Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng kinh quyển 32, phần luận tập bộ toàn. Từ trang 508 đến trang 517. Thứ tự kinh văn số 1.659. Do Ngài Thiên (Thế) Thân Bồ Tát tạo. Đời Hậu Tần, nước Quy Tư, Ngài Tam Tạng Cưu Ma La Thập dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.
Tỳ Kheo Thích Như Điển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Đan Mạch, nhân khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 15, từ ngày 18 đến 28 tháng 7 năm 2003 – Phật lịch 2547.

 

Quyển Hạ

Tỳ Lê Gia Ba La Mật – Phẩm thứ 7

Vì sao mà Bồ Tát tu hành tinh tấn ? Tinh tấn có nghĩa là làm lợi mình lợi người, cho đến cả 2 cùng có lợi. Như thế gọi là tinh tấn. Tức hay trang nghiêm con đường Bồ Đề. Bồ Tát vì muốn cho chúng sanh, điều phục chúng sanh làm cho lìa khổ não qua sự tinh tấn. Kẻ tu tinh tấn là trong tất cả thời gian luôn luôn siêng tu tập phạm hạnh, xa rời sự lười biếng, chẳng buông lung. Ở nơi những việc khó khăn, không gây ra trở ngại. Tâm thường siêng năng cho đến cuối vẫn không lay chuyển. Đó có tên là Bồ Tát mới phát tâm tinh tấn. Tu tinh tấn là hay được thế gian và xuất thế gian ở vào thượng diệu pháp. Có tên là tự lợi, giáo hóa chúng sanh, làm cho chúng sanh siêng tu việc lành. Có tên là lợi tha. Khi đã được chánh quả bồ đề rồi, giáo hóa chúng sanh, làm cho chúng sanh đồng giống như mình, có tên là cùng lợi cả hai. Do tu tinh tấn mà chứng được những quả vị thanh tịnh. Lìa xa các cõi cho đến thành chánh giác. Có tên là con đường trang nghiêm của Bồ Đề.

Tinh tấn có 2 loại: Một là kẻ cầu vô thượng đạo. Hai là vì muốn giúp chúng sanh ra khỏi khổ mà khởi tâm tinh tấn. Bồ Tát thành tựu 10 niệm, cho đến có thể phát tâm khuyên hành tinh tấn. Thế nào là 10 niệm?

Một là niệm Phật vô lượng công đức.

Hai là niệm Pháp bất tư nghì giải thoát.

Ba là niệm Tăng thanh tịnh vô nhiễm.

Bốn là niệm Hạnh Đại Từ an lập chúng sanh.

Năm là niệm Hạnh Đại Bi cứu khổ chúng sanh.

Sáu là niệm Chánh Định lạc, khuyên vui tu thiện.

Bảy là niệm Già Định lạc, làm cho trở lại gốc.

Tám là niệm các Ngạ Quỷ đói khát, nóng bức.

Chín là niệm tất cả chúng sanh thọ nhận khổ lâu dài.

Mười là niệm các địa ngục chịu đau chịu hành hạ.

Bồ Tát suy nghĩ 10 niệm như thế. Cũng tức Tam Bảo ta đương tu tập, từ bi chánh định ta đương khuyến tấn. Già Định chúng sanh 3 ác đạo khổ, ta đương cứu giúp, như thế suy nghĩ chuyên niệm chẳng loạn. Ngày đêm siêng tu chẳng có nghỉ ngơi. Đó có tên là hay khởi chánh niệm tinh tấn.

Bồ Tát tinh tấn lại có 4 loại. Nghĩa là con đường tu hành Tứ Chánh Cần.

Việc ác chưa sanh đừng làm cho sanh.

Việc ác sanh rồi hãy lo đoạn trừ.

Việc lành chưa sanh làm cho sanh ra.

Việc lành sanh rồi làm cho tăng mãi.

Bồ Tát tu Tứ Chánh Cần như thế chẳng hề dừng nghỉ có tên là tinh tấn. Sự tinh tấn sẽ làm cho tất cả những não phiền đều bị thối lui. Tăng trưởng vô thượng bồ đề chánh nhơn. Bồ Tát nếu hay thọ tất cả thân tâm khổ nạn, vì muốn an lập các chúng sanh và làm cho chẳng lãng xao, nên có tên là tinh tấn. Bồ Tát lúc xa rời ác pháp rồi, giao du với sự ít siêng năng rồi sẽ tu tinh tấn. Tiếp theo đó tu tín thí nhẫn giới định huệ, từ bi, hỷ xả. Muốn làm đã làm và sẽ làm, cho đến tâm thường hay tinh tấn chẳng hối hận. Ở nơi thiện pháp mà cứu khổ chúng sanh, như cứu lửa cháy, tâm không thối lui. Đó có tên là tinh tấn.

Bồ Tát chẳng nghĩ đến thân mạng, chỉ vì muốn cứu khổ chúng sanh để hộ trì chánh pháp, cho nên yêu quý chẳng bỏ oai nghi thường tu thiện pháp. Khi tu thiện pháp thì tâm chẳng giải đãi. Khi mất thân nầy rồi chẳng bỏ các pháp. Cho nên có tên là Bồ Tát tu Bồ Đề đạo khuyên hành tinh tấn.

Dải đãy là người chẳng thể một lúc bố thí cho tất cả chúng sanh. Không thể giữ giới nhẫn để làm cho tất cả khổ, thường hành tinh tấn nhiếp tâm và niệm định, phân biệt thiện ác. Cho nên có tên gọi là sáu Ba La Mật. Do tinh tấn mà sinh tăng trưởng. Lúc Bồ Tát Ma Ha Tát tinh tấn tăng trưởng, tức có thể làm cho chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Bồ Tát phát đại Trang Nghiêm mà khởi tinh tấn lại có 4 điều :

Một là phát đại trang nghiêm.

Hai là chứa nhóm mạnh mẽ.

Ba là tu các thiện căn.

Bốn là giáo hóa các chúng sanh.

Vì sao mà Bồ Tát phát đại trang nghiêm ? Ở nơi sanh tử tâm hay nhẫn nại chẳng kể kiếp số. Ở nơi vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha hằng hà sa A Tăng Kỳ kiếp sẽ thành Phật đạo tâm chẳng lùi sụt. Cho nên có tên chẳng lười, luôn siêng tinh tấn trang nghiêm.

Bồ Tát chứa nhóm mạnh mẽ mà khởi siêng năng. Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới mà đầy cả lửa dữ. Vì thấy Phật mà làm cho nghe pháp. Vì an ổn chúng sanh mà ở nơi thiện pháp. Do thế từ trong lửa ấy mà qua đi để điều phục chúng sanh. Tâm lành an trú nơi lòng đại bi; nên có tên là dõng mãnh tinh tấn.

Bồ Tát tu tập thiện căn mà khởi tinh tấn. Từ đó mà phát khởi tất cả thiện căn, cho đến hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Vì muốn thành tựu tất cả trí vậy. Nên có tên là tu tập thiện căn tinh tấn.

Bồ Tát giáo hóa chúng sanh mà khởi tâm tinh tấn. Tánh của chúng sanh khó thể đo được, nhiều như cảnh giới của hư không, Bồ Tát lập thệ, ta nay độ hết không trừ một ai. Vì muốn hóa độ khuyên hành tinh tấn. Nên có tên là giáo hóa tinh tấn.

Tóm lại Bồ Tát tu trợ đạo công đức giúp cho vô thượng trí huệ. Tu tập Phật Pháp mà khởi tinh tấn. Chư Phật công đức vô lượng vô biên. Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại trang nghiêm để thực hành tinh tấn cũng lại như thế không có cuối cùng. Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành tinh tấn chẳng muốn lìa tâm cứu khổ chúng sanh. Nên có tên là Tỳ Lê Gia Ba La Mật.

Thiền Na Ba La Mật – Phẩm thứ 8

Vì sao mà Bồ Tát tu tập thiền định ? Thiền định là vì lợi mình lợi người và làm cho cả 2 đều lợi. Như thế gọi là Thiền Định. Tức hay làm con đường trang nghiêm cho sự giác ngộ. Bồ Tát vì muốn điều phục tất cả chúng sanh làm cho lìa khổ não mà tu tập thiền định. Kẻ tu thiền định hay nhiếp tâm làm lành. Tất cả các vọng tưởng làm cho chẳng khơi dậy. Đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng chú tâm. Nghịch thuận quan sát, hơi thở lên xuống ra vào, ngực lưng qua lại an bang sổ tức. Cho nên có tên là Bồ Tát sơ tu định tâm, tu thiền vậy. Chẳng thọ giữ tâm ác, thường hay vui vẻ; nên có tên là tự lợi, giáo hóa chúng sanh làm cho chúng sanh chánh niệm; nên có tên là lợi tha. Cho đến tu hành thanh tịnh tam muội, lìa ác thường hay quán sát. Hóa độ chúng sanh làm cho cùng lợi lạc như mình. Có tên là đều cùng có lợi. Do tu thiền định, được chứng tám giải thoát cho đến Thủ Lăng Nghiêm Kim Cang Tam Muội. Đó có tên là con đường trang nghiêm của Bồ Tát. Thiền định do 3 pháp ấy sanh.

Sao gọi là 3 ? Một là từ trí huệ của nghe, hai là từ trí huệ của sự suy nghĩ và ba là từ trí huệ của sự tu. Từ 3 pháp nầy dần dần sinh ra tất cả Tam Muội.

Thế nào gọi là văn huệ ?

Như khi nghe pháp tâm thường ưa thích, liền suy nghĩ rằng, vô ngại giải thoát v.v… của các pháp; những người đa văn đều được giải thoát. Khi nhớ nghĩ rồi, đối với tất cả pháp, luôn luôn gia tâm tinh tấn, ngày đêm vui nghe giáo pháp, không có biết chán. Đó có tên là văn huệ.

Thế nào là tư huệ ?

Suy nghĩ quan sát tất cả các pháp hữu vi là tướng như thật. Nhưng vì vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, niệm niệm sanh diệt, chẳng lâu mất mát, làm cho chúng sanh lo rầu khổ não giận yêu làm gốc. Chính do nơi đây là gốc mồi lửa của tham sân si, làm tăng trưởng ở đời sau khổ não rất lớn. Vô hữu thật tánh dụ như sự huyễn hóa. Khi thấy như thế rồi, đối với tất cả pháp hữu vi liền sanh tâm xa lìa. Chuyển lại siêng năng vui với trí huệ Phật. Tư duy đến trí huệ của Như Lai, bất khả tư nghì, không thể xưng đếm. Có thế lực lớn, chẳng ai có thể hơn được. Hay được vô úy an ổn đến nơi thành lớn chẳng thể trở lại. Hay cứu vô lượng khổ não chúng sanh. Như thế biết thấy được Phật vô lượng trí. Thấy các pháp hữu vi rất nhiều khổ não. Chí nguyện muốn cầu vô thượng Đại Thừa. Đó có tên là tư huệ.

Thế nào là tu huệ ?

Từ lúc quán bạch cốt đến khi thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều có tên là tu huệ. Lìa sự ham muốn của các pháp bất thiện. Có giác có quán, lìa sanh hỉ lạc nhập vào sơ thiền. Sau khi quán xong, tâm hay thanh tịnh ở yên một nơi. Không giác, không quán định, sanh hỉ lạc, vào nhị thiền. Sau khi lìa hỉ rồi lại hành xả. Tâm niệm an ổn, trí huệ thân tâm thọ đều an lạc. Các bậc hiền thánh hay nói hay xả. Thường hay nhớ nghĩ đến điều vui, nhập vào tam thiền. Dứt khổ dứt vui rồi. Đầu tiên diệt lo sợ và vui tươi, chẳng khổ chẳng vui, hành xả niệm tịnh, vào cảnh tứ thiền. Qua khỏi tất cả các sắc tướng. Diệt tất cả các tướng đối đãi, không nhớ nghĩ đến tất cả các tướng khác nữa. Biết vô biên xứ đều không. Tức vào hư vô, xứ vô sắc định. Qua khỏi các tướng hư không rồi, biết được tất cả thức, tức vào trong vô sắc định thức. Qua khỏi tất cả thức tướng rồi, biết chẳng sở hữu, tức nhập vô sở hữu, vô sắc định. Qua tất cả vô sở hữu xứ rồi, biết được chẳng hữu tướng, chẳng vô tưởng, an ổn tức nhập vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ. Lại tùy thuận vào pháp hành mà chẳng đắm vào niềm vui. Cầu vô thượng thừa thành tối chánh giác. Đó có tên là tu huệ.

Bồ Tát từ nơi văn tư tu huệ mà tinh tấn nhiếp tâm, tức hay thành tựu thông minh thiền na Tam Muội Ba La Mật Đa.

Lại nữa, Bồ Tát tu định lại có 10 pháp hành, chẳng cùng với Thanh Văn Bích Chi Phật. Thế nào là mười ?

Một là tu định chẳng có cái ta. Đầy đủ Thiền Định của Như Lai.

Hai là tu định không đắm trước mùi vị. Xa rời tâm nhiễm ô. Lại chẳng cầu âm nhạc.

Ba là tu định cùng với các nghiệp được thông. Vì biết chúng sanh các tâm sở hành.

Bốn là tu định vì biết tâm chúng sanh, độ thoát tất cả chúng sanh vậy.

Năm là tu định làm việc từ bi, dứt bỏ tất cả những phiền não của chúng sanh.

Sáu là tu định, các thiền tam muội cùng với các bậc thiện tri thức vào ra nơi 3 cõi.

Bảy là tu định thường được tự tại, đầy đủ tất cả các thiện pháp.

Tám là tu định tâm nầy yên tĩnh, qua khỏi các thiền của nhị thừa vào cõi Tam Muội.

Chín là tu định thường vào trí huệ qua các thế gian đến bờ giác ngộ.

Mười là tu định hay cùng chánh pháp, thiệu long Tam Bảo, làm cho không dứt đoạn.

Những định như thế không thể cùng với Thanh Văn Bích Chi Phật mà có. Lại nữa, vì biết tất cả chúng sanh có tâm phiền não cho nên tu tập các pháp thiền định để trợ thành nơi nương tựa của tâm. Làm cho thiền định nầy ở tâm bình đẳng. Đó có tên là định và những định như thế. Có nghĩa là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác. Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác là chúng sanh. Chúng sanh là các pháp. Vào được các pháp nầy thì gọi là định.

Lại nữa, Bồ Tát thuận theo thế gian mà làm; nhưng không bị nhiễm ô nơi thế. Xa đời bằng tám pháp và mất đi tất cả sự nối kết, xa rời vui náo nhiệt mà ở nơi vắng vẻ, Bồ Tát như thế là tu hành thiền định. Tâm an ổn ở yên, lìa thế gian mà làm việc ấy.

Lại nữa, Bồ Tát tu định lại được biết đầy đủ tất cả phương tiện trí huệ. Thế nào gọi là thông ? Thế nào gọi là trí ? Nếu thấy sắc tướng, nếu nghe âm thanh, nếu biết tâm kẻ khác, hoặc nhớ về quá khứ; hoặc hay đến tận thế giới của chư Phật; có nghĩa là thông. Nếu biết sắc tức pháp tánh, giải rõ âm thanh nơi tâm làm. Tánh tướng vắng lặng 3 đời bình đẳng. Biết thế giới của chư Phật đồng với tướng của hư không mà không thể diệt hết. Đó có tên là trí.

Thế nào gọi là phương tiện ? Thế nào là huệ ? Khi vào thiền định sanh đại từ bi, chẳng rời thệ nguyện, tâm như kim cang, quán thế giới chư Phật, trang nghiêm Bồ Đề Đạo Tràng; nên có tên là phương tiện. Tâm nầy vĩnh viễn yên lặng không có tu, không có chúng sanh, suy nghĩ bản tánh của các pháp chẳng loạn. Thấy thế giới của chư Phật đồng với hư không. Quán sát sự trang nghiêm giống như tịch diệt. Đó có tên là huệ; có tên là Bồ Tát tu hành thiền định, thông trí phương tiện huệ sai biệt vậy. Bốn việc làm đầy đủ, gần đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành thiền định chẳng còn ác tâm, vì pháp bất động. Đây có nghĩa là đầy đủ Thiền Na Ba La Mật.

Bát nhã ba la mật – Phẩm thứ 9

Bồ Tát tu tập trí huệ như thế nào ? Trí huệ nếu làm tự lợi lợi tha và cho đến cả hai đầy đủ. Như thế gọi là trí huệ. Tức hay trang nghiêm con đường giác ngộ. Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sanh làm cho chúng sanh lìa những khổ não tu tập trí huệ. Kẻ tu trí huệ tức học tất cả mọi việc của thế gian. Xả bỏ tham sân si, kiến lập từ tâm, gần gũi làm lợi cho tất cả chúng sanh, thường hay cứu giúp, chỉ bày thân cận. Hay phân biệt nói chánh đạo tà đạo và quả báo thiện ác. Đây có tên là Bồ Tát có tâm sơ trí tuệ. Tu trí tuệ rồi, xa lìa vô minh, trừ phiền não chướng và trí huệ chướng. Có tên là tự lợi. Giáo hóa tất cả chúng sanh làm cho được điều phục, có tên là lợi tha và tu như thế để cầu vô thượng Bồ Đề.

Giáo hóa cho chúng sanh làm cho giống như mình; nên có tên là đều cùng lợi lạc. Do tu trí huệ liền đắc sơ địa cho đến Tát Bà nhược trí. Đó có tên là trang nghiêm con đường giác ngộ.

Bồ Tát tu hành trí tuệ có 20 tâm dần dần tạo thành. Thế nào là 20 ?

Hay phát tâm lành thân cận với những người có tâm thiện.

Xa rời kiêu mạn chẳng có tâm buông lung.

Tùy thuận dạy dỗ, có tâm vui nghe giáo pháp.

Nghe pháp chẳng nhàm hay có tâm tư duy.

Hành bốn phạm hạnh, tu tâm chánh trí.

Quán hạnh bất tịnh sinh tâm xa lìa.

Quán 4 Thánh đế 16 Thánh tâm.

Quán 12 nhân duyên tu tâm minh huệ.

Nghe những Ba La Mật có tâm nhớ muốn tu tập.

Quán tâm vô thường, khổ, vô ngã, tịch diệt.

Quán tâm không, vô tướng, vô nguyện, vô tác.

Quán tâm về các ấm, nhập và nhiều nỗi lo rầu.

Hàng phục phiền não có tâm phỉ báng chư Tăng.

Giúp cho pháp lành có tâm hộ trì tăng.

Hay chế phục pháp ác, có tâm trừ diệt.

Tu tập chánh pháp làm cho tăng trưởng tâm rộng rãi.

Tuy tu nhị thừa thường có tâm xả ly.

Nghe đến Bồ Tát hay có tâm vui vẻ phụng hành.

Tự lợi lợi tha tùy thuận có tâm tăng tiến các thiện nghiệp.

Giữ hạnh chơn thật, có tâm cầu tất cả Phật Pháp.

Lại nữa, Bồ Tát tu hành trí tuệ lại có tâm tư duy 10 pháp lành, không thể sánh cùng với Thinh Văn Bích Chi Phật được. Thế nào là 10?

Tư duy phân biệt định tuệ căn bản.

Suy nghĩ chẳng xả đoạn thường 2 loại biên kiến.

Suy nghĩ về nhơn duyên sanh khởi các pháp.

Suy nghĩ về chẳng có chúng sanh, ta người, thọ mạng.

Suy nghĩ về chẳng có pháp ở 3 đời đến đi ở lại.

Suy nghĩ về chẳng phát nguyện làm mà đoạn lìa nhơn quả.

Suy nghĩ về pháp không mà trồng thiện căn chẳng lười biếng.

Suy nghĩ về vô tướng mà độ chúng sanh chẳng bỏ.

Suy nghĩ về vô nguyện mà cầu giác ngộ chẳng lìa.

Suy nghĩ về vô tác mà hiện thọ thân chẳng bỏ.

Lại nữa, Bồ Tát lại có 12 thiện nhập pháp môn. Thế nào là 12 ?

Lành vào chỗ không Tam Muội mà chẳng thấy chứng.

Lành vào chỗ thiền Tam Muội mà chẳng tùy theo thiền để sanh.

Lành vào các thông trí mà chẳng chứng pháp vô lậu.

Lành vào pháp nội quán mà chẳng chứng quyết định.

Lành vào quán tất cả chúng sanh không tịnh mà chẳng bỏ đại từ.

Lành vào tất cả chúng sanh vô ngã mà chẳng bỏ đại bi.

Lành vào nơi ác thú mà các nghiệp chẳng sanh.

Lành vào sự ly dục mà chẳng chứng pháp chẳng lìa.

Lành vào nơi xả muốn vui, mà chẳng xả pháp vui.

Lành vào bỏ tất cả hý luận của sự biết mà bỏ tất cả phương tiện của các quán.

Lành vào tư lương hữu vi pháp nhiều hoạn nạn mà chẳng bỏ pháp hữu vi.

Lành vào vô vi pháp thanh tịnh xa rời mà chẳng ở nơi vô vi.

Bồ Tát hay tu tất cả thiện nhập pháp môn, tức có thể giải rõ 3 đời về không, chẳng sở hữu. Nếu quán sát như vậy. Quán xem 3 đời đều không trí huệ lực. Nếu nơi 3 đời chư Phật hay trồng vô lượng công đức tất phải hồi hướng đến vô thượng giác ngộ. Có tên là Bồ Tát hay quán 3 đời phương tiện.

Lại nữa, tuy thấy pháp quá khứ hết cho đến vị lai mà thường tu thiện, tinh tấn chẳng lười biếng. Quán pháp vị lai tuy không sanh mà chẳng xa rời tinh tấn nguyện hướng Bồ Đề. Quán pháp hiện tại tuy niệm niệm diệt; nhưng tâm nầy chẳng quên phát thú Bồ Đề. Đây có tên là Bồ Tát quán phương tiện ba đời. Quá khứ qua rồi cho đến vị lai chưa sanh và hiện tại thì chẳng trụ. Tuy quán tâm như thế từng hơi thở sanh diệt tan biến mà hay sanh xả vui nhóm lành để làm pháp trợ lực cho giác ngộ. Đây có tên là Bồ Tát quán 3 đời phương tiện.

Lại nữa, Bồ Tát quán tất cả thiện bất thiện, chẳng có ta, có ta, chẳng thật, không, chẳng không, thế đế, chơn đế, chánh định, tà định, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, pháp đen, pháp trắng, sanh tử Niết Bàn. Như pháp giới tánh, một tướng, chẳng có tướng trong ấy chẳng có pháp có tên là vô tướng. Lại cũng chẳng có pháp gọi là vô tướng. Cho nên có tên là tất cả pháp ấn chẳng thể hoại ấn. Ở nơi ấn nầy lại vô ấn tướng; nên có tên là chơn thật trí huệ phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, phát Bồ Đề tâm Bồ Tát Ma Ha Tát. Nên học như vậy; nên hành như vậy. Những kẻ thực hành như thế tức gần đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành trí huệ, tâm chẳng chứng hành, pháp tánh thanh tịnh vậy. Cho nên đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật.

Như thật pháp môn – Phẩm thứ 10

Nếu có người trai lành gái tốt tu tập 6 Ba La Mật cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thì muốn xa lìa 7 pháp. Thế nào là 7 ?

Một là lìa ác tri thức. Kẻ ác tri thức thường hay dạy người xa rời niềm tin muốn cầu tinh tấn tu tập.

Hai là xa rời nữ sắc, đắm say sắc dục, đẩy vào thói quen người đời mà hay chấp chặt.

Ba là lìa các ác giác, tự xem hình dung tham chứa ái nặng, đắm say bảo hộ, giữ gìn lâu dài.

Bốn là lìa sân si ngã mạng tật đố, làm cho khởi lên sự tranh tụng hỗn loạn tâm lành.

Năm là xa lìa sự buông lung, kiêu mạn, giải đãi tự ty, thấp hèn khinh chê kẻ khác.

Sáu là xa lìa sách vở của ngoại đạo cho đến những văn chương ngôn từ trau chuốt thế tục những gì không phải của Phật nói không nên tán dương.

Bảy là chẳng nên thân cận tà kiến ác kiến.

Đây là 7 pháp phải nên xa rời. Như Lai nói rằng chẳng thấy có pháp nào làm nhiễm chứng Phật đạo như 7 pháp nầy nên Bồ Tát phải nên xa rời. Nếu muốn chứng được vô thượng Bồ Đề thì phải tu bảy pháp. Thế nào là bảy ?

Một là Bồ Tát hãy nên thân cận với thiện tri thức, kẻ thiện tri thức y nơi chư Phật và chư Bồ Tát Thanh Văn, người… hay làm cho Bồ Tát nhiễm vào pháp tạng của Ba La Mật. Đó là Bồ Tát thiện tri thức vậy.

Hai là Bồ Tát thường hay thân cận với người xuất gia lìa nữ sắc và các sự quyến rủ. Không cùng người thế để cùng làm việc.

Ba là các Bồ Tát nên phải tự xem hình như đất thối hay sinh thối tha, gió lạnh máu nóng chẳng gì tham đắm. Ngày thường thấy chết mà hay suy nghĩ xa rời, tinh tấn tu đạo.

Bốn là Bồ Tát nên thường hành hòa nhẫn cung kính nhu thuận, lại hay khuyến hóa tha nhơn làm cho họ ở nơi nhẫn.

Năm là Bồ Tát nên tu tập tinh tấn thường sanh xấu hổ, cung phụng sư trưởng, gần gũi kẻ nghèo. Thấy người khổ sở mà hay giúp đỡ.

Sáu là Bồ Tát nên tu tập phương đẳng Đại Thừa các Tạng Bồ Tát; những gì Phật xưng dương, nên thọ trì và tán tụng.

Bảy là Bồ Tát phải nên thân cận tu tập đệ nhất nghĩa đế hiểu rõ thật tướng, nhất tướng, vô tướng; nếu các Bồ Tát muốn rời bỏ để chứng được vô thượng Bồ Đề thì nên thân cận với bảy pháp như thế.

Lại nữa, nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì ở nơi vô lượng A Tăng Kỳ kiếp tu tập từ bi hỷ xả bố thí trì giới nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ thì phải biết rằng người đó chẳng lìa sanh tử mà hướng đến Bồ Đề. Vì sao vậy ? Có tâm được đắc và được thấy. Nơi các ấm thấy vào, thấy ta, thấy người, thấy chúng sanh, thấy thọ mệnh, thấy từ bi hỷ xả, thí giới, nhẫn, tiến, định, huệ v.v…

Nói tóm lại, thấy Phật Pháp Tăng cho đến thấy Niết Bàn, như vậy có thấy sở đắc tức thị có tâm chấp trước. Kẻ chấp trước ấy có tên là tà kiến. Vì sao vậy ? Vì kẻ tà kiến bị luân chuyển trong tam giới, chẳng thể nào ra và những kẻ chấp trước khác cũng lại như vậy. Cũng chẳng ra khỏi. Cuối cùng chẳng thể chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nếu có người phát tâm Bồ Đề mà hay quan sát tâm nầy là không tướng thì tâm nầy như thế nào ? Sao gọi là không tướng ?

Tâm được có tên là ý thức tức là thức ấm, ý nhập vào cảnh giới của ý. Kẻ tâm không tướng là tâm không có tướng của tâm lại cũng chẳng có kẻ tạo nên. Vì sao vậy ? Nghĩa là tâm có tướng không chẳng có kẻ làm nên; chẳng có ai bảo làm. Nếu không có người tạo nên tức chẳng có tướng tạo nên. Nếu Bồ Tát hiểu rõ như thế thì nơi tất cả các pháp tức chẳng chấp trước. Khi không chấp trước thì thiện ác đều chẳng có quả báo.

Tu tập lòng từ thì chẳng có ngã.

Tu tập lòng bi thì chẳng có chúng sanh.

Tu tập lòng hỷ thì chẳng có số mệnh.

Tu tập lòng xả thì chẳng có người.

Tuy hành bố thí; nhưng chẳng thấy vật bố thí.

Tuy hành trì giới nhưng chẳng thấy có kẻ tịnh tâm.

Tuy hành nhẫn nhục nhưng chẳng thấy có chúng sanh.

Tuy hành tinh tấn nhưng chẳng lìa tâm ham.

Tuy hành thiền định nhưng chẳng trừ tâm ác.

Tuy hành trí huệ nhưng chẳng có chỗ hành.

Ở nơi tất cả các duyên đều là trí huệ cả mà chẳng đắm vào trí huệ, cũng chẳng chứng được trí huệ, chẳng thấy trí huệ. Kẻ thực hành như thế tu hành trí huệ mà cũng chẳng tu, lại chẳng phải tu. Vì hóa độ chúng sanh mà hiện hành lục độ mà vào nơi thanh tịnh. Hành giả cứ tu tâm nầy lành như thế. Ở nơi mỗi niệm đều hướng về các căn lành phước đức quả báo vô lượng vô biên. Trăm ngàn vạn ức A Tăng Kỳ kiếp bất khả cùng tận, tự nhiên chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Phẩm không, vô tướng – Phẩm thứ 11

Khi xưa Phật ở tại Già Lan Đà Trúc Lâm cùng đại chúng tập họp rất đông. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn tuyên chánh pháp nói với đại chúng rằng: Như Lai đã nói các pháp không tánh, không và không chỗ có, tất cả thế gian đều khó tin hiểu. Vì sao thế?

Sắc không có hình tướng khó giải, thọ tưởng hành thức cũng chẳng nối kết nên khó giải. Sắc không có tướng, lìa các tướng. Thọ tưởng hành thức vô tướng, lìa các tướng. Sắc không niệm, lìa sự nhớ nghĩ. Thọ tưởng hành thức vô niệm, lìa các nhớ nghĩ. Mắt với màu, tai với nghe, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với chạm, ý với pháp cũng lại như thế. Chẳng nhận chẳng xả, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng đến, chẳng đi, chẳng trước, chẳng sau, chẳng tối, chẳng sáng, chẳng ngu, chẳng trí.

Chẳng phải bờ bên nầy mà cũng chẳng phải bờ bên kia mà cũng chẳng phải ở giữa dòng. Đó có tên là không nối kết. Không nối kết là không. Không có tên là vô tướng. Vô tướng lại không; nên có tên là không.

Không gọi là vô niệm, vô niệm lại không; nên tên là không. Không niệm cũng là không; nên có tên là không. Ở nơi không, không có thiện không có ác cho đến cũng không có tướng không. Cho nên gọi là không.

Nếu Bồ Tát biết ấm giới tánh vào như thế, tức chẳng dính vào thủ. Nên gọi là pháp nhẫn. Bồ Tát nhẫn như thế rồi, được thọ ký nhẫn.

Nầy các đệ tử ! dụ như Bồ Tát quý kính kinh sách như hư không, tức sẽ viết 12 bộ kinh của Như Lai. Kinh từ trong vô lượng kiếp khi Phật Pháp mất rồi, kẻ cầu pháp chẳng có cái thấy nghe. Chúng sanh điên đảo tạo ác rất nhiều lại có nơi khác có người trí tuệ thương giúp chúng sanh rộng cầu Phật Pháp, đi đến chỗ đó thấy chữ nơi không trung, lời lẽ phân minh tức liền hiểu rõ. Đọc tụng giữ gìn như thế mà làm. Rộng nói phân biệt làm lợi ích cho chúng sanh. Kinh sách không có như thế, kẻ biết chữ không như thế có thể nghĩ bàn chăng ? để mà được tuyên truyền tu tập thọ trì, dẫn dắt chúng sanh làm cho lìa khỏi sự ràng buộc.

Nầy chư Phật Tử ! Như Lai nói rằng: Ở một kiếp quá khứ nọ khi cầu Bồ Tát đạo, được gặp 33 ức 9 vạn 8 ngàn chư Phật. Lúc ấy tất cả đều làm Chuyển Luân Thánh Vương và tất cả đều vui đầy đủ, cúng dường chư Phật và các vị đệ tử cho đến được hay không được thọ ký cho đến về sau có thể gặp 8 vạn 4 ngàn ức 9 vạn Bích Chi Phật, lại cũng có tứ sự cúng dường đầy đủ. Từ trước đến sau đều gặp 6 trăm 20 vạn một ngàn 2 trăm 61 Phật. Lúc ấy tất cả đều làm Chuyển Luân Thánh Vương và tất cả đều vui vẻ cúng dường đầy đủ. Sau khi chư Phật diệt độ rồi xây tháp bảy báu cúng dường xá lợi. Khi Phật đời sau ra đời phụng nghinh khuyến thỉnh chuyển bánh xe pháp, cúng dường như vậy cho đến trăm ngàn vạn ức chư Phật. Các Đức Như Lai đó đều ở nơi pháp không mà nói các pháp tướng. Sau khi chứng đắc rồi lại chẳng thọ ký, như thế chuyển pháp cho đến được gặp Phật Nhiên Đăng ra đời, thấy Phật nghe pháp tức được tất cả vô sanh pháp nhẫn. Chứng được pháp nhẫn nầy rồi và được thọ ký. Phật Nhiên Đăng từ nơi pháp không mà nói các pháp tướng, độ thoát vô lượng trăm ngàn chúng sanh. Thế mà chẳng nói cũng chẳng độ ai. Mâu Ni Thế Tôn vì đời xuất hiện, ở nơi pháp không nói thành văn tự, chỉ giáo lợi lạc cho kẻ thọ trì; nhưng mà chẳng chỉ cũng chẳng có kẻ thọ trì. Từ những pháp nầy tánh tướng đều không. Cả sách vở lẫn sự hiểu biết đều không. Kẻ nói cũng không, kẻ lý giải cũng không. Từ bổn lai không có đến vị lai cũng không, hiện tại cũng lại không, mà chư Bồ Tát chứa nhóm nhiều điều lành làm phương tiện vậy. Siêng năng chẳng giải đãi là những công đức thành tựu viên mãn, chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Điều nầy thật khó có thể hiểu được. Từ nơi pháp không nói các pháp tướng, từ nơi không có nói pháp có được. Những việc như thế cho đến cảnh giới của chư Phật, dùng vô lượng trí cho đến có thể giải thích được, khó thể tính đếm cũng phải nên biết.

Khi Bồ Tát mới phát ý thành tâm kính ngưỡng yêu mến giác ngộ tin lời Phật dần dần có thể chứng nhập. Vì sao mà tin ?

Tin qua Tứ Đế trừ các phiền não vọng kiến kết chặt với A La Hán.

Tin qua thập nhị nhân duyên diệt trừ vô minh sanh khởi các hành được chứng Bích Chi Phật.

Tin tu tứ vô lượng tâm, lục Ba La Mật được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề; nên gọi là tin nhẫn.

Chúng sanh ở nơi vô thỉ sanh tử giữ tướng chấp trước chẳng thấy pháp tánh. Nay trước quan sát tự thân ngũ ấm của chúng sanh là không có thật. Ở trong ấy không có ngã, không có chúng sanh. Vì sao vậy ?

Nếu mà có cái ta thì ta phải tự tại, mà chúng sanh thì thường hay bị sanh lão bệnh tử xâm hại chẳng được tự tại.

Nên biết là vô ngã. Vô ngã tức không có chủ. Không có chủ tức không có người nhận. Như thế là pháp tánh thanh tịnh như thật thường trụ. Quán sát như thế cho đến rốt ráo có tên là thuận nhẫn. Bồ Tát tu tín thuận nhẫn rồi, chẳng bao lâu sẽ thành tối thượng pháp nhẫn.

Công đức trì – Phẩm thứ 12

Bồ Tát đã đầy đủ tu vô tướng tâm rồi mà tâm chưa ở nơi làm việc thì đó là Bồ Tát ở nơi các nghiệp tướng biết mà làm vậy. Vì tu thiện căn cầu giác ngộ nên chẳng bỏ pháp hữu vi. Vì các chúng sanh mà tu đại bi, lại chẳng trụ nơi vô vi. Vì tất cả Phật chơn diệu trí mà chẳng lìa sanh tử. Vì độ vô biên chúng sanh làm nhiều việc chẳng vào ở nơi Niết Bàn. Nên gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát tâm sâu cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Nầy Phật Tử ! Bồ Tát thành tựu 10 pháp cho đến chẳng thoái thất vô thượng Bồ Đề. Thế nào là 10 ?

Một là Bồ Tát sâu phát tâm vô thượng bồ đề giáo hóa chúng sanh lại làm cho phát tâm.

Hai là thường vui thấy Phật rồi lại hay đem đồ trân quý phụng cúng dường, sâu trồng các căn lành.

Ba là vì cầu pháp mà có tâm tôn kính cúng dường pháp sư để nghe pháp không nhàm chán.

Bốn là nếu thấy Tỳ Kheo Tăng làm hư 2 bộ chúng, gây sự tranh cãi cùng tướng quá ác, khuyên cầu phương tiện làm cho hòa hợp.

Năm là nếu thấy đất nước tà ác tăng trưởng muốn hại Phật Pháp nên hay diễn nói cho đến một câu kệ làm cho pháp không mất, chuyên tâm hộ pháp chẳng kể đến thân mệnh.

Sáu là thấy các chúng sanh sợ hãi khổ não liền giúp cho họ được vô úy.

Bảy là phát tâm khuyến khích tu hành cầu các pháp phương đẳng Đại Thừa sâu xa kinh pháp ở nơi tạng của Bồ Tát.

Tám là được như pháp rồi thọ trì đọc tụng như thế mà nói, làm và ở lại.

Chín là tự ở nơi pháp lại hay khuyến khích chỉ bảo làm cho nhiều chúng sanh nhập vào nơi pháp.

Mười là khi vào pháp rồi hay giải thích chỉ bày làm lợi lạc khai ngộ cho chúng sanh.

Bồ Tát thành tựu 10 pháp như thế ở nơi vô thượng Bồ Đề cho đến chẳng thối thất. Bồ Tát phải biết như thế mà tu hành gìn giữ kinh nầy. Những kinh điển như thế khó thể nói hết được. Làm cho tất cả có thể có căn lành đại từ bi.

Kinh nầy có thể làm cho khai ngộ chỉ bày giúp cho chúng sanh phát tâm.

Kinh này có thể làm cho chúng sanh hướng đến giải thoát mà sanh ra nhơn duyên.

Kinh nầy có thể thành tất cả các Bồ Tát làm việc chẳng động.

Kinh nầy có thể làm cho quá khứ vị lai hiện tại chư Phật đều đến hộ mạng.

Nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ muốn siêng năng tu tập vô thượng bồ đề phải nên nói rộng lưu bố kinh điển nầy làm cho nơi Diêm Phù Đề không bị đoạn tuyệt; làm cho vô lượng vô biên chúng sanh có thể nghe thấy được kinh nầy.

Nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nghe kinh nầy rồi thì những kẻ đó sẽ được sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn của Đại Trí Tuệ.

Không thể tính hết phước đức quả báo. Vì sao vậy ?

Vì kinh nầy có thể mở vô lượng thanh tịnh huệ nhãn, có thể làm cho giống Phật tương tục chẳng dứt, hay cứu vô lượng khổ não chúng sanh. Hay chiếu tất cả vô minh hắc ám, hay phá 4 ma và các ma nghiệp, hay hoại tất cả ngoại đạo tà kiến. Hay diệt trừ tất cả phiền não thiêu đốt. Hay tiêu trừ nhân duyên sanh khởi các hành. Hay đoạn lìa tham lam phá giới giải đãi, loạn ý, ngu si 6 thứ bịnh nặng. Hay trừ nghiệp chướng báo chướng pháp chướng, phiền não chướng, các kiến chướng, vô minh chướng tri chướng tập chướng.

Nói tóm lại kinh nầy có thể làm cho tất cả các ác pháp tiêu diệt chẳng còn. Có thể làm cho tất cả thiện pháp hoát nhiên tăng trưởng. Nếu có người con trai tốt, người con gái lành nghe kinh nầy rồi hoan hỷ vui mừng sanh tâm hy hữu thì phải biết người đó hay cúng dường vô lượng chư Phật sâu trồng căn lành.

Vì sao vậy ? Vì kinh nầy 3 đời chư Phật đều hành trì. Cho nên kẻ thực hành khi nghe kinh nầy rồi sẽ được tự mừng sanh pháp to lớn. Nếu có biên chép đọc tụng kinh nầy thì phải biết người đó có được phước báu vô lượng vô biên.

Vì sao vậy ? Kinh nầy có duyên với mọi nơi. Vì phát nhiều lời đại nguyện, nhiếp thọ tất cả các chúng sanh vậy. Trang nghiêm vô thượng đại Bồ Đề, làm cho phước báu cũng như thế không có hạn lượng. Nếu hay giải thích theo nghĩa kinh mà tu hành giống như tất cả chư Phật đều ở nơi A Tăng Kỳ kiếp được phước báu khó thể nói hết, cũng không thể hết được. Lại nếu có vị pháp sư nào nói kinh nầy ở đâu thì phải nên biết tại nơi ấy có tháp hiện ra.

Vì sao vậy ? Vì sự chân thật của chánh pháp xuất sanh ra nơi đó vậy. Kinh nầy nếu ở tại đất nước, thành ấp, làng xóm, chùa viện, tịnh xá thì phải nên biết ở nơi ấy có pháp thân. Nếu có người cúng dường hương hoa, âm nhạc, phướn lọng, ca hát tán thán chắp tay cung kính thì phải biết rằng người đó đã trồng giống Phật huống gì thọ trì kinh nầy đầy đủ. Những người như thế đều thành tựu công đức trí huệ trang nghiêm. Ở đời vị lai sẽ được thọ ký quyết định sẽ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

 

Phát Bồ Đề Tâm kinh luận – Hết quyển hạ

Dịch xong vào ngày vía Đức Đại Thế Chí,
13 tháng 7 âm lịch năm Quý Mùi,
nhằm ngày 10 tháng 8 năm 2003 – Phật lịch 2547 –
tại thư phòng Chùa Viên Giác,
để kỷ niệm ngày xuất gia của Đồng Tâm đệ tử của Hạnh Tấn

Pages: 1 2