Pháp Thuận

Từ Điển Đạo Uyển

法順; 914-990
Thiền sư Việt Nam thuộc đời thứ 10 của dòng thiền Tì-ni-đa Lưu-chi.
Sư họ Ðỗ, xuất gia thụ giới từ nhỏ với Thiền sư Long Thụ. Trong thời nhà Tiền Lê mới dựng cơ nghiệp, Sư hay được vua Lê Ðại Hành mời vào triều luận bàn chính sự. Về sau Sư rút lui không nhận phong thưởng, vua Lê rất kính trọng, thường gọi là Ðỗ Pháp sư.
Năm 986 nhà Tống sai sứ là Lí Giác sang phong tước hiệu cho Lê Ðại Hành, vua sai Sư giả làm lái đò đón sứ. Trên sông, thấy hai con ngỗng bơi, Lí Giác ngâm:
鵝鵝兩鵝鵝。仰面向天涯
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nhai.
*Song song ngỗng một đôi,
Ngửa mặt ngó ven trời.
Sư liền ngâm tiếp (bản dịch của Thích Mật Thể):
白毛鋪綠水。紅掉擺青波
Bạch mao phô lục thuỷ
Hồng trạo bãi thanh ba.
*Lông trắng phơi dòng biếc,
Sóng xanh chân hồng bơi.
Ngày nọ vua Lê Ðại Hành hỏi vận nước thế nào, Sư đáp (bản dịch của Thích Thanh Từ):
國祚如藤絡。南天裏太平
無爲居殿閣。處處息刀兵
Quốc tộ như đằng lạc, nam thiên lí thái bình
Vô vi cư điện các, xứ xứ tức đao binh.
*Vận nước như dây cuốn,
Trời Nam sống thái bình
Rảnh rang trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh.
Niên hiệu Hưng Thống thứ hai (990), Sư không bệnh, an nhiên tịch, thọ 76 tuổi. Tác phẩm quan trọng nhất của Sư là Bồ Tát hiệu sám hối văn.