PHẬT PHÁP CĂN BẢN CHO NGƯỜI TẠI GIA
Thích Đạt Ma Phổ Giác

 

BÀI I: GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT VÀ
PHẬT PHÁP CĂN BẢN CHO NGƯỜI TẠI GIA

1-Chữ đạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa:

-Con đường: con đường đi đến cõi người gọi là nhân đạo, con đường đi đến người ngoài hành tinh gọi là thiên đạo, con đường đi đến mọi sự đau khổ tột cùng gọi là địa ngục đạo, con đường đi đến chỗ si mê lầm lạc gọi là súc sinh đạo, v.v…

-Bổn phận: như đạo nghĩa thầy trò, đạo nghĩa vợ chồng, đạo lý làm người v.v…

-Chân lý tuyệt đối, tâm thể sáng suốt sẵn có nơi mỗi chúng sinh: còn gọi là Phật tính, Niết-bàn, Chân như… Tùy theo mức độ nhận thức và hiểu biết mà chúng ta có thể hiểu chữ Đạo theo quy trình từ thấp đến cao.

2-Chữ Phật nghĩa là gì?

Phật nói cho đủ là Phật-đà, nói gọn lại là Phật, là một người đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn. Chữ Phật là danh từ chung, chỉ cho tất cả những ai đã tu hành phước huệ tròn đủ và thành tựu viên mãn.

3-Giác ngộ có mấy bậc?

Giác ngộ có ba bậc:

a-Tự giác: là tự mình giác ngộ do siêng năng tu tập, và biết cách buông xả để thoát khỏi mọi sự trói buộc trong cuộc đời lầm lạc si mê.

b-Giác tha: nghĩa là mình khi đã giác ngộ rồi tùy theo căn cơ trình độ của chúng sinh mà hướng dẫn lại để mọi người cùng được giác ngộ.

c-Giác hạnh viên mãn: là sự giác ngộ hoàn toàn nhờ phát tâm độ sinh với tinh thần tốt đạo đẹp đời và thành tựu đầy đủ công hạnh Bồ-tát không biết mệt mỏi nhàm chán.

4-Đạo Phật nghĩa là gì?

-Đạo Phật có hai nghĩa chính:

-Là con đường đưa tất cả chúng sinh vượt qua biển khổ sông mê đến bờ giác ngộ sáng suốt.

-Là phương pháp rèn luyện để giúp mình sống an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại mà chẳng tìm cầu đâu xa hoặc kiếp sau.

5-Đạo Phật ra đời từ lúc nào?

-Nếu nói theo nghĩa sáng suốt sẵn có nơi mỗi chúng sinh thì đạo Phật không có điểm khởi đầu, giống như bản chất của gương là tự sáng.

-Nếu theo nghĩa lịch sử thì đạo Phật có trước đạo Thiên Chúa 624 năm trước công nguyên tính theo năm sinh. Nói gọn lại thì đạo Phật đã có mặt hơn 2600 năm.

6-Ai khai sáng đạo Phật?

Người khai sáng ra đạo Phật chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nên được mọi người gọi ngài là Đức bổn sư.

7-Lợi ích của đạo Phật là gì?

-Đạo Phật có ba lợi ích:

1-Với tinh thần từ bi hỷ xả, đạo Phật giúp cho nhân loại đoàn kết thương yêu nhau bằng trái tim có hiểu biết.

2-Với tinh thần bình đẳng, đạo Phật giúp cho mọi người không phân biệt đối xử theo thể chế chính trị, màu da sắc tộc và giai cấp cao thấp.

-Với ánh sáng trí tuệ, đạo Phật làm cho con người biết soi sáng lại chính mình để chuyển hóa bớt tối tăm, si mê lầm lạc mà gây khổ đau cho mình và người khác.

8-Giáo lý của đạo Phật gồm những gì?

Giáo lý đạo Phật gồm có Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng, gọi chung là ba tạng kinh điển.

-Kinh tạng: là văn bản được ghi chép lại những lời Phật dạy sau khi Ngài nhập Niết-bàn.

-Luật tạng: là những nguyên tắc đạo đức mà Phật đã chế ra nhằm ngăn ngừa các điều ác và làm những điều lành hoặc khi các vị đệ tử phạm giới.

-Luận tạng: là những sách vở phần lớn do các vị tổ sau này viết ra để luận bàn, giải thích rõ ràng về ý nghĩa lời Phật dạy để mọi người cùng nhau tham khảo và tu tập.

BÀI II: LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT
VÀ PHẬT PHÁP CĂN BẢN CHO NGƯỜI TẠI GIA

1-Người khai sáng đạo Phật là ai? Người khai sáng đạo Phật là đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

2-Trước khi xuất gia, Ngài tên là gì? Con của ai? Ở nước nào?

–Trước khi xuất gia, ngài là Thái tử Sĩ Đạt Ta,

–Con của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da,

–Ở nước Ấn Độ.

3-Khi một người phàm ra đời thì gọi là “đầu thai”, nhưng đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, các nhà hiền triết dùng những từ ngữ gì? Ý nghĩa đó như thế nào?

Các nhà hiền triết dùng những từ ngữ:

–Đản sinh: là sự ra đời vui vẻ, làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn.

–Thị hiện: là hiện thân của một con người bằng xương bằng thịt, được sinh ra từ bụng mẹ giống như tất cả mọi người.

–Giáng sinh: là từ chỗ cao quý mà hiện xuống một chỗ thấp kém hơn để sinh ra.

Ý nghĩa của ba từ trên nhằm ca ngợi sự tôn trọng và quý kính của một vị Phật. Ngài xuống trần để đem lại niềm an vui hạnh phúc cho chúng ta, giúp mọi người biết cách làm chủ bản thân nhờ thấu rõ chân lý cuộc đời.

4-Đức Phật đản sinh ngày nào?

Ngày rằm tháng 4 âm lịch, gọi là ngày Phật Đản.

5-Đức vua Tịnh Phạn đã cưới vợ cho Thái tử Sĩ Đạt Ta để sau này kế thừa sự nghiệp thế gian, mong con mình sống trong cung vàng điện ngọc vợ đẹp con ngoan. Vậy người vợ ấy tên gì? Sinh ra người con tên gì?

–Người vợ là công chúa Da Du Đà La con vua Thiện Giác.

–Người con là La Hầu La, lúc 7 tuổi theo đức Phật xuất gia.

6-Nguyên nhân gì khiến Thái tử Sĩ Đạt Ta xuất gia tìm cầu chân lý?

Nhận thấy sự đau khổ của kiếp người là sinh già bệnh chết không có ngày cùng, Ngài muốn tìm một con đường giải thoát cho chúng ta, nên đã từ bỏ cung vàng điện vợ đẹp con ngoan để sớm xuất gia tìm đạo.

7-Chữ Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là gì?

-Thích Ca: nghĩa là phát khởi lòng từ bi thương người bình đẳng.

-Mâu Ni: nghĩa là tâm hồn luôn trong sáng và yên tĩnh. Thích Ca Mâu Ni nghĩa là người luôn có lòng từ bi cứu người giúp vật mà không thấy ai là kẻ thù nên an nhiên tự tại giải thoát.

8-Đầu tiên Đức Phật tu theo phương pháp gì?

-Đầu tiên Ngài tu theo hai vị thiền sư nỗi tiếng thời bấy giờ nhưng quả chứng không được giác ngộ hoàn toàn.

-Kế đến Ngài tu theo phương pháp khổ hạnh, có khi mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt bắp và phơi mình giữa trời mưa nắng hoặc giá lạnh. Nhưng kết quả chỉ làm cho cơ thể suy kiệt, tinh thần không sáng suốt nên không tìm ra chân lý.

9-Sau đó Ngài đã tu hành thế nào?

a-Ngài quán chiếu lại hai phương pháp đã hành trì:

Tu mà còn hưởng thụ dục lạc thế gian giống như nấu cát mà muốn thành cơm thì không thể được. Tu mà khổ hạnh ép xác càng làm cho thân thể suy kiệtkhông thể thành tựu đạo quả.

b-Ngài tìm ra phương pháp trung đạo ăn uống vừa đủ để nuôi thân này mà dễ dàng buông xả mọi dính mắc ràng buộc.

c-Sau khi sức khỏe hồi phục Ngài tắm gội sạch sẽ, rồi đến gốc cây Bồ-đề ngồi thiền, thề nếu không chứng đạo quyết không rời bỏ chỗ này. Ngài ngồi thiền suốt 49 ngày đêm, chứng được tam minh lục thông và giác ngộ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

10-Sau khi thành đạo dưới gốc cây bồ-đề, đức Phật bắt đầu truyền đạo: Buổi thuyết pháp đầu tiên diễn ra tại đâu?

–Tại vườn Lộc Uyển và ai là những người nghe pháp đầu tiên? 5 anh em Kiều-trần-như là bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia.

-Bài pháp đầu tiên Đức Phật thuyết giảng là gì? Bài Tứ diệu đế tức là bốn chân lý sống trong cuộc đời.

-Đức Phật đã thuyết pháp tất cả bao nhiêu năm? 49 năm hoằng hóa độ sinh.

11-Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã hóa độ những ai?

-Ngài hóa độ tất cả các hạng người, từ vua quan, quý tộc cho đến ngoại đạo, nô lệ, kỹ nữ, tướng cướp, những người thuộc giai cấp hạ tiện.v.v… với tinh thần bình đẳng không phân biệt.

12-Bảng ghi nhận các mốc thời gian quan trọng trong cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời và nhập Niết-bàn:

-Đản sinh: ngày rằm tháng 4 âm lịch

-19 tuổi xuất gia: ngày 8 tháng 2 âm lịch

-30 tuổi thành đạo: ngày 8 tháng 12 âm lịch

-80 tuổi nhập Niết-bàn: ngày rằm tháng 2 âm lịch

BÀI III: CÁCH THỨC THỜ PHẬT, LẠY PHẬT, CÚNG PHẬT

1-Ý nghĩa thờ Phật là gì?

-Chúng ta thờ Phật để tỏ lòng biết ơn và đền ơn Ngài đã dấn thân đóng góp không biết mệt mỏi nhàm chán, để từng bước dìu dắt mọi người tiến quả giác ngộ giải thoát hoàn toàn.

-Thờ Phật để được học hỏi tấm gương sáng của Ngài qua các đức tính từ bi hỷ xả, trí tuệ thông suốt nhờ tâm thanh tịnh sáng suốt, từ đó nhắc nhở chúng ta làm các việc thiện ích, và không làm các việc sai trái xấu ác.

2-Ý nghĩa lạy Phật là gì?

Ngày xưa khi Đức Phật còn sống, các đệ tử thường cúi xuống hôn chân Phật và đặt trán mình lên đó để tỏ lòng tôn kính và biết ơn. Ngày nay chúng ta thờ hình tượng Đức Phật, lễ lạy bằng cách năm vóc toàn thân đầu mình tay chân chạm sát đất để tỏ lòng tôn kính.

3-Ý nghĩa cúng Phật là gì?

Ngày xưa, các thí chủ cúng dường đức Phật và Tăng đoàn để tỏ lòng tôn kính biết ơn và duy trì nếp sống thiền môn. Ngày nay chúng ta vẫn cúng dường như thế để duy trì ngôi Tam bảo mà có nơi nương tựa để tu học.

4-Chúng ta phải thờ vị Phật nào?

-Trước tiên là phải thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì Ngài là người đã khai sáng ra đạo Phật có lịch sử rõ ràng. Song bên cạnh đó chúng ta có thể thờ thêm hai bên các vị Bồ-tát như Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ -tát Đại Thế Chí. Tuy nhiên tùy sở thích của mỗi người mà chúng ta có thể thờ một vị Phật khác như Phật Dược Sư, Phật A Di Đà .v…v.. Nhưng chính yếu vẫn là thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì Ngài đã xuất hiện nơi thế gian bằng xương bằng thịt, còn các vị Phật khác Ngài nói lại trong các bản Kinh.

5-Lạy Phật mấy lạy là đúng? Tại sao?

-Lạy 3 lạy là đúng nhất. Đó là lễ lạy Tam bảo tức Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo. Nhưng thật ra, vì lòng thành kính đối với Phật, ta có thể lạy bao nhiêu cũng được để tỏ lòng tôn kính và xả bỏ tâm cống cao ngã mạn. Nhưng với người bệnh hoạn, hoặc già yếu không lạy được đúng phép thì cũng không có tội, miễn sao giữ tâm thành kính hướng về Phật là tốt.

6-Chúng ta nên cúng Phật món gì?

-Đúng phép là cúng Phật năm món: hoa, đèn, hương, trái cây, nước trong.

-Nhưng với lòng tôn kính và biết ơn, chúng ta có thể cúng những món mà ta nấu nướng thanh tịnh, như cháo, chè, bánh, cơm chay v.v…

7-Gia đình nghèo không đủ tiền mua hoa và trái cây thì sao?

Đã nói là cúng dường với tấm lòng thành của mình, nếu có cũng tốt không có cũng không sao cả. Tấm lòng tôn kính và biết ơn mà cố gắng học hỏi và tu sửa mới thật là quý giá.

BÀI IV: TAM QUY, NGŨ GIỚI VÀ
PHẬT PHÁP CĂN BẢN CHO NGƯỜI TẠI GIA

1-Quy y có nghĩa là gì? Quy: là trở về; Y: là nương tựa; Quy y là trở về nương tựa. Quy y cũng có nghĩa là tôn kính vâng lời và làm theo những lời dạy quý báu.

2-Tam bảo nghĩa là gì? Tam là ba; bảo là quý báu; Tam bảo là ba ngôi quý báu: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

-Phật bảo: là con người có thật trong lịch sử là đấng giác ngộ hoàn toàn, là hình tượng Phật chúng ta đang thờ.

-Pháp bảo: là những lời dạy của Đức Phật được ghi chép lại mà lưu truyền cho đến ngài hôm nay.

-Tăng bảo: là những vị xuất gia tu hành chân chính, vừa học vừa tu và hướng dẫn lại cho quý Phật tử.

3-Quy y Tam bảo là gì? Tại sao phải quy y Tam bảo?

Quy y Tam bảo là trở về nương tựa ba ngôi quý báu Phật, Pháp, Tăng. Chúng ta phải quy y Tam bảo để được hướng dẫn và tu học nhằm mục đích trau giồi phẩm chất đạo đức mà biết cách hoàn thiện chính mình, vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

4-Lợi ích của Quy y Tam bảo?

Người Phật tử sau quy y Tam bảo thì khỏi đọa lạc vào ba đường ác là địa ngục, quỷ đói và súc sinh.

5-Sau khi quy y Tam bảo, người Phật tử phải phát nguyện gìn năm điều đạo đức. Vậy năm điều đạo đức đó là gì? Phật vì lòng từ bi nên mới chế ra năm điều đạo đức để giúp chúng ta ngăn ngừa tội lỗi và không làm các việc xấu ác.

-Năm điều đạo đức gồm có :

1-Không sát sinh hại vật

2-Không gian tham trộm cướp

3-Không tà dâm ngoại tình

4-Không nói dối hại người

5-Không uống rượu say sưa và xử dụng các chất kích thích độc hại như xì ke ma túy.v..v.

-Không sát sinh: là không giết hại sinh mạng con người cho tới hạn chế tối đa giết hại các loài vật, vì ai cũng ham sống sợ chết.

-Không gian tham trộm cướp: trộm là lén lấy, cướp là công khai giành giựt lấy.

-Không tà dâm ngoại tình: Phật tử khi khôn lớn trưởng thành có quyền lấy vợ lấy chồng nhưng sống chung thủy để bảo vệ hạnh phúc gia đình mình và người khác.

-Không nói dối hại người: là không nói sai sự thật gây tổn hại cho người khác, nhưng có thể nói dối để cứu người.

-Không uống rượu: là không dùng những chất gây say sưa, nghiện ngập, kể cả cờ bạc, cá độ, hút chích xì ke ma túy…

6-Lợi ích chính của việc không sát sinh?

-Không bị người oán giận thù hằn và giết hại.

-Sống thọ, không chết yểu và chết vì những tai nạn bất ngờ.

-Tránh được nạn chiến tranh binh đao tàn sát.

7-Lợi ích chính của sự không gian tham trộm cướp?

-Không bị người khác lường gạt trộm cướp dưới nhiều hình thức.

-Được sống trong an ổn không lo lắng sợ hãi.

8-Lợi ích chính của sự không tà dâm ngoại tình?

-Gia đình sống an vui hạnh phúc.

-Được sắc đẹp vẹn toàn.

9-Lợi ích chính của sự không nói dối hại người?

-Có uy tín, được tin tưởng giao cho những công việc quan trọng.

-Không bị kẻ khác lừa gạt, thất hứa.

10-Lợi ích chính của sự không uống rượu?

-Được thông minh, trí tuệ.

-Gia đình sống an vui hạnh phúc không bị nạn bạo hành gia đình và con cái ít bệnh tật.

BÀI V: BỔN PHẬN NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA

1-Các bổn phận của người Phật tử tại gia?

Người Phật tử tại gia có 5 bổn phận:

-Bổn phận đối với bản thân.

-Bổn phận đối với gia đình người thân.

-Bổn phận đối với người ngoài gia đình.

-Bổn phận đối với xã hội.

-Bổn phận đối với Phật pháp.

2-Bổn phận của Phật tử đối với bản thân?

a-Giữ năm điều đạo đức để sống tốt đời đẹp đạo.

b-Sám hối và ngăn ngừa những việc làm sai trái.

c-Tích cực làm việc thiện và kêu gọi mọi người cùng nhau hưởng ứng vì lợi ích chung.

d-Siêng năng học hỏi giáo lý của đức Phật qua sự hướng dẫn của những người tu hành chân chính.

3-Bổn phận của Phật tử đối với gia đình người thân?

a-Cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ.

b-Sống chung thủy trong vợ chồng.

c-Nuôi dạy con cái với tinh thần trách nhiệm cao, tin sâu nhân quả và biết tự lực trong cuộc sống.

d-Thương yêu nhường nhịn, vui vẻ thuận thảo giúp đỡ anh chị em.

-Ngoài ra chúng ta còn có trách nhiệm hướng dẫn mọi người trong gia đình biết quy hướng về Phật pháp để cùng nhau học hỏi và tu sửa nhằm biết cách hoàn thiện chính mình.

4-Bổn phận của Phật tử đối với người ngoài gia đình?

a-Siêng năng chăm chỉ học hành, biết vâng lời thầy cô giáo, sống có ý thức và giữ gìn hạnh kiểm tốt.

b-Giúp đỡ, động viên an ủi bạn bè cùng nhau học hành tiến bộ trên tinh thần đoàn kết thương yêu bằng trái tim có hiểu biết.

c-Hòa nhã, tương trợ xóm giềng, bà con mỗi khi có việc cần thiết.

5-Bổn phận của Phật tử đối với xã hội?

a-Làm tròn nghĩa vụ công dân, chấp hành luật pháp.

b-Tham gia các phong trào xã hội, dấn thân đóng góp vì lợi ích mọi người.

c-Sống gương mẫu đạo đức để mọi người có thiện cảm và hiểu đúng về đạo Phật chân chính.

6-Bổn phận của Phật tử đối với Phật pháp?

a-Lễ Phật, tụng kinh, sám hối, hành thiền và cúng dường người tu hành chân chính.

b-Học hỏi giáo lý Phật-đà theo tinh thần nghe rồi suy nghĩ và thực hành cảm nhận có an lạc hạnh phúc, mới chọn lựa pháp môn phù hợp với mình để tu tập.

c-Siêng năng và nhiệt tình truyền bá chính pháp Phật-đà được tỏa sáng khắp muôn nơi.

7-Cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ:

– Hiếu tâm,

– Hiếu dưỡng,

– Hiếu hạnh,

– Hiếu đạo.

8-Hiếu tâm là như thế nào?

-Hiếu tâm: Là sự thương yêu, tôn kính chân thành với tinh thần biết ơn và đền ơn, vì nghĩ đến sự vất vả sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Cung cấp và dưỡng nuôi cho cha mẹ là trách nhiệm và bổn phận của con cái. Tuy nhiên, không ít trường hợp người con báo hiếu cha mẹ không thật lòng, chẳng qua là vì hoàn cảnh bắt buộc. Thế cho nên, con cái cung kính hiếu thảo với cha mẹ, một lòng mong muốn cha mẹ được an vui, hạnh phúc gọi là hiếu tâm.

9-Hiếu dưỡng là như thế nào?

Là chăm sóc cha mẹ về vật chất.

-Đỡ đần công việc, lo miếng ăn, thức uống, áo quần, nhà cửa…

-Cha mẹ đau ốm thì lo thuốc men, chăm sóc.

-Cha mẹ qua đời thì lo tang lễ chu đáo. Hiếu dưỡng: Nghĩa là cung kính dưỡng nuôi cha mẹ đầy đủ về phương diện vật chất từ thức ăn uống, chỗ ở cho đến thuốc thang mỗi khi bệnh hoạn hay những lúc già yếu. Người Phật tử chân chính nếu biết cung kính cúng dường Tam Bảo, làm từ thiện để giúp đỡ người khác thì trước tiên phải biết cung kính hiếu thảo với ông bà cha mẹ mình trước.

10-Hiếu hạnh là như thế nào?

-Hiếu hạnh: Là làm cho cha mẹ hãnh diện vì những đức hạnh tốt đẹp của con cái từ khi còn nhỏ đến khi khôn lớn trưởng thành.

-Học hành chăm ngoan, có hạnh kiểm tốt được nhà trường khen ngợi.

-Hiền lành, hòa nhã với mọi người, tiếng lành vang xa.

-Dấn thân đóng góp cứu giúp người hoạn nạn nghèo khó, cha mẹ được thơm lây.

Báo hiếu nghĩa là một trách nhiệm thiêng liêng và cao quý của con cái, báo hiếu là truyền thống tốt đẹp, là nếp sống đạo đức với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”. Nếu nói cho đúng nghĩa, báo hiếu là việc làm của người giác ngộ, của các vị Bồ-tát, của người con thảo cháu hiền. Chính vì vậy, ai đã làm người phải xem việc báo hiếu là một nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của đời mình.

11-Hiếu đạo là như thế nào?

-Hiếu đạo: Là hướng dẫn cha mẹ đi vào con đường thánh thiện, để cha mẹ được nhiều phước báo trong hiện tại và mai sau mà không bị đọa lạc vào 3 đường khổ.

-Khuyên cha mẹ tin sâu nhân quả biết tránh tội và làm phước.

-Khuyên cha mẹ biết quy hướng Tam bảo, niệm Phật Bồ-tát, giữ giới và giúp đỡ sẻ chia dưới nhiều hình thức.

-Nếu cha mẹ đã biết tu rồi, thì con cái phải biết cáng đáng việc nhà cho cha mẹ đi chùa, tụng kinh niệm Phật, tu ngày an lạc, hoặc đưa tiền cho cha mẹ cúng dường Tam bảo và tham gia các việc công ích.

-Khi cha mẹ qua đời thì làm lễ tang đúng theo tinh thần Phật giáo chân chính, chứ không phô trương rình rang, giết thịt ăn nhậu, vô tình ta gây thêm nhiều tội lỗi làm ảnh hưởng xấu đến gia đình người thân và người quá cố. Đây là đạo lý nền tảng giúp cho mọi người sống phải có ý thức trách nhiệm, về mọi hành vi đạo đức ở đời nhằm thăng hoa cuộc sống mà hoàn thiện chính mình, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Một người con dù trai hay gái, phải biết báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Việc báo hiếu đó phải thực hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.

Báo hiếu phương diện vật chất: Những điều cần thiết mà người con cần phải phụng dưỡng cha mẹ là thức ăn, đồ mặc, chỗ ở, thuốc men, giải trí. Đặc biệt khi cha mẹ già yếu mất sức lao động thì con cái phải có trách nhiệm dưỡng nuôi cha mẹ. Tuy nhiên, việc làm ra của cải vật chất để phụng dưỡng cha mẹ bằng đôi bàn tay và khối óc của mình một cách lương thiện. Trong kinh Phật dạy: “Người con vì cha mẹ mà làm các điều xấc ác để báo hiếu cho cha mẹ, người ấy sẽ bị đọa lạc vào chỗ thấp kém.

Báo hiếu phương diện tinh thần: Theo đạo Phật, báo hiếu về phương diện tinh thần không chỉ đơn thuần là làm cho cha mẹ luôn được vui vẻ, hạnh phúc, mà còn phải hướng cha mẹ tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành, biết buông xả và sống đời bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Nói tóm lại, trong 4 phần báo hiếu, có thể nói hiếu đạo là quan trọng nhất vì bao gồm hết tất cả.

BÀI 6: BỐN PHƯƠNG PHÁP TẠO DỰNG CUỘC ĐỜI

Chúng ta khi tu hành, ai cũng đều muốn nổ lực cho bản thân mình được lợi ích, đó gọi là tự lợi và đem san sẻ giúp đỡ cho người khác gọi là lợi tha. Tự lợi và lợi tha là con đường tu hành của Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị Bồ-tát.

Là Phật tử chân chính với tinh thần đạo pháp và dân tộc mang đạo vào đời, chúng ta phải tin sâu nhân quả, người hay bố thí sẽ được hưởng quả giàu sang phú quý, nếu gian tham lừa gạt thì phải chịu quả nghèo đói, thiếu thốn khó khăn. Thế cho nên, Bồ-tát đi vào đời bằng 4 phương tiện thiện xão để cứu độ chúng sinh đó là tú nhiếp pháp.

1-Định nghĩa Tứ nhiếp pháp là gì? Tứ là 4; nhiếp là thu phục; pháp là phương pháp. Lợi tha là làm lợi ích cho người khác. Tứ nhiếp pháp là 4 phương pháp lợi tha để giúp tất cả chúng sinh biết quay về với Phật pháp chân chính mà sống an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

2-Tứ nhiếp pháp gồm những phương pháp nào? Tứ nhiếp pháp là bốn phương tiện để nhiếp phục, cảm hóa tâm lý của người đời. Khi đã cảm hóa được họ, lần hồi từng bước hướng dẫn họ phát khởi niềm tin, mở mang trí tuệ và thâm nhập Phật pháp. Các phương tiện này là: Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp.

3-Bố thí nhiếp là gì? Bố thí nhiếp là đem những gì mình có bằng vật chất lẫn tinh thần để cứu giúp người khác khi cần thiết, nhằm tạo sự thiện cảm để họ tâm phục, khẩu phục và mến mộ mà biết quay về với Phật pháp chân chính.

4-Vậy bố thí có mấy phần? Hãy kể ra? Bố thí có 3 phần: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.

a-Tài thí: (tài là tiền tài của cải, vật chất) thí là tặng cho biếu giúp đỡ là đem tiền của, vật chất mà san sẻ, để cứu giúp người đang trong cơn hoạn nạn, thiếu thốn khó khăn.

b-Pháp thí: (Pháp là những lời dạy của đức Phật được ghi chép lại trong tam tạng kinh điển với hơn 30 ngàn bài kinh từ thấp đến cao, từ đạo lý làm người cho đến bậc hiền Thánh). Pháp thí gồm có 2 phần: 1 là cho người xuất gia tu hạnh giải thoát hoàn toàn và cứu độ chúng sinh; 2 là cho người tại gia tu giác ngộ từng phần giảm bớt phiền não khổ đau hoặc đem những phương pháp làm ăn, nghề nghiệp chân chính dạy cho người khác, giúp họ biết sinh sống mà không làm tổn hại đến người và vật.

c-Vô úy thí: (vô úy là không sợ hãi) là chia sẻ cách thức để mọi người biết cách sống không lo lắng, sợ hãi do tham lam ích kỷ, ngu dốt gây ra nhằm đem đến bình yên hạnh phúc giúp họ an trú trong giờ phút hiện tại. Chúng ta từ lúc sinh ra cho đến khi khôn lớn trưởng thành có khi sợ bóng tối, sợ cô đơn, sợ đau ốm tai nạn, sợ hoàn cảnh khó khăn, sợ mất mát đau thương, thậm chí sợ những điều vớ vẫn vu vơ do tâm lý không vững vàng. Bồ-tát hiểu rõ điều này, nên các Ngài thường bố thí không sợ hãi để giáo hóa chúng sinh sống an ổn do biết cách làm chủ bản thân.

5-Trong tài thí có mấy phần? Tài thí có 2 phần là ngoại tài và nội tài.

-Tài thí gồm có nội tại và ngoại tài:

Nội tài thí: Dùng cả thân mạng hoặc một vài bộ phận trong cơ thể để bố thí. Đây là hạnh động buông xả lớn của các Bồ-tát. Hiện nay, có phong trào hiến máu nhân đạo, hiến tặng các chi phần trong cơ thể hoặc hiến xác cho khoa học, đều thuộc về lọai này.

Ngoại tài thí: Dùng tài sản của mình kiếm được một cách lương thiện, đem san sẻ cho những người nghèo khổ thiếu thốn, khó khăn nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh.

6-Ái ngữ nhiếp là gì? Ái ngữ nhiếp là khéo léo dùng lời nói hòa nhã, an ủi, khuyên lơn nói đúng sự thật, làm cho mọi người nâng cao trình độ hiểu biết mà mến phục, để rồi từ đó họ mới theo ta cùng nhau học hỏi và tu sửa.

Trong mối quan hệ thân thiện chúng ta cần sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp hoặc muốn bày tỏ ý kiến, tình cảm với mọi người chung quanh. Chính vì vậy, người Phật tử chân chính khi nói ra điều gì, phải mang tính cảm thông và xây dựng. Một số người có quyền hành thường dùng áp lực để bắt mọi người phải làm theo, nếu làm khác đi thì họ tìm cách trù dập làm tỗn thương cho nhân loại. Dĩ nhiên, quyền lực cũng cần thiết nhưng phải dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng nơi để duy trì an sinh sự sống. Thế cho nên sử dụng ái ngữ đối với con cái hay mọi người chung quanh là một nghệ thuật sống phù hợp với đạo lý làm người là điều cần thiết.

7-Lợi hành nhiếp là gì? Lợi hành nhiếp là làm lợi ích cho người bằng ý nghĩ, lời nói và hành động dấn thân phục vụ, khiến người sinh lòng cảm mến mà theo ta học hạnh từ bi hỷ xả vói tinh thần tốt đạo đẹp đời. Thí dụ như: đắp đường, bắc cầu, nấu cơm từ thiện cho các bệnh nhân nghèo, xây nhà tình thương, nhà dưỡng lão và trại mồ côi.v..v…

8-Đồng sự nhiếp là gì? Đồng sự nhiếp là tạo điều kiện cùng làm chung một công việc, để tạo phương tiện sống gần gũi với mọi người nhằm giúp đỡ họ làm tốt công việc ấy, sau đó dẫn dắt họ đến với Phật pháp. Cuộc sống hòa mình, cùng chung buồn, vui, sướng, khổ với người là một nghệ thuật sống. Nhưng muốn hòa đồng như thế, chúng ta phải có lối sống có phong cách, có ngôn ngữ gần giống người mà mình muốn nhiếp phục.

Trong tứ nhiếp pháp, đồng sự nhiếp là phương pháp hiệu quả nhất vì chúng ta thường xuyên gặp gỡ họ mỗi ngày, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng gánh vác, cùng sẻ chia nên ta có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng ước muốn của họ để ta giúp đỡ một cách thiết thực hơn. Và mỗi ngày ta đều nêu tấm gương tốt của người Phật tử tại gia cho họ nhìn thấy, quay đầu là bờ và ai cũng có thể làm được nếu quyết tâm cao độ.

9-Tứ nhiếp pháp có những lợi ích gì khi ta áp dụng thực hành?

-Về phương diện cá nhân: Ta sẽ gieo được những hạt giống thiện lành tốt đẹp cho mình trong hiện tại và mai sau.

-Về phương diện gia đình: Mọi người cùng sống vui vẻ thuận thảo với nhau để làm tròn bổn phận và trách nhiệm.

-Về phương diện xã hội: Ta sẽ gây được tiếng vang tốt đẹp nhờ sống đạo đức và phụng sự xã hội mà góp phần làm giảm bớt tệ nạn xã hội. Số người tu tập bốn phương pháp vào đời thì xã hội sẽ ổn định, kế thừa và phát triển với tinh thần “tốt đời đẹp đạo” mà hai triều đại Lý-Trần sáng lập.

Nói tóm lại, 4 nhiếp pháp là pháp môn hiện thực đi vào đời nhằm nhiếp hóa, cảm phục được lòng người một cách có lợi ích thiết thực mà vẫn giữ được triết lý sống của đạo Phật. Đây là hạnh phước huệ song tu của các vị Bồ-tát, muốn hiến dâng cuộc đời mình cho lợi ích chung với tinh thần tốt đạo đẹp đời.

BÀI 7: PHẬT PHÁP CĂN BẢN-NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO

1-Nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân; quả là kết quả; nhân quả là mối quan hệ mật thiết do nhiều yếu tố kết hợp mà đưa đến kết quả tương xứng. Thí dụ: Hạt bắp thì sẽ trồng lên cây bắp chứ không thể ra cây xoài.

2-Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về mối quan hệ của nhân quả?

-Nhân và quả có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau theo nguyên lý duyên sinh, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Trong nhân có quả, và trong quả có nhân.

-Nếu chúng ta hiểu theo ý nghĩa thông thường và cố định thì nhân nào sẽ cho ra quả nấy không thể thay đổi được.

Thí dụ: Ta nhìn vào hạt mít thì biết nó hàm chứa quả mít trong tương lai. Ngược lại, nhìn quả mít ta biết trước kia nó xuất phát từ nhân là hạt mít.

Cũng tương tự như thế, nhìn vào một người đang làm việc siêng năng, sống đời đạo đức vị tha, ta sẽ đoán biết kết quả trong tương lai là “sống an lạc, hạnh phúc”. Hoặc nhìn vào một người khác, thấy họ nghèo khổ thiếu thốn khó khăn, thì ta có thể đoán biết nhân duyên trước kia là gây tạo nhiều tội lỗi.

3-Vậy quá trình từ nhân đến quả diễn biến như thế nào? Từ nhân đến quả không có một thời gian nhất định, có thể chậm, có thể nhanh, tùy theo sự kết hợp của các duyên mà cho ra kết quả tốt hay xấu.

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, tùy theo những nguyên nhân và các yếu tố phụ tác động vào mà có sự thay đổi về thời gian. Thí dụ, cây mít trồng đúng bốn năm thì có quả, nhưng do người chủ siêng năng chăm sóc đúng quy trình biết kết hợp theo thời tiết nóng lạnh mà thường xuyên bón phân, tưới nước, làm cỏ, nên 3 năm cây mít đã trổ quả trước kỳ hạn. Chính các duyên này tác động mạnh mẽ đã làm thay đổi thời gian của chu kỳ nhân quả, khiến cây mít có trái sớm hơn dự tính ban đầu.

Cũng tương tự như thế, một người làm ác nhưng chưa kịp trả quả xấu thì họ đã gặp các bậc thiện hữu tri thức giúp họ hồi tâm hướng thiện, khiến nhân quả xấu không có cơ hội trổ quả ngay nơi kiếp hiện tại. Những người thầy đạo đức đó đã tác động mạnh mẽ vào quá trình thay đổi nhân quả của họ.

4-Chúng ta có thể dựa vào yếu tố thời gian mà chia nhân quả ra làm mấy loại? Ta có tạm thời thể chia làm 3 loại nhân quả:

-Nhân quả hiện báo hay còn gọi là nhân nào quả nấy, khi tạo nhân sẽ có kết quả ngay trong đời này. Có loại nhân quả gần, tất là khi ta làm điều gì thì có kết quả liền trong hiện tại, không phải chờ đợi lâu xa. Thí dụ, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu hay còn gọi là nhân nào quả nấy. Trường hợp thứ hai như khi ta đang đói bụng, ta ăn cơm vào thì liền là no hoặc ta đánh trống thì nghe được âm thanh của trống ngay tức khắc. Ta gọi là nhân quả hiện tiền hay nói ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.

-Nhân quả sinh báo: khi tạo nhân trong đời này, sẽ có quả trong đời sau. Có những nhân, nếu ta gieo trong hiện tại có khi ta phải trả quả trong một thời gian ngắn từ năm ba tháng cho đến vài năm mới cho ra kết quả.

-Nhân quả hậu báo: khi tạo nhân trong đời này, đến nhiều đời sau mới cho ra kết quả. Còn có những nhân ta gieo tạo thì phải trải qua một đời, hai đời hoặc vô số kiếp về sau thì quả mới trổ ra. Và có điểm đặc biệt là khi chúng ta gieo nhân mà không có kết quả do thiếu những duyên phụ hoặc ta tu hành quá tinh tấn nên nhân xấu không đủ sức trổ quả.

Như trường hợp trong một lúc ta cùng gieo ba thứ hạt giống cây lúa, cây chuối, cây mít đồng thời ta chăm sóc kỹ càng nhưng kết quả cho ra không cùng một thời gian. Cây lúa khi gieo xuống thì từ ba tháng cho đến sáu tháng có kết quả, cây chuối phải từ chín tháng đến một năm, còn cây mít ít nhất phải từ hai năm trở lên, đó là nhân quả thuận chiều theo nhân duyên. Nhưng có những nhân mà ta đã gieo lại không có kết quả, nửa chừng cây bị chết hoặc bị trường hợp rủi ro khác.

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta là những phàm phu mắt thịt, không thể nào nhìn thấy hết tất cả tiến trình chi phối và diễn biến của luật nhân quả.

Điều này thực tế trong cuộc sống, tuy có nhiều người làm việc thiện mà cuộc đời vẫn gặp bất hạnh khổ đau, bởi quả thiện lành tốt đẹp của kiếp này chưa đủ duyên để kết thành quả trong hiện tại, mà họ đang phải nhận chịu quả xấu của kiếp trước còn xót lại. Sau khi trả hết quả xấu đó, ta sẽ nhận quả thiện mà sống vui vẻ hạnh phúc.

5-Nghiệp là gì? Nghiệp phát khởi từ đâu?

-Nghiệp là những hành động có chủ ý, sẽ đưa đến những quả báo tương xứng trong hiện tại và mai sau. Nghiệp nói cho đủ gọi là nghiệp quả báo ứng được tạo ra từ thân, miệng, ý của chính mình. Bởi vì nghiệp nhân chúng ta đã gây thì nghiệp quả phải đến chỉ sớm hay muộn mà thôi. Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải thận trọng trong từng ý nghĩ lời nói, cho đến hành động do mình tạo ra trong từng phút, từng giây… Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm đáng tiếc.

6-Thế nào là biệt nghiệp và cộng nghiệp?

-Biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng cá nhân chúng sinh. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều chúng sinh. Cùng sinh ra trong một gia đình, sống chung một đất nước, nói cùng một ngôn ngữ, người thích cờ bạc thì chỉ muốn giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì lân cận ăn chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy con người thân cận, kết bạn với nhau và biệt nghiệp khiến chúng ta có dáng mạo, tánh tình, năng khiếu và trí tuệ khác nhau.

a-Nghiệp: là dịch nghĩa chữ Karma tiếng Phạn, chỉ hành động tạo tác được lập đi lập lại nhiều lần lâu ngày trở thành thói quen của mỗi người. Nghiệp có nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp chung, nghiệp riêng, định nghiệp và bất định nghiệp… Nghiệp thiện là hành động lành đem lại sự an vui hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Nghiệp ác là hành động dữ làm đau khổ cho tất cả chúng sinh. Định nghiệp là hành động lành hay dữ có chủ tâm của ý thức mà tạo thành nghiệp quyết định. Bất định nghiệp là hành động tốt hay xấu mà không có ý thức cố tâm, nên thành nghiệp không quyết định (như người bệnh tâm thần).

b-Báo: là đền trả một cách công bằng, không sai chạy, không tiêu mất khi đủ nhân duyên. Báo chia làm ba thứ: hiện báo, sinh báo và hậu báo.

-Hiện báo là quả báo trong hiện tại, do những hành động tốt hay xấu mình đã làm ra.

-Sinh báo là quả báo mình phải chịu trong đời sau, do hành động tốt hay xấu của ba nghiệp, đến đời sau mới chịu quả báo.

-Hậu báo là qua nhiều đời kiếp mới chịu quả báo.

7-Nghiệp có thể thay đổi được không hay cố định mãi mãi?

Trong Kinh A-hàm, đức Phật đưa ra ví dụ rất hay: “Có một nắm muối, nếu ta bỏ vào ly nước nhỏ thì ly nước ấy sẽ bị mặn, ta không thể uống được. Cũng cùng một nắm muối đó, nếu ta bỏ vào một lu nước lớn, tuy có nắm muối hoà tan nhưng vì nước trong lu quá nhiều, cho nên nước hơi măn mẳn ta có thể dung xài hoặc giải khát tạm thời được. Cũng cùng một nắm muối đó, ta đem bỏ vào một hồ lớn, tuy có nắm muối bỏ vào, nhưng nước trong hồ quá nhiều, vì vậy nắm muối không thể chi phối được, do đó ta có thể dùng xài bình thường.

Nhà Phật dụ cho nắm muối là nghiệp xấu ác, còn nước là nghiệp thiện lành và khả năng tu tập của mỗi người. Tuy trong nhà Phật có nói rằng, gieo nhân nào gặt quả nấy, nhưng nhân quả do hành động của mình tạo ra từ thân, miệng, ý thì cũng từ chính mình ta có thể thay đổi, chuyển hóa được. Cũng như trước kia, lúc còn nhỏ, chúng ta chưa biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc… đến khi lớn lên, hòa vào đời sống cộng đồng, ta thấy mọi người làm điều đó, rồi ta bắt chước làm theo lâu ngày trở thành thói quen thế là ta bị nghiệp xấu chi phối.

Rồi thời gian trôi qua theo năm tháng, chúng ta có duyên được đến chùa học hỏi, nghe pháp và biết tu tập, ta thấy được sự tác hại của nó mà dứt khoát từ bỏ.

Nắm muối bỏ vào ly nước là đức Phật dụ cho nhân nào quả nấy để ám chỉ cho hạng người buông trôi theo số phận, chẳng chịu cố gắng làm lại cuộc đời vì nghĩ rằng số tôi như thế mà chấp nhận sống trong đau khổ lầm mê.

Nắm muối bỏ vào lu nước lớn là dụ cho người đã cố gắng thay đổi bỏ bớt, nhưng không bỏ được hoàn toàn dù sao cũng đỡ hơn hạng người trước.

Hạng người thứ ba là hạng người hoàn toàn chuyển nghiệp xấu ác do biết tu thân, tu giới và tu tâm niệm rộng lớn cho nên đức Phật dụ cho nắm muối bỏ vào một hồ nước lớn.

Người đã tạo nghiệp thì phải nhận quả báo tương ứng. Nhưng nếu người đó biết ăn năn, tu tập và làm những nghiệp thiện để bù đắp lại thì quả báo sẽ xoay chuyển, có thể giảm nhẹ đi. Thế cho nên Phật nói tu là chuyển nghiệp.

8-Khi hiểu rõ luật nhân quả nghiệp báo, chúng ta sẽ không bị những thứ mê lầm chi phối?

-Không mê tín dị đoan vì biết chính ta là chủ của bao điều họa phúc.

-Không than trách, oán giận thù hằn khi gặp chướng duyên nghịch cảnh, không thấy ai là kẻ thù mà chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.