PHẬT HỌC VĂN TẬP
Tác giả: Pháp sư Sướng Hoài
Việt dịch: Thích Thắng Hoan

 

II.- NHÂN SANH CÙNG PHẬT GIÁO.

1.- Nhân Sanh Quan Của Phật Giáo.

Phật là ý nghĩa giác ngộ, là người hoàn toàn giác ngộ chân lý của vũ trụ nhân sanh.Giáo là chỉ cho Phật đà là người chỉ đạo cứu giúp chúng sanh giải thoát sanh tử. Phật dùng trí huệ vô thượng, nói tất cả giáo pháp gồm 3 tạng 12 bộ kinh, dùng phương pháp đây giáo hóa chúng sanh, chuyển phàm thành thánh, lìa khổ được an lạc, nên gọi là Phật giáo.

[Nhân] đây so cùng động vật có khác không giống nhau, chỗ gọi là [ Nhân là tâm linh của vạn vật.] là trí huệ của nhân loại, nó siêu việt hơn các động vật khác, lại nữa  nguyên vì nhân gian sinh hoạt có khổ có lạc, cho nên ở trong lục đạo, do con người (nhân) tu hành rất dễ đắc đạo. [Sanh] chính là chúng sanh. Chúng sanh có ba thứ ý nghĩa: (1) chúng đa nhi sanh, (Sanh ra do nhiều yếu tố) (2) Chúng đa sanh tử, (Sống chết do nhiều yếu tố) (3) Chúng duyên hòa hợp nhi sanh. (Các duyên hòa hợp để sanh). [Thai] do ba người là cha, mẹ, mình, [Noản] lại thêm ấm áp hai duyên: ẩm ướt và mình; [Hóa] chỉ nghiệp duyên của mình. “Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Noãn do tưởng mà sanh, thai do nhân tình mà có, ẩm ướt do hiệp cảm mà nên, hóa do ly tán tương ưng.]

Nhân loại do sanh ra đi đến già chết, do đọc sách đi đến thành gia lập nghiệp, là nương nơi sự ăn ở hành động, suốt ngày đi đêm về hôm, mục đích không phải cần kéo dài sanh mạng. Chỉ sanh mạng đây, thế nào cũng có một ngày bị đình chỉ hoạt động, nhân vì phàm có sanh tất nhiên phải có chết, nếu tưởng không chết, đâu cần phải cầu vô sanh.

[Nhân sanh] hiệp lại để giảng, chính là sinh hoạt và sanh mạng của nhân loại, cứu cánh ý nghĩa và giá trị của nhân loại như thế nào? Những người có nhân sanh quan không đồngvới các người khác, là nhân vì có dân tộc, văn hóa, giai cấp, chức nghiệp và tông giáo vân vân không đồng, nhân sanh quan của chúng đều có, nay lược phân có tám thứ, theo thứ tự nói rõ.

(1)-Đây là một hạng ngườicó nhân sanh quan của họ là thuận theo vận mạng an bày. Một thứ người đâysuốt ngày sống mơ hồ cho qua ngày tháng, cơm đến thì ăn cơm, có áo thì mặc áo, đại gia sinh hoạt như thế nào thì họ cũng sinh hoạt theo như thế đó, đặc biệtvấn đề sanh, già, bệnh, chết, họ cũng tự nhiên, nhận cho đó là một sự việc bình thường, đối với nhân sanh đã không có nghi vấn, cũng không đi tìm kiếm phương pháp để giải quyết nhân sanh, còn đối với vấn đề sanh tử họ lại càng thêmkhông cóphương pháp.

 (2)- Đây là một hạng người có nhân sanh quan của họ là hưởng lạc chủ nghĩa. Một thứ người đây ôm ấp dựa vào một thứ phóng túng có thái độ đi tìm khoái lạc, có năm sanh, nhưng không đi nghiên cứu sanh tử, ngay cả quốc gia dân tộc phát sanh biến hóa như thế nào, cũng chẳng quan tâm, không luận ở trên tinh thần hoặc ở trên vật chất, đều là hưởng thụ cho thỏa thích, thậm chí vì đạt được mục đích, không bỏ thủ đoạn nào, tận dụng tâm trí, hưởng thụ cho khoái lạc. Quá đáng hoặc làm ra đối với con người có những sự việc không lợi, nhưng cũng không kiêng nể. Chỗ gọi là: [Sáng nay có rượu sáng nay say, ngày mai sầu lại ngày mai trực tiếp.] Nhân đây, lại tạo tác tội nghiệp vô biên, báo ứng chậm hay sớm tự mình nhận chịu, không người nào có thể thay thế.

(3)- Đây là một hạng người có nhân sanh quan của họ là chủ nghĩa bi quan. Quả như sinh hoạt trải qua không được như ý, liền sanh khởi ưu sầu và bi quan, suốt ngày oán trời trách người. Không luận đối với vấn đề gia đình, bằng hữu, sinh hoạt, công tác vân vân, đều sanh khởi bi quan, nhận cho là hoàn toàn không có ý nghĩa, nhân vì thường sanh yếm thế, hoặc trốn tránh quan niệm hiện thật, tự khốn khổ lấy, lại rất có thể có khuynh hướng tự sát.

(4)- Đây là một hạng người có nhân sanh quan của họ được thiết lập tam bất hủ (ba không hủ bại.Tại Trung Quốc có học thuyết tam bất hủ tức là [lập đức, lập công, lập ngôn.] Lập Đức nghĩa là phải có nhân cách hoàn bị; Lập Công là đối với quốc gia thiên hạ kiến lập công to lớn và kiến lập sự nghiệp vĩ đại; Lập Ngôn là dùng văn chương diển tả khí thế trung thành mạnh mẽ truyền đời. Đại khái con người chí sĩ có nhân từ của Trung Quốc, đại đa số là tận lực nơi tam bất hủ bại này, tức là khiến lao thân, lao sức, lao tâm, nhận lãnh các thứ gây chiến thống khổ, do mưu tính tại chỗ. Chỗ gọi là: [Kẻ sĩ thì dùng thân liều chết vì danh, kẻ sĩ thì dùng thân liều chết vì gia đình.] Nhân sanh quan của những thứ người đây, chủ yếu chính là có thể lưu tiếng thơm vạn đời, gọi là truyền đến đời sau không hủ bại. Nó đối với xã hội có nhất định cống hiến, nhưng đối với vấn đề sanh tử lại chưa chắc có thể đủ để giải quyết.

(5)- Đây là một thứ hạng người có nhân sanh quan của họ là tin có thiên thần. Họ nhận cho bên ngoài của nhân sanh có một thiên thần sáng tạo của vạn hữu, nhân loại tổ tiên cũng do thần này sáng tạo, tất cả vũ trụ thế gian đều do thần này sáng tạo cùng làm chủ tể. Cá nhân thiên thần đây ở Ấn Độ gọi là [Phạm Thiên Đại Thần], nơi Gia Tô Giáo xưng là [Thượng Đế], tại Hồi Giáo xưng là [Chân Thần], giáo đồ của chúng nó chấp nhận nhân sanh chính do thiên thần cho vinh quang mà sanh tồn. Nhân đó, thứ người đây đem vấn đề sanh tử của chính mình hoàn toàn giao phó cho chúng thần kia đi giải quyết.

(6)- Đây là một hạng người có nhân sanh quan của họ là luân lý đạo đức. Nho Gia có tam cương ngũ thường, tứ duy bát đức, do đây hành trì, người nhỏ có thể dùng nó để tu thân tề gia, người lớn có thể dùng trị nước bình thiên hạ. Chu Tử nói: [Phụ tử có tình, quân thần có nghĩa, phu thê có biệt, trưởng ấu có tự, bằng hữu có tín.] Mà tại phương diện đạo đức học thuật có chỗ thành tựu, chính có thể dùng duy trì địa vị của tự mình, nếu có thể bảo tồn nhân cách, chúng nó lại cho là vấn đề nhân sanh đều có thể giải quyết.

(7)- Đây là một hạng người có nhân sanh quan của họ là vô vi nhậm hóa. Đạo Gia cho vô vi biến hóa làm tiêu chuẩn, nhân sanh đến từ vô thỉ, chết cũng vô chung, tại đây trong nó của vô thỉ vô chung, mới sanh mới diệt, mới diệt mới sanh, các thứ biến hóa, nên quán vạn vật, mặc tình nó biến hóa, không suy nghĩ thêm. Tất cả là vô vi, cố nhiên có thể đều là như thế. Chỗ gọi: [Ban đầu của trời đất không có tên, mẹ của vạn vật có tên.] Cần yếu con người thường xuyên phải trải qua quán chiếu sự mầu nhiệm của nó, thứ vấn đề của nhân sanh đây nên xem để giải quyết.

(8)- Đây là một hạng người có nhân sanh quan của họ là Phật Giáo. Phật giáo đối với bảy hạng người nói trên xem cách thức nhân sanh quan của họ đều rất không mãn ý. Phật giáo nhận thấy cho sanh mạng là thuộc nơi đó đây của hình sắc, còn tâm niệm là thuộc nơi vọngtưởng phân biệt, hai thứ đây đều có sanh diệt. Dùng pháp sanh diệt đi tu thì không pháp nào đạt đến lý vô sanh. “Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Nếu ở nơi chỗ dùng tâm sanh diệt để tu nhân, mà cầu Phật thừa không sanh không diệt, không có chỗ như thế.] Do nơi thứ nhân như thế thì tất nhiên đặng kết quả như thế, con người đã có sanh tất nhiên có thống khổ. Lão Tử cũng nói: [Ta sở dĩ có đại hoạn là vì ta có thân, ta nếu không có thân làm gì có đại hoạn?] Phật giáo nói nhân sanh có rất nhiều thống khổ, nói tóm tắt có tám thứ khổ:

1/- Sanh khổ: Nhân sanh trở xuống đều thọ khổ, như bé nhỏ mới lọt lòng mẹ liền khóc, nhân vì da thịt của nó mềm mại, vừa tiếp xúc thế giới bên ngoài gặp gió lạnh, bị khổ giống như dao cắt.

2/- Già khổ: Từ thiếu niên đến tráng niên, do tráng niên đến già cả, tuổi già dần dần, tóc bạc mặt nhăn, tai điếc mắt mờ, răng hàm rụng hết, bước đi lụm khụm, đối với nhân sanh, đã không lạc thú.

3/- Thống khổ:Tứ đại không điều hòa, bệnh tật giao tiếp đau đớn, sầu lo tha thiết bi ai, thay đổi trở nên rên riết.

4/- Tử khổ: Hoặc nhân vì bệnh tật thọ mạng kết thúc mà chết, hoặc gặp hoạnh tử bởi tai ương nước, lửa, gió. Chỗ gọi: [Một ngày vô thường đến, mới biết người trong mộng, tất cả đều mang đi bỏ, chỉ có nghiệp theo thân.]

5/- Ái biệt ly khổ: Nhân vật và tài vật của mình yêu thương không được cùng ở chung một chỗ,sanh ly tử biệt, kết cuộc đều trở về không.

6/- Oán tắng hội khổ:Thù oán căm ghét nhau mà cứ gặp nhau mãi là khổ. Người của mình thù oán căm ghét, nguyện không muốn thấy mặt, nhưng vẫn gặp lại nhau, mà còn thường ở chung chỗ.

7/- Cầu bất đắc khổ: Tất cả người và vật trong thế gian, trong tâm chỗ thương yêu, tận dụng tâmtính toán, mong cầu mà không được.

8/- Ngũ ấm sí thạnh khổ: Tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không luận ở trong nhục thể và trên tinh thần đều có khổ sở, sí thạnh là tức giận, khổ như lửa thiêu đốt.

Tám thứ khổ não như trên,chính hoàn toàn do nơi đời trước tạo nhân ác, đời nay nhất định thọ quả ác. Cổ đức nói: [Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì.] (Thiện ác đến cuối cùng kết cuộc có báo ứng, chỉ giành nhau đến sớm hay đến chậm). Muốn tưởng không thọ quả khổ, thì đầu tiên cần không tạo nhân ác. Cứu cánh cái gì là căn nguyên của khổ? Chính là khát ái, dục vọng, tham lam, ái trước, nếu có thể triệt để diệt trừ nhân khổ của khát ái, buông bỏ nó, trừ bỏ nó, xa lìa nó, ngừng thôi nó, đem tất cả dục vọng hoàn toàn tịch diệt. Chánh niệm khởi, vọng niệm trừ, làm sao vĩnh viễn không gặp trở lại để phải nhận tám thứ hoàn toàn thống khổ này. Muốn tưởng đoạn trừ tám thứ nhân thống khổ, tất nhiên nhất định cần phải dùng đến chí thành khẩn thiết để tâm triệt để huấn luyện tịnh hoá chính mình, mới có thể thu hoạch được tự do và giải thoát.

Phật trước khi nhập diệt, A Nan hỏi Phật: [Khi Phật tại thế, chúng tôi nương nơi Phật mà trụ, Phật sau khi bỏ đời, chúng tôi nương ai mà trụ?] Phật trả lời A Nan: [Ta sau khi bỏ đời, các ông nên nương nơi tứ niệm xứ mà trụ]. Do đây có thể biết, tứ niệm xứ nơi phương diện tu đạo, rất rõ ràng chiếm lấy địa vị trọng yếu. Tứ niệm xứ là: (1) Quán thân bất tịnh, (2) Quán thọ thị khổ, (3) Quán tâm vô thường, (4) Quán pháp vô ngã. Nhân vì chúng sanh nơi trong năm ấm của sắc thọ tưởng hành thức, trải qua thường sanh khởi bốn thứ điên đảo, dùng sắc thân bất tịnh làm cho thanh tịnh, dùng cảm thọ thống khổ làm cho an lạc, dùng ý niệm và hành động trôi chảy không dứt cho là thường, dùng tâm đối cảnh tác dụng sanh khởi thiện ác cho là ngã. Có bốn thứ điên đảo vọng tưởng đây, lại sản sanh một thứ nối kết xuyên xuất đó là ưu bi khổ não và tai nạn khó xử, ngã Phật nhầm xem xét không có chánh tri kiến của chánh nhân, cho nên nói ra phương pháp của tứ niệm xứ, cần yếu người quan sát kỹ lưỡng, thân là không thanh tịnh, thọ là không khoái lạc, tâm là không thường trụ, trong pháp đều không có ngã. Người đời quả có thể tiêu trừ bốn thứ điên đảo vọng tưỏng đây, tất cả ưu bi khổ não, lại không gặp sản sanh, còn có thể thâu hoạch được thường lạc ngã tịnh, khoái lạc chân chánh.

Lược Thuật Tứ Niệm Xứ.

(1)- Quán Thân Bất Tịnh.

Thân thể của con người, có ngũ tạng lục phủ, mủ máu gân xương, da lông tóc móng, trong thân có 36 vật, đều là giống nhau không thanh khiết, bao gồm có năm thứ bất tịnh: (a) Sanh chỗ bất tịnh. Ở trong bụng mẹ, trụ nơi sanh tạng, phía dưới thục tạng, sau khi trải qua mãn mười tháng, từ âm đạo sanh ra. (b) Thứ con bất tịnh. Vào thai bắt đầu kết thành, ôm lấy tinh cha huyết mẹ, đỏ trắng hai giọt, máu mủ nhơ nhớp, hỗn hợp tạo thành. (c) Tướng ngoài bất tịnh. Con mắt có nước mắt, lỗ tai có cứt ráy, lỗ mũi có nước mũi, miệng có nước miếng, thân có bùn đất, mùi hôi nơi thân xông ra, con người không tự biết. Trong bốn tánh bất tịnh trên từ ác nghiệp của con người bất tịnh mà sanh, cho nên sau khi sanh ra, lần hồi tiếp xúc ngoại cảnh, tự nhiên sản sanh các thứ khát ái năm cứu cánh bất tịnh. Nghiệp báo của con người kết thúc, củi hết lửa tắt, chỉ còn lại một trần chính là bất tịnh.

(2) Quán thọ thị khổ. Thọ là tiếp nhận, năm căn khi đối với năm trần tiếp nhận những cảnh thiện ác, tốt xấu, khổ lạc vân vân, nhân sanh chỗ tạo tác tất cả sự sự vật vật không chỗ nào là không thọ khổ. Thí dụ như, đi bộ quá lâu có thọ khổ mệt mõi đừ người; đứng mãi quá lâu có thọ khổ chân tê cứng đờ; ngồi quá lâu có thọ khổ làm cho tê liệt; nằm quá lâu có thọ khổ hôn trầm đần độn. Ăn cơm ít thọ khổ thấy đói, ăn cơm nhiều thọ khổ quá no; áo mặc nhiều thọ khổ quá khô da; áo mặc ít thọ khổ lạnh buốt. Chồng vợ con trai con gái, sanh hoạt gánh vác lẫn nhau, cảm tình bỏ xuống tội lỗi, tranh cãi phun nhả xú khí, tứ đại bất hòa, tùy thời sanh bệnh, ngoảnh lại đây mất nơi kia, ưu sầu thành bệnh, sanh ly tử biệt, kinh hoàng thảm hại thành bệnh, kêu trời dậm đất, không pháp hình dung; bổng nhiên nhân gian có niềm vui, nhưng niềm vui ngắn ngủi vô thường,vui quá lại cảm giác đau khổ.

(3) Quán tâm vô thường: Người tôi hiện tiền một niệm vọng tâm, quên đông quên tây, sát na không dừng, phàm tình tâm thô, không dễ phát hiện. Kinh nói người tôi, một niệm gồm có 90 sát na, một sát na có 900 sanh diệt. Tịnh tọa chốc lát, mới biết vọng niệm như giòng nước lũ, nhân tâm khởi diệt, không gian thời gian, tất cả vạn vật, tùy theo đó di chuyển, nếu có thể đem tâm tất vọng đây ngừng lại, vũ trụ vạn hữu cũng tùy theo đây đình chỉ. “Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Một người phát hiện chân lý trở về nguồn cội, mười phương hư không, tất đều tiêu diệt.] Đại sư Vĩnh Gia nói: [Trong mộng rõ ràng có sáu cõi, sau khi giác ngộ không, không cả không đại thiên.] Thời hư không đại địa đây còn không thể được, lại có cái gì cần thọ sanh trụ dị diệt, dài ngắn vuông tròn, để tất cả đều về nơi đại hải tịch diệt.

(4) Quán pháp vô ngã. Chữ pháp bao quát gồm có, thế gian pháp, xuất thế gian pháp, hữu vi pháp, vô vi pháp, tương đối pháp, tuyệt đãi pháp, thiện pháp, ác pháp, tất cả các thứ pháp, đều bao quát ở trong. Trong thân các pháp vô ngã, ngoài thân các pháp cũng vô ngã. Nơi ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, thất đại, trong tất cả pháp đều kiếm không được một cái ngã của chủ tể, cho nên nói con người vô ngã, nhân ngã chỉ là một thể giả. Giả có ba thứ, 1> Đời trước hành nghiệp, thác sanh vào cha mẹ, là nguyên nhân thành giả. 2> Là theo thai tương tục, dẫn đến bạc đầu, là tương tục giả. 3> Là dùng thân cư xử không phải thân, tức là tương đãi giả, giả đây chính là không.

Nhân sanh quan của Phật giáo, tức là dùng quán huệ của tứ niệm trụ đây, chỉ trụ nơi bốn cảnh của thân thọ tâm pháp, không khiến bốn thứ vọng tưởng sanh khởi, thì có thể phá trừ ngã chấp; nếu có thể chứng đến lý ngã không, tức có thể lìa khổ đắc lạc, chuyển phàm thành thánh, đây là thuộc nhân sanh quan của người Phật giáo tiểu thừa. Còn nhân sanh quan của người Phật giáo đại thừa là dùng tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, rộng độ chúng sanh, ái niệm chúng sanh, cũng như con của mình, thấy người họ khổ, cảm đồng thân thọ. Chỗ gọi: [Chúng sanh độ hết, mới chịu chứng quả bồ đề.] “Kinh Hoa Nghiêm” nói: [Không vì thân mình mà cầu an lạc, chỉ nguyện chúng sanh được lìa khổ.] Thứ tinh thần đại vô úy đây, đều không phải chúng sanh phàm phu và người tiểu thừa có thể phân biệt đến được, cho nên khi Phật còn tại thế nói pháp, nhiều lần thường khen ngợi người đại thừa mới là con chân chánh của Phật, người tiểu thừa chỉ là con thứ; con thứ không thể dùng kế thừa vương vị, con chính là do chánh thê sanh ra, mới có thể kế thừa vương vị. Vì thế “Kinh Pháp Hoa” nói: [Đây là con thật của ta, là cha thật của ta, nay ta đã có tất cả tài vật đều là con ta có.] Tài vật đây tức là thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp, vô lượng công đức thần thông diệu dụng của Phât. Từ đây trở lên mới là nhân sanh quan chân chánh của Phật giáo.

2.- Phước Huệ Cùng Nhân Sanh.

Con người sống ở thế gian, rất trọng yếu mà không thể thiếu đó là áo mặc, cơm ăn, nhà ở, sinh hoạt, không luận nam nữ già trẻ, giàu có, sang trọng, nghèo hèn, bần tiện, sống lâu cùng khó, hiền ngu đẹp xấu, đều cần nương nơi bốn sự việc đây mới có thể sinh hoạt. Nhân đây, phàm con người mỗi mỗi nhiều năm nhiều tháng, sớm đi chiều về, lao thân khổ trí, đông bôn tây chạy, đều làm cho đầy đủ nhu cầu cơ bản của con người.

Một sớm người đói được ăn, người lạnh được áo, người mệt được nghỉ, an ổn trôi qua, sinh hoạt bình thường, nhưng đã được Lũng Sơn (Lũng Sơn nằm giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc, Trung Quốc) lại trông mong nước Thục (Nước Thục là một trong Tam Quốc: nước Thục, nước Ngụy, nước Ngô), không cho là đủ, lại cầu nhà lầu xe hơi, áo gấm ăn ngon. Kinh nói: [Người biết đủ, tuy nằm trên đất, cũng cho an lạc, người không biết đủ, tuy chỗ thiên đường, cũng không vừa ý.] Do đây có thể thấy, dục không ngừng nơi cảnh, nếu cầu không được, mới trên khổ cộng thêm khổ.Có người tưởng cần yếu đạt đến mục đích, đến nỗi trộm cắp cướp đoạt, lừa dối người đời, tế thần lạy quỷ, cầu cơ  hỏi bói, xem tướng đoán mạng, kết quả muốn tích trử nhưng không thể thâu hoạch được từ nơi tâm, đông tây thành tựu,nhân đây thần mất khí tan, sầu khổ dung chứa đầy mặt, chọn ngày không là quái lạ oán trách chính mình con đường số mệnh quá nhiều không may, lại còn oán trời trách người.

 Kỳ thật, nhân vì con người không có sáng suốt để tự hiểu biết, không nhìn xa hiểu rộng, lực lượng thù thắng của con người đối với thiên địa quỷ thần, là tài ba xuất chúng, chân chánh có thể tự dùng kéo lại vận mệnh ác liệt của chính bản thân mình. Lý do con người bỏ gốc theo ngọn, chạy theo hướng đường tà, giống như cát vốn không phải cơm, lại muốn thành cơm ngon, dẫu cho dù trải qua kiếp trần, cơm cũng không được thành công. Xưa có nói: [Trời tạo tai họa còn có thể thao túng; tự tạo tai họa không thể sống.] Do đây có thể biết, kiết hung họa phước của con người, sống lâu hay cùng thông, hoàn toàn ở nơi cá nhân đem bảo trì cùng thao túng, đều không phải người thế tục có thể giải thích, thế nên họ cho là [Sống chết có mạng, giàu sang do trời.] Giải thích như đây tùy tiện không tiêu chuẩn, đều là giải thích sai lầm.

Nhân sanh ở đời, đã có cần yếu như cơm ăn áo mặc nhà ở chỗ sinh hoạt, chính được nương tựa nơi thiên thời địa lợi, ngoài ra còn khổ tâm chí, lao sức gân cốt, mới thu hoạch được nhà lộng lẫy, kho chứa to lớn, ăn no đủ mặc. Chu Thư có nói: [Nhà nông không sản xuất thì cơm thiếu ăn, công nhân không sản xuất thì mọi việc đều thiếu, sĩ phu không sản xuất thì ba điều quý ( phước, lộc, thọ) mất hết, thương gia không sản xuất thì tài sản hao mòn.] Tuy nhiên đạo lý giảng như thế,nhưng trên sự thật rất kỳ quái, có người sanh ra, không động lao một sợi lông, lại thu hoạch được măc đẹp ăn ngon, phú quý kề bên người; ngược lại có người suốt ngày chạy ngược chạy xuôi, phong trần lao khổ, hoàn cảnh khó chống lạnh, miệng khó chống đói, giường không được ấm, chăn không được êm, quả như đem hai hiện tượng đây so sánh, [Đều tận khả năng, đều muốn nhu cầu] nhưng cách ngôn của đại đồng, dường như không thể trình bày hoàn mỹ.

Nhân vì chúng ta chú mắt cùng thấy, không luận nam nữ già trẻ, phú quý nghèo hèn, người ai không là ở nơi cần cù tận tụy, đều tận sức của mình, để mưu kế sanh tồn; lại có hạng người vàng ngọc đầy nhà, hoa trời rượu đất, nhưng có người nghèo rớt mồng tơi, không chỗ nương tựa, do đây có thể thấy, đều không phải hoàn toàn nhờ tự lực mới có ăn, mà phải nhờ tâm ý quyết định đâu đó đầy đủ mới được an cư lạc nghiệp. Cố nhiên sách nói rằng: [Người khéo léo có dư, người đần độn không đủ.] Nhưng đây không thể bảo chứng người khéo léo quyết định có dư, người đần độn tất nhiên không đủ. Thí dụ như Tử Nha cùng Quản Trọng, đều có tài nhấc lên trời đào xuống đất, nhân vì thiếu niên thất chí, nên nhận đầy đủ khổ não khốn thiếu. Đề cử thêm, Lưu Thiền cùng Tấn Huệ Đế đều là đần độn, tài không chịu được, nhưng nó có thể kế thừa phụ vương làm Quốc Chủ, ăn uống đều là trăm vị trân quý, ở thì chỗ Cung Điện Đường Hoàng, mặc thì áo lông cừu ngàn vàng, ngồi thì bao vây chung quanh cung nga mỹ nữ lôi kéo, tam cung lục viện, 72 cung nữ đầy đủ. Do Đây lại biết, tuy nhiên tự mình có thể khát khao thao túng tất cả vận mệnh thiện ác của người khác, nhưng lại người khác cũng có thể chi phối tai họa phước lành của mình.

Tuy nhiên định luật tự làm tự chịu, đều không phải người tâm thần bề ngoài, có thể dòm thấy nơi một phần rất nhỏ, nhân vì mỗi người chỗ tạo tác nghiệp nhân thiện ác, lại có ngàn sai vạn biệt, nhân tâm không đồng giống như mặt nó, nghiệp quả không đồng giống như tâm nó. Có người tạo nghiệp đời trước trước khi sanh, đời nay sanh để thọ báo, có người đời nay sanh tạo nghiệp, đời sau sanh thọ báo, cũng có người đời nay sanh tạo nghiệp, nhiều đời sau sanh thọ báo. Phải biết, đời trước lại có đời trước nữa, đời sau lại có đời sau nữa, Đã có đời trước cùng đời sau vô cùng vô tận, đương nhiên đã có nhân quả cùng báo ứng cũng vô cùng vô tận.

Nhân đây, chúng ta cần tưởng đến lìa khổ được vui, chuyển hóa tinh thần tội lỗi trở thành cát tường hòa nhã, chính là nên trồng cây phước tu dưỡng cây thiện, rộng tích trử âm đức. Giả sử gặp thấy riêng người nghèo bệnh vừa vừa, hoặc hiểm ác vĩ đại ập lên đầu, cho dù khổ nạn không đủ sức cứu vãn người kia, nhưng cũng cần sanh khởi tâm đồng tình, tâm lân mẫn, tâm thí xả, tâm cứu hộ, nhờ những tâm sanh thiện trên, nên phước đức càng ngày càng tăng. Người đời không rõ lý này, khi chọn làm đã không xả tài, lại chưa làm lợi cho người sao lại có được phước đức? Phải biết Ngã Phật có nói, người người vốn đầy đủ vô lượng tánh công đức, có tu thì hiển bày, không tu thì ẩn nấp, hiện tại giả như người kia sanh thiện, tức là tự tánh hiển bày phước đức. Nếu lại nữa lợi đem tài riêng của mình cứu giúp sanh mạng người kia, người kia và đây cả hai đều thu hoạch được lợi ích, nếu như mình có tâm mà không có sức, tuy nhiên đối với người kia không có lợi ích, nhưng có thể riêng mình được phước, cũng như dùng đèn đốt đèn, sau khi đèn của mình cháy sáng tỏ cùng đèn của người kia đều không tổn giảm. Nếu người có thể đem phước đức trí huệ vốn đầy đủ của tự tánh, tu tập lại tu tâp, hiển bày lại hiển bày, tích lủy qua năm tháng, hạnh tròn đầy quả viên mãn, công đức pháp tài, tự có thể toàn bộ sáng tỏ rực rỡ, lúc này đủ khả năng dùng chuyển hóa sông dài làm bơ sửa, biến đại địa thành hoàng kim, lấy không hết, dùng không cùng. Dụ như Phật đà từ vô lượng kiếp về trước, năng làm những việc khó làm, năng nhẫn những việc khó nhẫn, như xả thân cho cọp ăn, lóc thịt cho chim đói, do đó mới có trăm phước kết tập đầy đủ ngày nay, vạn đức trang nghiêm, theo tánh hiển hiện, biểu lộ không sót.

Nếu tâm có thể đủ để bồi đức và trồng phước thì thân thể tự trở nên chân chánh và cường tráng, nghiêng về cát tường, tỵ hiềm hung bạo, chuyển họa làm phước, áo mặc, ăn uống, nhà ở, sinh hoạt cũng tùy theo đó mà đến. Tâm khi tu thiện, chính thuộc về đạo đức, nếu có đạo đức, tất nhiên có phước khí, nếu có phước khí, tất nhiên hành động vận dụng tốt. Khá nên là cần có hồng phước, vì chưa có trí huệ như biển để khai lộ tiên phong; nhưng nếu bị sa ngả vào hầm hố, lầm vào lối rẽ, không là keo kiệt không chịu buông xả, lại còn xa xĩ dâm đãng, không phân phải trái trắng đen, nặng nhẹ đảo ngược, đây có tạo tác, đều là ác hạnh, nhưng không chịu kính trọng người. Nhân đây, sau khi có phước, nhất định cần phải có trí huệ, mới có thể tôn nghiêm đoan chánh, là người thượng nhân. Người phải đầy đủ hai thứ phước huệ, mới được gọi là Thế Tôn, trí có khả năng phân tích thiện ác tốt xấu, là không phải tà chánh, cho nên cần phải tìm cầu trí huệ, để tạo dựng làm căn cơ. Đây là nhân sanh ở đời, lập thân hành sự là tông chỉ cụ thể.

3.- Phước Huệ Cùng Thiện Ác.

Chính con người trong “Kinh Kim Cang” nói: là một trong 12 loại chúng sanh,bản chất của nó, do các duyên hòa hợp tạo thành, các duyên một ngày nào đó phân tán, sanh mạng cũng cáo chung kết thúc. “Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Nhân duyên hòa hợp, hư vọng có sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng gọi là diệt.] Do đây có thể biết, nhân sanh của người tôi, thân thể bên trong và thế giới bên ngoài, chỗ thấy của con mắt, chỗ nghe của lổ tai, tất cả vạn sự vạn vật, chẳng qua do hư vọng mà sanh, huyễn hóa không thật, như hoa đóm trong hư không, như mặt trăng trong nước, vốn không có thật, đây chỉ duy có Phật giáo triệt để mới hiểu rõ sáng sủa mà thôi.

“Trung Quán Luận” nói: [Các pháp không tự sanh, cũng không từ người khác sanh, không chung nhau sanh mà cũng không không có nhân mà sanh, cho nên nói vô sanh.(Bản tánh của các pháp kể cả con người có từ vô thỉ, không có vấn đề tự sanh, mới sanh……cho đến không nhân để sanh).] Lại nói: [Đã sanh không có sanh, chưa sanh cũng không sanh, đã lìa sanh chưa sanh, sanh thời tức vô sanh.(Như đã giải thích ở câu trên, đã có mặt từ vô thỉ, không có vấn đề đã sanh, có sanh, chưa sanh…..cũng không có danh từ sanh và vô sanh).] Do đây chứng minh vững chắc, có thể nói rõ, bản tánh của con người, không sanh không diệt, thường trụ sáng sủa, chân thật trong sạch tròn sáng, không biến đổi.Người thường không biết, nhận cho người tôi, sau khi lọt lòng mẹ, gọi là [sanh]. Hình trạng diện mạo hài nhi mới sanh, gọi là sanh tướng, không biết sau khi lớn lên tướng mạo thay đổi, sanh tướng tức là không còn. Nếu như nhận cho là trước khi chưa ra khỏi thai, gọi là sanh tướng, theo thường thức thì không phù hợp. Người tôi nên biết, tướng mạo của tôi sanh sống, nơi đã sanh và nơi chưa sanh, hai thời gian đó, đều có thể được vậy không. Phàm sự vật có sanh thì có diệt, thể của nó còn không có sanh, sao lại nói có diệt. Cho nên luận nói: [Đã lìa sanh và chưa sanh.] cho nên nói vô sanh. Câu thứ tư nói: [sanh thời tức vô sanh.] nơi biểu hiện bề mặt xem thấy dường như tự tướng có mâu thuẩn, trước sau không có phù hợp. Kỳ thật, nơi bản thể pháp tánh mà nói, sanh không sanh tướng, diệt không diệt tướng, mà lại sự việc sanh sanh diệt diệt không ngăn ngại, đâu có phải khi sanh tức là không sanh. Nhân vì các Phật Thánh, do tu mà chứng đắc, thanh tịnh bản nhiên, tánh tịnh minh thể, tánh thể thấy thấu suốt, không sanh không diệt, không nhân không ngã, không nhân không quả, không thiện không ác, vĩnh viễn giải thoát lục đạo, được đại tự tại.Phàm phu thì không như thế, từ vô thỉ đến nay, vô minh che lấp, thời gian lâu dài trầm luân theo âm thanh sắc tướng vật dục,nơi chân thể pháp tánh, chỉ thấy có sanh có diệt, có sống ngàn tuổi, có hiền có ngu, có quý có tiện, có vọng tưởng điên đảo, tất cả đều đầy đủ.

Tổng Quan Kinh Luận Chí Lý, Thánh Phàm phân hai con đường, đều do tâm thiện ác tăng giảm gây ra. Nhân đây chúng ta nếu dùng tâm thiện, tức người thuộc bậc trên; nếu dùng tâm ác, tức người thuộc bậc dưới. Thế Tục Y Bốc Tinh Tướng Chi Thư nói: [Hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm sanh, hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt. (Có tâm mà không có tướng, tướng theo tâm sanh ra, có tướng mà không có tâm, tướng theo tâm tiêu diệt).] Cũng có lý của nó. Do đây mà quán nó, kiết hung họa phước của thế gian, sống lâu bần cùng, chủng tộc quý tiện, vinh nhục đặng mất, nó đã từng không ngoài bản tâm thiện ác tăng giảm mà thôi. Thiện tăng lên là đượcphước đức trường thọ vinh hiển; ác tăng lên là thiên tai, họa ác, thấp hèn, vinh nhục, mất mát. Đây là do sĩ phu của Phật pháp minh bạch cụ thể, không cần phải cầu hỏi thầy bói họa phước, cũng không cần hỏi thần linh cầu phước,  ngược lại chỉ quán tự tâm thiện ác, tâm thiện thì tất cả đều tốt, tâm ác thì tất cả đều hung dữ. Tục ngữ có nói: [ Phước đến thì tâm linh.] Đây chính là thiện niệm thúc đẩy tâm linh cảm sáng suốt phát huy.

Nơi Trung Quốc, Nho, Thích, Đạo, và mỗi đạo có Tông giáo riêng, ai cũng đề xướng con người cần yếu phải hành thiện, xả kỷ để làm người. Chỗ gọi: [Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương.(Nhà tích trử điều thiện, nhất định có dư phước, nhà tích trử điều bất thiện, nhất định có tai ương)] Đây là định luật ngàn xưa không thể dời đổi. Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu, nhân quả báo ứng, như ảnh theo hình, ai có thể không tin. Nhân đây đến chỗ dựa vào huyền bí [Làm lành rất vui] bốn chữ lớn đây, ý của bốn chữ đây nhầm để thức tỉnh con người, cần tưởng đến an cư lạc nghiệp, đầu tiên cần chánh cái tâm, tâm chánh thì thân tu, thân tu thì tề gia, tề gia thì trị nước, nước được trị thì sau đó thiên hạ thái bình.Người đời đã nói [Làm thiện rất vui], cũng nhất định có [Làm ác rất khổ.] đây là nguyên lý tồn tại, nhân vì không có [Làm ác rất khổ], thì tuyệt đối hiển nhiên không ra đạo lý [Làm thiện rất vui], hai câu đây tất nhiên nhất định lẫn nhau sanh lẫn nhau diệt, tương đối thành lập.  Chỗ gọi: [Đây có nên kia có, đây không nên kia không.] Lý của hai câu đây, tuy nhiên đối chiếu nhau để đánh giá, nhưng hết sức kỳ lạ, đều dựa vào một phương diện huyền bí [làm thiện rất vui], dườngnhư chưa từng thấy nêu lên một phương diện là [Làm ác rất khổ], đương nhiên lý đây không khó thấu hiểu, nhân vì người đời thời nào khắc nào cũng hoan hỷ điều vui, chán ghét điều khổ, không phải chỉ thấy thống khổ như oan gia, chính là một chữ khổ cũng không đề cập, lý do ai ai cũng vui mừng khi nói đến cát lợi, nhưng không thích nghe tiếng nghịch tai, dường như có thể tránh né không chịu nghe các điều thống khổ. Kỳ thật không phải như thế, chính vì người đời không từng đi sâu nghiên cứu căn nguyên của cái khổ, cho nên mới nhận chịu các thứ thống khổ, giả sử đại gia có thể đủ nhìn xa căn nguyên của giải khổ, dùng sức trí huệ đem chém đứt căn nguyên của cái khổ, thử hỏi thống khổ lại phát sanh từ chỗ nào? Nhân đây chúng ta cũng đem [làm thiện rất vui] phản lại phương diện đạo lý [làm ác rất khổ] để thường cảnh giác người đời. Giả sử người đời sợ quả khổ, tức không nên mắc nợ giống nhân khổ, nhân khổ không giống thì quả khổ không thành.

Ở đây đầu tiên giải thích hai chữ thiện ác, thử hỏi đại gia nhận biết sao là thiện, sao là ác? Thật tại thiện ác không có tiêu chuẩn nhất định. Nếu người dùng dao gậy là thuộc nơi đồ hung dữ, nhất định là ác, giả sử lợi dụng dao gậy đi cứu mạng sống, tức biến thành là việc thiện; nếu người dùng tiền của là thuộc nơi thiện tốt, gọi nó là thiện, giả sử lợi dụng tiền tài đi giết mạng sống, tức biến thành việc ác. Do đây chỉ là một việc, thí dụ đề cử tất cả, không có giống nhau là thuộc nơi thiện, hoặc thuộc nơi ác. Thật tại thiện ác do tâm mà phát sanh, tâm muốn thiện thì tất cả đều biến thành thiện, tâm muốn ác thì tất cả đều biến thành ác, thiện ác tại tâm, không tại nơi vật, do đây mà luận, tất cả thiện ác đều do tâm làm chủ, vật ngoài đều theo tâm mà chuyển đấy thôi.

Đối với triết lý của [Làm thiện rất vui], nơi đây xin đề cử thí dụ, giả như người tôi theo thời theo chỗ, thình lình thấy có người gặp tai họa rất nguy hiểm, sát bên cạnh bờ vực thẳm hố sâu, kịp thời tôi chạy đến gấp cứu được một sanh mạng. Chỗ gọi: [Cứu một sanh mạng thù thắng hơn xây bảy cấp chùa chiền.] Thử tưởng tượng, tâm mình nợ phước đức hưng thịnh cao như thế nào, khả năng suốt ngày biểu lộ nét mặt vui mừng rõ ràng, cộng lại hiểu biết tự mình đã làm một việc to lớn bằng trời đã cứu một mạng người bên bờ vực thẳm. Phải biết thân thể do tâm làm chủ, tâm khi khoái lạc thoả thích, tự nhiên ảnh hưởng đến tỳ mạnh khoẻ và vị khai mở, tâm an tịnh, thần yên tĩnh, ngủ nghỉ an ổn, tâm mở rộng, thân thể thoải mái. Người đây đã có thể tâm lý được bình an, hoan hỷ nơi tâm, tất nhiên [bên trong có những gì thì sẽ hiện hình ra bên ngoài.] Trên mặt khi thường hiện dung hoà hoan hỷ, có thể nói người thấy người vui, thân thuộc xem trọng, bằng hữu kính ngưỡng, ở bậc trên tất nhiên được kẻ dưới kính trọng, ở bậc dưới tất nhiên được cấp trên che chỡ, nhân vì thiện lạc, đức dầy chở phước, cho nên có thể đủ sống thọ, giàu có đầy đủ, không gặp ác vận, gặp hung hóa kiết, gặp nạn thành an lành.

Nguyên lý ngược lại chính là [Làm ác rất khổ.] Mặt đây cùng mặt trước phản nghịch nhau. Giả như người tôi vô cớ  giết hại mạng người, tâm của họ có nợ với tôi như thế nào mà tôi phải ưu lo. Không luận người kia hung ác ra sao, hoặc tâm xấu như thế nào, nếu tôi làm những việc trái trời nghịch lý thì tôi nhất định tâm hốt hoảngï thịt run, sợ hãi dị thường, khi ăn cơm nhắc đến ruột treo, ngủ luôn nằm ác mộng, ăn không ngon miệng, ngủ không an gối, đi đứng ngồi nằm đều nghi thần nghi quỷ. Nếu như một cá nhân khi thường tâm bị không an lạc, ngày tháng lâu dài, tất nhiên bị ảnh hưởng đến, nào tì bị thương vị bị tổn, tiêu hóa không tốt, tâm hồi họp mất ngủ, như thế tích lủy tháng năm, nhất định thể lực suy yếu, mặt vàng bắp thịt teo nhỏ, người thấy người chán ngấy, thân thuộc ghét không quan tâm, bằng hữu không nhìn lại, bần cùng tài tận, không chỗ kiếm ăn, nghèo bệnh vừa vừa, đói khát bức não, lúc này tuy có từ thân hiếu tử, cũng không thể cứu nhau, nhân vì nhân quả báo ứng, tự làm tự chịu, chính là chư Phật Bồ Tát, cùng thiên địa quỷ thần, đều không thể cứu vãn một phần rất nhỏ, đây chính là hiện làm hiện báo của [làm ác rất khổ] phần mình nên chịu, không thể chuyển dời cho người khác.

Phần phước của con người, giống như đèn dầu, khi đèn thêm dầu, lửa hoa càng sáng, đèn dầu nếu cạn, ánh sáng lửa liền tắt. Nhân đây chúng ta nên phải thời khắc nào cũng phải tu phước, phát huy niệm thiện trong tâm, thật hành tu phước, không ai hơn, kính trọng sư trưởng, cúng dường Tam Bảo, in khắc kinh Phật, tặng y thí thuốc, cứu tế tai ương, trai giới phóng sanh, tu kiều bồi lộ vân vân, tạo những việc lành đây, tức là tu phước, sống lâu như ánh sáng, phước như ngọn lửa, nhất định dài lâu. Ngược lại,sát sanh hại mạng, tổn người lợi mình, tìm cầu vật dục, già gian xảo, làm loạn to lớn, đầu cơ thủ lợi, sai lầm giả trá, lừa dối phỉnh gạt ganh tị hiền năng vân vân, tức là làm ác, đây có ác nghiệp, như dầu khô lửa tắt, sống mà bịnh khổ họa đến, chết mà đọa lạc ác đạo.

Có phước mà không huệ, dù cho có khả năng sống trường thọ, cũng là thiếu sót, nếu là giàu có mà bất nhân, khiến người khinh thường, danh xấu ngàn thu, ác thông suốt đầy tràn. Phật nói: [Trí huệ như người có mắt.] Một cá nhân nếu như không có mắt, dù cho có thể đi bộ, đường không rõ, tuy khỏi có rớt xuống hầm hố, ngả vào hào thành nguy hiểm. Tất nhiên phải thấy rõ thiện ác, biện minh thị phi, biết gần xa, lường cao thấp, đọc kinh cầu hiểu, đi du lịch trải nghiệm, học rộng nghe nhiều, làm công phu đây, tức là tu huệ, có phước gồm có huệ, tự mình đã có oai có thể quý, có phong thái có thể kính, nhan sắc sáng bóng, khí lực tràn đầy, áo mặc ăn uống đầy đủ, gia đình hòa thuận, cho dù đến phương nào, thường làm cho mọi người nghiêng thành quý mến, xa thì có thể trông, gần thì không chán, sanh ngày nay thì làm thầy, chuyển đời sau sanh đường lành, đâu không vinh dự sao!

Cần yếu của người tu phước, rất quý trọng tín tâm kiên cố, nổ lực tinh tấn, ngày lâu tháng dài, phước huệ đầy đủ, tuy không cầu đến, tất cả thuận lợi, tự nhiên vận hành. Không cần cầu thần cầu quỷ, vọng tưởng thăng quan phát tài, cát tường như ý, đông thành tây tựu, một vốn vạn lợi vân vân, đây là tập tục mê tín. “Kinh Địa Tạng” nói: [Như quả các người sát hại súc sanh, đem đây cầu phước, không những không lợi ích, lại kết tội duyên, chuyển thêm tội nặng.] Các thiện nhân trên, cần cầu ít già bình an, mạng sống trường thọ phú quý, phước huệ song tăng, chỉ có nhờ cậy Phật đà khai thị, thật tế thực hành, tích lủy ngày tháng, tự có thu hoạch, được thọ dụng rộng lớn.

Một niệm tâm tánh của con người, có lý có sự. Lý đây, thể tánh không biến, tinh vi rộng lớn, độc nhất không hai, như băng tức nước, thiên đường địa ngục, đều như bào ảnh, làm thiện làm ác, đều không phải thật có. Sự đây, không có một sự một pháp, không hiển bày sáng sủa rõ ràng, như nước kết thành băng, Quy y nhị bảo, tất cả giống như thế (chỉ quy y nhị bảo). Chỗ gọi: [Đều từ nơi pháp giới đây  lưu chuyển, cũng đều trở về nơi pháp giới này.] Phàm phu chúng sanh không biết giải thích băng tức là tánh nước, chỉ thấy dụng tùy duyên, không thấy thể bất biến, cho nên từ vô thỉ đến nay, thuận theo dòng sanh tử, uốn cong vào thống khổ,làm thiện lên thiên đường, làm ác rớt vào địa ngục, chấp cho là thật có, không hiểu được chân không. Nhân đây Phật đà tạm thời dùng phương tiện, đầu tiên dùng nhân thiên thừa, dạy người tu ngũ giới thập thiện, khiến họ đặng thiện báo nhân thiên. Trong bốn Tất Đàn (Tất Đàn nghĩa là Thành Tựu), gọi đây là thế giới tất đàn, khiến họ sanh tín tâm. Do đây họ dần dần đạt đến làm người tất đàn,gọi là Đối Trị Tất Đàn, cũng gọi là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.Trong bốn tất đàn, bao gồm 12 bộ kinh, tám vạn bốn ngàn Pháp Tạng. Phật vốn không pháp có thể nói, vì có bốn nhân duyên tất đàn,nên cũng có thể nói pháp.

Quả như người người đều có thể các điều ác chớ làm, các điều lành nên phụng hành, lập chánh vị thiên hạ, hànhđại đạo thiên hạ, thế giới tự nhiên hòa khítốt lành, chiến tranh tiêu trừ, mưa thuận gió hòa, quốc thới dân an, ngũ trược ác thế tức thời biến thành thanh tịnh lạc độ!

4.- Phiền Não Cùng Thống Khổ.

Nhân sanh nơi thế gian, sinh hoạt ăn uống, đón khách đãi khách, giao tế qua lại, mưu sanh sự nghiệp,suốt ngày bận rộn long đong, nơi trung gian của nó, tùy thời tùy chỗ, gặp phát sanh khiến người không vui vẻ bởi phiền não thống khổ. Hoặc nghèo bệnh vừa vừa, đói lạnh bức bách; hoặc kẻ ác yêu quý làm tan nát nhà cửa, kẻ thù gặp nhau; hoặc sanh ly tử biệt, hoặc hồn dẫn dắt vòng quanh trong mộng; hoặc danh lợi lôi cuốn, mưu đồ không thành. Bởi thế dẫn đến ngày thường bị lôi kéođánh đập mất tinh thần, mặt mày ủ rũ, thậm chí ngồi nằm bất an, thống khổ quên ăn bỏ ngủ vân vân, cuối cùng bức hiếp đến nỗi chạy vào không đường, chỉ có con đường sống tự sát. Phật nói: [Kẻ được thân người, như kẻ sĩ trên tay, kẻ mất thân người như đất đại địa.] Nó khó như thế, sao không trân trọng để mà xem.

Ngã Phật là một đại y vương, có thể trị bệnh về phần nội tạng của tất cả chúng sanh, không luận thân bệnh, tâm bệnh,tóm lại có thể trị tận gốc, như đau đầu trị đầu, đau chân trị chân, mà thầy thuốc của thế tục dĩ nhiên không giống nhau.Cho nên muốn trừ căn bệnh nội kết cơ bản của gió tự sát, tất nhiên phải hiểu rõ lý giải Phật giáo, nhân vì Phật giáo chuyên nghiên cứu tâm lý con người và thái độ của bệnh tư tưởng trên.

Kẻ tự sát, đầu tiên nguyên nhân tư tưởng hẹp hòi, hạn chế cá nhân nơi tiểu thiên địa, họ không biết ngoài tiểu thiên địa còn có đại thế giới trời cao biển rộng. Giả sử gặp đến vấn đề nan giải, phiền não nội kết ứ động, liền không thể tự xử. Phiền não thống khổ, đều do tư tưởng hẹp hòi đây sanh khởi. Trên sự thật, chỗ có phiền não thống khổ, giống như hình tượng trong gương, mặt trăng trong nước, có ảnh của nó mà không thật thể, tìm nó hoàn toàn không thể được. Nếu đem tư tưởng hẹp hòi đả phá bỏ ngoài tai, tự quán chiếu tâm nó, tức có thể giải thích phiền não giống như băng, thì thống khổ tiêu tan, trở mình tỉnh ngộ, như nằm mộng được giác ngộ, mở mắt xem đến đại thế giới của trời cao biển rộng, tất nhiên không gặp tầm mắt hẹp hòi. Đông đảo chúng sanh cố chấp kẻ mình thấy thì nhiều, kẻ giác ngộ thì ít, mặc dù kẻ có trí báo cho nó biết đều là hư vô, nhưng người nó cũng kiên trì không tin, vẫn hướng về phiền não thống khổ chui luồn vào bên trong, càng chui càng sâu, kết quả bị trói buộc, không thể tự ra, lún xuống sâu luân hồi, vĩnh viễn chịu sanh tử, đâu có thể không oan uổng?

Tu đạo trong Phật giáo, tức là phương pháp rất tốt để đối trị căn bản phiền não thống khổ. Tu là tu lý, đạo là đạo lộ. Người tu đạo, chính là tu đạo lộ của lý trong tâm. Thí dụ như đạo lộ trong thế gian, đầu tiên cần yếu thông suốt con đường lưu thông không bị trở ngại, nếu như không lưu thông, người và xe bế tắc liền ngừng lại xe bị chật nứt thành lo âu.Tâm lộ của con người tôi thì cũng như thế, trọn ngày nào ba độc tham sân si làm trở ngại, tâm lộ bế tắc, đi bên trái không thông, đi bên phải cũng không vượt qua, bốn phương tám mặt, không có con đường để đi, kết quả sản sanh các thứ thống khổ ra đời, thử hỏi thống khổ do đâu mà đến? Tri cứu căn nguyên, từ vọng tưởng sanh, vọng tưởng vốn không có nguồn gốc, quả như có nguồn gốc, có thể đem ra trao cho người xem thấy. Đã là vọng tưởng, nhìn lại gọi là nghĩa tâm tư, vốn không chỗ có, vọng tưởng đã là không, vậy khổ từ đâu đến? Cho nên Phật nói các khổ hoàn toàn là do vọng tưởng tạo những điều quái lạ, nếu không vọng tưởng, thống khổ hoàn toàn không. Chỉ vì chúng sanh mê hoặc không biết, say đắm sanh mộng tửởng , hư vọng tạo nghiệp, hư vọng thọ khổ. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” Phật đối với A Nan nói: [Thí dụ như có người nói đến ô mai chua, nước trong miệng chảy ra, như thế nói chua không từ ô mai sanh, cũng không phải từ miệng vào. Tư tưởng bị chà đạp treo trên vách núi, còn tâm dưới chân lại bị chua chát, như vậy chua chát không sanh từ vách núi, cũng không phải chun vào từ dưới chân.] Do đây chứng minh, tất cả thống khổ, đều từ vọng tưởng sanh, nếu không vọng tưởng, thống khổ do đâu mà có?

Thí dụ như, có một chồng vợ đối đãi nhau tha thiết, ăn ở với nhau nhiều năm, chiếu cố nhau đậm đà, không lúc nào khônghòa thuận, hình ảnh không lìa nhau; một trong hai người, bổng nhiên vô thường cướp đi mạng sống, một người còn lại, nhất định sầu khổ không tự kềm chế, thống khổ khó nhẫn, hoàn cảnh đổi thay, cũng sầu mặt ủ mày chau che lấp sâu thẫm, buồn thảm sầu mãi không vui. Thử hỏi thống khổ từ đâu sanh ra? Phật nói đây là ái biệt ly khổ (yêu nhau mà bị xa lìa là khổ), nếu như hai người ngày trước không yêu nhau kết tụ thì ngày nay nào có thống khổ vì biệt ly. Quả như một người còn sống, ngồi cô độc nơi gian nhà nhỏ, hoặc đứng lại trước sân nhà, tinh thần tập trung trước sân nhà, suy nghĩ tìm kiếm người bạn đời trước, hai người một lần đi đến một chỗ nơi xem hát, du lịch, bơi lội, đá cầu, lúc đó có biết bao cam mật khoái lạc, hiện tại người bạn yêu đã từ tần, lập tức thành vĩnh biệt, khó vui lại lần thứ hai, càng tưởng lại càng thống khổ, thậm chí tưởngđến thần kinh thác loạn, thống khổ khó gọi. Giả sử lúc này lỡ như có bằng hữu, nó và ngườiyêu đi xem hát, mình bổng nhiênđầu tiên cảm tấy sầu lo nổi lên, lúc đó chúng nó đang tiến vào hí viện, mắt xem trên vũ đài, nào hồng nam lục nữ, ca xướng vũ múa, một đám càng hoan hỷ, tâm hoa mình càng phẩn nộ,lúc này tư tưởng bạn yêu của mình nhớ lại đã mất từ lâu, thống khổ cũng chấm dứt. Sau khi trở về nhà, tư tưỏng người yêu đã chết khởi lên, thống khổ trở lại tái sanh, như đây khổ lạc quanh co lật lại, tất cả đều do vọng tưởng sanh ra.

Phật nói tâm sanh các pháp đều sanh; nơi trong không thống khổ, thống khổ bổng nhiên sanh. Thử hỏi thống khổ rốt ráo là có hay là không? Quả như là có, khi ở  hý viện, tại sao không có khổ não? Quả như là không, khi trở về nhà, tưởng lại phát khởi hình ảnh cái chết của bạn yêu, tại sao thống khổ lại sanh ra? Lại tiến thêm một bước để nghiên cứu, thống khổ do nội tâm sanh chăng, do ngoại cảnh sanh chăng? Quả như thống khổ do nội tâm sanh, tâm vốn thường trụ, thống khổ cũng nên thường trụ, trên sự thật không phải vậy, thống khổ khi có khi không. Quả như thống khổ do ngoại cảnh sanh, ngoại cảnh cùng ta đều không quan hệ, cảnh có thống khổ, sao ta lại không biết. Như thế quanh co, suy cùng tìm dần dần, thống khổ triệt đễ do ai đem lại? Tìm lại tận gốc rễ, nhưng là hư vọng, hoàn toàn tìm không thể được.

Người tôi hiện tiền, chỗ thấy chỗ nghe, tất cả sự vật, đều là chỗ hiện vọng tưởng. Thử đề cử cảnh mộng làm thí dụ, người tôi chính khi ở trong mộng, không biết mình là mộng, cảnh vật trong mộng, thương ghét lìa hợp, tất cả đều thật. Bổng nhiên tĩnh lại, mới biết thương ghét trong mộng, tất cả đều là hư vọng. Người tôi chưa đến minh tâm kiến tánh, chỗ đại thấu suốt đại ngộ, còn nương vô minh vọng tưởng, chi phối nhân sanh tuần hoàn xoay vần, người mắt sáng quán thấy, dụ như những sự vật trong mộng, chỗ đương sanh ra, theo chỗ diệt tận, huyễn vọng qua lại nhau, huyễn vọng qua lại đây không phải chân.

Giả sử người tôi muốn tiêu trừ phiền não thống khổ, tưởng được đến nhân sanh chân chánh khoái lạc, đầu tiên nhu yếu chân kính nghiên cứu chân đế của Phật giáo, kỹ lưỡng tinh tế tìm hiểu, tận cùng nguyên lý tinh sáng, sau đó mới dẫn đạo giáo lý Phật đà, phải chắc chắn thiết thực, tu tập thiền định, đình chỉ chấm dứt vọng niệm, vọng niệm không khởi, vọng cảnh không sanh, ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh không tâm, tâm cảnh nhất như, lúc này có phiền não thống khổ phát sanh hay sao? Chỗ gọi phiền não tức bồ đề, sanh tử tức niết bàn là thế.

5.- Bàn Luận Về Khổ Cùng Không.

Có một số nhân sĩ phê bình Phật giáo là tiêu cực, bi quan, chỗ căn cứ của họ không ngoài hai thứ nguyên nhân: một là khép kín nơi phương diện lý luận của Phật giáo, hai là khép kín nơi phương thức tu hành cùng phương diện sinh hoạt của tín đồ Phật giáo.

Đầu tiên giảng khép kín nơi vấn đề lý luận. Tôi cũng đã trải qua thường nghe người đời nói: [Phật giáo đồ bọn ngươi trọn ngày không là giảng khổ, lại là giảng không, người ngày nay không bằng lòng để ý nghe.] Quả như giảng đến người bệnh cùng người chết, có phải không giảng nên không nghe, đều ở nơi không gặp bệnh không gặp chết phải không? Đương nhiên đã trải qua thân hữu, gia quyến bệnh nặng hoặc tử biệt, lại như trời tốt nắng ráo bổng nhiên sét đánh thình lình tử nạn, cảm đến chấn động thần kinh và bi thương. Tất nhiên sanh già bệnh chết là con người không ai tránh khỏi, quả như một sớm chuyển đến chính mình, lúc đó biện minh như thế nào? Cổ đức có nói: [Tôi thấy người khác chết, tâm tôi nóng như lửa, không là người khác nóng, canh giữ sẽ đến tôi.] Lại nữa nói: [Thời gian qua, vui vẻ bàn luận sự việc già chết, như ngày nay vẫn đến trước mắt.] Thật đủ để khiến người ta tỉnh ngộ! Người đời đều biết năm đến chưa đến, năm nay chính cần yếu chuẩn bị lúa gạo cho năm tới, trời đông chưa đến chính cần yếu chuẩn bị áo ấm cho trời đông, cũng là vì sự việc sanh già bệnh chết khi chưa đến, nếu không chuẩn bị lúa gạo lương thực cho sớm thì không kịp.

Người người ai cũng đều sợ khổ, có phải khổ là hiện thật tồn tại? Chính nhân vì người người đều sợ khổ, cho nên Phật giáo đặc biệt nhấn mạnh điều này với nó, đem nó đề ra với mọi người cho nó là như thế nào? Như thế cần phải nghiên cứu bản chất của cái khổ, khổ đây đích thực là nhân, theo đây để tìm kiếm cho ra phương pháp để giải thoát khổ, tiêu trừ căn nguyên của thống khổ.

Các loại khổ của thế gian tuy nhiên là nhiều, mà quy nạp tìm được, không ra ngoài hai thứ của thân tâm. Khổ của thân thể gồm có bốn thứ, sanh, già, bệnh, chết. Khổ của tâm gồm có ba thứ, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc; (Ba thứ khổ: Ái biệt ly: là thương yêu nhau mà bị xa lìa; Oán tắng hội: là thù ghét nhau mà cứ gặp nhau mãi; Cầu bất đắc: là hy vọng không thành); lại còn có một thứ vô thường biến hoại là cái khổ của bức hiếp làm cho đau đớn khổ sở, tức là ngũ ấm xí thạnh khổ ( Ngũ Ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức), hợp nhau lại có tám thứ khổ quả.

Phật giáo báo cho chúng ta biết, quả khổ hiện tại, tất nhiên là có thứ nhân khổ của quá khứ. Cho nên kẻ thật hành Tiểu Thừa, đầu tiên cần yếu, biết khổ, đoạn tập, chuộng diệt, tu đạo,mới có thể dứt sanh thoát chết, vượt ra ngoài ba cõi.

Quả khổ đã là do nhân khổ chiêu cảm tạo nên, như vậy nhân khổ là như thế nào? Phật giáo giảng nhân khổ chính là sáu thứ, tham dục, sân nhuế, ngu si, cao mạn, nghi hoặc và tà khiến một trong năm thứ, (Năm thứ lợi sử: thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ kiến, Tà kiến. Tà kiến có mặt nhiều chỗ như:

* – Trong Thập Sử: tham, sân, vô minh, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, Tà kiến.

*- Trong Thập Ác: chia làm ba lãnh vực: thân, miệng, ý:

*- Thân: sát sanh, trộm cắp, dâm dục (tà dâm)

*- Miệng: vọng ngữ, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu,

*- Ý: tham, sân, Tà kiến (si)

Ngũ dục lại có mặt phía trong: tài, sắc, danh, thực, thùy; ngũ dục lại có mặt phía ngoài, tức năm căn đối với năm trần chỗ sanh ra dục vọng, một số đây đều là nhân khổ. Thứ nhân khổ đây, tất nhiên đạt đến quả khổ, đây là những sự việc phi thường công bằng, tức chỗ gọi là tự làm tự chịu, thù ghét người khác không được.

Phật giáo nói: [Bồ Tát sợ nhân, chúngsanh sợ quả.] Người có trí huệ nhân vì sợ kết quả ác, lúc ban đầu không dám tạo nhân khổ; người ngu si không tin nhân quả, chính tạo nhân ác bừa bãi, đem đến chính chiêu cảm quả ác. Người học Phật đương nhiên biết đạo không tạo nhân ác, đem đến chính không kết quả ác, mặc dù nhân thuộc quá khứ không biết mà lỡ tạo nhân ác, cũng quyết định không oán trời trách người, nên đem an nhiên thừa nhận quả khổ,nhân biết [Phước họa không cửa, chỉ người tự chuốc lấy].

Có chỗ nói: [Tùy duyên tiêu trừ nghiệp cũ, lại không tạo tai ương mới.] Rõ ràng đây là đạo lý của Phật giáo đồ, tuy có khổ não, nhưng thân thọ khổ, mà tâm không phiền não, nếu không rõ ràng nhân khổ cùng người chịu quả khổ, không những thân thọ khổ, mà tâm cũng hận phiền não, oán trời trách người, cho là mình một đời đã tạo rất nhiều việc thiện, là thế nào sao lại bị quả ác này, đâu không phải là không có nhân quả! Kỳ thật họ không biết đạo lý nhân quả có ba đời, không phải là con số chữ ba, mà đây là chỉ ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai. Ba đời: (1) Hiện Báo, đời nay tạo nghiệp thiện ác, đời nay thọ báo. (2) Sanh Báo: đời nay tạo nghiệp thiện ác, đời sau thọ báo. (3) Hậu Báo: đời nay tạo nghiệp thiện ác, đến đời sau thứ hai, mới thọ quả báo. Người không hiểu rõ đạo lý đây, lầm cho là không có quả báo.

Phật giáo đồ chúng ta, làm thế nào trọn ngày sao không giảng lý không. Đây cũng là nguyên nhân làm cho người đời sợ khổ, nếu có thể biết đạo vũ trụ nhân sanh đều là không. Phía bên trong tâm lại bị chịu khổ. Phật Kinh có nói: [Các pháp theo duyên mà sanh, các pháp theo duyên mà diệt.] Duyên sanh không chủ, đương thể tức là không.Phật nói vũ trụ vạn hữu, đều là bốn đại hợp thành. Dùng người để trình bày rõ hơn, như da thịt gân xương đều là địa đại hợp thành, nước mắt nước mũi, nước bọt, máu đặc, đều là thủy đại hợp thành, uất nóng, khô, nhiệt đều là hỏa đại hợp hành, hô hấp vận chuyển đều là phong đại hợp thành. Do đây địa thủy phong  hỏa trong bốn đại không có ngã, cho nên nói là không, nếu người có thể quán sát lý vô ngã (lý không ngã), phiền não thống khổ tự nhiên không sanh.

 Lại nói Phật giáo đồ vấn đề tu hành và sinh hoạt, giống như người ta thấy đến, các ngài suốt ngày tĩnh tâm và mặt lạnh thờ ơ ít muốn bôn ba lao lực; các ngài  nhận thức đối với xã hội càng thấy hư danh và tư lợi, cho nên không đi kết thân, do đó người đời cho các ngài có thái độ tiêu cực hoặc cho các ngài là những kẻ trốn tránh hiện thật. Phải biết người đời, trên có cha mẹ, dưới có vợ chồng con cái, sinh hoạt mỗi ngày, họ không phải bị cưởng bức, nhưng chính họ phải đi bận rộn bôn ba, sớm đi chiều về, làm việc mưu sanh; quả đúng như vậy, cuộc sống nào là áo mặc nhà ở cơm ăn sinh hoạt hàng ngày của gia đình, chính họ gặp phải vấn đề nan giải phát sanh. Người xuất gia đã không có con trai lo cưới vợ, con gái lo lấy chồng, cho nên không có gia đình chồng chất lo âu, cuộc đời chỉ ăn ở nơi chùa miếu, chỉ một y phục mặc hơn mười năm, trọn ngày tự do tự tại không lo nghĩ.  Nhưng đây không phải là nói người xuất gia nhường lại cho đời độc lập tự do, vã lại xem nhiều ít xưa nay tăng già trọn đời lao thân làm công việc xây dựng chùa và lao tâm làm công việc thuyết pháp độ sanh. Lại nữa, một số người xuất gia bế quan tu học, cũng là tự mình tròn đầy sự thật của tích cực, là tương lai chuẩn bị làm tốt cho việc độ tha và tự lợi, nếu có thể giải thích sự hành trì của người xuất gia hoàn toàn sai sựï thật, chính không chắc đã giải thích sai lầm.

6.- Điều Vui Không Thích Nghi Nhu Cầu Của Người Thế Gian.

Người ta thường nói: [Chúng ta nhất định tìm cầu khoái lạc của nhân sanh.]  Mà ngày nay các nhà viết sách chủ trương: [Điều vui của nhân gian không thích nghi nhu cầu]. Đâu chẳng phải cùng người thế gian lời nói hay luận điệu trái ngược chống lại với người khác? Không lầm, Phật giáo chúng ta chỗ giảng đạo lý, là tương đối khác nơi thế tục. Do nơi tư tưởng cùng quan niệm của con người,sản sanh tánh cách cùng ham thích của cá nhân, tất cả đều không thể nhảy ra ngoài phạm vi tri kiến của phàm phu. Cùng một sự vật, anh Giáp nhận cho là tốt đẹp, anh Ất nhận cho là xấu ác, mà anh Bính thì lại xem cho là không xấu cũng không tốt. Thậm chí cá nhân quan niệm cũng gặp phải trải qua thường biến hóa, ngày trước nhận cho là đúng, ngày nay thì giác ngộ nó đều không phải như thế. Có thể biết tất cả thiện ác tốt xấu của thế gian, rất khó định nghĩa cho đúng, nhân vì tâm con người lúc nào cũng bị nghiệp thức chi phối, ngoại cảnh cũng theo tâm chuyển biến, các thứ quan niệm cùng tri kiến hoàn toàn tính toán mê vọng của phàm phu, đều có thể nói không có chân lý. Chỗ gọi: [Tình thì có, lý thì không.] Chúng ta nói chân lý chỉ là có trong cộng đồng định nghĩa; còn chân lý phải được các nơi trong bốn biển đều đúng mục đích, bất cứ người nào đều không thể đem nó ra lật đổ, và không phải một nhóm người dễ lĩnh hội.

Phật nói: [Nhân sanh trong thế gian, khổ nhiều vui ít.] Câu này nói cần nhẫn chân thật để thể hội cũng không dễ, chỉ là người ta thông thường đều không quan tâm vui vẻ để suy nghĩ cân nhắc kỹ càng.

Dùng vấn đề kết hôn để khẳng định, một nhóm đều cho là việc vui mừng của nhân sanh, không để ý phí tổn. Sau khi kết hôn, chúng nó hoàn toàn, nếu hai người tâm đầu ý hiệp, gắn bó keo sơn, nhân vì chúng nó đã được bộ máy tình yêu, nên không thấy chỗ khuyết điểm lầm lỗi. Nhưng ái tình trở lại ái tình, bao tử đói cần yếu là phải ăn cơm, dù cho không nhận giây phút phân ly, nhưng phải xuất ngoại chạy đông chạy tây để tìm kế mưu sanh, lúc đó bậc trượng phu lo sợ vợ con ở nhà không yên, vợ con cũng lo ngại chồng đi xa sợ có ngoại tình, hai người vướng víu không rời, như thế làm sao có hỷ lạc được? Kinh Phật có nói: [Nhân ái sanh ưu, nhân ưu sanh bố, nhược ly ưu ái hà ưu hà bố?] (Nhân yêu sanh lo, nhân lo sanh sợ, nếu lìa nơi yêu, làm gì lo làm gì sợ). Lại hơn nữa nhân sự bãi bể nương dâu, vô thường trong nháy mắt, ân ái không dễ bền chặt lâu dài, ở với nhau lâu ngày, khả năng sinh hoạt đã chuyển biến thúc đẩy trở nên nhạt nhẽo, nói không nhất địnhlúc ấy mới phát hiện hai người chỗ tốt không còn giống nhau, vợ thích yên tĩnh chồng thích hoạt động bên ngoài, hoặc nhân tín ngưỡng không giống nhau, ý kiến trái ngược nhau, theo trách mắng lẫn nhau, cãi nhau không thôi, thậm chí đòi ly hôn phân chia nhà cửa. Lại nữa, hoặc sau khi sanh con trai con gái, sinh hoạt trách nhiệm càng nặng, chỉ có tăng thêmthu nhập, bằng không lại cần phải lường tính thu nhập để chi tiêu. Giả như con trai không nghe cha dạy dỗ, con gái không giữ gia quy, bằng cách hà khắc vào khuôn phép, một không thuận ý, liền sanh oán kết căm thù. Hơn nữa trong gia đình không luận có bệnh gì đó, hoặc có khốn nạn, tất cả nơi thân đều thọ nhận, phiền não quá nhiều, thật tại không sao kể hết! Thử hỏi vui ở chỗ nào?

Người đời khổ nhiều vui ít, giống như người thể nghiệm được đến đích. Nếu đi sâu một tầng nữa để nghiên cứu, dù rằng thỉnh thoảng đạt đến một điểm vui nhỏ, cũng chẳng qua cho khổ là vui. Như người chạy bộ cảm thấy mệt nhọc, liền ngồi xuống nghỉ mệt cho là vui; ngồi thời gian lâu lại cảm thấy không thích, nhưng lại đi bộ cho là vui. Đây chẳng phải là nhân khổ hiển bày vui?

Đã có đại sứ của đại sứ quán quốc gia nọ, một ngày kia bổng nhiên bị tai họa do lũ giặc bắt cóc gia đình cưởng bức phải chuộc, lúc ấy gia đình quyến thuộc của ông tất nhiên không an, khổ không thể nói, đang lúc không biết như thế nào định trù bị và gom góp tài vật để trao đổi, bổng nhiên lũ giặc đem người phóng thích, lúc ấy tất cả gia đình hoan hỷ vô cùng ra ngoài nghinh đón, có thể nói khoái lạc không thể so sánh. Nhưng tư duy thâm sâu điều vui đây từ chỗ nào đem đến? Truy tầm tận cùng nguồn gốc, do khổ đổi lại, nếu không ngay lúc đó cái khổ do kẻ bắt cóc sao lại được vui ngày nay? Từ đây suy ra, cái vui của nhân gian, ai cũng đều cho là do cái khổ đổi lại.

Mỗi ngày xem báo, thấy anh tay nghề đua xe đạp, đạt được hạng nhất, thưởng vàng kim số vạn, lúc ấy tiếng hoan hô kêu to, nở mày nở mặt, vui không thể điều khiển, dự tính sáng mai sau giờ ngọ cùng thái thái đi du lịch, một lúc khinh tâm, ghe đến giữa biển, tất cả đều chết. Đây chính là khổ của cực vui sanh bi thương.

Nếu nói quan vị là vui, đem sự việc Ni Khắc Tốn Vi Lệ của Mỹ Quốc, ông được bầu cử làm Tổng Thống, trước một ngày chưa biết thắng bại như thế nào, do nơi tinh thần quá căng thẳng. Một đêm chưa tối có thể vào ngủ. Đến [Sự kiện đập nước.] cưởng bức ông nơi cánh đồng, khiến ông thân bại danh liệt! Còn Nam Hàn Tổng Thống Phác Chánh Hy chấp chánh 18 năm, tuy nhiên đối với Nam Hàn, ông cống hiến rất nhiều, kết quả ông bị mưu sát, bà vợ của ông cũng ở 70 năm bị người đầu giết chết. Phàm những thứ đây, ai cũng cho là cái khổ đổi lại làm vui.

Có người sớm đi chiều về, hy sanh tìm cầu của cải, cho là có tiền mới là vạn năng, của cải mới là khoái lạc. Nó không biết của cải khiến bản thân có đủ lôi cuốn rất lớn, khiến người kiếm lời mười vạn lại tưởng đến trăm vạn, được trăm vạn lại tưởng đến ngàn vạn, dục vọng vô cùng, không pháp ngừng tay, như thế không dứt chỗ lao tâm kiệt sức, khổ lạc thật khó phân biệt.

Lại có người không chịu an phận thủ cho mình, thấy người khác địa vị cao đa tài, lại sanh tâm tham niệm, làm sao cho đạt được mục đích, không từ chối bất cứ thủ đoạn nào, ăn trộm ăn cướp, gian xảo phạm tội, không chỗ nào không làm. May mắn hơi khá có chỗ thu hoạch, liền tận tình hưởng thụ. Nhưng khéo chọn lấy phi thường, cuối cùng không phải kế sách lương thiện, bất ngờ một khi không cẩn thận, đi đến thân bại danh liệt, thử hỏi vui cùng khổ ai nhiều hơn? Có thể biết không luận tìm cầu nhân gian, bất cứ sự vui nào ai cũng thấy có khổ não cùng theo, tìm cầu càng nhiều, thì thống khổ càng lớn.

Làm cho một kẻ trí, cần rõ ràng là không phải phân biệt tà chánh, bất cứ sự việc gì phải từ chỗ xa để nghĩ tưởng, không nên ngoảnh lại chỉ xem lợi ích nhỏ trước mắt. Phàm đối với người đặc biệt có sự việc lợi ích nhỏ, nên lượng sức mà làm; như đối với người đặc biệt có chỗ tổn hại, vạn sự chớ ướt tay. “Trung Dung” có nói: [Quân tử vốn dĩ căn cứ nơi chức vị của nó để làm, không cần bên ngoài của nó nhỉ. Vốn dĩ phú quý thì làm phú quý nhỉ. Vốn dĩ bần tiện thì làm bần tiện nhỉ.Vốn dĩ nước Địch bình yên thì làm cho nước Địch bình yên nhỉ. Vốn dĩ hoạn nạn thì làm hoạn nạn nhỉ. Quân tử không vào thì không tự được yên ở nơi dó.] tức là ý đây vậy.

Phải biết phú quý bần tiện, đều quan hệ chiêu cảm nơi làm thiện làm ác của đời trước. Cho nên gọi: [trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu.] Giả như đời nay không tu thiện mà ngược lại làm ác thì cũng giống như ngọn đèn mà không thêm dầu, để đèn cháy cạn dầu thì gặp đại họa, đây là không phải thường có thể sợ vậy.

Các người tìm cầu cái vui của thế gian, không là lãng phí kim tiền, lại còn tiêu hao tinh thần, đời trước gây tạo bần cùng khốn khổ, đời nay làm cho khiến nhiều bệnh đoản mạng! Nếu dùng nhân quả để nói, đây chỉ là khổ nhỏ của hiện báo, chuyển đời trở lại chịu đại khổ của sanh báo, giả sử lai sanh thọ báo chưa hoàn tất, nhưng phải thọ hậu báo tái trở lại nhiều đời nhiều kiếp. Nhân đây chúng ta thà xin một số khổ nhỏ, không cần tìm cầu cái vui của nhân gian. Chỗ gọi: [Xin đặng khổ trong khổ, mới là người thượng nhân.]

Tổng hợp lại nói, muốn được cái vui chân chánh của nhân sanh, cần thiết không nên giới hạn nơi hưởng thọ vật chất, mà nên công phu ở nơi phương diện tinh thần, nhân vì đời trước có giới hạn, đời sau mới vô cùng. Khổng Tử giảng cho Nhan Hồi nói rằng: [Một cái giỏ đựng cơm, một bầu rượu uống, ở am nhỏ hẹp, người không chịu được lo buồn nay sao, Nhan Hồi cũng không cải cái vui này của Khổng Tử.] Có thể biết cái vui cùng vật chất phú quý không quan hệ. Mà vả lại cái vui trên tinh thần là tích phước và thuận theo thiện, thì thiện có thiện báo; còn cái vui của ngũ dục lạc (Ngũ dục lạc là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) trên vật chất, chính là tổn đức mà thuận theo ác, thì ác có ác báo. Cho nên có người hiểu biết, không tham cầu khoái lạc trên vật chất, mà nên tìm cầu an tịnh trên tinh thần.

7.-  Pháp Của Thế Gian Và Xuất Thế Gian.

Phật đà chỗ nói pháp thế gian cùng pháp xuất thế gian, không ra ngoài tất cả tâm pháp của người tôi. Người xưa nói: [Phật nói tất cả pháp, không lìa tất cả tâm, nếu lìa tất cả tâm, làm sao dùng tất cả pháp.] Do đây có thể thấy, tất cả kinh điển gồm ba tạng mười hai bộ, đều giảng kể lại một tâm niệm của chúng sanh, nếu không tâm của chúng sanh, Phật cũng không có pháp để nói. “Kinh Kim Cang” nói: [Nếu người nói, Như Lai có nói pháp, tức là chê bai Phật, không thể giải thích ta có nói pháp.] tức là nghĩa đây vậy.

Đầu tiên Phật giảng lý tục đế của pháp thế gian, tức là sáu đường, thiên đường, địa ngục, người, súc sanh vân vân. Loại chúng sanh đây, tức có chánh báo của năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Tất nhiên nương y báo của áo mặc, cơm ăn, nhà ở, sinh hoạt mới có thể sanh tồn. Chánh báo là do nghiệp của quá khứ, chiêu cảm tâm thân của đời nay, y báo là tất cả sự vật trong thế gian làm chỗ nương tựa của thân và tâm. Đời trước làm rất nhiều việc thiện, đời nay liền cảm thọ hai báo là chánh báo và y báo rất tốt; đời trước tạo rất nhiều việc ác, đời nay liền cảm thọ hai báo là chánh báo và y báo rất xấu ác. Do đây các pháp thế gian, tuy có ngàn vạn sai biệt, quy nạp mà nói, không ra ngoài phước huệ, thiện ác, nhân quả và báo ứng. Do đây, chúng ta muốn tưởng đến an lạc giàu có tôn vinh, chính cần phải tu tập bồi đắp cho nhiều phước đức, trồng rộng thiện căn. Cổ đức nói: [Trồng cây cần phải bồi đắp gốc cây, trồng đức cần phải bồi đấp cái tâm.] Muốn cầu giống phước tất nhiên cần phải theo tâm của nó. Người tôi có khi sanh khởi tâm niệm ác làm tổn người lợimình, nhất thiết phải khiến tâm niệm đó cấp tốc mau tiêu diệt, chỉ cần khi tâm sanh khởi hiếu để trung tín và lợi người lợi vật, lại thêm khi thường bảo trì, đều nên dùng [không vì thân mình cầu an lạc, chỉ nguyện chúng sanh được lìa khổ] là hoài bảo trọn đời. Chỗ nói: [Người chưa đoạn ác nay đoạn ác, người đã đoạn ác nay không cho sanh khởi, người chưa sanh thiện nay sanh thiện, người đã sanh thiện nay tăng trưởng.]

Ngoài đây, như người đặc biệt có khởi lên tranh chấp, chúng ta tận khả năng khéo khuyên khiến họ chấm dứt tranh chấp, hoặc gặp người tạo ác nghiệp, nên dùng nhiều phương diện khuyên can, rộng hơn mở bày thuyết pháp, khiến họ bỏ ác theo thiện. Đối với người có nói lợi ích, không cần nói nhiều, ngược lại tất nhiên cần phải nổ lực tự hạn chế. Chúng ta cần thực hành những việc tốt, thí dụ như phò nguy giúp người, tạo phước cho xã hội, hoặc lễ Phật bái sám, tham thiền tụng kinh, đều cần dũng cảm tiến tới, để đạt công đức viên mãn.

Phải biết thân, niệng, ý là đầu mối của con người lên thiên đường cùng xuống địa ngục, ba chỗ đây nếu như tu phước thiện lương, lại đặng thiện báo; ba chỗ đây nếu tạo các thứ tội ác, lại thọ ác báo; phải biết quả báo thiện ác, các đức Phật các Bồ Tát cũng chẳng có thể thay đổi dễ dàng. Nhân đây chúng ta chỗ tạo tác chỗ hành động, cần phải suy nghĩ ba lần rồi sau mới thực hành. Phật gia chỗ nói: [Giữ miệng, nhiếp ý, tu thân chẳng cho phạm, như là hành giả được độ đời.] Đây là đạo lý của thiên kinh địa nghĩa.

Một cá nhân thiếu phước cố nhiên có thể bi thảm, còn có phước mà không có huệ chính là si phước, người si phước dễ tạo nghiệp ác,như có tiền tài không cẩn thận vận dụng, hoặc có nhân tài không được chi phối, đây đều là do không huệ gây ra. Nhân đó chúng ta sau khi có phước, cần phải tu trí huệ. Đạo tu trí huệ cốt yếu phải xem và nghe nhiều kinh Phật, theo văn tư tu, tự ngã thể chứng. Chỗ gọi: [thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển.] Người có phước như người có chân, người có huệ như người có mắt. Giả như người có chân mà không có mắt liền bị rớt xuống hố, người có mắt mà không có chân, thì bước một bước khó thực hiện,cho nêncả hai điều trên không thể thiếu một.

Lý tục đế của pháp thế gian, không thể vượt ra khỏi phạm vi của các pháp thiện ác, mà các pháp thiện ác lại nương nơi thân, miệng, ý làm căn bản. Nếu trở lại một lần nữa để nói thiện ác các pháp lại không thể ly khai một tâm niệm của chúng ta, nhân vì một tâm niệm của chúng ta muốn thiện, thì tất cả tạo tác đều biến thành thiện, một tâm niệm đây muốn ác, thì tất cả hành động đều biến thành ác, trừ ngoài tâm đây, lại không có một pháp nào có thể thay thế tạo thành nhân tố của các pháp thiên ác. Do đó, các pháp thiện ác muốn sanh khởi, tất nhiên phải mượn một tâm niệm của người tôi làm chỗ nương tựa cho chúng nó.

Vã như trở lại đi sâu một tầng nữa để nghiên cứu, một tâm niệm đây đã có thiện ác dẫn đến, thì một tâm niệm đây là bản thể của thiện ác. Chẳng qua một tâm niệm đây cứu cánh là thuộc nơi thiện nào? Hoặc thuộc nơi ác nào? Giả như nó thuộc nơi thiện, thì không thể thuộc nơi ác; như thuộc nơi ác, thì không thể trở lại thuộc nơi thiện, nhân vì hai tánh thiện ác trái ngược nhau, một tâm đâu có thể phân định làm hai được?

Lại nữa Phật nói, tâm đây không phải lớn nhỏ vuông tròn, cũng không phải xanh vàng đỏ trắng, không phải sắc không phải không, không phải pháp nhân quả, đã nói cái tâm tất cả đều không phải, sao lại có thể nói nó là nguồn gốc của thiện ác? Kỳ thật, tâm đây không chỉ không phải là nguồn gốc của thiện ác, mà lại cần tìm cầu nguồn gốc của tâm, cũng là hoàn toàn không thể được, nhân vì tâm chưa khởi, muốn khởi, đang khởi, đã khởi đều là sát na sanh diệt, tìm tâm trên còn không thể được, thử hỏi các pháp thiện ác từ đâu sanh ra?

“Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Do tâm sanh nên, các thứ pháp sanh, do pháp sanh nên, các thứ tâm sanh.] Ý nói cái tâm xưa nay vốn không sanh, nhân vì có cảnh, các cảnh xưa nay cũng không, nhân vì tâm sanh. Hai câu nói trước, tâm sanh nên pháp sanh, là nói pháp không tự tánh, chính từ nơi sanh khởi. Hai câu sau nói, pháp sanh nên tâm sanh, là nói tâm không tự sanh, chính do pháp mà hiển, nói cho rõ tâm vốn không sanh, pháp cũng không có, hai thứ tâm cảnh, vốn không tự tánh, xét đến cùng đều là không trong trạng thái vắng lặng. Có như nhãn căn nhân nơi sắc có thấy, nhĩ căn nhân nơi tiếng có nghe,giả như không có các pháp sắc và tiếng, thì cái thấy và nghe của tâm cũng không thể sanh khởi tác dụng, cho là tâm và cảnh cướp đoạt lẫn nhau, tự có sanh diệt, lúc có lúc không, biến hóa vô thường. Nhưng nơi trong sanh diệt đây, có một tánh không sanh diệt, đó là trạm nhiên (Trạm nhiên là thể tánh trong sáng) thường trụ. Chỗ gọi là: [Trong nhục thân đây có diệu pháp thân, thể tánh của nó sáng suốt kỳ diệu thấu suốt, soi sáng cổ xưa bay cao đời nay, một khi cổ xưa không biến, vĩnh cửu thường hằng.] Ngoại cảnh có mà không có theo nó, ngoại cảnh không mà cũng không theo nó, có trong không cũng giống như gương sángto lớn treo cao, người đến thì người hiện, vật đến thì vật hiện, nhưng bản thể của gương thì không bị vật tượng làm nhiễm ô. Thấy nghe hiểu biết của chúng ta, lại cũng như thế, cảnh hiện thì biết có, cảnh lìa thì biết không, nhưng tánh thấy nghe của bản thân thì không thuộc nơi có không. Do đây có thể biết, phàm có sanh diệt đến đi, nghiệm biết không phải là thường trụ, phàm không theo có không biến hóa, thì cắt đứt định kỳ cho là thường trụ.

“Kinh Lăng Nghiêm” quyển hai, Vua Ba Tư Nặc hỏi Phật về sanh diệt: [Phật nói Đại Vương, mặt của Đại Vương tuy nhăn, tánh thấy trong sáng của Đại Vương chưa từng nhăn, người nhăn là biến, không nhăn không phải không biến, biến đây là bị sanh diệt, người kia không biến, đầu tiên không sanh diệt, tại sao nơi trong đây, nhà ngươi bị sanh tử.] Mặt nhăn là nói, do từ nhỏ đến tráng niên, do tráng niên đến già, biến hóa không ngừng. Người kia không biến, là chỉ cho tánh thấy nghe, không chỉ ba năm không biến, cho đến tuổi già cũng chưa từng biến. Do đây kiểm nghiệm biết, trước kia cha mẹ chưa sanh, cho đến sau khi thân này hoại diệt, bản tánh cũng chưa từng diệt, vạn cổ thường còn. Người đời nếu có thể oán trách ban đầu khổ tu, nếu trải qua năm tháng, bổng nhiên thấy được tánh đây, thì gọi là [minh tâm kiến tánh]. Minh tâm là sau khi thấy tánh, thì đối với tất cả chân lý của vũ trụ nhân sanh, không chỗ nào là không biết, không chỗ nào là không hiểu, đối với người nói pháp cũng không dụng tâm ý thức, có giống như gương sáng chiếu khắp vạn vật, thể của nó bất động. Đến lúc này, không phải chỉ lìa khỏi vọng trần, chính là giả danh của chân như Phật tánh cũng không thể được, nhân vì hóa độ chúng sanh, mới nói chân nói vọng, bệnh vọng nếu trừ, chân cũng không lập.

“Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Nói vọng hiển bày các chân, vọng chân cả hai giống nhau đều vọng.] Như người nằm mộng thấy nghe các thứ, khi tỉnh giấc tất cả không một vật. Thiền sư Pháp Dung nói: [Nếu thân tâm vốn không, Phật pháp cũng vốn không, tất cả pháp cũng vốn không, vốn không cũng vốn không. Nếu biết vốn không cũng giả danh, giả danh là đạo Phật. Đạo Phật không phải trời sanh, cũng không từ đất sanh, chân thật là tánh không của tâm, chiếu soi khắp thế gian như mặt trời.] Có thể thấy, Phật thuyết các pháp, đều là pháp dược để đối trị tâm bệnh, tâm bệnh được giải trừ, pháp dược hoàn toàn cũng không dùng.

Lý chân đế của pháp xuất thế gian, lại không lìa một tâm niệm đây. Trước đã nói, thân nương thế giới mà lập, thân nương nơi tâm mà tồn tại, vậy tâm lại nương chỗ nào mà lập? Tâm nương nơi vọng tưởng mà trụ, nếu không vọng tưởng điên đảo, tức tâm không thể giác ngộ, cũng không tướng của chỗ giác, năng và sở cả hai đều mất, chỉ còn bản giác. Bản giác cũng đối với thỉ giác mà lập, nếu không thỉ giác, tên bản giác cũng không thể lập, không danh không tướng, chỉ còn năng lực của cái tên Đại Viên Cảnh Trí. Chân tâm bản giác, nguyên không có thân tâm và thế giới, nhân vì có chánh báo của thân thể, mới có y báo của thế giới, mà chân tâm đây vô thỉ vô chung, kẻ thọ nhận sanh diệt tức là vọng tâm, kẻ không thọ nhận sanh diệt tức là chân tâm. Vọng tâm là như thế nào, vọng tâm đối với cảnh mà sanh, nếu lìa cảnh liền giống như lông rùa sừng thỏ. Chân tâm lìa cảnh chính tồn tại độc lập,. “Kinh Kim Cang” nói: [Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. (Cần phải không có chỗ trụ tâm này mới sanh)] tức là lìa cảnh mới có thể tâm sanh. Cổ Đức nói: [Không cùng vạn pháp làm bạn hữu.] tức là lìa cảnh, riêng có chân tâm.

Phàm phu hoàn toàn bị trói buộc, vạn kiếp không thể lìa cảnh riêng có tâm sanh, giả sử thật có thể lìa cảnh tâm sanh, đó tức là chân tâm, siêu phàm nhập thánh, tuy nhiên như thế, nếu lìa ngoài vọng tâm, riêng thấy chân tâm, khác nào mài gạch ngói làm kiếng, nấu cát thành cơm, vĩnh viễn không có chỗ. Cho nên người minh tâm thấy tánh, không cần lìa ngoài vọng tâm để riêng tìm cầu chân tâm. Nếu ngộ thì toàn vọng tức chân, nếu mê thì toàn chân thành vọng, chân vọng không một không hai, như mặt trăng thứ hai, không phải là ảnh mặt trăng. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, lầm nhận tâm thức là chân tâm, đây mới là người có thể thương hại.

Dùng pháp xuất thế để nói, vật tức không phải tâm, tâm tức không phải vật, hai đây nếu không mê hoặc, tức là kẻ giác ngộ. Như mắt tôi thấy sơn hà đại địa, tất cả vạn tượng, có thể chỉ ra các thứ danh xưng, đều là ảnh tượng của tiền trần, không phải bản tánh của cái thấy.Lúc này phải hồi quang phản chiếu, truy tầm như thế nào nguồn gốc cái thấy của tôi thấy, nơi trong cái thấy đó lìa tất cả hiện tượng sự vật, trong sáng thường chiếu, mới là chân thấy của người tôi. Tánh thấy như thế, tánh nghe cũng thế, như người tôi ngồi tĩnh tọa trong nhà, bên ngoài có nào tiếng phi cơ, tiếng xe hỏa, tiếng rống của con bò, tiếng ngựa hí, tiếng con trai gọi, tiếng con gái trả lời, tiếng nhi đồng cười giởn, tiếng cười hổn tạp vang lên vân vân, nghe rành mạch rõ ràng, những tiếng vừa kể trên, đều là vật ngoài tâm, nên quay đầu hỏi lại, trừ các tiếng ngoài kia, cứu cánh tánh nghe của tôi là cái gì? Chỗ không rõ ràng, lại nên nổ lực, như mèo bắt chuột, đi sâu vào tìm tòi, đi đứng ngồi nằm, mang y khất thực, đàm luận tịnh mặc, lớn nhỏ tiện lợi, phàm tất cả đây, tâm tham cứu tinh tế, luôn luôn không gián đoạn, dùng an trụ đây dài lâu, tự mình có ngày gặp thời cơ chín muồi, bổng nhiên đại ngộ, đại địa không tất đất, toàn đại địa nguyên là của chính mình, liền thấy lý thể của pháp thân. Chứng đắc thanh tịnh pháp thân, đầy đủ vô lượng thần thông diệu dụng.

“Kinh Lăng Nghiêm” nói: [Một trong nơi đây là vô lượng, vô lượng là một, hiện lớn trong nhỏ, hiện nhỏ trong lớn, đạo tràng bất động, biến khắp mười phương giới, thân hàm chứa vô lượng hư không trong mười phương, nơi một đầu sợi lông hiện chùa Bảo Vương, ngồi trong vi trần chuyển bánh xe pháp to lớn.] Do đây có thể biết, diệu dụng của tâm, không thể nghĩ bàn, phàm phu chúng sanh, không thể tưởng tượng, đây tức là chân tướng của Phật pháp xuất thế.

Người đời không rõ lý của Phật, cho là Phật giáo hoàn toàn xuất thế, lìa bụi trần dứt thế tục, so cùng đời không ăn khớp. Tôi là người Hán thế tục, đã không xuất gia, lại không tu đạo, sao nhất định phải học tập Phật pháp, ông chính không biết, Phật nói chân lý của xuất thế, nhưng cũng nói tục đế của thế gian. Như người tôi, đi đứng ngồi nằm, mang y xin cơm, hôn phối giá thú, cha từ con hiếu, giao tế kinh tài, vệ sinh bảo vệ sức khỏe, sĩ nông công thương, y dược xem tướng, bao la vạn hữu, không chỗ nào không nói đến. Nhân đây xin khuyên người đời, phàm làm người, cần yếu học Phật, nó không những có thể khiến con người tràn đầy học vấn cùng đạo đức, bao gồm gợi ý tư tưởng nhân loại cùng khảo nghiệm, đều không phải nhất thiết người xuất gia, mà gồm tất cả những người mới vào cửa Phật.

Phải biết tục đế của pháp thế gian, là dùng ngũ giới thập thiện làm cơ sở của nhân thiên. Chân đế của pháp xuất thế gian, là dùng tứ đế, thập nhị nhân duyên cùng lục độ vạn hạnh làm bậc thang tu đạo thành Phật. Nếu dùng Phật pháp nhất thừa tối thượng để nói, là phiền não tức bồ đề, sanh tử tức niết bàn, không có hoặc để đoạn, không có đạo để chứng, thế pháp tức xuất thế pháp, xuất thế pháp tức thế pháp, lìa pháp thế gian không có Phật pháp, lìa Phật pháp không có thế gian pháp. Lục Tổ nói: [Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian để giác ngộ, lìa thế gian tìm bồ đề, thích hợp như tìm cầu sừng thỏ.]

Giả như người đời chân chánh ngộ đặng lý pháp vô sanh, [Tre xanh tận cùng là pháp thân, hoavàng xanh tươi đều là bát nhã]  Cảnh giới đến đây, lại ở chỗ nào  phân chia pháp thế gian và pháp xuất thế gian.?

8.- Vũ Trụ Vạn Hữu Từ Đâu Đến.

Ngày nay khoa học tiến bộ mặc dù một ngày đi ngàn dặm, nhưng đối với vũ trụ và nhân sanh đã có những câu đối lâu đờiđể lại.

Căn cứ truyền thuyết cổ đại của Trung Quốc: vũ trụ trước khi chưa khai mở rộng lớn, thế giới hổn độn một hình tròn, Họ Bàn Cổ là người đầu tiên xuất thế, đầu lớn như núi, tay cầm cái rìu, đem vũ trụ chẻ ra làm hai, phân thành trời đất.

Ngũ Vận Lịch Sử Niên Ký nói: [Nguyên khí Hồng Mông, manh nha bắt đầu nẩy mầm, liền sanh ra trời đất, Họ Bàn Cổ chính là thủy tổ của trời đất vạn vật.]

ục Điển có thuyết, con người do nguyên khí sanh, tức là tự sanh. Có thuyết, do cha mẹ sanh, tức là người khác sanh. Có thuyết nguyên khí mượn cha mẹ sanh,   tức là cộng sanh. Có thuyết tự nhiên sanh, tức là không nhân tự sanh.

Đạo Gia nói, vô cực sanh thái cực, thái cực sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, bát quái sanh vạn vật. Lão Tử “Đạo Đức Kinh” nói: [Vô danh, là đầu tiên của trời đất; hữu danh là mẹ của vạn vât.]

Trang Tử nhận cho là, con người do khí sanh, con người chết hoàn trở lại nơi khí, thấy sanh như chuyển đi, thấy chết như trở về. Do đó vợ chết không thương tâm, lại còn vổ bồn mà ca. “Thượng Thư” nói: [Hồn bay lên trời, Phách trở về nơi đất.] Nho ĐạoTrung Quốc, đều cho không là nơi có thể sanh khí, dùng khí để tạo thành hình, là lý do sản sanh vũ trụ và nhân sanh.

Ấn Độ có 96 phái ngoại đạo, nhận xét đối với vũ trụ và nhân loại, tất cả mỗi người một ý khiến khác nhau. Có vị chủ trương trong nhân có quả, trong nhân không quả; có vị chủ trương cũng có quả cũng không quả; hoặc không phải có quả, không phải không quả. Như sáu phái ngoại đạo hành trì, phái tự ăn than lửa, phái tự đi trên lửa, phái lỏa thể, phái nằm trên gai, phái trì giới gà, phái trì giới bò vân vân, đều là độ chừng không phải nhân đương nhiên cho là nhân, độ chừng không phải quả đương nhiên cho là quả. Lại có ngoại đạo tùy tiện chủ trương mới sanh, sanh từ cái không, sanh từ gió, sanh từ vi trần, sanh từ ngũ đại, sanh từ Thần Ngã, sanh từ Tự Tại Thiên và sanh từ Đại Phạm Thiên, Bà La Môn sanh từ miệng [Phạm Thiên], Sát Đế Lợi sanh từ cánh tay, Tỳ Xá sanh từ sườn, Thủ Đà La sanh từ bàn chân; lại có chủ trương Tự Nhiên sanh vân vân, tất cả đều bất nhất.

Cổ Đại Ai Cập Thần Thoại nói: vũ trụ là một cái hộp hình vuông lớn, tất cả tinh cầu, tất cả sanh mạng đều ở trong hộp vuông, tự nhiên xuất hiện. Tông giáo tây phương có xưng là Thượng Đế có quyền năng sáng tạo vũ trụ vạn hữu. Như Cựu Ước Sáng Thế Ký nói: [Thượng Đế dùng đất bụi trần trên địa cầu, tạo con người, đem sinh khí thổi vào trong lổ mủi của nó, nó liền thành con người linh hoạt.] và [Thượng Đế tạo hai ánh sáng lớn (mặt trời mặt trăng), qua ống nét lớn ban ngày, ống nhỏ ban đêm. Lại tạo chúng tinh cầu.]

Dùng trí huệ quán sát của Phật đà, sanh mạng của vũ trụ và con người chúng ta, đều do tâm thức của chính mình sáng tạo thành hình, không phải riêng tâm thức nhân loại và thế giới sáng tạo, mà cả đến chúng sanh sáu đường và pháp giới bốn thánh, tất cả đều do tâm thức sáng tạo mà có. Nếu tâm tạo tác ngũ nghịch thập ác, ba đường ác lại theo đó mà xuất hiện. Nếu tâm trì ngũ giới thập thiện, ba đường thiện cũnglại theo đó mà xuất hiện như ảnh theo hình. Ba đường thiện và ba đường ác, là thuộc Phàm Thánh Đồng Cư Độ; nếu tu tứ đế, thập nhị nhân duyên, liền xuất hiện Phương Tiện Hữu Dư Độ; nếu tu từ bi hỷ xả, tứ vô lượng tâm, liền xuất hiện Thật Báo Trang Nghiêm Độ; nếu tu lục độ vạn hạnh, đạt đến ba giác ngộ ( Ba giác ngộ là Đẳng Giác, Diệu Giác, Viên Mãn Giác Ngộ) viên mãn, liền xuất hiện Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Có học giả nước ngoài hỏi: [Tìm cầu chân lý, không phải khách du lịch chỗ xa, do tự mình đào lên từ dưới chân, chỗ đây chính có nguồn suối chân lý.] Dùng Phật pháp mà nói, tâm đây tức là nguồn suối của sanh mạng và vũ trụ.

Người tôi trọn ngày mang y khất thực, làm việc ngủ thức, chỗ tâm sử dụng, đều là tâm vạn năng. Tâm vạn năng như thế nào mà chúng sanh suốt ngày say rượu trong mộng tử, tìm vui trong khổ mộng, một điểm mộng mình không biết, nhân vì nó chưa tỉnh ngộ, do oan uổng tạo nghiệp, rồi oan uổng thọ khổ.

Tông Thiên Thai có nói: một tâm niệm đầy đủ ba ngàn các pháp, đây chính là từ “Kinh Pháp Hoa”, Mười Như Thị, Phẩm Phương Tiện nói đến. Mười Như Thị tức là, (1)Như Thị Tướng, là tướng dùng làm bằng chứng bên ngoài. (2) Như Thị Tánh, là tánh dùng làm bằng chứng bên trong. (3) Như Thị Thể, thể là dùng làm chủ bản chất. (4) Như Thị Lực, lực là dùng công năng. (5) Như Thị Tác, tác là dùng chuyển động. (6) Như Thị Nhân, nhân là dùng nội kết đời trước. (7) Như Thị Duyên, duyên là dùng trợ giúp phân tán. (8) Như Thị Quả, quả là dùng nội kết tạo thành. (9) Như Thị Báo, báo là chấp nhận báo thù. (10) Như Thị Bổn Mạt, bổn mạt là cứu cánh vân vân, dùng chín mục trên là như thị, là đều cứu cánh bình đẳng. Mười như thị đây đều không lìa khỏi tánh đầy đủ nguyên lý của nhất tâm tam quán: Không, Giả, Trung.

Ba ngàn các pháp đây, tức là một tâm niệm đầy đủ mười pháp giới, mười pháp giới trao đổi lẫn nhau liền thành một trăm pháp giới, mỗi giới có thế giới năm ấm (Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức), thế giới chúng sanh, thế giới quốc độ, thành ba trăm thế giới, mỗi giới có mười như thị, thì thành ba ngàn thế giới, tâm có giới tuyến như thế, tức đầy đủ ba ngàn các pháp, không phải là nhất tâm tại tiền, tất cả pháp tại hậu, cũng không phải là tất cả pháp tại tiền, nhất tâm tại hậu. Đã không phải tâm có thể sanh ba ngàn, cũng không phải có thể bao hàm cả ba ngàn. Tức tâm là tất cả pháp, tức tất cả pháp là tâm. Tâm sanh thì tất cả pháp sanh, tâm diệt thì tất cả pháp diệt, hai tâm và pháp như thế, không thể mở bày phân chia.

Cho nên yếu nhân của Tông Thiên Thai sử dụng tâm bất tư nghì (Tâm không thể nghĩ bàn), quán sát cảnh bất tư nghì, quán một tâm niệm là không, thì ba ngàn các pháp đều không; quán một niệm là giả, thì ba ngàn các pháp đều giả; quán một niệm là trung đạo, thì ba ngàn các pháp đều trung đạo. Một tâm niệm tức là không, tức là giả, tức là trung đạo. Thì ba ngàn các pháp cũng tức là không, cũng tức là giả, cũng tức là trung đạo. Tâm pháp không phải một, không phải ba, ba và một bất khả tư nghì.

Từ phương diện [Giả] mà phân tích, một tâm niệm khởi lên liền có ba thứ giả. (1) Pháp trần đối với ý căn sanh khởi tất cả pháp, tức là nhân thành giả. (2) Niệm trước diệt niệm sau sanh, thứ lớp không gián đoạn, tức tương tục giả. (3) Dùng tâm tương đối không phải tâm, biết có tâm đây, tức là tương đối giả. Dùng thân thể chánh báo xem thấy có ba giả. (1) Đời trước hành nghiệp, gá sanh nơi cha mẹ, tức là nhân thành giả. (2) Từ nơi thai tương tục, cuối cùng già yếu, tức là tương tục giả. (3) Dùng thân tương đối không phải thân, tức là tương đãi giả. Dùng thế giới y báo, xem thấy có ba giả. (1) Bốn vi trần thành cột trụ, tức là nhân thành giả. (2) Thời tiết cải biến, tức là tương tục giả. (3) Dùng cột trụ đối đãi không phải cột trụ, tức là tương đãi giả.

Thân tâm thế giới đã có ba giả, giả tức là không, không tức là giả, không giả không hai, là gọi trung đạo, Phật giáo thì dùngquán sát vũ trụ và sanh mạng đây tức là không, tức là giả, tức là trung đạo. Người quán sát như thế, thì gọi chánh quán, nếu người quán sát khác hơn, đó là tà quán.

Cổ Đức có nói: [ Nếu người biết được tâm, đại địa không tất đất, ba cõi không pháp riêng biệt, chỉ là một tâm tác dụng.] Đây là Phật giáo giải thích sự hình thành của vũ trụ vạn hữu.

Ngày 28. 04. 2021
Thích Thắng Hoan
Chùa Phật Quang
Trung Tâm Phiên Dịch và Trước Tác

Pages: 1 2 3 4 5 6