PHẬT TỔ LỊCH ĐẠI THÔNG TẢI

Trụ trì Đại Trung Tường Phù Thiền tự, Gia Hưng lộ hiệu Hoa Đình Niệm Thường soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 18

Trụ Trì Đại Trung Tường Phù Thiền Tự ở Gia hưng Lộ, hiệu Hoa Đình Niệm Thường soạn.

1. Tống Thái Tổ:

Lôi Thị nói: Triều Tống gồm: Tổ, Tông, Chân, Nhân, Anh, Thần, Triết, Huy và Thiếu, cả thảy một trăm sáu mươi sáu năm. Tĩnh Khang thì dời về phía Bắc.

Canh Thân: Thái Tổ Huyền Lãng: Họ Triệu, Vương Hỏa Đức đóng đô ở đất Biện. Lúc đầu ông có tên là Quang Dận, là con thứ của Tuyên Tổ. Ông sinh ra ở Lạc Dương, là người giỏi võ, ngay thẳng, rộng rãi nhưng biết giữ mình. Chu Tổ cho ông làm Đông Tây Ban Chủ. Thế Tổ sai ông giữ chức Thân quân, rồi đến điện Tiền đô điểm kiểm. Cung Đế sai ông chinh phạt Hà Đông, tối dừng ngựa tại quán dịch Trần Kiều, quân tình bỗng nhiên biến loạn, mọi người đều suy tôn ông. Ngày bốn tháng giêng ông nhận ngôi. Tháng mười năm Bính tý, ông mất ở điện Vạn Tuế, an táng ở Vĩnh Xương lăng, thọ năm mươi tuổi. Ông lên ngôi đổi niên hiệu là Kiến Long. (Nước Liêu là năm Ứng Lịch thứ mười)

2. Vua xuống chiếu khắc một tạng kinh Phật:

Tháng mười hai năm này, vua hạ chiếu lập một ngôi chùa sắc tứ hiệu là Kiến Long ngay chiến địa dưới thành Dương châu, ban cho bốn khoảnh ruộng, đồng thời thỉnh Đạo Huy trụ trì. Trước đây, nhà Chu phế bỏ ba mươi ngàn ba trăm ngôi chùa, đập tượng đồng ở Trấn châu đúc tiền. Thế Tông đích thân đập ngực tượng, không đầy bốn năm sau, ông ấy bị ung bướu nơi ngực mà chết. Đế và Thái Tông chính mắt thấy việc này, nhân đó hỏi Thần tăng Ma Y:

– Thiên hạ lúc nào yên?

Ma Y đáp:

– Giáp Tý mới yên, nhưng cũng ngang bằng với cái họa hủy giáo đời Tam Vũ. Đế thầm cho là đúng.

Sau khi lên ngôi, ông nhiều lần dựng chùa, mỗi năm độ tám ngàn Tăng (Trích từ Âu Dương Ngoại Truyện Sớ)

Tân Dậu: Hạ chiếu vào ngày sinh của vua, Tăng trong kinh sư và cả nước đều lên tòa chúc thọ cho vua. Từ đó lấy làm lệ thường hàng năm.

Nhâm Tuất: Hạ chiếu mỗi năm những người mới tập sự tu đọc được kinh Pháp Hoa bảy quyển, giao cho Từ Bộ Cấp Độ điệp.

– Kinh Cao Kế Xung: Tự là Thành Hòa, con của Dung, lên ngôi một năm rồi hàng Tống. Nam Đường Lý Dục lên ngôi.

Quý Hợi: Đổi niên hiệu là Càn Đức. Mộ Dung Diên Kiêu đánh kinh thắng, phong Xung làm Vũ Ninh Quân Tiết Độ.

– Giáp Tý sáu mươi mốt: Hạ chiếu cho Vương Toàn Bân đánh Thục. Ất Sửu quy hàng Tống.

Bính Dần: Đông Hán Kế Ân: Cha là Tiết Kiêu, Lưu Bân mến tài ông ấy nên gả con gái cho, và sinh ra Ân. Sau khi Kiêu mất, vợ lớn họ Hà sinh ra Nguyên, vợ chồng họ Hà chết, Thừa Câu lại không có con, Mân bèn giao hai đứa con này cho Câu làm con nuôi. Định Vương Thừa Câu chết, Ân kế vị. Tháng chín, ông bị Hầu Bá Vinh giết.

– Kế Nguyên: Họ Hà, cũng là con nuôi của Thừa Câu, em cùng mẹ với Ân. Quách Vô Vi, Hầu Bá Vinh đón ông lên ngôi. Ông lên ngôi đổi niên hiệu Quảng Vân, trị vì mười ba năm.

Đinh Mão: Tháng ba, năm vì sao tụ ở Sao khê. Phật giáo truyền sang Trung Quốc được chín trăm năm.

Mậu Thìn: Đổi niên hiệu Khai Bảo. Liêu Cảnh Tông húy là Minh Ký lên ngôi. Ông còn có tên là Hiền, con của Thế Tông, đổi niên hiệu là Bảo Ninh, trị vì mười lăm năm.

Kỷ Tỵ: Ngày mười sáu tháng hai tiết Trường Xuân, vua hạ chiếu nói: Chư tăng trong nước dâng biểu vào triều khảo thí Tam Học và hơn mười điều khác nữa. Ai thông suốt sẽ được ban Tử y, và được gọi là Thủ Biểu Tăng. Tể phụ, Thân vương, Giám ty, Thứ sử mỗi người tiến cử người mình biết. Riêng những người được tiến cử ở Tây Vệ ngay hôm nay phải vào triều. Những người trong môn hạ họ được gọi là Giản Tiền Sư Hiệu, vẫn được ban Tử y.

Tân Mùi: Hạ chiếu cho thành đô mỗi nơi tạo một tạng kinh Phật, chữ được mạ bằng bạc, vàng. Hồi ấy vào ngày hai mươi bảy tháng chín sai Binh Bộ Thị Lang Lưu Hy Cổ quản lý việc tạo kinh. Ngày mười một tháng sáu năm này lại sai tạo thêm một tạng kinh mạ chữ bằng vàng.

Nhâm Thân: Hạ chiếu khắc một tạng kinh. Cả thảy một trăm ba mươi ngàn bản. Phong Nam Hán Ngân Ân là Xá Hầu. Lại sai Đào Cốc xuống Tống Tề Khâu (vùng đất giữa Tống và Tề).

3. Quốc sư Đức Thiều thị tịch:

Sư họ Trần, quê ở Long Tuyền, Xử châu. Mẹ Sư nằm mộng thấy ánh sáng màu trắng chạm vào thân, nhân đó sinh ra Sư. Lúc Sư chào đời cũng có rất nhiều điềm lạ. Năm mười lăm tuổi, bỗng có một Phạm tăng khuyên Sư xuất gia. Năm Mười bảy tuổi, Sư xuất gia tại chùa Long Quy ở Xử châu. Năm Mười tám tuổi, thọ giới tại Khai Nguyên, Tín châu. Về sau, trong niên hiệu Khai Bình đời Lương, Sư bắt đầu du phương. Đầu tiên Sư đến yết kiến Thiền sư Đại Đồng trên Đầu Tử sơn, nhân đây tự tâm khai mở. Kế đó Sư yết kiến Long Nha Sơ Sơn, mỗi nơi đều có cơ duyên khác nhau. Sư tham vấn cả thảy năm mươi bốn tihện tri thức nhưng đều chưa kế hợp. Cuối cùng Sư đến Lâm Xuyên yết kiến Thiền sư Tịnh Tuệ Văn Ích. Vừa gặp, Văn Ích biết Sư là bậc pháp khí. Tại đây Sư tùy chúng, tham thiền.

Văn Ích thượng đường, có vị Tăng hỏi:

– Thế nào là một giọt nước của Suối Tào?

Văn Ích đáp:

Là một giọt nước của Suối Tào!

Sư đứng bên tòa bỗng hoát nhiên đại ngộ, mọi thứ nghi tuệ xưa nay đều dứt sạch. Sư bèn đem chỗ liễu ngộ của mình trình lên Văn Ích. Văn Ích nói:

– Ngày sau ông sẽ làm thầy Quốc vương, làm rạng rỡ Tổ đạo, ta không bằng ông.

Từ đó mọi tông chỉ của nơi khác, những lý mầu từ cổ kim, Sư đều thông suốt chẳng mảy may ngưng trệ. Về sau, Sư lên Thiên Thai, thấy di tích của Thiền sư Trí Giả vẫn còn nguyên như cũ. Sư lại là người cùng họ với Trí Giả, nên thời bấy giờ người ta gọi Sư là hậu thân của Trí Giả.

Hồi Sư còn ở Bạch Sa, Ngô Việt Trung Ý Vương bị con của Quốc vương đầy đến Thai châu, Ý Vương ngưỡng mộ danh tiếng Sư, thường thỉnh Sư đến hỏi đạo. Sư nói với Ý Vương: “Ngày sau ông làm bá chủ chớ quên ân Phật”.

Niên hiệu Càn Hựu năm đầu, đời Hán, Ý Vương lên nối ngôi, sai sứ đến đón Sư vào triều, lạy Sư làm thầy.

Có người muốn khôi phục lại toàn bộ giáo nghĩa của Tông Thiên

Thai, nên đã nhiều lần khẩn cầu với Sư rằng: “Giáo pháp của Trí Giả trải qua ngần ấy năm nay phần nhiều thất lạc hết. Hiện nay ở nước Tân La, giáo nghĩa ấy vẫn còn rất đủ. Nếu chẳng phải sức từ của Hòa thượng thì ai có thể làm được việc này!”.

Sư liền tâu với Trung Ý Vương. Ý Vương sai sứ đem lễ vật và thư của Sư đến Tân La sao lại toàn bộ giáo nghĩa ấy đem về. Đến nay những giáo nghĩa ấy vẫn còn lưu hành ở Giang Nam.

Sư khai đường, giảng pháp ở Bát-nhã, cả thảy mười hai hôi, pháp ngữ của Sư còn đủ trong Truyền Đăng. Có lần Sư làm kệ dạy chúng:

Lên thẳng núi mầu
Chẳng phải nhân gian
Ngoài tâm không pháp
Thấy tỏ núi xanh.

Năm Tân Mùi, niên hiệu Khai Bảo, bốn ngọn núi trên Hoa đảnh bỗng nhiên rung động, phát ra âm thanh như tiếng sấm. Sư nói:

– Ta không còn ở nhân gian lâu nữa.

Tháng sáu năm sau có một ngôi sao lớn sa xuống đỉnh núi cỏ cây đều đổi thành màu trắng và Sư thị tịch ở ngọn núi Liên Hoa. Trước đó sư vẫn tham vấn như thường. Đến ngày mười tám, Sư nhóm chúng từ biệt, rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi, tăng lạp sáu mưới lăm hạ.

Quý Dậu: Hậu Chu: Cung đế Sùng Huấn mất.

4. Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu:

Sư họ Lưu, quê ở Dư Hàng, húy là Diên Chiểu. Sinh vào tháng mười hai, năm Càn Ninh thứ ba, đời Đường. Thuở nhỏ sư đã là người lỗi lạc có chí khí anh tài. Sách vở ở đời Sư đều đọc đến nhưng không có ý kinh bang tế thế. Cha và anh cố ép sư đi thi làm quan. Một lần, Sư đến kinh đô nhưng rồi quay về ngay. Sư đến chùa Khai Nguyên xin xuất gia với Luật sư Trí Cung, sau đó thế phát thọ giới. Sư đi khắp các pháp hội, nghiền ngẫm bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa, tu tập chỉ quán định tuệ. Đêm nọ sư bỏ pháp hội, phát chí du phương tham vấn.

Sư đến Việt châu, yết kiến Thiền sư Cảnh Thanh nhưng cơ duyên không khế hợp. Sư đi về phía Bắc, đến Tương Miến và dừng lại ở Hoa nghiêm. Lúc bấy giờ có Tăng là Thủ Quách vừa từ pháp hội của Nam viện Ngung công đến. Thiền sư Hoa Nghiêm thăng tòa nói:

– Nếu là con cháu của Lâm Tế, Đức Sơn, Cao Đình, Đại Ngu, Điểu Khòa, Thuyền Tử thì không nên làm thế này thế nọ, mà phải một mình đeo đao vào thẳng.

Quách liền bước ra khỏi chúng và hét. Hoa Nghiêm cũng hét, Quách hét tiếp, Hoa Nghiêm cũng hét tiếp. Quách lạy tạ Hoa Nghiêm xong, quay lại nói với đại chúng:

– Gã này một phen thất bại rồi.

Nói xong, Quách hét một tiếng rồi về chỗ.

Phong Huyệt lấy làm lạ, nhân đó kết bạn với Thủ Quách.

Nhân đó, Sư thầm khế ngộ yếu chỉ của Tam huyền, bèn than:

– Chỗ dụng của Lâm Tế như thế ư!

Quách bảo sư đến yết kiến Nam Viện.

Sư đến, Nam Viện liền hỏi:

– Vào cửa phải trình chủ, đầu đuôi thế nào thỉnh thầy phân chia.

Nam Viện vỗ đầu gối bên trái, Phong Huyệt liền hét. Nam Viện vỗ đầu gối bên phải, Sư cũng hét. Nam Viện hỏi:

– Vỗ bên trái một cái thì không nói, vỗ bên phải cái nữa thì làm sao?

Phong Huyệt nói:

– Mù.

Nam Viện liền cầm gậy. Sư cười nói:

– Đã mù lại thêm gậy đui, đập ngược lại Hòa thượng đi!

Nam Viện cất gậy nói:

– Hôm nay bị gã mặt vàng ở đất Chiết hãm hại.

Sư nói:

– Hòa thượng in tuồng ôm bát chẳng được lại nói dối là chẳng đói.

Nam Viện hỏi:

– Ông từng đến đây chưa?

– Là có ý gì?

– Muốn hỏi ông rõ ràng.

– Cũng đừng nên bỏ qua!

Sư liền lễ bái. Nam Viện vui vẻ bảo sư ngồi và hỏi:

– Ông giao du vời ai?

Sư thưa:

– Cùng nhập hạ với thị giả Quách ở Tương châu.

– Thật là gặp được Thiền lâm cao thủ.

Tư đó sư ở lại đây làm đệ tử, thong dong thọ học, trí chứng ngày một tăng. Nam Viện nói với sư:

– Ông nương nguyện lực đến gánh vác đại pháp không phải là ngẫu nhiên.

Rồi Nam Viện hỏi Sư:

– Ông từng nghe, lúc lâm chung Lâm Tế nói gì không?

Sư thưa:

– Có nghe.

Nam Viện nói:

– Lâm Tế nói: “Không ngờ chánh pháp nhãn tạng bị diệt Tôn giả mất bên con lừa mù”. Ông ấy bình sinh giống như sư tử, hễ gặp là giết người, đến lúc sắp mạng chung sao lại bó gối cong đuôi như vậy.

Sư thưa:

– Mật phó lâm chung, diệt là hoàn toàn do chủ.

– Tại sao Tam Thánh (Tuệ Nhiên) cũng chẳng nói?

Sư thưa:

– Đứa con đích thật được vào thất.

– Đâu giống kẻ kia dạo bên ngoài.

Nam Viện gật đầu hỏi tiếp:

– Bốn thứ liệu giản là liệu giản pháp gì?

– Phàm nói ra nếu không kẹt nơi phàm tình cũng rơi vào thánh giải, đó là bệnh lớn của người học. Bậc Tiên thánh xót thương họ nên mới lập bày phương tiện, cũng như lấy chốt tháo chốt.

– Thế nào là đoạt nhân chẳng đoạt cảnh?- Cung vàng vừa thoát khỏi lò hồng Bắn bể mặt sắt của Xà-lê.

(Tâm xuất hồng lô kim đàn tử

Sứu phá Xà-lê thiết diện môn)

– Thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt nhân?- Cắt cỏ chợt chia toét đầu não Mây cuồng vừa tụ bóng còn nguyên.

(Sô thảo sạ phân đầu não liệt Loạn vân sơ trán ảnh do tồn) – Thế nào là nhân cảnh đều đoạt? – Nhẹ bước tiến lên cần gấp gấp Nắm roi cầm ách chớ dần dà. (Niếp túc tiến tiền tu cấp cấp

Tróc tiên đương ưởng mạc trì trì)

– Thế nào là nhân cảnh đều chẳng đoạt?

– Thường nhớ Giang Nam vào tháng baChú cô hót rộn, trăm hoa ngát. (Thướng ức Giang Nam tam ngoạt lý Chú cô đề xứ bách hoa hương) Nam Viện nói tiếp:

– Lâm Tế có ba câu, đương thời có người hỏi rằng: “Thế nào là câu thứ nhất?” Lâm Tế đáp: “Ấn tam yếu mở điểm son hẹp, chưa cho nghĩ nghị chủ khách còn”.

Phong Huyệt nghe xong liền hét. Hỏi tiếp:

– Thế nào là câu thứ hai? Lâm Tế đáp: “Diệu giải đâu cho Vô Trước hỏi, bọt tan đâu dễ chặn dòng sông”.

Phong Huyệt nói:

– Chưa hỏi đã sai rồi.

Hỏi tiếp:

– Thế nào là câu thứ ba? Lâm Tế đáp: “Chỉ xem tượng gỗ đùa trên gác, lôi kéo toàn nhờ người ở trong”.

Phong Huyệt nói:

– Pha tan thì không kham nổi.

Thế là Nam Viện nghĩ dòng phái Lâm Tế chưa đoạn tuyệt, Sư là người quả nhiên không cô phụ ngầm ý phó thác hoằng hóa của Tiên sư. Sư dừng lại đây sáu năm, sau đó từ biệt Nam Viện ra đi.

Đời Đường, niên hiệu Trương Hưng năm thứ hai, Sư đến Nhữ Thủy, Sư thấy một ngôi nhà chỉ còn vài miếng tranh, kèo cột, Sư cảm thấy như mình đã từng bỏ nơi này ra đi. Sư hỏi một người cày ruộng đây là đâu.

Người cày ruộng đáp:

– Đây vốn là chùa Phong Huyệt ngày xưa, chùa này hoằng truyền luật, vật dụng trong chùa xưa kia, vào những năm đói người ta lấy hết rồi. Hiện nay chỉ còn tượng Phật, chuông trống mà thôi. Sư hỏi:

– Tôi có thể ở được không?

Người cày ruộng đáp:

– Được.

Thế rồi sư trụ lại ở đây. Ban ngày sư vào xóm làng xin ăn, ban đêm chỉ đốt nhựa thông. Một mình sư đã ở đây suốt bảy năm. Sau đàn việt sửa sang lại và nơi đây trở thành tòng lâm.

Đời Tấn, năm Thiên phước thứ hai, Mục Châu nghe danh của Sư, hết lòng ngưỡng. Ngày Thượng nguyên, Sư khai đường tiếp nối dòng pháp Nam Viện. Đời Hán năm Càn Hựu thứ hai, Châu Mục dời chùa về Trình châu, Sư tránh giặc nên cũng về ở đó. Sau Châu Mục dựng chùa ở Châu quận, cúng dường thực phẩm cho Sư. Giặc yên, bấy giờ Tống Thái sư ở Nhữ châu cúng nhà của mình làm chùa, lấy tên là Tân tự, thỉnh sư về ở. Pháp hội của sư trùm khắp thiên hạ, người học từ xa lặn lội tìm đến. Sư thượng đường dạy:

– Tiên sư nói: “Muốn được thân gần chớ mang nghi vấn tới mà hỏi hiểu không. Câu hỏi ở trong câu đáp, câu đáp ở trong câu hỏi. Tuy là như vậy, nhưng có khi câu hỏi không nằm trong câu đáp, câu đáp không nằm trong câu hỏi. Nếu các ông toan nghĩ ngợi, lão tăng ở dưới gót chân các ông rồi. Hễ là người tham học có mắt sáng, gặp cơ duyên, phải thấy đại dụng trước mắt, chớ câu thúc mình trong tiểu tiết. Giả sử thốt được lời cũng vẫn còn kẹt trong cỏ, trói trong mê. Ngay lời nói tinh thông cũng chưa thoát khỏi giữa đường thấy loạn. Xem ra các ông đến nhằm nương người khác để hiểu. Sáng tối hai đường và các ông tất cả đều quét sạch, dạy thẳng. Các ông mỗi mỗi phải như sư tử gầm rống. Trước chúng phải có chứng cứ. Một tiếng rống như vách đá cao ngàn nhận, ai dám nhìn thẳng? Hễ đưa mắt nhìn liền đui mắt y”.

Sư nói tiếp:

– Nếu lập mảy trần thì nước nhà hưng thịnh, lão già nhà quê sụp sống mũi; chẳng lập mảy trần thì nước nhà diệt vong, lão già nhà quê an ổn. Ngay đó thấy rõ Xà-lê không có phần. Lão tăng hoàn toàn chẳng biết gì ở đây cả. Lão tăng tức là Xà-lê, Xà-lê chẳng khác lão tăng. Hay tỏ ngộ được cũng là người trong thiên hạ mà hay mù cũng là người trong thiên hạ. Muốn biết Xà lê ư? Sư vỗ đầu gối trái nói: “Ở đây này! Muốn biết lão Tăng ư?” Sư vỗ đầu gối phải nói: “Ở chỗ này này”.

Khi đó chẳng có người đương cơ. Đời Châu, niên hiệu Quảng Thuận năm đầu, vua sắc tứ chùa tên là Quảng Tuệ. Hai mươi hai năm sau, vào một buổi sáng tháng tám năm Khai Bảo thứ sáu đời Tống. Sư thăng tòa nói kệ:

Nương thời truyền đạo lợi quần sinh
Phương xa chẳng ngại tự vươn lên
Năm sau có gã như thế ấy
Ngày đốt hương thơm tối đốt đèn.

Đến ngày rằm, Sư ngồi kiết già thị tịch. Trước đó một ngày sư viết thư từ biệt đàn-việt. Sư thọ bảy mươi tám tuổi, tăng lạp năm mươi chín hạ. Đệ tử đắc pháp có Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm ở Nhữ châu.

Giáp Tuất: Vua hạ chiếu sai bọn Tào Bân đánh Nam Đường. Liền đổi niên hiệu là Càn Hanh.

Ất Hợi: Tào Bân bắt sống Nam Đường chủ là Lý Dục đem về.

Dục được phong làm Vi mệnh hầu, đất nước diệt xong.

5. Thiền sư Vĩnh Minh Trí Giác:

Sư họ Vương, húy là Diên Thọ, người Dư Hàng. Từ nhỏ sư đã quy tâm Phật thừa, tới tuổi trưởng thành sư không ăn mặn, ngày chỉ ăn một bữa, trì Pháp Hoa, chỉ hai tháng sau sư đã tụng thuộc làu, muông thú cảm động đến quỳ nghe kinh. Năm hai mươi tám tuổi, Sư làm Hoa Đình trấn tướng, theo Đại sư Thúy Nham về ở và hoằng hóa tại chùa Long sách. Bấy giờ, Ngô việt Văn Mục Vương biết Sư là người mến mộ đạo pháp, liền thể theo chí nguyện của Sư đồng ý để Sư xuất gia. Sư lễ Đại sư Thúy Nham làm thầy, chấp lao phục dịch, hầu như quên hẳn chức vị tướng soái của mình. Sư mặc áo không tơ lụa, ăn thì chẳng chú trọng đến vị ngon, chỉ ăn mặc sơ sài, đạm bạc qua ngày. Sau sư qua ngọn Thiên Trụ ở Thiên Thai và tu thiền định ở đây suốt ba tháng, đến nỗi chim yến đến làm tổ trên áo sư. Kế đó sư yết kiến Quốc sư Đức Thiều, Đức Thiều vừa gặp sư liền hứa khả, ngầm trao huyền chỉ và nói với sư rằng:

– Ông có duyên với Nguyên soái, ngày sau sẽ trùng hưng chùa tháp.

Hồi ấy, Sư trụ trên núi Tuyết Đậu ở Minh châu, học chúng đua nhau tìm đến. Sư thượng đường dạy:

– Ở chỗ Tuyết Đậu này nước lũ dâng cao ngàn tầm, không phút giây ngừng nghỉ, núi ấy cao muôn nhận không có chỗ đặt chân, các ông nhắm chỗ nào bước tới.

Lúc ấy có vị Tăng hỏi:

– Đường tắt của Tuyết Đậu làm cách nào đặt chân?

Sư đáp:

Bước bước hoa lạnh kết Lời lời tan hoại băng.

Kiến Long năm đầu, Trung Ý Vương thỉnh sư trụ tại Tân tự trên núi Linh Ẩn làm đời thứ nhất. Năm sau lại thỉnh sư trụ ở đạo tràng Vĩnh minh làm đời thứ hai, nơi đây học chúng có đến hai ngàn người.

Một hôm có vị Tăng hỏi:

– Thế nào là ý chỉ của Vĩnh Minh?

Sư đáp:

– Đốt thêm hương đi!

Tăng thưa:

– Dạ.

Sư dạy tiếp:

– Cứ thế! Đừng giao thiệp!

Sư có bài kệ rằng:

Muốn biết đạo Vĩnh Minh
Một hồ nước trước cửa
Trời soi sinh ánh sáng
Gió đến sóng lăn tăn.

Sư trụ trì Vĩnh Minh suốt mười lăm năm, độ được một ngàn bảy trăm đệ tử. Năm Khai bảo thứ bảy, Sư vào núi Thiên Thai, truyền giới cho hơn vạn người, thường thọ Bồ-tát giới với bảy chúng. Ban đêm sư cúng thí thức ăn cho quỷ thần, ban ngày sư phóng sinh các loài động vật, trong sáu thời sư thường dâng hoa, hành đạo. Đạo lực của sư ít ai sánh bằng.

Tác phẩm do sư trứ thuật gồm: Tông Cảnh Lục một trăm quyển, thi kệ phú vịnh cả thảy ngàn vạn lời. Quốc vương nước Cao Ly nghe được giáo pháp của sư liền sai sứ mang thư đến tỏ ý muốn làm đệ tử, đồng thời dâng cúng cho sư ca-sa đính sợi vàng, mấy hạt châu, một chậu đựng nước tắm bằng vàng v.v… Ngoài ra có ba mươi sáu vị Tăng Cao ly đến nghe sư giảng dạy, ghi chép những lời giảng thuyết của sư đem về nước, mỗi người hoằng hóa một phương.

Giờ Thìn ngày hai mươi sáu tháng mười hai năm Khai Bảo thứ tám, Sư đốt hương cáo biệt đại chúng rồi an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, tăng lạp bốn mươi hai hạ. Năm sau tứ chúng dựng tháp Sư ở núi Đại Từ, Tống Thái Tông sắc tứ nơi đây là Thọ Ninh thiền viện.

6. Ngô Việt Vương soạn bài tựa trong Tông Cảnh Lục:

Thiên hạ Đại nguyên soái Ngô việt quốc Vương Tiền Thúc soạn bài tựa trong Tông Cảnh Lục rằng:

“Tận tường thay! Ba điểm cốt lõi trong giáo pháp của nước ta, đó là làm cho vua tôi chân chánh, làm cho cha con thân thiết, làm cho nhân luân sâu dày. Nho là thầy của ta. Vắng lặng thay! Khoáng đạt thay! Không thể nghe nhìn được. Từ vi diệu lên thẳng hư vô nhằm dừng hẳn tiếng tăm, chế ngự ngoại cảnh. Vua mà thể nhập được thì nền thiện vững bền, dân mà thể nhập được thì nguồn phước vô cùng. Đây là thầy của đạo Nho.

Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Tam minh, Bát giải thoát, từng phút tu tập, hằng ngày hành trì, một khi đã lên được thánh quả, thì vĩnh viễn thấu tỏ chân thường. Đó là tông chỉ của đạo Phật. Tự tâm mỗi người phải hành trì đủ ba giáo pháp ấy.

Tông Cảnh Lục là bộ sách do Thiền sư Trí Giác soạn gồm một

trăm quyển, chứa hết những lời nhiệm mầu. Những lời từ kim khẩu Đức Phật tuyên dương đều bàng bạc trong biển giác, không ngoài mục đích dẫn dắt hậu học. Sư là người có trí tuệ biện tài, diễn xướng vạn pháp, thấu tỏ nguồn tâm, sông thiền chảy tràn, mây tuệ che khắp. Mấy điều ấy đủ thấy nó bao la, không thể nào diễn tả hết được. Nhờ bài tựa nhỏ này, nhằm tán thán lưu hành”.

7. Hậu Tư (lời bạt) trong Tông Cảnh Lục:

Tống Tả Triều mời Lang Thượng thư Lễ bộ viên ngoại lang hộ quân Dương Kiệt soạn lời bạt trong Tông Cảnh Lục rằng:

“Chân ngữ của chư Phật lấy tâm làm tông, chúng sinh tin đạo đều lấy tông làm gương. Cõi chúng sinh tức là cõi chư Phật; do mê nên làm chúng sinh. Tâm chư Phật tức là tâm chúng sinh, do ngộ mà thành chư Phật. Tâm như gương sáng muôn tượng đều in hình, Phật và chúng sinh giống như ảnh tượng. Niết-bàn sinh tử đều là giả danh. Thể của gương vắng lặng nhưng thường chiếu gương chiếu soi nhưng thường vắng lặng. Tâm, Phật, chúng sinh cả ba đều không sai biệt.

Thiền sư Vĩnh Minh Trí Giác Diên Thọ của nước Ngô Việt là người chứng Tối thượng thừa, tỏ Đệ nhất nghĩa, thấu suốt giáo điển, thâm đạt thiền tông, nghiêm trì Luật nghi làm lợi ích rộng khắp. Nhân đọc đến câu “Lời Phật lấy tâm làm tông” trong kinh Lăng-già ngài bèn soạn thuật bộ Lục này. Từ trong vô nghi mà khởi nghi, từ trong vô vấn mà lập vấn, thật là bậc Đại đạo sư cho những người không biết thưa thỉnh. Ngài lượm của báu trong long cung ban phát cho khắp quần sinh, mở toan cửa Phật tổ tiếp nhận hết hữu tình, mở mắt thấy ngay, muốn có liền đủ, nêu cao lòng tin đã nhanh lại chóng, gội sạch tà kiến, chỉ thẳng nguồn mầu. Đó gọi là lấy nhất tâm làm tông, soi vạn pháp làm gương. Nếu người lấy Phật làm gương thì thấy rõ giới định tuệ là cái gốc của muôn thiện. Trời, người, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như lai đều từ đây lưu xuất. Tất cả thiện nhân đều tin thọ. Nếu lấy chúng sinh làm gương thì thấy rõ tham, sân, si là cái gốc của muôn ác. Tu la, bàng sinh, địa ngục, ngạ quỷ đều từ đây mà có. Tất cả kẻ ác không ai chẳng sợ. Thiện ác tuy khác nhau nhưng gốc vẫn không khác. Soi ngược vào tâm mình thì thấy rõ nó linh diệu sáng ngời vắng lặng bao la dung thông tất cả, vô vi, vô trụ, vô tu, vô chứng không mảy trần để nhiễm, không chút bụi để phủi, nó là cội nguồn của tất cả các pháp. Hồi ấy Ngô Việt Trung Ý Vương ghi chép rồi cất kỹ trong giáo tạng, đến khoảng niên hiệu Nguyên Phong, Hoàng đế Ngụy Đoan Hiến vương khắc bản và ban phát cho những chùa nổi tiếng, bốn phương học giả ít gặp được bản luận này. Mùa hạ tháng sáu năm Nguyên Hựu, tôi lên đạo tràng Pháp Vân ở Đông đô mới gặp được tân bản (bản mới) ở Tiền Đường, bản này vô cùng tinh tường. Thế rồi người nước Ngô là Từ Tư Cung liền thỉnh Thiền sư Pháp Dũng, Vĩnh Lạc, Pháp Chân cùng tìm tòi hết các bộ Lục, tất cả kinh sách của Tam thừa, những lời giáo huấn của hiền thánh, nghiền ngẫm so sánh rồi hoàn thành bộ Lục này lưu bố khắp nơi. Bộ Lục này lợi ích vô cùng, Pháp Dũng biết tôi rất thích đọc bộ Lục này nhân đó nhờ tôi viết lời bạt.

8. Thái Tông: (Bính Tý)

Thái Tông tên là Cảnh, lúc đầu có tên là Khuông Nghĩa, con thứ ba của Tuyên Tông. Lúc Thái Tổ bị binh biến ở Trần Kiều, ông can gián anh mình chớ để quân lính cướp bóc, muôn dân nhờ đó yên ổn. Tháng ba năm Chí Đạo thứ ba, ông mất tại điện Van tuế, an táng ở Vĩnh

Hy lăng, thọ năm mươi chín tuổi. Ông lên ngôi đổi niên hiệu là Thái Bình Hưng Quốc.

Năm này, vua hạ chiếu cho Tăng, Ni khảo thí kinh. Ngô Việt Trung Ý Vương Tiền Thúc quy phục nhà Tống. Tháng mười một có nhật thực.

9. Vua Soạn Bài Tựa Cho Tam tạng Thánh Giáo:

Vua soạn bài tựa cho Tam tạng Thánh giáo mới được dịch và tặng bài tựa này cho Thiên Trúc Tam tạng Pháp sư Thiên Tức Tai. Bài tựa ghi:

“Lớn thay! Giáo pháp của Phật ta! Giáo hóa quần mê, xiển dương tông tánh. Nó rộng lớn thâm sâu, người thông thái đâu thể rõ được ý chỉ; nó mầu nhiệm tinh vi, kẻ ngu hèn lẽ đâu đến được cội nguồn của nó! Nghĩa lý u huyền, chân không khó đoán, bao quát vạn tượng, dẫn dụ khôn cùng. Thống nhiếp đầu mối của muôn pháp, diễn xướng chánh giáo không giới hạn, tát cạn biển khổ cho bốn loài, lột tả lời huyền của ba tạng. Trời đất biến hóa trong âm dương, nhật nguyệt đầy vơi trong nóng lạnh. Lớn thì nói đến trong việc thiện ác, nhỏ thì ví với cát ven sông, vạn đầu mối của hàm linh không thể nào thuật lại hết. Nếu xét thấy vạn pháp như bóng theo hình, lìa lục tình để trường tồn, trải ngàn kiếp mà vẫn còn mãi; núi Tu-di nằm gọn trong hạt cải; Như lai thong dong trong vô biên; Đạt-ma từ Tây sang Đông truyền pháp, tuyên dương diệu lý, tùy cơ dẫn dắt. Bờ kia là Bồ-đề, sông ái là sinh diệt, hành đạo ngay trong ngũ trược ác thế, cứu vớt ngay trong tam nghiệp khổ đạo. Kinh truyền lại cho đời vốn khôn cùng, đạo lưu lại cho nhân gian muôn thuở. Lời kinh trên Tyuết sơn như mắt sáng trên đài bạc, khí tượng của tháng năm xông tràn cả pháp giới. Vời vợi khó lường sâu xa khó gọi. Vì vậy mà đạo nhuần đến Thập thánh, đức bủa khắp Tam hiền. Đạo lớn khởi thủy từ đất trời, nguồn diệu phát sinh từ nhật nguyệt, thống nhiếp muôn hình vạn trạng, chiếu soi tăm tối ngu mê, dứt sạch thị phi xua tan tăm tối.

Pháp sư Thiên Tức Tai bên Tây Vực là người thường trì Tứ nhẫn, sớm tỏ Tam không, dịch lý mầu từ Phạm bối, nối thánh giáo cho trời người, mở tiếp nguồn huyền ứng thời hợp thế, trải ngũ thanh trong văn chương, diễn Tứ thỉ trong niêm luật, vời vợi bao la, ngời ngời sáng rõ. Bóng tối ngàn đời bỗng nhiên sáng lại, cửa huyền tỏ rạng; ánh sáng của quỹ phạm tô điểm pháp mầu, cõi tịnh dội vang, hữu tình lợi lạc cùng lên bờ giác chẳng chút khó khăn, cứu kẻ nhu nhược. Ngầm vận Từ bi thấm nhuần muôn vật, điều phục tham sân, khai mở kẻ ngu. Diễn Tiểu thừa thì Thanh văn hợp uy nghi, luận Đại thừa thì chánh giác lập được tánh. Hàm linh tỏ ngộ mà nhờ ân, tạng giáo đã vơi thì lại đầy, giáo hóa đường mê, dẫn dụ nhà lửa. Dù lập giáo này nhưng người không biết đến cũng không phải ít. Nhưng hễ nghĩ thiện thì phước lợi ngập tràn, hễ tạo ác nghiệp thì thắng duyên gãy đổ. Điều phục bốn chúng lập hạnh mười phương, rải mưa hoa trong bệ rồng, giữ hằng hà nơi cửa khuyết, núi cao vời vợi chẳng thể hoại, sông sâu hun hút chẳng thể tràn, vắng lặng trạm nhiên là trí tuệ thanh khiết viên minh; tánh không chẳng nhiễm là nhân duyên thật tướng giải thoát. Có thể lìa phiền não từ đất tâm, có thể nhận thanh lương từ vũ trụ. Trẫm thẹn vì không học rộng lý mầu của Thích điển, đâu dám buông lời để dạy bảo đời sau. Như ánh sáng của đèn đuốc đâu đủ sánh với mặt trời, như đem một bầu nước mà sánh với biển khơi, lẽ đâu có thể thấu tận vực sâu của nó”.

Kỷ Mão: Bắc Hán hàng, được phong làm Bành Thành Công. Năm này đình chỉ việc khảo thí Tăng, Ni.

10. Tán Minh san định Đại Tống Tăng Truyện:

Sư họ Cao, tiên tổ là người Bột Hải, Sư sinh vào khoảng niên hiệu Thiên Hựu tại ngôi nhà ở Đức Thanh Kim Nga thuộc Ngô hưng. Sư xuất gia tại chùa Tường Phù đất Hàng châu. Sư tu tập theo Nam Sơn Luật, trước thuật Tỳ ni. Thời bấy giờ người ta gọi sư là Luật Hổ (Luật chủ). Sở học của sư ngày càng thâm sâu, tiếng tăm ngày một vang dội. Vũ Tông, Túc Tông cùng các bậc vương công hoàng tộc đều rất kính trọng sư, phong sư làm Lưỡng Chiết Tăng Thống, tặng hiệu là Minh Nghĩa Tông Văn. Năm Hưng quốc thứ ba, Thái Tông nghe danh sư liền thỉnh vào điện Tư Phước, cả ngày hỏi đạo. Nhân đó vua đổi hiệu của sư là Thông Tuệ, xuống chiếu thỉnh sư san định lại Tống Cao Tăng Truyện gồm ba mươi quyển, đồng thời thỉnh sư soạn sự tích Thánh hiền của Tam giáo gồm một trăm quyển. Hồi ấy, Sư làm Bổ tả Nhai Tăng lục Giảng Kinh Thủ Tòa và Tri Sự Giáo Môn Tây Kinh, đến niên hiệu Hàm bình sư làm thêm chức Hữu Nhai Tăng Lục. Sư lại soạn Nội Điển tập gồm một trăm năm mươi quyển, Ngoại Học Tập gồm bốn mươi chín quyển. Nội Hàn Vương Vũ viết những bài tựa cho Văn tập, hết lời tán thán ngợi khen. Sư thị tịch năm Chí Đạo thứ hai, an táng ở đồi Long Tỉnh.

11. Vua hạ chiếu lập ra viện dịch kinh: (Nhâm ngọ)

Kha Ngạc ở Thư châu gặp một dị Tăng ở núi Vạn Tuế, vị Tăng dùng trượng chỉ vào gốc tùng bảo Ngạc đến đào, quả nhiên thấy một phiến đá quý có khắc chữ Triện, đó là lời sấm nói về vận nước lâu bền. Ngạc đem phiến đá vào kinh, vua hạ chiếu cất trong mật phủ.

Hôm khác Đại sĩ Bảo Chí hiện thân trong cấm cung, vua đích thân nghe Đại sĩ tâm tình và tiễn Đại sĩ đến Tế Chung sơn, truy tặng sư hiệu là Đạo Lâm Chân Giác Bồ-tát.

Năm này, vua xuống chiếu lập ra Viện Dịch Kinh Truyền Pháp ở Đông kinh, giống như đời Đường thuở trước. Tể Phụ làm người nhuận văn, đặt quan chia chức. Những vị Tăng của Tây Thiên, Trung Ấn Độ, Nhạ-lan-đà-la, Mật Lâm tự như Thiên Tức Tai, Pháp Thiên, Thi Hộ là những vị dịch kinh, vua là người viết lời tựa. Vua lại hạ chiếu cho thiếu niên trong nước xuất gia làm Tăng, không hạn định như phép chế của Hữu ty trước đây. Từ khi lên ngôi đến nay, vua đã cho phép hơn một trăm bảy mươi ngàn người xuất gia.

12. Triệu Phổ bị báo ứng:

Tháng năm năm này, vua giáng Tần vương Đình Mỹ xuống làm Bồi Lăng Huyện Công, cho ở tại Phòng châu. Có lần Hoàng thượng đem ý truyền quốc hỏi Triệu Phổ. Phổ nói:

– Thái Tổ đã nhầm lẫn, lẽ đâu bệ hạ lại nhầm nữa chăng! Đình Mỹ sở dĩ đắc tội là do Phổ này gây nên.

Lư Đa Tốn nắm quyền trong triều, thường gièm pha Triệu Phổ.

Phổ rất ghét Tốn. Phổ vào triều tâu với vua rằng:

– Đa Tốn bảo, sau khi bệ hạ mất, thiên hạ sẽ về tay Ngụy vương, Ngụy vương lại trả về cho Tần vương. Bệ hạ không nên lập Thái tử.

Thế là Ngụy vương và Tần vương bị ghép vào tội đại nghịch, cho miễn tội chết, đuổi về làm dân thường, hai vương đều phải chịu hàm oan. Vua đày hai vương lên phía Nam sau đó giết chết. (Tần vương là Đức Phương, con út của Thái Tổ).

Một hôm, Triệu Phổ bỗng thấy trên không có một vòng lửa, có một con dê con đi trên đó, phía dưới có dòng chữ “Đây là tội của Phổ”. Lát sau không thấy ánh sáng nữa. Phổ liền lâm bệnh, lập tức sai bọn Phương sĩ đến cầu cúng. Bọn này thấy trong đám khói có một thẻ bài màu đỏ, bên trong ghi chữ vàng. Trong ấy ghi “Ngụy vương Đình Mỹ cảm tạ rằng: Lời của Phổ không đáng tội. Đỗ Thái hậu có di chúc, Thừa tướng viết lời thề giấu trong hòm vàng để trong thạch thất, nhưng Phổ là người đầu tiên kiện cáo Đa Tốn, khiến chúa thượng giết một người em và một người cháu, lẽ đâu bảo rằng Phổ không có tội ư!”. Lát sau Phổ chết.

Quý Mùi: Liêu Thánh Tông tên là Long Tự, lên ngôi đổi niên hiệu là Thống Hòa.

Giáp Thân: Đổi niên hiệu là Ung Hy. Vua hạ chiếu cho dựng tháp ở Tứ châu. Tháng mười vua phong ẩn sĩ Trần Đoàn hiệu Hy Di Tiên sinh, sau ông xin về Hoa sơn.

Ất Dậu: Tháng hai, vua hạ chiếu cấm không cho xây thêm tự quán.

13. Thiền sư Trừng Viễn ở viện Hương Lâm:

Sư sinh ra trong một nhà quan ở huyện Miên Trúc, Hán châu, Tây xuyên. Nối pháp của Thiền sư Vân Môn Văn Yển.

Hồi ấy, Sư trụ ở Thiên Vương viện trong chùa Nghinh Trường, huyện Đại Giang, Tây Xuyên. Thời ấy người ta gọi sư là Thủy Tinh cung.

Có vị Tăng hỏi:

– Vị ngon đề hồ tại sao biến thành độc dược?

– Giấy Đạo Giang.

– Lúc thấy sắc liền thấy tâm thì thế nào?

– Vừa rồi ở đâu đến?

– Lúc tâm cảnh đều quên thì thế nào?

– Mở mắt ngồi ngủ.

Sau sư về lại Hương Lâm. Có vị Tăng hỏi Sư:

– Ẩn thân trong Bắc đẩu, ý chỉ ấy thế nào?

– Trăng tựa vòng cung, mưa ít gió nhiều.

– Thế nào là một ngọn đèn trong nhà?

– Ba người làm chứng, con rùa thành ba ba.

– Thế nào là việc của Nạp tăng?

– Tháng chạp lửa thiêu núi.

– Đại chúng vân tập, thỉnh sư khai thị.

– Ba chẳng đợi hai.

– Thế nào là việc trong ngày của người học?

– Vừa vặn.

– Thế nào là huyền?

– Hôm nay đến, ngày mai đi.

– Thế nào là huyền trong huyền?

– Nằm daì trên giường.

Mậu Tý: Đổi niên hiệu Đoan Củng. Vua ban tên họ bổng lộc cho Tây Hạ Lý Kế, Triệu Bảo Trung Ngân làm Liêu Mật Ngũ Châu Sứ.

Canh Dần: Đổi niên hiệu Thuần Hóa. Vua xuống chiếu cho soan sự tích Thánh hiền Tam giáo. Tham chánh Tô Dịch làm người biên soạn; Tăng thống Tán Ninh, Đạo sĩ Hàn Đức Thuần đều tham dự.

14. Tôn giả Tự Nghiêm ở Nam An:

Sư họ Trịnh, húy là Tự Nghiêm, người Đông An, Tuyền châu. Năm mười một tuổi, Sư theo tăng Khế Duyên ở chùa Ngọa Tượng, Kiến Hưng xuất gia làm đồng tử. Mười bảy tuổi sư thọ giới, vân du đến Lô Lăng, yết kiến Tây Phong Kỳ Túc Vân Hoát. Hoát là cao đệ của Thiền sư Thanh Lương Trí Minh, là đích tôn của Vân Môn.

Thái Tông có lần mời sư vào cung, thỉnh sư ở trong ngự viên. Sư tu tập thiền định thời gian lâu, sau đó xin về núi. Sư dụng công tu tập năm năm, mật khế tâm pháp, sau sư từ giã nơi đây vượt qua sông Hoài nhân. Trong sông có con thuồng luồng thường hại những người qua sông. Sư đến, nói kệ và răn dạy. Thuồng luồng lập tức bỏ đi. Sư qua vùng núi Hoàng Dương muốn uống nước nhưng gặp phải suối cạn khô, Sư dùng trượng nện xuống đất, bỗng nhiên nước tuôn lên, già trẻ thấy thế xúm lại xem, họ chắp tay chào cho sư là thần. Thấy vậy, Sư bỏ đi.

Vùng núi Hoàng Thạch là nơi có nhiều rắn cọp, Sư đến ở đây sai khiến được cả rắn cọp. Bốn phương nghe danh sư thảy đều thất kinh, tranh nhau đến cung kính, phúng sự sư. Dân thấy trời không mưa nên đến cầu khẩn sư, tùy sở nguyện của họ, Sư đều làm ai nấy mãn nguyện.

Ai nấy đều họa tượng sư thờ, cúng tế cơm nước.

Chùa bên cạnh có vị Tăng chết, Sư không biết cần phải báo quan, lại đem thiêu. Quan đến bắt sư hỏi tội. Sư chẳng đáp mà lấy giấy viết bài kệ:

Tăng quê vô sự chết
Tăng quê vô sự thiêu
Hai pháp không sai khác
Đường Bồ-đề chẳng xa.

Nét bút ngang dọc ngoằn nghoèo như Đại triện, quan lại nổi giận cho sư điên khùng xem thường mình, bèn cởi y Tăng-già-lê của sư rồi phơi nắng sư. Sau khi được tha, Sư lấy vải trùm lên đầu. Quan bắt sư mặc đồ thế tục. Sư nói điều gì, người nghe chỉ tin một nửa, nhân đó sư im lặng suốt sáu năm.

Hồi ấy chùa và muôn dân mỗi năm phải nộp vải, gặp lúc quan lại đi thâu, Sư không chịu được liền bẻ thẻ bài, giật vải trong tay quan xin được miễn nộp. Quan lại là Trương Hoa, Âu Dương Trình nổi giận, bắt sư đến hỏi tội. Sư không đáp, quan lại cho sư là yêu ma giả mạo. Sư lấy giấy làm kệ:

Tất cả sức từ nhẫn
Đều do tâm ta sinh
Nếu vua quan bắt nhốt
Phật pháp chẳng lưu hành.

Từ đó sư nói năng trở lại. Sư vân du qua núi Bàn Cổ ở Nam khương. Trước đây Tôn giả Ba-lợi người Thiên Trúc từng ngang qua đây và có lời sấm ký rằng:

“Sau này sẽ có Bạch y Bồ-tát đến hoằng hóa tại núi này”.

Sư ở đây ba năm, nơi này trở thành tòng lâm, dị tích của sư rất nhiều có chép đủ trong hành trạng của Sư. Vua nghe danh sư liền xuống chiếu thỉnh. Tể tướng Vương Khâm Nhược, Đại tham Triệu An Nhân trở xuống đều tặng thơ cho sư nhưng sư chẳng bao giờ xem tới, để đến nỗi bụi bám đầy.

Mồng sáu tháng giêng năm Tân Mão, niên hiệu Thuần Hóa, Sư nhóm chúng nói:

– Hôm nay ta đi, giờ đã đến lúc.

Nói xong, Sư nằm nghiêng bên phải thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi, tăng lạp sáu mươi lăm hạ. Vua ban thụy là Định Quang Viên Ứng Thiền sư.

15. Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn:

Sư họ Địch, người Lai châu, từ nhỏ xuất gia tại chùa Nam Thiền. Sư sống rất đơn giản, là người hiểu biết rất sâu, hành hạnh Đầu-đà, hằng ngày tụng Pháp Hoa. Tăng chúng tòng lâm rất kính phục Sư, gọi sư là Niệm Pháp Hoa. Sư đến pháp hội của Phong Huyệt tùy chúng tu tập. Mọi nghi ngờ về môn giáo sư đều thưa hỏi, chỉ có giáo Ngoại biệt truyền là sư không thưa hỏi. Phong Huyệt có lần nói với sư:

Ông là người hiểu biết được ngưỡng vọng, tông Lâm tế tới Huyệt này thì dứt rồi, thật đáng sợ! Ta xem kỹ dưới tòa, người kham lãnh đạo pháp không ai như ông”.

Một hôm Phong Huyệt thăng tòa nói:

– Thế Tôn dùng con mắt như sen xanh nhìn Ca-diếp, ngay lúc ấy nói được cái gì? Nếu nói không nói gì tức là vùi chôn tiên thánh.

Phong Huyệt nói chưa xong, Sư bỏ đi mất. Thị giả bước tới hỏi:

– Niệm Pháp Hoa không nói mà bỏ đi là sao vậy?

Phong Huyệt đáp:

– Gã lãnh hội rồi.

Hôm sau sư và Thượng tọa Chân cùng lên Phương trượng. Phong Huyệt hỏi Chân:

– Thế nào là Thế Tôn không nói?

Chân đáp:

– Tu hú kêu trên cây.

Phong Huyệt nói:

– Ông làm nhiều phước si để làm gì?

Phong Huyệt quay qua hỏi Sư:

– Ông thì thế nào?

Sư đáp:

– Đổi sắc nêu đường xưa.

– Không rớt núi, đúng cơ.

Phong Huyệt nói với Chân:

– Sao không xem lời ông ấy!

Hôm khác Phong Huyệt thăng tòa nhìn khắp đại chúng, Sư liền bỏ đi. Phong Huyệt liền về phương trượng.

Từ đó thanh danh của sư vang dội khắp nơi. Thủ Sơn là vùng đất hoàng nằm ngoài thành Nhữ châu, nhưng sư đã ở cả đời tại đây. Những người đến đây đều là nạp tử tinh luyện của tòng lâm, Sư đều nghiệm người rất kỹ, chỉ hơn hai mươi người ở lại đây. Thiên hạ nói đến pháp tịnh đứng đầu thiên hạ, đều chỉ Thủ Sơn.

Có lần sư hỏi Tăng:

– Việc gì chẳng nhờ người khác mà được, thử nói xem!

Tăng liền hét. Sư nói:

– Thiện thì như vậy, ác khởi thì làm gì?

Tăng lại hét. Sư nói:

– Hôm nay bỏ ngang thì không được.

Tăng nghĩ ngợi. Sư liền hét.

Có lần sư dạy chúng:

– Phật pháp chẳng có nhiều, chỉ là các ông tự tin chưa đến. Nếu các ông tự tin được thì ngàn thánh ra đời cũng chẳng làm gì các ông. Vì sao? Vì trước mặt ông không có chỗ mở miệng. Chỉ vì các ông chưa tự tin, hướng ngoại tìm cầu, cho nên dù Phật Thích-ca đến đây cũng sẽ cho các ông ăn ba mươi gậy. Tuy là như thế, sơ cơ hậu học dựa vào lý gì?

Ta hỏi các ông, các ông đã được gì chưa?

Im lặng giây lâu, Sư nói tiếp:

– Nếu được vậy thì mới gọi là người rõ việc.

Sư từng bài Cương tông kệ rằng:

Ôi! Anh chàng vụng về
Khéo léo chẳng ai biết
Đánh phá cửa phụng lâm
Mang giầy đứng trên nước
Ôi! Cô gái giỏi giang
Ném thoi chẳng chịu dệt
Xem người ta đá gà
Con trâu cũng chẳng biết.

Ngày bốn tháng mười hai năm Thuần Hóa thứ ba, Sư làm bài kệ:

Ta nay tuổi hơn sáu mươi bảy
Già bệnh nương nhau cứ qua ngày
Năm nay ghi lại việc năm tới
Năm tới ghi lại việc năm nay.

Đúng vào mồng bốn tháng mười hai, Sư thăng tòa từ giã chúng, nói kệ:

Các ông dối lăng xăng
Lỗi gấp mấy sông hằng
Quan Âm chỉ Di-lặc
Văn-thù chẳng sao cả.
Giây lâu, Sư nói:
Thế giới màu bạc, sắc thân vàng
Tình với vô tình một tánh chân
Khi sáng tối sách thì không chiếu
Đến sau giờ Ngọ hiện toàn thân.

Quả nhiên sau giờ Ngọ, Sư an nhiên thị tịch. Đồ chúng dựng tháp tại Thủ Sơn. Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương là người kế thừa tông phong.

Ất Mùi: Đổi niên hiệu Chí Đạo. Vua ngự chế bài tựa trong Bí tạng. Tháng sáu, hạn định chùa chiền cho Tăng, Ni.

16. Chân Tông:

Chân Tông tên là Hằng, con thứ ba của Thái Tông. Ban đầu ông có tên là Đức Xương, sau đổi thành Nguyên Khản, tôn Hiên Viên làm Thánh tổ, tự hiệu là Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng đế; truy phong Khổng Tử là Chí Thánh Văn Tuyên vương. Ông thọ năm mươi lăm tuổi, mất ở điện Diên Khánh, lên ngôi đổi niên hiệu là Hàm Bình.

17. Vua Soạn Bài Tựa Trong Kế Thánh Giáo:

Vua soạn bài tựa trong Kế Thánh Giáo và đem tặng cho Thiên Trúc Tam tạng Triệu Tán Đại Phu Thí Quang Lộc Khang Minh Giáo Đại sư Pháp Hiền. Trong ấy ghi:

“Cao Minh mở vận, tam thần đứng đầu (Nhật, Nguyệt, Tinh). Đất dày hình thành, vạn tượng từ đó nảy sinh. Bản chất của đục trong đã rõ ràng, mà ngọn nguồn của thiện ác càng tỏ rõ. Sau dùng văn vật dựng lập giáo môn. Dùng chánh điển khai hóa thế tục, công lao ích lợi đồng quy về lý. Thế rồi tượng pháp từ Tây truyền sang, chân đế truyền vào Trung Hạ, xuyên suốt ngàn đời, lý chân thật thật không cùng tận, bao quát chín châu, cửa ngõ diệu huyền thật không xét tận. Luận về vọng tưởng thì năm uẩn đều không, hiện thành chân tục thì mảy lông cũng viên mãn. Giáo pháp bao la như vậy, lẽ đâu thuật tiếp được chăng?

Hãy xem! Thái Tông hoàng đế, pháp tánh châu viên, nhân từ bủa khắp. Giáo hóa mọi rợ thì vạn bang quy tụ, vớt dân đen lên miền nhân thọ; sùng kính giáo pháp thì bốn biển theo về, cứu muôn dân lên đất giàu có; thấy Tôn kinh bát ngát, lập phương tiện để cứu kẻ trầm luân; biết pháp giới bao la, hành tinh tấn mà dẫn dắt người giãi đãi. Thế nên, ngài chọn lời thâm thúy, giảo đính chân văn, thỉnh Cao tăng Thiên Trúc dịch lời Phật từ Phạm bối. Từ nét ngoằn ngoèo dịch thành chữ vàng, từ lời châu lại đặt thêm ngọc quý, khiến cho thánh thư nơi Long cung ngời sáng, Sa-môn non Thứu đều tán dương. Nhờ đó xuyên suốt cả Tam thừa, viên dung khắp Tứ đế, thấu tận lời chân thật khổ không, hiển bày nghĩa tinh ròng bí mật. Luận tướng thì thảy là thật tướng, bàn không thì thấu tận lẽ không; lý Hoa nghiêm cùng khế hợp với qũy phạm, giáo Phật thừa thảy hợp với quy củ. Trẫm kế thừa nghiệp lớn, cung kính đạo mầu, thường canh cánh mà vỗ về muôn dân hằng đau đáu mà giữ lời tiên thánh, còn như ngọn nguồn thâm sâu của pháp Phật, trẫm vẫn chưa mấy tận tường, làm sao có thể dò xét!

Có Cao tăng dịch kinh của Tây Vực là Pháp Hiền khẩn thiết tâu trình, khổ tâm lao ý, muốn theo Hoàng đế trước đại xiển chân phong, truyền cao Phật tuệ, khôi phục Thánh điển mai một của Tiên vương, dựng lại kỷ cương gãy đổ của Phật đạo, muốn nêu cao công đức tận trời xanh, muốn mở rộng điển chương của thánh giáo nên thỉnh trẫm soạn bài tựa cho kế Thánh giáo.

Từ khi thánh tổ quy tiên, trẫm đau buồn khôn xiết, ngoài việc chánh sự chẳng muốn lưu tâm việc gì. Nay đã mãn tang để tâm lại lời u huyền, dù từ nhỏ được nuôi dạy cẩn thận nhưng hiềm nỗi tài trí thấp hèn thì làm sao thấu tận bến bờ của pháp giới, làm sao tỏ rõ ngõ ngách nơi cửa không. Nay chỉ lược nêu đại ý mong không phụ lòng mọi người. Một vũng nước đọng đâu thể sánh với sóng cao vút trời xanh; chiếc roi một thước làm sao đo được bóng của trời thẳm. Nây viết đôi dòng là mong ghi lại thánh ân”.

18. Đạo Nguyên soạn Truyền Đăng Lục.

Giáp Thìn: Đổi niên hiệu là Cảnh Đức. Tăng Đông Ngô là Đạo Nguyên gom tập những cơ duyên của các bậc Tông sư kể từ niên hiệu Khai Bình về sau kết hợp Bảo lâm Thánh trụ v.v… soạn thành Truyền Đăng Lục ba mươi quyển. Sư dâng cho vua, vua xem xong hết lời tán thán, liền sai Hàn lâm Dương Ức v.v… khắc bản, đồng thời vua viết lời tựa và cho lưu hành.

Mậu Thân: Đổi niên hiệu là Đại trung Tường Phù. Tháng sáu Thiên thư (sách trời) giáng xuống núi Thái sơn.

19. Vua xuống chiếu cho các châu huyện dựng Thiên Khánh quán:

Kỷ Dậu: Vua xuống chiếu cho các châu huyện dựng Thiên Khánh quán. Trước đây Dương Lệ ngủ trong phủ của Tương vương, nằm mộng thấy mình đến một đại điện, thấy có vị chân nhân mặc vương phục tay cầm ngọc khuê quay mặt về Nam. Trước mặt ông có cái bàn đặt cuốn sổ ghi tên họ. Lệ thấy tên mình ở đầu sổ, nhân đó lạy xin tha mạng. Vị chân nhân liền chỉ một người và nói:

– Đây là Hòa Thiên Tôn, ngày sau sẽ làm ông chủ của người.

Lệ liền hỏi, Thiên Tôn cười đáp:

– Cách đây bốn mươi năm, ông công thành, ta danh cũng hiển.

Lệ ghi nhớ kỹ lời ấy. Đến khi Lệ được sung vào làm trong phủ Tương vương, nhân đó nói với mọi người:

– Ta thấy dung mạo của Tương vương ngày nay, chính là Hòa Thiên Tôn.

Khi Hoàng thượng lên ngôi càng về sau càng thích những đạo thuật thần tiên của Đạo gia.

Quý Sửu: Liêu đổi niên hiệu là Khai Thái. Sau đổi lại là Đại Khiết Đan.

Giáp Dần: Thiên Trúc Tam tạng Thi Pháp Hộ dịch Phật Cát Tường kinh hai trăm quyển. Tham chánh Triệu An Nhân v.v… nhuận văn.

Ất Mão: Vua xuống chiếu hủy và san định kinh của Đạo giáo, Phật giáo. Khu mật Vương Khâm Nhược cho Hóa Hồ kinh là di tích của Cổ thánh nên không bỏ. Vua lại xuống chiếu cho Vương Khâm Nhược thẩm định lại La Thiên Tiếu Nghi mười quyển và cho lưu hành.

Đinh Tỵ: Đổi niên hiệu là Thiên Hy. Cấm dân bỏ cha mẹ đi làm Tăng, Đạo sĩ.

Kỷ Mùi: Tháng chín, vua triệu tập cả Phật giáo, Đạo giáo ở điện Đại An, tất cả hơn mười ba ngàn người, rồi mở trai nghi. Vua đích thân đến dự và ban cho phẩm vật.

Nhâm Tuất: Đổi niên hiệu là Càn Hưng. Tháng hai, vua mất. Liêu đổi niên hiệu là Thái Bình.

20. Pháp sư Trí Viên ở Cô Sơn:

Pháp sư Trí Viên, tự là Vô Ngoại, người Cô Sơn, Hàng châu tự hiệu là Trung Dung Tử hay Tiềm Phu. Sư họ Từ, sinh ở Tiền Đường, cha mẹ cho xuất gia, tám tuổi thọ giới. Đến năm hai mươi mốt tuổi, Sư nghe Pháp sư Phụng Tiên Nguyên Thanh truyền yếu chỉ Thiên Thai tam quán liền đến cầu học. Hai năm sau, Nguyên Thanh tịch, Sư bèn trụ ở Cô Sơn, T6ay Hồ, học chúng đông không kể xiết. Sư thường giao du với Xử Sĩ Lâm Hòa Tĩnh. Lúc này Vương Khâm Nhược đi vỗ yên dân chúng ở Tiền Đường liền sai sứ đến thỉnh sư cùng đi. Sư cười bảo với sứ giả:

– Ở Tiền Đường đã có một vị Tăng trụ đó rồi.

Từ nhỏ sư bị bệnh bướu nên người ta thường gọi sư là bệnh phu (anh chàng bệnh). Sư giảng đạo ngâm nga chưa từng biết mệt. Sư dạy trước môn nhân:

– Sau khi ta mất, đừng chôn cất linh đình mà làm ta có tội, đừng dựng tháp mà khoa trương ta, đừng xin người khác làm bài minh mà khen suông ta, chỉ nên chắp hai miếng áo quan lại mà đem chôn, dựng miếng đá ghi tên họ, ngày, tháng mà thôi.

Đến lúc sư tịch, môn nhân làm đúng lời sư dặn, đục một phiến đá ngay nơi sư ở và an táng sư, không dựng nhà mồ. Bấy giờ là ngày mười bảy tháng hai niên hiệu Càn Hưng năm đầu, Sư thọ bốn mươi bảy tuổi.

Mười lăm năm sau, do mưa gió sạt núi, môn nhân mở quách sư xem thì thấy nhục thân không rã, móng tay tóc dài thêm ra, miệng mỉm cười lộ rõ hàm răng như ngọc kha. Môn nhân bèn thay y áo mới cho sư, đốt hương lễ lạy rồi an táng sư lần nữa.

Sùng Ninh năm thứ ba, vua ban sư thụy là Pháp Tuệ Đại sư. Những tác phẩm do sư trứ tác gồm Bát-nhã kinh, Di giáo kinh sớ mỗi loại hai quyển và những bộ kinh sớ như Thụy Ứng kinh, Bất Tư Nghì Pháp Môn kinh, Vô Lượng Nghĩa kinh, Phổ Hiền Hạnh Pháp kinh, Di đà kinh, Tứ Thập Nhị Chương kinh chú mỗi loại một quyển. Thủ-lăng-nghiêm kinh sớ mười quyển. Sư còn soạn Xiển nghĩa sao ba quyển (Thích thỉnh Quan Âm Sớ); Sách ẩn ký bốn quyển (Thích Quang Minh Cú); San Chánh Ký (Thích Quán Kinh Sớ); Biểu vi ký một quyển (Thích Quang Minh

Huyền); Thùy Dụ ký mười quyển (Thích Tịnh Danh Lược Sớ); Phát Nguyên Cơ Yếu Ký hai quyển (Thích Niết-bàn Huyền); Bách Phi Sao một quyển (Thích Niết-bàn Sớ Kim Cang Thân Phẩm Bách Phi Chi Nghĩa); Tam Đức Chỉ Quy hai mươi quyển (Thích Niết-bàn Sớ); Hiển Tánh Lục bốn quyển (Thích Kim Cang); Phủ Hoa Sao hai quyển (Thích Khuê Phong Lan Bồn Sớ); Tây Tư Sao một quyển (Thích Tự Tạo Diđà Sớ); Di Mưu Sao một quyển (Thích tự tạo tâm kinh sớ); Cốc Hưởng Sao năm quyển (Thích Tự Tạo Lăng-Nghiêm Sớ); Chiết trọng sao một quyển (Thích tự tạo Văn-thù Bát-Nhã Sớ (Đại luận gọi là Chiết Trọng Linh Khinh); Chánh Nghĩa một quyển (Thích Thập Bất Nhị Môn); Nhàn Cư Biên năm mươi mốt quyển (Thi Văn Tạp Trứ) tác phẩm nhân lúc rảnh rỗi sư dùng thơ văn làm phương tiện hành hóa hữu tình.

Quý Hợi: Nhân Tông tên là Chân, con thứ sáu của Chân Tông, ông theo di chiếu lên ngôi. Hồi ấy, Chân Tông về già mới có con, vừa sinh ra Nhân Tông cứ khóc ngày đêm, có một đạo nhân có thể làm ông nín, Chân Tông liền mời vào. Đạo nhân vừa vào liền nói “Nín ngay! Nín ngay! Sao không cười như lúc trước đi”. Nhân Tông nghe vậy nín ngay. Hồi ấy Chân Tông thường cầu tự, Thượng đế thấy vậy hỏi các tiên: “Ai xuống trần gian” nhưng chẳng ai đáp cả, chỉ có Xích Cước đại tiên cười một tiếng rồi xuống đầu thai. Trong cung ai nấy cũng rất thích Xích Cước, việc ấy quả đúng như vậy. Ông lên ngôi mười ba tuổi, Lưu Thái hậu buông rèm thính chính. Ông trị vì bốn mươi hai năm, thọ năm mươi bốn tuổi, an táng ở lăng Vĩnh Chiêu.

Đổi niên hiệu là Thiên thánh, dùng lịch Sùng Thiên.

21. Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương:

Giáp Tý tám mươi mốt. Năm này Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương thị tịch. Sư họ Du, người Thai Nguyên, bẩm tính thâm trầm, không ưa trau chuốt, có chí lớn, tất cả chữ nghĩa không phải thầy dạy nhưng sư đều thông hiểu. Năm mười bốn tuổn, cha mẹ đều qua đời, một thân côi cút, Sư chán ngán cảnh đời, thế phát xuất gia. Sau khi thọ Cụ túc, Sư quảy gói du phương. Đến bất cứ nơi nào sư cũng không ở lâu, không thích du sơn ngoạn thủy. Có người chê sư là người không có tâm hồn. Sư nghe vậy than:

“Ôi! Quê mùa đến thế ư! Ngày xưa tiên đức đi hành cước chính là vì nguồn tâm chưa tỏ muốn cầu người quyết trạch mà thôi chứ đâu phải vì du sơn ngoạn thủy”.

Sư tham vấn bảy mươi mốt vị Lão túc, tất cả đều thấu tỏ gia phong của họ. Sư thích nhất là luận về Tào Động, Vân Môn vì phái này nổi tiếng thiên hạ. Sư yết kiến Thiền sư Triệt, Sư làm bài kệ Ngũ Vị trình lên:

Truy tìm ngũ vị tất phải biết
Mảy may manh động liền sai biệt
Kim cang xuyên hợp nào ai hiểu
Chỉ tiếng quát kia là tột bậc
Nhướng mắt ba cõi liền yên tĩnh
Rung linh lại khiến chín châu về
Ngay trong mầu nhiệm cũng nâng đỡ
Nghĩ nghị đao gươm mất nhưng oai.

Triệt vỗ tay khen hay, nhưng cuối cùng sư vẫn nghi con cháu Lâm Tế ắt còn chỗ đặc thù khác nữa nên sau cùng sư đến yết kiến Thủ Sơn.

Sư hỏi:

– Bá Trượng cuốn chiếu, ý chỉ thế nào?

Thủ Sơn đáp:

– Áo rồng phất lên hiện toàn thể.

Sư hỏi: Ý thầy thế nào?

– Nơi tượng vương đi bặt dấu chân.

Ngay câu nói này sư đại ngộ, liền đảnh lễ. Sư nói: Đầm biết ngàn xưa trăng rỗng lặng Ba phen gạn lọc mới hay ra.

Có người hỏi Sư:

– Thấy đạo lý gì mà chấp nhận ngay vậy?

Sư đáp:

– Chính là chỗ ta buông thân mạng.

Sư ở đây hầu hạ rất lâu, sau đó từ biệt Thủ Sơn đến vùng Tương, Hành. Thái thú Trường Sa là Trương Mậu Tông đưa ra bốn ngôi chùa nổi tiếng mời sư chọn ở. Sư chỉ cười và ban đêm trốn đi. Sư về phía Bắc đến vùng Tương Miến và trụ ở Bạch Mã. Thái thú Lưu Xương nghe danh sư liền đến yết kiến đồng thời lấy làm tiếc vì gặp sư quá trễ. Lúc bấy giờ Động Sơn, Cốc ẩn pháp hội đều bỏ không, học chúng ngầm bàn giao phó cho Sư. Thái thú mời sư chọn. Sư khoát tay nói:

– Tôi là tăng cơm áo đi hoài, truyền tâm tông của Phật không phải là việc nhỏ.

Thái thú thỉnh sư tất cả tám lần nhưng sư vẫn nhất quyết từ chối.

Năm Thuần Hóa thứ tư, Thủ Sơn thị tịch. Tăng tục ở Tây Hà tất cả hơn ngàn người đồng tâm dâng thư nhờ Sa-môn Khế Thông đi nghinh thỉnh sư về trụ trì viện Thái tử tại chùa Thái bình ở Phần châu. Sư vẫn đóng cửa không tiếp. Thông xô cửa bước vào mắng lớn:

– Phật pháp là việc lớn, lui tìm yên tĩnh là tiểu tiết, Phong Huyệt lo nên có lời sấm ký sợ rằng tông phong lụi tàn, may có tiên sư chống đỡ, nay tiên sư đã quy tịnh, ông là người có sức sao không ra gánh vác đại pháp của Như Lai, nay là lúc nào ông còn ngủ yên ở đây?

Sư nghe xong hốt hoảng ngồi dậy nắm tay Khế Thông nói:

– Chẳng phải ông thì tôi không được nghe những lời này, hãy mau thu xếp tôi đi ngay.

Đến Phần châu, Sư ngày đêm tĩnh tọa, chẳng ra khỏi cửa, như thế đến ba mươi năm. Tăng tục trong thiên hạ đều rất ngưỡng vọng sư, họ không dám gọi tên mà chỉ gọi là Phần Châu. Phần châu là xứ lạnh, vì vậy sư miễn tham vấn ban đêm.

Một hôm bỗng có dị tăng chống tích đến nói với sư:

– Trong pháp hội có sáu vị đại sĩ, sao không thuyết pháp?

Nói xong, vị Tăng ấy bay bổng lên không và đi mất. Sư liền ngầm ghi một bài kệ:

Dị tăng chống tích vàng
Đến Phần Dương thỉnh pháp
Sáu người thành pháp khí
Khuyến thỉnh hãy xiển dương.

Lúc bấy giờ, Sở Viên Thủ Chi là Thượng tòa, vang danh khắp chốn tòng lâm. Long Đức Phủ Doãn, Lý Hầu đều là bạn cũ của Sư, nghe thanh danh sư muốn đến thăm hỏi. Họ sai sứ đến thỉnh ba lần nhưng sư không đi. Sứ giả trở về bị trách phạt. Sứ giả đến tiếp và thưa:

– Lần này thỉnh thầy phải cùng đi, nếu không tôi quyết chết tại đây.

Sư cười nói:

– Bệnh già đã đến, không thể ra khỏi viện được, mà nếu đi thì cũng phải kẻ trước người sau, làm sau đi cùng được.

Sứ giả thưa:

– Chỉ cần thầy đồng ý, còn đi trước hay sau tùy ý thầy chọn lựa.

Sư sai người dọn cơm, sắp xếp hành lý. Thu xếp xong, Sư nói:

– Ta đi trước đây!

Nói xong, sư chống đũa an nhiên thị tịch, hưởng thọ bảy mươi tám tuổi, hạ lạp sáu mươi lăm hạ.

22. Vua sắc tứ cho giáo bộ của Thiên Thai được nhập tạng:

Bính Dần: Thiên thanh thứ tư, vua sắc tứ cho Giáo bộ của Thiên Thai tông được nhập tạng. Thị giả Tư Ngộ ở chùa Thiên Trúc đốt thân để báo đền ân nước. Tư Ngộ người ở Tiền Đường hồi ấy Từ Vân Vũ Công muốn xin giáo nghĩa của Đại sư Trí Giả được nhập tạng. Văn Mục Vương Công bẩm báo với triều đình. Tư Ngộ nghe và nói:

– Đây là việc phi thường, kẻ hèn này xin được giúp sức.

Sư bèn thêu tượng Đại bi, tụng chú và phát nguyện:

“Nếu việc này thành, con xin tự đốt thân để báo đền ân nước”.

Từ khi Vân Vũ Công mất, Sư càng tinh tấn tụng chú và trong năm này, sư nhận được chiếu của vua, thế là sư đã toại nguyện.

23. Thiền sư Cảnh ở Đại Dương:

Sư tên Cảnh Huyền, trong niên hiệu Tường Phù vì tránh quốc húy nên đổi tên là Cảnh Diên. Sư họ Trương, quê ở Giang Hạ, tổ tiên của sư vốn sinh sống tại Kim Lăng. Bác của sư là Sa-môn hiệu Trí Thông trụ trì chùa Sùng Hiếu, Sư xuất gia thế phát tại đây. Năm mười chín tuổi, Sư thọ đại giới. Một hôm sư nghe giảng kinh Viên Giác Liễu Nghĩa và hỏi Giảng sư:

– Sao gọi là Viên Giác?

Giảng sư đáp:

– Viên lấy viên dung hữu lậu làm nghĩa, Giác có nghĩa thấu biết cùng tận chẳng sót.

Sư hỏi:

– Làm rỗng rang tất cả “có” “không”, cái gì gọi là Viên giác?

Giảng sư nghe vậy than:

“Người này tuổi còn nhỏ mà hiểu biết cao tột như vậy, thấy biết của ta thật không sao sánh kịp, chẳng khác nào thức ăn thiu đặt trong bình bát báu, lẽ đâu xứng chăng!”.

Trí Thông biết Sư là bậc pháp khí liền khuyên sư đi du phương.

Đầu tiên sư đến Đỉnh châu yết kiến Lương Sơn Quán Công. Sư hỏi:

– Thế nào là vô tướng đạo tràng?

Quán Công chỉ bức tượng Quán Âm trên vách nói:

– Đây là bức tượng do Sĩ Xử họ Ngô vẽ.

Sư suy nghĩ định thưa, Quán Công nói ngay:

– Cái này là hữu tướng, thế nào là vô tướng?

Sư nghe xong hốt nhiên tỏ ngộ ý chỉ, liền đảnh lễ rồi đứng hầu.

Quán Công hỏi:

– Sao không nói thử một câu?

Sư đáp:

– Nói thì không ngại, chỉ sợ vẫn là trên giấy mực.

Quán Công cười nói:

– Ngày sau, lời này sẽ được khắc trên bia.

Sư liền làm bài kệ dâng cho Quán Công, kệ rằng:

Con xưa sơ cơ học đạo mê
Vượt núi băng sông tìm tri kiến
Rốt cuộc chẳng thấu cổ thông kim
Nói đến vô tâm càng nghi nặng
Nhờ thầy chỉ rõ gương thời Tần
Thấy được lúc cha mẹ chưa sinh
Ngày nay thấu tỏ đâu còn chấp
Đêm thả gà đen mang tuyết bay.

Quán Công nghe xong khen:

– Tông Tào động đã có người phó thác.

Sư tự đứng ra gánh vác, cả chúng hội chẳng ai dám thừa đương. Từ đó thanh danh của sư chấn động một thời. Quán Công mất, Sư đến trước tháp đảnh lễ ra đi. Đến Đại Dương, Sư yết kiến Thiền sư Kiên, Kiên vui vẻ nhường pháp hội thỉnh sư chủ trì. Sư nhận lãnh pháp hội.

Trong năm Hàm Bình, Sư dạy chúng:

– Các ông hãy rỗng rang tâm địa, hãy trân trọng, hãy vô sở đắc tâm, hãy bình thường tâm, hãy lìa tâm bỉ ngã được vậy mới mong nhập đạo. Vì thế mà Cổ đức nói:“Thả trâu xuống suối Đông, không tránh khỏi ăn lúa mạ nhà quan; dẫn trâu xuống suối Tây cũng không tránh khỏi ăn lúa mạ nhà quan, chi bằng tùy phần mà thọ dụng chút phần chớ có ngần ngại, miễn đừng lao nhọc lăng xăng.”

Vậy làm thế nào để được tùy phần thọ dụng chút phần? Chỉ cần dứt sạch các pháp “có” “không”, tình phàm thánh sạch thì thể bày chân thường, sự lý chẳng hai tức như như Phật. Nếu làm được như vậy thì pháp pháp không chỗ gá nương, đạo lớn bằng phẳng, chẳng bị muôn pháp trói buộc, tùy xứ triển chuyển khôn cùng, như vậy còn việc gì nữa.

Sư là người kỳ vĩ, uy nghiêm, uyên bác. Mỗi ngày sư chỉ ăn một bữa, luôn để tâm trong việc truyền trao, chẳng ra khỏi pháp hội, chẳng bao giờ ngả lưng, cứ thế suốt năm mươi năm. Sư thọ tám mươi lăm tuổi, tăng lạp sáu mươi mốt hạ. Sư thường than không có người có khả năng kế thừa, bèn đem tông chỉ của Tào Động truyền cho Pháp Viễn con của Tỉnh Công Diệp Huyện, bảo Viễn tìm bậc pháp khí truyền trao.

Ngày mười sáu tháng bảy năm Thiên Thánh thứ năm, Sư thăng tòa từ biệt chúng. Ba ngày sau, Sư viết bài kệ gởi cho Thị lang Vương Thự rằng:

Ta nay tám mươi lăm
Tu nhân đến thế này
Nếu hỏi ta về đâu
Tướng đảnh trọn khó thấy.

Viết xong, Sư thả bút và thị tịch.

24. Giảng Sư Tứ Minh Pháp Trí:

Năm Mậu Thìn, Pháp sư Tứ Minh Diên Khánh Pháp Trí thị tịch. Sau, vào mùa đông năm Nguyên Phong thứ ba, pháp tôn của ngài là Kế Trung thuật lại hành trạng của ngài. Kế Trung nhờ Tống Thanh Hiến Công Triệu Biện soạn văn bia ghi lại hạnh nghiệp của ngài. Trong ấy đại lược nói:

“Ngài tên là Tri Lễ, tự là Ước Ngôn, họ Kim, gia thế sinh sống tại Minh châu. Tướng mạo ngài đoan nghiêm kỳ vĩ, bản tính điềm đạm, hiểu biết cao rộng. Hồi ấy cha mẹ ngài đến chùa lạy Phật cầu tự, đêm mộng thấy Thần tăng dẫn đứa bé đến giao cho và nói: Đây là La hầu la, con của Phật đấy”.

Do đó sau khi sinh cha mẹ đặt tên cho ngài là Ước Ngôn. Ngài xuất gia từ nhỏ, mười lăm tuổi thế phát, thọ giới. Năm hai mươi tuổi, ngài theo Pháp sư Bảo Vân Nghĩa Thông học giáo quán của Thiên Thai.

Học đến ngày thứ ba, thủ tòa dặn ngài:

– Thứ lớp của pháp giới ông phải kính cẩn nhớ lấy.

Ngài hỏi lại:

– Thế nào gọi là pháp giới?

Thủ tòa đáp:

– Đó là pháp môn đại tổng tướng viên dung vô ngại.

Ngài hỏi:

– Đã viên dung vô ngại thì làm gì có thứ lớp?

Thủ tòa im lặng không đáp. Hơn một tháng sau, Sư tự giảng tâm kinh, thính chúng thảy đều thất kinh, ai nấy cho rằng giáo pháp từ nay đã có người thừa đương. Ba năm sau ngài thay thế Pháp sư Nghĩa Thông diễn giảng, đủ thấy sở học của ngài thâm sâu đến mức nào. Sau ngài trụ trì Thừa Thiên, rồi dời về Diên Khánh, đạo pháp ngày càng hưng thịnh, học chúng đông không kể xiết. Quốc sư của Nhật Bản phái hai mươi tăng nhân sang cầu pháp yếu, nhân đó ngài truyền trao tường tận diệu chỉ của tông môn. Chân Tông từ lâu đã nghe danh tiếng ngài liền sai sứ đến chùa thỉnh ngài lập đạo tràng sám pháp. Vua đãi ngộ ngài rất hậu. Năm ấy trời đại hạn, ngài theo nghi thức Quang Minh Sám pháp của Sám chủ Tuân Thức để cầu mưa, quả nhiên hiệu nghiệm vô cùng. Những tác phẩm do ngài soạn thuật như Chỉ Yếu Sao, Diệu Tông Sao, Quán Am Phẩm Biệt Hành, Quang Minh Ký, Đại Bi Sám Nghi đều lưu hành ở đời. Hàn lâm Học sĩ Dương Ức, phò mã Lý Tuân Úc cúng dường Tử y và ban hiệu cho ngài. Sau đó ngài lập đạo tràng Quang Minh Sám, tu tập được bảy ngày, ngài thuận duyên thị tịch. Ngày mồng năm tháng giêng năm Thiên thánh thứ sáu, ngài kiết già an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi, tăng lạp năm mươi bốn hạ.

25. Pháp sư Trường Thủy Tử Truyền:

Ngài sinh trưởng ở Gia hòa. Ban đầu theo Pháp sư Hồng Mẫn học Lăng-nghiêm, đến đoạn “tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sinh” ngài hoát nhiên tỏ ngộ. Ngài nghe đạo pháp của sư Tuệ Giác ở Lang Da nổi tiếng đương thời, liền tìm đến pháp hội của Tuệ Giác. Vào chùa xong, ngài lên thẳng pháp đường và hỏi:

– Thanh tịnh rỗng rang sao bảo là bỗng sinh ra sơn hà đại địa?Tuệ Giác lớn tiếng quát:

– Thanh tịnh rỗng rang sao bảo là bỗng sinh ra sơn hà đại địa?

Ngài hoát nhiên đại ngộ. Tuệ Giác nói với ngài:

– Tông của ông không hưng thịnh lâu dài, nên dốc sức truyền trì để báo ân chư Phật.

Ngài lãnh thọ lời ấy, sau trụ ở Trường Thủy, học chúng có đến ngàn người. Ngài dùng diệu chỉ của tông Hiền Thủ thuật Lăng-nghiêm kinh sớ mười quyển. Tác phẩm này còn lưu hành ở đời.

Nhâm Thân: Đổi niên hiệu là Minh Đạo. Liêu Chân Tông lên ngôi lấy hiệu là Hưng Tông, đổi niên hiệu là Cảnh Phước.

26. Sám chủ Từ Vân Tuân Thức:

Ngài họ Diệp, tự là Tri Bạch, người ở Ninh Hải, Thai châu. Mẹ ngài họ Vương, nhân thấy mình nuốt hạt minh châu, sau đó sinh ra ngài. Lớn lên, ngài không thích theo anh làm lái buôn mà trốn qua núi Đông Dịch xuất gia. Năm hai mươi tuổi, ngài đến Tòng lâm thọ đại giới, năm sau học luật với ngài Thủ Sơ. Ngài vào chùa Quốc thanh, đứng trước tượng Phổ Hiền đốt một ngón tay nguyện sẽ hoằng truyền giáo quán của Thiên Thai.

Năm Ung Hy, ngài đến yết kiến Đại sư Tứ Minh, lạy Tứ Minh làm thầy và học hỏi. Không bao lâu sau, kiến giải của ngài siêu quần xuất chúng. Trong ngày húy kỵ của Đại sư Trí Giả, ngài đốt liều trên đỉnh đầu nguyện sẽ trọn đời dốc sức hoằng truyền giáo quán, tu tập bốn môn Tam-muội.

Đầu năm Thuần Hóa, chúng thỉnh ngài trụ trì Bảo vân. Ngài giảng kinh thuyết pháp chưa từng ngơi nghỉ. Dấu tích linh dị của ngài có chép đủ trong hành trạng.

Ngày mười tám tháng mười, niên hiệu Minh Đạo năm đầu, ngài nhuốm bệnh nhưng chẳng dùng thuốc thang chỉ nói pháp và khuyên đồ chúng. Mười ngày sau, ngài sai thỉnh tượng Di-đà đến chứng minh trong giờ lâm chung. Đêm ấy, ngài kiết già an nhiên thị tịch. Thọ sáu mươi chín tuổi, tăng lạp năm mươi hạ.

Ngày mồng bốn, tháng hai năm sau. Đồ chúng nghinh thỉnh nhục thân ngài an táng dưới chân núi Nguyệt quế ở phía Đông chùa Bảo vân.

Quý Dậu: Độ ba ngàn Tăng, Ni. Liêu đổi niên hiệu là Trùng Hy.

Giáp Tuất: Đổi niên hiệu là Cảnh Hựu. Tháng sáu, vua hạ chiếu hủy bỏ chùa viện không có bảng hiệu (sắc tứ).

Bính Tý: Vua hạ chiếu chọn năm mươi đồng tử học tiếng Phạm.

27. Vua soạn bài tựa trong Quảng Đăng Lục:

Vua soạn bài tựa trong Quảng Đăng Lục và tặng cho Hộ quốc Tướng quân Tiết độ sứ Phò mã Đô úy Lý Tuân Úc. Trong ấy ghi:

“Đấng đại hùng xiển dương giáo pháp lấy thanh tịnh làm tông, từ bi cứu thế, cởi bỏ sự trói buộc của phiền não thống khổ, mở ra cửa ngõ phương tiện, an trụ nơi Tuyết sơn, đạo tràng khắp Tây Vực, lưu nhập trong triều đình, hoằng truyền khắp Đông độ. Những người đắc đạo ở xứ ấy, thật không đếm xiết, xứ này nhờ vậy mà đạo pháp xương minh. Dù ma ngũ ấm trá hình dối lừa, hoặc hiện thần thông, nhưng nhờ Đế Thích thường để tâm hộ trì khiến cho thật tướng không mảy may khiếm khuyết. Từ lúc truyền trao pháp nhãn, Tôn giả Cúc-đa ấn tâm, y của Phật không truyền xuống nữa. Đến khi Lục tổ đốn ngộ, Ngưu đầu phân dòng, nối tiếp ngàn ngọn đèn sáng mãi khôn cùng, kể từ đó đuốc tuệ rạng soi, mây pháp giăng tỏa, cùng học Phạm âm, chuyển dịch Hoa ngữ, mở toang cửa thiền, vạch ra đường giác. Người liễu đạt rốt cùng lìa niệm, người siêu xuất rốt cuộc quên nơm, tỏ ngộ được điều chưa thông, an trụ trong quả vị bất tư nghì. Nhiều đời Thánh đế minh vương thảy đều tín tâm thú hướng. Thái tổ ta thừa nghiệp lớn, vương pháp truyền mãi ở đời. Thái Tông ta lên ngôi cúng dường không biết bao diệu phẩm. Chân Tông Hoàng đế mật khế tâm Bồ-đề, nghiền ngẫm diệu chỉ của Thế Tôn, giáo pháp của Đấng Năng Nhân thấm nhuần khắp đại địa, tâm của người ngoại hộ hỷ xả đầy đủ. Trẫm nối muôn nghiệp, chăm sóc muôn dân như con, đưa muôn dân đến bến bờ giàu sang, phúc thọ; đặt họ trong kỷ cương, thờ phụng Thế Tôn, đắp xây nghiệp lớn. Tuy bàn thế sự quốc gia nhưng vẫn dẫn dắt họ đến bờ an lạc, dù kính phụng Phật kinh nhưng vẫn tuân theo đạo của Tiên đế. Như vậy lẽ nào còn có chỗ sơ suất ư?

Thiên Thánh Quảng Đăng Lục là tác phẩm do Hộ quốc tướng quân Tiết độ sứ Phò mã đô úy Lý Tuân Úc biên soạn. Tuân Úc là người có chức tước ở triều đình, có học vấn trong thiền môn, là người không cậy sang mà kiêu ngạo, biết đặt mình trong khoáng đạt, biết thuận thời lập chí tu thân, vốn thích tích chứa phước thiện, gội rửa sáu căn trong trần tình. Ông quy thú Tam thừa, gom tập ngữ lục chư tổ, mở rộng tông phong; chọn những cơ duyên khai hóa của bậc khai sĩ; gom những lời ứng đối nhiệm mầu ở Tòng lâm cứu xét sự lý, biên tập hết trong tác phẩm này. Ông đã từng tấu bên bệ rồng, ân cần xin trẫm viết bài tựa. Trẫm thành thật tán dương nhưng chưa kịp hạ bút. Nghĩa là diệu chỉ của Đấng Bạt-già-phạm, thật là chỗ dựa cho sinh linh, gần hơn nữa là hoàng thân quốc thích. Trẫm không ngại tài hèn, tán thán ngợi khen, hạ bút ban bài tựa. Đề mục bộ Lục đâu phải đúng suông, đó cũng là nên tảng cho đế vương cứu tế muôn vật”.

Bộ Lục này gồm ba mươi quyển.

Đinh Sửu: Tháng tư năm Cảnh Hựu thứ ba, vua ban bài tựa. Đến tháng bảy có mấy trăm ngôi sao từ hướng Tây nam bay xuống vách phía Đông, sáng rỡ như đuốc, chiếu thẳng xuống đất, một luồng khí đen cao hơn một trượng từ điện bay lên. Tháng mười hai, các châu như Định, Tương, Đại Tinh, Hân v.v… ở kinh sư đều động đất. Trong đó Đại châu và Tinh châu đều bị thiệt hại nhân dân, nhà cửa mà Hân châu là bị nặng nhất, đất đè chết hơn mười chín ngàn người. Nhân dân lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Từ đó có lúc động đất xé toạc cả suối, lửa từ dưới đất phun lên y như cát đen, kéo dài đến cả năm không dứt.

Mậu Dần: Đổi niên hiệu là Bảo Nguyên. Tháng mười hai năm này Nguyện Hạo tiếm hiệu là Đại Hạ, đổi niên hiệu là Đại Khánh.

Kỷ Mão: Mùa thu tháng tám, có lệnh cấm không cho nấu vàng để phết tượng Phật.

Canh Thìn: Tây Hạ vào kinh cướp phá.

Tân Tỵ: Mùa xuân tháng hai có mưa thuốc (nước là thuốc trị bệnh).

28. Thiền sư Từ Minh Sở Viên:

Ngày năm tháng giêng năm này, Thiền sư Từ Minh Sở Viên thị tịch. Sư họ Lý, sinh trưởng tại Thanh Tương, Kim châu. Thuở nhỏ vốn là thư sinh, năm hai mươi hai tuổi Sư đến chùa Ẩn Tích ở Tương Sơn, Thành Nam xin xuất gia. Mẹ sư là người đức hạnh, khuyên sư nên du phương. Sư dung mạo rất đẹp, lông mày dài, mắt sáng, cao ráo, học thức cao, nhưng bỗng nhiên xem thường phép tắc, Sư đến đâu cũng bị những bậc tôn túc quở trách, cho Sư là người không có oai nghi. Sư cười nói:

– Cú đạp của long tượng, sức lừa không kham nổi.

Có lần sư gói ghém đủ thứ tạp nhạp trong một cái rương rồi dùng gậy trúc quảy đi. Sư đến vùng Tương Miến kết bạn với Thủ Chi, Cốc Tuyền rồi cùng vào Phần Dương. Sư nghe đạo pháp ở Phần Dương nổi tiếng đứng đầu thiên hạ, liền quyết chí đến cầu pháp. Lúc bấy giờ, triều đình đem binh vấn tội Hà Đông, Lô Trạch. Nơi nơi đều có quân binh trấn giữ nghiêm ngặt, rất nhiều người khuyên Sư không nên đi. Sư không nghe, liền vượt Đại Hà lên Thái Hành, thay đổi y phục như kẻ phục dịch, mạo xưng là quân trong hỏa đội. Sư dãi nắng dầm mưa đến được Long châu, rồi thẳng đến Phần Dương. Chiêu Công biết được hết lời ngợi khen Sư. Nhưng đã hai năm mà chẳng cho Sư vào thất thưa hỏi. Sư đến Chiêu Công (Thiện Chiêu) bày tỏ chí nguyện đều bị Thiện Chiêu mắng chửi thậm tệ hoặc chỉ nghe Thiền sư chê bai những vị khác, nếu có dạy bảo cũng toàn dùng những lời thế tục thô bỉ.

Một hôm, Sư trách:

– Từ ngày đến pháp hội đã mất hai năm rồi, chẳng được chỉ dạy, toàn làm tăng tưởng niệm thế tục trần lao, ngày tháng qua nhanh việc mình chẳng sáng, thật uổng công xuất gia…

Sư nói chưa hết, Thiện Chiêu trừng mắt nhìn sư mắng:

– Ngươi là kẻ ác tri thức dám chê trách ta.

Thiện Chiêu cầm trượng đuổi đánh. Sư toan la lớn cầu cứu, Thiện Chiêu liền bịt miệng Sư. Sư hoát nhiên đại ngộ, thưa:

– Mới biết đạo của Lâm Tế vượt ngoài thường tình.

Sư ở lại hầu hạ bảy năm. Sau đó từ biệt Thiện Chiêu đến y chỉ Đường Minh Tung Công. Kế đó đến yết kiến Đại Niên Dương Nội Hàn, sau đó lại đến yết kiến Lý Đô Úy. Cơ duyên hỏi đáp có ghi đủ trong hành trạng của Sư. Về sau, Sư qua trụ ở Hưng hóa, rồi tắm rửa từ biệt chúng, kiết già thị tịch, thọ năm mươi bốn tuổi, tăng lạp ba mươi hai hạ.

Quý Mùi: Tháng mười một, năm ngôi sao xuất hiện ở hướng Đông, Tư Thiên Giám tâu rằng đó là điềm trong nước đại an.

Giáp Thân: Tháng mười hai, Nguyên Hạo hạ chiếu cho Sách Hạo là Quốc chủ nhà Hạ và đổi tên là Nang Tiêu.

29. Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội: (Bính Tuất)

Năm này, Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội thị tịch. Sư họ Lãnh, quê ở Nghi Xuân, Viên châu. Thuở nhỏ, Sư thông minh, nhanh trí, ứng đối rất nhanh và hợp đạo lý. Lớn lên, Sư không thích theo nghiệp bút nghiên, mạo danh là thương thuế bị Chưởng Khóa Tối bắt tội, do không có chức vị nên bị phạt tội, đang đêm sư trốn đi, Sư đến Cửu Phong, Quận châu. Sư bàng hoàng như mình đã đi qua nơi này rồi, quyến luyến chẳng muốn rời xa. Sư liền xin thế phát xuất gia, ngày ngày xem kinh nghe pháp, tâm khai thần sáng, thường khiêm cung nhún nhường, tham vấn các bậc lão túc. Hồi ấy, Từ Minh ở Nam Nguyên, Sư tận tâm hầu hạ. Đến khi Từ Minh dời qua Đạo Ngô, Thạch Sương, Sư tự xin làm chức Giám viện. Dù không phải ý của Từ Minh nhưng đại chúng đều ủng hộ Sư. Sư là người giỏi cả văn chương, thâm nhập nghĩa thú nhưng lúc nào cũng làm như người ngu dốt, chọc giận Từ Minh, Thiền giả các nơi biết được đều cho là phải.

Từ Minh ăn cơm xong thường lên núi đi kinh hành. Thiền giả đến tham vấn thường không biết đâu mà tìm. Sư biết Từ Minh chưa đi xa, liền đánh trống họp chúng. Từ Minh liền quay về trách sư:

– Tòng lâm nhỏ buổi chiều mà thăng tòa ư? Ông học đâu ra cái quy củ này?

Sư chậm rãi thưa:

– Phần Dương cho tham buổi tối lẽ đâu không đúng quy củ chăng. Từ Minh không bằng bên ấy là sao vậy? Nay Tòng lâm ngoài giờ tụng niệm xong thì vẫn được tham vấn, đó là lẽ đương nhiên thôi.

Sư từ biệt Từ Minh về lại Cửu Phong. Đạo tục huyện Bình thật đều thỉnh sư Trụ trì Dương Kỳ. Hồi ấy, Trưởng lão Cần Công ở Cửu Phong không biết sư. Nghe sư về ở Dương Kỳ, Cần Công thất kinh hỏi:

– Giám tự Phương Hội mà cũng biết thiền ư?

Sư nhận lời mời, vấn đáp xong. Sư nói:

– Còn hỏi gì nữa không? Thử bước ra vấn đáp đi! Hôm nay tánh mạng của Dương Kỳ này nằm trong tay các ông, phải một phen xô ngã được, vì sao như vậy? Đại trượng phu phải đối trước chúng mà quyết trạch, chớ có giấu kín im lặng như nước trong lòng đất, phải lắc mạnh hồ lô xem! Đại chúng hãy trắc nghiêm đi, có không! Nếu không thì Dương Kỳ này chẳng có chút lợi ích rồi.

Sư nói xong, xuống tòa. Cần Công liền nắm đứng lại nói:

– Hôm nay có một kẻ đồng tham.

Sư hỏi:

– Đồng tham việc gì?

– Dương Kỳ dẫn dắt, Cửu Phong nghiêng ngã.

– Vào lúc nào thì Dương Kỳ trước mắt, Cửu Phong ở trước mắt?

Cần Công không đáp được, bèn buông sư ra nói:

– Nói là đồng tham nhưng hóa ra không phải.

Từ đó danh tiếng của sư vang dội khắp nơi. Sư dạy chúng:

– Không thấy một pháp là lỗi lầm to.

Sư đưa trụ trượng lên nói:

– Xuyên thủng lỗ mũi ông già Thích-ca, làm sao nói được một câu

để thoát thân, đến chỗ có nước chẳng rửa nước, hãy nói một câu xem!

Giâu lâu, Sư nói:

– Nhắm tới chớ đi đường dưới núi, được nghe vượn hú tiếng đoạn trường.

Năm Khánh Lịch thứ sáu, Sư dời qua trụ tại Vân Cái, Đàm Châu đem mạng mạch của Lâm Tế truyền cho Thủ Đoan.

Mậu Tý: Văn Lộ Công đánh phá Cụ Châu Vương Lang, do không giết chóc nên được kéo dài tuổi thọ đến chín mươi ba tuổi, địa vị của ông cao nhất trong hàng bề tôi.

30. Thiền sư Ngôn Pháp Hoa:

Không ai biết Sư từ đâu đến. Đầu tiên người ta gặp Sư tại thất Câu-lô trong chùa Cảnh Đức. Tướng mạo sư kỳ vĩ, nhìn chẳng nháy mắt, miệng thường nói “Thương thay! Thương thay!” nhưng chẳng ai hiểu Sư muốn nói gì. Tương truyền, do Sư trì tụng kinh Pháp Hoa nên người ta gọi sư là Ngôn Pháp Hoa. Sư thường vân du một mình, hay vào trong chợ búa, cứ vén áo lên mà đi, có khi đưa tay viết gì đó trong hư không, hoặc đứng im rất lâu. Sư thường giao du với bọn đồ tể, ăn uống chẳng cần chọn lựa, tăng tục thường xem Sư là ông tăng điên.

Thừa tướng Lã Hứa hỏi sư về đại ý Phật pháp. Sư đáp:

Xưa nay không một vật
Một vị trọn thành chân.

Có vị Tăng hỏi Sư:

– Trong đời có Phật không?

Sư đáp:

– Trong chùa có Văn-thù- Sư là phàm hay thánh?

Sư giơ hai tay lên nói:

– Ta không trụ ở đây.

Chí Hòa năm thứ ba, Nhân Tông cảm thấy không vui vì chưa có người nối ngôi, thiên hạ lo lắng. Gián quan Phạm Trấn là người đầu tiên khởi xướng đại nghĩa, tìm chọn người hiền tài trong tông thất để sau này nối ngôi, còn kẻ khác cho đi nơi khác trấn giữ. Nếu không làm vậy thì Điển Túc Vệ Doãn Kinh Ấp là người đang được thiên hạ ngưỡng vọng, Tinh châu Thông Phán Tư Mã Quang cũng có ngỏ ý. Hiện có ba tấu sớ đã dâng, một tấu cho vua giữ, hai tấu còn lại giao cho Trung thư. Ban đêm, nhà vua đốt hương thầm khấn:

“Ngày mai, trẫm sửa sang điện đường, thiết trai thành tâm thỉnh

Pháp Hoa Đại sĩ, cúi xin Đại sĩ quang lâm, đừng từ chối.

Sáng sớm hôm sau, nhà vua mặc đạo phục đứng chờ. Ngay lúc ấy, thị vệ chạy đến bẩm:

– Pháp Hoa vào từ cửa bên phải đi thẳng vào tẩm điện, thị vệ ngăn không được.

Vua cười nói:

– Trẫm mời ông ta đến đấy.

Lát sau sư đến, lên thẳng ngự sàng ngồi kiết già. Thọ trai xong, Sư sắp đi, nhà vua thưa:

– Trẫm lo vì chưa có người kế vị, quần thần đều bàn ra bàn vào. Trẫm ngày đêm lo lắng không biết có ai để truyền ngôi không, xin Đại sĩ quyết đoán cho một phen.

Sư liền kéo giấy mực tới, viết liền đến mười mấy hàng hai chữ “Thập tam” rồi vứt bút và không nói gì cả. Ai nấy đều không hiểu sư muốn nói gì. Sau đó Anh Tông lên nối ngôi. Anh Tông là con thứ mười ba của Bộc An Ý Vương. Lúc bấy giờ, ai nấy mới hiểu ngày trước Sư muốn nói gì.

Ngày hai mươi ba tháng mười một năm Gia Hựu, Sư sắp tịch bèn nói với mọi người:

– Từ vô lượng kiếp đến nay, ta đã làm xong việc phân thân giáo hóa ở quốc độ Thệ-đa. Nay ta phải về Nam đây!

Nói xong, Sư nằm nghiêng bên phải mà tịch.

31. Lý Cấu để tâm đến sách Phật:

Kỷ Sửu: Tháng chín, Nùng Trí Cao làm loạn ở đất Quảng. Năm năm sau, Địch Thanh bình định giặc loạn.

Lý Cấu tự là Tần Bá, người Hu Giang, tự xưng là Đại nho từng viết sách ngầm ra sức bài xích Phật giáo. Hòa thượng Minh Giáo Tung liền dẫn những tác phẩm do mình viết gặp thẳng Lý Cấu để biện minh. Lúc này, Lý Cấu mới tỉnh ngộ và để tâm đến kinh điển. Lý Cấu bùi ngùi than:

“Bọn ta luận nghị vẫn chưa bằng một quyển tâm kinh. Giáo pháp của Phật lẽ đâu dễ dàng nhận biết được ư?. Tâm kinh chính do Đường Thái Tông hạ chiếu thỉnh Tam tạng Huyền Trang chuyển dịch, chỉ có năm mươi bốn câu, hai trăm sáu mươi bảy chữ mà thôi. Lời của Tần Bá nói, không phải là lời khẳng định, lẽ đâu có thể chỉ có như thế thôi sao?!

Uyển Văn Chánh Công dâng biểu tiến cử ông với vua. Trong cung

vốn thiếu chức quan Thái học, vua muốn ông giữ chức ấy để đọc sách, nhưng sau đó không lâu thì ông mất.

32. Thiền sư Pháp Viễn ở Phù Sơn:

Năm này Thiền sư Pháp Viễn ở Phù Sơn thị tịch. Sư họ Vương, người Trịnh phố. Mười chín tuổi, Sư đến Tinh châu yết kiến Thiền sư Tam Giao Tung Công cầu pháp xuất thế. Tung nói:

– Ông phải thế phát quy y Tam bảo trước đã, sau mới có thể nhận lãnh pháp yếu.

Sư hỏi:

– Pháp có tăng tục sao?

Tung đáp:

– Giống như ông thế này là tục, đâu được là Tăng. Vì Tăng thì mới có thể tiếp nối thọ mạng của Phật được.

Thế rồi sư thế phát thọ giới, yết kiến Phần Dương Chiêu Công; sau lại yết kiến Nhữ Hải Tỉnh Công và đều thọ nhận được thiền ý. Trong năm Thiên Gia, Sư đến Tương, Hán, Tùy, Trình. Sau đến Đại Dương, cơ phong khế hợp với Minh An Diên Công. Diên than:

– Ta già rồi, tông phong Tào Động rốt cuộc không người tiếp nối.

Thế rồi Diên Công đem hết sở đắc của mình tận tâm chỉ bày cho Sư. Sư nói:

– Thầy cứ trao y bát, con tìm người truyền trao lại. Thầy thấy thế nào?

Diên Công đồng ý, nói:

– Ngày sau nếu ông tìm được người thì hãy lấy kệ của ta nghiệm xét. Kệ rằng:

Cỏ trước núi Dương Quảng
Nhờ ông chờ giá cao
Giống khác trong cỏ rậm
Rễ linh bám chắc sâu.

Diên Công nói tiếp:

– Người đắc pháp phải ở ẩn trong chúng mười năm, sau mới ra xiển dương.

Sư lãnh thọ lễ tạ rồi đi. Sư đến y chỉ với Lang Da Giác Công. Ứng Thư Chi thỉnh sư thuyết pháp tại chùa Thái Bình Hưng Quốc, làm người kế thừa của Tỉnh Công. Kế đó sư đến trụ ở Cô Tế, Thiên bình, sau trụ ở Phù Sơn. Về già, Sư lui về ở ẩn tại Hội Thánh Nham. Nghi dung của sư rất đẹp, trán cao, mắt sáng, diện mạo như Vương tôn, uy phong lẫm liệt. Hồi ấy Âu Dương Văn Trung Công nghe sư là người kỳ tài phóng khoáng bèn tìm đến thất thăm. Âu Dương rất lấy làm lạ khi gặp được sư, thấy sư đánh cờ với khách, Âu Dương thu lấy bàn cờ, rồi thỉnh sư lấy cờ làm đề tài thuyết pháp. Sư đánh trống họp chúng thăng tòa nói:

– Nếu luận về việc này cũng giống như hai người đánh cờ. Vì sao vậy? Bởi vì địch thủ biết rõ, xuống tay chẳng nhường nhịn. Nếu thoái năm tiến ba thì thông được một đường, như vậy mới tạm ổn, chỉ mở được cửa ngõ để sống sót, chứ chưa biết đoạt lấy cửa ải quân bình. Khí tiết mạnh mẽ và miệng cọp đều hiện rõ ràng. Sau khi phá được thế cờ thật uổng phí tài cao. Vì thế nên nói “Người mập dễ kiếm, kẻ ốm khó tìm”. Suy nghĩ hành động thường thường đánh mất cái miên mật; tâm thô tháo thì thường thường xung đột, được nghỉ thì khoa trương tài cán, vọng nói thần tiên, thắng thua trong ván cờ chẳng hỏi đến. Vả lại, lúc trắng đen chưa phân định thì rơi vào chỗ nào?.

Giây lâu, Sư nói tiếp:

– Từ trước mười chín đường, biết bao người mê ngộ.

Văn Trung càng thêm tán thán. Bài kệ của sư lời lẽ sâu kín, ai nấy đều khâm phục tài khéo léo của Sư.

Sư lại làm bài Tam Giao Tung Công tán rằng:

Vàng ròng nấu thành vòng xuyến nhẫn
Ngọc trắng mài ra lược ngà voi
Đại bi giơ ngàn tay chẳng động
Không lời đồng tử mịt mờ than.

Sư lại làm bài minh An Huyền Công tán rằng:

Chó đen trâu trắng toát (lấp lánh)
Voi trắng đạp Côn lôn
Ở đây đều vô ngại
Ngựa gỗ hý trong lò.

Lúc mất Sư đã hơn bảy mươi tuổi, thường tự xưng mình là Sài Thạch Dã Nhân (người quê mùa).

33. Vua hạ chiếu mời Thiền sư Hoài Liên trụ trì Tịnh Nhân viện: (Canh Dần)

Tháng giêng năm Hoàng Hựu thứ hai, vua hạ chiếu thỉnh Thiền sư Đại Giác Hoài Liên trụ trì Tịnh Nhân viện ở Đông đô. Sư họ Trần, quê ở Chương châu, nối pháp Thiền sư Phòng Đàm Trừng Công. Có lần sư tọa thiền trong thất bỗng thấy con rắn vàng từ đất chui lên, phút chốc ẩn mất. Ai nấy đều cho đó là điềm lành. Sư từng làm Chưởng Ký Thất (Trông coi việc ghi chép sổ sách) cho Viên Thông ở Lô Sơn. Hồi ấy, Nhân Tông nghe danh Thiền sư Viên Thông Cư Nột liền hạ chiếu thỉnh ngài trụ trì Tịnh Nhân viện, nhưng ngài lấy cớ mắt mình bị bệnh nên không đi. Vua hạ chiếu cho ngài kiếm người thay thế, ngài liền thỉnh sư đi. Trước đây Nhân Tông đọc Ngữ lục của Đầu Tử đến đoạn:

“Tăng hỏi: Thế nào là trâu trắng nơi đất trống? Đầu Tử liền hét”.

Nhân đó Nhân Tông liền tỉnh ngộ, liền làm bộ Thích điển tụng mười bốn chương. Thiên đầu tiên, vua viết:

Nếu hỏi chủ nhân ông
Chân tịch hợp hư không
Ba đầu cùng sáu tay
Tháng chạp có gió xuân.

Về sau, vua đem tặng cho Sư. Sư họa rằng:

Nếu hỏi chủ nhân ông
Vắng lặng tợ vách không
Khi sấm sét vây đánh
Trời đất trọn an hòa.

Sư dâng cho vua. Đêm sau, vua đọc ngay và ban cho sư bình bát long não. Sư tạ ơn vua, đặt bình bát xuống và nói:

– Phật pháp dùng thứ hoại sắc, như bằng đất nung, bằng thiết mà thôi. Bát này không đúng pháp.

Nói xong, Sư đem đốt. Trung sứ về bẩm lại với vua. Vua nghe càng vui mừng. Sau đó, Sư dâng bài tụng xin về núi, Sư viết:

Sáu năm hoàng đạo ở kinh kỳ
Hai lần lên điện phụng thiên uy
Núi xanh ẩn tích còn gì thích
Hoằng pháp trọn rồi thần xin đi.

Vua họa lại rằng:

Phật, Tổ ngời ngời thấu thượng cơ
Thượng cơ trọn vẹn mới toàn uy
Núi xanh Bát-nhã như như thể
Nay thầy muốn nhắm chỗ nào đi?

Sư dâng bài tụng tạ rằng:

Trung sứ truyền chỉ cho xuất cung
Lại cho thần trụ ở cửa thiền
Núi xanh chắc hẳn còn ngàn việc
Đầu bạc ích gì đến muôn cơ
Sương móc tan rồi mới vắng lặng
Suối rừng thiền vị khổ mà vui
Thâm ân Thánh thượng như trời rộng
Mặc tình mây bạc lững lờ trôi.

Đến niên hiệu Trị Bình, Sư lại dâng sớ xin về núi. Sư dâng vua bài kệ rằng:

Ngàn cụm mây trôi vạn suối tuôn
Núi kia trọn kiếp phó thác tâm
Đời sau bệ hạ vô cương thọ
Hương mầu xông tỏa khắp triều trung.

Sau, Anh Tông lên ngôi, hạ chiếu:

“Thiền sư Đại Giác Hoài Liên thọ mệnh Tiên đế chấn tích đến hoàng cung, nhiều lần dâng sớ chân thành xin lui về rừng núi. Nay trẫm theo sở nguyện của Sư, thỉnh sư về tịnh tu, bất cứ nơi nào sư thích dựng am viện để ở đều được cả, thiền lâm trong khắp nước không được ép sư ở lại”.

Sư chống tích về Đông. Hàn lâm Tô Thức biết Sư đến Hàng châu liền gởi thư thăm hỏi thư ghi:

“Hoàng thượng sai tôi soạn văn bia nơi khuê các, tôi đã soạn xong, nhưng hiềm nỗi sở học quá kém thật không kham nổi, chẳng biết Sư có thể hạ bút trên bia đá được chăng? Mai này xin ý kiến, xin được cùng sư bàn tiếp”.

Ngày Sư rời kinh đô, Anh Tông ban chiếu do chính tay mình viết. Trong chiếu ghi “Tùy ý trụ trì, nếu có điều sơ xuất, mong Sư ghi thư chỉ bày, trẫm mong Sư nhập kinh lần nữa.”

Sư cầm chiếu chỉ đi và giấu kín. Đến lúc sư tịch, đồ chúng xem trong tráp mới thấy. Chiếu chỉ giờ đây đã ngã màu không còn rõ như xưa nữa.

Tân Mão: Thế Tôn diệt độ đã được hai ngàn năm.

34. Thiền sư Trùng Hiển Tuyết Đậu:

Sư họ Lý, tự là Ẩn Chi, quê ở Toại châu, sinh ngày tám tháng tư năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm. Thuở nhỏ sư rất thông minh, đọc sách liền tinh thông, hạ bút thì thành văn nhưng có chí quy y cửa Phật, cha mẹ sư không cản nổi. Sư xuất gia thọ giới với Đại sư Nhân Tiễn ở viện Phổ An, Ích châu. Sau sư đi khỏi đất Thục, vân du đến vùng Kinh trữ, nhiều năm làm tri khách cho Đại Dương.

Một hôm, Sư cùng khách luận về tông chỉ của Triệu Châu. Khách nói:

– Thiền sư Pháp Nhãn từng gặp Giác Thiết Tuy ở Kim Lăng. Giác là thị giả của Triệu Châu, được xưng là Minh Nhãn. Pháp Nhãn hỏi: “Cây bách của Triệu Châu, ông còn nhớ nhân duyên này không?” Giác nói: “Tiên sư không nói vậy, chớ hủy báng Tiên sư”. Pháp Nhãn nói: “Quả thật là sư tử trong hang chui ra”. Giác Công không nói lời đó nhưng Pháp Nhãn thì bảo ông ấy nói. Ý chỉ ấy thế nào?

Sư đáp:

– Tông môn hưng suy lẽ đâu có một quy tắc nhất định sao!

Lúc ấy có một người khổ hạnh tên là Hàn Đại Bá dáng người gầy đang đứng hầu bên cạnh nghe vậy liền che miệng cười. Khách về, Sư kêu Bá đến hỏi:

– Ta nói chuyện với khách sao ông dám cười chê. Vậy ông cười việc gì?

Bá đáp:

– Tôi cười vì tri khách có mắt sáng nhưng không biết trạch pháp.

Sư hỏi:

– Có việc ấy sao?

Bá đáp bằng bài kệ:

Con thỏ chạy ngang qua đường cũ
Chim ưng vừa thấy bắt sống ngay
Chó săn ngày sau không linh tánh
Cứ nhắm gốc khô chỗ cũ tìm.

Sư nghe rất lấy làm lạ, từ đó kết bạn với Đại Bá. Sư vân du lên mạn Bắc đến ngọn tháp phía Bắc Phục châu. Tộ Công là người nối pháp Hương Lâm là cháu của Vân Môn trụ trì ở đây. Tộ Công cũng là người đất Thục, tri kiến cao vời, cơ phong không ai lường nổi. Sư cũng là người thông tuệ nên Tộ rất thích, vì vậy Tộ giữ sư lại đây năm năm. Tại đây sư đã lãnh hội hết đạo phong của Tộ Công đồng thời kết thân với Học sĩ Tằng Công Hội. Hai người cùng đi Hoài nam. Tằng hỏi Sư: – Bây giờ Sư đi đâu?

Sư đáp:

– Đến Tiền Đường, vượt qua Tây hưng lên thẳng Thai Nhạn.

Tằng nói:

– Linh Ẩn là thánh địa trong thiên hạ, Thiền sư San là bạn cũ của tôi.

Và Tằng gởi thư tiến cử sư đến đạo tràng Linh Ẩn. Sư đến Linh Ẩn sống trà trộn trong chúng ba năm. Ngày nọ, Tằng Công phụng sứ đến Triết giang vào Linh Ẩn hỏi thăm sư nhưng chẳng ai biết sư, vì thiền đường Linh Ẩn hồi ấy đến hơn ngàn người. Tằng Công liền nhờ quan kiểm đơn, may ra tìm vật tùy thân để nhận biết. Lúc ấy, Sư đến Tằng Công hỏi ngay:

– Thế lá thư ấy thầy gởi cho ai?

Sư bèn lôi lá thư trong tay áo ra và nói:

– Thành ý của ông tôi xin ghi nhận, nhưng tôi là người hành cước chứ không phải người đưa thư.

Tằng Công nghe vậy, cười vang. Từ đó Thiền sư San rất kính phục sư. Pháp tịch của Thiền sư Thúy Phong ở Ngô Trung hồi ấy không người kế thừa. Sư đứng ra nhận lãnh. Ngày khai pháp, Sư nhìn khắp đại chúng rồi nói:

– Nếu luận về bổn phận chỉ cần gặp nhau chẳng cần lên tòa cao thế này làm gì!

Nói rồi, Sư đưa ta vẽ ngang một đường và nói:

– Các ông hãy nhìn theo tay của Lão tăng, vô lượng cõi Phật đồng thời hiện tiền, mỗi người các ông phải xem kỹ, nếu ai chưa phân được bờ mé thì không tránh khỏi vấy bùn dính nước.

Nói xong, Sư lên tòa, lại nhìn khắp đại chúng và nói:

– Trời người đều tụ tập, cùng nêu tỏ việc gì? Lẽ đâu nên chia chủ khách cùng nhau hỏi đáp? Mau gánh vác tông thừa, mở rộng tông môn, uy đức tự tại, đạp trên kim cổ, nắn đứng càn khôn. Ngàn thánh chỉ nói “tự biết”, năm thừa đâu thể kiến lập. Bởi vậy, nên nói: Trước tiếng mà tỏ ngộ vẫn còn mê cái thấy biết, dưới lời mà thức tỉnh vẫn còn muội với thức tình. Các ông muốn biết tướng chân thật không? Chỉ cần trên thì không còn dính mắc, dưới chẳng thấy có mình thì tự nhiên chân thường hiện tiền, mỗi mỗi vách đứng cao đến ngàn nhận có biện minh được hay không? Chưa biện thì biện lấy, chưa minh thì minh lấy, biện minh được rồi thì mới cắt đứt dòng sinh tử, cùng ngồi ngôi Phật, Tổ; diệu viên siêu ngộ chính là lúc này, mới báo nổi cái ân chưa báo, mới giúp giáo hóa cái vô vi.

Sau sư về trụ trì ở Tuyết Đậu, tông phong hưng thịnh nổi tiếng thiên hạ, học chúng đua nhau quy tụ. Người ta gọi sư là người trung hưng tông phong Vân Môn.

Một lần sư chống trượng kinh hành, đại chúng đều đắp y nghênh đón. Bất chợt Sư hỏi: Có người hỏi Vân Môn: “Khi cây đổ lá rụng thì thế nào”?Vân Môn đáp: “Thể bày sắc vàng.”Đó là Vân Môn trả lời cho tăng hay giải thích cho tăng?

Có vị Thượng tọa thưa:

– Đợi gã ấy có chỗ tỉnh ngộ thì nói ngay!

Sư nhìn kỹ vị Tăng ấy và kinh ngạc thốt lên:

– Chẳng phải là Hàn Đại Bá đó ư? Bá đáp:

– Gã ấy mù rồi!

Thế rồi sư sai đánh trống nhóm chúng, nói:

– Thượng tòa của tông Tuyết Đậu ngày nay chính là đại Thiện tri thức Đại Dương Hàn Đại Bá năm xưa. Ông từng ẩn tích mai danh cũng là muốn phát huy tông phong. Xin hãy lên tòa này.

Bá liền lên tòa. Có vị Tăng hỏi:

– Khi kiếm chưa rút khỏi vỏ thì thế nào?

– Ánh sáng thần chém gãy sừng trâu.

– Sau khi ra khỏi vỏ thì thế nào?

– Ngàn binh dễ kiếm, một tướng khó tìm, một tướng quả thật khó tìm!

Nói xong, Sư liền xuống tòa, cả chúng hội đều thất kinh. Sư diễn xướng tông phong, diệu ngữ của sư lan khắp tòng lâm.

Ngày mười tháng sáu năm Hoàng Hựu thứ tư, Sư tắm rửa xong, y áo chỉnh tề và nằm nghiêng thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, tăng lạp năm mươi hạ. Đồ chúng dựng tháp ngay trong núi, đệ tử đắc pháp có Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài.

Giáp Ngọ: Đổi niên hiệu là Chí Hòa, phong Khổng Nguyện là Diễn Thánh Công.

35. Thiền sư Đạo Long ở Hoa nghiêm:

Không ai biết Sư sinh trưởng ở đâu. Đầu năm Chí Hòa, Sư vân du đến Kinh sư tá túc trong chùa Cảnh Phước. Ban ngày sư đi xem chơi khắp kinh thành. Lúc về đến chùa thường đánh hai tiếng trống. Giám tự quở trách hoài nhưng sư chẳng bỏ. Đêm nọ, Sư về chùa nhưng không vô mà nằm ngủ ngay trước chùa. Đêm ấy Nhân Tông nằm mộng thấy mình đến chùa Cảnh Phước gặp con rồng nằm cuộn tròn trên đất. Nhân Tông kinh hãi tỉnh giấc. Ngay đêm đó, vua liền sai Trung sứ đến chùa xem sao. Thì ra có vị Tăng không biết tên họ là gì nằm ngủ khò trươc chùa. Sứ đánh thức sư dậy. Sư hoảng sợ. Sứ hỏi tên họ rồi về bẩm báo.

Vua hỏi và sứ thưa:

– Ông ấy tên là Đạo Long.

Vua vui mừng nói:

– Quả là điềm lành.

Sáng hôm sau, vua triệu sư vào điện hỏi về tông chỉ, Sư đối đáp tận tường. Vua càng hoan hỷ, hạ chỉ cho sư ở tại viện Thiệu Châu trong chùa Đại Tướng Quốc. Vương tôn, quan lại nghe nói đều tranh nhau đến yết kiến sư. Sư chưa kịp dậy súc miệng mà bên ngoài người đã đông nghẹt. Vua thường dùng thi kệ xướng họa với sư nhằm bày tỏ ý đạo. Có khi thỉnh sư vào cung thưa hỏi rồi giữ ở lại trong cung. Vua đãi ngộ sư rất hậu và ban cho Sư hiệu là Ứng Chế Minh Ngộ Thiền Sư.

Thuở nhỏ Sư thờ Thạch Môn Triệt Công, thọ pháp yếu với Động Sơn. Về sau, Sư yết kiến Quảng Tuệ Liên Công. Quảng Tuệ muốn thế phát cho sư, liền bảo sư đem ghế lại. Sư nhắc ghế lại, Quảng Tuệ nói:

– Đạo thì ta có bài thơ về cái ghế này, ông lắng nghe, và Tuệ đọc.

“Để xuống liền thăng bằng”.

Về sau, nhân lúc sư kể lại công án mà sư đã tỏ ngộ ở Thạch Môn. Quảng Tuệ nói:

– Điều mà Thạch Môn muốn chỉ bày như thức ăn trăm vị nhưng không làm người ta no. Về sau có người đốt hương, không muốn ngần ngừ nên bị y đốt cháy.

Nhân đó sư ở lại nối pháp Quảng Tuệ. Tính tình sư khoang dung, nhân hậu, không ưa trách phạt, thường dùng lòng từ đối xử khắp mọi người. Sau, Sư kiết già thị tịch thọ hơn tám mươi tuổi. Trời nóng bức nhưng bảy ngày sau nhục thân Sư vẫn còn mềm. Đồ chúng dựng tháp sư ở phía Đông chùa này.

Ất Mùi: Con của Hưng Tông nước Liêu là Hồng Cơ Đạo Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Thanh Ninh, trị vì bốn mươi sáu năm. Bính Thân: Niên hiệu Gia Hựu năm đầu.

36. Thiền sư Đàm Dĩnh ở Đạt quán:

Ngày một tháng giêng năm Gia Hựu thứ năm, Thiền sư Đạt quán Đàm Dĩnh thị tịch.

Sư họ Khâu, sinh trưởng ở Tiền Đường. Năm mười ba tuổi, Sư xuất gia tại chùa Long hưng. Sư vốn là bậc Đại tăng thanh cao, mẫn tuệ. Không sách gì mà Sư không đọc, văn chương thi phú vượt khỏi ngôn ngữ phàm trần. Năm mười chín tuổi, Sư đến Kinh sư. Lúc này, Âu Dương Văn Trung Công ở tại Trường An, Sư có đến chuyện trò với ông ấy. Đầu tiên sư yết kiến Thiền sư Đại Dương Minh An. Sư hỏi:

– Tào Đông lập ra Thiên chánh quân thần là muốn chỉ việc gì?

Minh An đáp:

– Việc khi cha mẹ chưa sinh.

– Làm sao thể hội?

– Nửa đêm thấy rõ, sáng ra chẳng thấy.

Sư mờ mịt bỏ đi. Sư đến Thạch Môn yết kiến Thiền sư Cốc Ẩn Uẩn Thông, thuật lại lời của Thiền sư Minh An. Rồi hỏi:

– Ý thầy thế nào?

Uẩn Thông đáp:

– Đại Dương không nói không được, ngặt vì miệng hẹp, nói mãi chưa chắc hết. Lão tăng thì không như vậy.

Sư hỏi:

– Thế nào là việc khi cha mẹ chưa sinh?

Uẩn Thông đáp:

– Cái lỗ đít (phẫn kính tử).

Sư hỏi:

– Thế nào là nửa đêm thấy rõ, sáng ra chẳng thấy?

Uẩn Thông đáp:

– Mèo ngủ dưới khóm Mẫu đơn.

Sư càng nghi, ngay hôm đó đến thưa hỏi nữa nhưng vẫn không tỏ ngộ. Sư tự thề:

“Ta phải dùng tính mạng để cứu xét việc này, nếu không hiểu được trọn không rời núi”.

Một hôm chúng làm công tác. Uẩn Thông hỏi:

– Hôm nay chở củi phải không?

Sư đáp:

– Vâng! Chở củi.

Vân Môn có lần hỏi:

– Người chuyển củi hay củi chuyển? Ông hiểu thế nào?

Sư không đáp được. Uẩn Thông chống trượng trước tòa cười nói:

“Việc này như người học viết, bắt chước viết theo được là khéo, không viết được là vụng. Vì sao như vậy? Vì chưa quên pháp mà thôi. Nếu có pháp chấp hãy tự đoạn đi. Ngay khi viết phải quên tay, tay phải quên tâm thì mới viết được”.

Ngay đó, Sư thầm khế hợp ý chỉ. Giây lâu sư hỏi:

– Thạch Đầu nói: “Chấp sự vốn là mê, khế lý chẳng phải ngộ” đã nói khế lý sao lại bảo chẳng phải ngộ?

Uẩn Thông nói:

– Ông lấy câu này làm thuốc hay làm bệnh?

Sư đáp:

– Làm thuốc.

Thông quở:

– Ông lấy bệnh làm thuốc mà được ư?

Sư đáp:

– Sự như cái hộp đậy kín, lý như tên bay thẳng, đã hay lại càng hay mà vẫn cho là bệnh, thì thật không rõ được. Mượn cái hay ấy mà đi, chỉ dừng lại khi rõ Sự lý mà thôi, ý chỉ Tổ sư tri thức không đến được, dẫn sự lý mà được chăng? Vì vậy Thế Tôn nói: “Lý chướng ngăn chánh tri kiến, sự chướng thì tiếp nối sinh tử”.

Sư nghe xong bỗng nhiên tỉnh mộng. Liền hỏi:

– Làm sao thọ dụng?

– Lời nói chẳng lìa hang ổ, lẽ đâu ra được trói buộc?

Sư than:

– Vừa mở môi miệng, ý tứ đã rơi đều là cửa chết, không phải là đường sống.

Sư từ biệt Uẩn Thông sang Kinh sư, tá túc tại khuôn viên của Phò mã Đô úy Lý Đoan Nguyện, ngày đêm hỏi đạo. Hồi ấy, hầu hết công khanh đều đến nghe sư luận nghị. Sư tùy cơ khai ngộ. Lý Đoan Nguyện hỏi Sư:

– Rốt cuộc có địa ngục hay không?

Sư đáp:

– Chư Phật nhằm trong cái không mà nói có, mắt thấy hoa đốm trong hư không, Thái úy nhằm trong có mà tìm không tay bắt bóng trăng trong nước. Đáng cười thay! Trước mắt thấy lao ngục mà không tránh. Ngoài tâm tìm thiên đường mà cũng muốn tìm mà lại không biết vui sợ có trong tâm thì thiện ác có thành cảnh. Chỉ cần Thái úy liễu ngộ tự tâm thì tự nhiên không còn nhầm lẫn.

– Làm thế nào để liễu ngộ tâm?

– Chẳng suy nghĩ tư lường thiện ác.

– Sau khi chẳng suy lường thì tâm về đâu?

– Xin mời Thái úy về nhà.

Sư vân du về Đông, đầu tiên trụ ở ngọn Hương Lô thuộc Thư châu. Sau trụ ở Nhân Thánh Thái Bình ở Giản châu, rồi qua Tuyết Đậu. Kế đó, Sư trụ ở chùa Long Du trên Kim sơn.

Đêm giao thừa năm Gia Hựu thứ tư, Sư sai thị giả đem thư đến cho Học sĩ Điêu Cảnh Thuần ở Dương châu. Thư ghi:

“Sáng mai tôi đi không rảnh để gặp ông, hãy giữ mình”.

Cảnh Thuần mở thư xem, thất kinh nói:

“Phải làm sao đây? Chỉ biết phúc thư tiễn biệt mà thôi!”

Ngay đêm ấy, có người hầu đến báo Dương châu cầm thư đến thuyền và sắp cập bến. Sư vui vẻ sai đánh trống thượng đường, rồi nói lại ngọn nguồn tông sư xuất thế, cảm tạ, tán thán thiền tăng khắp tòng lâm, khuyên đại chúng tinh tấn tu hành đừng giãi đãi. Sư nói:

– Ta đi xong, phải kiếm người hiền đức giám tự, bổ nhiệm dưới tòa.

Đọc xong thư của Cảnh Thuần, đại chúng dìu sư lên phương trượng. Sư ngồi kiết già, khoác tay bảo chúng đứng ra xa, lát sau sư thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, tăng lạp năm mươi ba hạ.

Kỷ Hợi: Âu Dương Tu chỉnh sửa xong Đường Thư. Dương Tu soạn thêm Ngũ đại sử bảy mươi bốn quyển, lược bỏ hết những việc của Phật giáo, Đạo giáo đã được ghi trong Cựu Đường Sử. Tiếc thay!

Canh Tý: Tháng sáu, Thừa tướng Tằng Công Lượng dâng vua bộ Đường Thư mới chỉnh sửa gồm hai trăm năm mươi quyển.

37. Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài:

Sư họ Trần, người Lạc Thanh, Ôn châu. Gia đình sư vốn làm nghề đánh cá. Mẹ sư nằm mộng thấy ngôi sao rơi vào nhà, quét ra thì ánh sáng chiếu khắp nhà, nhân đó bà mang thai. Đến khi sinh sư, điềm lạ càng nhiều.

Thuở nhỏ, Sư ngồi sau đuôi thuyền theo cha đánh cá. Cá bắt được, cha sư giao cho Sư xâu lại. Sư không nỡ xâu mà lén thả cá xuống lại. Cha sư nổi giận la trách, đánh đòn. Hoặc dùng lời ngon ngọt khuyên nhưng sư cũng vậy.

Lớn lên, Sư vào Kinh sư trú tại chùa Cảnh Đức, nhân thi kinh mà được xuất gia. Thời bấy giờ, có Ngôn Pháp Hoa là người không ai lường biết được. Một lần gặp sư trong chợ Ngôn Pháp Hoa vỗ vào lưng sư nói:

– Lâm Tế, Đức Sơn.

Đầu tiên, Sư yết kiến Thiền sư Kim Loan nhưng không khế ngộ. Sau sư yết kiến Diệp Huyện Tỉnh Công vẫn không khế ngộ. Sư vân du về Đông, đến Động Đình Thúy Phong. Nhân lúc gánh nước, đòn gánh gãy và ngộ được ý chỉ. Trùng Hiển ấn khả, cho sư là bậc kỳ tài. Sư từ giã ra đi, qua thời gian lâu nhưng không có tin tức gì. Có vị Tăng từ Hoài thượng đến và nói:

– Hoài đã ra hoằng hóa ở Thiết Phật rồi.

Trùng Hiển bảo tăng ấy đọc lại bài pháp ngữ đầu tiên. Tăng đọc:

Nhạn liệng trong không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để dấu
Nước không có tâm giữ hình.

Trùng Hiển ngợi khen, cho rằng quả thật như mình. Trùng Hiển sai người đến thăm dò rồi mới dám dùng lễ như môn nhân. Thiền giả các nơi đều khâm phục sở ngộ sâu xa của Sư. Từ Thiết Phật đến Thiên Y, Sư dời pháp tịch tất cả năm lần, toàn là nơi rừng hoang lạnh lẽo. Sư đến đều lập ra tự viện. Về già, do có bệnh nên sư cất am ở tại Sam sơn, Trì châu. Đệ tử sư là Trí Tài ở núi Phật nhật, Hàng châu thỉnh sư về đó lo liệu thuốc thang. Bữa nọ, Trí Tài đi Cô Tư chưa về. Sư nhắn Tài về gấp. Tài về đến, Sư từ biệt chúng. Tài hỏi Sư:

– Giờ tịch đến rồi, thế nào là việc rốt ráo?

Sư đưa nắm tay lên khai thị, rồi nằm xuống xô gối mà tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, tăng lạp bốn mươi sáu hạ. Đồ chúng an táng sư ở núi Phật Nhật. Trong niên hiệu Sùng Ninh, vua sắc phong sư thụy là Chấn Tông Đại sư.

38. Âu Dương Tu Hỏi Việc Lâm Chung:

Quý Mão: Ngày hai mươi tám tháng ba, vua mất.

Trước đây, Âu Dương Tu từng làm quan ở đất Lạc. Một hôm, ông dạo ở Tung sơn, rồi để kẻ hầu ở nhà, một mình tha thẩn đi dạo. Ông lên đến một ngôi chùa trên núi, cửa chùa làm toàn bằng trúc. Ông dừng lại trước điện, chợt thấy bên cạnh có một lão tăng đang xem kinh, ông hỏi gì vị Tăng ấy chẳng muốn trả lời. Dương Tu lấy làm lạ bèn hỏi:

– Đạo nhân ở núi này lâu chưa?

– Rất lâu.

– Tụng kinh gì?

– Kinh Pháp hoa.

– Ngày xưa, những bậc cao tăng đến lúc mất đều nói cười rồi mới mất. Nhờ đâu có được như vậy?

– Do sức định tuệ mà thôi.

– Ngay hiện tại làm vắng lặng “có, không” phải chăng?

Vị Tăng cười nói:

– Người xưa niệm niệm đều ở trong định tuệ, lâm chung làm sao loạn được. Người nay niệm niệm ở trong loạn, lâm chung làm sao định được.

Dương Tu nghe nói thất kinh, bất giác ông quỳ xuống thành tâm tạ tội vì đã từng viết văn phỉ báng.

39. Thiền sư Thiên Bát Trùng Nguyên:

Sư họ Tôn, sinh trưởng ở huyện Thiên Thừa, Thanh châu. Nối pháp Thiền sư Thiên Y. Lộ công Văn Ngạn Bác làm tướng ra trấn giữ Ngụy phủ đã thỉnh sư trụ trì chùa Thiên Bát. Mùa hạ năm này, Sư từ biệt Ngạn Bác rồi thị tịch. Lúc trà-tỳ, khói bay lên quần quyện thành xá-lợi. Ngạn Bác cầm bình cầu nguyện, luồng khói ấy bay vào bình hóa thành xá-lợi đầy cả bình. Từ đó Lộ Công dốc chí vào kinh điển.

40. Anh Tông:

Giáp Thìn: Đổi niên hiệu là Trị Bình.

Anh Tông tên là Thự, cháu của Thái Tổ, con của Bộc An Ý Vương Nhượng. Ban đầu ông có tên làTông Thật. Nhân Tông không có con, lập ông làm Hoàng tử, ban tên là Thự. Hàn Kỳ, Tư Mã Quang lập ông lên ngôi. Ông lên ngôi năm ba mươi ba tuổi, mất năm ba mươi bảy tuổi, trị vì bốn năm.

41. Thiền sư Vân Phông Văn Duyệt:

Sư họ Từ, sinh trưởng ở Nam Xương. Năm bảy tuổi, Sư xuất gia tại chùa Long Hưng. Hình dung sư thấp nhưng khôi ngô, uyên bác. Năm mười chín tuổi, Sư vân du đến Giang hoài yết kiến Đại Ngu Thủ Chi ở Quân châu. Sư thấy am viện của Thủ Chi hoang tàn vắng vẻ như nhà trọ. Từ khi dừng chân ở đây, Sư thấy Thủ Chi ngày ngày đi vào thành thị, tối về đóng cửa nằm yên, Sư cũng chẳng lưu tâm đến. Một hôm sư gói gém đồ đạc đi nơi khác. Lúc sắp đi, trời bỗng mưa to giữ chân sư lại. Thủ Chi thăng tòa nói:

– Mọi người tụ tập ở đây ăn rau cải, mà một cọng cải cũng đọa địa ngục như tên bắn.

Nói xong, Thủ Chi xuống tòa. Sư thất kinh, ngay đêm ấy đến trượng thất. Thủ Chi hỏi:

– Ông đến cầu việc gì?

Sư thưa:

– Cầu tâm pháp của Phật.

– Pháp luân chẳng chuyển, thực luân chuyển trước. Hậu sinh còn sức đuổi theo thanh sắc, sao không đi xin ăn cho chúng? Ta chịu đói không được đâu rảnh để nói pháp cho ông.

Sư không dám trái lời, liền xin đi khất thực. Lúc sư trở về, Thủ Chi đã dời qua ở Thúy nham, Tây sơn. Sư lại qua đó y chỉ Thủ Chi. Đêm nọ, Sư đến trượng thất. Thủ Chi hỏi:

– Ông lại muốn cầu tâm pháp của Phật nữa chăng? Ông không nhớ ta vừa mới ở nơi am thất mục nát, mưa dột, lại gặp phải tuyết lạnh ư? Ta ngày đêm mong ông đến gánh nước thổi cơm cho đại chúng, ta chịu lạnh không nổi, lẽ đâu có thể nói pháp cho ông nghe chăng?

Sư lại không dám trái lời liền vào thành xin than đốt đem về. Lúc này pháp hội thiếu người làm Duy na. Đêm ấy, Sư đến trượng thất. Thủ Chi nói:

– Phật pháp chẳng sợ tan thân, pháp hội nay thiếu một chức, phiền ông làm giúp cho.

Sư không nói không rằng bỏ đi ra. Hôm sau, Thủ Chi đánh kiền chùy nhóm chúng. Sư có ý không vui, muốn lạy tạ Thủ Chi đi nơi khác. Sư nghĩ mình lao nhọc ngần ấy thời gian ở đây mà chẳng học được gì. Tâm giận Thủ Chi không sao buông được. Sư ngồi bệt xuống trước giàn úp thùng, giàn bỗng nhiên đổ sụp, thùng gầu từ trên giàn rơi xuống, Sư hốt nhiên khai ngộ chợt thấy ra chỗ dụng tâm của Thủ Chi trước đây. Sư liền đắp y chạy thẳng lên phương trượng. Thủ Chi đón sư cười nói:

– Duy na sướng thật! Việc lớn đã xong rồi.

Sư đảnh lễ, vui mừng đến toát mồ hôi, chẳng thốt được lời nào. Sư ở lại hầu hạ Thủ Chi tám năm. Thủ Chi mất, Sư vân du về Đông đến Tam Ngô. Những tòng lâm mà sư đến tăng chúng đều rất kính phục. Trong đó Thiền sư Trùng Hiển Tuyết Đậu càng đặc biệt tôn kính sư. Mỗi lần nhóm chúng thưa hỏi, Tuyết Đậu thường thiết riêng một sàng tòa cho Sư, đủ thấy Tuyết Đậu cung kính sư đến dường nào.

Nam Xương sai người đến thỉnh sư trụ trì Thúy Phong, sau Sư dời về Vân Phong. Ngày tám tháng bảy năm Gia Hựu thứ bảy, Sư thăng tòa từ biệt chúng:

Trụ thế sáu mươi sáu năm
Làm tăng năm mươi chín hạ
Nếu thiền giả hỏi ý chỉ
Lỗ mũi từ trên hướng xuống.

Nói xong sư an nhiên thị tịch. Đồ chúng trà tỳ lượm được xá-lợi ngũ sắc và dựng tháp phía Bắc Vũ khê.

Bính Ngọ: Tháng ba, sao Chổi xuất hiện ở phía Tây. Năm Canh Thân, sao Thần xuất hiện trong tông thất, lớn như mặt trăng, rộng hơn bảy thước. Năm Đinh Tỵ, sao Hôm xuất hiện gần sao Mão, lớn bằng sao Thái bạch, rộng một trượng năm thước. Năm Nhâm Ngọ, sao Bột xuất hiện gần sao Tất lớn như mặt trăng, năm ngày sau thì lặn mất. Tháng giêng năm sau, vua mất tại điện Phước Ninh.

42. Vua hạ chiếu quy định số lượng chùa trong nhân gian:

Đinh Mùi: Vua hạ chiếu sắc tứ cho ba mươi ngôi chùa, tự viện trước đây do dân lập nên, đều lấy tên là Thọ thánh và xuống chiếu bảo tồn.

Phật giáo vào Trung Quốc đã một ngàn năm.