PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI NIỆM TỤNG NGHI QUỸ PHÁP

KINH SỐ 919

Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện, Tam tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

 

Phàm muốn niệm tụng Pháp Đà La Ni, trước cần phải ở nơi Tam Muội Mạn Đà La, thấy Thánh chúng được quán đảnh, biết Bổn Tôn, theo Thầy thọ được Tam Muội Da. Sau đó ở nơi sơn gian, nơi thanh tịnh, nơi tịnh thất, hoạ tượng Bổn Tôn Tôn Thắng Đà La Ni treo nơi vách phía Đông, Hành giả mặt xây về Đông đối trước tượng. Nơi chỗ niệm tụng, đào một huyệt sâu nửa khuỷu, trong đất nếu có ngói gạch xương cốt, lông tóc và các uế vật, cần nên bỏ đi. Nếu đất thiếu, cần lấy thêm đất đổ đầy huyệt, làm cho bằng phẳng, nếu đất dư đó là đất cát tường, dùng Cù ma di hòa đất sạch thành bùn, đắp tô trên mặt cho bằng phẳng, lại dùng Cù ma di hòa nước tụng Vô Năng thắng Đà La Ni 21 biến gia trì Cù ma di.

Vô Năng Thắng Chân ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm hổ rô hổ rô chiến nõa lị ma đẳng nghi sa bà ha”.

 

Gia trì xong, từ góc Đông Bắc, khởi đầu quanh theo bên phải mà đắp, dùng lá chè hoặc lá sen chà trên mặt cho láng đẹp, phía trên dùng bột màu trắng hòa nước, dùng dây chia ra làm chín vị. Mài bột Bạch đàn hương tô trên 9 vị.

Chín vị là: Trung ương Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), bên phải Bồ Tát Quán Tự Tại (Avalokiteśvara), phía sau Bồ Tát Quán Tự Tại là Bồ Tát Di Lặc (Maitreya), phía sau Phật Tỳ Lô Giá Na là Bồ Tát Hư Không Tạng (Ākāśa-garbha), bên trái Bồ Tát Hư Không Tạng là Bồ Tát Phổ Hiền (Saman-tabhadra), bên trái Phật Tỳ Lô Giá Na là Bồ Tát Kim Cang Thủ (Vajra-pāṇi), dưới Bồ Tát Kim Cang Thủ là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī), Phía trước Phật Tỳ Lô Giá Na là Bồ Tát Trừ Cái Chướng

(Sarva-nīvaraṇa-viṣkaṃbhin), bên phải Bồ Tát Trừ Cái Chướng là Bồ Tát Địa Tạng (Kṣiti-garbha) gồm đủ 9 Vị. Các Vị đều dùng Bạch đàn hương mà tô đắp, dùng để nghinh thỉnh các Ngài, trên treo trướng, lọng, bốn phía treo phướng. Bốn mặt Đạo tràng, sáng chiều dâng cúng cháo mè, trưa dâng cơm, bơ, bánh, đường, các thứ ăn uống, các thứ trái cây, bốn cửa để bốn lư hương, bốn góc để bốn bình sạch đựng đầy nước thơm, hoặc lá nhánh cây còn tươi để cúng dường. Bốn góc đốt bốn chén đèn bằng bơ. Trước đạo tràng, trước mặt nơi chỗ ngồi của Hành giả, để 2 chậu nước Ứ Già hương thủy, lấy vàng, bạc, đồng, sứ …v…v… loa (vỏ ốc tù và) hoặc lá mới sạch, các thứ khác không được. Nếu khi muốn đựng đồ ăn, cần phải rửa sạch các vật xong, để trên lư mà xông. Phía trong dùng Vô Năng Thắng Đà La Ni gia trì nước mà rải. Ở trong Đàn, theo bên phải lần lượt bố trí, sau đó trước Đàn để tì cước sàng tư, cách đất nửa khuỷu (bàn để ngồi) dùng cỏ tranh trải lên (mền nệm) để dùng làm chỗ ngồi.

Hành giả cần tắm gội (như trong Tô Tất Địa đã nói), hoặc dùng Pháp tắm gội, quán Pháp thật tướng để tắm gội, dầu Tại gia, Xuất gia đều giữ gìn luật nghi, không được khuyết phạm. Để làm Pháp tắm gội, mỗi ngày ba thời trước Phật phát lồ sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện, hồi hướng, hoặc dùng Thanh tịnh Chơn ngôn gia trì 7 biến để được thanh tịnh. Khi tắm gội, niệm tụng thời quán tất cả Pháp bản tánh bốn thanh tịnh, suy nghĩ như vậy tức tụng Tắm gội Chơn ngôn:

“Úm, ta phạ bà phạ, truật đà, ta phạ đạt ma, sa phạ bà phạ, truật độ hám” 

 

Mỗi ngày khi vào Đạo Tràng niệm tụng, nên định kỳ niệm tụng một thời, hai thời. Sáng sớm, hoàng hôn, nếu ba thời thì thêm giờ Ngọ, hoặc bốn thời như trong Du Dà nói, thêm nửa đêm. Nếu theo trong Pháp Tôn Thắng Đà La Ni Kinh này thì mỗi tháng ngày Rằm, trừ các nghiệp chướng tăng trưởng thọ mạng, cần tụng đủ ngàn biến, chứng được Xuất Thế Tam Ma Địa, được Bất vong Đà La Ni. Trong một ngày một đêm không ăn là trên hết, hoặc ăn Tam bạch thức (Sữa, lạc, cơm nếp), hoặc ăn cháo, hoặc như thường ăn bữa trưa là phẩm hạ. Phải mặc quần áo mới sạch, tâm luôn luôn nhớ niệm gìn giữ luật nghi, chơn ngôn. Mỗi khi vào Đạo tràng trì tụng, trước hai gối phải sát đất, đảnh lễ Phật Tỳ Lô Giá Na và tám Vị Bồ Tát, phát lồ sám hối, phát năm đại nguyện:

Một là chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Hai là phước trí vô biên thệ nguyện tập

Ba là Pháp môn vô biên thệ nguyện học

Bốn là Như Lai vô biên thệ nguyện sự

Năm là Vô Thượng Bồ Đề thệ nguyện thành.

 

_Ngồi kết già phu, dùng bột hương xoa tay, kết Tam Muội Da Ấn, tụng Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. A tam minh, đế rị tam minh, tam muội duệ, sa bà ha”

 

Chắp tay lại, thẳng hai ngón cái, ấn năm chỗ trán, vai trái, vai phải, tim, yết hầu, mỗi chỗ tụng Chân Ngôn một biến, gia trì xong, xả ấn nơi đảnh.

Do oai lực của Tam Muội Da Ấn Chân Ngôn hay tịnh Như Lai Địa, Ba La Mật đầy đủ, hay thành tựu Thế gian Xuất thế gian Tất Địa.

 

_Lại kết Pháp Giới Sanh Ấn Chân ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. đạt ra ma đà da, sa phạ bà phạ câu hám”

 

Hai tay hai ngón cái để trong lòng bàn tay, nắm lại thành quyền, thẳng hai ngón trỏ dựa bên nhau để từ trên đảnh xuống, từ từ xả ấn, tụng chú ba biến, quán tự thân đồng với Pháp giới, lìa các sắc tướng cũng như hư không.

 

_Lại kết Kim Cang Tát Đỏa Pháp Luân Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mạn đa phạ nhựt ra nẫm. Úm, phạ nhựt ra đạt ma câu hám”

Hai tay xoa ngược nhau, ngón cái trái để trong lòng bàn tay phải, ngón cái phải thẳng, tụng Chân ngôn ba biến, tự được tự thân như Kim Cang Tát Đỏa.

 

_Lại kết Kim Cang Giáp Mạo Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đa phạ nhựt ra nẫm. Úm, phạ nhựt ra ca phạ dã, hồng”

Hai tay chắp lại bộng giữa, hai ngón trỏ để nơi lưng hai ngón giữa, hai ngón cái hợp nhau ở nơi tiết giữa hai ngón giữa, gia trì năm chỗ, mỗi chỗ tụng một biến. Do sức gia trì tự thân thành Kim Cang Giáo Mạo, tất cả Thiên Ma không dám gần gũi.

 

_Lại kết Bất Động Tôn Ấn Chân ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà phạ nhựt ra nẫm. Chiến nõa, ma ha lô sái nõa, tát vãm tra da, hồng đát ra tra, hàm nam”

 

Hai tay ngón cái vịn móng ngón út và ngón vô danh, thẳng hai ngón giữa và hai ngón trỏ, tay trái là giáo, tay phải là đao, dùng đạo để vào trong giáo. Xoay bên trái để xua đuổi các Ma trong Đạo Tràng làm chướng nạn; xoay bên phải tám phương trên dưới là kết Giới. Sau đó tưởng trong Đạo tràng là núi Tu Di, trên đảnh núi tưởng lầu các bảy báu. Ở trong lầu các Như Lai Tỳ Lô Giá Na cùng 80 cu chi mười địa Bồ Tát Ma Ha Tát làm quyến thuộc đoanh vây chung quanh. Bốn cửa bốn góc có bốn Bồ Tát và tám cúng dường dùng làm Nội Ngoại Cúng Dường, quán tưởng dâng hiến rõ ràng phân minh.

 

_Lại kết Phụng Thỉnh Thánh Chúng Như Lai Câu Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Ác, tát phạ đát ra, bát ra để kha đế, đát tha nghiệt đương cu xá, mạo địa dã ra lị da, bạt rị bố ra ca, sa phạ ha”

 

Hai tay xoa bên trong, nắm lại thành quyền, ngón trỏ phải thẳng co lại như câu. Tụng ba biến, do oai lực Ấn Chân Ngôn, Chư Phật và Thánh chúng không bỏ bổn thệ, đều lại đầy đủ.

 

_Lại kết Phụng Hiến Tọa Ấn Chân Ngôn: “Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Ác”

 

Hai tay chắp lại trống giữa, hai ngón út, hai ngón cái hợp nhau, sáu ngón kia mở ra hơi co như hoa sen nở, tụng ba biến. Do oai lực Ấn Chân Ngôn, lưu xuất cán tòa báu như mây biển, dâng hiến Như Lai và Thánh chúng.

 

_Lại kết Phụng Hiến Ứ Già Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Nga nga nẵng, tam ma tam ma, sa phạ ha”

 

Dùng hai tay bưng đồ đựng nước ngang nơi trán, hồ quỳ tụng ba biến dâng hiến Ứ Già tẩy rửa Thánh chúng.

 

_Lại kết Phụng Hiến Đồ Hương Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Vi du đà, nghỉ độ nạp bà phạ dã, sa bà ha”

 

Tay phải thẳng lên, lòng bàn tay hướng ra ngoài, tay trái nắm cổ tay phải, tụng ba biến. Do Ấn Chân Ngôn oai lực, lưu xuất ra các hương xoa như mây biển, cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.

 

Lại kết Phụng hiến Hoa Man Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Ma ha muội đát rị dạ, tì dữu na nghiệt đế, sa bà ha”

 

Hai tay xoa bên trong, ngửa lòng bàn tay, hai ngón trỏ dựa nhau. Tụng 03 biến, do oai lực Ấn và Chân Ngôn lưu xuất các tràng hoa như mây biển cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.

 

Lại kết Phụng Hiến Thiêu Hương Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Đạt ma đà đát phạ nõa, tì ám nghiệt đế, sa bà hà”

 

Ngửa lòng hai bàn tay, ngón út, ngón vô danh, ngón giữa co lưng dựa nhau, tụng 03 biến. Do oai lực Ấn và Chân Ngôn, lưu xuất tất cả hương đốt như mây biển, cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.

 

Lại kết Hiến Ẩm Thực Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. A ra ra, ca ra, mạt lăng nại ni, mạt hê sa bà ha”

 

Hai tay trống lòng chắp lại như đồ vật, tụng 03 biến. Do oai lực Ấn Chân Ngôn, lưu xuất vô biên các món ăn uống như mây biển, cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.

 

Lại kết Phụng Hiến Đăng Minh Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Đát tha nghiệt đát tát, sa vỏng ra nĩnh, tát bà sa na, nga nga nẵng na rị dã, sa phạ ha”

 

Tay phải nắm thành quyền, thẳng ngón giữa, dùng ngón cái vịn tiết giữa ngón giữa, tụng 03 biến. Do oai lực Ấn Chân Ngôn, lưu xuất ra các đèn sáng như mây biển, cúng dường tất cả Như Lai và Thánh chúng.

 

Lại như Như Lai Đại Thừa Kinh có nói, nên quán tưởng tràng phan, bảo cái, y phục, anh lạc, dây lụa các vật cúng dường như mây biển đầy khắp cả Pháp Giới, dùng kệ chân thật mà ngợi khen rằng:

Sức công đức của con

Sức Như Lai gia trì

Sức của Pháp giới đây

Rộng cúng dường tất cả

 

Lại kết Hư Không Tạng Minh Phi Ấn Chân Ngôn:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Tát phạ tha khiếm, ô na nghiệt đế, sa võng ra, hê man, nga nga kiếm, sa bà ha”

 

Hai tay xoa nhau chắp lại phải đè trái, tụng 7 biến. Lại tưởng nơi tâm có một vành trăng sáng rỡ tròn đầy, rõ ràng. Trong vành trăng, tưởng chữ Khiếm (丈_ KHAṂ) màu trắng, phóng ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Tưởng thiệt tướng của chữ “Khiếm” là đồng hư không, xa lìa các sắc tướng, các chướng ngại. Ở trong nghĩa lý chân thật, tưởng tự thân là Bồ Tát Kim Cang Ba La Mật Phật Mẫu, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có chày Kim Cang năm chia, tay phải ngửa ra, kết ấn Thí Nguyện, đầu đội mão anh lạc, dung mạo Từ Bi như muốn cứu độ tất cả chúng sanh.

Tưởng như vậy xong, hai tay xoa nhau, bên ngoài nắm thành quyền, thẳng hai ngón giữa, đây là Kim Cang Ba La Mật Ấn. Dùng ấn gia trì 4 chỗ (tim, trán, yết hầu, đảnh), ấn xong, xả ấn, tụng Kim Cang Ba La Mật Chân Ngôn:

“Úm, tát đát phạ phạ nhựt ra, hồng”

 

Khi ấn bốn chỗ, mỗi chỗ tụng một biến, dùng ấn để nơi trán, tụng 3 biến, dùng Quán Đảnh.

 

Quán Đảnh xong mở Ấn ra, kết Kim Cang Quyền để sau đầu, tụng Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhật la tì sằn đa”

 

Tụng 3 biến, kết Ấn Bị Giáp, hai tay kết Kim Cang Quyền, thẳng ngón trỏ để nơi tim như mặc giáp, để nơi sau lưng, lại để nơi rún, eo, từ từ đến tim, hai vai, trên đầu, nơi cổ, trán, sau ót, hai tay đập thành ba tiếng, tụng Bị Giáp Chân Ngôn:

“Úm châm”

 

Lại vỗ tay, tụng Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra đổ sử da, hác”

Tưởng tự thân thành Bổn Tôn xong, chắp hai tay lại co hai ngón trỏ móng đụng nhau, dùng hai ngón cái đè trên đầu hai ngón trỏ, như đang khảy móng tay, lại tụng Tôn Thắng Đà La Ni:

“Nẵng mồ bà nga phạt đế

Đát lặc lộ chỉ dã

 

Bát ra để vĩ thỉ sắc tra dã

 

Bột đà da

Bà nga phạ đế

Đát nễ dã tha

Úm 

Vĩ thuật dà dã 

Tam ma 

Tam mãn đà phạ bà sa

 

Tát pha ra nõa

 

Nghiệt đế nga ha nẵng

Tát ra bà phạ thuật đệ

A tì tiên tả hàm

Tát nga đa

 

Phạ ra phạ ta nẵng

Mật lật đa tì lô kế

 

A ha ra a ha ra 

A dục tán đà ra ni

Thuật đà da thuật đà da, nga nga nẵng vĩ thuật đề

Ô sắc ni sa vĩ nhạ dã vĩ thuật đề

Sa ha sa ra ra thấp nhị

Tán tổ nhi đế tát phạ đát tha nghiệt đa

Địa sắc tra nẵng địa sắc sĩ đa mẫu nại lê

Phạ nhựt ra ca da

Tăng ha đát na thuật đệ

 

Tát phạ phạ ra nỏa thuật đệ

Bát ra để nễ tì đa dã a dục thuật đệ

 

Tam ma da địa sắc sĩ đế

 

Ma ni ma ni 

Đát lân đa bộ đa cu đê bạt lị thuật đề

Vĩ sa bố tra bột địa thuật đệ

Nhạ dã nhạ dã

Vĩ nhạ dã vĩ nhạ dã

Sa ma ra sa ma ra

Tát phạ bột đà địa sắt sỉ đa thuật đệ

Phạ nhựt lệ phạ nhựt ra nghiệt tì

Phạ nhựt lãm bà phạ đổ

Ma ma (tên …)

Tát phạ tát đát phạ nan tả ca dã vị thuật đệ

 

Tát phạ nghiệt đế bạt lị thuật đệ

 

Tát phạ đát tha nghiệt đa tam ma thấp phạ sa địa sắc sỉ đế

Bột đà bột đà

Mạo đà dã mạo đà dã

Tam mãn đa bạt lị thuật đệ

 

Tát phạ đát tha nghiệt đa địa sắc tra nẵng địa sắc sỉ đa

Ma ha mẫu nại lê sa bà ha”

Khi tụng chú, không lớn không nhỏ, không mau không chậm, một lòng quán Phật Tỳ Lô Giá Na rõ ràng, tụng chú 7 biến, xong xả ấn trên đảnh, lấy xâu Bồ Đề an trong lòng bàn tay, tụng Gia Trì Niệm Chân Chơn ngôn:

“Úm, vĩ lô tả nẵng ma la, sa phạ ha”

Tụng 7 biến xong đem để nơi đảnh, tay trái để nơi ngựcc, tay phải lần hạt, sau mỗi chữ “sa phạ ha” lại lần một hạt, niệm tụng 108 lần, cho đến ngàn lần.

Lại đem châu để trong lòng bàn tay, chắp tay lại đem để trên đảnh, phát các lời cầu nguyện, nguyện cho tất cả chúng sanh đều được như mình.

Sau lại kết Bổn Tôn Ấn, tụng 7 biến hoặc 3 biến.

Lại kết Kim Cang Ba La Mật Ấn

Lại kết Ngũ Cúng Dường Ấn cùng tụng Ngũ Cúng Dường Chân Ngôn để cúng dường như đã nói ở trước.

Lại kết Bất Động Tôn Ấn, tụng một biến, dùng Ấn xoay bên trái thành Giải Giới, bưng đồ Ứ Già dâng hiến cúng dường, kết Tam Muội Da Ấn để trên đảnh phụng tống. Tụng Tam Muội Da Chú ba biến, không giải Ấn, tụng Kim Cang Giải Thoát Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra mộ khất xoa, sam”

Phụng tống Chư Phật, Thánh chúng như trên. Lễ bái, phát lộ sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện hồi hướng xong ra khỏi Đạo tràng. Sau đó ở nơi thanh tịnh đọc tụng Kinh diển Đại Thừa, quán đệ nhất Nghĩa Đế, dùng phước này hồi hướng chỗ cầu xin giúp mau thành Tất Địa.

Nếu làm Pháp Tức Tai, tạo Đàn tròn, mặt xây về hướng Bắc, tưởng các Thánh chúng màu trắng, các vật cúng dường trong Đàn đều màu trắng, mặc quần áo màu trắng, đốt Trầm Thủy Hương.

Nếu làm Pháp Tăng Trưởng, mặt xây về hướng Đông Bổn Tôn, vật cúng dường, tự thân y phục đều màu vàng, đốt Bạch Đàn Hương.

Nếu làm Pháp Hàng Phục, mặt xây về hướng Nam Bổn Tôn, vật cúng dường, y phục đều màu xanh, hoặc màu đen, thiêu An Tức Hương.

Nếu làm Pháp Kính Ái, mặt xây về hướng Tây, tuởng Bổn Tôn màu đỏ, đồ ẩm thực cúng dường, y phục đều màu đỏ, đốt Tô Hợp Hương”.

 

PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI KINH

PHÁP NGHI QUỸ NIỆM TỤNG

_Hết_

Tiết Đông chí Bính Tý 1996_ Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ