KINH A DI ĐÀ YẾU GIẢI
Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc Đại Sư Soạn
Việt dịch: Bồ Tát Giới Đệ Tử Tuệ Nhuận

 

B. PHẦN CHÍNH TÔNG (CHÍNH TÔNG PHẬN)

Phần Chính Tông chia làm 3:

1. Giãi bày rất rộng quả y báo và quả chính báo rất mầu nhiệm ở quả đất bên kia để khải tín (mở lòng tin).

2. Đặc biệt khuyên chúng sinh nên cầu sinh đi vào quả đất ấy, để cho chúng sinh phát nguyện (phát khởi chí nguyện bằng lời thề nguyền).

3. Chính bảo người tu phải chấp trì danh hiệu (là niệm Phật) để “lập hạnh” (lập hạnh tu).

Ba phần: Tín, Nguyện và Trì Danh là tông chỉ thiết yếu của cả bộ kinh. Phần Tín và phần Nguyện gọi là Tuệ hạnh, là hạnh tu trí tuệ. Phần Trì Danh gọi là Hành hạnh, là hạnh tu thực hành. Được sinh Tịnh Độ hay là không được sinh hoàn toàn là bởi mình có Tín và Nguyện hay không (câu nói này vững như núi đá, chẳng thể chuyển dời được). Được sinh ở phẩm cao hay là ở phẩm thấp, hoàn toàn là bởi mình trì danh đã lâu năm hay là mới. Cho nên Tuệ hạnh là cái dẫn đường đi trước. Hành hạnh là phận sự chính tu; giống như mắt và chân, cả hai đều vận dụng, thì mới đi sinh vào quả đất trong sạch kia được.

1. KHẢI TÍN

A. QUẢ Y BÁO

Kinh văn

Hán: Xá Lợi Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc?

Việt: Xá Lợi Phất ơi! Cõi ấy vì sao gọi là Cực Lạc?

Đoạn này là lời Phật Thích Ca hỏi.

Kinh văn

Hán: Kỳ quốc chúng sinh vô hữu chúng khổ, đản thụ chư lạc, cố danh Cực Lạc.

Việt: Chúng sinh cõi ấy không có những khổ, chỉ hưởng những vui, bởi thế cho nên gọi là Cực Lạc.

Đoạn này là lời Phật Thích Ca giải nghĩa thế nào là Cực Lạc, trước hết Ngài đem những người được hưởng cái vui ở đấy ra mà thích nghĩa.

Chữ “chúng sinh” là tất cả những người được hưởng cái vui ở đấy, từ vị Bồ Tát Đẳng Giác xuống đến người phàm đều là chúng sinh. Nhưng đây hãy nói về hạng nhân dân thôi, là có ý đem hạng kém nhất ở phẩm Hạ Hạ để so sánh với người hơn nhất ở phẩm Thượng Thượng (cái điểm bất khả tư nghị của tông Tịnh Độ là điểm này).

Quả đất Ta Bà này khổ mà cũng có cái vui lẫn vào, thực ra cái vui ấy cũng là khổ. Phật gọi nó là Hoại Khổ, vì nó chẳng ở lâu với mình, khi nó bị hoại là mình khổ. Còn cái khổ thực thì Phật gọi là Khổ Khổ, vì nó là cái khổ làm thân tâm mình bức bách khổ thực. Lại còn một cái chẳng vui chẳng khổ gì, nhưng Phật cũng gọi nói là Hành Khổ, vì nó cũng làm cho mình trôi đi đến chỗ khổ. Quả đất Cực Lạc ở bên kia, vĩnh viễn thoát ly cả ba cái khổ ấy, chỉ có những cái vui, mà cái vui ở đấy không giống như cái vui ở đây, là cái vui đối đãi với cái khổ, mà ta quen gọi là vui; có thế mới gọi được là Cực Lạc (rất vui).

Nay hãy cứ một chiều mà phân biệt những cái vui như dưới đây:

– Cõi Tịnh Độ Đồng Cư có năm trược ác nhẹ, cũng đã không có “8 cái khổ” 1, chỉ hưởng những cái vui “Chẳng ốm đau, chẳng già, được du hành tự tại, cơm sẵn của trời, áo sẵn của trời, cùng sum họp với người thượng thiện v.v…”

– Cõi Tịnh Độ Phương Tiện Thánh Cư của các vị tu phép Thể Không Xảo Độ, đã không có cái khổ “trầm trệ vắng không’ mà chỉ hưởng những cái vui như “thần thông du hý” v.v…

– Cõi Tịnh Độ Thực Báo Trang Nghiêm của các vị tu phép Nhất Tâm Tam Quán đã không có cái khổ “thân Pháp tính bị thấm lậu, tâm chân thường bị lưu chuyển” mà chỉ hưởng cái vui “rốt ráo đầy đủ xứng hợp với tâm tính mình”.

Còn những chúng sinh bên thế giới Cực Lạc, ở cõi Tịnh Độ Đồng Cư thì chỉ tu phép Trì Danh mà có nhiều thiện căn phúc đức ngang với Phật, cho nên được hưởng đầy đủ mọi cái vui ở bốn cõi Tịnh Độ trên này.

Lại nữa, cái điểm hơn hết ở thế giới Cực Lạc chẳng ở 3 cõi Tịnh Độ trên, mà ở cõi Tịnh Độ Đồng Cư, vì rằng trông lên thì những cõi Đồng Cư khác ở khắp 10 phương đều kém phần đặc biệt; mà trông xuống thì đem đọ với cõi này rất có thể. Vì thế mà kẻ phàm phu thích vào cõi Tịnh Độ Đồng Cư này được thung dung hơn, được độ thoát siêu việt mau lẹ (ý Phật nói cái khổ, cái vui là ở chỗ này).

Bây giờ, Phật Thích Ca lại đem những cái vui để cho người thụ dụng ở cõi ấy ra, mà thích nghĩa cho 2 chữ Cực Lạc.

(Đoạn này là Ngài giải thích thêm cho rõ nghĩa 2 câu: “Vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc”. Ở dưới, còn một đoạn thích nghĩa rộng hơn, cũng thế).

Kinh văn

Hán: Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thụ, giai thị tứ bảo, chu táp vi nhiễu. Thị cố, bỉ quốc danh vi Cực Lạc.

Việt: Lại còn đây nữa, Xá Lợi Phất ơi. Cõi nước Cực Lạc bảy lần giậu rào, bảy lần lưới giăng, che bảy hàng cây, toàn bằng tứ bảo khắp cả chung quanh, bởi thế nước kia gọi là Cực Lạc.

Chữ “thất trùng” (bảy lần) tiêu biểu 7 khoa đạo phẩm. Chữ “tứ bảo” (bốn báu) là tiêu biểu bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Chữ “chu táp vi nhiễu” là nói những chỗ ở của Phật và Bồ Tát… rất nhiều vô lượng “khắp cả chung quanh” chỗ nào cũng có.

Nói rằng những vật ấy toàn bằng tứ bảo, thế là công đức của mình sâu lắm mới được như thế. Nói rằng: “Khắp cả chung quanh” thì các vị hiền thánh khác chỗ nào cũng có cả. Đây là nói về cái nhân ở trong và cái duyên ở ngoài đều chân thật, đã tạo ra thế giới Cực Lạc.

Những vật quý báu, trang nghiêm như thế đã được tạo ra ở 4 cái Tịnh Độ, đều bởi những phép tu sau đây:

1) Ở cõi Đồng Cư Tịnh Độ thì do cái nghiệp “tăng thượng thiện” đã cảm ứng mà tạo ra, lại cũng vì phép tu “Viên ngũ phẩm quán” nữa; thể chất của những vật báu này là ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) thuộc về loại duyên sinh thắng diệu.

2) Ở cõi Phương Tiện Tịnh Độ, thì bởi phép tu “Tức không quán trí” đã cảm ứng mà tạo ra, cũng lại bởi phép “Tương tự tam quán” nữa, thể chất của những vật báu này là ngũ trần, thuộc về loại diệu Chân Đế vô lậu.

3) Ở cõi Thực Báo Tịnh Độ thì bởi phép tu “Diệu giả quán trí” đã cảm ứng mà tạo ra, cũng lại bởi phép “Phận chứng tam quán” nữa; thể chất của những vật báu là ngũ trần thuộc về loại diệu Tục Đế vô lậu.

4) Ở cõi Thường Tịch Quang, thì bởi phép tu “Tức trung quán trí” đã cảm ứng mà tạo ra, lại cũng bởi phép “Cứu kính tam quán” nữa; thể chất của những vật báu này thuộc về loại diệu Trung Đế xứng tính.

Muốn cho dễ hiểu thì phân biệt ra có 4 nghĩa như thế. Thực ra, những vật báu trang nghiêm ở 4 cõi Tịnh Độ đều là những vật bởi nhân duyên mà sinh ra gọi là “Nhân duyên sinh pháp”, vật nào cũng là “tức không, tức giả, tức trung” cả (Đây là nói về Tính Đức, y vào Tính Đức mà khởi ra Tu Đức). Vì thế mà những cảnh vật ở cõi Đồng Cư Tịnh Độ bên thế giới Cực Lạc đều viên dung cả Chân và Tục, vô tận, vô biên, chẳng có hạn lượng nào (Đây là nói về Tu Đức mà hoàn toàn Tu Đức đều ở trong Tính Đức). Những đoạn giải nghĩa ở dưới này đều phỏng theo một ý nghĩa như thế.

Hoặc có người hỏi rằng: Cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ chỉ là một cõi “lý tính”, thì làm gì mà có được những vật báu trang nghiêm như thế?

Thưa: Mỗi một vật báu trang nghiêm ấy toàn thể nó là “lý tính”, nhưng mỗi một lý tính ấy phải có đầy đủ mọi vật trang nghiêm ấy; có thế mới là quả y báo rốt ráo của chư Phật. Nếu bảo cõi Tịnh Độ Thường Tịch Quang chẳng có một vật ngũ trần thắng diệu nào cả, thì có khác gì cái cõi “thiên chân pháp tính” của Tiểu Thừa.

Đây là một đoạn thích nghĩa rộng hơn, có hai đoạn:

1. Thích nghĩa riêng những cái Vui để người thụ dụng.

Kinh văn

Hán: Hựu, Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ hữu thất bảo trì, bát công đức thủy sung mãn kỳ trung; trì để thuần dĩ kim sa bố địa; tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hợp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não nhi nghiêm sức chi. Trì trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết.

Việt: Lại còn nữa Xá Lợi Phất ơi! Cõi nước Cực Lạc có ao thất bảo, trong ao thường đầy nước bát công đức. Đáy ao thuần bằng cát vàng óng ánh; bốn bên bờ ao, bực lên, lối đi làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trên có lầu gác, cũng toàn làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Hoa sen trong ao to bằng bánh xe, màu xanh sáng xanh, màu vàng sáng vàng, màu đỏ sáng đỏ, màu trắng sáng trắng, nhiệm mầu thơm sạch.

Đoạn trên kia là Phật nói rõ những chỗ ở của người bên Cực Lạc, đoạn này Phật nói rõ những chỗ sinh ra người ở bên Cực Lạc.

“Thất bảo” là 7 của báu 1) vàng; 2) bạc; và 5 thứ ngọc có 5 màu: lưu ly, pha lê, xích châu, mã não. Hồ ao và mọi cảnh vật đều là thất bảo tạo thành, thì không giống như cảnh ở cõi này toàn là đất với đá.

Nước có tám công đức:

1) Trừng thanh (lặng trong), khác với nước ở đây vẩn đục.

2) Thanh lãnh (man mát), khác với nước lạnh quá, nóng quá.

3) Cam mỹ (ngon ngọt), khác với nước mặn quá, nhạt quá.

4) Khinh nhuyễn (mềm nhẹ), khác với nước nặng chìm.

5) Nhuận trạch (đượm nhuần, bóng nhoáng), khác với thứ nước ướt át, thối nát, phai mầu, nhợt nhạt.

6) An hòa (yên ổn, hòa nhã), khác với thứ nước chảy mau và dữ tợn.

7) Trừ cơ khát (hết đói khát), khác với thứ nước sinh ra lạnh bụng.

8) Trưởng dưỡng chư căn (nuối lớn mọi căn), khác với mọi thứ nước làm tổn hoại mọi căn, làm rối loạn tăng bệnh, làm chìm đắm v.v…

Chữ “sung mãn kỳ trung” (trong ao thường đầy) thì khác với những ao khi thì khô kiệt, khi thì ràn rụa. Đáy ao thuần bằng cát vàng, khác với đáy ao thuần bùn nhơ. Bậc lên, lối đi làm bằng tứ bảo thì khác với bằng đá, gạch. Chữ “giai” là bậc lên, “đạo” là lối đi bằng phẳng. Nhà nhiều tầng là Lâu, lầu cao chót vót gọi là Các. Lâu các bằng thất bảo, khác với ở đây làm bằng gỗ, đất sơn xanh đỏ. Lầu các là chỗ ở và chỗ hội họp thuyết pháp. Người tu hành một khi được ở trong bào thai hoa sen trên ao thất bảo nở ra, lên ngay bờ ao, đi vào pháp hội, thấy Phật, nghe Pháp.

Hoa sen to bằng bánh xe. Bánh xe ở đây là bánh xe bằng vàng của vua Chuyển Luân Vương, to đến 40 dặm. Đây là nói hoa nhỏ nhất cũng bằng bánh xe; nếu căn cứ vào kinh Quán Vô Lượng Thọ thì có hoa nhỏ, có hoa lớn lắm chẳng có hạn lượng nào, vì rằng thân hình những người sinh ra ở cõi Tịnh Độ, không ai giống ai.

Hoa sen xanh, tiếng Ấn Độ gọi là Ưu Bát La.

Hoa sen vàng, gọi là Câu Vật Đầu.

Hoa sen đỏ gọi là Bát Đầu Ma.

Hoa sen trắng gọi là Phần Đà Lợi.

Bởi vì thân người sinh ra đã có hào quang cho nên ở trong bào thai hoa sen có ánh sáng. Hoa sen bên Cực Lạc có rất nhiều màu, nhiều ánh sáng, mà đây chỉ nói qua 4 màu thôi.

Bốn chữ “vi, diệu, hương, khiết” là tán thán 4 đức của hoa sen: hoa chỉ có chất mà không có hình nên gọi là Vi; các hoa giao chập vào với nhau không hề chướng ngại nên gọi là Diệu; hoa không có hình thì sạch, không có bụi trần bám vào nên gọi là Khiết. Còn chữ Hương thì có nghĩa là mùi thơm. Bào thai hoa sen có đủ 4 đức quý như thế, thì cái thân sinh ra đủ biết quý là dường nào.

Đây là đoạn kết, nói về sức mạnh của Phật đã tạo ra những cảnh vật trang nghiêm ấy.

Kinh văn

Hán: Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

Việt: Xá Lợi Phất này, cõi nước Cực Lạc chỉ lấy công đức mà tạo thành được trang nghiêm thế đấy!

Đoạn văn trên đã nói rõ chỗ ở và chỗ sinh ra có rất nhiều vật báu trang nghiêm như thế; đoạn văn này Phật bảo cho biết những vật trang nghiêm đều bởi công đức xứng hợp với tâm tính của Phật A Di Đà có chí nguyện rất lớn và hạnh tu rất lớn nên mới tạo thành được trang nghiêm như thế (Cái nghĩa này là nói về Phật nguyện, Phật tu, Phật tạo thành). Vì Ngài có Tâm đức lớn nên mới có khả năng tạo ra được nhiều vật báu trang nghiêm khắp cả 4 cõi Tịnh Độ, và thu được hết thảy bậc phàm, bậc thánh ở khắp 10 phương, suốt 3 đời, đều khiến cho được đi sinh vào cõi ấy.

Lại nữa, Phật A Di Đà đã dùng chí nguyện rất lớn của Ngài để làm cái nhân có rất nhiều thiện căn cho chúng sinh, và dùng cái hạnh tu rất lớn của Ngài để làm cái duyên có rất nhiều phúc đức cho chúng sinh: cái nhân, cái duyên ấy đã khiến cho người nào có tâm Tín, Nguyện, Trì Danh thì cứ mỗi tiếng niệm Phật là tạo thành được những cảnh vật công đức trang nghiêm như thế, mà đều là đã tạo thành rồi, chứ chẳng phải nay mới có tạo hay từ mai mới tạo (cái nghĩa này là nói về chúng sinh niệm Phật, chúng sinh tạo thành. Nhưng ai nấy có hiểu mới nhận được). Như thế thời nghĩa là chúng sinh cứ lấy những vật báu trang nghiêm của Phật A Di Đà để làm bản chất tăng thượng (làm vốn) mà phát khởi mọi vật báu trang nghiêm ở trong Tâm của chúng sinh (câu này nói rõ được cả phần Tính và phần Tướng đầy đủ, sáng suốt, triệt để hết được phép tu Tịnh Độ). Hoàn toàn của Phật tức là của chúng sinh; hoàn toàn của người khác tức là của mình, cho nên nói rằng: Đã tạo thành được những vật báu trang nghiêm như thế đấy! (Hội họp cả hai nghĩa ở trên lại, thành một nghĩa này.)

Đoạn văn kinh dưới đây là Phật Thích Ca đem cả người được thụ dụng và những vật để cho người thụ dụng, hợp lại mà thích nghĩa chữ Cực Lạc.

Trước hết, đem cả 5 căn với 5 trần hợp lại mà thích rõ nghĩa thụ dụng. Sau mới đem nhĩ căn và thanh trần riêng ra mà thích rõ nghĩa thụ dụng 2.

Kinh văn

Hán: Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi địa. Trú dạ lục thời vũ thiên mạn đà la hoa. Kỳ độ chúng sin thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thành chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời, hoàn đáo bản quốc, phạn thực kinh hành.

Việt: Lại còn đây nữa, Xá Lợi Phất ơi! Nước kia thường nghe lưng trời hòa nhạc, mặt đất thuần vàng. Ngày đêm sáu buổi, hoa mạn đà la rắc xuống như mưa. Chúng sinh nước kia, thường ngày sáng sớm, đều lấy vạt áo, đựng các thứ hoa, màu thơm đẹp lạ, đi cúng phương xa, mười muôn ức Phật; chỉ trong giờ ăn, lại về ngay nhà, cơm xong đi dạo.

Âm nhạc của trời đất ở trên lưng chừng hư không là Thanh trần. Mặt đất thuần vàng là Sắc trần. Các món ăn là Vị trần. Các thứ hoa là Hương và Sắc trần. Đựng hoa đi cúng Phật, tung hoa và đi dạo chơi là Xúc trần. Đây là Phật Thích Ca nói về 5 căn của chúng sinh đối với 5 trần của mọi vật, để mà hưởng thụ mọi cái vui.

Hai chữ “thường tác” tức là thường thường động tác khởi lên suốt cả 6 buổi (lục thời).

“Hoàng kim vi địa” là nói cái thể chất của quả đất Cực Lạc thuần là vàng cả, nhưng còn có cả thất bảo trang nghiêm ở trên mặt đất nữa.

Lục thời, theo tục ở Ấn Độ, chia ngày làm 3 buổi gọi là sơ phận, trung phận, hậu phận. Đêm cũng thế, cũng chia làm 3 phần: sơ, trung, hậu. Gọi chung cả ngày và đêm có 6 phần, tức “trú dạ lục thời”.

Đối với thân Phật A Di Đà và nhân dân ở quả đất Cực Lạc thì không có thời gian, làm gì có ngày, có đêm, có 3 buổi và 6 buổi. Bởi vì ở Tịnh Độ, người (chính báo) và vật (y báo) đều có ánh sáng, chẳng cần đến ánh sáng của mặt trời soi cho mới gọi là ngày, cũng chẳng cần đến ánh sáng của mặt trăng mới gọi là đêm. Lúc nào cũng sáng luôn luôn như thế, thời gian ấy là một ngày sáng tươi dài vô hạn, thì còn làm gì có lúc nào là ngày và lúc nào là đêm. Nhưng đối với những cái thân chúng sinh (chính báo) ở quả đất Ta Bà này (y báo) đều tối tăm mù mịt, thời gian ấy chỉ là một đêm buồn rầu dài vô hạn; chỉ vì lúc nào nhờ có ánh sáng mặt trời soi cho thì gọi là ngày, lúc nào không có ánh sáng ấy gọi là đêm. Vì có ngày, có đêm, nên mới chia cái quãng đời sinh sống của mình ra làm 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Lý thực ra, thì chẳng ở đâu có thời gian, chẳng có ngày, chẳng có đêm, mà chỉ là có Trí sáng hay là không có Trí sáng mà thôi. Trong đoạn văn này, Phật Thích Ca nói: 6 buổi ngày đêm ở Tịnh Độ, là ý Phật thuận theo tư tưởng của chúng sinh ở quả đất tối mù, có thời gian, có ngày, có đêm mà Phật nói ra thế, để cho họ dễ hiểu, dễ so sánh cái thời gian của họ đấy mà thôi.

Mạn Đà La là tiếng Ấn Độ, chữ Hán là “thích ý” hay là “bạch hoa”. “Y kích” là cái đựng hoa. Ba chữ “chúng diệu hoa” (các thứ hoa mầu thơm đẹp lạ) thì rõ ràng không phải là chỉ có một thứ hoa Mạn Đà La. Lý ưng phải có 4 thứ hoa, như trong Diệu Kinh đã nói, để làm tiêu biểu cho 4 nhân tu hành.

Đem hoa đi cúng Phật ở nhiều phương khác là tiêu biểu cái nhân chân thực biết đi đến cái quả tốt cực điểm (quả Phật); quả đức ấy nhiều lắm, ở khắp cả đâu đâu cũng có. Nay hãy căn cứ vào quả đất Ta Bà này, mà nói rằng đi cúng những 10 vạn ức Phật, là ý nói rằng sau khi mình đã được sinh sống ở Cực Lạc rồi, mình lại trở về cúng Phật Thích Ca, Phật Di Lặc ở đây cũng chẳng khó gì. Nếu lại được sức thần thông của Phật A Di Đà thêm vào cho mình, thì xa đến đâu mà mình chẳng đi đến được.

Chữ “thực thời” là giờ ăn, có nghĩa là “giờ ăn sáng sớm”. Cho nên mới có chữ “tức dĩ” là “ở ngay” trong cái buổi “sáng sớm” (thanh đán) ấy, đi cúng Phật rồi về mới ăn. Trong một buổi sáng sớm, đi cúng hết 10 vạn ức Phật rồi về mới ăn sáng thì đi nhanh biết chừng nào, đủ rõ phép “thần túc” (chân thần) của người bên Tịnh Độ đi mau lắm, chẳng khá nghĩ bàn, mau như là không phải bước ra khỏi quả đất ấy mà đã đi hết khắp cả mười phương rồi, chẳng cần phải đến hết một buổi sáng sớm mà đã trở về.

Đoạn văn này tỏ rõ cho ta hiểu: Ở bên Cực Lạc, một tiếng bật ra, một hạt bụi trần, một sát na 3 cho đến một khi bước chân, một khi búng ngón tay, giờ phút nào cũng cùng với Tam Bảo ở khắp 10 phương, cùng thông suốt, giao chập với nhau không hề có chướng ngại. Lại tỏ rõ cho ta hiểu rằng: Ở cõi Ta Bà này trược ác nghiệp chướng nặng lắm, đối với cõi Cực Lạc chẳng cách xa đâu mà thành ra cách xa; sinh sống ở Cực Lạc thời công đức rất sâu, đối với cõi Ta Bà tuy có cách xa, mà chẳng thấy cách xa chút nào.

Bốn chữ “phạn thực kinh hành” (cơm xong đi dạo) có nghĩa là nghĩ đến cái ăn, thì nó đến ngay, chẳng cần phải sửa soạn; ăn rồi mâm bát tự nó bay thẳng đi, chẳng cần phải cất dọn, cứ việc đi dạo trên mặt đất thuần vàng, xem hoa, nghe âm nhạc, vui chơi, mà vẫn tự thấy tiến bước tu hành không ngừng.

Đoạn văn kết thị.

Kinh văn

Hán: Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm!

Việt: Xá Lợi Phất này! Cõi nước Cực Lạc chỉ lấy công đức mà tạo thành được trang nghiêm thế đấy!

Đây là đoạn kết thứ hai (giải nghĩa cũng như đoạn thứ nhất ở trang 49).

Đoạn văn trên, Phật Thích Ca đã hợp 5 căn với 5 trần lại mà giải thích nghĩa thụ dụng.

Đoạn này Phật đem riêng “nhĩ căn” với “thanh trần” ra mà thích nghĩa thụ dụng; bởi vì ở quả đất này, nhĩ căn của người ta rất thông lợi, cho nên Phật đem riêng cái tiếng nói Pháp ra mà thích nghĩa thụ dụng cho thật rõ ràng (để cho mình hiểu rõ sang đấy được hưởng cái vui nghe pháp nhiệm mầu chóng ngộ đạo). Chứ thực ra, thì ở bên Cực Lạc thu hút được hết mọi căn cơ trong pháp giới; trong 5 trần ở bên ấy, mỗi một trần nào cũng phát sinh được hết thảy mọi pháp môn. Đoạn này chia làm hai:

1. Hóa ra tiếng nói Pháp của loài hữu tình.

2. Hóa ra tiếng nói Pháp của loài vô tình.

Đây là tiếng nói Pháp của loài hữu tình, tức là tiếng chim nói Pháp rất lợi ích.

Kinh văn

Hán: Phục thứ, Xá Lợi Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu: bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phận, bát thánh đạo phận, như thị đẳng pháp. Kỳ độ chúng sinh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Việt: Rồi lại còn nữa, Xá Lợi Phất ơi! Nước kia thường có nhiều các loài chim, màu đẹp, vẻ lạ như: chim hạc trắng, chim vẹt, chim công, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mạng. Những đàn chim ấy, ngày đêm sáu buổi, tiếng hót hòa nhã, diễn ra các pháp: ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phận, bát thánh đạo phận, và nhiều phép khác cũng như thế nữa. Chúng sinh nước kia nghe tiếng ấy rồi đều vui niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Câu “chủng chủng kỳ diệu tạp sắc” là nói các loài chim có nhiều và đẹp lạ. Câu dưới kể qua có 6 loại: chim Xá Lợi là tiếng Ấn Độ. Ở đây, trước kia bảo là loài chim Thu Lộ (loài cò). Ngài Kỳ thiền sư bảo là loài chim Xuân Oanh, có lẽ phải hơn. Chim Ca Lăng Tần Già, là tiếng Ấn Độ, chữ Hán là Diệu Âm (tiếng hay); vì loài chim này, chưa ra khỏi vỏ trứng, tiếng hót đã hay hơn các loài chim. Chim Cộng Mạng là loài chim một thân có hai đầu, 2 thần thức riêng biệt, cùng chung một báo thân. Hai giống chim này ở vùng Tuyết Sơn bên Ấn Độ cũng có. Những chim ở Cực Lạc không phải là thực giống chim ở đây đâu. Phật chỉ nói cho biết mấy thứ chim nó hơi giống với những con chim ở đây vì mình yêu quý nhất đấy mà thôi.

Ngày đêm sáu buổi phát ra tiếng hót, thời đủ biết ở bên Tịnh Độ không có lúc nào chim phải đậu yên, mà gọi là đêm tối. Vì thân người hay thân chim đều ở trong hoa sen hóa sinh ra, vốn không có tính ngủ, cho nên không cần phải có đêm để nằm yên.

Những phép ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ Đề phận, bát thánh đạo phận là những phép ở trong 37 phẩm Trợ Đạo kể ra như sau này:

I. TỨ NIỆM XỨ (bốn chỗ nghĩ):

1) Thân niệm xứ: nghĩ chỗ thân mình là bẩn.

2) Thụ niệm xứ: nghĩ chỗ mình hưởng thụ là khổ.

3) Tâm niệm xứ: nghĩ chỗ tâm mình biến đổi là vô thường.

4) Thụ niệm xứ: nghĩ chỗ các pháp không thực có là vô ngã.

II. TỨ CHÍNH CẦN (bốn việc chính cần phải làm ngay):

1) Dĩ sinh ác pháp, linh đoạn: Những ác pháp đã sinh ra rồi, phải đoạn trừ ngay.

2) Vị sinh ác pháp, linh bất sinh: Những ác pháp chưa sinh ra, phải cấm ngay không cho sinh ra.

3) Vị sinh thiện pháp, linh sinh: Những thiện pháp chưa sinh ra, phải cho sinh ra ngay.

4) Dĩ sinh thiện pháp, linh tăng trưởng: Những thiện pháp đã sinh ra rồi phải làm cho nó lớn mãi lên.

III. TỨ NHƯ Ý TÚC (bốn phép đủ như ý):

1. Dục như ý túc: Định muốn như ý.

2. Tiến như ý túc: Tinh tiến đủ như ý.

3. Tâm như ý túc: Tuệ tâm đủ như ý.

4. Tư duy như ý túc: Suy nghĩ đủ như ý.

IV. NGŨ CĂN (năm căn bản: cội gốc)

1. Tín căn: Tin các pháp chính đạo và các pháp trợ đạo, gọi là Tín căn.

2. Tinh tấn căn: Thực hành các pháp thiện về chính đạo và trợ đạo, cần cầu làm mãi chẳng ngừng, gọi là Tinh Tiến căn.

3. Niệm căn: Chỉ nghĩ các pháp thiện về chính đạo và trợ đạo, không còn nghĩ đến pháp nào khác nữa, gọi là Niệm căn.

4. Định căn: Thu nhiếp tâm mình vào trong các thiện pháp về chính đạo và trợ đạo, cùng ứng hợp nhau, không cho tán loạn, gọi là Định căn.

5. Tuệ căn: Làm mọi thiện pháp về chính đạo và trợ đạo, và quán tưởng 4 Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, gọi là Tuệ căn.

V. NGŨ LỰC (năm sức mạnh làm cho 5 căn vững chặt):

1. Tín lực: làm cho Tín căn lớn lên, phá hết nghi hoặc, tà tâm và phiền não, gọi là Tín Lực.

2. Tinh tấn lực: làm cho Tinh Tiến căn lớn lên, phá hết mọi thân lười biếng và tâm lười biếng, thành được việc xuất thế lớn lao, gọi là Tinh Tiến Lực.

3. Niệm lực: làm cho Niệm căn lớn lên, phá hết mọi tà niệm, thành tựu được công đức chính niệm xuất thế gian, gọi là Niệm Lực.

4. Định lực: làm cho Định căn lớn lên, phá hết mọi tư tưởng lăng xăng rối loạn, phát ra được mọi sự Thiền Định, gọi là Định Lực.

5. Tuệ lực: làm cho Tuệ căn lớn lên, ngăn được hết thông mê hoặc và biệt mê hoặc, phát ra được trí huệ chân vô lậu, gọi là Tuệ Lực.

VI. THẤT BỒ ĐỀ PHẬN HAY LÀ THẤT GIÁC PHẬN (7 phần giác ngộ):

1. Trạch pháp giác phận: Khi trí tuệ mình soi xét mọi pháp, khéo phân biệt được chân pháp với giả pháp, chẳng lấy lầm phải pháp tà ngụy, gọi là Trạch Pháp Giác Phận.

2. Tinh tiến giác phận: Khi mình tinh tiến tu hành mọi đạo pháp, khéo hay giác ngộ, đừng tu lầm phải những khổ hạnh vô ích, thường chuyên cần để tâm vào trong mọi chân pháp mà tu hành, gọi là Tinh Tiến Giác Phận.

3. Hỷ giác phận: Nếu tâm mình tu đắc pháp mà mừng nên giác ngộ rằng cái mừng ấy chẳng phải là y vào pháp điên đảo mà mừng, mà chính là y vào pháp chân thực mà mừng, gọi là Hỷ Giác Phận.

4. Trừ giác phận: Khi mình đoạn trừ được cái tâm tà kiến và mọi thứ phiền não tham, sân, si, mạn, nghi v.v… nên giác ngộ rằng mình đã đoạn trừ được mọi giống tà ngụy, chẳng tổn hại đến thiện căn chân chính, gọi là Trừ Giác Phận.

5. Xả giác phận: Khi mình đã lìa bỏ hẳn được những cảnh vật mà mình đã ham mến nhớ niệm đến hoài, nên giác ngộ rằng cảnh vật lìa bỏ ấy là hư ngụy, chẳng phải thực có, vĩnh viễn chẳng nhớ đến nữa, gọi là Xả Giác Phận.

6. Định giác phận: Khi tâm mình đã phát ra được mọi Thiền Định, nên giác ngộ rằng những Thiền Định ấy là giả, chẳng sinh ra mơ tưởng yêu nó, thấy nó làm gì nữa, gọi là Định Giác Phận.

7. Niệm giác phận: Khi mình tu đạo xuất thế, phải giác ngộ sao cho lúc nào Định và Tuệ cũng ngang nhau. Hoặc khi tâm mình bị chìm lỉm mất, phải nhớ niệm ngay đến 3 phần giác ngộ: Trạch Pháp, Tinh Tiến và Hỷ để mà soi xét cho tâm mình phấn khởi lên, hoặc khi tâm mình bồng bột, náo động, phải nhớ niệm ngay đến 3 phần giác ngộ: Trừ, Xả và Định để mà nhiếp trì cái tâm mình lại, làm cho nó điều hòa thích trung, gọi là Niệm Giác Phận (phần giác ngộ chính niệm).

VII. BÁT THÁNH ĐẠO PHẬN HAY BÁT CHÍNH ĐẠO PHẬN (8 phần Thánh Đạo):

1. Chính kiến: Tu phép quán, soi rõ mọi hạnh tu vô lậu 4, thấy rõ ràng 4 Diệu Đế, gọi là Chính Kiến.

2. Chính tư duy: Dùng cái tâm vô lậu cùng ứng hợp, động phát ra suy nghĩ, tính toán, hiểu biết khiến cho tâm lớn lên vào với tâm Đại Niết Bàn, gọi là Chính Tư Duy.

3. Chính ngữ: Dùng trí tuệ vô lậu trừ diệt 4 tà mệnh 5, thu nhiếp mọi khẩu nghiệp vào trong mọi Chính Ngữ, gọi là Chính Ngữ.

4. Chính nghiệp: Dùng trí tuệ vô lậu diệt trừ mọi tà nghiệp ở thân mà ra, để yên thân vào trong mọi nghiệp chân chính thanh tịnh, gọi là Chính Nghiệp (nghiệp chân chính).

5. Chính mạng: Dùng trí tuệ vô lậu diệt trừ suốt cả 5 tà mệnh ở ba nghiệp: thân, khẩu, ý để yên trong mạng sống chân chính thanh tịnh, gọi là Chính Mạng.

6. Chính tinh tấn: Dùng trí tuệ vô lậu cùng ứng hợp, cần mẫn tinh tấn tu đạo Niết Bàn, gọi là Chính Tinh Tiến.

7. Chính niệm: Dùng trí tuệ vô lậu cùng ứng hợp mà nhớ niệm đến mọi pháp chính đạo và trợ đạo, gọi là Chính Niệm (nhớ niệm chân chính).

8. Chính định: Dùng trí tuệ vô lậu cùng ứng hợp vào Thiền Định, gọi là Chính Định.

Trong 7 phép tu này, gọi là Thất Khoa, có tất cả là 37 đạo phẩm. Tuy rằng tất cả 4 giáo môn ai cũng phải tu 37 đạo phẩm, nhưng công phu tu luyện và phương pháp, thì mỗi giáo môn một khác (nghĩa này có công đính chính mọi sai lầm xưa nay), sẽ kể như sau này:

Bốn giáo môn là: Tạng, Thông, Biệt, Viên.

1. Y vào Sinh Diệt Tứ Đế mà tu thì tức là 37 đạo phẩm của Tạng Giáo (giáo lý Tiểu Thừa thấy Tứ Đế có thực sinh, thực diệt).

2. Y vào Vô Sinh Diệt Tứ Đế mà tu, tức là 37 đạo phẩm của Thông Giáo (giáo lý phổ thông của Bồ Tát, thấy Tứ Đế là không, chẳng có thực sinh, thực diệt).

3. Y vào vô lượng Tứ Đế mà tu, tức là 37 đạo phẩm của Biệt Giáo (giáo lý riêng biệt của Bồ Tát, thấy Tứ Đế có nhiều vô lượng hình tướng khác nhau).

4. Y vào Vô Tác Tứ Đế mà tu, tức là 37 đạo phẩm của Viên Giáo (giáo lý viên mãn hoàn toàn của Bồ Tát, thấy Tứ Đế chỉ là huyễn ảnh trong tâm Bồ Đề, không ai tạo tác ra nó).

– Đạo phẩm của Tạng Giáo gọi là pháp môn Bán Tự, một phép tu “mới có một nửa”: ở Tịnh Độ, ngũ trược rất nhẹ, tựa hồ chẳng cần đến pháp môn này. Nhưng vì có người Tiểu Thừa sinh sang đấy, trước đã học thuộc rồi, hoặc có giả tạm dùng chăng.

– Đạo phẩm của Thông Giáo, gọi là Đại Thừa Sơ Môn, một pháp môn bắt đầu vào bậc Đại Thừa. Pháp môn phổ thông cho tất cả người trong 3 bậc Tam Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát) đều phải theo, cho nên ở bên Tịnh Độ phần nhiều hay nói đến.

– Đạo phẩm của Biệt Giáo gọi là Độc Bồ Tát Pháp, một pháp môn đặc biệt riêng cho một bậc Bồ Tát, ở hai cõi Tịnh Độ Đồng Cư và Phương Tiện phần nhiều hay nói đến.

– Đạo phẩm của Viên Giáo gọi là Vô Thượng Phật Pháp, một pháp môn trên hết tu thành Phật: Ở khắp 4 cõi Tịnh Độ, người nào có lợi căn cũng được nghe (có thế mới là tông Tịnh Độ ở Cực Lạc).

Bốn chữ “như thị đẳng pháp” (còn nhiều phép khác như thế nữa) thì 2 chữ “đẳng pháp” là còn nhiều phép khác, tức là 3 phép: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chính Cần, Tứ Như Ý Túc ở trên 4 phép: Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phận, Bát Thánh Đạo Phận. Chữ “đẳng pháp” ấy lại còn là vô lượng pháp môn khác nữa, là những phép Tứ Nhiếp, Lục Độ, Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy v.v…

37 đạo phẩm này, tuy là thu được hết mọi pháp môn, nhưng mà cơ duyên của người tu chẳng giống nhau, cho nên những đạo phẩm ấy có khi rút lại, có khi mở rộng, thành ra danh nghĩa nó không giống nhau, là cốt để tùy chỗ người muốn nghe mà diễn giảng, khiến cho người nhớ niệm đến Tam Bảo, phát khởi tâm Bồ Đề, phục diệt mọi phiền não. Vì người ta có thấy rõ tâm Đại Từ và uy quang của Phật bất khả tư nghị thì mới niệm Phật. Có vui mừng, pháp nhập vào tâm, có món ăn Pháp sung túc vào thân, thì mới niệm Pháp. Có được cùng Tăng chúng cùng được nghe, được học tập, được nhất tâm tu chứng thì mới niệm Tăng (3 câu này, câu nào cũng đủ 4 lợi ích, xem trong bài thích nghĩa niệm Tam Bảo ở dưới sẽ rõ).

Cái tâm năng niệm của người ta tức là phép Tam Quán (quán không, quán giả, quán trung). Cái cảnh sở niệm của người ta tức là Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Cảnh sở niệm (hay sở quán) có chia ra là: Biệt Tướng (tướng riêng biệt), Nhất Thể (cùng một thể chất) và Y Nghĩa của bốn giáo môn, Tam Đế, Quyền và Thực, mỗi cảnh mỗi khác như đã nói trên, xem lại chỗ nói về 37 đạo phẩm sẽ rõ.

Đoạn văn kinh dưới đây là Phật Thích Ca giải nghĩa tại sao ở Cực Lạc lại có loài chim là loài ác thú.

Kinh văn

Hán: Xá Lợi Phất! Nhữ vật vị thử điểu thực thọ tội báo sở sinh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ vô tam ác. Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thực. Thị chư chúng điểu giai thị A Di Đà Phật dục linh Pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác.

Việt: Xá Lợi Phất này! Ông chớ bảo rằng: Những loài chim ấy thực vì tội báo phải làm kiếp chim. Là vì lẽ sao? Vì nước Phật kia không bao giờ có ba loài ác đạo. Xá Lợi Phất này! Trong nước Phật kia, cái tên ác đạo còn không thấy có, huống chi lại có ác đạo thật ư? Những chim ấy là Phật A Di Đà muốn cho tiếng Pháp chan hòa khắp nơi mà biến hóa ra.

Lời Phật hỏi và thích nghĩa ở đoạn văn này rất dễ hiểu, nhưng giả sử có người hỏi rằng: Những con chim ấy như là Bạch Hạc v.v… chẳng phải là cái tên ác đạo là gì, mà Phật lại bảo: Cái tên ác đạo còn không thấy có?

Thưa: Đã chẳng phải là tội báo thì mỗi cái tên ấy, tên nào cũng đều là công đức rốt ráo của Như Lai. Thế nghĩa là cái tên Bạch Hạc là Bạch Hạc rốt ráo, tên nào cũng thế, tên nào cũng là tên gọi đẹp đẽ của đức tính, chứ có phải là tên ác đạo đâu! (Cái tên ở Pháp giới này cũng bất khả tư nghị như thế!)

Có người lại hỏi: Phật hóa làm những con chim thì có ý nghĩa gì?

Thưa: Có 4 nhân duyên về Tứ Tất Đàn (tức là 4 phép bố thí trong Pháp Thí, khiến người nghe pháp được 4 lợi ích: 1) Được vui mừng 2) Làm việc thiện 3) Chừa tội ác 4) Hiểu sâu vào Đệ Nhất Nghĩa lý. Kinh này nói Pháp chỗ nào cũng được lợi ích thứ tư, nhưng ở trong cũng vẫn có đủ cả 3 lợi ích trên nữa)

1) Phàm tình người ta ai cũng thích những con chim ấy, thì Phật cũng thuận tình mà hóa ra, khiến cho được vui mừng.

2) Thấy con chim còn biết thuyết Pháp (mình là người sao lại không biết) là ý Phật muốn khiến người nghe Pháp phải sinh mầm thiện (tu học đi để mà nói Pháp).

3) Nghe chim nói Pháp thì đừng có đối với loài chim mà sinh ra cái tưởng lầm là loài hèn kém, là ý Phật muốn trị cái tâm phân biệt của người si mê, kiêu ngạo.

4) Biết chim ấy tức là Phật A Di Đà, là ý Phật muốn cho người nghe Pháp giác ngộ được tính chất bình đẳng của Pháp Thân, trong thân ấy cái gì cũng đủ, cái gì cũng tạo ra được, cái gì cũng bình đẳng. Trong Pháp Thân ấy, lại còn hiển hiện ra những tiếng gió hiu hiu, những tiếng rung của cây vàng, lưới ngọc v.v… và hiện ra hết thảy phần giả, phần thực của Y Báo và Chính Báo. Ở ngay những thể chất của vạn vật ấy đều là 3 thân, 4 đức của Phật A Di Đà, không hề sai khác một ly. (Như vậy, có thể hiểu được Pháp Thân là tiêu chỉ của cả một Pháp Giới.)

Đoạn văn dưới đây là Phật hóa ra tiếng nói Pháp của loài vô tình là loài gió, loài cây v.v…

Kinh văn

Hán: Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động chư bảo hàng thụ cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bách thiên chủng nhạc đồng thời câu tác. Văn thị âm giả, tự nhiên giai sinh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Việt: Xá Lợi Phất ơi! Cõi nước Phật kia, gió hiu hiu thổi những hàng cây báu, những lưới ngọc giăng rung động phát ra những tiếng nhiệm mầu, như là trăm nghìn các thứ âm nhạc đồng thời nổi lên. Người nghe tiếng ấy tự nhiên đều vui, nức lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Loài hữu tình với loài vô tình cùng tuyên dương pháp mầu nhiệm 37 đạo phẩm của 4 giáo môn và vô lượng pháp môn khác; đồng thời diễn thuyết, tùy từng loại chúng sinh, loại nào cũng hiểu; khiến người nghe Pháp nhớ niệm Tam Bảo. Nhớ niệm Tam Bảo là theo phép Tứ Tất Đàn mà được 4 lợi ích:

1) Người phàm phu vừa được nghe là toàn cả thân rung động, nhảy nhót, thế là được lợi ích vui mừng.

2) Phần hơi sức của mình cùng với phần hơi sức của Tam Bảo giao chập vào nhau, tất nhiên phát được tâm Bồ Đề, thế là được lợi ích sinh mầm thiện.

3) Do đấy mà phục diệt được hết phiền não, thế là được lợi ích phá tan mọi tội ác.

4) Chứng thực và tỏ ngộ được Tam Bảo cùng một thể chất, thế là được lợi ích hiểu sâu tới Đệ Nhất Nghĩa lý.

Dưới đây lại là đoạn văn tổng kết “do sức Phật tạo ra mọi vật báu trang nghiêm như thế” (lần thứ 3).

Kinh văn

Hán: Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

Việt: Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật kia, chỉ lấy công đức mà tạo thành được trang nghiêm thế đấy.

Mỗi một đoạn Phật Thích Ca nói xong, Phật lại kết thị một lần (đây là lần thứ 3), Phật cố ý nói đi, nói lại cho người nghe tin sâu rằng: Hết thảy những vật báu trang nghiêm như thế đều do chí nguyện và hành vi của đức Đạo Sư A Di Đà đã tạo thành, do Chủng Trí của Ngài đã thực hiện ra; và cũng đều là do 3 nghiệp Thân, Khẩu, Ý rất thanh tịnh của mỗi người chúng ta đã cảm ứng mà biến hiện ra ở trong Thức tâm của mình. Tâm của Phật và Tâm của chúng sinh cùng làm ảnh và chất lẫn cho nhau 6 (Câu này nói rõ được phần Tính và phần Tướng của Tâm rất tròn đầy, sáng suốt). Thí dụ như các ánh sáng của nhiều ngọn đèn cùng sáng khắp cả với nhau thì coi tựa như một ánh sáng. Hoàn toàn lý ấy đã thành ra sự thực, hoàn toàn sự vật ấy tức là lý thực. Hoàn toàn tính ấy đã khởi ra hạnh tu. Hoàn toàn hạnh tu ấy đều ở trong tính (Ý nói đức tính và đức tu của Phật đều là đức tính và đức tu của chúng sinh). Vậy người tu hành cũng nên suy nghĩ sâu xa cho tỏ ngộ. Đừng nên bỏ cõi Tịnh Độ của Phật thực có ấy không tu, mà chỉ bàn xuông cõi Tịnh Độ bóng ma riêng biệt ở trong tâm mình (nó chỉ là cái bóng duyên vọng tưởng) đến nỗi phải cam chịu tiếng chê cười là “thử tức, điểu không” 7.

Nói về quả y báo mầu nhiệm đến đây là hết.

B) QUẢ CHÍNH BÁO

Kinh văn

Hán: Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu vi A Di Đà?

Việt: Xá Lợi Phất ơi! Ý ông thế nào? Phật kia vì sao hiệu A Di Đà?

Đoạn văn trên đây là lời Phật Thích Ca hỏi.

Mục đích của bộ kinh này là chỉ bày cho thấy rõ cái hạnh tu mầu nhiệm là việc Trì Danh (việc niệm Phật) cho nên Phật Thích Ca phải đặc biệt nêu ra câu hỏi, rồi Ngài lại giải thích nghĩa rất rõ ràng cái danh hiệu Phật A Di Đà, ý Phật muốn khiến người nghe phải tin rất sâu cái danh hiệu lớn lao ấy có muôn vàn công đức chẳng khá nghĩ bàn hết được để mình phải nhất tâm trì niệm danh hiệu ấy luôn luôn, đừng có nghi ngờ gì nữa (rất đúng ý Phật).

Đoạn văn dưới là lời Phật Thích Ca giải thích nghĩa chữ A Di Đà, có hai nghĩa chính:

1) Trí sáng suốt (quang minh).

2) Sống lâu (thọ mệnh).

Chữ A Di Đà, nguyên tiếng Ấn Độ đọc là Amita, dịch ra chữ Hán là Vô Lượng, tức là nhiều nghĩa lắm chẳng thể nào nói hết được. Đức Thích Ca chỉ dùng một nghĩa Quang và một nghĩa Thọ mà thu hút được hết thảy vô lượng nghĩa vào trong Quang (sáng suốt). Ánh sáng thì phải sáng khắp cả mười phương, chỗ nào cũng sáng. Thọ (sống lâu), sống lâu thì phải sống mãi suốt ba đời, đời nào cũng vẫn sống. Hai thể chất Quang và Thọ giao chập với nhau, khắp 10 phương (vũ), suốt ba đời (trụ), tức là toàn thể của cả một pháp giới. Đem thể chất tạo ra thân của Phật A Di Đà và tạo ra quốc độ của Phật A Di Đà, cũng tức là đem thể chất mà tạo ra cái danh hiệu Phật A Di Đà. Thế cho nên cái danh hiệu Phật A Di Đà ấy tức là cái lý tính Bản Giác 8 của chúng sinh. Chấp trì cái danh hiệu ấy tức là đem cái Thủy Giác 9 hợp với Bản Giác. Thủy Giác và Bản Giác chẳng khác nhau, chúng sinh và Phật chẳng khác nhau. Cho nên một niệm cùng ứng hợp với nhau, thì một niệm Phật ấy là Phật, niệm nào, niệm nào cũng cùng ứng hợp với nhau, thì niệm nào, niệm nào cũng là Phật.

Thích nghĩa quang minh của Phật.

Kinh văn

Hán: Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quang minh vô lượng chiếu thập phương quốc vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A Di Đà.

Việt: Xá Lợi Phất ơi! Phật kia sáng láng vô cùng vô lượng, soi khắp các nước suốt cả mười phương, không đâu chướng ngại, vì thế, nên gọi A Di Đà.

Tâm yếu của hết thảy chư Phật là ở cả đây.

Tâm tính của con người nó yên lặng (là Tịch) mà nó thường soi sáng (là Chiếu). Cho nên nó tạo ra thể chất Quang Minh (sáng láng). Nay Phật đã chứng thực được triệt để cái thể chất vô lượng của tâm tính, cho nên quang minh của Phật cũng vô lượng (sáng khắp cả 10 phương không gian, chẳng biết đến đâu là hết).

Chư Phật, vị nào cũng đã triệt để thực chứng được thể chất của tâm tính; quang minh của vị nào cũng soi khắp 10 phương, thì vị nào cũng có thể gọi là “Vô Lượng Quang”. Nhưng mà trong khi còn tu cái nhân thì nguyện lực của mỗi vị mỗi khác, cho nên phải tùy theo cái nhân duyên ấy mà lập ra danh hiệu mỗi vị.

Phật A Di Đà khi trước còn là một vị tỳ khưu tên là Pháp Tạng. Ngài đã phát ra 48 nguyện, trong đó có một nguyện là quang minh của Ngài phải thường thường soi khắp 10 phương. Nay Ngài đã thành Phật thì Ngài được như nguyện của Ngài.

Quang minh của Pháp Thân rộng lớn không có bến bờ, giới hạn nào cả. Quang minh của Báo Thân cũng cân xứng với tâm tính chân thực. Hai quang minh ấy thì vị Phật nào cũng ngang nhau. Nhưng quang minh của Ứng Thân thì có vị soi được một do tuần (một dặm khối), có vị soi được 10 dặm, 100 dặm, 1.000 dặm. Có vị soi khắp một thế giới, có vị soi được 10 thế giới, 100 thế giới, 1.000 thế giới. Chỉ có Phật A Di Đà là soi được khắp vô lượng thế giới, cho nên đặc biệt có danh hiệu là Vô Lượng Quang (có thế mới là tông Tịnh Độ Cực Lạc); nhưng 3 thân của Phật chẳng phải một, chẳng phải là khác (bất nhất, bất dị), chỉ vì muốn cho chúng sinh được đủ 4 lợi ích mà phân biệt, tạo tác ra làm ba.

Lại nên hiểu câu: “Vô sở chướng ngại” (không đâu chướng ngại) là nói về nhân dân có chướng ngại hay không. Bởi vì những chúng sinh nào cùng với Phật kết duyên thì hết thảy thế gian ở đấy đều được thấy rõ ràng, không hề chướng ngại (Đừng hiểu lầm rằng Phật quang đã soi khắp cả 10 phương thì chẳng cần tụng niệm, ai cũng thấy được. Ý nói: Kẻ nào có duyên với Phật thì Phật quang soi đến, mới thấy rõ mà không chướng ngại; còn kẻ vô duyên thì vẫn chướng ngại chẳng thấy gì. Cũng như bài dưới nói về nhân dân có duyên với Phật thì sống lâu vô lượng như Phật; còn kẻ vô duyên vẫn già, ốm, chết như thường).

Thích nghĩa thọ mệnh của Phật.

Kinh văn

Hán: Hựu, Xá Lợi Phất! Bỉ Phật thọ mệnh, cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, cố danh A Di Đà.

Việt: Lại còn đây nữa Xá Lợi Phất ơi! Phật kia cùng với nhân dân của Ngài, sống lâu vô cùng đến bao nhiêu kiếp không thể kể xiết. Vì thế nên gọi là A Di Đà.

Tâm tính của con người nó soi sáng (là Chiếu) mà nó thường yên lặng (là Tịch), cho nên nó tạo thọ mệnh (sống lâu). Nay Phật đã chứng thực được triệt để cái thể chất vô lượng của tâm tính, cho nên thọ mệnh của Phật cũng vô lượng (sống lâu mãi suốt cả 3 thời gian, không biết đến ngày nào là hết).

Thọ mệnh của Pháp Thân không có lúc bắt đầu (là vô thủy), không có lúc cùng tận (là vô chung). Thọ mệnh của Báo Thân thì có khởi thủy, mà không có chung cùng. Hai Thọ Mệnh ấy, thời vị Phật nào cũng giống nhau, nhưng thọ mệnh của Ứng Thân thì phải tùy nguyện, tùy cơ của mỗi vị mà có dài ngắn, chẳng giống nhau. Trong 48 nguyện lớn của ngài Pháp Tạng, có một nguyện rằng: Thọ mệnh của Phật và của dân Phật đều phải vô lượng. Nay Ngài đã thành Phật thì Ngài được như nguyện của Ngài, cho nên danh hiệu riêng biệt của Ngài là Vô Lượng Thọ.

Chữ “a tăng kỳ” là tiếng Ấn Độ, chữ Hán là vô lượng, vô biên, đều là những danh từ số đếm. Ứng Thân đây tuy nói là vô lượng (không có hạn lượng) nhưng thực ra vẫn có một hạn lượng. Nhưng đã biết 3 thân của Phật chẳng phải là một, chẳng phải là khác nhau (bất nhất, bất dị), thì Ứng Thân của Phật A Di Đà đây cũng có thể là cái thân sống lâu vô lượng, vô lượng thực!

Một chữ “cập” là một danh từ, có nghĩa “lược qua không nói đến’. Nghĩa là: Ở dưới Phật còn có nhiều vị Bồ Tát từ ngôi Đẳng Giác trở xuống, rồi mới đến nhân dân.

Một chữ “kỳ” là một danh từ, nghĩa là “đồng thể”, nghĩa là “thể chất”. Thọ mệnh của người dân Phật cũng giống như thể chất thọ mệnh của Phật.

Vậy ta nên hiểu rằng: Cái danh hiệu A Di Đà (là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ) đều do căn bản của chúng sinh mà lập ra. Vì rằng chúng sinh với Phật là bình đẳng ngang nhau, thì mới khiến cho người trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà được cái phần Chiếu của tâm tính mình cùng với quang minh của Phật dung hòa làm một, và được thọ mệnh của mình cùng một thể chất với phần Tịch của Phật.

Lại còn nữa, vì có cái nghĩa Vô Lượng Quang như thế, cho nên những chúng sinh nào một khi mình đã được sinh sang thế giới Cực Lạc rồi, tức là mình được sinh vào tất cả các thế giới khác khắp 10 phương trong không gian. Mình đã được thấy Phật A Di Đà rồi, tức là mình đã được thấy hết thảy chư Phật. Mình đã có bản năng độ được thân mình, tức là mình có khả năng độ được hết thảy.

Lại cũng vì có cái nghĩa Vô Lượng Thọ như thế, cho nên người dân ở thế giới Cực Lạc đều là Bồ Tát Nhất Sinh Bổ Xứ, nghĩa là: Chỉ một lần sinh sang đấy rồi sống lâu mãi cho đến ngày thành Phật, không còn phải sinh đến lần thứ hai.

Vậy ta phải biết rằng: Ta rời bỏ cái tâm Vô Lượng Quang Thọ của ta, nó chỉ hiện ra trong một niệm (một loáng) thì ta chẳng tìm đâu cho có được cái danh hiệu Phật A Di Đà. Và ta rời bỏ cái danh hiệu Phật A Di Đà ra, thì ta cũng chẳng còn có cách nào mà chứng thực được triệt để cái tâm Vô Lượng Quang Thọ của ta, nó chỉ hiện ra trong một loáng.

Tôi cầu nguyện các ngài nên hiểu sâu xa hai nghĩa ấy, tôi cầu nguyện các ngài nên nghĩ sâu xa hai nghĩa ấy!

Đoạn văn kinh dưới đây là Phật Thích Ca thích nghĩa đức Giáo Chủ ở Cực Lạc và các bạn của Giáo Chủ, và cũng là thích nghĩa một câu: “Kim hiện tại thuyết pháp” ở trong phần Biệt Tự.

Kinh văn

(nói về Giáo Chủ)

Hán: Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai ư kim thập kiếp.

Việt: Xá Lợi Phất ơi! Phật A Di Đà thành Phật đến nay mới có mười kiếp.

Đoạn này là nói đức Giáo Chủ ở thế giới Cực Lạc tu đã thành Phật.

Nhưng nói về Pháp Thân Phật thì không có nghĩa “thành” và không có nghĩa “bất thành”, thời chẳng nên bàn đến kiếp số. Còn nói về Báo Thân Phật thì khi nào nhân tu đã tròn, quả tu đã mãn thì gọi là “thành”. Về Ứng Thân Phật thì mỗi khi có chúng sinh mà thị hiện sinh ra, thì gọi là “thành”. Về hai thân này, đều có thể bàn đến kiếp số.

Trái lại, khi nói Pháp Thân Phật, phải nhờ có đức tu mới hiển lộ ra được, thì cũng có thể nói là “thành” được, và cũng có thể nói là “thành” từ kiếp nào. Lại, khi nói Báo Thân Phật là thân có sẵn, không phải là mới tu được, với Ứng Thân Phật giống như bóng trăng in xuống lòng sông, thì cũng không có nghĩa “thành” và không có nghĩa “bất thành” thì cũng chẳng nên bàn đến kiếp số, là thành được mấy kiếp rồi.

Chỉ có điều mỗi khi chư Phật thành đạo thì vị nào cũng có 2 phần: phần Bản và phần Tích (Bản là căn bản, cội gốc; Tích là hình tích, dấu vết).

Về phần Bản thì chẳng thể nào mà suy lường được; nay hãy đem phần Tích của Phật A Di Đà thị hiện là “thành Phật” ở cõi Cực Lạc mà nói, thì ba thân của Phật, một thân đã thành là cả ba thân cùng thành, nhưng cũng vẫn hàm cái nghĩa “chẳng phải thành, chẳng phải bất thành” mà tạm nói là “thành” vậy 10.

Lại nữa, thọ mệnh của Phật A Di Đà là vô lượng, sống mãi không có hạn lượng nào cả, thế mà tính ra Ngài thành Phật đến nay mới có 10 kiếp (mỗi kiếp ở đây là 16.800.000 năm) mà hiện bây giờ Ngài đang nói pháp, thế là cái thời gian của Ngài thành Phật chính chưa được một nửa. Chính ý Phật Thích Ca muốn khuyên tất cả các chúng sinh trong ba đời nên cấp tốc cầu đi sinh sang đấy, được thọ mạng giống như Phật thì chỉ một lần sinh sang đấy là thành Phật.

Kinh văn
(nói về các bạn)

Hán: Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử giai A La Hán, phi thị toán số chi sở năng tri; chư Bồ Tát chúng diệc phục như thị.

Việt: Lại còn đây nữa! Xá Lợi Phất ơi! Phật kia có nhiều đệ tử Thanh Văn, toàn A La Hán, nhiều lắm không thể đếm mà biết được; các vị Bồ Tát cũng đông như thế.

Thực ra thì các bậc Định Tính Nhị Thừa 11 ở các thế giới khác chẳng được sinh sang cõi kia đâu. Chỉ có vị nào trước đã quen tu tập hạnh Tiểu Thừa mà lúc lâm chung (sắp chết), biết hồi hướng về tâm Bồ Đề, phát ra lời thệ nguyện của Đại Thừa thì mới được sinh. Khi đã được sinh sang Cực Lạc rồi, Phật sẽ tùy cơ mà nói pháp cho nghe, khiến cho đoạn trừ được Kiến Hoặc (tà kiến) và Tư Hoặc (tham, sân, si, mạn, nghi) thì gọi là A La Hán, giống như các vị Bồ Tát ở ngôi thứ bảy về Biệt Giáo môn, đã đoạn hết Kiến Hoặc và Tư Hoặc rồi, chứ chẳng phải thực là Thanh Văn đâu. Bởi vì những người tu về 2 giáo môn: Tạng Giáo và Thông Giáo thì chẳng được nghe nói đến danh hiệu Phật ở thế giới khác; mà nay những người được nghe danh hiệu Phật A Di Đà đã có tâm Tín Nguyện vãng sinh, thì đều là người có căn có thuộc về 2 giáo môn Biệt Giáo và Viên Giáo cả.

Kinh văn
(nói về kết thị)

Hán: Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

Việt: Xá Lợi Phất này! Cõi nước Phật kia chỉ lấy công đức mà tạo thành được trang nghiêm thế đấy.

(Mỗi một đoạn, Phật Thích Ca nói xong, Phật lại kết thị một lần – Lần này, lần thứ tư và lần cuối – Phật cố ý nói đi, nói lại mãi để mọi người nghe, tin sâu và chắc).

Cả Phật và đệ tử Phật là các vị Thanh Văn và Bồ Tát ở thế giới Cực Lạc đều nhờ những “cái nhân tu: chí nguyện và thực hành” của Phật A Di Đà đã tạo thành; mà cũng là những “cái quả: một quả đã thành, hết thảy quả đều thành”. Vậy thì Phật, Bồ Tát và Thanh Văn, mỗi người ai ai cũng thấy mình là “phi tự, phi tha, tự-tha bất nhị” (chẳng phải mình, chẳng phải người khác; cả mình và người khác mà chẳng phải là hai). Cho nên nói rằng: “Đã thành tựu được cái công đức trang nghiêm như thế” là cốt ý khiến người nào có tâm Tín, Nguyện trì niệm danh hiệu Phật thì mỗi một niệm, niệm nào cũng sẽ được thành tựu như thế cả [note] Câu này ý nói mình niệm Phật thì thành cho mình và đồng thời cũng thành cho người khác; cũng như Phật A Di Đà đã tu cho mình thành Phật mà đồng thời cho cả chúng sinh thành Phật. Như thế gọi là “một quả đã thành, hết thảy quả đều thành” (nhất thành, nhất thiết thành). [/note] (từ đây trở lên trên, trùng trùng điệp điệp vô cùng cực, nói mãi về công đức trang nghiêm, đều tổng quy vào một cùng cực, là một tiếng “nam mô A Di Đà Phật” là danh hiệu Phật).

Chính Tông có ba phần, phần thứ nhất: giãi bày rất rộng quả y báo và quả chính báo rất mầu nhiệm ở quả đất bên kia để khải tín (mở lòng tin) đến đây là hết.

2. PHÁT NGUYỆN

Dưới đây là phần Chính Tông thứ hai: “Đặc biệt khuyên chúng sinh nên cầu đi sinh vào quả đất ấy để cho chúng sinh phát nguyện” (phát khởi chí nguyện bằng lời thề nguyền).

Đoạn văn kinh này có 2 ý nghĩa: Một là yết thị cho thấy rõ cái Nhân và cái Duyên trên hết. Hai là đặc biệt khuyên đi sinh sống ở Tịnh Độ, nơi trong sạch hơn hết (Bài này quan hệ rất lớn cho người tu). Vì rằng được mang cả ác nghiệp mà đi sinh sống ở đấy, được rẽ ngang ra khỏi Tam Giới, được sinh sống ở cõi Đồng Cư mà có đủ 4 Tịnh Độ, được Phật mở cho nghe Pháp luân của cả 4 giáo môn, được làm thân chúng sinh sống ở 4 Tịnh Độ hoàn toàn, được thấy đủ cả 3 thân Phật, được chứng đủ 3 ngôi Bất Thoái, được làm người chỉ một lần sinh sang đấy là thành Phật. Như thế là bao nhiêu công đức tuyệt vời hơn hết, hoàn toàn ở cả trong bài này, Phật đã chỉ điểm, yết thị cho thấy rõ thì mình nên nghiên cứu cho thực kỹ càng, chính đáng.

Kinh văn
(nói về cái nhân và cái duyên trên hết)

Hán: Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ chúng sinh sinh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí, kỳ trung đa hữu Nhất Sinh Bổ Xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên a tăng kỳ thuyết.

Việt: Lại còn đây nữa, Xá Lợi Phất ơi! Cõi nước Cực Lạc, chúng sinh (vừa sinh) sang đấy đều là những (ba) bậc A Bệ Bạt Trí, trong có nhiều vị Nhất Sinh Bổ Xứ số sinh sang đấy, rất nhiều không thể đếm mà biết được; chỉ có thể nói là nhiều vô số, vô lượng, vô biên.

Chữ “A Bệ Bạt Trí” nguyên tiếng Ấn Độ đọc là Avaivarti, chữ Hán là Bất Thoái (chẳng lùi xuống), có 3 nghĩa:

1) Vị bất thoái: đã dự vào địa vị Tứ Thánh rồi, chẳng sa đọa xuống địa vị Lục Phàm nữa.

2) Hạnh bất thoái: đã tu hạnh Bồ Tát thường hóa độ chúng sinh, chẳng sa đọa xuống địa vị Nhị Thừa nữa.

3) Niệm bất thoái: tâm tâm niệm niệm, giờ phút nào cũng như giòng nước chảy vào bể Tát Bà Nhã (bể Nhất Thiết Trí).

Nếu đem so sánh với người tu được ngôi Bất Thoái ở quả đất này thì quả thứ nhất của Tạng Giáo, ngôi Địa thứ nhất của Thông Giáo, ngôi Trụ thứ bảy của Biệt Giáo và ngôi Trụ 12 thứ nhất của Viên Giáo đều gọi là Vị Bất Thoái.

Các vị Bồ Tát của Thông Giáo, ngôi Hạnh thứ mười của Biệt Giáo và ngôi Tín thứ mười của Viên Giáo đều gọi là Hạnh Bất Thoái.

Ngôi Địa thứ nhất của Biệt Giáo và ngôi Trụ thứ nhất của Viên Giáo đều gọi là Niệm Bất Thoái.

Nay ở Tịnh Độ thì những người phạm tội ngũ nghịch, thập ác, mỗi ngày chí tâm niệm 10 tiếng “Nam mô A Di Đà Phật” cho đến lúc sắp chết, đã thành công thì được mang cả ác nghiệp mà đi sinh vào phẩm Hạ Hạ ở cõi Đồng Cư, cũng đã được ở 3 ngôi Bất Thoái.

Nhưng theo đường lối của các giáo môn thì nếu là phàm phu (lục phàm), thời chẳng phải ngang hàng được với quả thứ nhất của Tạng Giáo. Nếu là bậc Nhị Thừa thời chẳng phải ngang hàng với bậc Bồ Tát. Nếu là tính dị sinh (tính lục phàm) thời chẳng phải ngang hàng với tính đồng sinh (tính tứ thánh). Lại nữa, ở ngôi Niệm Bất Thoái thì chẳng còn là loài dị sinh nữa (loài phàm phu). Ở ngôi Hạnh Bất Thoái thì chẳng phải là bậc mới thấy đạo. Ở ngôi Vị Bất Thoái thì chẳng phải là người dân. Ở ngôi dưới mà nói vượt lên ngôi trên thì thành tội đại vọng ngữ. Có tiến bước sang ngôi mới thì mới bỏ được cái tên gọi ở ngôi cũ.

Chỉ có người tu Tịnh Độ ở cõi Đồng Cư bên Cực Lạc thì không thế. Hết thảy (các ngôi) đều chẳng phải; hết thảy (các ngôi) đều phải 13. Tông Tịnh Độ Cực Lạc phải đúng như thế. Các cõi Phật khác ở khắp 10 phương đều không có danh tướng như thế, không có địa vị như thế, không có pháp môn như thế. Nếu chẳng có sự chứng thực được tâm tính đến cực điểm, chẳng có công tu trì niệm danh hiệu Phật, chẳng có nguyện lớn của Phật A Di Đà, thì làm gì có được những danh tướng, địa vị, pháp môn lạ như thế!

Chữ “Nhất Sinh Bổ Xứ” là một tên riêng của một bậc Bồ Tát ngang hàng với Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Quán Thế Âm, nghĩa là vị ấy chỉ một lần sinh ở đấy là được lên bổ lên ngôi Phật. Thế thì người dân ở Cực Lạc, hết thảy đều là “người nhất sinh thành Phật”, người nào cũng quyết là thực chứng ngôi “Nhất Sinh Bổ Xứ”. Cho nên, đức Phật Thích Ca nói rằng: “Trong số những người sinh sang đấy, có rất nhiều người thượng thiện nhân như thế, chẳng khá đếm mà biết được”.

Lại nữa, các thời kỳ giáo hóa trong một đời của đức Thích Ca, chỉ có một thời kỳ nói kinh Hoa Nghiêm là nói rõ cái nghĩa “nhất sinh viên mãn” 14, thế mà cái mầm nhân để tạo ra cái quả “nhất sinh viên mãn” thì lại chính là 10 nguyện lớn ở trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, là phẩm cuối của bộ kinh ấy, mà rút lại là chỉ đường cho người ta tu về cõi An Dưỡng (là cõi Cực Lạc Tây Phương). Vả chăng, ngài Phổ Hiền cũng đem phép tu Tịnh Độ này mà khuyến tiến các vị Tăng chúng ở hải hội Hoa Tạng.

Than ôi! Cái lệ kẻ phàm phu lên ngôi Bổ Xứ là một khởi xướng luận bàn lạ lắm, cao lắm, chẳng thể suy lường được, là phép dạy tu trong kinh Hoa Nghiêm, lại ở ngay trong bộ kinh này, thế mà thiên hạ xưa nay tin thì ít, nghi thì nhiều, lời càng rậm, nghĩa càng tối; vậy tôi chỉ còn một cách là mổ tim, vẩy máu ra để các ngài rõ mà thôi. Không còn có cách nào hơn nữa.

Kinh văn

(đặc biệt khuyên người đi sinh sống ở Tịnh Độ)

Hán: Xá Lợi Phất! (như thượng vô thượng đại sự nhân duyên) chúng sinh (hạnh đắc) văn giả, ưng đương phát nguyện nguyện sinh bỉ quốc, sở dĩ giả hà? Đắc dữ như thị (bất khả toán số Nhất Sinh Bổ Xứ) chư thượng thiên câu hội nhất xứ.

Việt: Xá Lợi Phất ơi! Chúng sinh nghe rồi (may mà được nghe những nhân duyên của một đại sự như trên kia) thì nên phát nguyện, nguyện sinh sang đấy. Là vì làm sao? Vì sinh sang đấy được cùng các vị (các vị Nhất Sinh Bổ Xứ nhiều lắm chẳng thể đếm được) thượng thiện như thế cùng họp một nơi.

Bài trước nói có nhiều các vị A La Hán và Bồ Tát thì chỉ có thể gọi là Thiện Nhân, bài này nói toàn các vị Nhất Sinh Bổ Xứ, đã lên tới địa vị trồng nhân tới cực điểm rồi, cho nên được gọi là “thượng thiện nhân”. Số ấy rất nhiều, cho nên nói là “chư thượng thiện nhân”.

Chữ “câu hội nhất xứ” (cùng họp một nơi) thì cũng như nói: “Phàm thánh đồng cư” (phàm và thành cùng ở với nhau). Nhưng nói về những chỗ Đồng Cư tầm thường thì có khi là các vị Thánh thực vì kiếp trước có nghiệp ác mà phải ở cùng; có khi là các vị Thánh quyền giả, chỉ vì chí nguyện đại từ bi mà phải ở cùng. Vì thế mà những phàm phu mới được cùng với các vị thánh nhân ấy cùng ở một chỗ. Nhưng đến khi các vị Thực Thánh đã trọn đời, các vị Quyền Thánh đã hết cơ duyên thì kẻ lên, người xuống lại cách nhau xa, kẻ khổ người vui lại khác nhau hẳn. Như thế thì chỉ giả tạm đồng cư (mau chóng như lửa đá, sáng điện), chứ chẳng phải là rốt ráo đồng cư.

Lại nữa, ở trong trời đất này, người được thấy, được nghe các thánh rất ít; may mà được thấy, nghe các ngài, nhưng được thân cận ở luôn với các ngài thì lại ít lắm.

Lại nữa, khi Phật tại thế, các vị thánh nhân tuy có nhiều như ngọc báu, như điềm lành, nhưng cũng chẳng làm gì có nhiều ở khắp cả nước như các vì sao, như hạt bụi nhỏ.

Lại nữa, chỗ ở với các ngài tuy là đồng, mà việc các ngài đang làm và đã làm xong thì chẳng đồng tí nào.

Ngày nay, chúng ta cùng tu một Tịnh nghiệp (nghiệp niệm Phật) là nghiệp vô lậu bất tư nghì (là nghiệp không có phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến; là nghiệp có nhiều thiện căn làm nhân, có nhiều phúc đức làm duyên), tu một nghiệp ấy mà cảm ứng, cùng được hội họp với nhau một nơi (ở cõi Tịnh Độ Đồng Cư bên Cực Lạc), cùng làm thầy, làm bạn, như anh, như em với nhau, cùng diệt hết vô minh, cùng lên ngôi Diệu Giác. Thế là kẻ chúng sinh phàm phu hạ liệt mà đã được ở trong hàng Niệm Bất Thoái rồi, thì là đã vượt được lên trên hết 41 ngôi Bồ Tát còn ở địa vị trồng nhân. Vậy nếu bảo: Mình là phàm phu thì phàm phu này chẳng phải đi làm các các loài dị sinh nữa, mà hẳn được bổ lên ngôi Phật như ngài Quán Thế Âm, ngài Đại Thế Chí không khác. Nếu bảo: Mình đã là ngôi Nhất Sinh Bổ Xứ rồi mà vẫn mang cái tên gọi là phàm phu cũng được, chẳng cần phải mang cái tên là Đẳng Giác Bồ Tát.

Tất cả những lạ lùng như thế (thế mới là tông Tịnh Độ Cực Lạc) thì các giáo môn khác đều chẳng thể có được, các cõi Phật khác đều chẳng sánh kịp. Vậy ta nên biết cái nhân duyên đại sự của loài người chúng ta, là cái “cửa ải” đi sang cõi Đồng Cư, một cửa ải rất khó lòng đi thoát được (câu này rất thiết thực). Chỉ có cõi Đồng Cư ở Cực Lạc là vượt lên trên hết các cõi Đồng Cư khác ở khắp mười phương.

Ta có hiểu suốt được như thế thì mới tin sâu được sức mạnh của lời nguyện Phật A Di Đà; có tin sâu được sức Phật mới tin sâu được công đức của danh hiệu Phật; có tin sâu được việc trì niệm danh hiệu Phật mới tin sâu được cái tâm tính của con người ta nó vốn là cái chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn. Có đủ mọi cái tin sâu như thế mới phát ra được thệ nguyện lớn lao.

Trong bài này có hai chữ “ưng đương” (phải nên) tức là chỉ vào hai chữ “thâm tín” (tin sâu). Vậy thâm tín với phát nguyện tức là tâm Vô Thượng Bồ Đề đấy. Hợp hai cái Tín và Nguyện ấy lại, đích là cái kim chỉ nam đưa mình đi sinh sống ở nơi “rất trong sạch”, nơi Tịnh Độ.

Bởi đó mà việc trì niệm danh hiệu Phật mới là việc tu hành chính đáng, nếu Tín và Nguyện của mình rất kiên cố thì lúc lâm chung (sắp chết), chỉ 10 niệm hoặc 1 niệm cũng quyết định được sinh sang Tịnh Độ.

Còn như người đã không có Tín và Nguyện thì chỉ có đem danh hiệu Phật ra mà niệm luôn luôn, khít khìn khịt giống như một bức tường vàng, vách sắt, gió thổi chẳng vào, mưa hắt chẳng ướt, thì người ấy cũng chẳng có lý gì mà được vãng sinh 15.

Người tu cái “nghiệp trong sạch” (là Tịnh nghiệp) mà không biết những nghĩa này thì chẳng có kết quả. Kinh Đại Bản A Di Đà cũng lấy việc “phát Bồ Đề nguyện” làm thiết yếu, chính là giống với bài này cùng một nghĩa.

3. LẬP HẠNH

Dưới đây là phần Chính Tông thứ ba: Chính bảo người tu phải chấp trì danh hiệu (là niệm Phật) để lập hạnh (là lập hạnh tu).

Đoạn văn kinh này có ý nghĩa: một là chính bảo cho thấy rõ cái nhân trên hết và cái quả trên hết. Hai là “trùng khuyến” (khuyên thêm một lần nữa).

Kinh văn
(nói về cái nhân trên hết và cái quả trên hết)

Hán: Xá Lợi Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phúc đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc. Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn, kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền; thị nhân chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ.

Việt: Xá Lợi Phất ơi! Chẳng khá thể nào lấy ít thiện căn, phúc đức nhân duyên mà được sinh sang bên nước kia đâu! Xá Lợi Phất này, nếu có thiện nam hay là thiện nữ mà được nghe nói Phật A Di Đà, rồi nhớ ngay lấy danh hiệu của Ngài, niệm trong một ngày, hai là hai ngày, hai là ba ngày, hai là bốn ngày, hai là năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, niệm kỳ cho thành một người nhất tâm, không còn loạn tưởng, thế là người ấy khi nào lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng hiện ra trước mặt; người ấy lúc chết, tâm không điên đảo, tức là được sinh sang nước Cực Lạc, Phật A Di Đà.

Chính cái tâm đạo Bồ Đề là thiện căn (gốc lành), nó là cái Nhân thân thiết của mình. Còn các phép tu như Bố Thí, Trì Giới, Thiền Định v.v… đều là phúc đức, tức là những cái Duyên trợ giúp cho tâm đạo ấy nẩy nở ra.

Các vị tu Thanh Văn và Duyên Giác (là Tiểu Thừa) thì thiện căn Bồ Đề của các ngài ít lắm. Các vị tu ở cõi Nhân và cõi Thiên, tu các phúc nghiệp hữu lậu (là còn có đủ cả mọi phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến) thì phúc đức của các ngài cũng ít lắm. Các ngài đều chẳng thể sinh sống ở Tịnh Độ được.

Chỉ có người Tín, Nguyện, trì niệm danh hiệu Phật thì mỗi một tiếng niệm Phật, tiếng nào cũng đầy đủ thiện căn rất nhiều, phúc đức rất nhiều. Nói ngay người niệm Phật mà tâm còn tán loạn, thế mà phúc đức và thiện căn cũng đã nhiều vô lượng, huống chi là người niệm Phật nhất tâm bất loạn, thì nhiều biết là dường nào?

Thế cho nên tâm người niệm Phật cảm động đến tâm Phật. Tâm Phật ứng hợp với tâm người, hai đường giao chập với nhau thành một vẻ, giống như lấy bàn in, in thành nét đẹp rồi thì bỏ bàn in đi. Như thế thì Phật A Di Đà và các thánh chúng, tuy tâm các ngài chẳng ở đâu lại, mà chính thân các ngài có lại thực, cúi xuống tiếp dẫn mình. Người tu tịnh nghiệp tâm mình cũng chẳng đi đâu, mà chính thân mình có đi thật, mang thể chất mình gửi trong hoa sen báu.

Trong đoạn văn này, Phật Thích Ca nói: Nếu có thiện nam tử hay là thiện nữ nhân niệm Phật thì hạng người nào mới được là thiện nam, thiện nữ? Bất luận là hạng người nào, người tại gia, người xuất gia, người sang, người hèn, người trẻ, người trong sáu ngả: Thiên, nhân, A Tu La, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục; người trong bốn loại chúng: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, bất luận là hạng người nào, miễn là người được nghe danh hiệu Phật A Di Đà, tức là cái quả “thiện căn” của người ấy trồng từ nhiều kiếp trước, nay đã thành, đã chín, thì những người ấy dù có phạm tội Ngũ Nghịch, Thập Ác cũng đều được gọi là “thiện”.

A Di Đà Phật là một danh hiệu lớn lao, gồm có vạn công đức, niệm danh hiệu ấy để vời công đức đến với mình thì công đức nào cũng phải đến hết (câu này rất viên mãn). Cho nên lấy ngay cái việc trì niệm danh hiệu Phật làm một việc tu hành thật chính đáng, bất tất phải xen lẫn vào những phép tu Quán Tưởng và phép tu Thiền Tham Cứu. Phép tu Trì Niệm Danh Hiệu Phật là một phép tu rất giản dị, rất thẳng mau lắm rồi.

Nghe danh hiệu Phật rồi mà Tin, Tin rồi mà phát Nguyện thì mới chịu chấp trì. Những người chẳng có Tín, chẳng có Nguyện thời tuy có được nghe, cũng như người chẳng được nghe. Mặc dầu cái nghe ấy được là cái mầm thiện căn về nhiều kiếp sau này, nhưng bây giờ chẳng gọi được là Văn Tuệ (là trí tuệ nghe).

“Chấp trì” thời phải có nghĩa là: Luôn luôn tụng niệm, niệm nào cũng phải nhớ lấy danh hiệu Phật A Di Đà, thế cho nên Chấp Trì chính là Tư Tuệ (trí tuệ suy nghĩ). Nhưng có hai lối Chấp Trì là Sự Trì và Lý Trì (nghĩa này đính chính nhiều sai lầm từ lâu):

1) Người Sự Trì là người tin có Phật A Di Đà ở Tây Phương thực sự, nhưng mà chưa hiểu được suốt như thế nào là “tâm mình tạo tác ra Phật, tâm mình chính là Phật”; chỉ có cái tâm quyết chí phát nguyện cầu sinh sống ở Tịnh Độ thôi, cho nên lúc nào cũng như con thơ nhớ mẹ, không lúc nào tạm quên.

2) Người Lý Trì là người tin rằng Phật A Di Đà ở Tây Phương là Phật đã sẵn có ở trong tâm mình, là Phật do tâm mình 16 tạo ra, thì mình lấy ngay cái danh hiệu Phật lớn lao sẵn có ở trong tâm mình và do tâm mình tạo ra ấy làm cảnh giới buộc tâm mình vào đấy, khiến cho nó chớ tạm quên (tuy là Lý Trì mà vẫn chẳng bỏ Sự Trì).

Trong bài này nói rằng: Chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà từ 1 ngày cho đến 7 ngày là một thời kỳ phải làm cho xong việc, nghĩa là phải làm cho kỳ được “nhất tâm bất loạn”.

Người lợi căn niệm Phật trong 1 ngày đã được bất loạn, người độn căn phải 7 ngày mới được bất loạn. Còn người trung căn thì không nhất định, hoặc 2 ngày, hoặc 3, 4, 5, 6 ngày mới được bất loạn (Đây là một phương pháp định kỳ tu của người mới học. Nếu là người hạ căn thì có khi đến bao nhiêu lần 7 ngày vẫn chưa được, nhưng cũng là một phương pháp để tùy ý mình quyết định lấy kỳ hạn).

Lại có một nghĩa nữa. Người lợi căn giữ luôn được 7 ngày tâm chẳng loạn; người độn căn chỉ giữ được một ngày thôi. Còn người trung căn thì không nhất định, có người giữ được 6 ngày, có người giữ được hoặc 5, hoặc 4, hoặc 3, hoặc 2 ngày mà thôi (Đây là một phương pháp luyện tập của người tu học đã lâu ngày. Nếu là trung căn hay hạ căn thì phải có nhiều lần 7 ngày rồi cũng được).

Tu được Nhất Tâm cũng có 2 lối: Sự nhất tâm và Lý nhất tâm (nghĩa này đính chính những sai lầm đã lâu nay).

1. Bất luận là người Sự Trì hay người Lý Trì, hễ mà trì đến ngày đã phục trừ được mọi phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, cho đến ngày diệt được hết hẳn cả Kiến Hoặc và Tư Hoặc thì cả 2 người đều là Sự Nhất Tâm.

2 Bất luận là người Sự Trì hay người Lý Trì, hễ mà trì đến ngày tâm mình mở ra, mình thấy được Phật của tâm tính mình thì cả hai người đều được Lý Nhất Tâm.

Sự Nhất Tâm thì chẳng bị Kiến Hoặc và Tư Hoặc nó làm rối loạn (đoạn văn này mỗi chữ nó nghe kêu như một điệu âm nhạc). Lý Nhất Tâm thì chẳng bị những tà thuyết nhị biên 17 nó làm rối loạn, đó tức là trí huệ tu hành.

Tâm mình chẳng bị Kiến và Tư làm rối loạn cho nên mình cảm thấy thân biến hóa của Phật và các vị thánh chúng hiện ra trước mắt; khi ấy, tâm mình chẳng còn biến khởi ra ba cảnh vật điên đảo, là cảnh vật Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới ở trong thế giới Ta Bà này nữa, mà mình được đi sinh sống ở cõi Đồng Cư hoặc cõi Phương Tiện ở bên thế giới Cực Lạc.

Tâm mình chẳng bị tà thuyết nhị biên làm rối loạn cho nên mình cảm thấy thân Thụ Dụng của Phật và các vị thánh chúng hiện ra trước mắt, khi ấy tâm mình chẳng biến khởi ra hai cảnh vật điên đảo tà kiến là cảnh vật sinh, lão, bệnh, tử của phàm phu và cảnh vật trầm không Niết Bàn của Tiểu Thừa, mà mình được đi sinh sống ở cõi Thực Báo Trang Nghiêm hoặc cõi Thường Tịch Quang ở bên thế giới Cực Lạc.

Vậy nên biết phép tu Chấp Trì Danh Hiệu này đã giản dị, mau lẹ, mà vẫn là phép tu rất siêu đốn, rất viên mãn, vì rằng mỗi tiếng niệm Phật cuả mình, tiếng nào mình cũng đã là Phật rồi. Cho nên chẳng cần đến phép tu tham cứu Thiền Tông, đương khi mình niệm Phật, tâm mình tròn đầy, sáng suốt lắm rồi, chẳng còn thiếu sót một ly, dù là người Thượng Thượng căn cũng chẳng thể vượt hơn lên trên mình được, mà người Hạ Hạ căn thì cũng có thể lên tới bằng mình được (cũng chỉ vì mỗi niệm của mình, niệm nào mình cũng đã là Phật rồi).

Nhưng thân Phật mà mình được cảm thấy và cõi Tịnh Độ mà mình được sinh sang thì mỗi người tiến hơn lên có mỗi khác, chứ không phải là nhất khái như nhau cả đâu (có thế mới là tông Tịnh Độ Cực Lạc).

Có thể nói rằng phép tu Tịnh Độ này, về phần rộng thì cai quát được cả 8 giáo môn của Phật; về phần sâu thì thông suốt được cả 5 thời kỳ Phật nói Pháp (Phép này thu được hết thảy, cho nên vượt lên trên hết thảy, giống như một đại tướng tài, thành ra vô địch tướng quân). Vì thế mà bộ kinh này là một bộ kinh “không ai hỏi mà Phật tự nói ra, từ đáy lòng cả thương xót của Phật và Phật lại than thở sâu xa là một bộ kinh rất khó tin”.

Hoặc có người hỏi: Trong phép tu Tịnh Độ thì Quán kinh chuyên dạy phép tu Quán Tưởng; sao ở đây lại bảo: Chẳng cần quán tưởng?

Thưa: Cái nghĩa “chẳng cần quán tưởng” này cũng rút ra ở Quán kinh. Trong Quán kinh, nhân vì phép quán tưởng tượng Phật cao hơn hết thì sức tâm người phàm chẳng quán tưởng được. Cho nên đến phép thứ 13, mở riêng ra một phép quán tưởng tượng Phật rất thấp kém. Thế mà những người nghiệp chướng nặng cũng chẳng quán tưởng được. Cho nên đến phép thứ 16, mới mở rộng ra cái môn Niệm Phật này (trong Quán Kinh bảo niệm Phật cũng là quán tưởng Phật). Bộ kinh Di Đà nhân vì đời Mạt Pháp, người nghiệp chướng nặng rất nhiều, cho nên chuyên chủ phép quán thứ 16.

Ta nên biết rằng: Cái thân tượng Phật cao một trượng sáu thước hay là 8 thước (thước Tàu), với cái danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ thì người độn căn đến đâu cũng có thể quán tưởng mà thấy được rõ ràng “tâm mình tạo tác ra Phật ấy, tâm mình chính là Phật ấy”. Cho nên người tu phép quán tưởng thân Phật thấp hơn hết, chẳng cần tu phép quán tưởng thân Phật cao hơn hết. Thế thì người tu phép Trì Niệm Danh Hiệu Phật, cả hai phép quán tưởng đều chẳng cần.

Hoặc có người lại hỏi rằng: Tổ Thiên Kỳ và Tổ Độc Phong đều chuyên chú một câu của Thiền Tông: “Tham cứu người niệm Phật là ai?” Sao ở đây lại bảo chẳng cần phép Thiền Tông tham cứu?

Thưa: Cái nghĩa “chẳng cần tham cứu” này cũng rút ra từ Tổ Thiên Kỳ và các Tổ khác. Các Tổ đời trước nhân thấy có người niệm Phật chẳng đúng hợp với tâm thương xót triệt để của đức Thích Ca, cho nên đứng bên không chịu được, phải hỏi vặn ngay câu ấy để thức tỉnh thật mạnh người ấy, khác nào mơ mộng suốt đêm dài đã bừng tỉnh lại. Sao bọn chúng ta đến mãi ngày nay vẫn còn chẳng chịu khẳng tâm niệm Phật 18 mà lại cứ chịu khó đi nhặt lấy hòn ngói gõ cửa ấy (tức là câu hỏi ấy) để ném vào cha mẹ thân sinh ngồi trong nhà (tức là cái tâm niệm Phật). Thế thời đối với chư Tổ thành ra con người nghịch ác, chứ chẳng phải là người thuận thiện.

Hoặc có người lại hỏi cao lên nữa: “Chẳng cần tham cứu câu hỏi ấy” là đối với người khẳng tâm niệm Phật thì được, chứ đối với người chưa chịu khẳng tâm niệm Phật mà bảo cũng được tâm mình cùng ứng hợp với tâm Phật thì được làm sao?

Thưa: Than ôi! Chính chỉ vì ông chưa chịu khẳng tâm niệm Phật, nên tôi yêu cầu ông hãy khẳng tâm niệm Phật để cùng ứng hợp với tâm Phật đi. Cái tâm chính tín của các ông chưa chịu mở ra, nó cứ bầy nhầy như miếng da trâu sống thì ai gấp gẫy được nó cho các ông?

Nên biết rằng: Đối với người có mắt, thì cố nhiên là không lý gì phải đốt đèn ở dưới ánh mặt trời cho người ta sáng ra. Còn đối với người không có mắt thì đã ở giữa ban ngày, hà tất phải đi tìm đèn đuốc cho thêm khổ? (Cái phép tu cao tuyệt có một này, đối với người bình thường cực ngu, họ vẫn chẳng khỏi kinh sợ – họ không dám tu – thế cho nên Phật đã bảo là một “phép rất khó tin”). Ngài Đại Thế Chí, con đấng Pháp Vương, đã nói rằng: “Chẳng cần đến phép Phương Tiện nào khác mà cũng khai ngộ được tâm của mình” (Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai). Câu nói ấy là một đống lửa to ở trong phép Niệm Phật Tam Muội (Nhất Hạnh Tam Muội), có ai dám chạm vào mà chẳng bị thiêu?

Hỏi: Lúc lâm chung thấy Phật hiện ra, có chắc là không phải ma chăng?

Thưa: Người tu tâm chẳng quán tưởng đến Phật mà Phật bỗng hiện ra, không phải bản tâm mình mong đợi, thì là ma thật. Nhưng mình niệm Phật, cốt mong thấy Phật, mà Phật hiện ra, thế là tâm mình đã cùng ứng hợp với tâm Phật rồi. Huống chi, lúc mình lâm chung chẳng phải là lúc mong chờ ma đến, sao lại còn nghi ngờ lo sợ là ma?

Hỏi: Bảy ngày giữ được tâm bất loạn là bảy ngày vào lúc bình thời hay vào lúc lâm chung?

Thưa: Vào lúc bình thời.

Hỏi: Sau bảy ngày bất loạn rồi, tâm lại khởi mê hoặc, lại tạo nghiệp thì cũng được sinh chăng?

Thưa: Quả thật là người tu được Nhất Tâm Bất Loạn rồi, thì không còn có những sự khởi hoặc tạo nghiệp nữa (sáng như gương báu soi thấy mặt yêu ma).

Hỏi: Trong kinh Đại Bản Di Đà nói niệm Phật 10 niệm, kinh Bảo Vương nói niệm Phật một niệm cũng được vãng sinh Tịnh Độ là niệm vào lúc bình thời hay niệm vào lúc lâm chung?

Thưa: Niệm Phật 10 niệm là niệm vào cả hai lúc: bình thời và lâm chung. Cứ mỗi sáng sớm dậy niệm 10 niệm (tức là niệm 10 hơi) là thuộc về lúc bình thời. Còn như nói 10 niệm mà được vãng sinh thì 10 niệm này có nghĩa là niệm Phật 10 tiếng như trong Quán kinh nói rõ: “Thập thanh xưng danh” (10 tiếng xưng danh hiệu Phật) thì 10 niệm này là thuộc về lúc lâm chung. Còn như trong kinh Bảo Vương nói niệm một niệm một niệm thì niệm ấy chỉ thuộc về lúc lâm chung mà thôi.

Hỏi: Niệm 10 niệm hay một niệm đều được sinh cả thì cần gì phải niệm những bảy ngày?

Thưa: Nếu không có công phu niệm luôn 7 ngày vào những lúc bình thời thì làm gì có lúc lâm chung niệm được 10 niệm hay là 1 niệm (câu nói này xác đáng, xác đáng lắm). Thảng hoặc có người nào phạm tội Ngũ Nghịch, Thập Ác mà lúc lâm chung niệm được 10 tiếng hoặc một tiếng được sinh vào Hạ Hạ phẩm, đều là người trồng nhân niệm Phật từ kiếp trước, bây giờ mới hái quả chín, cho nên mới có cảm ứng gặp được bạn tốt, lúc lâm chung, đến khuyên niệm Phật, nghe rồi liền tin và phát nguyện ngay. Việc này xảy ra, vạn người không có một, có phải ai cũng cầu may được thế đâu? Trong sách Tịnh Độ Hoặc Vấn đã bài xích cái lối cầu may này rõ lắm, chúng ta ngày nay ai cũng nên đọc.

Hỏi: Cực Lạc Tây Phương cách quả đất ta đây những 10 vạn ức Phật độ, làm sao mà được vãng sinh chóng thế?

Thưa: Mười vạn ức Phật độ thì cũng ở trong “tâm tính của ta hiện ra trong một niệm” đây. Vì tâm tính của người xưa nay không có đâu là ngoài cả. Lại nhờ sức Phật của tâm tính mình tiếp dẫn, thì khó gì chẳng được vãng sinh ngay. Người được sinh vào Tịnh Độ mau như cái bóng lọt vào cái gương, mấy mươi tầng sơn thủy lầu đài cũng chỉ một loáng là soi thấy hết rõ ràng, thực không có chỗ nào gần, chỗ nào xa, chỗ nào đến trước, chỗ nào đến sau cả. Vậy thì từ đây đi về bên Tây Phương kia trải qua những mười muôn ức Phật độ, có một thế giới gọi là Cực Lạc, cũng giống như thế (cũng là những cái bóng Phật độ lọt vào trong cái gương tâm tính của con người, có khác gì). “Người ấy khi nào lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng hiện ra trước mặt. Người ấy lúc chết, tâm không điên đảo, tức là được sinh sang nước Cực Lạc, Phật A Di Đà” thì cũng giống như thế (cũng như những bóng lọt vào gương có khác gì). Vậy ta nên biết mỗi một chữ trong những câu kinh ấy đều là những câu văn thiêng liêng hiện ra ở trong gương Đại Viên Kính Trí ở trong bể Hải Ấn tam muội 19.

Hỏi: Việc Trì Danh (niệm Phật) thuộc về Hành hạnh, thế là Trợ Hạnh, sao lại gọi Chính Hạnh được?

Thưa: Cứ y vào một cái tâm mà nói đủ cả Tín, Nguyện, Hạnh, chứ chẳng phải nói cái nào trước, cái nào sau, và chẳng phải định hẳn là 3 cái. Bởi vì hễ không có Nguyện và Hạnh thì chẳng được gọi là Chân Tín. Hễ không có Hạnh và Tín thì chẳng được gọi là Chân Nguyện. Hễ không có Tín và Nguyện thì chẳng được gọi là Chân Hạnh. Nay thì phải hoàn toàn do Tín, Nguyện, Trì Danh, cho nên mỗi tiếng niệm Phật, tiếng nào cũng phải đủ cả ba: Tín, Nguyện và Hạnh; có thế thì mỗi một tiếng niệm Phật mới gọi được là cái nhân nhiều thiện căn và là cái duyên nhiều phúc đức. Quán kinh nói: “Vì niệm danh hiệu Phật mà trong mỗi một niệm, diệt trừ hết 80 ức kiếp sinh tử trọng tội” chính là cái nghĩa này. Nếu phúc đức và thiện căn chẳng nhiều thì làm gì diệt được nhiều tội như thế?

Hỏi: Lúc lâm chung niệm Phật có sức mạnh và thiết tha trừ được nhiều tội, còn ngày thường dốc lòng niệm Phật có trừ được tội hay không?

Thưa: Một danh hiệu Phật niệm lên, vạn tội phải tiêu diệt, giống như mặt trời mọc ra, bao nhiêu tối tăm phải tiêu hết.

Hỏi: Người niệm Phật mà tâm tán loạn cũng trừ được tội chăng?

Thưa: Công đức của danh hiệu Phật là bất khả tư nghì. Sao lại chẳng trừ được tội! Chỉ có điều là không chắc có được vãng sinh. Vì rằng những thiện căn tán loạn, tản mác ra như thế thì khó lòng địch lại được với bao nhiêu tội ác tích lũy từ vô thủy kiếp. Phải biết rằng những tội ác ấy giá mà có thể tướng thì cả một cõi hư không này cũng không chứa được hết. Tuy rằng một ngày, một đêm niệm được 10 vạn tiếng A Di Đà, mỗi tiếng diệt được 80 ức kiếp sinh tử trọng tội, mà niệm đủ 100 năm, thì cũng chẳng tiêu được hết những tội nghiệp ấy. Vì rằng, những tội đã diệt được rồi thì ít lắm, chỉ bằng một tí đất ở đầu móng tay thôi, mà những tội chưa diệt được hãy còn nhiều bằng cả một quả đất này. Chỉ có người nào niệm Phật đến được chỗ Nhất Tâm Bất Loạn thì mới có sức mạnh như một kiện tướng phá vòng vây tội ác ấy mà ra, dù nó có nhiều đến cả ba quân đoàn cũng chẳng ngăn lại được. Nhưng dù sao, thì mỗi một tiếng niệm Phật đã là một hạt giống thành Phật rồi. Nó như ngọc kim cương chẳng bao giờ bị hoại.

Khi Phật tại thế, có một cụ già đến xin xuất gia, 500 vị Thánh Tăng đều bảo cụ không có thiện căn. Nhưng Phật bảo: Người này từ vô lượng kiếp trước bị hổ đuổi, sợ quá, hét thất thanh lên một tiếng “Nam mô Phật”, mãi đến bây giờ thiện căn ấy mới thành quả chín, mới được gặp ta, mới đắc đạo; thiện căn của người này trồng từ lâu kiếp như thế, mắt của các ông tu đạo Nhị Thừa thấy sao được. Ta đem câu chuyện này ra mà xét kỹ với lời kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Người nào ở đời Phật quá khứ, dù tâm tán loạn mà niệm Phật cũng đã gieo được mầm giống thành Phật rồi”.

Tôi xin cúi đầu cầu nguyện các vị tu xuất gia áo thâm, các vị tu tại gia áo trắng, áo màu, cả người trí và người ngu, đối với pháp môn Niệm Phật viên đốn trên hết này, giản dị và mau lẹ, chớ coi nó là khó mà sinh ra thoái lui; chớ coi nó là dễ mà sinh lười chẳng cố gắng; chớ coi nó là nông cạn mà khinh miệt; chớ coi nó là quá sâu mà chẳng dám nhận tu.

Cái danh hiệu Phật A Di Đà mình trì niệm đây là cái danh hiệu chân thực, chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn (vì nó tức là tâm mình vậy).

Cái tâm tính mình trì niệm cái danh hiệu Phật ấy cũng chân thực lắm, chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn (vì nó tức là Phật vậy).

Mình trì niệm được một tiếng thì là một tiếng chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn (người đọc đến câu này nên biết giờ phút này là giờ phút đóa hoa Ưu Đàm Bát La 20 xuất hiện). Mình trì niệm được một chục tiếng hay một trăm, một ngàn, một vạn tiếng hay vô lượng, vô số tiếng thì tiếng nào cũng đều là chân thực, chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn vậy.

Sau đây là ý nghĩa thứ hai của phần Chính Tông thứ ba là Lập Hạnh – ý nghĩa Trùng Khuyến.

Kinh văn
(nói về ý nghĩa trùng khuyến – khuyên thêm một lần nữa)

Hán: Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị lợi cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng sinh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện sinh bỉ quốc độ.

Việt: Xá Lợi Phất ơi! Ta thấy lợi thế, cho nên nói thế, nếu chúng sinh nào nghe nói thế rồi, thì nên phát nguyện sinh sang nước kia.

Hai chữ “ngã kiến” (ta thấy) là chính mắt Phật thấy rõ ràng hết sức. Hai chữ “thị lợi” (lợi ích như thế) là cái lợi cho người tu được ra tắt khỏi cái đời ngũ trược, được sinh sống ở bốn nơi Tịnh Độ, được lên thẳng đến tận ngôi Bất Thoái cuối cùng, được rất nhiều công đức chẳng khá nghĩ bàn vậy.

Lại nữa, “cái lợi thế” là nói cái lợi tới giờ phút sắp chết mà tâm mình chẳng điên đảo (cái nghĩa này xác đáng lắm, khiến người nghe rùng mình ghê sợ, lạnh buốt tận xương!). Vì rằng cứ tự lực mình tu hành ở nơi uế trược này, khi tới lúc sắp chết, là lúc đến cái “cửa ải tử sinh” rất khó đủ lực mà đi qua được. Chẳng nói làm gì những kẻ tu hành ngoan cố, có chút trí tuệ ngông cuồng, buồn tủi không có kết quả, nói ngay những người tu phép Thiền Tông đốn ngộ sâu xa, giữ gìn cẩn thận thực tế và tiềm tàng đích xác lắm, thế mà đến lúc ấy (lúc lâm chung), chỉ một tí Tập Khí 21 bằng sợi tơ còn sót lại, chưa trừ được hết, nó cũng thừa sức mạnh lôi mình đi trụy lạc, chưa thoát khỏi được đâu! Cho nên đức Tổ Vĩnh Minh thiền sư mới bảo rằng: “Có Thiền Tông, không Tịnh Độ, mười người tu, chín người rớt, ấm cảnh nếu thấy hiện ra, chỉ chớp mắt là theo nó!”

Nghe lời này thật là rùng mình, lạnh buốt trái tim!

Người tu được đạo quả thứ nhất Tiểu Thừa rồi mà phải đầu thai, lúc đẻ ra, thành người mê muội. Vị Bồ Tát cách thân ngũ ấm này sang thân khác thành người hôn mê. Lúc đó, nó có để cho mình cố gượng làm chủ tể mình đâu, mà còn lơ mơ cầu may ra thì được?

Vậy chỉ có người tu Tín, Nguyện, trì niệm danh hiệu Phật nhờ sức Phật khác giúp thêm cho sức Phật mình, mới thoát khỏi cái giờ phút lâm chung lâm nguy ấy, bởi vì nguyện lực từ bi của Phật A Di Đà mạnh lắm, quyết định chẳng bỏ rơi mình hỏng mất đâu! Phật A Di Đà cùng các vị thánh chúng hiện ra trước mắt mình, an ủi mình, dẫn đường cho mình, nên mình mới được tâm không điên đảo, mới được tự tại vãng sinh.

Mắt Phật Thích Ca thấy rõ chúng sinh tới giờ phút lâm chung (sắp chết) có cái khổ nhất là tâm điên đảo rối loạn, sở dĩ Ngài phải ân cần khuyên đi, khuyên lại, khuyên mình phát nguyện đi là Ngài đặc biệt muốn vì mình mà bảo đảm cho mình cái việc hết khổ ấy, cốt ý Ngài muốn bảo mình rằng: Phải phát nguyện cầu sinh đi, vì nguyện có sức mạnh, nó dẫn mình đến được chỗ thực hành niệm Phật, để mình thoát được cái đau khổ nhất đời ấy (Lời nói thiết tha này, nên khắc xương, ghi dạ!)

Hỏi: Tâm mình đã tạo tác ra Phật, tâm mình đã là Phật thì sao không nói Phật của mình là rốt ráo mà lại cứ nói Phật của người khác hơn Phật của mình là nghĩa làm sao?

Thưa: Cái pháp môn Niệm Phật này hoàn toàn ở chỗ “tỏ ngộ được Phật khác tức là Phật mình”. Nếu kiêng nói đến Phật khác ấy là chưa diệt được tà kiến “thấy có kẻ khác” (tha kiến). Nếu lại chỉ tôn trọng có Phật mình thì lại thành tà kiến “thấy có mình” (ngã kiến). Cả hai đều là điên đảo (nghĩa này rất là thần diệu).

Lại nữa, bốn lợi ích của phép Tất Đàn thì 3 lợi ích sau chẳng thể tự khởi lên được, nếu không có lợi ích thứ nhất khởi lên trước là lợi ích phát khởi cái tâm tin sâu và vui mừng (nghe câu này, kẻ có mầm trí tuệ lại không thấy rõ sao?)

Cái tâm tin và mừng ấy nếu chẳng phát khởi ra thời cái tâm sinh thiện, vui cầu cõi Tịnh với cái tâm phá ác chán bỏ cõi uế đều chẳng sinh ra được, huống chi là cái tâm liễu ngộ vào tới lý Phật, thì sinh ra làm sao được?

Vậy, chỉ có “sự trì danh” là cầu được thấy Phật khác hiện ra rồi, mới tỏ ngộ được “lý trì danh” là thấy Phật mình hiện ra. Cho nên mình được thấy Phật A Di Đà và các thánh chúng hiện ra, tức là Phật của tâm tính mình đã hiện ra. Mình được sinh sống ở quả đất kia, được thấy Phật, được nghe pháp, tức là nhờ đấy mình thành tựu được thân trí tuệ của mình, chứ chẳng phải bởi đâu mà mình được.

Pháp môn Niệm Phật này thâm diệu lắm, phá hết thảy mọi hý luận (lời bàn suông chơi), diệt hết thảy mọi ý kiến (tà kiến). Chỉ có những bậc đại sư như các ngài Mã Minh, Long Thụ, Trí Giả, Vĩnh Minh v.v… mới triệt để gánh vác được nó đi mà thực hành tế độ. Còn những người khác, là những người giàu trí tuệ thế gian, tài thông minh biện bác, thông cả Nho và Thiền, dùng hết sức suy nghĩ, càng suy nghĩ càng cách xa, chẳng bao giờ tới được. Những người này lại không bằng được mấy ông, mấy bà thật thà, ngu độn chịu khó niệm Phật kia. Người ta cứ ngấm ngầm thế mà cảm thông được trí tuệ Phật, ám hợp được đạo mầu (nghĩa này rất xác đáng!)

Một câu: “Ngã kiến thị lợi cố thuyết thử ngôn” (ta thấy lợi thế, cho nên nói thế) rõ ràng là mắt Phật thấy, tiếng Phật nói để ấn định cái sự thực có ấy, ai có thể trái lời Phật, chống lại Phật, mà chẳng thuận thiện theo vào?

   Phần Chính Tông đến đây là hết.

* * *