành tựu: Long cung
  6. Chúng thành tựu: 8 ngàn Tỳ-kheo,3 vạn 2 ngàn Bồ Tát.

GIẢI THÍCH

Đoạn văn này là phần mở đầu, phần tự, cũng gọi là phần Chứng Tín. Dẫn sáu bằng chứng để làm tincho Kinh này: Ai nói? Ai nghe? Nói lúc nào? Nói tại đâu? Vì ai mà nói? Đây là lời Ngài A Nan khi kiết tập kinh điển ghi để vào.

Như vầy: Chính là chỉ Kinh này.

Tôi nghe: Ngài A Nan tự xưng, nghĩa là chính Ngài được nghe Phật nói chớ không phải bịa đặt hay nghe người khác nói lại.

Một thuở: Thời gian thích hợp Phật cần để nói Kinh này, người nói và người nghe đều được ý hiệp. Ở đây sở dĩ không ghi năm, tháng, ngày, giờ là vì mỗi quốc độ niên lịch khác nhau nên không cần ghi rõ.

Long cung: Chính chỗ Phật nói Kinh này.

Phật: Chi Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài là Giáo chủ đời hiện tại, chính Ngài nói Kinh này.

Ta Kiệt La: Trung Hoa dịch là “Hàm hải”, ở dưới biển nước mặn có cung điện Long vương, chúa của loài rồng ở đó.

Trong Kinh Phật thường nói đến loài rồng cùng với loài rồng mà thông thường người ta nói có thế làm mây làm mưa được có khác. Theo trong Kinh Phật nói, loài rồng có: Thiên long, Không long, Lục long, Hải long. Ở đây chính là loài Hải long.

Người ta cho rằng: Long là một loài động vật có đủ Thần thông biến hóa. Các nhà động vật học khảo cứu các loài động vật ở trên lục địa về thời cổ, cũng thừa nhận là có loài long. Người ta còn cho rằng: Có một thời kỳ loài long đã làm chủ nhân ông của loài người.

Hiện nay ở Phi châu, thỉnh thoảng người ta còn tìm thấy một vài di tích của loài long ở trên cạn, nên chúng ta tin chắc có loài long. Nhưng chỉ vì loài long phần nhiều hoặc ở giữa hư không hoặc dưới đáy biển,toàn là những nơi mà năng lực loài người chưa đi đến, cho nên không thể nào trực tiếp biết được.

Đức Phật và chúng Thanh Văn đại đệ tử của Phật khi xưa có năng lực tùy loại thuyết pháp, nên chỗ thuyết pháp của Phật thường thường hoặc là Thiên cung, hoặc là Long cung, hoặc là Nhân gian, hoặc trong Thiền định. Kinh này Đức Phật nói tại Long cung của Ta Kiệt La, đồng thời có tám ngàn chúng Đại Tỳ-kheo và ba vạn hai ngàn các vị Đại Bồ Tát ở khắp mười phương đều đến dự thính.Có pháp chúng đồng nghe đông nhiều như thế, đủ để chúng ta tin thọ hành trì.

D:\Tạng Thư Phật Học\PDF convert\Phật Tổ Ngũ Kinh\media\image1.png

BÀI II

DỊCH NGHĨA

B. PHẦN CHÁNH THUYẾT

I- NGHIỆP QUẢ THẾ GIAN XUẤT THẾ GIAN

1. TỪ NƠI NHÂN MÀ NÓI QUẢ

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Long Vương rằng:

“Tất cả chúng sanh vì tâm tưởng khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau, do đó nên có sự lưu chuyển các thú.

2. TỪ NƠI QUẢ MÀ NÓI RÕ NHÂN

“Này Long Vương! Nhà ngươi có thấy ở trong hội này và các loài ở trong đạỉ hảỉ, hình sắc chủng loại, mồi mỗi khác nhau không? Tất cả như thế ấy
đều do tâm tạo thiện hay bất thiện nơi thân, ngữ và ý nghiệp mà gây ra”.

GIẢNG NGHĨA

Bấy giờ: Chỉ thời gian thuyết pháp.

Thế Tôn: Chỉ Đức Phật (một trong 10 hiệu: 1. Như Lai, 2. Ứng Cúng, 3. Chánh Biến Tri, 4. MinhHạnh Túc, 5. Thiện Thệ, 6. Thế Gian Giải, 7. Vô Thượng Sĩ, 8. Điều Ngự Trượng Phu, 9. Thiên Nhân Sư, 10. Phật Thế Tôn. Nếu khai Phật và Thế Tôn ra thì thành 11 hiệu; ở trong Luận Thành Thật lại hiệp Vô Thượng Sĩ và Điều Ngự Trượng Phu làm một thì đúng là mười hiệu). Vì ở đời ai cũng tôn xưng nên gọi là Thế Tôn.

Long Vương: Chỉ cho vị chúa tể ở Long cung.

ĐẠI Ý

Văn trên Phật nói nghiệp quả thế và xuất thế gian. Gồm có năm đoạn. Bài này có hai đoạn:

  1. Căn cứ vào nhân mà nói đến kết quả.
  2. Ngay nơi quả mà Phật chỉ rõ nguyên nhân.

GIẢI THÍCH

Tâm là Tâm vương, Tưởng là 51 món Tâm sở. Tâm vương, Tâm sở của chúng sanh trong Tam giới, Cửu địa, Ngũ thú, Tứ sanh không đồng nhau, nên hành vi có sai biệt, do đó mà quả báo cũng không đồng. Vì thế mà trên khuôn mặt của mỗi người không ai giống ai cả.

Ta nên biết rằng: Thân hành động, miệng nói năng, ý suy nghĩ đều do Tâm làm chủ; nên người ta thường bảo: “Hễ trong tâm thế nào thì hiện ra hành vi thế nấy”. Nếu hành động mà không dụng công của tâm thì không thành thiện ác. Hiện nay các nhà

Luân lý học cũng đều thừa nhận như thế. Do vì tâm tưởng không đồng nên hành vi tạo tác cũng không đồng, thành ra có nghiệp quả lưu chuyển trong năm thú khác nhau. Đoạn này là căn cứ nơi nhân mà nói rõ quả.

Qua đoạn thứ nhì, Phật bảo Long Vương hãy chăm chú nghe: Các loài tôm cá ở trong biển, hình sắc, chủng loại không đồng, quả báo cũng không đồng đều do tâm tưởng và hành vi không đồng gây ra. Chỗ xuất hiện của hành vi là thân, khẩu và ý đều có thiện và ác, nên sanh ra sự sai biệt. Đoạn này là đem quả báo để chỉ rõ nguyên nhân.

D:\Tạng Thư Phật Học\PDF convert\Phật Tổ Ngũ Kinh\media\image1.png

BÀI III

DỊCH NGHĨA

3- NÓI RÕ VỀ TƯỚNG CỦA NHÂN

Tâm không hình sắc, không thể thấy được, chỉ do các pháp hư vọng hiệp lại mà khởi, rốt ráo không có chủ tể, không có ngã và ngã sở.

Tuy đều theo nghiệp hiện ra không đồng, mà thật trong ấy không có ai là tác giả, nên tất cả các Pháp tự tánh như huyễn đều không thể nghĩ bàn.

Kẻ trí biết thế rồi, nên tu Thiện nghiệp, nhờ vậy sanh ra uẩn, xứ, giới v.v… đều được đoan chánh, người trông không chán.

GIẢNG NGHĨA

Uẩn: Ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Xứ: Thập nhị xứ : Sáu căn : Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, và Sáu trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần.

Giới: Thập bát giới: Sáu căn, sáu trần và sáu thức.

Ba món trên này là yếu tố tạo thành thân căn và thế giới.

ĐẠI Ý

Đoạn này Đức Phật nói rõ tướng trạng của nhãn. Gồm có ba phần:

  1. Phải quán tâm là vô sanh.
  2. Quán các pháp như huyễn.
  3. Khuyên nên tu học.

GIẢI THÍCH

Đoạn thứ nhứt: Đức Phật nói tâm chỉ có danh từ mà không có hình sắc. Mắt không thể thấy được, tay không nắm được, chỉ vì vô thỉ đến giờ gom góp các pháp hư huyễn mà sanh khởi ra sự phân biệt, huân thành chủng tử rồi khởi ra hiện hành. Ba cõi này đều do phân biệt giả dối mà hiện khởi ra, rốt ráo không có chủ tể, cũng không thể chỉ cái nào là Ngã và Ngã sở. Nếu ai chấp tâm ấy có chủ tể tức là thuộc về tà kiến (đoạn kiến và thường kiến) của ngoại đạo.

Đoạn thứ hai: Phật nói phải biết rằng, các pháp giả dối tức là chỉ cho các pháp tạo thành thân căn, thế giới như năm uẩn và bốn đại v.v… các pháp ấy nhứt định không ai tạo thành, chỉ do nghiệp lực hiện khởi mà thôi. Nghiệp lại do tâm tạo, tâm lại do các pháp mà sanh khởi, lần lựa nương nhau như huyễn, như hóa, sanh diệt, vô thường không có gì là chắc chắn trường tồn. Vì không thể luận bàn và suy cứu nên gọi là “Bất tư nghì”.

Ngày xưa có ngoại đạo chấp rằng: Vạn vật do vị Đại Tự Tại Thiên tạo thành, ngày nay thì Gia Tô giáo cũng cho rằng: Tất cả đều do Thượng Đế tạo ra và làm chúa tể. Đối với Phật giáo, nếu nói như thế đều là vọng chấp sai lầm. Theo Đạo Phật thì tất cả quả báo khổ hay vui đều do 10 nghiệp thiện hay bất thiện mà thôi, nhưng phải biết tự tánh của nghiệp quả là hư huyễn, vì do nhân duyên cấu hợp, sanh diệt vô thường. Như trong Kinh Bát Nhã nói về Chơn không; Pháp tướng Duy thức nói về giả hữu, thật là bao trùm không sót vậy.

Đoạn thứ ba: Đã biết nghiệp tánh không phải nhứt định, thế giới cũng không phải là vật chết hẳn một bề. Các pháp đều là hư huyễn, không chủ tể, cho nên cần phải chuyên tu Thiện nghiệp, dứt trừ ác nghiệp để tạo nên thế giới và thân tướng trang nghiêm, khiến chúng sanh trông thấy thì sanh lòng hoan hỷ ngưỡng mộ.

D:\Tạng Thư Phật Học\PDF convert\Phật Tổ Ngũ Kinh\media\image1.png

BÀI IV

DỊCH NGHĨA

4- ĐEM TƯỚNG CỦA NGHIỆP QUẢ ĐỂ CHỨNG MINH

Này Long Vương ! Ngươi xem thân Phật do trăm ngàn ức phước đức mà sanh ra, các tướng trang nghiêm, ánh quang sáng chói che cả đại chúng, dù vô lượng ức các vị Tự Tại, Phạm Vương đều không thể hiển hiện được. Những ai chiêm ngưỡng thân của Như Lai, không ai là chẳng chóa mắt.

Ngươi lại xem các vị Đại Bồ Tát đây, diệu sắc trang nghiêm, tất cả đều do tu tập phúc đức thiện nghiệp mà sanh ra.

Lại nữa, các hàng Thiên Long Bát bộ, thấy có oai thế lớn lao, cũng nhân phúc đức của Thiện nghiệp mà sanh.

Nay đây, các chúng sanh ở trong đại hải, hình sắc thô xấu, hoặc lớn hoặc nhỏ đểu do hết thảy tưởng niệm của tự tâm gây ra bởi thân, ngữ, ý các
nghiệp bất thiện, nên tùy theo chỗ gây nghiệp mà thọ quả báo.

ĐẠI Ý

Đoạn này Đức Phật đem tướng nghiệp quả của Phật, Bồ Tát, hàng Thiên Long, Bát bộ và các loài thủy tộc để chứng minh.

GIẢI THÍCH

Thân Phật là do trăm ngàn muôn ức phúc đức, trí huệ sanh ra, cho nên có 32 tướng tốt, trăm phước trang nghiêm, hào quang chói rạng; hàng chư Thiên, Long vương tuy cũng đều có hào quang sáng suốt, nhưng một khi trông thấy hào quang của Phật không thể nào hiện ra được. Ở trong các cảnh Trời, hào quang sáng nhứt là cảnh Đại Tự Tại Thiên và Phạm Vương Thiên, nhưng đều không sánh kịp với hào quang của Phật.

Sắc tướng tốt đẹp, hào quang sáng suốt của hàng Bồ Tát cũng đều do tu tập phúc đức Thiện nghiệp mà thành.

Thiên Long, Bát bộ và A-tu-la. Các loài ấy sở dĩ có oai thế cũng đều do nhân tu tập một ít phúc đức Thiện nghiệp. Cho nên muốn được hưởng cảnh giới an vui tốt đẹp, cần nhứt chúng ta phải vun trồng phúc đức Thiện nghiệp.

Còn như các loài cá, trạnh, tôm, hến ở biển hoặc lớn, hoặc nhỏ, hình sắc thô xấu, tanh hôi đều bởi tưởng niệm không đồng của tự tâm, phát ra nơi thân, ngữ, ý những nghiệp không lành cho nên phải chịu báo thân xấu xa như vậy.

Ba đoạn trên căn cứ vào quả báo các nghiệp lành mà nói, còn đoạn dưới là đem các quả báo ác nghiệp để chứng minh.

BÀI V

DỊCH NGHĨA

5-KHUYÊN TU HỌC

Ngươi nay thường nên như thế mà tu học, cũng khiến cho chúng sanh rõ thấu nhân quả, tu tập Thiện nghiệp. Ngươi nên y đây chánh kiến bất
động, lại chớ đọa vào trong tà kiến đoạn thường. Đối với những bậc phước điền hoan hỷ cung kính cúng dường, như thế các ngươi cũng được Nhơn, Thiên tôn trọng cung kính cúng dường.

GIẢNG NGHĨA

Phước điền: Những đám ruộng có thể gieo trồng phước đức (lời dụ). Có 3 thứ:

1. Kinh điền: Đối với Phật và Bồ Tát nên cung kính cúng dường sẽ được phước.

2. Ân điền: Đối với những bậc như cha mẹ, thầy bạn rất có ân với mình, nếu hiếu thuận cúng dường sẽ được phước lớn.

3. Bi điền: Đối với chúng sanh khổ não, thương xót cứu giúp thì sẽ được phước đức.

ĐẠI Ý

Đoạn này Phật khuyên chúng sanh nên y theo Chánh pháp mà tu tập.

GIẢI THÍCH

Người tu hành cốt yếu là dùng chánh kiến, rõ thấu luật nhân quả mà tu tập Thiện nghiệp, không bị tà kiến rối loạn. Tà kiến tức là chấp đoạn, chấp thường.

Chấp đoạn: Chấp rằng ở đời chẳng qua may rủi, thế giới chúng sanh chỉ do vật chất cấu tạo, khi chết là hết, nên không tin nhân quả, buông lung làm ác, chẳng sợ nghiệp báo về sau.

Chấp thường: Chấp sự vật đều là thường còn nhứt định. Như chấp rằng : hễ người thì đời đời kiếp kiếp là người; trâu, ngựa thì đời đời kiếp kiếp là trâu, ngựa; gây nghiệp lành dữ chẳng có can hệ gì đến sự khổ vui của thân này hay thân khác. Vì tà kiến ấy mà không tin nhân quả, tha hồ làm điều tội ác.

Nay muốn chuyên tu Thiện nghiệp chẳng lạc vào tà kiến thì cần phải quan sát: thân là vô thường, tâm không chủ tể, các pháp đều như huyễn như hóa. Tùy tâm tạo nghiệp gì thì theo nghiệp ấy mà thọ quả báo. Có thế mới gọi là hiểu rõ được chơn tướng của nhân quả. Và đối với ba thứ phúc điền nên vui vẻ cúng dường thì sẽ được những lạc quả, Nhân Thiên tôn kính cúng dường.

BÀI VI

DỊCH NGHĨA

II. CHÁNH THUYẾT MINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO

1. HIỂN BÀY CÔNG DỤNG CỦA THIỆN PHÁP

Long Vương nên biết ! Bồ Tát có một pháp có thể dứt tất cả các khổ ác đạo. Thế nào là một?- Nghĩa là ngày đêm thường nhớ, suy nghĩ quán sát
pháp lành, làm cho các pháp lành mỗi niệm mỗi tăng trưởng, không để một mảy may bất thiện xen lẫn vào, tức là hay khiến cho các ác pháp hằng dứt, thiện pháp viên mãn, thường được gần gũi chư Phật, Bồ Tát và các Thánh chúng.

2. GIẢI THÍCH TÊN THIỆN PHÁP

Thiện Pháp là gì ? – Là thân của Người và Trời, Thanh Văn Bồ-dề, Độc Giác Bồ-đề, Vô-thượng Bồ- đề đều y pháp này làm căn bản mà được thành
tựu, nên gọi là Thiện Pháp.

GIẢNG NGHĨA

Thanh Văn: Những vị ra đời gặp Phật, nghe Phật giảng pháp Tứ đế mà được ngộ Đạo (nghe tiếng tăm thuyết pháp). Thanh Văn có chia làm 4 bậc:

1. Tu Đà Hoàn (Srotàpanna-phala, Baly: Stotàpanna-phala): Trung Hoa dịch là : Nhập lưu, Dự lưu, Nghịch lưu. Quả này đã đoạn 88 món sử phiền não thuộc về kiến hoặc, được dự vào dòng chơn tánh của Thánh nhân, nên gọi là: “Nghịch dòng sanh tử thuận bờ Niết-bàn”, vị này còn phải 7 phen sanh tử nữa (mới chứng được quả A-la-hán) nên cũng gọi là Thất lai.

2. Tư Đà Hàm (Sakrdàgàmi): Trung Hoa dịch là Nhứt lai. Đối trong 9 phẩm Tư hoặc ở cõi Dục đã đoạn 6 phẩm trước, còn lại 3 phẩm sau nên phải còn một phen sanh tử ở cõi Dục nữa mới dứt hết được.

3. A Na Hàm (Angàmi): Dịch là Bất hoàn. Quả này đã đoạn được 9 phẩm Tư hoặc ở Dục giới nên không còn thọ sanh ở Dục giới nữa, nhưng còn 72 phẩm Tư hoặc trong tám địa cúa Sắc giới và—Vô sắc giới (tám địa tức là tám địa sau cùng trong cửu địa.Cửu địa cũng là cửu hữu). Quả vị này chưa lìa hai cõi,còn phải tu định mới dứt được.

4. A-la-hán (Arahat): Dịch là Sát tặc, Vô sanh,Ứng cúng. Nghĩa là quả vị này đã giết hết giặc phiền não, không bao giờ còn thọ khổ sanh tử trong Tam giới nữa, đáng thọ sự cúng dường của Nhân, Thiên.

5. Độc Giác: Cũng gọi là Duyên Giác tức là Bích Chi Phật (Pratyekabuddha): cựu dịch là Bích Chi Phật hay Bích Chi Ca La; tân dịch là Bát Thích Ế Già Phật Đà (cựu dịch: Duyên Giác; tân dịch: Độc Giác).

6. Duyên Giác: ra đời gặp Phật, theo lời Phật dạy quán 12 nhân duyên mà được ngộ Đạo.

7. Độc Giác: Ra đời không gặp Phật, hoặc quán 12 nhân duyên, hoặc quán hoa rơi, lá rụng mà tự ngộ Đạo.

ĐẠI Ý

Đoạn này có chia làm hai phần:

  1. Hiển bày công dụng của 10 món Thiện pháp.
  2. Giải thích vì sao gọi 10 món này được tên là Thiện pháp.

GIẢI THÍCH

Thường thường nhớ nghĩ quán sát Thiện pháp thì tâm được thiện, tức là ác nghiệp không sanh; không gây ác nghiệp tức là không chịu quả báo. Như thế chuyên tâm quán sát chớ để cho một mảy may ác nghiệp chen vào, lần lần thiện pháp viên mãn. Thiện pháp viên mãn thì được thân cận các hàng Đại Bồ Tát, bậu bạn với các bậc Thánh Hiền, sẽ cùng nhau chung ở cảnh giới trang nghiêm Cực Lạc.

Sở dĩ được tên Thiện pháp là vì thân của Nhơn đạo, Thiên đạo, năm phần Pháp thân của Thanh Văn Tiểu thừa (giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến), Pháp thân Bồ-đề của hàng Độc Giác Trung thừa và Pháp thân Vô Thượng Bồ-đề của Đại thừa, tất cả quả báo tốt đẹp an lạc của thế và xuất thế gian đều lấy 10 Pháp này làm căn bản, nên gọi là Thiện pháp.

BÀI VII

DỊCH NGHĨA

3- TRÌNH BÀY HÀNH TƯỚNG THIỆN PHÁP

Thiện Pháp đây tức là con đường mười Thiện nghiệp. Những gì là mười ? – Là hằng lìa sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế và tà kiến.

ĐẠI Ý

Đoạn này Đức Phật trình bày cho chúng ta biết qua hành tướng của 10 Thiện nghiệp.

GIẢI THÍCH

Căn bản thiện pháp thế và xuất thế gian tức là Thập Thiện Nghiệp Đạo, Thập Thiện nghiệp đạo chính là ở nơi thân mình chớ không phải tìm đâu xa.

Nhờ con đường rộng rãi, sáng suốt này mà đến được lạc quả thế và xuất thế. Từ sát sanh cho đến tà kiến là mười ác nghiệp. Sở dĩ gọi là Thập thiện là căn cứ vào hai chữ “hằng lìa”. Hai chữ “hằng lìa” đây là cả một công phu chẳng dễ. Nếu như trong nhứt thời lìa sự sát sanh, sau vẫn làm việc sát; đời nay tuy có thể không sát, đến đời sau hoặc lại sát, như thế chẳng thể gọi là “hằng lìa”, cần yếu là từ đời này kiếp nọ đến tận vị lai kiếp cũng không còn mong nghĩ sự giết hại. Như thế chỉ có đến quả vị A-la-hán mới dược gọi là “hàng lìa”.

Sát sanh: Giết hại chúng sanh là dứt ngang mạng sống của kẻ khác. Tự mình cầm khí giới hoặe miệng mình sai bảo, hoặc thấy sự giết hại mà ý mình sanh  hoan hỷ, cũng đều là nghiệp sát sanh cả. Mười nghiệp ác này căn cứ vào nội tâm ngoại cảnh và thời gian để phân biệt sự nặng nhẹ khác nhau. Nay đơn cử một nghiệp sát làm thí dụ. Từ trên động cơ nội tâm cỏ thề’ chia làm ba hạng:

1. Vì tâm sân hận, biết mà cố sát thì tội rất nặng.

2. Tuy có sự sân hận khích động mà nội tâm ám muội, hoặc nội tâm tuy rõ ràng mà không sân hận là bậc trung.

3. Tâm không sân hận, không hiểu biết, giết lầm là tội rất nhẹ.

Đối với ngoại cảnh cũng có 3 hạng nặng nhẹ không đồng:

1. Như phá hủy thân Phật, giết hại các bậc Thánh nhân, A-la-hán, giết cha, mẹ và các người ân nhân là tội nặng nhứt.

2. Giết những người ngang hàng là bậc trung.

3. Giết các loài chúng sanh khác là tội nhẹ.

Đối với thời gian móng tâm giết hại cũng có nặng nhẹ khác nhau:

1. Như trước khi chưa giết có ý ưa vui với sự giết, sau khi giết vui vẻ không hối hận là nặng nhứt.

2. Nếu trước khi không móng ý giết, khi giết rồi sanh lòng hối hận là bậc trung.

3. Còn không có lòng sân hận giết lầm và sau khi giết ăn năn là tội nhẹ.

Trộm cắp: Lấy sức mạnh cướp bóc của người, hoặc trộm lén lấy của người, hoặc bày phương kế xảo trá lừa gạt mà lấy của người, cho đến vô công ngồi hưởng, đều thuộc về trộm cắp cả. Nghiệp trộm cắp này tội nặng nhẹ cũng như nghiệp sát sanh trên kia.

Tám nghiệp sau đây cũng có thể căn cứ vào lý mà phán đoán nặng nhẹ.

Tà hạnh: Tà hạnh tức chỉ sự dâm dục. Theo thê gian, việc vợ chồng chính thức phối hợp gọi là chánh hạnh, ngoài ra là tà. Đó chỉ nói về phần thô thiển. Nếu sâu hơn nữa thì tất cả chúng sanh trong Dục giới đều do dâm dục mà có tánh mạng, cho nên đối với cảnh ngũ dục sanh lòng say đắm đều thuộc về tà hạnh cả. Người tu hành thoát ly được Dục giới mới chế ngự được dâm dục và khi chứng được A-la-hán quả mới là cứu cánh ly dục.

Ba nghiệp trên thuộc về Thân nghiệp.

Vọng ngữ: Tức là lời nói dối trá, thấy nói không thấy, không thấy nói thấy, biết nói không biết, không biết nói biết, xấu nói tốt, tốt nói xấu cho đến có nói không, phải nói quấy v.v… dối trá không thật, ở trong Phật pháp rất kỵ là đại vọng ngữ, nghĩa là tu hành chưa được mà tự xưng là được, chưa chứng mà tự nói là chứng. Nếu ai phạm đại vọng ngữ, quyết định sa về tà đạo, đọa lạc tam đồ, rất là nguy hiểm.

Bồ Tát tu hạnh lợi tha, gặp trường hợp đặc biệt có thể phương tiện nói dối như trong Kinh Bồ Tát Giới đã chỉ rõ. Xa lánh vọng ngữ tức là phải chơn tu thật
ngữ vậy.

Lưỡng thiệt: Tức là nói lời chia rẽ phản gián, đến người này nói xấu người kia, đến người kia nói xấu người này, xúi giục bà con bất hòa, thân tình thù oán. Xưa nay các nhà du thuyết đều thuộc về loại này cả. Thật là tai hại! Muốn xa lánh “lời nói ly gián” tức phải tu “lời nói hòa hiệp”.

Ác khẩu: Tức là lời nói thô tục, mắng nhiếc trù rủa… do chửi mắng mà đi đến đánh đập giết hại, nhỏ từ cá nhân, rộng đến gia đình, xã hội, cho đến quốc tế chiến tranh, sự tai hại cũng không phải nhỏ. Muốn xa lìa lời nói thô tục phải tu lời nói “nhu hòa”.

Ỷ ngữ: Tức là lời nói vô nghĩa lý, nghĩa là trau chuốt lời nói khiến cho người ta tán gia bại sản, là lời nói khiến người ta đi đến hầm tội lỗi. Xa lìa tánh ỷ ngữ tức là lời nói đúng nghĩa lý.

Bốn nghiệp trên là lời nói thuộc về ngữ nghiệp. Thông thường người ta bảo là khẩu nghiệp, nhưng khẩu nghiệp không hết nghĩa, vì miệng chỉ là một khí cụ của lời nói mà thôi, cho nên phải nói ngữ nghiệp mới hết ý.

Tham dục: Dục tức là những cảnh dục lạc ở đời, đối cảnh sanh lòng tham muôn nên gọi là tham dục. Tham dục là nhân cốt yếu của đường sam tử nên phải đoạn tuyệt. Nhưng lòng tham dục không phải là xấu xa tội lỗi, nếu đối với thiện pháp mà sanh lòng tham muốn thực hành thì lại là một điều đáng quý.

Sân hận: Đối với cảnh vừa ý thì sanh lòng ưa thích, đối với cảnh trái ý thì lại sanh tâm giận tức. Lỗi của lòng sân hận không phải nhỏ. Kinh nói: “Nhứt niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai” (Tâm sân một niệm nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở). Tuy nhiên, nghiệp sân này chỉ ở Dục giới, nếu tu tập Thiền định và Tứ vô lượng tâm thì sẽ tiêu dứt, nên cõi sắc và Vô sắc không còn sân hận.

Tà kiến: Thông thường gọi là ngu si, nhưng chữ ngu si không đủ nghĩa. Vì chữ ngu si là không hiểu lý lẽ. Đằng này có hiểu biết mà không hợp với chơn lý, không đúng với lẽ phải của Trang đạo, chỉ chấp chặt một bên mà cho đỏ là phải, nên nói là “tà kiến” mái sát nghĩa. Nay muốn xa lìa sự nhận thức sai lầm cần phải tu Thiền định, nhờ đó mà phát sanh trí huệ, tăng trưởng chánh kiến, đi đến quả Thiện viên mãn.

Ba nghiệp trên thuộc về Ý nghiệp.

D:\Tạng Thư Phật Học\PDF convert\Phật Tổ Ngũ Kinh\media\image1.png

BÀI VIII

DỊCH NGHĨA

III- CÔNG ĐỨC CỦA MƯỜI THIỆN NGHIỆP

1- CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP SÁT

Long vương ! Nếu xa lìa sát sanh thời được thành tựu 10 pháp không còn bức não. Những là mười?

  1. Đối với chúng sanh cùng khắp bố thí đức Vô úy.
  2. Thường khởi lòng Đại từ đối với các chúng sanh.
  3. Dứt sạch tất cả tập khí giận hờn.
  4. Thân thường không bịnh.
  5. Mệnh sống lâu dài.
  6. Thường được phi nhơn (quỷ thần) ủng hộ.
  7. Thưởng không ác mộng, thức ngủ an vui.
  8. Diệt trừ oán nghiệp, oán thù tự giải.
  9. Không sợ sa đường dữ.
  10. Khỉ chết sanh lên cõi trời

Ấy là mười công đức.

Nếu hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi thành Phật, được tùy tâm Phật, thọ mạng tự tại.

GIẢNG NGHĨA

Tập khí: Thói quen, cũng gọi là “chủng tử”: Tất cả những hành vi thiện ác từ vô thỉ đến giờ luân chuyển phát khởi cũng như hạt giống gieo đi gặt lại không bao giờ dứt.

Phi nhân: Những loài hình dáng như người mà không phải người. Như loài quỷ thần.

Ác mộng: Chiêm bao thấy những điều dữ.

ĐẠI Ý

Đoạn này Phật dạy nếu ai xa lìa nghiệp sát sẽ được mười điều công đức.

GIẢI THÍCH

Muốn cứu cánh mười Thiện nghiệp, cần phải xa lìa hẳn mười ác nghiệp. Lìa được một ác nghiệp, tức là trừ bỏ được bao nhiêu phiền não, lại thành tựu được bao nhiêu công đức. Như xa lìa nghiệp sát sanh tức trừ bỏ tất cả các pháp hung ác, được đến cảnh giới an vui cõi Người cõi Trời, thường sanh khởi lòng Đại từ, dứt bỏ lòng sân hận, làm cho tất cả chúng sanh trông thấy không sanh lòng sợ hãi; chính là đức bố thí Đại Vô úy. Như thế, sanh tiền sẽ được không bịnh, trường thọ, đêm ngày an vui, lại được hàng Phi nhơn: Thiên, Long, quỷ thần ủng hộ; khi chết không kinh sợ đọa lạc vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Xa lìa nghiệp sát sanh tức là tu hạnh Vô úy, lại được sanh về các cõi Trời. Nếu ai đem công đức này hồi hướng về quả Phật, thì sau khi thành Phật thọ mạng bao lâu tùy theo ý muốn của Phật. Nói đến Chơn thân của Phật thì bình đẳng như hư không, cùng khắp cả pháp giới, thọ mạng vô cùng tận, còn ở đây chỉ là nói Ứng thân ở đời hoặc dài hoặc ngắn bất định, theo cơ cảm của chúng sanh mà ở đời hay nhập diệt, đều từ Tâm tự tại, chứ không bị hoàn cảnh nghiệp lực bắt buộc. Như Đức Phật A Di Đà và Đức Phật Thích Ca vậy.

BÀI IX

DỊCH NGHĨA

2- CÔNG ĐỨC XA LÌA TRỘM CẮP

Lại nữa Long Vương ỉ Nếu xa lìa trộm cắp thời được mười Pháp bảo tín. Những gì là mười ?

  1. Giàu có của cải: Vua, giặc, nước, lửa và con hư không thể phá diệt.
  2. Nhiều người thương mến.
  3. Người không phụ gạt.
  4. Mười phương khen ngợi.
  5. Không lo tổn hạỉ.
  6. Tiếng tốt đồn khắp.
  7. Ở trong đại chúng không hề sợ hãi.
  8. Của cải, tánh mạng, hình sắc, sức ỉực, an vui, biện tài đầy đủ không thiếu.
  9. Thường sẵn lòng bố thí.
  10. Mạng chết sanh lên cõi trời. Ấy là mười.

Nếu ai hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khỉ thành Phật, được chứng Trí thanh tịnh Đại Bồ-đề.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói nếu ai xa lìa trộm cướp chẳng những được mười Pháp bảo tín mà còn được Trí Đại Bồ-đề thanh tịnh, nếu chúng ta biết hồi hướng về quả vị Phật.

GIẢI THÍCH

Của cải ở đời có năm việc làm tiêu tan nghèo khổ: vua dữ, giặc cướp, nước trôi, lửa cháy và con hư phá tán. Nếu ai xa tránh được trộm cắp tức là thường được quả báo tốt: của cải giàu có, không bị năm việc trên phá hại, lại được tiếng tốt đồn khắp, biện tài vô ngại, được mọi người thương mến khen ngợi, không bị ai dối lừa, khi chết được sanh lên cõi Trời. Nếu phát tâm đem công đức ấy hướng về quả Phật, sau khi thành Phật chứng được Trí thanh tịnh Đại Bồ-đề.

BÀI X

DỊCH NGHĨA

3- CÔNG ĐỨC XA LÌA TÀ HẠNH (TÀ DÂM)

Lại nữa Long Vương ! Nếu xa lìa tà hạnh thì được bốn Pháp kẻ trí ngợi khen. Những gì là bến ?

  1. Các căn điều thuận.
  2. Xa lìa rộn ràng.
  3. Được đời khen ngợi.
  4. Vợ (hay chồng) không ai xâm phạm. Ấy là bốn.

Nếu ai hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi thành Phật, được tướng Trượng phu ẩn mật tàng của Phật.

GIẢNG NGHĨA

Các căn: chỉ cho sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Điều thuận: Hòa thuận, không trái nghịch nhau.

Rộn ràng: Không yên tĩnh trong tâm.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói: Nếu xa lìa tà hạnh chẳng những được bốn pháp kẻ trí ngợi khen mà còn được tướng Trượng phu ẩn mật tàng của Phật, nếu ta đem công đức ấy hướng về Phật quả.

GIẢI THÍCH

Nếu người tu hành xa lìa tà hạnh là được thân tâm thanh tịnh, vợ chồng trinh bạch, không bị người ngoài xâm phạm. Nếu hồi hướng về quả Phật, tức được tướng Phật ẩn mật Đại Trượng phu (một trong bạ mươi hai tướng, tức là tướng mã âm tàng).

D:\Tạng Thư Phật Học\PDF convert\Phật Tổ Ngũ Kinh\media\image1.png

BÀI XI

DỊCH NGHĨA

1. CÔNG ĐỨC XA LÌA VỌNG NGỮ

Lại nữa Long vương ! Nếu xa lìa vọng ngữ thì được tám Pháp trời khen ngợi. Những là tám?

  1. Miệng thường thanh tịnh, thơm mùi hoa ưu bát.
  2. Được người đời tín phục.
  3. Mở lời thành chứng, Nhơn Thiên kính mến.
  4. Thường đem lời êm dịu an ủi chúng sanh.
  5. Được ý vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh.
  6. Nói không sai lầm, lòng thường hoan hỷ.
  7. Mở lời tôn trọng, Nhơn Thiên vâng làm.
  8. Trí huệ thù thắng, không ai chế phục.

Ấy là tám công đức về hạnh không nói dối. Nếu ai hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ-đề, sau khi thành Phật được chơn thật ngữ của Như Lai.

GIẢNG NGHĨA

Hoa Ưu Bát: Tức là hoa sen xanh, một thứ hoa có hương vị thanh cao, dịu dàng. Hoa này cũng gọi hoa Ưu Bát La (Utpala) hay nói đủ hơn là Ni-la ưu-bát-la (Nila-Utpala).

ĐẠI Ý

Đoạn này nói, ai xa lìa được vọng ngữ chẳng những được tám Pháp công đức mà còn được chơn thật ngữ của Như Lai, nếu biết đem công đức này hồi hướng về Phật quả.

GIẢI THÍCH

Nếu chúng sanh xa lìa được lời dối trá, thời được quả báo trong miệng thường thơm mùi hoa sen xanh.

Nói lời chắc thật, không sai lầm. Ai nghe cũng khởi lòng tin, lại hay đem lời dịu ngọt an ủi chúng sanh khiến cho tôn trọng vâng làm, được Trời và Người kính mến, trí huệ thường sáng suốt, được Vô ngại biện tài. Nếu ai đem công đức này hồi hướng về quả Phật, thì khi thành Phật, được quả “Như Lai chơn thật ngữ”.

D:\Tạng Thư Phật Học\PDF convert\Phật Tổ Ngũ Kinh\media\image1.png

BÀI XII

DỊCH NGHĨA

5- CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP HAI LƯỠI

Lại nữa Long Vương ! Nếu xa lìa nghiệp hai lưỡi, thì được năm Pháp không thể phá hoại.

Những gì là năm?

  1. Được thân bất hoại, không ai hại được.
  2. Được bà con bất hoại, không ai phá hại.
  3. Được lòng tin bất hoại, thuận theo bản nghiệp.
  4. Được Pháp hạnh bất hoại, chỗ tu kiên cố.
  5. Được Thiện tri thức bất hoại, không dối lừa nhau.

Ấy là năm Pháp bất hoại.

Nếu ai hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, sau khi thành Phật, được quyến thuộc chơn chánh, các ma ngoại đạo không thể phá loại.

GIẢNG NGHĨA

Bản nghiệp: Việc làm theo chí nguyện của mình.

Pháp hạnh: Hạnh nghiệp trong Phật pháp.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói: Người xa lìa nghiệp hai lưỡi chẳng những được năm Pháp bất hoại mà còn được quyến thuộc chơn chánh trong quả vị Phật sau này.

GIẢI THÍCH

Hai lưỡi rất dễ phá hoại công việc của người khác.

Nếu ai giữ gìn không phạm nghiệp hai lưỡi, không nói lời chia rẽ, thì sẽ được quả tốt: tự thân, bà con, lòng tin pháp tu hành, Thiện tri thức, năm món công đức ấy không ai có thể phá hoại được. Nếu ta đem công đức ấy hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ-đề, tin sau khi thành Phật, được các hàng Bồ Tát làm quyến thuộc, chúng ma vương ngoại đạo không thể phá hoại.

BÀI XIII

DỊCH NGHĨA

6- CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP ÁC KHẨU

Lại nữa Long Vương ! Nếu xa lìa ác khẩu thì được thành tựu tám món tịnh nghiệp. Những gì là tám?

  1. Lời nóị không trái pháp độ.
  2. Lời nói có ích lợỉ.
  3. Lời nói quyết hợp lý.
  4. Lời nói đẹp đẽ.
  5. Lời nói thừa lãnh được.
  6. Lời nói được tín dụng.
  7. Lời nói không thể chê.
  8. Lời nói được ưa thích.

Ấy là tám món tịnh nghiệp. Nếu ai hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khỉ thành Phật, đầy đủ Phạm âm thanh tướng của Như Lai.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói: Người xa lìa ác khẩu sẽ được tám món tịnh nghiệp, và nếu biết hướng về quả Phật thì sẽ được Phạm âm thanh tướng của Như Lai.

GIẢI THÍCH

Nếu xa lìa lời nói thô ác, tức thời thành tựu tám món tịnh nghiệp: Lời nói không trái pháp độ, khi nào cũng nói lời có lợi ích, không nói thì thôi, hễ nói thì hợp lý. Lời nói nghe rất đẹp đẽ. Nói lời gì cũng được người lãnh thọ. Lời nói ai cũng tín dụng. Lời nói không bị chê bai. Nói ra thì nguời ưa thích vui vẻ.

Nếu đem công đức này hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ-đề, sau khi thành Phật sẽ đầy đủ Phạm âm thanh tướng (Phạm âm là tiếng nói trong dịu, lanh lảnh, ấy là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật).

D:\Tạng Thư Phật Học\PDF convert\Phật Tổ Ngũ Kinh\media\image1.png

BÀI XIV

DỊCH NGHĨA

7- CÔNG ĐỨC XA LÌA Ỷ NGỮ (NÓI THÊU DỆT)

Lại nữa Long Vương ! Nếu xa lìa ỷ ngữ, thi thành tựu được ba món quyết định. Những gì là ba?

  1. Quyết định được người trí ưa thích.
  2. Quyết định có thể dùng trí như thật, đáp các lời hỏi.
  3. Quyết định có oai đức tối thắng đối với nhân thiên, không hư vọng.

Ấy là ba món quyết định. Nếu đem hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khỉ thành Phật, được Như Lai thọ ký chẳng có luống dối.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói: Nếu xa lìa ỷ ngữ sẽ được ba món quyết định và nếu biết đem công đức này hồi hướng về quả Phật, thì sẽ được Phật thọ ký.

GIẢI THÍCH

Nếu xa lìa sự trau chuốt lời nói, câu văn, thêu dệt xảo trá thì được ba món quyết định:

1) Được người trí yêu mến. Vì ỷ ngữ là lời nói thêu dệt, vô nghĩa lý, chỉ có thế lừa dối người ngu si, chứ người trí nghe lừa dối phải nhàm chán. Nay xa lìa nghiệp ỷ ngữ, cố nhiên được người trí yêu mến.

2) Hay đem trí như thật mà đáp lời các người hỏi, lời đáp ấy phải như sự thật, mới giải được sự ngờ vực.

3) Quyết định ở cõi Nhơn Thiên nào, oai đức cũng thù thắng hơn người không hư vọng. Nghĩa là nói đúng với sự thật, tức là đại hùng biện hơn hết. Nói năng mụốn tránh nghiệp ỷ ngữ bao giờ cũng căn cứ vào chơn lý thành thật mà nói, nên ai nghe đến cũng phải cảm phục oai đức. Nếu đem công đức ấy hồi hướng về quả Vô Thượng Bồ-đề, thì khi thành Phật được công đức Như Lai thọ ký, đều đúng như lời, không giả dôi. Thọ ký là một công đức của Phật thường đối với hàng đệ tử dạy những lời thọ ký: bao giờ sẽ thành Phật, hoặc bao giờ sẽ đọa địa ngục và những sự kiết hung họa phước v.v… đều đúng như lời nói, không sai lầm. Nhưng đó là do sự hiểu biết đúng thật, như sự thật ấy mà nói ra, chứ không phải chủ tể thưởng phạt như người tin vào Thượng Đế. Chẳng luống dối, nghĩa là không phải nói suông.

BÀI XV

DỊCH NGHĨA

8- CÔNG ĐỨC XA LÌA THAM DỤC

Lại nữa Long Vương ! Nếu xa lìa tham dục thời được thành tựu năm món tự tại. Những gì là năm?

  1. Ba nghiệp tự tạiy các căn đầy đủ.
  2. Của cải tự tại, oán tặc không cướp đoạt.
  3. Phước đức tự tạiy tùy lòng ưa muốn vật dụng đều đủ.
  4. Vương vị tự tại, đồ vật quý lạ, đều được dâng hiến.
  5. Những vật đã được thù thắng gấp trăm lần lòng mong cầu, vì thở xưa không bỏn sẻn ganh ghét.

Ấy là năm món tự tại. Nếu dem hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi thành Phật, đặc biệt được ba cõi thảy đều cung kính cúng dường.

GIẢNG NGHĨA

Tự tại: Tùy theo ý mình muốn, không bị sự gì làm trở ngại.

Bỏn sẻn: Keo kiết, chẳng chịu thí cho một chút tài vật nào mà còn ganh ghét khi thấy người ta có những điều kiện bằng mình hoặc hơn mình.

Ba cõi: Cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc.

Ba nghiệp: Chỉ cho thân, khẩu, ý.

Các căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói: Người xa lìa tham dục, chẳng những thành tựu được năm món tự tại mà còn được chúng sanh trong ba cõi thảy đều hết lòng cung kính cúng dường khi chứng được Phật quả.

GIẢI THÍCH

Của cải có hai loại: Sáu căn và ba nghiệp là ‘‘nội tài” (của cải ở trong thân) còn bao nhiêu tài vật quý báu khác thuộc về “ngoại tài’’(của cải ở ngoài thân).

Nếu không tham dục thời sẽ được quả báo là: Nội tài và ngoại tài đều được đầy đủ, tùy tâm mà thọ dụng không có sức mạnh nào chiếm đoạt được, mong cầu vật gì khi được thời gấp mười, gấp trăm lần hơn chỗ mình muốn. Nếu như ta đem công đức ấy hồi hướng về quả Vô Thượng Bồ-đề thì sau khi thành Phật tức là được ba cõi đặc biệt tôn trọng và cúng dường.

BÀI XVI



DỊCH NGHĨA

9) CÔNG ĐỨC XA LÌA SÂN KHUỂ

Lại nữa Long Vương ! Nếu xa lìa sân hận, thời được tám món Tâm Pháp hỷ duyệt. Những gì là tám?

  1. Không lòng tổn não.
  2. Không còn sân hận.
  3. Không lòng kiện tụng.
  4. Lòng nhu hòa, ngay thật.
  5. Được từ tâm của bậc Thánh.
  6. Sẵn lòng làm lợi ích an lạc cho chúng sanh.
  7. Thân tướng đẹp đẽ, chúng đều tôn kính.
  8. Do sự hòa nhẫn mau sanh về cõi Phạm Thiên.

Ấy là tám món Tâm Pháp hỷ duyệt. Nếu ai hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi thành Phật, được tâm vô ngại của Phật, người xem không chán.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói: Người xa lìa tâm sân hận, thời sẽ được tám Pháp hỷ duyệt và sau khi thành Phật, được tâm không quái ngại.

GIẢI THÍCH

Nếu xa lìa lòng sân hận thì hưởng được các thứ công đức vui vẻ, trong lòng luôn luôn nhu hòa hiền dịu, không còn có lòng sân hận, gây việc tranh tụng và tổn hại ai, lại thường sần lòng giúp ích cho tất cả chúng sanh. Khi sanh ra được thân tướng đẹp đẽ, mọi người cung kính. Bởi vì con người lúc lòng sân nổi dậy, mặt đổi sắc, tay chân run rẩy, hiện ra thân tướng xấu xa hung tợn, nhân đã vậy thì quả phải xấu, ấy là định luật của nghiệp quả báo ứng.

Cõi Trời Phạm Thiên là cõi của người hết nghiệp sân hận vì các vị Thánh nhân đều được thiền định.

Nếu đem công đức này hồi hướng về quả Phật, thì sau khi thành Phật sẽ được tâm Phật, không điều gì chướng ngại, ai trông thấy cũng đều ngưỡng mộ không chán.

BÀI XVII

DỊCH NGHĨA

10- THUYẾT MINH CÔNG ĐỨC XA LÌA TÀ KIÊN

Lại nữa Long Vương ! Nếu xa lìa tà kiến thời sẽ được thành tựu mười Pháp công đức. Những gì là mười?

  1. Được ý vui chơn thiện, bậu bạn chơn thiện.
  2. Thâm tín nhân quả, thà bỏ thân mang trọn chẳng làm ác.
  3. Chỉ quy y Phật, không quy y các thiên thần.
  4. Trực tâm chánh kiến, xa hẳn các sự ngờ vực kiết hung.
  5. Thường sanh nhơn thiên, không sa vào đường dữ.
  6. Vô lượng phước huệ, lần lựa thêm nhiều.
  7. Xa hẳn đường tà, tu hành Chánh đạo.
  8. Chẳng khởi thân kiến, bỏ các ác nghiệp.
  9. Kiến giải vô ngại.
  10. Chẳng bị các tai nạn.

Ấy là mười Nếu ai hồi hướng về quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi thành Phật, mau chứng tất cả Phật pháp, thành tựu Thần thông tự tại”.

ĐẠI Ý

Đoạn này nói: Nếu ai xa lìa tà kiến thì sẽ được mười điều lợi ích, và nếu hồi hướng về quả Bồ-đề thì chẳng những mau chứng Đạo quả mà còn được Thần thông tự tại.

GIẢI THÍCH

Nếu xa hẳn ngu si tà kiến thì được các món công đức chơn thiện: tâm ý chất trực, thấy biết chơn chánh, hiểu rõ nhân quả, không còn ngờ vực, thường gặp bạn tốt, thường được quy y Phật, Pháp, Tăng; đời đời kiếp kiếp được sanh về cõi Trời và cõi Người, không bao giờ khởi tâm tà kiến, không mắc các tai nạn, phước đức trí huệ ngày một tăng trưởng, tu hành chơn chánh không lạc tà đạo, không khởi thân kiến (chấp thân này thật có của ta), cũng không vì thân mà khởi ác nghiệp, không bị một kiến chấp gì làm chướng ngại chỗ hiểu biết chơn lý.

Nếu ai phát lòng sâu xa rộng lớn, đem các công đức ấy hồi hướng về quả Phật, sau khi thành Phật, chứng được tất cả các pháp Thần thông tự tại của chư Phật.

DỊCH NGHĨA

IV- THẮNG HẠNH CỦA MƯỜI THIỆN NGHIỆP

1) NÓI VỂ LỤC ĐỘ

a) Nói rộng về Bố thí độ

Bấy gỉờ, Đức Thế Tôn lại bảo Long Vương rằng:

‘‘Nếu có Bồ Tát y Thiện nghiệp này, trong khi hành đạo: vì lìa nghiệp giết mà làm bế thí, nên thưởng giàu có của báu, không ai xâm đoạt, trường thọ không yểu, chẳng bị tất cả oán tặc làm hại. Vì lìa nghiệp chẳng cho cố lấy mà làm bố thí, nên thường giàu có của báu, không ai xâm đoạt, không ai sánh lập, và đều thâu thập được đầy đủ những kho tàng Phật pháp. Vì lìa lỗi tà hạnh mà làm bố thí, nên thường giàu có của báu, không ai xâm đoạt, trong nhà trinh thuận (vợ có tiết tháo và phục tùng chồng), mẹ và vợ, con không bị ai đem lòng dục mà xâm phạm. Vì lìa lời nói dối mà làm bố thí, nên thường giàu có của báu, không ai xâm đoạt, khỏi các sự nhục mạ, giữ Chánh pháp như lời thệ nguyện, nhứt định sẽ có kết quả.

Vì lìa lời nói ly gián mà làm bố thí, nên thường giàu có của báu không ai xâm đoạt, bà con hòa thuận, đồng một chí vui, hằng không trái nghịch.

DỊCH NGHĨA

NÓI RỘNG VỀ BỐ THÍ ĐỘ (tiếp theo)

Vi lìa lời nói thô áe mà làm bô thí,nên thường giàu có của báu, không àỉ có thể xâm đoạt; tất cả chúng hội đều vxii vẻ theo về, lời nói đều được người tín thọ không chống trái. Vi lìa lời nói vô nghĩa (ỷ ngữ) mà làm bố thí, nên thường giàu có của báu, không ai có thể xâm đoạt, nói chẳng uổng lời, người đều kính chịu, hay dùng phương tiện khéo dứt các sự nghi ngờ. Vì lìa lòng tham cầu mà làm bô thí, nên thường giàu có của báu, không ai có thể xâm đoạt, có được: vật gì đều đem ban cấp, tín giải kiên cố, đủ oai lực lớn. Vì bỏ lòng giận hờn mà làm bố thí, nên thường được của báu không ai xâm đoạt, tự mình mau thành tựu được tâm trí vô ngại, các căn tất đẹp, người thấy kính ưa. Vì xa lìa lòng tà đảo mà làm bố thí, nên thường giàu có của báu, không ai xâm đoạt, thường sanh vào nhà kính tin chánh kiến, thấy Phật nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng, thường chẳng quên mất tâm Đại Bồ-đề. Ấy là những bậc Đại Sĩ khỉ tu Bồ Tát đạo làm mười Thiện nghiệp, do bế thí trang nghiêm mà được lợi ích.

GIẢNG NGHĨA

Chúng hội: Những người trong một cuộc hội họp.

Phương tiện: Những phương pháp tiện lợi trong một trường hợp. Nó chỉ có tánh cách nhứt thời, không phải vĩnh viễn, không phải cứu cánh.

Tín giải: Tin có sự hiểu biết, không phải chỉ một mặt tin suông, nghĩa là khi nghe Phật thuyết pháp bắt đầu tin, về sau có sự hiểu biết gọi đó là “tín giải. Lại có nghĩa là: Người độn căn thì chỉ thuần “tin” còn người lợi căn thì lại thêm phần hiểu biết rõ ràng lời Phật thuyết nữa, gọi là “tín giái”.

Lại có nghĩa nữa là: “Tín” thì phá được tà kiến, còn “giái” thì phá được vô minh,gọi là “tín giái”.

Tà đảo: Hiểu biết không chơn chánh và trái sự thật.

ĐẠI Ý

Bài trước và bài này Đức Phật nói thắng hạnh của Thập Thiện nghiệp qua Bố thí độ.

GIẢI THÍCH

Bố thí là để diệt trừ lòng tham lam, sẽ được hưởng quả báo giàu có, của cải không còn nghèo thiếu; nhưng nếu lòng bô” thí không thanh tịnh, hoặc hành vi ác chưa dứt sạch hẳn, thì tuy có nhiều của báu, cũng không hưởng thọ được lâu bền và tự tại. Nếu phát tâm Bồ Tát, y theo mười Thiện nghiệp mà tu hành bố thí, thì dung nghi đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, bà con hòa thuận, có nhiều quả báo không ai sánh kịp; mà cũng không có người dám dùng thế lực để chiếm đoạt. Ta lại được mọi người kính mến, quy thuận, ủĩig hộ. Đó là nhờ công đức tu hành Thập thiện mà bố thí, mới được viên mãn trang nghiêm, lợi ích rất rộng lớn như vậy. Trái lại, vì lòng sân hận, khinh khi, mua danh mà làm bố thí, hoặc vì ngu si tà kiến, người đáng cho thì không cho, người không đáng cho lại cho, hoặc thiên vị cho người này không cho người khác, như thế gọi là điên đảo, sai lầm làm việc bố thí, không thể nào viên mãn được. Dù rằng ta vẫn được quả báo tốt, về sau cũng không cứu cánh.

BÀI XX

DỊCH NGHĨA

b) Lược nói năm độ sau

Như vậy Long Vương! Tóm lại mà nói, tu mười Thiện Đạo, vì dùng Trì giới trang nghiêm nên hay sanh Phật pháp nghĩa lợi, đầy đủ nguyện lớn. Vì dùng Nhẫn nhục trang nghiêm nên được viên âm của Phật, đủ các tướng tốt. Vì dùng Tinh tấn Irang nghiêm nên hay phá được ma oán, vào Pháp tạng của Phật. Vì dùng Thiền định trang nghiêm nên hay sanh niệm, huệ, tàm quý, khinh an. Vì dùng Trí huệ trang nghiêm nên hay dứt tất cả phân biệt vọng kiến.

GIẢNG NGHĨA

Nghĩa lợi: Lợi ích chơn thật, hay lợi ích thật nghĩa.

Pháp tạng: Chính là Phật pháp tạng, cũng chính là Như Lai tạng, là chỉ cho lý của Pháp tánh, vì Pháp tánh nó hàm chứa vô lượng tánh đức nên gọi là “Pháp tạng”.

Vọng kiến: Sự thấy biết hư vọng không đúng sự thật, tức là: thân, biên, tà kiến…

ĐẠI Ý

Đoạn này nói: Trì giới Nhẫn nhục, Tinh tấn v.v…có tu hành Thập thiện thì mới trang nghiêm được.

GIẢI THÍCH

Trong Phật pháp, có sự ích lợi chỉ ở hiện tại, có sự ích lợi chỉ ở tương lai và có sự ích lợi cứu cánh khác nhau. Bồ Tát tu hành Lục độ tức là được tất cả nghĩa lợi, nhưng nếu dùng Thập Thiện nghiệp đạo làm căn bản, thời nghĩa lợi mới hoàn toàn viên mãn.

BÀI XXI

DỊCH NGHĨA

2- CÁC HẠNH KHÁC

Vi lấy lòng Từ trang nghiêm, nên đối với các chúng sanh không khởi tâm não hạỉ. Vi lấy lòt^ Bi trang nghiêm nên thương các chúng sanh thường không chán bỏ. Vì ỉấy lòng Hỷ trang nghiêm, nên thấy người tu thiện lòng không ganh ghét (hiềm tật). Vì lấy lòng Xả trang nghiêm, nên đối với cảnh thuận nghịch lòng không thương giận.

Vì dùng Tứ Nhiếp Pháp trang nghiêm, nên thường siêng năng nhiếp hóa tất cả chúng sanh.

GIẢNG NGHĨA

Tứ Nhiếp Pháp : Bốn phương pháp thu nhiếp, hóa độ chúng sanh. Bốn pháp ấy là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

ĐẠI Ý

Đoạn này có hai phần:

1. Tu Tứ Vô Lượng Tâm phải căn cứ 10 Thiện nghiệp mới được viên mãn.

2. Tu Tứ Nhiếp Pháp cũng phải lấy Thập Thiện nghiệp làm nền tảng mới cứu cánh được.

GIẢI THÍCH

Từ, Bi, Hỷ, Xả là bốn đức Vô Lượng Tâm của chư Phật và Bồ Tát. Từ là cho vui, Bi là cứu khổ, Hỷ là đối với tất cả những lợi ích, an vui của kẻ khác, sẵn lòng hoan hỷ, tán trợ. Xả là oán thân bình đẳng, không khởi phân biệt, một lòng thản nhiên, không còn trụ trước. Như Kinh Kim Cang nói: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (nên sanh lòng không chỗ trụ trước). Suy rộng ra, bôn tâm ấy cùng khắp vô lượng, nên gọi là Vô Lượng Tâm, Căn cứ vào Thập Thiện nghiệp mà tu khiến cho bốn tâm ấy được viên mãn trang nghiêm thì công đức vô lượng.

Bồ Tát tùy mỗi loài hiện thân đem bốn nhiếp pháp mà thâu nhiếp tất cả chúng sanh, làm cho mỗi loài đều được lãnh thọ Chánh pháp, đều hiểu sự lợi ích. Ở đây căn cứ 10 Thiện nghiệp mà tu Tứ Nhiếp Pháp thì mới được hoàn toàn cứu cánh.