PHÁP MÔN VỀ TAM MUỘI CÁC PHÁP VÔ TRÁNH

SỐ 1923

QUYỂN THƯỢNG

Thiền Sư Tư Đại núi Nam Nhạc đời Trần, soạn.

Như nói theo muôn hạnh thì, từ lúc mới phát tâm đến khi thành Phật đạo, một thân một tâm một trí tuệ, muốn vì giáo hóa chúng sinh nên có danh tự muôn hạnh khác nhau. Nếu muốn học tất cả Phật pháp, thì trước hết phải giữ tịnh giới, siêng tu thiền định, được tất cả các môn Tam-muội của Phật pháp, một trăm lẻ tám Tam-muội, năm trăm Đà-lani và các giải thoát, đại Từ đại Bi, trí Nhất thiết chủng, năm nhãn, sáu Thông, ba Minh, tám Giải thoát, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám Cộng pháp, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, sáu Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm, bốn đại thệ nguyện, bốn Tâm vô lượng, như ý thần thông, bốn nhiếp pháp. Vô lượng công đức Phật pháp như thế, tất cả đều từ thiền mà sinh. Vì sao? Vì vô lượng chư Phật trong ba đời ở khắp mười phương, lúc muốn nói pháp độ chúng sinh, trước phải nhập thiền định, dùng đạo chủng trí mười lực quan sát căn tánh khác nhau của chúng sinh, biết sự đối trị, nhân duyên đắc đạo. Dùng Pháp nhãn quán sát xong, đem trí nhất thiết chủng nói pháp độ chúng sinh. Trí nhất thiết chủng gọi là Phật nhãn, cũng gọi là Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân, cũng gọi là Tam-muội phổ hiện sắc thân, trên làm tất cả thân Phật, thân các Bồ-tát, thân Bích-chi-phật, thân A-la-hán, thân các Thiên vương, thân chuyển luân Thánh đế, các tiểu vương; dưới làm thân các chúng sinh trong ba đường sáu nẻo. Tất cả thân Phật như thế, tất cả thân chúng sinh một lúc hành, không trước không sau, cũng không ở khoảng giữa. Một lúc nói pháp độ chúng sinh đều do công đức của thiền Ba-la-mật làm thành. Cho nên Phật nói: Nếu không ngồi thiền, ở đất bằng bị rơi ngã. Nếu muốn dứt phiền não, trước dùng định động, sau dùng trí nhổ. Định gọi là Xa-ma-địa, trí tuệ gọi là Tỳ-bà-xá-na. Định có vô lượng, nói chung có ba loại:

  1. Hạ định gọi là định cõi Dục
  2. Trung định gọi là định cõi Sắc
  3. Thượng định gọi là định cõi Vô Sắc.

Lại nữa:

  1. Hạ định là định Thanh văn, gồm hết ba cõi.
  2. Trung định là định Bích-chi-phật.
  3. Thượng định là định Như Lai và định chư Bồ-tát.

Trí có vô lượng, nói gọn có ba:

  1. Đạo trí
  2. Đạo chủng trí.
  3. Nhất thiết chủng trí.

Tuệ cũng có ba:

  1. Đạo tuệ
  2. Đạo chủng tuệ
  3. Nhất thiết chủng tuệ

Lại nữa, phân biệt nói có mười một trí. Đó là Pháp trí, Thế trí, Tha tâm trí, Túc mạng trí, Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí, Tận trí, Vô sinh trí, Như thật trí.

Lại nữa, Tận trí, Vô sinh trí phân biệt ra có mười tám trí. Tận trí có chín, Vô sinh trí có chín. Đó là mười tám trí, cũng được gọi là mười tám tâm. Bậc Thánh Ba thừa cùng tại trong các trí tuệ của Bốn thiền.

Hỏi: Như thật đạo như thật trí?

Đối với tướng, chung tướng riêng của tất cả pháp, biết như thật gọi là trí như thật. Các trí tuệ này tức là nhất thiết trí, cũng gọi là vô trí.

Vì sao? Như

Luận Tiên-ni hỏi Phật: Trong kinh nói

Luận Tiên-ni bạch Phật rằng: Thế Tôn! Tất cả trí tuệ của Như Lai từ chỗ nào được? Phật đáp Tiên-ni: Không có chỗ được. Tiên-ni lại hỏi: Thế nào là trí huệ không có chỗ được? Phật lại đáp: Chẳng phải trong nội quán được trí tuệ này, chẳng phải trong ngoại quán được trí tuệ này, chẳng phải trong nội ngoại quán được trí tuệ này, cũng chẳng phải chẳng quán mà được trí tuệ này. Cho nên trí tuệ không có chỗ được, nên gọi là vô trí. Như phẩm Kỳ Đặc chép: Một chữ nhập vào bốn mươi hai chữ, bốn mươi hai chữ lại nhập vào một chữ. Cũng chẳng thấy một chữ, chỉ có Phật và Phật mới khéo biết pháp có chữ, khéo biết pháp không có chữ. Vì pháp không có chữ nên nói pháp chữ, không vì pháp chữ nên nói pháp có chữ, cho nên bốn mươi hai chữ tức là không chữ.

Lại nữa, lúc mới ngồi thiền, trước phải quán gốc của thân, gốc của thân là Như Lai tàng, cũng gọi là tự tánh thanh tịnh tâm, đó là tâm chân thật, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa, chẳng đoạn, chẳng thường, cũng chẳng phải Trung đạo, không danh không tự, không tướng mạo, không tự không tha, không sinh không diệt, không đến không đi, không chỗ trụ, không ngu không trí, không trói không mở, sinh tử Niết-bàn chẳng phải một chẳng phải, không trước không sau, không ở khoảng giữa. Từ xưa đến nay không tên gọi. Quán sát thân chân thật như thế rồi, kế là quán thân thân, lại quán tâm thân. Thân thân là từ tâm vọng niệm sinh, theo nghiệp thọ báo các đường trời người, thật không có đến đi, vọng thấy sinh diệt. Việc này khó biết, nên nói thí dụ: Gốc của thân và chân tâm ví như hư không và trăng, không đầu không đuôi, không tròn đầy, không mọc không lặn, không đến đi. Chúng sinh vì vọng kiến nói là sinh diệt. Biển lớn sông ngòi và ao hồ, khe đầm mương rạch và suối nguồn hiện khắp các bóng giống như mặt trăng thật. Thân thân, tâm tâm như bóng trăng, quán thân cũng rất giống. Gốc thân chân ngụy cũng giống như thế. Mặt trăng trên hư không chẳng có đến đi, phàm phu vọng thấy ở dưới nước. Tuy không đến đi, không sinh diệt, nhưng rất giống với mặt trăng trong hư không tuy hiện các sắc tượng trong sáu đường nhưng thân Như Lai tàng không hề khác. Ví như nhà ảo thuật khoác các thứ hình dạng chim bay thú chạy bằng da thú, nam nữ sang hèn khác nhau, xinh đẹp hay xấu xí và già trẻ v.v…… các việc đáng cười trong đời. Nhà ảo thuật tuy làm các thứ biến hóa nhưng tướng đàn ông vốn có của mình không hề khác. Phàm phu tuy chịu hình sắc sáu đường, nhưng sắc Như Lai tàng không thay đổi. Gốc của thân và chân tâm ví như người ảo thuật khi ngủ thân tâm không lo nghĩ, lúc thức lặng lẽ không biến đổi. Thân thân và tâm sổ, như nhà ảo thuật vui chơi bày các hình thể sáu đường, các việc đáng cười. Thân thân là thể của chúng sinh khó hiểu phải dùng ví dụ để nói. Pháp tánh như thế không có Niết-bàn, cũng không có sinh tử, ví như lúc ngủ mê, mộng thấy đủ thứ việc. Tâm thể còn rỗng không, huống chi có việc mộng. Lúc tỉnh tuy nhớ rõ ràng mà thật chẳng có.

Ở đây thức điên đảo của phàm phu dụ cũng giống như thế. thiền định trí tuệ có thể biết rõ, còn trí của tâm tán loạn khác không thể hiểu. Chẳng những phàm phu như mộng huyễn, các việc như bóng trăng hiện trong nước, chư Phật, Bồ-tát cũng như vậy, từ mới phát tâm cho đến quả Phật, các việc trì giới thiền định, tâm định rất sâu không biến đổi. Trí tuệ thần thông biến hóa khác, Pháp thân chẳng động, như trăng trong hư không hiện khắp sắc thân làm Phật sự. Tuy không đến đi, không sinh diệt, cũng như bóng trăng hiện dưới các dòng nước. Vì sao? Như trong kinh luận chép: Muốn học định nhất thiết trí, phải tu các tâm lành. Nếu tại định sẽ biết các pháp tướng sinh diệt của thế gian, cũng biết Thánh đạo ba thừa xuất thế, cột tâm vào thiền trí, không việc gì chẳng xong. Muốn cầu Phật đạo phải giữ tịnh giới, chuyên tu thiền quán, được thần thông, có thể hàng phục thiên ma, phá ngoại đạo, có thể độ chúng sinh, dứt phiền não.

Hỏi: Trong kinh Bát-nhã, Phật tự nói rằng: Muốn học Thanh văn nên học Bát-nhã, muốn học Duyên giác nên học Bát-nhã, muốn học Bồ-tát nên học Bát-nhã. Lại nữa, có sáu ba-la-mật, Bát-nhã dẫn đầu, cũng là mẹ của chư Phật ba đời. Nay vì sao ông khen ngợi riêng thiền mà không khen ngợi năm Ba-la-mật? Lại nữa, như trong kinh nói: Năm độ như mù, Bát-nhã như mắt. Nay vì sao ông khen riêng độ mà không khen mắt sáng. Ai có thể tin? Mong giải thích rộng để dứt nghi ngờ cho chúng tôi.

Đáp: Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ giải thích cho ông nghe.

Ba thừa Bát-nhã đồng một quán
Tùy chứng cạn sâu có khác nhau.
Như nước biển lớn không thêm bớt.
Tùy bình người lấy lớn nhỏ khác,
Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát
Trí tuệ Như Lai cũng như vậy
Mười hai nhân duyên bốn loại trí
Hạ trí Thanh văn, trung Duyên giác,
Xảo tuệ thượng trí gọi Bồ-tát
Như Lai đốn giác thượng thượng trí.
Dùng pháp không tên dạy chúng sinh
Phương tiện giả sinh có khác nhau,
Trí tuệ ba thừa không thể biết
Chỉ mình Thế Tôn biết mà thôi.
Như kinh Đại Tập, Tạp Tứ Đế
Pháp Ba thừa hành đồng một nghĩa
“Trần Như” đảnh lễ bạch Thế Tôn:
Bồ-tát mười phương, đại chúng nhóm
Thế nào gọi Tỳ-kheo pháp hành
Mong Phật giảng nói nghĩa pháp hành
Bấy giờ, Phật bảo Kiều-trần-như
Dốc lòng lắng nghe nay sẽ nói
Nếu các Tỳ-kheo cầu pháp hành
Tụng mười hai bộ kinh của Phật
Là Tu-đa-la và Tỳ-đàm
Ưu-bà-đề-xá và Tỳ-ni,
Hay giảng nói cho bốn chúng nghe,
Là ưa tụng thuyết chẳng pháp hành
Nếu lại có các Tỳ-kheo khác,
Tụng mười hai bộ kinh của Phật
Có thể giảng rộng nghĩa tư duy
Là ưa tư duy, không pháp hành.
Lại nữa, nếu có các Tỳ-kheo
Lại đọc tụng mười hai bộ kinh
Giảng nói tư duy quán nghĩa này,
Gọi là ưa quán không pháp hành.
Hễ pháp hành thì Ba thừa đồng
Một quán nay ta sẽ giảng nói
Có Tỳ-kheo quán sát thân tâm
Tâm không tham đắm tất cả tướng
Khiêm hư nhún nhường không kiêu mạn
Chẳng dùng nước ái rửa ruộng nghiệp
Chẳng trồng hạt giống thức ở đó
Diệt pháp giác quán, cảnh giới dừng
Xa hẳn phiền não tâm vắng lặng,
Phật nói người này hành chân pháp
Tỳ-kheo như thế rồi sẽ được
Bồ-đề Thanh văn, Duyên giác, Phật
Tỳ-kheo pháp hành quán ba việc
Quán thân, quán thọ và quán tâm
Tỳ-kheo quán sát ba niệm xong
Một tâm, bốn thiền, mười tám trí
Lại nữa, trong luận Đại Trí nói
Thanh văn Duyên giác và chư Phật
Tứ thiền hai chín mười tám trí
Cùng chứng đạo sáng tối khác nhau
Cũng quán Bốn đế, mười hai duyên
Tùy cơ cảm ngộ nhiều loại khác
Thanh văn Tứ đế mười sáu tâm Bích chi
Độc giác trí vô lậu. Bồ-tát cũng hiểu pháp
Nhị thừa Đạt được mười sáu Đế vô ngại.
Như các trời cùng ăn bát báu
Màu cơm đen trắng có khác nhau.
Bốn Đế thí dụ như ngọn đèn
Định như dầu sạch, trí như bấc.
Thiền tuệ như phát sáng rực rỡ
Chiếu vật không hai là Bát-nhã.
Đèn sáng vốn không chiếu khác nhau
Người trí có mắt sáng tối khác
Thiền định đạo phẩm và sáu Độ
Bát-nhã một pháp không có hai
Giác đạo thần thông từ thiền phát
Tùy cơ hóa tục có khác nhau.

Hỏi: Ở trong kinh nào nói Phật các tuệ Bát-nhã đều từ thiền định sinh?

Đáp: Như trong luận Thiền Định nói: “Tất cả trí tuệ Ba thừa đều từ thiền sinh! Trong luận Bát-nhã cũng có lời này, Bát-nhã từ thiền sinh, anh chẳng biết gì, không hiểu lời Phật, sinh nghi ngờ mà vấn nạn cuồng điên như vậy. Sao anh không thấy chư Phật mười phương lúc muốn thuyết pháp độ chúng sinh, trước hết nhập thiền định, dùng năng lực thần thông có thể làm cho đất đai trong mười phương rung chuyển sáu cách, ba phen biến ruộng đất chuyển dơ thành sạch, hoặc đến bảy lần có thể khiến tất cả việc chưa từng có đều xuất hiện đủ, vui lòng mọi người. Phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp mười phương, Bồ-tát phương khác đều đến nhóm họp. Lại dùng năm thứ mắt xét tánh dục của họ, sau đó nói pháp. Lại nữa, trong Bát-nhã ba-la-mật Quang Minh Thích luận chép: “Có người nghi hỏi Phật: Phật là Bậc Nhất Thiết Trí, trí tuệ tự tại thì nên nói pháp ngay, vì sao trước nhập thiền định, rồi mới nói pháp, như chẳng biết tướng?

Luận chủ đáp: Nói tất cả trí tuệ và đại quang minh, sức ánh sáng rực rỡ, năng lực thần thông rộng lớn của Như Lai đều ở trong thiền định mà được. Nay Phật muốn nói pháp đại trí tuệ Ma-ha Bát-nhã, trước nhập thiền định, hiện thần thông rộng lớn, phát ra ánh sáng rực rỡ phóng đại quang minh, chiếu khắp tất cả chúng sinh trong mười phương để báo ơn thiền định, sau đó nói pháp vì phá chấp của ngoại đạo. Sáu vị giáo chủ ngoại đạo thường nói rằng: Ta là đẳng trí tuệ, đối với tất cả thường dùng thường nói, chẳng cần nhập thiền định. Phật vì hàng phục các ngoại đạo tà kiến như thế, trước nhập thiền định, sau đó nói pháp. Lại nữa, như trong kinh Thắng Định chép: “Nếu lại có người không cần thiền định thì thân không chứng pháp, tán tâm đọc tụng mười hai bộ kinh, quyển quyển đầy một bên, mười phương thế giới đều tụng thầm thông thuộc, lại rất tinh tấn qua Hằng hà sa kiếp để nói kinh này, chẳng bằng một niệm suy nghĩ nhập định. Vì sao? Vì nếu có người muốn phát tâm ngồi thiền, tuy chưa được thiền định đã hơn tất cả các luận sư trong mười phương, huống chi được thiền định”. Lúc nói lời này, năm trăm luận sư đến chỗ Phật, cùng bạch Phật rằng: Chúng con học rộng, tổng trì mười hai bộ kinh và năm bộ luận Vệ-đà, tỳ-ni giảng nói không ngại. Mười sáu nước lớn cung kính con như Phật, Thế Tôn. Vì sao chẳng khen ngợi chúng con học rộng trí tuệ, mà chĩ khen thiền định? Phật bảo các luận sư: Các ông tâm tán loạn, dù cho học rộng cũng đâu có ích gì? Ông muốn ganh đua với thiền định thì như người mù muốn thấy các mầu, như không tay chân mà muốn ôm núi chúa Tu-di, như chim gãy cánh muốn bay lên hư không, như cánh muỗi muốn che ánh sáng mặt trời, mặt trăng, như người không thuyền muốn qua biển lớn, đều không co việc đó. Luận sư các ông cũng giống như thế, muốn so sánh với thiền định thì không thể được.

Lại nữa, trong luận Tỳ-bà-sa chép: Nếu có Tỳ-kheo chẳng chịu ngồi thiền, thân không chứng pháp, tán tâm đọc tụng, giảng nói văn tự, lấy biện thuyết làm khả năng, chẳng biết dối nói là biết, không hiểu dối nói là hiểu, chẳng tự hay biết, cống cao khinh mạn người ngồi thiền. Luận sư như thế, chết vào địa ngục, nuốt hoàn sắt nóng, ra rồi làm thân chim muông, súc sinh như heo dê, gà chó, dã can, cáo sói v..v.… Nếu lại có người chẳng gần thiện tri thức, tuy ngồi thiền được bốn thiền nhưng không có chuyển trị, không có trí phương tiện, không thể dứt phiền não. Tuy được cái vui vắng lặng, phiền não chẳng nổi lên, lúc được bốn thiền cho là được đạo vắng lặng Niết-bàn rồi nghĩ rằng nay ta đã được quả A-la-hán, không còn sinh lại nữa. Tỳ-kheo như thế thật chẳng đắc đạo, chẳng dứt phiền não, chỉ được dường như đạo thiền định, không gần thiện tri thức, không có trí phương tiện cho là được đạo chân thật, sinh tâm tăng thượng mạn. Lúc qua đời thấy chỗ thọ sinh liền sinh nghi mà hối hận rằng: Bậc A-la-hán không còn sinh nữa, nay ta lại sinh, nên biết chư Phật đã dối gạt ta. Lúc nghĩ như thế đọa ngay vào địa ngục. Huống chi là người không ngồi thiền? Phật muốn nói lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Muốn cầu độ mình và chúng sinh
Khắp hết mười phương hành sáu Độ
Trước phát tâm vô thượng Bồ-đề,
Tu tập nhẫn nhục, giữ giới chắc,
Ngày đêm sáu thời siêng sám hối
Phát tâm Từ bi bình đẳng lớn
Chẳng tiếc thân mạng đại tinh tấn
Muốn cầu Phật đạo giữ tịnh giới
Chuyên tu thiền định được thần thông
Trừ được ma trời, phá ngoại đạo.
Độ được chúng sinh, dứt phiền não
Từ mới phát tâm đến thành Phật.
Một thân, một tâm, một trí tuệ
Vì muốn giáo hóa cho chúng sinh.
Muôn hạnh danh từ đều khác nhau,
Muốn biết tất cả pháp chư Phật
Trì giới thanh tịnh tu thiền định.
Chẳng màng tiếng tăm và lợi dưỡng
Xa lìa quyến thuộc si ồn náo
Niệm Phật mười phương và sám hối
Chẳng đoái thân mạng cầu Phật đạo.
Có được trăm lẻ tám Tam-muội
Cũng được năm trăm Đà-la-ni
Và các giải thoát đại Từ bi
Năm nhãn, sáu thông, Nhất thiết trí
Cũng được ba minh, tám giải thoát
Đầy đủ mười Lực, bốn Vô úy
Băm hai tướng, tám mươi vẻ đẹp
Ba mươi bảy phẩm đủ sáu Độ
Mười tám pháp bất cộng mầu nhiệm.
Nhìn các chúng sinh như con một.
Bốn thệ nguyện rộng đủ bốn nhiếp
Bốn Tâm vô lượng, đạo chủng trí
Nhất thiết chủng trí, bốn Như ý,
Quan sát chúng sinh rộng thí pháp.
Nhập bốn thiền định phát ánh sáng
Chiếu khắp các thế giới mười phương
Biến nhơ thành sạch rung chuyển mạnh
Hiện các việc đặc biệt ít có,
Bồ-tát mười phương đều nhóm hội
Thiên Vương ba cõi đều ở đây
Ngồi ngay chiêm ngưỡng một lòng đợi
Đồng thanh ba phen thỉnh nghe pháp.
Từ thiền phương tiện Tam-muội dậy
Vì chúng theo đó giảng nói pháp,
Sắc thân hương thanh các thứ riêng
Thiền định lặng lẽ tâm chẳng khác.
Tuy ở chỗ ngồi hiện Pháp thân
Mười phương chín đường trùm tất cả
Tịnh giới thiền định sức Tam-muội.
Mười phương đều thất được rõ ràng.
Người đáng nên độ như trước mắt
Người chưa thể độ thì chẳng thấy
Như trăng trên không hiện dưới nước.
Nhà tối giếng sâu thì chẳng hiện
Như nhà ảo thuật biến nhiều thứ
Mà người mù mắt thì không thấy.
Người mù, ngủ mê đều chẳng thấy
Gương Pháp thân chư Phật cũng vậy,
Chúng sinh ba chướng không thể thấy,
Nếu không tịnh giới trí tuệ thiền
Thân Như Lai tạng không thể thấy
Như ở trong quặng có vàng ròng
Nhân duyên chẳng đủ vàng chẳng hiện
Chúng sinh tuy có Như Lai tàng
Chẳng tu giới định thì chẳng thấy
Tịnh giới thiền trí đủ sáu Độ
Pháp thân thanh tịnh mới hiển hiện
Vàng ròng tịnh diệu và thủy ngân
Tô điểm tô các thứ tượng trên đời
Vàng Như Lai tàng và thiền định
Pháp thân thần thông ứng hiện đến
Báo khắp người cầu đạo đời sau
Không tu giới định không thể mạnh
Không giới định trí đều chẳng ứng
Tâm loạn lăng xăng giảng văn tự
Chết vào địa ngục nuốt hòn sắt
Ra làm súc sinh nhiều kiếp nữa
Chúng sinh như thế chẳng tự biết,
Tự xưng mình trí tuệ rộng,
Chê khinh tất cả người ngồi thiền
Phá hoại chánh pháp làm việc ma
Giả sử giảng kinh Hằng sa kiếp
Đều không từng biết nghĩa Phật pháp
Như giết người Tam Thiên thế giới
Cùng với tất cả các chúng sinh
Cống cao báng thiền làm loạn chúng
Tội ấy rất nặng hơn cả đây
Ví như bầy giặc cướp sữa bò
Lớn tiếng bảo rằng được đề hồ
Chẳng biết quậy trộn và ủ Ấm
Cũng mất sữa, bơ sống bơ chín.
Mùi vị thô thiển còn mất hết
Thượng vị đề hồ làm sao có?
Chẳng tu thiền trí không pháp hỷ
Ví dụ nói rằng không vợ con
Tâm loạn bất tịnh chấp văn tự
Nên nói đãy da đựng đầy ắp
Ví như chó mù cắn bụi cỏ
Chẳng thấy người cùng loại phi nhân
Chỉ nghe tiếng gió thổi cỏ lùa
Lớn tiếng kêu rằng giặc cọp đến
Nuôi một chó mù bị cọp ăn,
Chó mù khắp nơi tru loạn xạ,
Tâm chúng tán loạn không định được,
Giác quán, tâm lời cũng như thế
Khen trăm ngàn kinh, tâm thường loạn
Như rắn nhả độc tranh với đời
Thêm thấy các lỗi độc càng mạnh
Tự nói con “hoại – thường” khó sinh
Đã thấy vợ thiền trí pháp hỷ
Gái bất dục không con khó sinh
Hiểu văn tự rỗng không tham đắm
Nếu lúc tu định hiểu vô sinh
Mẹ Thiền trí phương tiện Bát-nhã
Dùng phương tiện xảo tuệ khéo làm cha
Thiền trí Bát-nhã tuệ không mắc
Hòa hợp cùng sinh con Như Lai
Giống Thánh Ba-la-mật thừa từ đó học
Nên gọi Đạo sư của mọi người
Tịnh giới thiền trí như đất đai
Sinh ra muôn vật, chở mọi loài.
Thiền trí thần thông phương tiện khéo,
Sinh ra Ba thừa Nhất thiết trí
Nếu một niệm ở trong thiền định
Báo được ân nghĩa Phật ba đời.
Chư Phật ba đời ngồi đạo tràng
Giác ngộ chúng sinh đều do đây,
Tất cả phàm phu cùng một thân
Một tâm phiền não một trí tuệ.
Chân như một hình không biến đổi
Bóng nghiệp thiện ác sáu đường khác
Chư Phật Bồ-tát một Pháp thân.
Cũng đồng một tâm, một trí tuệ.
Một chữ muôn hạnh giáo hóa người.
Một Thánh, giả danh bốn mươi hai
Phàm Thánh sắc tàng một mà hai
Trong đạo phương tiện phàm Thánh hai
Nguyên hình sắc tạng không một hai
Chỉ Phật và Phật mới biết được.
Ta theo vô số Phật mười phương
Nghe một chữ này nghĩa vô lượng
Pháp sư hạnh thiếu không biết được.
Luận sư văn tự không hiểu được,
Nếu người chẳng gần thiện tri thức
Học được hữu lậu tợ đạo thiền.
Sơ thiền nói được Tu-đà-hoàn
Tứ thiền nói được A-la-hán
Khởi tăng thượng mạn các lậu sinh
Nói rằng dứt kiết, không sinh nữa.
Lúc mạng sắp hết, thấy chỗ sinh
Liền nói rằng là Phật dối ta
Bậc A-la-hán không sinh nữa,
Nay vì sao ta lại thọ sinh.
Thân chứng không rõ còn như thế
Huống cho tán tâm đắm văn tự
Chẳng biết nói biết, khởi ngã mạn
Điên đảo các pháp gạt chúng sinh.
Thân không chứng pháp lên tòa cao
Chết vào đại địa ngục A-tỳ
Thân chứng không rõ còn sinh nghi
Huống chi không chứng tâm mà nói.
Tâm cao nói xằng báng chư Phật
Người thọ học đều bắt chước theo.
Từ địa ngục ra làm súc sinh,
Làm đủ mọi thứ các tạp loại.
Nếu người gần gũi thiện tri thức
Chứng thiền vô lậu và hiểu rõ
Đầy đủ thiền trí nghĩa học rộng,
Đạo sư như thế nên nương tựa.
Thiền định ẩn sâu khó thể biết.

Lại nữa, thiền ba-la-mật có vô lượng tên gọi. Vì cầu Phật đạo, tu học thiền định mầu nhiệm sâu xa, thân tâm được chứng, dứt các phiền não, được tất cả thần thông, lập thệ nguyện lớn độ tất cả chúng sinh, đó gọi là thiền ba-la-mật. Vì lập thệ nguyện rộng lớn nên thiền định còn gọi là Bốn hoằng. Vì muốn độ chúng sinh, nhập sâu thiền định, dùng trí đạo chủng, pháp nhãn thanh tịnh trí, mười lực quán sát chúng sinh chỗ nào đúng, chỗ nào sai; Lúc ấy, thiền định chuyển thành bốn Tâm vô lượng. Từ bi thương chúng sinh, cứu khổ ban vui, lìa tâm yêu ghét, bình đẳng quán sát; bấy giờ thiền định đổi thành Từ bi hỷ xả.

Đã quán sát rồi, đồng sự với họ, tùy ứng nói pháp; bấy giờ thiền định gọi là Bốn nhiếp pháp Bố thí, ái ngữ, lợi ích, đồng sự là Bốn nhiếp pháp.

Lại nữa, đại Từ đại Bi hiện như ý thần thông tất cả sắc thân, dùng năng lực thần thông vào trong năm dục, điều lành khắp sáu đường, theo sự ham muốn của chúng sinh mà độ, bấy giờ thiền định đổi thành thần thông ba-la-mật, cũng hiện khắp cả Phật sư trong mười phương mà thường ở trong thiền định lặng lẽ vô niệm.

Lại nữa, đại Từ bi sâu xa thương xót chúng sinh, trên hiện thân tất cả Phật ở mười phương, tất cả các thân Duyên giác, Thanh văn; dưới làm thân chúng sinh sáu đường. Tất cả thân chúng sinh, tất cả thân Phật trong một niệm tâm cùng lúc thực hành, không trước không sau, không khoảng giữa, một lúc nói pháp độ chúng sinh. Bấy giờ, thiền định và thần thông ba-la-mật chuyển thành Nhất thiết chủng trí, cũng gọi là Phật nhãn.

Lại nữa, Đại Bồ-tát giữ giới thanh tịnh, thiền định sâu mầu, dứt bỏ tập khí, xa lìa các ái kiến trong ba đời. Bấy giờ, thiền định đổi thành tám pháp bất cọng.

Lại nữa, Bồ-tát ma-ha-tát dùng trí ba minh phân biệt chúng sinh, bấy giờ thiền định đổi thành mười lực vì khéo biết chỗ đúng và lậu tận.

Lại nữa, Đại Bồ-tát sắc như, thọ tưởng hành thức như, quán tất cả pháp, bắt đầu từ sơ học, cuối cùng đến thành Phật dứt phiền não, và thần thông biết hết danh hiệu các thế giới ở mười phương, cũng biết danh hiệu của tất cả chúng sinh, và biết danh hiệu phiền não của chúng sinh, danh hiệu giải thoát, một niệm một lúc biết, và biết việc nhân duyên đời trước; bấy giờ thiền định đổi thành mười hiệu.

Lại nữa, Đại Bồ-tát dùng tánh vô sở hữu của các pháp, một niệm nhất tâm đầy đủ muôn hạnh, có trí tuệ phương tiện khéo léo từ mới phát tâm đến thành quả Phật làm Phật sự rộng lớn, tâm không dính mắc, trí tổng tướng, trí biệt tướng, biện thuyết vô ngại, đầy đủ thần thông bala-mật, cúng dường tất cả Phật mười phương, làm thanh tịnh cõi nước Phật, giáo hóa chúng sinh; Bấy giờ thiền định chuyển thành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại nữa, hành giả, vì ra khỏi thế gian nên ba cõi chín địa gọi là tám bối xả, thứ lớp dứt phiền não. Thiền cõi Dục vị đáo Địa và Trung gian, Nhị thiền và Tứ thiền, Không xứ và Phi hữu tưởng, cuối cùng là Diệt thọ tưởng.

Ở trong cõi Dục có đủ năm phương tiện:

1/ Phát tâm lành rộng lớn, cầu Phật đạo muốn được thiền định gọi là Thiện dục tâm. Thiện dục tâm này có công năng sinh ra tất cả Phật pháp, nhập vào tất cả thiền định, chứng tất cả giải thoát, khởi tất cả thần thông, phân biệt cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc, năm Ấm, ba độc, bốn đại, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên, tất cả các pháp vô thường biến đổi, khổ – không – vô ngã. Cũng biết tướng chân thật không sinh diệt của các pháp, không danh không tự, vô lậu vô vi, không tướng không mạo, biết rõ các pháp nên gọi là Pháp trí. Chưa đến Sơ thiền được trí Kim cương, dứt được phiền não, chứng các giải thoát đó là Vị Đáo địa. Dục giới địa thứ nhất và Vị đáo địa, hai địa này là cửa đầu tiên của Phật đạo, muốn được thiền định gọi là Dục tâm.

2/ Lại nữa, đầu hôm và gần sáng, siêng ròng học thiền, ăn ít, nhiếp tâm, xa lìa quyến thuộc, dứt các phan duyên, gọi là tinh tấn.

3/ Lại nữa, chuyên niệm vui Sơ thiền, lại không niệm nào khác gọi là Niệm tâm.

4/ Lại nữa, trí tuệ khéo léo, trù tính năm dục cõi Dục, dối gạt bất tịnh là bạn của ba đường ác; Sơ thiền định lạc, dứt các khi dối, được trí tuệ chân thật là bạn nhập vào Niết-bàn. Sự trù tính này gọi là xảo tuệ tâm.

5/ Lại nữa, chuyên tâm một chỗ, dứt các giác quán, cảnh giới đều dừng, thân tâm vắng lặng, gọi là nhất tâm.

Năm phương tiện như thế, có thể dứt năm dục phiền não yêu mị, dứt trừ năm cái, có giác có quán, ly lạc nhập Sơ thiền gọi là Sơ bối xả. Nhập Nhị thiền gọi là Hai bối xả. Nhập Tam thiền gọi là Ba bối xả. Trong tâm hỷ lạc thanh tịnh được Tứ thiền gọi là Nhập nhất thiết xứ. Dứt tất cả sắc tướng, xả thiền thứ tư, diệt tưởng có đối đãi, nhập chỗ hư không vô biên, gọi là Không nhất thiết xứ Đệ tứ bối xả. Xả định hư không xứ, được nhất thiết xứ định, đó là Thức nhất thiết xứ Đệ ngũ bối xả. Lại nữa, xả định thức xứ, nhập vô sở hữu xứ định gọi là Đệ lục bối xả. Xả định vô sở hữu xứ được nhập phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định, sinh tâm chán lìa gọi là Đệ thất bối xả. Xả định Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, nhập định Diệt thọ tưởng, tâm không hề dính mắc gọi là bối xả thứ tám. Bấy giờ thiền ba-la-mật chuyển thành tám bối xả.

Lại nữa, tự giác giác tha thông đạt vô ngại, được ba giải thoát, có công năng phá tất cả phiền não trong ba cõi; bấy giờ, Thiền ba-la-mật chuyển thành Thập nhất trí.

Lại nữa hành giả, tổng trì Triền Đà-la-ni, ba phần Giới, định, tuệ, Bát chánh đạo, phá bốn điên đảo được bốn chân đế, bấy giờ Thiền bala-mật chuyển gọi là Ba mươi bảy phẩm, khởi tất cả thần thông… Nghĩa là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm căn, năm lực, bảy phần giác, tám phần Thánh đạo, gọi là Ma-ha-diễn. Như trong phẩm Bốn Niệm xứ nói, chuyển tất cả trí tuệ, dùng một thần thông hiện tất cả thần thông, dùng một giải thoát làm tất cả giải thoát, chuyển một tên một chữ một lời một câu vào tất cả danh tự ngữ cú. Tất cả danh tự ngữ cú như thế lại nhập vào một tên, một chữ, một lời, một câu, bình đẳng chẳng khác. Bốn Niệm xứ này chữ bằng, nghĩa bằng, các chữ vào cửa, tất cả Phật pháp đều ở trong đây.

Lại nữa, Bồ-tát ma-ha-tát muốn giáo hóa chúng sinh, làm cho phát sinh lòng tin trong sạch vui mừng nên cùng tất cả bậc Thánh dựng lập một cung Thánh có thứ lớp cấp bậc. Chúng sinh được thì rất vui mừng, quyết định không nghi, bấy giờ thệ nguyện siêng tu thiền định, được sáu thần thông, làm vua Chuyển luân, vào trong năm đường, bay đi khắp mười phương, rộng hành bố thí, cần áo cho áo, cần ăn cho ăn, vàng bậc bảy báu, voi ngựa xe cộ, lầu đài cung điện, phòng ốc nhà cửa, những đồ dùng năm dục, như tiêu sáo không hầu, đàn cầm đàn sắt gõ thổi, theo ước muốn của chúng sinh đều cung cấp hết. Sau nói cho họ nghe pháp khiến họ được đạo. Tuy làm những pháp thì như thế mà thật không có người cho, không có tài vật, không nói không dạy, không có người nghe. Ví như nhà ảo thuật làm ra người huyễn, giữa ngã tư đường hóa thành tòa cao rộng nói pháp Thánh Ba thừa mầu nhiệm, lại làm bốn chúng, nhóm họp nghe nhận. Những việc huyễn ảo do nhà ảo thuật làm ra như thế, không sắc, không tâm, không bày, không nghe, không nhận, không giữ, không được Bồ-tát. Bấy giờ, Thiền ba-la-mật chuyển thành Đàn ba-la-mật. Vì sao? Vì lúc bố thí vật cho người, biết các pháp không có tánh, không cho không nhận, không có tướng tài vật, ba việc đều không, tuy biết rỗng lặng, siêng hành bố thí.

Lại nữa, Đại Bồ-tát, tuy biết các pháp là không tướng, tội không thật có, trì giới phá giới như mộng như huyễn, như bóng như hóa, như trăng đáy nước, tuy biết các pháp không sinh diệt, nhưng giữ vững tịnh giới không hủy phạm, kém thiếu, cũng nói giới pháp cho người nghe. Nếu người có tâm ác không thọ giới, thì hóa thành hàng cầm thú, ba loài có lễ nghi, cho họ thấy thế sinh hổ thẹn nhục nhã mà phát tâm lành, giữ vững tịnh giới, phát thệ nguyện lớn cùng khắp mười phương, không kể đến thân mạng, thực hành giới thí, thường hiện mọi thân trong sáu đường, nói rộng giới thanh tịnh của Như Lai, dùng trí túc mạng quán sát họ, ắt khiến vui mừng không sân hại. Chẳng những nói giới pháp mà còn nói nhiếp căn định cộng giới, đạo cộng giới, tính tịch giới, báo tịch giới; Bấy giờ, Thiền ba-la-mật chuyển thành Thí ba-la-mật.

Lại nữa, Đại Bồ-tát lúc thực hành tài thí, pháp thí, giới thí này, người nhận tức giận đến đánh mắng, chặc đứt chân tay, tâm không xao động cho đến mất mạng tâm cũng không hối hận; bấy giờ, Thiền ba-lamật chuyển thành Sằn-đề ba-la-mật.

Lại nữa, Bồ-tát lúc học Bốn Niệm xứ được Bốn thiền, lại nghĩ thế này: Ta đối với thân niệm xứ chưa được thần thông như ý; thọ niệm xứ chưa được Túc mạng thông; tu tâm niệm xứ chưa được tha tâm trí, chẳng biết tâm của phàm Thánh mười phương. Lúc tu pháp niệm xứ, suy nghĩ rằng: Nay ta chưa được thần thông vô lậu. Tu thân niệm xứ, quán tất cả sắc cũng chưa được Thiên nhãn thanh tịnh; đối với niệm xứ chưa chứng thần thông nhân duyên nghiệp báo nhơ sạch; đối với tâm niệm xứ chưa được Tam-muội chúng sinh ngữ ngôn. Nghĩ như thế xong, siêng năng tinh tấn cầu cho đến thành tựu đủ sáu thần thông. Bấy giờ, thiền định chuyển thành Tinh tấn Tỳ-lệ-da ba-la-mật.

Lại nữa, Bồ-tát vì khởi thần thông, nên tu luyện thiền định, từ Sơ thiền thứ lớp nhập Hai thiền, ba thiền, Bốn thiền, bốn không định cho đến định Diệt thọ tưởng. Nhất tâm tuần tự nhập tâm không tạp niệm. Lúc đó, Thiền ba-la-mật chuyển thành chín định thứ lớp.

Lại nữa, lúc Bồ-tát nhập Sơ thiền, quán hơi thở ra vào, tự thấy thân mình đều vắng lặng, xa lìa sắc tướng, được thần thông cho đến Bốn thiền cũng giống như thế. Lúc nhập Sơ thiền, quán hơi thở ra vào, thấy sắc ba đời cho đến sâu kín như cát bụi, đều thấy không ngại, cũng thấy chúng sinh sống chết, quả báo khác nhau trong vô lượng kiếp thông đạt vô ngại, gọi là Thiên nhãn thần thông, cho đến Bốn thiền cũng giống như thế.

Lúc nhập Sơ thiền, quán hơi thở ra vào, do thứ lớp quán tiếng đều đồng với âm thanh phàm Thánh mười phương gọi là Thiên nhĩ thông, cho đến Bốn thiền cũng giống như thế.

Lúc nhập Sơ thiền, quán hơi thở ra vào, trụ hơi thở, trụ Xa-matha, quán tướng mạo sắc, dùng Tỳ-bà-xá-na quán tướng tâm của người, khéo biết tâm phàm Thánh mười phương, đó gọi là Tha tâm trí thần thông; cho đến Bốn thiền cũng giống như thế.

Lúc nhập Sơ thiền, quán hơi thở ra vào, được nhãn thần thông, được nhãn thần thông rồi, quán năm Ấm sinh diệt, lúc có ca-la-la cho đến năm Ấm sinh diệt trong vô lượng kiếp, có được Túc mạng gọi là Túc mạng thần thông; cho đến Bốn thiền cũng giống như thế. Đều có thể quán sát tất cả chúng sinh, nghiệp hạnh tốt xấu sai biệt khác nhau. Cũng lại biết họ phát tâm sớm muộn, vào đạo xa gần, mười phương ba đời thông đạt vô ngại gọi là Đạo chủng trí tuệ thần thông; bấy giờ, thiền định chuyển thành Tam-muội Sư tử phấn tấn, dùng năng lực thần thông cúng dường các Đức Phật mười phương và giáo hóa chúng sinh, thanh tịnh cõi nước Phật, trí bờ mé viên mãn, Thập địa đầy đủ, biến thân như Phật khắp mười phương, học thần thông của Phật chưa được tròn đủ. Tam-muội Sư tử phấn tấn này chỉ có chư Phật mới đầy đủ.

Lại nữa Bồ-tát, vào Trùng huyền môn tu bốn mươi tâm, từ phàm phu địa lúc mới phát tâm chỗ tu thiền định thứ tự nhập lại cho đến địa Vô Cấu cuối cùng, tu các thiền định, học Phật thần thông giáo hóa chúng sinh. Từ Sơ thiền nhập cho đến định diệt thọ tưởng. Tam thiền, tứ thiền, tứ không cũng giống như thế, gọi là Thuận siêu vô ngại. Từ định Diệt thọ tưởng siêu trụ trong tán tâm, siêu nhập Sơ thiền, phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ, vô sở hữu xứ, thức xứ, không xứ, Tứ thiền cho đến Nhị thiền cũng giống như thế, gọi là Nghịch siêu tự tại vô ngại; bấy giờ, thiền định chuyển thành Tam-muội Siêu việt, tu thần thông Phật, được trí tuệ Phật, năm ba-la-mật kia cũng giống như thế, thiếu một ba-la-mật này không gọi là năm ba-la-mật.

Lại nữa, lúc học thiền định, tu Bốn Niệm xứ, ở trong cõi Dục quán nội ngoại sắc; nhập Sơ bối xả, đầy đủ văn tuệ, quán trong ngoại là giả, hai tướng không thật có, cũng chẳng phải là một tánh như như , cho nên là một giả thoát.

Lại nữa, tư tuệ đầy đủ, quán sát nội ngoại pháp, tất cả pháp trong ngoài, tướng chung, tướng riêng, tướng khác chẳng thật có như như, cho nên là hai giải thoát.

Lại nữa, tu tuệ, sáu quán đầy đủ, năm Ấm cõi sắc sắc không là ba giải thoát.

Lại nữa, văn tuệ – tu tuệ dùng xảo phương tiện kim cương trí, khéo léo, phá bốn không định, không tâm tham đắm, không năm Ấm chẳng thật có, được giải thoát Không xứ, được giải thoát Thức xứ, được giải thoát Vô sở hữu xứ, được giải thoát Phi hữu tưởng phi phi tưởng xứ, được giải thoát quán diệt thọ tưởng định. Vì chẳng tthật có nên được giải thoát này, gọi là tám giải thoát. Vì tánh như như nên không trói, không mở. Bồ-tát, lúc ấy, thiền ba-la-mật gọi là tám giải thoát.

Lại nữa, Bồ-tát thiền định tu bốn Niệm xứ được ba mươi bảy phẩm, đầy đủ Phật pháp. Vì sao? Vì Thân niệm xứ này, vì quán sắc pháp nên một niệm đầy đủ bốn Niệm xứ. Thân niệm xứ này lúc dùng niệm giác phần quán năm Ấm, có thể dứt tất cả phiền não. Nên lúc quán sắc Ấm là thân niệm xứ, quán bất tịnh chín tưởng đầy đủ Xa-ma-tha có công năng phá tất cả phiền não gọi là Định. Như trong luận, kệ chép:

Sơ quán thân niệm niệm
Khiến tâm trói buộc định
Thức trói buộc cũng định
Và dứt oán phiền não.

Cửu tưởng Xa-ma-tha là định kim cương cõi Dục, có thể phá năm Ấm như trói giặc. Thập tưởng Tỳ-bà-xá-na, là địa vị kim cương trí vị đáo của cõi Dục, có thể quán năm Ấm rốt ráo sạch hết tưởng, không còn sinh lại, được Tận trí, vô sinh trí, dứt hết tất cả phiền não. Đao bén như ý chém đứt đầu giặc, quán sắc như, thọ tưởng hành thức như. Vì quán sâu năm Ấm tánh như như nên không có phiền não để dứt, cũng không có giải thoát Niết-bàn để chứng. Vì sao? Vì Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức là không, không là thọ, tưởng hành thức. Không tức là Niết-bàn, Niết-bàn tức là không, phiền não là không, không là phiền não. Trí tuệ là không, không là trí tuệ, chẳng thể dùng hư không dứt hư không, chẳng thể dùng hư không chứng hư không.

Như luận kệ nói:

Quán thân, tướng bất tịnh
Chân như, tánh thường định
Các thọ và cả tâm,
Pháp cũng quán như thế.

Phiền não là sáu tâm dục, tưởng cái chết đầu tiên có công năng dứt dục về oai nghi nói năng. Tưởng sình trương, tưởng hoại, tưởng phân tán có thể dứt dục về hình dong. Tưởng xanh bầm bê bết máu, tưởng rữa nát có công năng dứt trừ sắc dục. Tưởng xương, tưởng thiêu đốt có công năng dứt dục về trơn mịn. Tưởng tan rã, tưởng diệt sạch có công năng dứt nhân dục, như trong luận chép:

Bốn rắn chung một rương
Sáu giặc cùng một làng
Và vua Chiên-đà-la
Chia tự giữ căn môn
Yêu mị sáu dục nổi
Yêu oán giả làm thân
Thanh, hương, vị, xúc, pháp
Sáu tình nổi các trần
Tham dục như lửa mạnh
Tức giận như rắn rít
Ngu si che tâm mắt
Người trí hãy khéo quán
Ngoại tưởng ba bốn khối,
Xác thân mười hai thành
Trong chứa mười hai uế
Chín lỗ nước dơ tràn
Nhọt độc trùng máu lẫn
Xình trương thối rữa mủ
Xương cốt đứt chia lìa
Sáu dục mất tư dung
Lúc quán chín tương thành
Sáu giặc dần bị trừ
Và thức ái oán dối
Cùng biết giả thật hư
Bốn đại nương lẫn nhau
Duyên tập thành giả danh
Hành giả quán sát kỹ
Chỉ thấy hình xương người
Mới quán như một ít
Sau dần đầy một thành
Xương người khắp pháp giới
Thâm sinh đạo lo chán
Từ sinh đến già chết
Già chết lại có sinh,
Trôi lăn mười hai duyên
Sinh tử như xoay vần
Khổ ba đường khó nhẫn
Trời, người cũng như vậy
Ai nghe sáu đường khổ
Mà chẳng sinh tâm chán
Vọng thức vốn không thể,
Nương nhân pháp lặng sinh
Vọng tưởng sinh vọng tưởng
Trôi lăn mười hai duyên,
Biết họa hai nghiệp cũ
Nay không tạo ba nhân
Già chết không tiếp tục,
Ngược dòng dứt nguồn sinh.

 

PHÁP MÔN VỀ TAM MUỘI CÁC PHÁP VÔ TRÁNH

QUYỂN HẠ

QUÁN TỨ NIỆM XỨ

PHẨM THÂN NIỆM XỨ QUÁN NHƯ ÂM

Khi quán thân bất tịnh, trước hết quán hơi thở ra vào sinh diệt không thật có, kế đó quán tướng tâm tâm. Nếu trước quán sắc, thô lợi khó hiểu, nặng nề khó nhẹ nhàng. Nếu trước quán tâm thì sâu kín khó thấy, tâm không chẳng có tự thể, gá duyên vọng niệm, không có chủ thật sự. Trong chỗ hơi thở, nhẹ rỗng dễ hiểu. Trước hết quán hơi thở vào từ chỗ nào tới? Đều không từ đâu, cũng không chỗ sinh. Vào đến chỗ nào? Đều không có chỗ quay về, chẳng thấy tướng diệt, không có nơi chốn. Hơi thở vào đã không, lại quán hơi thở ra từ chỗ nào sinh? Quán sát kỹ càng đều không có chỗ sinh. Đến chỗ nào diệt? Chẳng thấy tướng đi, cũng không chỗ diệt. Đã không ra vào, lại quán khoảng giữa tướng mạo ra sao? Lúc quán như thế, như gió nhẹ trong hư không, đều không có tướng mạo. Hơi thở không có tự thể, sinh diệt do tâm. Vọng niệm thì hơi thở động, vô niệm thì vô sinh, tức quán tâm này trụ ở chỗ nào? Lại quán trong thân đều chẳng thấy tâm. Lại quán ngoài thân cũng không có tướng tâm, lại quán khoảng giữa không có tướng mạo. Lại nghĩ rằng: tâm, hơi thở đã không, nay thân này của ta từ đâu sinh? Lúc quán như thế đều không có chỗ sinh, chỉ từ niệm tham ái luống dối mà dấy. Lại quán tâm vọng niệm tham ái rốt ráo vắng lặng, vô sinh vô diệt, liền biết thân này hóa sinh không thật, sáu phần sắc như đầu v.v.… như bóng không thật có, như mây mỏng manh. Hơi thở vào, hơi thở ra như gió nhẹ rỗng không. Lúc quán như thế, bóng mây gió nhẹ thảy đều vắng lặng, không đoạn, không thường, không sinh, không diệt, không tướng không mạo, không danh không tự. Đã không sinh tử cũng không Niết-bàn, một tướng vô tướng. Tất cả chúng sinh cũng giống như thế, đó gọi là quán chung. Thật tướng các pháp như thế đã quán xong.

Muốn được thần thông, quán thân bốn đại như hư không, như bóng dáng, lại quán bốn đại bên ngoài đất – nước – lửa – gió, vách đá ngói gạch, dao gậy thuốc độc như hình bóng, như hư không. Bóng dáng chẳng thể hại bóng dáng, hư không chẳng thể hại hư không, lúc nhập Sơ thiền quán hơi thở ra vào, từ đầu tới chân, từ da đến tủy, trên dưới ngang dọc, hơi thở cùng lúc ra vào không ngại. Thường nghĩ thân mình tưởng là rỗng nhẹ, bỏ tưởng thô nặng. Hơi này thở vào không nhóm họp, thở ra không phân tán. Hơi thở này sức gió có thể nâng nhẹ, tự thấy thân mình rỗng không như bọt nước, như ảo ảnh, như hư không. Quán sát như thế, tu tập lâu dần, xa lìa sắc tướng, được thần thông, bay đi vô ngại. Đi ơ, xa gần, mặc tình tự tại, là thân niệm xứ. Pháp quán bất tịnh, chín tưởng, mười tưởng và quán hơi thở sinh diệt ra vào rỗng không chẳng chướng ngại, cũng sẽ đạt được thần thông như ý. Trước hết chứng nhục nhãn, kế là quán thiên nhãn, có thể thấy các sắc sâu kín trong vô lượng A-tăng-kỳ mười phương ba đời v.v…, cũng thấy chúng sinh sinh tử nổi chìm, nghiệp báo thiện ác, thảy đều biết cả, rõ ràng không ngại. Nhiếp hết mười lực, mười tám pháp bất cộng. Có thể hiện thân lớn đầy khắp mười phương, có thể hiện thân nhỏ, bé như cát bụi. Một có thể làm nhiều, nhiều có thể làm một, nặng làm nhẹ, nhẹ có thể làm nặng, xấu xí thành xinh đẹp, xinh đẹp thành xấu xí, dài ngắn lớn nhỏ, xanh vàng đỏ trắng đều biến hóa được, hư không thành đất, đất thành hư không, đất thành nước lửa, nước lửa thành đất. Có khả năng biến thành vàng bạc bảy báu, vách đá cây cối cũng giống như thế đều có thể biến thành. Bảy báu vàng ngọc, voi ngựa xe cộ, thành quách lầu đài, cung điện nhà cửa, phòng nhà đèn đuốc, mặt trời mặt trăng, châu lớn và châu như ý, ăn uống y phục, giường chõng mền nệm, tiêu địch không hầu, các thứ năm dục, nếu chúng sinh cần đều cung cấp hết. Sau đó nói pháp khiến vào Phật đạo. Có khả năng tự biến thân thành thân Phật mười phương, danh tự khác nhau, sắc tượng khác nhau, cũng có khả năng khiến đều là thân mầu vàng, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, nhục kế trên đỉnh đầu ánh sáng chiếu khắp mười phương không có chỗ hở cách. Mười phương xa gần như ở trước mặt. Quá khứ, vị lai cũng giống như thế. Trời người giao tiếp hai bên thấy được nhau. Cũng có thể làm thân Bồ-tát, Duyên giác, A-la-hán, thân các trời Đế-thích, Phạm vương, Bốn vị thiên vương, thân vua Thánh Chuyển luân, các tiểu vương. Có thể làm thân bốn hàng đệ tử Phật. Trai biến thành gái, gái biến thành trai, cũng làm thân chúng sinh trong sáu đường. Các sắc tượng phàm Thánh như thế trong một niệm tâm, một lúc cùng thực hành, ngữ ngôn âm thanh cũng giống như thế. Cũng lại có thể làm thây chết thối rửa trói Ba-tuần cho bỏ tâm kiêu mạn, xa lìa nghiệp ma, cầu chánh đạo của Phật. Quán thây chết thối rữa, chẳng những trói buộc ma vương Ba-la-di-tuần mà còn hàng phục tất cả dâm nữ khiến bỏ tâm cầu dục, phát tâm thanh tịnh, tin cầu Phật đạo. Pháp thiền ba-la-mật quán thân niệm xứ bất tịnh này, lúc mới tu hành, có công năng dứt tất cả phiền não năm dục, trừ năm triền cái, đoạn mười trói buộc, nếu người tu tập, như kệ nói:

Quán hơi thở, gió lửa nhẹ không
Bay đi mười phương không chướng ngại.
Da thịt gân xương quán bất tịnh,
Đạt được thần thông lớn như ý.
Gọi chung ngã tám đại Tự tại,
Tất cả hình sắc năng biến hóa,
Gọi chung mười bốn tâm biến hóa,
Chẳng những biến hóa việc như trên,
Mà còn làm đất rung sáu cách
Biến uế mười phương thành tịnh độ,
Quán thân niệm xứ bất tịnh này,
Nói chung công đức lớn như thế,
Nêu rộng các thuyết không thể hết
Ba mươi bảy phẩm cũng trong đó,
Nay đã nói chung thân niệm xứ,
Có các pháp công đức khác nhau.

 

 

PHẨM THỌ NIỆM XỨ

Lại nữa, thiền Ba-la-mật có quán thọ niệm xứ như kệ nói:

Đoạn được tất cả thọ,

Nay sẽ lại nói chung,

Pháp cách dứt trừ ba thọ,

Tất cả thọ cũng hết.

Ba thọ là:

  1. Thọ khổ.
  2. Thọ vui.
  3. Thọ không khổ không vui.

Như trong mười hai nhân duyên nói: Thọ chẳng khổ chẳng vui chỉ là vô minh – có danh không sắc. Hai thọ khổ, vui là hành, thức, danh – sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu- sinh già chết diệt hoại, ưu bi, khổ não. Ba thọ như thế hòa hợp cộng thành sự, không thể mỗi pháp sinh phiền não riêng. Nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ.

Nội thọ là sáu căn gọi là sáu tình.

Ngoại thọ là sáu trần, gọi là sáu cảnh.

Nội ngoại thọ gọi là sáu thức, cũng gọi là tâm tư duy phân biệt, trong ngoại như thế.

Có ba mươi loại sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu xúc, sáu thọ. Đó là ba mươi, đều do vô minh chẳng thể rõ nên tham đắm nghiệp ác, sinh khắp sáu đường. Nếu tu tập giới, định, trí tuệ, trong sạch ba căn độc gọi là sáu Độ. Cho nên luận nói Trí độ. Đại đạo Phật từ xưa đến nay sinh tử qua lại, nói đại đạo trí tuệ; dứt ba thọ nên gọi là độ. Cho nên Phật nói: Trong sạch ba căn độc thành Phật đạo không nghi ngờ. Tất cả tham sân si, ba thọ dùng làm căn, phá giới là cửa đường ác, giữ giới là cửa đường lành. Nếu tu giới định trí, đóng bít các đường ác, thông đạt cửa đường lành thì cũng được gọi là đóng bít tất cả cửa các đường ác, mở cửa vô thượng đại Bồ-đề của Phật. Sáu căn gọi là cửa, tâm là vua tự tại. Lúc gây ra nghiệp sinh tử, tham đắm sáu trần, đến chết chẳng bỏ, không người chế phục được, tự tại như vua, cho nên gọi là Vô thượng Tử vương. Ví như ở thế gian, tháng năm trời mưa lũ dữ dội, cây trái ngũ cốc, gãy nát rơi rụng, người và súc vật đều chết. Mưa lũ dữ dội này ví như kim cương, không gì ngăn nổi, dứt các gốc lành, làm nhất xiển đề, cho nên gọi là Tử kim cương vũ. Ví như thế gian có lòai chim đầu đàn cánh vàng, bay trong hư không, bắt các rồng trong bốn biển lớn, tự tại vô ngại, ăn nuốt đến hết, không gì cản được, cho nên gọi là Tử kim xí điểu. Thí như thế gian, vua Chuyển luân ác độc, bay đi trên hư không, khắp bốn thiên hạ, bắt giữ các vua tự tại vô ngại, phá hoại sự nghiệp của họ, không ai cản được, cho nên còn gọi là Tử Chuyển Luân Vương. Tất cả vua trời người không ai chế phục nổi, trừ có một người đại lực thần thông, nàh ảo thuật, trí như kim cương, có khả năng hàng phục tất cả, hàng phục được. Tâm vương sinh tử này cũng giống như thế. Trong hai mươi lăm loài không ai chế phục được, chỉ trừ Bồ-tát tu giới – định – trí tuệ đạt được Sơ thiền cho đến Đệ tứ thiền và định Diệt thọ tưởng, thành tựu bốn Niệm xứ, pháp nhẫn đầy đủ, được thần thông rộng lớn là có khả năng hàng phục được Tâm vương sinh tử. Tất cả phàm phu và người Nhị thừa không thể hàng phục tử vương ấy. Vì sự dời đổi của pháp vô thường, không thể hàng phục, chỉ có pháp của Bồ-tát Đại lực, phần sinh đã dứt mới hàng phục được, vì không có tập khí.

Thọ khổ có khổ trong, khổ ngoại.

Khổ trong: Đói khát bi não, sầu lo tức giận, hiềm hận oán cũ, việc không vừa ý, ghét bỏ gặp nhau, trong tâm rất khổ. Các khổ như thế gọi là khổ trong. Lại nữa, cầu vật chẳng được, nếu được lại mất, các thứ năm dục, yêu phải xa lìa, cha mẹ anh em, vợ con quyến thuộc, cướp bóc chết chóc. Nếu bị bệnh ác không thuốc để trị thì chết không nghi ngì gì, lại lo buồn khóc lóc. Các khổ như thế đều gọi là khổ trong. Nghe tiếng xấu bên ngoài, mắng nhục chỉ trích, ôm lòng phẫn nộ, cũng gọi là khổ trong.

Khổ ngoại: Nếu bị phép vua bắt, đánh khảo khổ sở, lao ngục trói nhốt, mang gông mang cùm gọi là khổ ngoại. Cũng gọi khổ trong ngoại. Nếu sư tử, hổ beo, các lòai thú dữ, gió mưa nóng lạnh. Những loại như thế gọi là khổ ngoại. Nếu tự thân bị bệnh, các căn không đủ gọi là khổ thân. Nếu bị người sai khiến, gánh vác nặng nhọc, như đi đường xa, giữa chừng gặp nạn, không nơi dừng nghỉ. Các khổ như thế gọi là khổ thân. Nên học Từ bi, tu tập pháp không, chụ đựnng không sinh tức giận. Đối với kẽ oán ghét thì nên nghĩ rằng: đời trước ta hại người, nay chỉ tự trách, không nên giận họ. Cọp sói sư tử, voi điên vua ác, cũng giống như thế. Đối với tham cầu, nên cầu tâm xã, không nên giận buồn. Quán âm thanh ác như tiếng vang trong hư không. Tiếng kia không đến, lỗ tai không nhận, vừa nghe liền diệt, ai mắng ai chịu, sẽ không tức giận. Nghe âm thanh tốt, khen ngợi đề cao, cũng quán như trước không sinh tâm vui, lễ bái cúng dường, tất cả thọ vui nên nghĩ như vầy: Họ tự cầu phước mà đến chỗ ta, tự làm công đức, chẳng nghe việc ta, chẳng nên vui mừng. Ví như ruộng hoang, có người cày cấy, tự cầu quả báo, đất chẳng nên vui. Lại có người khác cầm nhiều phân dơ, gai góc cỏ xấu các thứ trong đó, đẽo đục đào hang, cao thấp chẳng bằng. Người ấy tự sinh tâm ác như thế, đất cũng chẳng sân, cũng không nghĩ rằng người kia tự chuốc khổ não. Có người hỏi:

– Oán hại mắng nhiếc, có thể nhịn không sân, việc này có thể làm được, lễ bái cúng dường khen ngợi là thọ vui vì sao không vui?

Đáp: Nay họ tuy cúng dường khen ngợi ta, sau nếu gặp duyên xấu thì sẽ giận ta, hoặc đánh hoặc giết, không nên sinh tâm mừng. Thọ vui thọ khổ đều như huyễn hóa, không có tướng cố định, không nên giận, không nên vui. Như mặt đất kia, không có tâm yêu ghét. Bồ-tát muốn cầu Phật đạo vô thượng, trước nên tu học Tam-muội Đại địa, cũng nên học Tam-muội Như hư không. Thọ không khổ không vui cũng giống như thế. Chẳng nên tham đắm mà nên nghĩrằng: Vì ở giữa khổ vui nên có không khổ, không vui. Nếu không khổ vui, thì không có không khổ, không có vui. Tất cả đều là vô thường sinh diệt, không hề tạm dừng. Vì sinh diệt không, nên không có chỗ sinh diệt, cầu chẳng thể được. Lúc quán như thế tức không có ba thọ, được ba giải thoát. Các tướng nam nữ cũng giống như thế, như huyễn như hóa, không sinh không diệt, không thật có. Như thân niệm xứ, năm Ấm tướng là như, không thật có. Không có mười tám giới nên không có tất cả thọ. Vì sao? Sáu căn, sáu trần, sáu thức là không. Cầu chẳng thể thấy gọi đó là Không. Cầu cũng chẳng được, gọi là không không, cũng chẳng có không.

Lại nữa, trong thiền ba-la-mật, quán thọ niệm xứ, vô sinh vô diệt, không có tất cả thọ tức là Niết-bàn. Quán sát Niết-bàn cũng chẳng thật có, vì không có danh tự, tức không có Niết-bàn. Lúc quán như thế, người mới học sẽ dứt được tất cả phiền não, lại được tất cả túc mạng thông, tự quán thân mình hiện tại lúc mới sinh năm Ấm ca-la-la, sinh diệt chẳng trụ. Cũng thấy năm Ấm sinh diệt trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp ở quá khứ. Dùng năng lực thiên nhãn thân niệm xứ, trụ trong Sơ thiền, sẽ thấy được túc mạng thần thông như thế. Tất cả chỗ sinh, tuổi thọ ngắn dài, thọ báo khổ vui, uống ăn y phục, giòng dõi tên họ, sinh tử ra vào, cõi nước thế giới, tánh dục thiện ác, đều thấy đều biết nhân duyên túc mạng, hiện tại vị lai, tất cả mọi việc đều thấy đều biết. Như đời quá khứ, cũng biết túc mạng ba đời của các vị trời và chúng sinh trong sáu đường, như biết mình không khác. Cũng lại biết tất cả túc mạng của chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác. Trong một niệm tâm cân lường hết nguyện, rõ ràng không ngại. Ở trong tất cả chúng sinh được tuổi thọ tự tại, tùy theo sự chiêu cảm mà dài ngắn khác nhau.Vì chúng sinh nên hiện tất cả thân, nhận tất cả mạng, muốn độ chúng sinh trong ba đường ác ở khắp mười phương. Muốn độ ngạ quỷ, quán thọ niệm xứ, trụ trong Sơ thiền, dùng Như ý thông, ban thức ăn ngon giúp họ dừng khổ mà nói pháp cho họ nghe. Lúc muốn độ súc sinh, quán thọ niệm xứ vào Sơ thiền, rồi lại nhập Tứ thiền, xuất Tứ thiền, trụ Nhị thiền dùng thần thông Như ý khiến các chúng sinh lìa nghiệp súc sinh, được thân trời người, khiến họ vui mừng mà nói pháp cho nghe. Lúc muốn độ chúng sinh trong địa ngục, quán thọ niệm xứ. Nhập Sơ, thiền rồi nhập Nhị thiền, xuất Nhị thiền nhập Tứ thiền, xuất Tứ thiền trụ Tam thiền, dùng thần thông Như ý biến hóa địa ngục A-tỳ và các địa ngục ở mười phương đều thành cõi trời, tất cả hình phạt biến thành chuỗi anh lạc, như khổ của họ dừng, như vui Tam thiền, tùy ứng nói pháp. Lúc muốn độ chúng sinh phước đức thế lực lớn, thì quán thọ niệm xứ và ba niệm, nhập Sơ thiền, xuất Sơ thiền nhập Nhị thiền, xuất Nhị thiền nhập Tam thiền, xuất Tam thiền nhập Tứ thiền, trụ Hỏa nhất thiết xứ, phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp mười phương. Trụ Địa nhất thiết xứ, đại địa mười phương rung chuyển sáu cách, trụ Phong nhất thiết xứ, hương giới định tuệ tràn khắp mười phương. Trụ Thủy nhất thiết xứ, hiện Tam-muội Nguyệt ái, chúng sinh bệnh nặng, khổ não trong mười phương đều được tiêu trừ, thân tâm an vui. Trụ Địa nhất thiết xứ, thế giới nhơ bẩn biến thành tịnh độ, hoa quả ao hồ, bảy báu trang nghiêm, phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày, vời các đại Bồ-tát ở mười phương đều đến nhóm họp, ánh sáng từ miệng, ánh sáng trên đỉnh đầu, phát ra ánh sáng giữa trung gian, nhóm họp các vị Thiên vương, vua Thánh Chuyển luân, vua A-tu-la, và các Tiểu vương, cùng các trời người trong ba cõi. Phát ra ánh sáng, dưới trùm đến tất cả chúng sinh trong ba đường, nhóm hội nghe pháp, đều thọ ký cho họ. Pháp thọ ký có chín thứ: ba thừa và sáu đường, gọi là chín loại thọ ký khác nhau. Như trong Ma-ha Bát-nhã Phóng Quang luận chép: Phát ra ánh sáng từ nhục kế trên đỉnh đầu, chiếu khắp mười phương, nhóm họp các đại Bồtát và nhóm họp Phật Đa Bảo ở quá khứ v.v.… lại đến phân thân ở mười phương. Ứng hóa vô lượng thế giới của chư Phật trong mười phương, vì tất cả chư Phật đầy trong tất cả cõi nước, dời các trời người, ba đường tám nạn đặt ở cõi khác, không cho ở tại hội, không có chúng tạp nhạp khác, nên biết hội này chỉ nói nhất thừa, vì Bồ-tát Nhất sinh Bổ xứ được Như Lai thọ ký, hoặc phát ra ánh sáng rực rỡ giữa hai đều chân mày, việc đồng với phóng quang trên đảnh. Nên biết hội này vì Đại Thanh văn là những vị Bồ-tát mật hạnh, người đã qua Thập địa, vào cảnh giới

Phật, được Như Lai thọ ký, như trong kinh Pháp Hoa nói. Hai thứ phát ra ánh sáng thọ ký, chỉ nói về quả Phật Nhất thừa, trí tuệ Phật, không có tạp chúng khác, nên không nói thọ ký cho chín đường.

Hỏi: Phật đại Từ đại Bi bình đẳng nói pháp, chúng sinh nghe khắp vì sao khi nói Pháp Hoa, ba lần biến thế giới tám phương chung thành một cõi Phật. Lần biến thứ nhất, thế giới chư Phật ở tám phương năm trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sát na v.v.… đồng ở cõi Ta-bà. Hai phương trên dưới cũng giống như thế. Lần biến hóa thứ hai, ở tám phương, mỗi phương có hai trăm muôn ức na-do-tha Hằng sa thế giới chư Phật cũng đồng đến Ta-bà. Lần biến hóa thứ ba, tám phương mỗi phương hai trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sát na v.v.… thế giới chư Phật đồng ở Ta-bà. Ba lần biến như thế, mỗi lần phát ra ánh sáng từ sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày, dời các trời, người, a-tu-la v.v.…, ba đường tám, bát nạn đặt ở phương khác, chẳng được nghe pháp? Nên biết Như Lai tâm không bình đẳng.

Đáp: Việc này không đúng, trí tuệ Như Lai chẳng phải là cảnh giới của ông, chẳng nên vặn hơi rằng Phật không bình đẳng, vì sao? Vì hội Diệu Pháp Liên Hoa chỉ nói nhất thừa, mau tắt nhất trong các sự mau tắt, trí tuệ Phật vì đại Bồ-tát được Như Lai thọ ký, khó tin khó hiểu, cho nên hàng Nhị từa lậu tận, Bồ-tát mới phát tâm, cho đến các Bồ-tát bất thoái v.v… còn nghi ngờ không hiểu nổi, huống chi người khác. Ví như vua Thánh Chuyển luân ở thế gian, trang nghiêm bốn thiên hạ nhóm họp các vua Chuyển luân cùng bàn luận việc Thánh vương. Chỉ có đại thần trí tuệ ở bên cạnh vua mới tin hiểu, được gần tòa vua, đồng bàn việc vua. Các gian thần khác, ngu si ám độn thì không nghe nổi, chẳng được cùng tòa, huống chi các tiểu vương và các tôi tớ mà gần được toà vua? Như Lai đốn giáo cũng lại như thế. Chỉ có bậc Đại sĩ Nhất sinh bổ xứ vô cấu, được trí tuệ Phật, là người được Như Lai thọ ký mới được nghe. Hội này không nói kinh dẫn đạo, cho nên người khác không được ở tại tòa. Nếu người khác nghe không hiểu sẽ sinh nghi ngờ phỉ báng, rơi vào địa ngục. Cho nên dời họ đến nơi khác. Bốn chúng năm ngàn người cũng giống như thế. Ví như mắt người Diêm-phù-đề không thấy được các vị trời ở thượng giới, nếu người thấy được hai mắt sẽ mù. Trời, người, a-tu-la, ba đường tám nạn cũng giống như thế, thấy ánh sáng thọ ký giữa hai đầu chân mày, nhục nhãn còn chẳng được, huống chi nghe nói được Như Lai thọ ký. Nếu người nghe được sẽ sinh phỉ báng, mất hẳn tín tâm, dứt các gốc lành, làm nhất-xiển-đề. Vì muốn giữ gìn ý của họ nên không cho nghe. Ví như người ở đời đói khát gầy gò, nhịn ăn bụng xép đã lâu, không được một lần đến ăn nhiều cốm khô cho đến bánh cứng, miến bún, rượu. Nếu ăn no sẽ chết không nghi ngờ gì. Năm ngàn bốn chúng, trời, người, a-tu-la, ba đường tám nạn cũng giống như thế vì phước đức mỏng manh không có khả năng nghe Như Lai thọ ký.

Hỏi: chư Phật có vô lượng phương tiện thần thông, một âm nói pháp tùy loại mà hiểu được, vì sao lại dời họ đi nơi khác?

Đáp: Đúng như ông hỏi, âm của cõi khác có hai nghĩa:

1/ Cõi của mình là Như Lai tàng. Tất cả chúng sinh không thể hiểu, tham nghiệp thiện ác, luân hồi sáu đường.

2/ Tất cả chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay thường ở trong sáu nẻo, luân hội chẳng lìa như nhà cửa của mình cũng gọi là cõi của mình (bổn độ). Trời, người, a-tu-la v.v.… vì phước đức mỏng nên không thể cảm thấy ba phen biến giường tòa, lại không cảm nghe tiếng rất sâu mầu lời dạy vốn không như. Vốn không nhuư này Như Lai như nhất. Như ,không hai, như gốc ngọn rốt ráo, v..v… Chỉ có Phật với Phật mới biết được, người khác không hiểu. Năm ngàn bốn chúng, trời, người, a-tu-la, ba đường tám nạn chẳng nghe vốn không như, chẳng được hiểu rốt ráo. Cho nên gọi là để ở nơi khác. Lại nữa, năm ngàn trời, người, a-tu-la và những chỗ nạn, chỗ ngồi khác, nghe khác hiểu được cạn cợt, bỏ hẳn sáu đường. Cho nên còn gọi là đặt ở chỗ khác, mà thật không có dời đi, chẳng hay chẳng biết, chẳng rời chỗ ngồi của mình, chúng sinh hiểu không đồng nên nói nơi khác.

Lại muốn nói lại nghĩa thọ niệm, nên Phật nói kệ rằng:

Hành giả lúc mới quán thọ niệm
Ba thứ pháp thọ khó bỏ lìa
Khổ thọ làm sinh các sợ hãi
Cũng sinh chín nẻo các oán hại
Thường ôm phẫn hận làm phương tiện
Thù oán được dịp đoạn mạng họ
Hoặc tham trụ xứ được lợi dưỡng
Thấy người hơn mình muốn đến giết
Hoặc thêm phỉ báng truyền danh ác
Hoặc thời kiếm người sai giết hại
Pháp khổ thọ này có ba loại
Thọ trong, thọ ngoài, thọ trong ngoài.
Nếu muốn dứt trừ các thọ khổ
Nên quán kẻ thù như con đỏ
Cũng như cha mẹ và anh em
Cũng như các thầy và bạn học
Đời đời đều cùng sinh theo họ
Là cha mẹ trong vô lượng kiếp
Ta trong nhiều kiếp từng sinh họ
Tất cả đều là con của ta
Lúc quán này thành, tức giện chết
Đạt được tâm đại Từ đại Bi
Kẻ thù thương khen sinh hối hận
Như thấy cha mẹ đều quy mạng
Ta xưa kia từng học với họ
Tất cả đều là thầy của tà mạng,
Hoặc tu tục lễ và ngũ kinh
Hoặc học đạo xuất thế giải thoát
Học pháp lành nên tiếng tốt truyền
Nhẫn não hại nên được thần thông
Tất cả đều là Hòa-thượng ta
Cũng là các thầy và bạn học.
Phải nên hiếu thuận siêng cúng dường
Cung kính cúng dường nghĩ như Phật
Nếu được vui năm dục hấp dẫn,
Chỗ vua trời người vui tự tại
Vui Thiên vương, nhân vương ba cõi
Lúc vô thường đến đều tan mất
Tất cả thọ vui là gốc khổ
Báo vui hết rồi, báo khổ tới
Tham nhận vinh hoa cho là thường
Lúc thương chia lìa địa ngục đến,
Thọ khổ vui dứt thì không khổ
Không khổ không vui thì vô sinh
Đủ năm phần liền trừ năm dục
Cũng trừ năm cái, nhân chướng đạo
Năm dục, năm cái phiền não hết
Đầy đủ năm chi nhập Sơ thiền
Nhị thiền, tam thiền, đệ tứ thiền
Lại nhập Sơ thiền quán năm Ấm
Thấy thân như bọt, rỗng như bóng
Thở ra vào như gió trong không
Thấy đời quá khứ vô lượng kiếp
Các thọ năm Ấm sinh diệt không
Dứt năm dục nên phiền não hết
Dứt năm cái nên được năm thông
Dứt năm dục nên được như ý
Dứt năm cái nên được ba minh
Cho nên chư Phật có nói kệ
Rằng trong ngoại kẻ thù đều dừng
Trừ cha vô minh cũng diệt lui
Nếu dứt được tham, các ái hết
Tự giác, giác tha gọi giải thoát
Ma mẹ các hành đã diệt xong
Ma cha vô minh cũng phá nát
Đã dứt phiền não được sáu thông
Lập thệ nguyện lớn độ tất cả,
Tự hay dứt trừ ba thọ rồi
Cũng dứt tất cả thọ chúng sinh
Được tự tại tuổi thọ vô lượng
Cũng biết tất cả giải thoát thọ
Biết phàm Thánh chín đường thọ ký
Cũng được Như Lai ký bổ xứ
Nếu muốn nói pháp độ chúng sinh
Trước hiện việc đặc biệt ít có.
Thâm nhập thiền định phát ra ánh sáng.
Chiếu khắp mười phương các thế giới
Biến các uế ác thành tịnh độ
Hàng cây bảy báu để trang nghiêm
Ba đường tám nạn đều giải thoát
Đồng với trời, người đến nghe pháp
Dùng thọ niệm xứ quan sát họ
Sau đó nói cho họ nghe.
Hoặc khiến thế giới tịnh uế khác
Mỗi chúng sinh thấy chẳng biết nhau
Hình sắc âm thanh mọi thứ khác
Mỗi chúng sinh nghe đều chẳng đồng
Đều thấy Phật nói cho nghe.
Đều chẳng thấy trước người có Phật
Tuy lại sai biệt mỗi người khác
Khiến cho cùng lúc đều giải thoát
Tùy chúng sinh tuổi thọ ngắn dài
Năng tự tại thọ các mạng sống.
Hoặc thấy thọ vắn nhập niết-bàn
Hoặc thấy thọ lâu vô lượng kiếp
Thọ niệm xứ này lúc mới học
Dứt được khổ vui, các trói buộc
Trước quán các thọ khổ trong ngoài
Cũng quán các thọ trong ngoại không
Chẳng khổ chẳng vui, thọ cũng không
Dứt Ấm giới, nhập phá vô minh
Quán ba thọ tánh chẳng không hữu
Thì không trói buộc, không giải thoát
Pháp tánh không Phật, không Niết-bàn
Cũng không nói pháp độ chúng sinh
Chúng sinh và Phật một như như
Rốt ráo gốc ngọn không khác nhau
Ngồi đạo tràng được thành Phật đạo
Tức là đạo sư phương tiện nói
Như người trong mộng được thành Phật
Phát ánh sáng nói pháp độ chúng
Đây không Phật đạo, không chúng sinh
Phật pháp tánh tướng cũng như thế
Chúng sinh mê hoặc không hiểu biết
Dính sâu nhân khổ không tạm bỏ
Nhân của các khổ, tham là gốc
Bỏ tâm tham cầu nương vô tướng
Thấy các thọ rỗng, vô sinh diệt
Chứng khổ vô sinh, khổ Thánh đế
Trong ngoài giả hợp gọi là Tập
Không mười tám giới, tập Thánh đế
Sinh diệt diệt rồi gọi vắng lặng,
Chứng vô vắng lặng, diệt Thánh đế
Ấm không trói mở, không tà chánh
Chứng tuệ bình đẳng, đạo Thánh đế
Tứ đế không hai là một đế
Thật không bốn loại đế khác nhau
Nhất đế không nên tức không đế
Không đế xảo tuệ, Phật ba đế
Tất cả chúng sinh từ xưa nay
Không sinh không diệt không trói mở
Năm Ấm tánh như, không sáng tối
Phàm phu và Phật không một hai.

Ba mươi bảy phẩm đều nằm trong này. Quán Thọ niệm xứ nhiều nên thọ niệm xứ làm chủ, nên một mình nhận lấy tên. (Nói lược về thọ niệm xứ xong).

PHẨM TÂM NIỆM XỨ

Lại nữa, hành giả! lúc mới học thiền, nhiều niệm suy nghĩ, giác quán phan duyên như vượn nhảy, chẳng hề tạm dừng. Dù cho hành giả thường quán theo tâm cũng không thể nhiếp, liền nghĩ rằng Ba cõi luống dối đều do tâm tạo, tức quán tâm này từ chỗ nào sinh, nếu tâm ở trong thì ở chỗ nào? Quán khắp trong thân tìm tâm chẳng được, không lúc mới sinh, cũng không tướng mạo. Nếu tâm ở ngoài thì trụ ở đâu? Quán khắp ngoài thân tìm nơi ở của tâm đều chẳng thấy. Lại quán khoảng giữa, cũng chẳng thấy tâm. Lúc quán như thế, chẳng thấy tâm từ trong vào, chẳng thấy tâm từ ngoại vào, chẳng thấy tâm trong ngoại vào, chẳng thấy tâm trong Ấm, chẳng thấy tâm trong giới, nên biết tâm này rỗng không, không có chủ, không danh, không danh hành, không tướng mạo, không theo duyên sinh, không từ phi duyên sinh, cũng chẳng phải tự sinh. Cái danh này, có thể quán tâm niệm, tâm niệm sinh diệt, quán niệm niệm sinh diệt, tướng quán niệm niệm chẳng thật có, cũng không sinh diệt. Quán tâm người cũng Như quán tâm mình, lại quán tâm tánh, không có tâm tánh cũng không tướng mạo, rốt ráo không có tâm, cũng không chẳng thấy tâm. Quán như thế xong, thân tâm rỗng lặng, tuần tự nhập thiền, có thể khởi thần thông. Lại nữa, Đại Bồ-tát quán tâm niệm xứ, học được tất cả thiền định giải thoát khởi thần thông Như ý, lập thệ nguyện rộng lớn, độ tất cả chúng sinh, trước tiên phải quán tâm này nhập Sơ thiền, tuần tự nhập đến đệ tứ thiền, cho đến định diệt thọ tưởng, lại nhập tâm Sơ thiền quán niệm xứ trong tâm, ngoại tâm, trong ngoại tâm, cũng lại quán sát ba độc, bốn đại, năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên. Quán như thế xong, quán các giải thoát khắp tất cả tha-tâm-trí Tam-muội. Dùng tha tâm trí Như ý thần thông, cũng nhập thiên nhãn, túc mạng, lậu tận thần thông quán khắp. Các thần thông như thế rồi, quán bảy phần giác, trụ Tam-muội tha tâm trí, dùng niệm giác phần, trạch giác phần và tinh tấn giác phần quán khắp tâm tâm tánh dục của tất cả chúng sinh mười phương, dùng thập lực trí phân biệt chúng. Mỗi chúng sinh cảm nghe pháp gì, nghe âm thanh gì, thấy sắc tượng gì, ở môn giải thoát nào mà được giải thoát. Quán như thế xong, dùng hỷ giác phần thần thông Tam-muội, đều khiến cho chúng sinh trong sáu đường khắp mười phương đều rất vui mừng, dùng trừ giác phần, định giác phần, xả giác phần, dùng như ý thần thông hiện khắp sắc thân, thượng trung hạ căn, tùy cơ nói pháp khiến đều giải thoát. Tâm niệm xứ này, lúc mới tu học, thân tâm được tự chứng, tự dứt tất cả tâm tưởng vọng niệm, các kết sử phiền não, cũng có thể dạy người khác tu học như mình. Nếu chưa được thần thông thì không có năng lực rõ được, chẳng biết các thứ căn tánh của chúng sinh, chỗ nghĩ khác nhau, chẳng xứng hợp với căn cơ của họ, lợi ích rất ít, suy nghĩ rằng chỉ là lúc học, chưa phải lúc nói, chẳng nên gượng nói lời không đ1ung lúc. Nếu tu thiền định, được thần thông rộng lớn như ý tự tại, được tha tâm trí sai biệt Tam-muội. Một niệm đều biết tâm khác nhau của phàm Thánh, thông đạt vô lượng A-tăng-kỳ kiếp quá khứ vị lai như đời hiện tại. Học như thế xong thì có thể nói pháp. Suy nghĩ đã xong, lại nhập Sơ thiền quán về thân tâm rỗng không như bóng dáng, hơi thở như gió trong hư không, tâm không tướng mạo, nhẹ nhàng tự tại, liền được thần thông, trụ đệ tứ thiền, phát ra ánh sáng rực rỡ.

1- Sắc quang chiếu khắp sắc thân phàm Thánh mười phương.

2- Phát ra ánh sáng trí tuệ chiếu khắp trí tuệ của phàm Thánh trên dưới khắp mười phương chín đường, có thể biết khắp hết chỗ đúng, chỗ sai của họ, và biết nhân duyên quả báo đời trước, cũng như Tam-muội thân niệm xứ, thọ niệm xứ. Hiện tất cả thân, như thế mười phương xa gần như ở trước mắt vì họ nói pháp, đều khiến giải thoát. Lúc muốn nói pháp, hiện việc ít có làm an lạc chúng sinh, khiến họ rất vui mừng. Dùng năng lực thần thông biến chỗ dơ uế xấu ác ở các thế giới mười phương thành tịnh độ. Tất cả những vật báu như vàng bạc lưu ly xen lẫn trong đất ở chỗ này, đầy dẫy thế giới, chiên đàn thượng diệu, hàng cây bảy báu, hoa quả xum xuê, từng dãy song song, đài quán lầu gác, thành ấp xóm làng, giường phòng bảy báu, như ý bảo châu, ánh sáng chiếu nhau như mặt trời mặt trăng hiện, giống như Tịnh độ mà Như Lai ở. Chư Phật, Bồ-tát đầy đủ ở đó, mỗi vị hiện thần thông hàng phục ma trời, phá các ngoại đạo. Hoặc có chư Phật lặng lẽ thiền định, từng phần thân trên dưới phát ra ánh sáng rực rỡ, giống như đám mây. Trong ánh sáng đầy khắp mười phương hiện tất cả Phật sự. Hoặc có Bồ-tát hiện việc không thể nghĩ bàn, đặt nước bốn biển lớn vào một lỗ chân lông, các loài thuộc thủy tánh chẳng biết qua lại, để núi chúa Tu-di vào trong hạt cải, cũng chẳng ép hẹp, rồi mang về chỗ cũ. Trời Tứ thiên vương và trời Đao-lợi chẳng hay chẳng biết, thế giới Tam thiên đặt trên một sợi lông cũng không nghiêng đổ, tất cả đại chúng chẳng biết rộng hẹp, như cũ chẳng khác. Trời, người giao tiếp nhau, đều thấy được nhau. Tất cả trời, người chưa đắc đạo và các Thanh văn, Bồ-tát hạnh nhỏ đều thấy được việc không thể nghĩ bàn này. Chư Phật mười phương, các Tứ thiên vương và A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v.… đều cùng Bồ-tát đối diện nói chuyện, có thể đem một mặt đối với tất cả mặt. Như hình ảnh trong gương, mặt cũng không khác, sau đó nói pháp, khiến mọi người nghe, cùng lúc đắc đạo. Đó gọi là Bồ-tát trụ tâm niệm xứ như ý thần thông như nguyện Tam-muội. Ba mươi bảy phẩm tất cả Phật pháp đều ở trong đó. Quán tâm niệm xứ là gốc, cho nên tâm niệm xứ là chính, chỉ nêu tên này giảng về nghĩa tâm mà nói kệ rằng:

Tâm trong, tâm ngoài, tâm ở giữa
Tất cả đều là tâm, tâm sổ
Tâm tánh thanh tịnh không danh tướng
Không tại trong, ngoài, chẳng ở giữa
Chẳng sinh, chẳng diệt, thường vắng lặng
Không dơ không sạch không sáng tối
Chẳng định, chẳng loạn, chẳng duyên lự
Không động không trụ không đến đi
Không sinh, không chết, không Niết-bàn
Chẳng đoạn ,chẳng thường, không trói mở
Chẳng Như Lai tàng chẳng, phàm Thánh
Không rõ là phàm, rõ là Thánh
Hành giả lúc mới học cầu đạo
Quán sát tâm sổ và tâm tánh
Quán sát tâm sổ là phương tiện
Biết rõ tâm tánh gọi là tuệ,
Lúc mới ngồi thiền quán bất tịnh
Quán thở ra vào tướng sinh diệt
Quán bất tịnh và thở ra vào
Là tâm tâm sổ, chẳng tâm tánh,
Quán tâm, tâm sở, dứt phiền não,
Tánh tâm tức là tánh phiền não
Tâm sổ, tâm tánh, bình đẳng quán
Đầy đủ thiền tuệ thành đại Thánh
Bất tịnh mới học dứt năm dục
Tu lâu đạt được như ý thông
Quán hơi thở, hiểu giả danh không
Tu lâu bay đi không chướng ngại
Hai quán đầy đủ thành một quán
Đạt được ba minh thấy ba đời
Thân niệm, thọ niệm và pháp niệm
Biết rõ ba niệm do quán tâm
Trong giả, ngoại giả, trong ngoại giả
Ba giả danh này chẳng pháp thật
Tâm niệm chẳng giả, chẳng chân thật
Cầu rõ ba giả nên quán tâm
Một gọi là tướng, hai gọi tánh
Ba giả do tướng, chẳng do tánh
Từ vô minh duyên đến già chết
Đều là do tâm tướng tạo ra
Thân giả danh này và các thọ
Pháp thiện, bất thiện và vô ký
Đều do tâm vọng niệm tạo thành
Quán tâm vọng niệm không chỗ sinh,
Tức chẳng phiền não, chẳng vô minh,
Tâm tánh vô niệm, không thể quán
Quán bốn Niệm xứ tâm tưởng hết
Phiền não dứt sạch tức tận trí
Nếu quán tâm tánh rõ bốn niệm
Hiểu pháp vô sinh, trí vô sinh
Chẳng tâm vọng niệm, chẳng duyên lự
Không tạp nhiễm nên không sáu đường
Nếu người thuận theo tâm vọng niệm
Giữ giới ngồi thiền muốn cầu đạo
Như mưa áo đẹp bị biến mầu
Không chứng vô lậu đắm thiền vị
Chẳng được giải thoát, về bốn đường
Huống chi phá giới không thiền định
Điên đảo vọng tâm chấp văn tự
Tâm tánh thanh tịnh như ngọc sáng
Chẳng bị các sắc làm ô nhiễm
Ví như châu như ý thanh tịnh
Vật nhiều màu bỏ vào trong nước
Khiến cho nước trong tuy màu đổi
Lúc trong vật xanh thì nước xanh
Vàng, đỏ, trắng, đen theo đó đổi
Màu châu, lặng lẽ không đổi khác
Tâm tánh thanh tịnh, như ý châu
Nghiệp thiện ác tạp duyên, mầu tạp
Thiền hữu lậu mười thiện sinh thiên
Gây nghiệp ác đọa bốn đường,
Giữ giới thanh tịnh tu thiền trí
Chứng được đạo vô lậu giải thoát
Từ mé sinh tử đến Niết-bàn
Tâm tánh lặng lẽ không biến đổi
Ví như châu như ý thế gian
Tùy chỗ người cầu đều ứng hiện
Châu không tâm tướng, không niệm khác
Tùy chỗ niệm cầu thảy tròn khắp
Tâm tánh không thể, không tên gọi,
Tùy nghiệp người học phàm Thánh hiện
Nếu người muốn cầu đạo giải thoát
Đầy đủ mười thiện quán ba tánh,
Tâm tánh, nhãn tánh và ý tánh
Đầy đủ ba tin, ba giải thoát
Quán thân tâm không, giữ tịnh giới
Chứng chân như hiểu gọi tin giới
Quán thân như bóng như hóa sinh
Quán tâm không chủ, không tên gọi,
Quán tội, không tội như mộng huyễn,
Cho đến mất mạng không phá giới
Giữ giới rốt ráo chứng vắng lặng
Chóng lìa được phân biệt về tướng
Giữ giới tuy không, chẳng lẫn đời
Cũng cẳhng chấp không, theo thế pháp
Thâm nhập niết-bàn giải thoát ý
Chẳng bỏ mười hạnh lành thế gian
Đạt được trí tuệ thiền vô lậu
Tâm chẳng loạn định, tức tin vững
Tu bốn Niệm xứ dứt bốn đảo
Chứng Bốn chân đế, một đế tướng
Gọi là Bát-nhã ba-la-mật
Tánh như của pháp, như tuệ tín
Nếu người đầy đủ ba tin này
Là người có thể được pháp thí,
Tín, thí, giới, văn, tuệ, hổ, thẹn,
Bảy tài sản này là đạo sư
Nếu không đầy đủ bảy pháp này
Người này không nên lên tòa cao
Đã không tin chứng tự chẳng biết,
Nói dối với chúng giảng điều
Người nay tự dối lại dối người
Loạn tâm hời hợt báng lời Phật
Như trưởng giả giàu tự có của
Đem ra bố thí là thật cho
Nếu người tu đạo chứng giải thoát
Như trưởng giả giàu lành thật thí
Người nhận, người học đều theo đây
Trước học tự chứng nói như thật
Chẳng nên hời hợt loạn đời sau
Ý Phật rất sâu khó thể biết
Như giáo tu hành, chứng bèn hiểu
Tánh này tuy không, chẳng sinh diệt
Tùy hỉ nghiệp ác ắt có báo,
Ví như hư không, chẳng sáng tối
Gió mây tĩnh loạn, có sáng tối
Nếu sớm bình thường không gió mây
Mặt trời mọc hư không sáng sạch
Nếu gió mạnh, mây mù nổi dậy
Hư không bụi mù gió tối tăm
Tánh hư không này chẳng dơ sạch
Không bị sáng tối làm ô nhiễm
Tâm tánh chúng sinh cũng như vậy
Sinh tử Niết-bàn không thể nhiễm
Tâm tánh chúng sinh cũng như vậy
Không bị đoạn thường làm ô nhiễm
Tâm tánh chúng sinh nếu vô thường
Niệm niệm diệt hoại không nghiệp báo
Tâm tánh cũng chẳng không vô thường
Dứt phiền não nên được giải thoát
Vì sinh tử, giải thoát chẳng mất
Nếu nói tâm tánh chẳng vô thường
Cầu đạo chẳng nên được giải thoát
Nếu bỏ sinh tử được giải thoát
Nên biết giải thoát tức vô thường
Nếu tánh sinh tử không bỏ được
Nên biết sẽ không có giải thoát
Nếu nói sinh tử không thể bỏ
Lời của người này không thể bỏ
Nếu nói sinh tử là bỏ được
Lời của người này không đáng nương
Nếu nói cái chết không thể bỏ
Chúng sinh sẽ không được giải thoát
Nghĩa này phải như thế, vì sao?
Chúng sinh chẳng phải pháp sinh tử,
Nếu chúng sinh là pháp sinh tử
Bỏ sinh tử thì bỏ chúng sinh
Chúng sinh nếu là người tự bỏ
Cũng nên tự bỏ pháp giải thoát
Tánh của chúng sinh tức tâm tánh
Tánh chẳng sinh tử, chẳng giải thoát
Như tánh hư không chẳng sáng tối
Không có sinh tử, không giải thoát
Tâm tánh chúng sinh như ngọc sáng
Sinh tử giải thoát dụ như nước
Muôn ác, muôn thiện, dụ các mầu
Tùy nghiệp thiện ác hiện đủ loại
Điên đảo vọng niệm gây thiện ác
Theo nghiệp thọ báo khắp sáu đường
Nếu giữ tịnh giới tu thiền trí
Pháp thân nơi nơi đều ứng hiện
Tuy theo bóng nghiệp hiện các thứ
Tâm tánh ngọc sáng chưa hề đổi.
Xá-lợi-phất hỏi một tỳ-kheo:
Tỳ-kheo! Thầy được giải thoát ư?
Tỳ-kheo trả lời Xá-lợi-phất
Nay tôi đạt được các phiền não
Pháp nay không ở tại Niết-bàn
Cũng lại không ở trong sinh tử
Nếu nói sinh tử tức Niết-bàn
Lìa Ấm là ta, tức ngoại đạo
Nếu nói chẳng tức cũng chẳng lìa
Cũng không chẳng tức, không chẳng lìa
Người này đầy đủ sáu mươi hai,
Đều là bọn tà kiến ngoại đạo
Chúng sinh chẳng phải tướng chúng sinh
Cũng lại chẳng không phải chúng sinh
Sinh tử Niết-bàn giả danh nói
Chỉ Phật và Phật biết điều này.

PHẨM PHÁP NIỆM XỨ

Lại nữa Bồ-tát mới học ngồi thiền quán pháp niệm xứ là pháp thiện, pháp bất thiện và pháp vô ký.

1/ Pháp thiện có hai loại:

  1. Mười thiện đạo hữu lậu và định bốn thiền, bốn không là pháp lành thế gian.
  2. Thiện xuất thế gian: Định vô lậu bốn thiền, bốn không, định Diệt thọ tưởng, ba mươi bảy phẩm là pháp lành xuất thế gian.

2/ Pháp bất thiện có hai loại:

  1. Mười pháp ác của thân miệng ý.
  2. Thân miệng ý gây ra năm tội nghịch.

Lại có một người nặng về năm nghịch, người này học đạo, gặp ác tri thức, ma quỷ nhập vào tâm, thường nói rằng mình hiểu nghĩa Không rất sâu của Đại thừa, phạm bốn tội nặng, dâm dục lừng lẫy, uống rượu ăn thịt, không giữ trai giới, nói rằng: Các pháp đều không, ai dơ ai sạch, ai đúng ai sai, ai làm ai chịu? Nghĩ thế rồi liền phá oai nghi, phá chánh mạng. Vô lượng chúng sinh lười biếng buông lung, không thể cầu đạo, thấy “pháp chấp không sai lầm” dễ thực hành này liền phá giới, cùng nhau làm bè đảng báng Phật, báng pháp, mắng Tỳ-kheo tăng, khinh chê tất cả Tỳ-kheo, khiến cho nghi ngờ thảy đều phá giới, dứt dòng dõi chư Phật, năm tội nghịch, khi chết đều vào địa ngục A-tỳ. Thường dối trá xưng ta như Pháp sư gốc lành, hiểu nghĩa sâu xa. Người tinh tấn khác đều là Tỳ-kheo háo thắng, chẳng bằng ta. Dối gạt như thế làm hư hỏng chúng sinh. Nếu chấp vào “không có đường ác”, thật không biết Phật pháp, hủy báng Tam Bảo, gây năm tội nghịch. Trong kinh Đại Tập, Phật bảo vua Tần-bà-sa-la: Đời vị lai có các Tỳ-kheo tội ác, hành dâm phá giới, uống rượu ăn thịt, nói với bốn chúng, là mình hiểu nghĩa Không của Đại thừa như thế, lãnh đạo vô lượng quyến thuộc phá giới. Bốn chúng không có thế lực, không trị họ được. Phật lại bảo vua rằng: Nay ta phó chúc kinh pháp Đại thừa này, cho Đại vương, để trị các Tỳ-kheo tội ác phá giới. Nếu vua không trị, chết vào địa ngục. Vua Tần-bà-sa-la nghe xong, đều cho là pháp ác. Pháp hành của tỳ-kheo thì không thực hành pháp ác phá giới này.

3/ Pháp vô ký:

  1. Chẳng phải mười điều thiện.
  2. Chẳng phải mười điều ác .

Ở giữa tâm tán loạn vô ký, chẳng thuộc thiện ác gọi là Vô ký. Lại nữa, trong A-tỳ-đàm nói: Trong sắc, một có thể thấy mười thì nói có đối. Vô ký có tám loại, ngoài ra là thiện, bất thiện. Đây là mười hai nhập. “Trong sắc, một có thể thấy” là nhãn có hai nhập. Chỉ thấy cảnh trước, các sắc thiện ác không tự thấy. Nhãn căn biết gọi là một có thể thấy, nếu thấy người v.v… người trong oán thân có thể ghi nhớ, vọng phân biệt trải qua thời gian lâu, sau gặp lại nhau, dường như đã quen biết. Tôi từng ở chung với nọ, gặp các chúng sinh khác không phải sắc chúng sinh, cũng giống như thế, đều thuộc một sắc nhập. Cho nên nói “Trong sắc, một có thể thấy”. “Mười thì nói có đối” là tai đối với âm thanh, mũi đối với mùi thơm, lưỡi đối với vị, thân đối với các xúc chạm, ý đối với pháp, cho nên nói “mười thì nói có đối”. “Vô ký là tám loại”: Nhĩ căn đối với tiếng không thể gặp nhau, chẳng biết nơi chốn, không thấy sắc tượng, chẳng thể ghi chép, cũng lại không biết người oán thân và âm thanh khác, tiếng vang của phi nhân. Nếu mắt không thấy, tâm ý không biết, đều không thể ghi nhớ, nhưng có thể đối nhau. Thí như có người ngồi dưới tòa nói pháp, tâm duyên việc ngoài, cảnh ngoài. Mắt cũng không nhìn cảnh giới, cho đến duyên theo tòa, không hề nghe tiếng nói của Pháp sư, các căn mũi, lưỡi, thân cũng như thế, chẳng thể ghi nhớ nên gọi là Vô ký. Dù cho có nhớ, phải có ba việc hòa hợp ý v.v.… mới ghi nhớ được. Một mình thì không thể ghi nhớ. Bốn căn đối bốn trần nên nói tám loại chẳng thể ghi nhớ nhau, cho nên nói “vô ký là tám loại”. “Ngoài ra thì thiện, bất thiện”: Ý và pháp đối nhau, đều có thể ghi nhớ việc thiện, bất thiện. Tôi từng ở đâu, làm bao nhiêu pháp lành, công đức như thế. Tôi từng ở đâu gây ra bao nhiêu tội nặng, bao nhiêu tội nhẹ. Tôi ở chỗ nọ không gây thiện ác, tùy nghi mà an trụ, không gây ra điều gì cả. Tôi từng ở chỗ ấy làm được bao nhiêu điều tốt, bao nhiêu vật chẳng tốt. Pháp thiện và bất thiện cũng giống như thế. Nhưng ý căn này không có nơi chốn, có thể thấy xa chính đáng việc của năm trần, ví như con rùa thần nhận biết việc kín, đều có thể ghi nhớ, chẳng gọi là vô ký, nhưng được gọi là tâm của pháp thiện, bất thiện. Có thể xem khắp pháp mười hai nhập, sáu thức do tâm, ý chỉ biết phần ít không thể biết hết, phan duyên tính toán gọi là Tâm, thuộc đang nhận giữ gọi là Ý. Cho nên trong kinh Đại Tập nói ngồi thiền học đạo theo pháp hành của tỳkheo nên quán ba tánh: 1- Tâm tánh. 2- Nhãn tánh. 3- Ý tánh. Ba pháp này nhẹ nhàng tiện lợi, việc dùng mạnh mẽ. Lại nữa, pháp niệm xứ có pháp trong, pháp ngoại, pháp trong ngoại. Pháp trong là sáu căn, pháp ngoại là sáu trần, gọi là sáu cảnh, pháp trong ngoại là sáu thức, cũng gọi là sáu trần. Mười tám giới, ba độc, bốn đại, năm Ấm, mười hai nhập, thập nhị nhân duyên đều là ở đây. Nay chỉ nói chung, các pháp khác cũng gồm nhiếp tất cả. Tất cả phiền não, vô minh là chính. Do mắt thấy sắc sinh tâm tham ái. Ái tức là vô minh, vì ái gây ra nghiệp gọi là Hành, chí tâm chí niệm gọi là Thức. Thức cộng với Sắc và Hành gọi là danh sắc. Sáu chỗ sinh tham gọi là sáu nhập. Nhân nhập mà cầu thọ gọi là xúc. Nghĩ sắc đến pháp gọi là Thọ. Tâm tham đắm gọi là Ái. Tìm kiếm khắp nơi gọi là Thủ. Pháp sinh như thế gọi là hữu. Lần lượt không ngừng gọi là Sinh, thứ lớp dứt gọi là Tử. Các khổ ép ngặt gọi là não, cho đến thức pháp nhân duyên sinh tham cũng giống như thế. Mười hai nhân duyên này, một người trong một niệm tâm đều đầy đủ gọi là phiền não, sinh già bệnh chết. Mười hai nhân duyên chẳng phải giải thoát. Giải thoát, nhân mắt thấy sắc sinh tâm tham ái gọi là Vô minh, vì ái mà tạo nghiệp gọi là Hành. Lúc chưa gặp sắc gọi là độc đầu vô minh, cũng gọi là Vô thỉ vô minh, cũng gọi là Bất công vô minh. Nếu mắt không đối sắc thì không thể sinh ái vì không có bạn cùng hợp. Không có hai pháp ái và hành, không thể ở trong đó gieo trồng hạt giống thức, nên gọi là Vô minh, độc đầu vô minh, bất cọng vô minh. Hàng Nhị thừa Thanh văn và các hành giả mới nhập đạo không thể dứt được vô thỉ vô minh này. Chư Phật, Bồ-tát và hành giả Nhị thừa chỉ đoạn hữu thỉ cộng bạn. Vô minh hợp với ái gọi là bạn, có thể tạo hành nghiệp gọi là thỉ sinh, bắt đầu sinh là nhân đầu tiên của thân. Cho nên là vô thỉ vô minh. Vô minh là cha, tâm ái là mẹ, hành nghiệp hòa hợp sinh hạt giống thức, cũng được gọi là trồng hạt giống thức. Trồng thân vị lai nên gọi là trồng. Danh sắc là mầm nên gọi là sinh. Như thế nên biết là có thể dứt trừ. Người cầu giải thoát nên quán sát cha mẹ sinh tử, dứt cho hết không để sót. Người quán sát lúc mắt thấy sắc nên nghĩ rằng: Căn trần rỗng sáng, ý thức chú vào vọng tưởng hòa hợp cùng sinh ra nhãn thức. Thấy các sắc tượng tạm gọi là Mắt. Lại nghĩ: Cái gì là mắt? Rỗng không là mắt ư? Sáng là mắt, trần là mắt hay ý là mắt? Hay là thức sinh một mình gọi là mắt? Xương vành mắt là mắt? Hay nước mắt là mắt? Hay con ngươi là mắt? Nếu rỗng không là mắt thì không sắc không đối chẳng thấy gì lẽ ra không phải là mắt. Nếu sáng là mắt thì không căn, không hay, không biết gì, lẽ ra không phải mắt. Nếu căn là mắt, nước mắt, con ngươi, vành con mắt khác nhau, không và sáng chưa hiện nhìn không thấy sắc. Không và sáng nếu hiện, người mù bẩm sinh, mắt không hư mà không thể thấy sắc. Nên biết không, sáng và căn đều không có mắt. Nếu sắc là sáng thì tánh sắc vô tri, không thể tự thấy. Hư không chẳng có chỗ sinh, không có tình, không có đối, không hòa hợp với căn. Nên biết sắc trần, hư không chẳng có mắt. Vì sao? Vì dù căn trần đối nhau mà hư không và ánh sáng không hiện, ý không chú ý thì không thấy sắc. Nên biết căn, trần, hư, không chẳng có mắt. Lại nghĩ rằng: Ý là mắt. Nếu ý là mắt, là cái thấy được sắc, thì người mù ý căn không hư mà chẳng thấy được sắc, nên biết không phải mắt. Dù cho người có mắt không mù, lúc mắt không đối, ý căn chẳng hư, chẳng thể thấy sắc, vì thế nhất định biết là ý không phải mắt. Ý rỗng không, chẳng có căn, bất sinh bất diệt, không danh không tự. Nhãn rỗng không, không căn, không có sinh diệt, cũng không có tên gọi các nhân duyên; không tụ không tán, không biết gọi là gì. Lúc quán như thế, chẳng thấy chỗ mắt bắt đầu đến, pháp vô thỉ cũng không, vì cầu pháp vô thỉ không thật có, gọi là “vô thỉ không vô”, vì có vô thỉ để phá, cũng không có vô thỉ không. Vì sự lưu truyền ở đời gọi là phương tiện tuệ, hiểu rõ vô thỉ không, gọi là phương tiện tuệ. Vô thỉ không cũng không, tánh không không cũng không có gọi là tuệ tánh. Nếu phá hòa hợp, cộng bạn vô minh là trí phương tiện. Nếu phá vô thỉ vô minh gọi là Độ. Nên gọi trí độ là mẹ Bồ-tát, phương tiện tuệ là cha. Tất cả mọi đạo sư, đều do đây mà sinh ra muôn hạnh, được chỗ ban đầu thì sinh vào nhà Như Lai, gọi là bất sinh sinh. Lại có một lối hiểu khác, nếu dứt hữu thỉ hòa hợp vô minh, đó là Vô sinh. Nếu biết vô thỉ vô minh có thể dứt, có thể biết không chỗ đoạn gọi là pháp Vô sinh, gọi là Tuệ, đó là Trung tuệ. Phá hữu thỉ vô minh gọi là Tận trí tuệ, cũng được gọi là tận trí. Dứt vô thỉ vô minh gọi là trí vô sinh. Nếu biết không có vô thỉ , thì vô thỉ rỗng không gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Pháp không cũng thấy. Chẳng phải không vô mà cũng chẳng có. * Là quán vô minh sinh cũng không, cũng chẳng thấy không có tánh, không thấy không có tánh vô, cũng chẳng phải không thấy, chẳng phải chẳng không thấy, mà không có chỗ chẳng thấy, cũng chẳng phải chẳng có vô, có chỗ không thấy. Không gọi là có sở đắc, không gọi là không sở đắc, gọi là tánh như như. Vô sinh pháp nhẫn tuệ thì trí không thể nói đến được. Mười tám loại trí Không có thể nhiếp mà không có tên để nói, cũng chẳng phải vô minh. Cho nên Phật nói pháp năm Ấm đã không phải có, cũng chẳng phải không, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng ở Trung đạo. Chẳng không, chẳng vô tướng, cũng chẳng vô tác, chẳng hợp cũng chẳng tan, pháp danh tướng cũng không. Đã thấy có chúng sinh, chẳng thấy không chúng sinh. Niết-bàn chẳng phải có, cũng chẳng phải không. Đó là pháp niệm xứ. Tuy biết các pháp như thế mà tinh tấn thiền định, khổ hạnh cầu Phật đạo, chẳng rơi vào cái không của đường ác, thệ độ tất cả chúng sinh tâm không lui sụt, lại nói sơ lược.

Lại nữa, mắt thấy sắc lại quán sát ngược trở lại bên trong, tìm cầu mắt, ai thấy được sắc? Cái gì là mắt? Từ chỗ nào sinh? Lúc quán như thế, đều không thấy mắt, cũng không có chỗ sinh, cũng không thấy, cũng không sinh, không tên gọi, đều là tướng vô minh. Lại quán sắc từ chỗ nào sinh? Ai khiến nó đến? Lúc quán như thế chẳng thấy chỗ sinh, cũng không người sai đến, tìm chỗ sinh chẳng thật có, như bóng dáng trong hư không, như thấy trong mộng, như huyễn hóa, bất sinh bất diệt, tức không có sắc vì không thật có. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng giống như thế. Sáu thức là cành nhánh, tâm thức là gốc rễ, sóng mòi vô minh dấy, tùy duyên sinh sáu thức. Tên của sáu thức giả gọi là phần trương thức, theo duyên không tự tại nên gọi là giả danh thức. Tâm thức gọi là động chuyển thức, dạo chơi sáu căn gây ra phiền não. Sáu thức duyên hành nghiệp thiện ác, theo nghiệp thọ báo khắp sáu đường. Có thể quán sáu căn rỗng không, không chủ, tức ngộ các pháp rốt ráo không. Quán tâm vọng niệm vô sinh diệt, tức dứt vô thỉ vô minh không, hiểu sáu thức rỗng không thì được giải thoát. Không có sáu thức rỗng không cũng không có trói mở. Vì sao? Sáu thức chẳng phải có, cũng chẳng phải không, không danh không tự, không tướng mạo, cũng không trói buộc, không giải thoát. Vì muốn giáo hóa chúng sinh nên giả gọi là phương tiện mà nói giải thoát. Tâm giải thoát không, gọi là trí Kim cương. Vì sao? Tâm không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, không sinh diệt, không tên gọi, không tướng mạo, không trói, không buộc, không giải thoát. Tất cả kết sử vô chướng ngại, tạm gọi là trí Kim cương. Lại nói chung về tâm tạo tác, hai phần gọi là tâm tướng, hai phần gọi là tâm tánh. Tướng thì thường cùng sáu thức hành, tâm tánh rốt ráo thường vắng lặng, không có sinh diệt, không có ba thọ thì không có tất cả phiền não.

Lại nữa, người tu hành muốn phá các phiền não nghiệp chướng, hãy nghĩ rằng: Do vì ta có thân nên các nghiệp nhóm họp sinh ra nay thân ta từ đâu đến? Vốn không từ đâu sinh thì ai làm ra? Lúc quán như thế liền biết thân này do vô minh hành nghiệp đời quá khứ hòa hợp nhóm họp mà sinh đến đây. Nay ta chẳng thể thấy nhân duyên tạo nghiệp đời quá khứ. Chỉ thấy đời này từ sinh đến nay gây nghiệp thiện ác, so sánh biết quá khứ. Nghĩ như vật rồi, quán rằng đời hiện tại tà mạng sát sinh, trộm cướp, tà dâm. Các tâm thiện ác và vô ký. Trước quán dâm dục vì cảnh ái dục mạnh. Ta ở nơi nọ, năm nọ, giờ nọ cùng người nọ. Ai khiến ta tạo nghiệp? Ở chỗ nào? Nếu nghiệp thuộc khắp thân ta, trong ngoài, khoảng giữa, quán sát đều không thấy nghiệp. Nếu nghiệp ở ngoài thân thì ở nơi chốn nào? Quán sát khắp đều không chỗ nơi tức không thấy nghiệp. Quán tâm tạo nghiệp. Nếu nghiệp và tâm, tâm niệm niệm diệt thì lẽ ra nghiệp cũng diệt. Lúc quán như thế cũng chẳng thấy bất diệt. Niệm đầu thấy hòa hợp, quán sát liền không, vô niệm vô diệt, lặng lẽ chánh định. Niệm khởi thì lại quán, thường quán sát lại, chẳng niệm thấy hòa hợp, niệm sinh chẳng sinh nữa. Đã không có tâm vọng niệm thì không có đời hiện tại. Quá khứ cũng vậy. Lại nghĩ rằng: Nếu tâm hành vô thường, ta cũng không có nghiệp báo. Vì sao? Vì niệm niệm đã diệt hết. Nếu tâm hành là thường, ta cũng không nghiệp báo. Vì sao? Vì pháp thường như hư không, chẳng biến đổi. Nếu niệm luống dối như việc thấy trong mộng. Không có người tạo mộng huống chi là thấy pháp mộng. Tâm tướng như người mộng, các hành như pháp mộng. Không mộng không pháp mộng cũng không người quán mộng. Mộng chẳng phải sinh diệt, cũng chẳng phải không sinh diệt. Người quán mộng cũng như thế. Quán sát tâm tướng và hành nghiệp, chẳng đoạn chẳng thường, quán cũng như vậy. Đó là quán tâm tướng phá tất cả nghiệp chướng, gọi là giải thoát. Tức lúc quán tâm tánh, tâm tánh không sinh diệt, không tên không tuổi, không đoạn thường, không đầu, không nguồn, không thật có. Nên biết không tâm, chẳng phải không tâm, cũng không tên gọi tâm. Quán sát như thế xong, ngồi thiền mắt không ngủ, giác quán không còn sinh, tuần tự đi vào các thiền. Quán thân như bọt bóng, tuần tự phát sinh năm thông. Đó gọi là giải thoát.

NGỒI THIỀN TU GIÁC Ý

Lại nữa, tu pháp niệm xứ nên siêng ngồi thiền, tu lâu dần được tất cả định giải thoát Tam-muội như ý thần thông, phát thệ nguyện độ tất cả chúng sinh. Trước hết quán chúng sinh nhờ nghe pháp nào mà được vào đạo. Hoặc Tu-đa-la, hoặc Ưu-bà-đề-xá, hoặc Tỳ-ni, hoặc Atỳ-đàm, hoặc bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, hoặc nói pháp đối trị ba độc, hoặc bốn đại, năm Ấm, hoặc mười hai nhập, mười tám giới, hoặc mười hai nhân duyên, hoặc bốn Niệm xứ, hoặc bốn thiền, hoặc bốn chân đế, hoặc chẳng nói pháp mà hiện ngay thần thông, hoặc mau hoặc chậm, chỗ đúng chỗ sai. Tức là mỗi pháp khác nhau, chẳng đồng sắc tượng âm thanh, danh tự sai biệt, mỗi pháp chẳng đồng đều được Thánh đạo. Hoặc có chúng sinh không thể giáo hóa, dù có nói pháp, thần thông biến hóa cũng chẳng làm sao được. Hoặc có chúng sinh nếu trước nói pháp rồi hiện thần thông mà không sinh niềm tin được, thì trước phải đồng sự, rơi vào năm dục và các việc phương tiện phá giới khác… dục tâm dừng được, theo đó nói pháp, thì sẽ đắc đạo. Quán như thế xong, dạy các chúng sinh tất cả việc đời. Nếu người đáng độ thì được thấy, người khác không thấy. Trù tính như thế quán tâm đệ tử mà nói pháp cho. Đó là khéo nói pháp chẳng cho dính mắc căn cơ, trong mười hiệu gọi là Tu-dà-đà Phật. Quán sát như thế nhập Sơ thiền, xuất Sơ thiền nhập Nhị thiền, xuất Nhị thiền nhập Tam thiền, xuất Tam thiền nhập Tứ thiền, xuất Tứ thiền nhập Tứ không định, xuất Tứ không định nhập định Diệt thọ tưởng, xuất định Diệt thọ tưởng trụ Tứ thiền, quán Bốn Niệm xứ nhập Pháp niệm xứ Tam-muội như ý thần thông. Các thế giới ở mười phương rung chuyển sáu cách, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, các Đại Bồ-tát, trời người ba cõi đều đến nhóm hội. Năng lực của bốn Niệm xứ có thể khiến đại chúng mỗi người thấy thế giới tịnh hoặc uế khác nhau, mỗi người không biết nhau, hiện thần thông chẳng thể nghĩ bàn, biến hóa vô lượng các loài khác nhau, cảm vời thấy thân Phật cũng giống như thế. Ở trong một pháp môn có vô lượng tên gọi khác nhau, hiện vô lượng thân nói pháp cho chúng sinh nghe, mỗi người đều không biết nhau, thấy một Đức Phật riêng, trong một tâm niệm cùng lúc nói pháp, mỗi người thấy nghe tuy là khác nhau mà được đạo không hai, chỉ là một pháp. Đó là Tam-muội pháp tự tại của Bồ-tát. Pháp niệm xứ thành tựu, ba mươi bảy phẩm cũng ở trong đó.

Nhưng pháp niệm xứ làm chủ nên gọi tên riêng.

Nói chung về pháp niệm xứ xong.