PHẠM VÕNG KINH CỔ TÍCH KÝ
Sa-môn Thái Hiền ở Thanh Khâu biên tập
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

(Phần Đầu)

PHẨM ĐỨC PHẬT LÔ-XÁ-NA THUYẾT BỒ TÁT TÂM ĐỊA

PHÁP MÔN THỨ MƯỜI TRONG KINH PHẠM VÕNG

Ba tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-Mười đời Hậu Tần dịch.

Bấy giờ, Đức Phật Lô-xá-na cho đến tự tánh thanh tịnh. Trở xuống mười một bài tụng là khuyến tin thứ hai. Niềm tin là gốc để nhập vào pháp, giới là nguồn để trụ pháp, cho nên nói kệ, lại khiến tin giới. Nhưng giới Bồ-tát lược nói có ba môn; môn thọ đắc; môn hộ trì; và môn phạm lỗi. Môn đắc chúng sinh trong sáu đường, chỉ cần hiểu lời nói của Pháp sư. Cần phải phát tâm đại Bồ-đề trước, nghĩa là thệ nhất định chứng được Vô thượng Bồ-đề, cùng tận bờ mé vị lai làm lợi ích am vui cho hữu tình. Như Du-già chép: Tâm Bồ-đề là quyết định mong cầu, để làm hành tướng, Vô thượng Bồ-đề, nghĩa lợi của tất cả hữu tình làm cảnh, phát tâm này rồi có hai thứ thọ; một là một phần thọ, hễ thọ bao nhiêu thì ý cũng ưa thích. Hoặc thọ một giới, hoặc nhiều giới đều được thành tựu giới gọi là Bồ-tát, khác với Thanh Văn phải thọ trì chung, nếu một phần thọ thì không gọi là Tỳ-kheo, nghĩa là hiện đời đắc phải A-la-hán phép tắc viên mãn, lập ra học xứ. Mười giới, giới cụ túc đều phải thọ chung, hoặc phàm hoặc Thánh đều một khuôn phép thọ học, do nghĩa này nên phải chọn người pháp khí, trừ người có già nạn và đường còn lại. Bồ-tát thì không phải như vậy, vì tùy phần giới, nghĩa là phàm phu chắc chắn không hiện đời thành Phật, nếu trải qua tu vô số đại kiếp, từ chỉ cần hiểu lời nói của Pháp Sư cho đến kim cương, tùy địa vị của họ dần dần tu được đầy đủ. Như thành núi, biển, bụi gặt nước. v.v… làm đầu. Đã đại Bồ-đề thì không có đức nào không nhiếp, muốn thành tựu Bồ-đề thì thiện nào điều chẳng phải nhân, tức là do nghĩa này không chọn đường sinh, chỉ cần hiểu lời nói của Pháp sư, phát tâm đều được. Tuy chỉ cần hiểu lời nói thì thọ được một giới, còn hơn tất cả công đức của người hai thừa. Công đức của La-hán chỉ vì mình, đối với cõi hữu tình không có phần ân ích còn. Bồ-tát chỉ cần một giới là độ tất cả, không có một chúng sinh nào không có ân gánh vác; hai là thọ toàn phần, nghĩa là ba nhóm giới. Giới Nhiếp luật nghi là dứt tất cả điều ác, ác là tất cả pháp phải dứt bỏ, từ khi mới phát tâm thì dứt sát sinh vv….. Ba hiền mười Thánh dứt nhị chướng, cho đến vì pháp của Phật mà xả bỏ sinh tử. Giới nhiếp thiện pháp là từ khi tất cả pháp lành, thiện là tất cả pháp phải tu chứng, từ mới phát tâm, tùy khả năng giáo hóa, độ tất cả chúng sinh tận cùng bờ mé vị lai, chẳng thể các phàm phu đốn thệ tất cả ba nhóm giới, dần dần tu chứng viên mãn. Đã phát hạnh nguyện vô ngại như thế thì đối với các nguyện hạnh là rất vô thương nhất cho. Nên hễ y chỗ sinh ra nào thì, tâm là vua trong đó, nhưng rốt cuộc không thể thành tựu quả ấy, chỉ trừ bậc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Hộ trì thứ hai là sơ lược có mười môn; là môn tùy tâm, tùy tâm ưa trụ vào thói quen đời trước của mình, giống như thế gian tùy theo bản sắc của mình tuy một duyên chứa nước mà có mầu biếc v…v… khác nhau, nên trước vốn là một, dần dần có các hạnh khác. Như Kinh Bản Nghiệp chép: Nếu thọ một giới gọi là nhất phần Bồ-tát, cho đến thọ đủ gọi là cụ phần Bồ-tát. Nhưng ý Phật chế phải dần dần tu học khắp. Do phần thứ hai này mà có môn khắp học, như Du-già nói Thanh Văn tự lợi, còn hộ tâm người , huống chi Bồ-tát dùng lợi tha làm đầu. Nên phải hộ khắp các giới chê bai. Nhưng Trí Luận chép: Bồ-tát nới học không thể một đời hay trong một thời gian mà thực hành khắp năm độ, như hộ ba y không thể bố thí vv… Do phần thứ ba này có môn Tùy Tánh. Khi học xứ trái nhau hiện ở trước, chỉ hộ tánh giới, bỏ già giới, như Bồ-tát nhiếp Đại thừa thì tánh tội không hiện hành, nên giống với Thanh Văn . Nhưng Du-già chép: vì lợi ích chúng sinh mà khởi ý tham thì không bị tội, sân thì trái với lòng từ, vì thường muốn làm tổn hại người. Do phần thứ năm này mà có thuận thắng môn, vì ưa thuận đại bi nên tội nhẹ, sân là trái với tâm từ nên bị tội nặng. Như Du-già chép: các Bồ-tát ấy phần nhiều có sự sinh khởi phạm tội sân, không sinh khởi tham, cho đến nói rộng.

Lại luận Trí Độ chép: Bồ-tát không khuấy sối chúng sinh là giới, khác với Thanh Văn cầu niết bàn hiện tại. Dâm dục tuy không làm não chúng sinh, nhưng vì trói buộc tâm nên bị tội nặng. Bồ-tát không cầu niết bàn hiện đời, qua lại sinh tử vì có đủ tư lương. Nhưng luận Du-già chép: Nếu muốn dứt ý ưa thích của chúng sinh kia thì phải phát tâm siêng năng tinh tấn, phiền não hừng hực che lấp tâm Bồ-đề sanh khởi tức giận.v.v… thì không phạm. Do phần thứ sáu này mà có môn ý lạc, nhờ năng lực ý lạc nên không phạm điều ác. Như Luận Mười Trụ chép: khi tâm bỏn sẻn không cởi mở thì không thể bố thí, đời nay chưa thuần thục thì đời sau nên bố thí. Nhưng kinh cũng chép: Tâm hộ giới như tiếc phao nổi và cởi trói thân người. Do phần thứ bảy này mà có môn bố úy, vì thấy già tội như tánh tội. Nhưng kinh Niết-Bàn chép: thừa hoãn mới gọi là thong thả, giới hoãn không gọi là thong thả, do phần thứ tám này mà có môn Thành Thắng, vì làm lành có thắng lợi lại bỏ. Nhưng Luận Trang Nghiệm chép: Tuy thường ở địa ngục nhưng không chướng ngại đại Bồ-đề. Nếu khởi tâm tự lợi thì (01) chướng đại Bồ-đề. Do phần thứ chín này mà có môn Hộ chướng, tuy có làm lành nhưng vì giữ gìn Tiểu thừa. Như Đại Niết-bàn chép: Nếu các Bồ-tát trải qua Hằng sa kiếp thọ hưởng năm dục vui sướng, đối với giới Bồ-tát vẫn không gọi là phạm. Thuật : Tuy bị tham làm nhiễm ô, nhưng tâm Đại thừa không mắt, không phạm vô dư, nên gọi là không phạm. Nhưng kinh Văn-thù Vấn chép : Nếu dùng tâm phân biệt tướng nam nữ hay chẳng phải nam nữ thì Bồ-tát ấy phạm tội Ba-la-di. Do phần thứ mười này mà có môn Rốt Ráo. Nếu chấp pháp tướng chẳng phải rốt ráo, như kinh Đại Bát-nhã chép: Phải dùng bất hộ viên mãn tịnh giới ba-la-mật đa, thì tướng phạm hay không phạm cũng không thật có. Phạm lỗi thứ ba là giới Bồ-tát không phạm vô dư, như có một phần thọ thì có một phần trì, khác với Thanh Văn , khi phạm một giới trọng liền phá tất cả mất tánh Tỳ-kheo. Như kinh Bản Nghiệp chép: Tất cả Bồ-tát, Thánh Phàm giới, đều lấy mất tâm làm thể, cho nên tâm cùng tận thì giới cũng cùng tận, tâm không cùng tận thì giới cũng không tận, tâm là kỳ tâm. Nếu không buông xả giới nguyện vô tận thì sẽ không có đều phạm, vì giới vô biên, nên do đây mà chuyển sinh, giới cũng thường tùy vận vận thêm lớn cho đến thành Phật, giống như nước sông ngày đêm âm thầm trôi đi tự đến biển lớn, chỉ trừ người cố bỏ tâm đại Bồ-đề thì tâm của người ấy đã cùng tận thì giới cũng cùng tận. Nhưng phạm giới trọng, lược có hai thứ một là phá; hai là nhiễm ô. Nếu do phạm phiền não trói buộc phẩm thượng thì tùy theo chi đã phạm mà mất giới luật nghi. Nếu phẩm triền trung và hạ thì chỉ nhiễm ô, không mất giới. Như luận Du-già chép: Nếu các Bồ-tát hủy phạm bốn pháp Tha thắng xứ, thường hay hiện hành, đều không hổ thẹn vv…, sinh tâm rất ưa thích công đức ấy nên biết gọi làphạm triền phẩm thượng. Chẳng phải các Bồ-tát tạm một lần hiện hành pháp tha thắng xứ, liền xả luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, khác với Thanh Văn hễ phạm liền xả. Lại phạm triền phẩm thượng tuy mất tịnh giới, kinh nói sám hối ngay cũng được thọ lại, khác với giới Thanh Văn như chặt đầu hiện đời không thể nhập lại vào số tăng. Chỉ dẫn rộng trong giáo lý như tông yếu đã giải thích. Lại luận chỉ bàn giải thích tụng hai môn, là sáu bài tụng đầu truyền tụng môn Bản Sư, Thích-ca truyền tụng tựa Bản Sư. Năm bài tụng sau, nửa bài cuối là môn Hiển dương, Đức Thích-ca tự giảng nói tông yếu của giới. Phần đầu cũng có hai thứ , năm bài tụng đầu là nói môn Tôn Thắng, một bài tụng sau khen công năng của giới. Trong phần đầu này cũng có hai, hai bài tụng rưởi đầu là bán hiện thân môn bản mạt, hai bài tụng sau là nói pháp môn bản mạt.

Kinh chép: Nay ta là Lô-xá-na, đang ngồi trên đài hoa sen.

Giải thích : Môn hiện thân bản mạt lược có bốn lớp, đây là thân tha thọ dụng lần đầu. Theo Truyền thuyết thân này ứng vào địa thứ hai, giới Ba-La-mật là tông chỉ của kinh này, chẳng phải tự thọ dụng. Vì Hoa Nghiêm.v.v… nói thân kia vô biên. Phương là chánh. Đài ngàn cánh là chung thành tịnh độ của Bồ-tát Nhị địa, trên đài này là chỗ ở của thân. Ngàn cánh là chỗ bộ lạc được hóa độ. Như kinh Nhân Vương chép: Bồ-tát Tín nhẫn ở trong cõi nước của trăm, ngàn, muôn đức Phật, hóa hiện ra trăm, ngàn, muôn thân. Kinh Mười Địa chép: Bồ-tát Nhị địa đến ngàn thế giới gặp ngàn Đức Phật nên ở trên đài này chỉ có tòa ngồi của Phật. Trên đài ngàn cánh có thuyết nói tòa, là sai. Quyển thượng chỉ nói Phật Lô-xá-na ngồi trên trăm muôn tòa hoa sen rực rỡ ánh sáng. Đã Giải thích ta ở biển thế giới hai Liên Hoa Tạng, đài ấy có ngàn cánh sen đơm vòng, một cánh sen là một thế giới, ta hóa thành ngàn đức Thích-ca, lại có trăm ức núi Tu-di, biết rõ là cõi. Có người hỏi: Cõi kia đâu hẹp hơn viên quang của đức Di-đà?

Kinh chép: Viên quang của Đức Phật ấy giống như trăm ức thế giới Ba Thiên Đại Thiên. Câu hỏi này không đúng, viên quang của Phật không nhất định, ánh sáng của Đức Thích-ca cũng soi sáng vô lượng cõi, có lẽ đã nói đúng, nhưng so sánh về mặt rộng lớn chưa chắc gì lượng đồng nhau, như mắt dụ cho biển. Nên biết trăm muôn hoa sen làm tòa, vì sao Chư Phật dùng hoa sen làm tòa? Vì nói lên chư Phật tuy ở đời nhưng không Ô nhiễm như hoa sen không dính nước.

Kinh chép: Trên ngàn cánh sen đơm vòng, lại hiện ra ngàn Đức Thích-ca.

Giải thích là: Hóa thân tịnh độ thứ hai, theo truyền thuyết: Nơi ứng thân này với căn cơ Địa Tiền. Có người nói: chỉ có bốn gốc lành mới được sinh về tịnh độ, theo lý thì chưa chắc đúng. Kinh Tịnh Độ nói cõi khác cũng sinh, tịnh uế cùng một chỗ, tùy nghiệp mà thấy khác nhau, giống như bốn thức, v..v… việc và tâm khác nhau. Như nói Thu Tử thấy núi, sông, Phạm Vương Loa Kế trở lại cõi báu.

Kinh chép: Mỗi cánh hoa trăm ức cõi. Mỗi cõi một Phật Thíchca.

Giải thích là: Hóa thân cõi uế thứ ba. Nói mỗi cõi nước một núi Tu-di, vì thế giới chỉ hiện ở Nam Châu phía. Chép Du-già luận chép: một Đại thiên có trăm câu-chi cõi. Luận Tạp Tập chép: Một câu chi tính tương đương với trăm ức, vì sao trong đây chỉ nói có trăm ức? Ức có nhiều loại, Du-già lại dựa vào mười muôn làm một ức, kinh này là ngàn muôn nên không trái nhau. Ở đây y theo tướng thô lại nói một loại thế giới Tu-di, y theo sự nghiêng và đổ của bóng cây thật và bóng người thật, đều tùy theo loại ấy mà đầy khắp các phương, loại khác vô ngại, như mành lưới Nhân-đà-la lớp lớp vô tận, nhưng đều nhiếp vào biển thế giới Liên Hoa Đài Tạng, đều là nơi xoay bánh xe pháp của Phật Lô-xá-na.

Kinh chép: Đều ngồi dưới cội Bồ-đề, cho đến bản thân Phật Lôxá-na.

Giải thích: Thứ tư nêu cõi tịnh uế, căn cơ đốn ngộ thuần thục, nhất thời trùng hóa, gom ngọn về gốc, như quyển thượng chép: Phật trên ngàn cánh hoa là hóa thân của ta. Ngàn trăm ức Thích-ca là hóa thân của ngàn Đức Thích-ca.

Kinh chép: Ngàn trăm ức Thích-ca cho đến mười trọng, bốn mươi tám giới khinh.

Giải thích: Thứ hai là nói pháp gốc ngọn. Thân Phật Lô-xá-na tuy chẳng phải cảnh phàm, năng lực che chở vì tiếp chúng mà đến, đã xuyên suốt ba đời thì không tùy thời thích hợp mà chế, nên nói ta tụng mà không có lời vị ngon. Trên hết trong các vị gọi là cam lộ, nên dụ trong lạc là tối cực niết-bàn. Ta là người đã ra khỏi môn khổ chứng an vui, nên nói nghe tụng khai mở môn cam lộ.

Hoặc nói giới kinh gọi là môn, giới sở thuyên gọi là cam lộ, giáo có công năng khai mở lý, ra khỏi cửa ba cõi, đối cơ mà hiển bày đó là khai. tâm phàm dễ kiệt, ảnh đẹp khó giữ, nên trở về đạo tràng của mình tụng giới của Bản sư. Bản sư ở đây nghĩa là bản thân, hoặc giới pháp gọi là Bản sư, vì Phật là bậc thầy.

Kinh chép: Giới như trời trưa sáng, do đây hành Chánh giác.

Giải thích: Đây là môn khen ngợi, oai lực của giới, thứ hai là Giới phá tối tăm, giống như mặt, trời mặt trăng. Trang nghiêm hành giả như châu anh lạc. Như kinh Di giáo chép: Mặc chiếc áo hổ thẹn đối với các thứ trang nghiêm rất là bậc nhất. Hoặc nói tánh giới sáng như vầng nhật nguyệt, giáo giới trang nghiêm như chuỗi anh lạc, phá tánh tội tối tăm, trang nghiêm tánh giới. Đầu muôn hạnh lấy giới làm gốc , cuối muôn hạnh lấy Bồ-đề làm quả. Vì thế ba đời đều do giới mà được thành Phật, vì ba nhóm như ứng thành ba đức. Như Du-già chép: chỗ nhóm họp phước trí tư lương như thế, không có quả khác để nhiếp chung tướng, chỉ trừ bậc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kinh chép: Lô-xá-na tụng cho đến chuyển trao cho các chúng sinh.

Giải thích: Từ mạt chủ môn hiển dương dưới đây, ở đây có bốn môn, một là môn lần lượt khai hoá, hai là môn sở thành giới tướng, ba là môn năng thọ hữu tình, bốn là môn khai hứa nói rộng. Đây là môn thư nhất là sáu bài tụng trên, Bản sư tụng ra, như ta truyền tụng, các ông cũng phải vậy, giới thủ nối giống Phật giông phật không bị đứt.

Kinh chép: Từ chỗ lắng nghe ta đang tụng cho đến giới phẩm đã đầy đủ.

Giải thích : Môn thứ hai, tất cả cấm giới mà Đức Thế tôn đã chế, bậc thượng thừa hay ha thừa đều từ giới cấm này mà ra. Nên nói giới tạng trong Phật pháp, vì phân biệt với định đạo giới nên nói Ba-la-đềmộc-xoa, tiếng Phạm là Ba-la-đề, Hán dịch là biệt nói đủ lẻ ra là TỳMộc-Xoa,Hán dịch là biệt giải thoát vì riêng thoát khỏi lỗi lầm, nên gọi là biệt giải thoát. Lại kinh Di Giáo chép: Giới là gốc thuận giải thoát, nên gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa. Hoặc thọ giới Bồ-tát là do giới này nên ta sẽ thành Phật. Như Đức Thích-ca do giới này đã thành, lại không khởi tâm bất đồng phận khác. Bấy giờ, gọi là giới phẩm đầy đủ, vì khéo nhớ phần giới hạn gọi là Giới. Như kinh Bản Nghiệp chép: Tất cả giới của Bồ-tát, phàm Thánh đều lấy tận tâm làm thể, tâm ấy nếu cùng tận thì giới cũng cùng tận, vì tâm không cùng tận, nên giới cũng không cùng tận. Tâm ở đây là tâm Đại thừa, người lui sụt Đại thừa và người chưa phát tâm không thể đạt đựơc.

Kinh chép: Tất cả người có tâm cho đến thật là đệ tử Phật.

Giải thích rằng : Đây làMôn thứ ba, ứng là cho phép, vì có chướng vô tánh nên không thành giới, giới này rất cao quý, Thanh Văn đâu dễ dàng đạt được, thì ai nói dễ được? Vì khó phát tâm nên Vô thượng Bồđề không có đức nào không nhiếp, chỗ phát tâm tu không có điều lành nào không phải nhân, nên hữu tâm là được phát tâm Đại thừa, tất cả nguyện hạnh đều thành tánh của nhân, liền bước vào quả vị Phật. Quả vị Phật có hai, một là phát tâm mãn vị, nay bước vào sơ phát nguyện, lần đầu phát nguyện đều cùng khắp, không khác nguyện của Phật. Nói đồng bậc Đại giác, như Khế kinh có chép: Phát tâm xét cho cùng cả hai không khác, đã được quả vị này rồi thì chân thật là Phật tử, từ Phật pháp sinh ra, kế thừa ngôi vị Phật. Tụng rằng: Cha phương tiện là lòng tin, mẹ Bát-nhã là thai thiền, từ bi là mẹ nuôi, Phật tử nối ngôi Phật. Nói rộng nghĩa này trong luận Nhiếp Đại Thừa có.

Kinh chép: đại chúng đều cung kính dốc lòng nghe ta tụng, môn thứ tư như trong văn,nói xem rất dễ hiểu.

Kinh chép: Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho, đến tất cả giới Đại thừa của Phật.

Giải thích: Từ bài tựa kết giới thứ ba vv… trở xuống có hai, phần tựa của các kinh là tựa của các kinh. Phần sau là tựa của Đức Thế tôn. Đây là phần đầu, nói lúc bấy giờ là từ cõi trời đến khi ứng hiện. Thíchca, Hán dịch là “Năng”, Mâu-ni là “Tịch”. Cây Bồ-đề ở nước Na-giàđà, dưới gốc cây này có đài Kim cương? Đức Phật ngồi dưới gốc cây này chứng Chánh Đẳng Giác, gọi là cây Bồ-đề. Sao gọi là sơ đốn kết? Vì muôn hạnh của Ba thừa từ đây sinh ra, ba đời quyết định không đợi phạm. Khác với Thanh Văn tuỳ thời dần chế. Như kinh Văn-thù Vấn và kinh Niết-bàn chép: Nếu Chế giới trước thì, thế gian sinh nghi ngờ, như vá áo phải vá vào chỗ rách. Nay giới Bồ-tát thì không phải như vậy, nên vừa mới thành Phật thì đã kiết giới này. Theo luận Mười Địa, mới thành đạo được bảy ngày đầu thì Phật tự thọ pháp lạc, bảy ngày thứ hai mới bắt đầu nói năng. Nay Giải thích , đầu tiên kết giới đúng mười bốn ngày sau khi thành đạo. Hiếu là nuôi dưỡng, thuận là cung kính. Biết ân báo ân tức là hiếu đạo. Ân có hai loại: một là ân sinh ra thân ta, đó là cha mẹ; Hai là ân nuôi lớn pháp thân, tức là sư tăng, v.v…, dùng tài và pháp đúng như pháp cung kính cúng dường. Trong đây Sư Tăng, Ba Bảo, chí đạo như sở y, sở duyên, lần lượt trợ giúp, cho nên nêu riêng. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là ngăn ngừa, hiếu là gốc của trăm hạnh, là yếu đạo của các bậc Pháp Vương thuở trước. Giới là nền tảng của muôn đều lành, là bản nguyên của Chư Phật, các điều lành từ đây sinh ra. Hiếu gọi là giới điều ác từ đây mà dứt cũng gọi là ngăn chặn, cho nên hiếu và giới có tên gọi khác nhưng nghĩa thì giống nhau. Nói thì miệng phát ra ánh sáng, v.v… là phát ra ánh sáng để với lấy chúng, phát ra vô lượng ánh sáng mà vời lấy các hữu tình có duyên, nói môn vô ngại soi sáng đêm dài tăm tối. Nói Đại giới là giới Đại thừa, là vì trong đây không có chúng Thanh Văn .

Kinh chép: Phật dạy các Bồ-tát cho đến chẳng phải không có lý do.

Giải thích rằng : Từ tựa Phật vv… trở xuống như thứ lớp thành tướng Ba luân là pháp, thầy và đệ tử. Sư có hai loại, một là bản nghĩa là Phật, hai là mạt là Bồ-tát. Nên nói nay ta tụng các thầy cũng nên tụng. Nửa tháng tụng là tuy thầy đã qua đời mà nương vào pháp mà trụ. Thêm thì dễ lùi, bớt thì khó tiến, vì không lui sụt giới, tiến tu định tuệ, cho nên đúng nửa tháng không thêm không bớt. Như kinh Di giáo chép: Ba-la-đề-mộc-xoa là thầy các ông, nếu ta còn trụ ở đời thì cũng không khác gì giới nầy. Nói phát tâm là giai vị Mười tín, hành thật có lui sụt chẳng phải chánh vị của bậc Ba Hiền. Mười phát thú là Mười trụ, vì Sơ quả của Ba Hiền Mười trưởng dưỡng là Mười hạnh, vì nuôi lớn mầm Thánh. Mười Kim cương là Mười hồi hướng vì nhiếp năm lực, kinh Bản nghiệp quyển hạ đều là Địa tiền. Giới có công năng chiếu phá những nơi đen tối, lấy ánh sáng làm điềm lành, thường tụng trì từ miệng mà ra nên nói có lý do, chẳng phải không có mà nói ra.

Kinh chép: Ánh sáng ấy chẳng phải màu xanh, vàng, v.v.… cho đến nên đọc tụng khéo học. Giải thích : Pháp thứ hai này, ở đây ánh sáng gọi là các giới, từ ví dụ điều lành mà có tên gọi. Giới tuy gọi là sắc nhưng không hiện hình, vì dựa vào suy nghĩ khéo giới hạn mà lập, vì không phải chất ngại nên không phải sắc, không duyên lự nên chẳng phải tâm, không lìa duyên nên chẳng phải có, không tức duyên nên chẳng phải không, vì phi hữu nên chẳng phải pháp nhân quả, vì phi vô nên là bản nguyên của Chư Phật, vì bản nguyên của Chư Phật nên là căn bản của Bồ-tát, vì làm căn bản của nhân quả, do đó chúng đương thời cũng là căn bản, cho nên Phật tử thọ trước sau trì tụng nghĩa văn học.

Kinh chép: Từ Phật tử lóng nghe, cho đến người thanh tịnh bậc nhất.

Giải thích rằng : Đây là đệ tử được che chở thứ ba, nói Tỳ-kheo là trước thọ giới Thanh Văn , có thuyết cho rằng: khi hồi tâm thọ giới thì chuyển thành giới Bồ-tát là sai. Thuyết kia dựa vào hạt giống của thừa riêng mà lập, nhưng giới Tiểu thừa trước có năng lực của Đại thừa trợ giúp. Bồ-tát nương tâm, hạt giống khác sinh, ở nơi ấy nhóm họp hạt giống riêng mà lên vô biểu. Mười tám Phạm là các vị trời cõi sắc, nghĩa là ba tĩnh lự, mỗi tĩnh lự đều có ba tầng trời, tầng thứ tư có chín, vì vô tưởng trước sau đều có tâm. Kinh Thiện Giới chép: Nếu phát tâm Bồ-đề trước thì mới được thọ giới Bồ-tát, vì sao cõi trời Tịnh cư cũng được thọ giới? có thuyết cho rằng: Mười tám là nói số chung nhưng có ý khác, như một Tỳ-kheo gọi là lục quần. Có thuyết cho rằng: Trừ cõi vô Tưởng và Tịnh cư, mười tám cõi phạm riêng. Như kinh Bản Nghiệp chép: Ba tĩnh lự, dưới mỗi tĩnh lự đều có bốn tầng trời, tĩnh lự thứ tư có sáu tầng, có thuyết lại nói: Theo sự thật thì cũng có vị thành Phật, nhưng luận duy thức thành chung cõi sắc có hồi tâm. Đã nói chưa thành lập giáo lý của Thanh Văn hồi hướng Bồ-đề. Giải thích nếu dựa vào Bát-nhã mà không phát tâm Đại thừa thì năm tầng trời Tịnh cư không có người hồi tâm không, nói liễu nghĩa cũng không hồi tâm, trong đó lại theo thọ giới bất cộng, cho phép huỳnh môn, v.v… cũng thọ đắc giới. Nếu bảy chúng thọ khắp học hạnh khác nên biết già nạn giống như Thanh Văn thọ. Có người hỏi: Nếu huỳnh môn, v.v… cũng được thọ giới, tại sao kinh chép . Nếu nói không thọ giới Ưu-Bà-tắc, giới sa -di, giới Tỳ-kheo mà được thọ giới Bồ-tát thì không có việc ấy. Thí như nhà có nhiều tầng lầu, không nhờ tầng thứ hai,không nhờ tầng trệt mà có tầng lầu trệt thì làm sao có tầng thứ hai thì, việc ấy là không thể có, người kia tự Giải thích : Chắc chắn là do luật nghi mà được, vì bất cộng với hai giới Bồ-tát cho nên nói như thế, chưa hẳn Bồ-tát phát tâm Tiểu thừa trước. Đều gọi là người thanh tịnh bậc nhất, như nói vượt hơn các bậc La-hán. Vì sao? Vì như kinh Niết-bàn chép: Gốc lành của hai thừa giống như lửa đom đóm, chỉ chiếu sáng thân mình, còn gốc lành của Đại thừa, giống như ánh sáng mặt trời, soi sáng khắp tất cả.

Kinh chép: Từ Phật bảo các Phật tử cho đến ta cũng tụng như thế.

Giải thích: Đây là Phần chánh thuyết thứ hai, gồm có hai phần phần đầu là nặng, phần sau là nhẹ. Trong phần đầu có ba là nêu chung, tụng riêng và kết thành. Trong phần nêu chung có hai là nêu số chế trì và chỉ bày tướng khuyến học. Phần đầu này, Du-già chia làm bốn như tông yếu giải thích. Nếu kinh Thiện Sinh dựa vào chúng tại gia, chỉ nói sáu giới trọng đầu là vì thô hiển bày, theo kinh Thiện Giới thì Bồ-tát xuất gia có tám giới trọng. Tức là trong mười giới này bốn giới đầu và bốn giới sau, cộng và bất cộng căn bản là nặng . Kinh Bản Nghiệp này lập tất cả mười giới trọng, vì nhiếp chung. Tụng rằng: Bốn thân, ba ngữ, ý cũng có ba, vì tham bốn, sân hai, si một. Ba ngữ do ba mà được rốt ráo.

Dâm sân tà kiến cũng là phi tình.

Trong mười giới này, giới thứ tư thân nghiệp thể là. Trí luận quyển mười ba chép: Giới không uống rượu và ba giới trước đều có giới là thân, giới thứ tư, thứ sáu, thứ bảy là ngữ nghiệp thì, ba giới còn lại nói tuỳ theo tướng là vì giới thứ sáu và thứ bảy. Nhưng có nghiệp đạo chẳng phải Tha thắng xứ, đó là nhiễm ca hát, v.v… là thuộc về ỷ ngữ, mỗi giới trọng này đều lấy tham sân si làm phương tiện, dâm dật, bán rượu, bỏn sẻn do tham rốt ráo, và, sân là do sân, tà kiến do si, ba giới còn lại cũng do ba độc tham sân si, đối với danh lợi của người do ganh ghét mà khen chê, vì sân rốt ráo. Dâm sân tà kiến có lẽ từ phi tình. Dâm với thây chết chưa hoại là loại phi tình, ngoài ra chỉ có hữu tình mới kết tội nặng, tuy trộm của phi tình nhưng kiết bên chủ: Lại tụng rằng:

Đều mình đối người mà hành dâm
Người đối với người cũng như vậy
Mình đối với mình có năm thứ
Người đối với mình chỉ có dâm
Mình đối với người gây tất cả
Người hướng về người cũng đủ mười.

Nghĩa là xúi giục người hướng về người mà làm việc dâm, mình đối với mình gây ra. Theo truyền thuyết có năm thứ là sát, dâm, sẻn, sân và tà kiến, nghĩa là xả lợi tha, tự chết là tội. Luật chép ; yếu phía sau tự dâm phía trước. Kinh Thiện Sinh chép. Tự thí không thành thí, tự bỏn sẻn liền thành bỏn sẻn, ở chỗ tự khởi tức giận chê bai lý tánh, v.v… đều tự phạm. Người đối với mình làm việc dâm không khác, bị cướp làm ô nhục, thuận theo sinh ái nhiễm cũng phạm, và có người phạm tội, mình cũng không làm, cũng không xúi giục người làm “Hữu” là tuỳ hỷ, lại có người không khởi nghiệp thân miệng ý bị tội phạm giới. “Hữu” nghĩa là không làm việc đáng làm, v.v… các câu hỏi đáp này rộng như môn tông yếu trì phạm có giải thích, đã nói xong nghĩa phụ, nên giải thích bản văn. Mười giới trọng như thế thọ mà không tụng tức là mê trì phạm mất hạnh Bồ-tát, đã chẳng phải Bồ-tát, làm sao thành hạt giống Phật? Ta đã được quả vị viên mãn còn tụng giới này, huống chi tân học các thầy là ý ở đây.

Kinh chép: Tất cả Bồ-tát cho đến hết lòng cung kính vâng giữ.

Giải thích: Đây là Môn hỉ bày tướng khuyến trì. Kinh Niết-bàn chép: Trong giới Thanh Văn , Đức Phật biết thời thích hợp nói nhẹ là nặng, nói tnặng là nhẹ. Luận Đại Trí chép: Tỳ-ni đều vì thế tục mà nhiếp ý, bất luận là thật tướng, là vì giữ gìn Phật pháp, không quán xét đời sau tội nhiều hay ít. Lại trong giới đời sau bị tội nặng liền nhẹ, như đạo nhân giết trâu dê, v.v…, trong giới khen ngợi người nữ tội nặng đời sau tội nhẹ, cho đến nói rộng, Bồ-tát cũng như vậy. Thật năng nói nặng, lý nhẹ nói nhẹ, pháp tánh thường như vậy xuyên suốt ba đời, ấy gọi là tướng giải thoát riêng của Bồ-tát, muốn đạt được đại quả nên hết lòng cung kính vâng giữ. Như kinh Di giáo chép: nếu siêng năng tinh tấn thì việc không khó, thí như khe nước nhỏ thường chảy xuyên qua đá, vô vi là không khi chết rồi sẽ có hối hận, thì như người thầy thuốc biết bệnh cho thuốc, uống hay không uống chẳng phải lỗi của thầy thuốc.

Giới thứ nhất: tha hồ sát sinh.

Kinh chép: Nếu Phật tử hoặc tự mình giết, cho đến tội Ba-la-di của Bồ-tát.

Giải thích rằng : Đây làTụng riêng thứ hai, mười giới đầu mỗi giới đều có hai môn thuyết, một là nói lên ý chế giới, hai là giải thích văn kinh, đầu tiên là ý chế giới, điều mà thế gian thì sợ khổ chết là bậc nhất. Trong sự tổn hại người, không gì hơn cắt đứt mạng sống của họ. Như trí luận chép: Nếu của báu đầy cả thế giới mà không có thân mạng, cho nên Bồ-tát lấy việc cứu giúp sinh làm tâm, mà thí rất sợ hãi thì liền mất tánh ấy. Như Du-già chép: Nếu có người hỏi Bồ-tát lấy gì làm thể, nên đáp rằng lấy đại bi làm thể. Do đó nên đầu tiên chế giới này, giống như Thanh Văn thoát khổ là trước nên. Đầu tiên chế dục tham là giới nặng, hai là giải thích văn, kinh chép có bốn môn, một là tướng trái phạm tướng, hai là môn trái môn phạm tánh ; ba là môn Cảnh giới sự, bốn là môn kết thành tội.

Tướng trái phạm là, như kinh chép nếu tự mình giết cho đến dùng bùa chú giết: đây là tướng trái phạm khác nhau. Tánh trái phạm là như kinh chép nghiệp giết cho đến duyên giết, là đủ năm chi thì sẽ thành phạm. Trong đây nghiệp giết tức là rốt ráo, cách thức giết là phương tiện, nhân giết là ý thích và phiền não, duyên giết là sự việc. Theo đây có người nói, không thành nghiệp đạo thì không phạm nặng . Như Du-già nói: Nếu Bồ-tát thấy dục là tội nặng , khởi tâm suy nghĩ: nếu tà mạng cắt dứt sinh mệnh của những kẻ ác kia thì phải đoạ địa ngục, nếu không tà mạng cắt dứt sinh mệnh họ thì khi tội ác đã thành nghiệp thì họ sẽ chịu khổ lớn, ta thà giết kẻ kia mà đoạ vào địa ngục, chứ không thể để cho họ phải bị khổ Vô Gián . Như thế đối với kẻ ác kia dùng tâm lành hoặc tâm vô ký, biết việc này rồi, vì tương lai nên rất sinh tâm hổ thẹn, dùng tâm thương xót mà cắt đứt mạng kia. Do nhân duyên này, đối với Bồ-tát không trái phạm mà còn sinh nhiều công đức. Ở đây vì không có phiền não nên không phạm, vì ý ưa thích pháp lành nên sinh ra nhiều công đức. Nay giải thích không phải như vậy, không thành nghiệp đạo cũng thành phạm, như các loài có mạng sống đều là phạm nặng , dù tưởng điên đảo nhưng cũng phạm nặng , huống chi tuỳ phần giới, tuỳ địa vị mà chế khác nhau. Như kinh Văn-thù vấn giảng giới này rằng: Nếu thọ giới Bồ-tát xuất thế gian mà không khởi tâm từ bi thì Bồtát ấy phạm tội Ba-la-di. Đối với các chỗ phạm, luận trừ ba người, đó là người có tâm cuồng loạn, trọng khổ và không giới. Truyền thuyết cũng nên trừ người không nhớ nghĩ và người có thắng lợi, chuyển sinh đời khác không thể nhớ, tuy là không phạm, các chỗ thắng lợi tất cả không phạm. Nói môn Cảnh giới sự, như kinh chép cho đến tất cả loài có mạng sống đều không được cố giết hại. Trong giới Thanh Văn chỉ nói tội giết người. Nay vì phân biệt chọn cõi nên nói cho đến, kia tuỳ việc mà phạm nặng , nay y theo lý mà chế giới. Như kinh Niết-bàn chép: Phật dạy vua A-Xà-thế rằng: Này Đại Vương! Trong cung của Ngài thường ra lệnh mổ dê, tâm không hề sợ, vì sao đối với tội giết cha lại sinh tâm sợ hãi, tuy là thú và người tôn ty có khác nhau, nhưng mạng sống quý già cả hai đều không khác, nếu kia tuổi thọ đã hết giết trong khoảnh khắc vì sao phạm tội? Kinh Văn-thù Vấn nói phạm đồng tội, vì thêm đủ duyên khổ cho chúng sinh kia. Rộng như kinh ấy có nói, trái lời Phật dạy, tội nặng nhẹ tuy giống nhau nhưng tuỳ theo tâm cảnh, v.v… mà nghiệp có nặng nhẹ. Như luận có nói rộng. Hỏi: Từ phẩm thế lực phiền não lẽ ra bình đẳng, vì sao kinh Thiện Sinh nói tham sát sinh tội nhẹ, sân, si tội nặng ?

Đáp: Thô tế tuy bình đẳng ngưng sa trái phạm có khác, trái với chánh lý xuất ly của Đại thừa, như thứ lớp tham, v.v… là nặng .

Kinh chép: y theo thông nhau thì si là nặng . Kết thành tội là như kinh chép Bồ-tát này cho đến tội Ba-la-di, vì đối với chánh hạnh lại kết tội. Thường sống trong tâm từ bi là đối với chúng sinh khởi tâm thương xót, pháp hữu tình hệ thuộc chủng tánh như vậy, loại thuộc về ta do ta mà mất. Tâm hiếu thuận là tâm hổ thẹn phẩm thượng duyên thắng, các Bồ-tát là độ, vì đối với ta trong vô lượng kiếp chịu nhiều khổ hạnh. Bồtát nên sinh hai tâm như thế, mà trái lại tha hồ giết hại chúng sinh thì phạm tội nặng .

Luật chép: Thanh Văn , là người nghĩ là người mà giết, phạm tội Ba-la-di, chẳng phải người nghĩ là người chỉ phạm thâu-lan-giá. Bồ-tát thì không phải như vậy, chỉ đối với loài có mạng sống mà cố ý giết hại thì phạm tội Ba-la-di. Ba-la-di, Hán dịch là Tha Thắng xứ, tốt mình xấu người, pháp ác đã vượt trội. Giới là trì phạm sở y gọi là xứ, văn này lược ý, nghĩa là tướng kia khác nhau trong phạm thì đủ năm duyên là phạm, trái với chánh thì bị tội, các giới khác văn y theo đây mà giải thích,

trong đây các giới y chủ đặt tên.

2. Giới trộm cướp. Tạo vật của người

Kinh chép: Nếu Phật tử tự mình trộm cướp, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di của Bồ-tát.

Giải thích rằng : Trong đây ý thứ nhất là bố thí nhiếp sáu độ rộng cứu giúp chúng sinh, trộm làm hoại đàn hai lợi đều mất. Kẻ xấu ở thế gian gọi là kẻ trộm, như thuận theo chướng đạo rộng khắp vời lấy quả khổ, thà phải bỏ thân mạng để tránh lỗi này. Vì sao ít của cải tự nhục hai đời? Vì tổn y báo chánh báo cho nên chế, thứ hai là giải thích văn, trong đó có bốn; phần đầu như kinh chép tự mình trộm cướp cho đến phương tiện trộm, cố khen ngợi tuỳ hỷ, lược qua không nói đến, theo lý lẽ ra phải có, môn thứ hai như trước nên biết. Môn thế gian này, như giới xuất thế. Kinh Văn-thù vấn chép: Nếu đối với vật của người tâm khởi tưởng trộm cướp phạm tội Ba-la-di. Cảnh giới sự môn như kinh chép: Cho đến quỷ thần, cho đến không được trộm cướp. Trong đây xếp vào tội nặng , nên nói cho đến, nhưng vật có chủ lược có năm thứ một là vật của Ba bảo; hai là vật thuộc về người; ba là vật của súc sinh, bốn là vật của qủy thần; năm là vật của bọn cướp, vật ấy có chủ nói nhiếp trước sau. Luật Tăng-kỳ chép: vị Tri sự dùng lẫn lộn vật của Ba Bảo, Phật dạy phạm tội Ba-la-di. Kinh Bảo Lương chép: Hai vật của Phật và pháp không được dùng lẫn lộn, đối với vật của Phật pháp không có chủ, còn không thể bạch, không đồng với vật của tăng, vật chiêu đề thường trụ có dùng lẫn lộn. Việc kinh doanh Tỳ-kheo và tăng được dùng. Nếu dùng vật của tăng để sửa sang tháp Phật, nếu Tăng bất hoà thì khuyên người thế tục sửa chữa. Nếu y theo văn này. Luật Tăng-kỳ ở trước y theo tăng bất hoà đều nói là phạm nặng , dùng lẫn lộn còn như vậy huống chi có tâm trộm lấy. Nếu vậy vì sao kinh Niết-bàn chép: Trộm vật của Phật hoặc biết hay không biết đều phạm tội Thâu-lan-già, vì Phật đối với vật vô ngã sở nên không bị não hại, Theo truyền thuyết đất Hán không có thủ hộ, kinh nói Thâu-lan, nếu có thủ hộ, dùng lẫn lộn còn phạm nặng , huống chi trộm lấy làm sao là tội nhẹ được Nên kinh Thiện Sinh nói trông hộ người tội nặng. Nhưng kinh Niết-bàn nói là giới Tiểu thừa, Bồ-tát thì khác, chỉ cần vật có chủ đều phạm nặng , hễ vật của Ba Bảo thì khó trông coi, chế cho phép trì phạm thì khó giữ gìn được. Như kinh Đại Tập chép: Phật cho phép hai người, một là Ala-hán; hai là Tu-Đà-hoàn. Lại có hai người, một là bậc người giữ người hiểu biết, hai là người sợ tội hổ thẹn. Nhưng giới Bồ-tát cũng dùng vật của Phật, Như Du-già chép: Bồ-tát trước đối với chỗ chứa đồ vật có làm tác tịnh nên dùng tịnh ý lạc xả cho chư Phật và Bồ-tát ở mười phương, thấy người đến xin không đúng đạo lý thì nói đây là vật xấu của người sẽ vất bỏ. Nếu đúng với chánh lý phải nghĩ rằng: Chư Phật và Bồ-tát không có vật nhỏ nào mà không bố thí cho chúng sinh, nghĩ đọan liền vật tịnh thí, bố thí cho người đến xin, khiến sở nguyện của họ được đầy đủ. Do các giáo nầy, Hòa Thượng Giải thích : phép tắc tuy giống như luật Tiểu thừa đã nói, nhưng nếu sát sinh mà có lợi thì nên làm, Chư Phật xuất hiện đều vì làm cho hưng thịch chánh pháp, ý làm cho pháp hưng thịnh đều vì chúng sinh, hưng pháp lợi sinh chỗ nào mà không cần, trừ có tâm nhiễm và không thắng lợi. Nhưng giới Tiểu thừa không được dùng lẫn lộn, tuy Phật tức pháp, nhưng trái với ý bố thí; Luật Tứ phần chép: cúng dường lên tháp Phật thức ăn, người sửa tháp được ăn. Luật Ngũ Phần chép: Nếu người tại gia vào chùa, tăng không cho ăn liền sanh tâm chê bai, Phật dạy nên cho, Lại, luật Tăng-kỳ chép: Hoặc tổn hại, hoặc lợi ích cũng phải cho. Luật Mười Tụng chép: cung cấp cho vua, quan, giặc. Tiểu thừa hẹp nhỏ còn thấy tổn ích, huống chi là Đại thừa không thể nhất định.

Hỏi: Luật Mười Tụng chép: Trộm xá-lợi Phật tịnh tâm cúng dường tự, nghĩ: ở chỗ kia cũng là thầy, ở chỗ mình cũng là thầy, ý nghĩ như thế thì không phạm, nếu trộm để bán thì phạm tội, vì sao trong pháp luật trộm kết tội nặng , trong khi pháp cũng là thầy? Đáp: Đức Phật được, mọi loài cung kính, pháp đúng mới sinh hiểu biết. Nhưng giới Bồ-tát biết kia không cần, tịnh tâm trộm học, lẽ ra không phạm, biết chướng gốc lành của người kia nên trộm của Phật cũng kết tội nặng .

Hỏi: Du-già Câu-Xá chép: cướp đoạt vật của Tăng, đồng loại với phá tăng, vì sao kinh Đại tập nói trộm vật của tăng nặng hơn năm tội nghịch? Kinh phương Đẳng chép: Người phạm bốn tội nặng và năm tội nghịch ta còn cứu được, nhưng trộm vật của tăng thì ta không cứu nổi?

Đáp: Mỗi trường hợp đều khác nhau, phá tăng là tạm thời, lại hiện tiền tăng, trộm tài vật hoà hợp đều chướng đạo trong ba đời, thường trụ tăng, vì chướng Thánh chẳng phải bà con nên gọi là đồng loại. Nói vật của bọn cướp là vật thuộc về kẻ cướp ấy, trong luật không cho phép đoạt lấy. Như luật chép : chẳng khác gì kẻ trộm giứt lại vật của kẻ trộm. Luật Ngũ phần chép. Có Tỳ-kheo bị kẻ trộm trấn lột, giành được y vật, nhưng nghi ngờ đến hỏi Phật, Phật nói không phạm. Bồ-tát không phải như vậy, như Du-già chép: Bồ-tát thấy có vị tể quan bạo ác tăng thượng phẩm thượng, đối với các hữu tình làm cho khỗ não không có tâm thương xót khởi tâm thương xót phế vị tăng thượng, thấy giặc trộm cướp chiếm đoạt tài vật của người, hoặc vật của tăng-già, vật của tháp lấy làm của mình, lợi lạc ý lạc tuỳ sức quẹt lấy, chớ để cho họ thọ dụng, phải chịu đau khổ trong sinh tử, của cải đã cướp đoạt được đều phải trả về chỗ cũ, cho đến rộng nói, Bồ-tát tuy không cho lấy như thế nhưng không phạm mà còn được nhiều công đức. Như Luật Ngũ Phần chép: Giành y Tỳ-kheo, hoặc giới Bồ-tát do tội bỏn sẻn của cải, hoặc hộ người tội kia được nhiều công đức, đã nói như thế, nếu vật có chủ đối với tâm lấy không có lợi ích. Cho đến một cọng cỏ cũng phạm Ba-la-di. Nếu đối với vật của mình hoặc vật không có chủ, hoặc đối với vật có chủ, không biết cho là vô chủ, hoặc tuy có chủ nhưng không có tâm trộm, vì không thành trộm nên đối với vật của mình, cho là của người mà trộm, hoặc vật không chủ cho là vật có chủ. Theo truyền thuyết, y cứ theo tâm, kết phương tiện trọng, vật kia chẳng phải cảnh phạm tội nặng . Nếu vật có chủ vì không biết nên cho là vô chủ, sau đó biết nhưng không trả lại, hoặc đối với vật của người cho là vật của chẳng phải người, hoặc tìm vật khác thế vật của người, đều kết tội nặng , vì là phạm cảnh. Vì sao nói là vật không chủ? Như vật của người đã bỏ, v.v…

Luận Thiện Kiến chép: con làm việc ác nên cha mẹ đuổi đi, sau đó cha mẹ chết của cải của họ không có chủ. Luận Bà sa, v.v… chép “giấu giữa hai nước”. Nếu vậy thì dân chúng lấy vật ở núi rừng, v.v… lẽ ra là trộm vật của vua, thì không đúng, vì nhà vua muốn để dành vật kia. Trong pháp Thanh Văn trộm năm tiền mới kết tội nặng , nay muốn phân biệt khác nên nói một cây kim, một cọng cỏ, ý nói Bồ-tát vv… trở xuống là môn thứ tư. Hiếu thuận từ bi gọi là Phật tánh, Bồ-tát do đây mà khác Hai thừa. Sinh phước là lợi ích. Sinh lạc là an vui, nhưng trộm của cải của người làm cho họ buồn khổ nên trái với lợi ích, duyên giết người cũng trái với an vui. Như Tri luận bài tụng thứ mười ba trong chép:

Tất cả các chúng sinh
Ăn mặc tự nuôi sống
Nếu cướp lầy giựt lấy
Chính là cướp mạng sống.

3. Giới không có tâm từ hành dục

Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình dâm dục cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.

Giải thích : Phần đầu chế ý là sinh tử lao ngục, dâm là gông cùm trói buộc hữu tình khó thoát ra được. Như Trí luận chép: Dâm dục tuy không không xúc não chúng sinh, nhưng vì trói buộc tâm nên xếp vào tội lớn Luận Du-già chép: Trong các ái, dục ái là hơn hết. Nếu dứt dục ái kia thì các dục khác tự nhiên được hàng phục. Như chế sức mạnh yếu, là tự hàng phục, nhưng pháp dục nầy có ba lỗi, khổ mà dường như vui. Ít vui nhiều tai hoạ, bất tịnh dường như tịnh, đầu tiên có trì tụng rằng:

Không nhẫn bệnh phiền não
Hành dâm dường sinh vui
Giống như bệnh ghẻ ngứa
Đối khổ tưởng là vui
Như người bị bệnh ghẻ,
Cho khổ là niềm vui.

Vui do dục sinh vui nên biết cũng như vậy. Người đã lìa được dục thì thấy dục là khổ, như người không bị bệnh ghẻ thì cái vui của ghẻ là khổ, nhưng tánh của các dục trần luống dối, lừa gạt chúng sinh thường sinh cái thiêu đốt. Như Đức Thế tôn dạy: Dục như xương khô, cho đến cũng như quả chín trên ngọn cây vì như xương răng nên khiến không có lúc nào được no, vì như khúc thịt chẳng nhất định thuộc về chủ, “Vì như đuốc cỏ nên lo lửa thường thiêu đốt, vì như hầm lửa nên thêm lớn khát ái, vì như rắn mãng xà nên bậc Hiền Thánh phải xa lánh, vì như giấc mộng nên mau đến chỗ hoại diệt, vì như mượn các đồ trang nghiêm nên dựa vào các duyên, vì như quả chín nên sẽ rơi xuống đất. Như thế mà quán khổ dường như vui, vì sao nói các dục ít vui mà nhiều tai hoạ.

Tụng rằng:

Giống như la sát nữ
Kẻ thù dối lam thân
Tâm dối sinh nghiệp ác
Vời khổ chướng Niết Bàn.

Như la sát nữ, kết giao với mình rồi ăn thịt, cũng như kẻ thù dối làm người thân để làm hại, kẻ thù năm dục cũng như vậy, thiêu đốt tâm mê loạn, có hại đến tuệ mạng, vời lấy vô lượng khổ, chướng an vui Niết-bàn. Như kinh Bồ-tát Tạng quyển mười chép: khi có thối quen gần dục thì không có điều ác nào không làm, khi bị quả kia thì không có khổ nào không gánh chịu, sông ái biển dục mênh mông không bờ mé, sóng sinh tử về mãi không dứt, tất cả oán hại đều từ dục sinh ra, người ngu tham dục như con thiêu thân giep mình vào lửa. Năm trăm vị tiên bay trên hư không bị mất thần thông mà rơi xuống đất, một cánh của vị tiên bị người nữ nắm. Vì thế luật chép: Cái đáng sợ không gì hơn người nữ, thà đưa nam căn vào miệng rắn độc, rắn độc hại chỉ thân xác thịt, còn người nữ làm hại cả pháp thân. Lại như Long Thọ nói: Khéo quán sát ý người, người nữ là trí, không xem xét được mất, chỉ lấy dục làm thân, gió mát còn nắm bắt được, tâm người nữ khó được định, không có lúc nào thoả mãn, cảm sinh vô cùng. Thương xót đêm dài sinh tử lìa xa sáu đường, đó gọi là các dục ít vui, nhiều tai họa. Vì sao nói dục trần bất tịnh mà dường như tịnh? Tụng rằng:

Thân xác thịt bất tịnh
Dừơng tịnh dối người ngu
Lạc uế, không nhàm chán
Như heo thích bùn dơ.

Thân này bất tịnh do chứa nhóm xương cốt mà thành, máu thịt tiểu tiện nhơ uế bao bọc lớp da mỏng bên ngoài, tám muôn giòi tửa mỗi thứ có chín ức con, tất cả hôi thối tiết ra chín lỗ, bất tịnh mà dường như tịnh nghĩa là trong lớp da phần mở trắng, máu nóng xen nhau, lừa dối nịnh dua mỗi thứ thiêu hại, nhưng những người ngu thường không nhàm chán, giống như con heo suốt ngày không lìa khỏi vủng bùn dơ, cho nên nay chế, vâng giữ chớ phạm.

Thứ hai là giải thích văn. Tướng môn trái phạm, như kinh chép, tự mình dâm dục, cho đến không được cố dâm. Trong pháp Thanh Văn , tự mình dâm dục mới phạm tội nặng , nay giới Bồ-tát nói, xúi người dâm dục cũng phạm tội nặng . Như Tiểu thừa cho rằng, tự làm mới thành nghiệp đạo, trong giáo pháp Đại thừa môi giới cho người cũng thành nghiệp đạo, chế chung hai chúng là nói tất cả người nữ. theo sự thật thì tại gia chỉ ngăn việc tà dâm, chẳng những chướng đạo mà còn vào lấy quả đường ác. Thế nào là tà hạnh? Như Du-già chép: không được hành dâm với tất cả người nữ, nếu chỗ được hành dâm mà phi chi, phi thời, phi xứ, phi lượng, hoặc không đúng lý ra phải tất cả người nam và không phải người nam, mẹ, v.v… gọi là chỗ không được hành dâm, ngoại trừ cửa sinh sản, đều gọi là phi chi. Hoặc chỗ nhơ bẩn khi thai tròn đủ, khi trẻ bú sữa, khi thọ trai giới, hoặc khi bị bệnh, nghĩa là bị bệnh không được dâm, ấy gọi là phi thời. Nếu tôn trọng các chỗ nhóm họp, hoặc trong linh miếu, hoặc trước mặt chổ đông người, hoặc vùng cao thấp không bằng phẳng, những nơi này là phi xứ. Nếu quá năm lần gọi là phi lượng, không theo lễ thế tục gọi là phi lý, tại gia trừ những đều nầy ra nên tự phân hành, tuy chẳng phải vợ mình hoặc không có sở thuộc. Tại gia thấy lợi cũng được hành dâm. Như Bồ-tát Địa chép: Bồ-tát tại gia thấy có mẫu ấp hiện nhưng không hệ thuộc quen pháp dâm dục, sau đó tâm Bồ-tát tìm phi phạm hạnh. Bồ-tát thấy rồi khởi tâm nghĩ rằng chớ để cho người kia tức giận mà tổn phước, hoặc tuỳ dục của họ thì được tự tại, phương tiện an xứ gieo trồng gốc lành, bỏ pháp ác trụ tâm thương xót làm việc phi phạm hạnh. Tuy quen với pháp uế nhiễm như thế, mà không trái phạm, còn sinh ra nhiều công đức. Xuất gia thì không phải như thế, vì hộ Thanh Văn . Nói tánh trái phạm là như kinh chép. Nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục, còn nương theo tướng thô chế ra nghiệp ban đầu. Nếu theo xuất thế thì kinh Niết-bàn chép: Tuy không giao hội với người nữ nhưng cách thành cách vách xa mà nghe tiếng khua của anh lạc người nữ, tâm sinh yêu đắm thành dục phá giới. Kinh Ưu-Bà-tắc-Giới chép: Nếu Bồ-tát nghĩ đến anh lạc trên thân người nữ, v.v… đều phạm tội Ba-la-di. Nên biết đây đều chế theo địa thượng. Như kinh Văn-thù Vấn chép: Giới xuất thế của Bồ-tát, nếu tâm phân biệt tướng nam nữ chẳng phải nam nữ thì Bồ-tát ấy phạm tội Ba-la-di.

Cảnh giới sự môn như kinh chép: cho đến súc sinh cái, và hành dâm phi đạo. Nữ có ba, nam có hai, đó là cảnh, vì hành dâm chỗ khác nên không phạm nặng , nói các vị trời là Ma nữ, v.v… hoá thân thành người nữ dâm dục với Tỳ-kheo. Nói phi đạo, sư Pháp Tạng Giải thích : Trừ cửa sinh sản của người nữ, còn hai nơi khác là phi đạo. Sư Nghĩa Tịch Giải thích : Trừ ba chỗ quan trọng, chi phần khác là phi đạo. Nếu theo văn luật thì đối với đạo nghĩ là đạo, đối với đạo nghĩ là chẳng phải đạo, cho đến nghi đều kết thành tội nặng . Nếu nhập vào cảnh bằng đầu sợ lông liền thành rốt ráo. Nếu bị kẻ thù bắt buộc thì khai cho hợp cảnh nhưng cấm không được thọ vui. Nay giới Bồ-tát tuy không ưa dục nhưng bị phiền não áp chế sinh ưa thích thì không phạm. Nói môn kết thành tội, như kinh chép: mà Bồ-tát cho đến phạm tội Ba-la-di, vì đối chánh mà kết tội. Tịnh pháp cho người: là Bồ-tát nên bố thí pháp môn lìa dục cho chúng sinh để độ họ thoát khổ sinh tử.

4. Giới khhông được nói dối.

Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình nói dối cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.

Giải thích ý lúc mới chế giới là: Phẩm mười lăm trong Trí luận chép ;Người nói dối trước là tự lừa dối mình, sau mới lừa dối người, lấy thật làm giả, lấy giả làm thật, thật giả điên đảo, không được pháp lành, thí như chiếc bình lật úp không rót nước vào được. Như Đức Thế tôn dạy, nói dối che lấp tâm đạo, nước không vào được. Còn người nói lời chân thật, tâm họ ngay thẳng dễ xa lìa bỏ được pháp ác, thí như rừng cây ngay thẳng thì dễ ra. Như Luận Du-già chép: Đã phạm học xứ, lại tu chi hành, nghĩa là lìa nói dối, nói dối trái đây, đã chướng pháp lành còn điên đảo rơi vào đường ác, sau sinh làm người thường bị chê bai, vì có lỗi nặng. Kế là chế nghiệp thân, trong văn giải thích thứ hai phần đầu tướng phạm là, như kinh chép tự mình nói dối cho đến phương tiện nói dối, nói phương tiện là giả nhờ việc khác khiến người hiểu khác. Môn tánh phạm, như kinh chép từ nhân nói dối đến duyên nói dối hỏi đáp trong đây giống như Đại luận ghi. Môn Cảnh giới sự là như kinh chép: cho đến không thấy nói thấy, cho đến thân tâm nói dối, vì phân biệt Thanh Văn chỉ có nói dối nên nói cho đến. Hoặc trong bốn lời nói thấy, nghe, v.v… cả ba điều còn lại. Thân nói dối là miệng không nói mà tay ra dấu. Tâm nói dối là tưởng điên đảo, v.v… như việc không thấy mà nghĩ là thấy, nói dối là không thấy, tuy đúng với sự thật nhưng vì che lấp sở tri, đây gọi là dùng tâm nói dối. Lại như kinh Văn-thù Vấn phẩm giới xuất thế gian trong chép: Nếu khởi tâm nói dối phạm tội Ba-la-di. Môn kết thành tội, như kinh chép: Mà Bồ-tát, cho đến tội Ba-la-di: Bồtát thường tự thực hành chánh ngữ cũng khuyên sinh chánh ngữ, vì phân biệt với nói dối nên nói là chánh ngữ, vì phân biệt phú tưởng nên nói là chánh kiến. Mà trái lại tự khởi nói dối, vì chúng sinh tuỳ tiện nói nên sinh tà ngữ, vì họ cho là thật nên nói tà kiến. Vì theo tâm này nói có sự tạo tác nên nói sinh tà nghiệp. Nếu vì cứu thoát nhiều hữu tình nên phú tưởng chánh tri mà nói là nói dối. Luận Du-già chép: Không có trái phạm sinh nhiều công đức, nếu không như vậy mà nói dối thì phạm tội Tha thắng xứ.

5. Giới Bán Rượu sinh ra tội lỗi:

Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di

Giải thích : Chế ý đầu tiên là đam mê rượu chè buông lung, sau chắc chắn hối hận vì mất chánh niệm và trái với bản tâm, làm việc không nên làm, nói lời không nên nói, gây ra nhiều tội ác. Cấm không cho người làm, ở đây không chung giới, hoặc đối với năm giới. Nay chế giới không được bán rượu thứ năm, ngoài ra như đã giảng ở phần trước, đủ duyên thành phạm. Dục lạc là đưa rượu cho người uống với tâm cầu lợi, rượu đã thuộc về người kia tức là rốt ráo. Trong sự nói là rượu nhân duyên khởi tội, chỉ trừ phá tăng, còn các pháp tội ác khác đều khởi.

6. Giới rao lỗi của bốn chúng.

Kinh chép: Nếu Phật tử, tự miệng rao nói tội lỗi, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.

Giải thích : Sơ chế ý là nói lỗi trong Phật pháp sẽ làm hỏng tâm kính tin của người, và làm hư mất việc hưng pháp lợi sinh của Bồ-tát, huống lại vời lấy quả khổ lớn, cho nên chế là pháp tha Thắng xứ. Như kinh Chánh Pháp Niệm xứ chép: đọa vào địa ngục Bạt Thiệt bị trâu cày lưỡi, v.v… luận Đại Trí chép : Tỳ-kheo Thắng Ý giữ giới thanh tịnh nghe Tỳ-kheo Hỷ căn không giữ giới nói kệ, dâm dục tức là đạo, nhuế si cũng vậy, liền sinh tâm chê bai, bị đoạ vào địa ngục. Lại, kinh Bất Tư Nghì Quang Bồ-tát chép: Bồ-tát Nhiêu Tài, vì nói lỗi của Bồ-tát Hiền Thiên nên suốt chín mươi mốt kiếp thường đoạ vào bụng dâm nữ, sinh rồi đem bỏ, bị cáo sói ăn thịt, cho đến nói rộng. Thứ hai là giải thích văn. Về tướng phạm, như kinh chép: Miệng tự rao nói, cho đến bảo người rao nói tội lỗi, nay trong giới này, môn đầu gồm nhiếp cả môn Cảnh giới sự. Trong đây hai môn đầu là thọ giới Bồ-tát, hai môn sau là thọ giới Thanh Văn , đều là nội chúng vì là thầy trời người, nếu thật có phạm, nói lỗi là lỗi gì? Vì vẫn có nghĩa xứng đáng làm ruộng phước. Như kinh Bản Nghiệp chép: có mà phạm còn hơn mà chẳng có mà không thể không phạm, có phạm là Bồ-tát, không phạm là ngoại đạo. Lại Mười luân chép: Hoa chiêm-Bặc tuy khô héo nhưng vẫn đẹp hơn các loài hoa khác, các Tỳ kheo phá giới vẫn hơn các ngoại đạo. Nói lỗi của người xuất gia, hoặc phá giới, hoặc giữ giới, hoặc có giới, hoặc không giới, hoặc có lỗi, hoặc không lỗi, sẽ bị lỗi làm chảy máu muôn ức thân Phật. Giải thích : Ra máu không thể chướng đạo, khi nói lỗi của tăng, làm mất lòng tin của nhiều người sinh phiền não cho họ, làm chướng Thánh đạo. Cho nên Bồ-tát ưa tìm đức của tăng, không thích tìm lỗi của họ. Người tìm lỗi thì dù bậc Thánh cũng có lỗi để chấp. Người tìm đức công dù dứt mất gốc lành, thân có công đức cũng đáng ghi chép. Như kinh Niết Bàn chép : Nếu chúng sinh kia không có pháp lành đáng khen thì nên nghĩ đến tánh Phật mà khen ngợi họ. Thế gian không có phàm phu nào không có lỗi, khi rao nói lỗi người thì lỗi ấy ở ngay thân mình. Như trong Tân Phát Bồ-tát Mười lục Hạnh của kinh Đại Tập chép: Không nói công Đức của mình mà khởi tâm cao ngạo, không rao nói lỗi người mà khởi tâm chê trách, kinh Chư Pháp Vô Hành có bài tụng rằng:

Nếu thấy người phá giới
Không nói lỗi ác họ
Nên phải nghĩ người kia
Lâu ngày cũng đắc đạo

Về kết thành tội, như kinh chép: Mà Bồ-tát cho đến phạm tội Ba-la-di là . Nói về thường khởi tâm từ bi, như trong Bồ-tát Địa chép: Thương xót người ác hơn cả người có chánh hạnh. Lại chép: Nếu ghét người phạm giới hạnh không lợi ích, ấy gọi là công đức tương tựo Bồtát. Nên nói khởi tâm từ bi giáo hoá những kẻ ác.

Hỏi: Giới khinh bậc hạ chép: Nói bảy tội nghịch, mười giới trọng, sao đây là nặng mà kia là nhẹ?

Đáp: Vì kia nói với người đồng pháp nên tội nhẹ, ở đây nói với người đạo cho nên tội nặng . Hoặc nói kia vô sự nên không thể bị tội, ở đây vì nói có thật phạm nên chế tội nặng .

7. Giới Tự Khen Mình Chê Người.

Kinh chép: Nếu Phật tử tự khen mình chê người, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.

Giải thích : Sơ chế ý là, khổng Tử Giải thích : ta có một lời, có thể thực hành suốt đời là “cái mà mình không muốn, chớ đem đến cho người” Giới này cũng vậy, tuy nói khen chê nhưng nghĩa chung cho tất cả. Bồ-tát làm nhiều lợi ích cho hữu tình, nên phát nguyện lớn Vô thượng Bồ-đề, thệ ở trong sinh tử chịu vô lượng khổ, mà trái lại đem điều ác đến cho người, làm hỏng mất Đại thừa, cho nên vẫn chế là căn bản trọng. Thứ hai là giải thích tướng trái phạm trong văn như kinh chép: Tự khen mình chê người, phải có khen chê nên mới kết tội nặng , chỉ khen, riêng chê riêng thì bị hai tội khinh. Còn ở lúc khác chỉ lấy bốn tiền, bốn câu còn lại v.v… như Tông yếu ghi: về tánh trái phạm, như kinh nói nhân chê người cho đến duyên chê người. Lần trước là tuỳ tướng nhiếp ly gián thô ỷ ngữ này, đây là tuỳ ứng rốt ráo nên biết. Nói dối tuy cấm chung trước đây đã nên lược không có môn Cảnh giới sự thứ ba. Nhưng luận Du-già chép: vì muốn tham cầu lợi dưỡng cung kính nên tự khen mình chê người, ấy gọi là pháp tha thắng xứ bậc nhất, đây là phần nhiều do tham rốt ráo. Nếu không sở đắc, chỉ do ganh ghét vì sân rốt ráo. Môn thứ tư như trong kinh chép: Mà Bồ-tát, cho đến phạm tội Ba-la-di. Bản nguyện của Bồ-tát là lấy lợi tha làm tâm, khen tốt che xấu, hỏng mất Đại thừa, hoặc khi người khhông có đạo đức chê bai Bồtát, vì sao đem việc tốt xấu cho người, là nghĩ rằng người kia làm việc này khiến bền chắc giới của ta, ta lẽ nào không nhẫn ác ở thân mình.

8. Giới Bỏn Sẻn lại Mắng Đuổi.

Kinh chép: Nếu Phật tử tự mình bỏn sẻn, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di

Giải thích : Chế ý đầu tiên là bản nguyện của Bồ-tát vì cõi hữu tình mà giữ lại thân trong sinh tử, thân Bồ-tát hoàn toàn thuộc về chúng sinh, huống chi của cải chẳng phải sở hữu của mình cho, nên bỏn sẻn làm chướng ngại bố thí, phá muôn hạnh sâu xa, ý rộng chê sáu độ, vì thế vẫn chế là căn bản tội nặng, sở thích của Bồ-tát thường là cầu bố thí rộng khắp, vì tham không trái lắm nên kết thành tội khinh. Trong giải thích văn chép Bồ-tát thấy tất cả người nghèo cùng đến xin, Bồ-tát Địa chép: Thấy có thắng lợi mà đến xin mới nên thí cho, vì muốn dùng của cải nhiếp đi, dễ hoá đạo. Nếu không có lợi ích, thì dù có an vui cũng không nên thí cho, vì sao? Vì lúc bố thí cho họ tuy tạm thời làm cho họ đối với Bồ-tát sinh tâm vui mừng, sau đó khiến họ làm các việc không lợi ích, gọi là nhân thí, giúp cho họ phần nhiều làm việc ác kiêu mạn, buông lung thì khi chết đều rơi vào đường ác, các câu trong đây như câu bảy mươi lăm lược nhiếp tụng rằng:

Nếu lợi tài pháp người
Không nên pháp mình suy
Nếu mình chỉ suy vật
Tài pháp người đầy đủ.

Nói cần gì người, tất cả đều cung cấp cho họ. Câu bảy mươi bốn chép: Nếu người nghèo thiếu làm tôi tớ cho mình. Hoặc người giàu có bậc trung tức là đối với kia và người nghèo khổ, hoặc người rất giàu có thì đến chỗ kia, cũng đến xin ở chỗ khác, mỗi nơi đều khéo phân bố mà thực hành bố thí. Nay văn kinh này lại dựa theo phần thứ ba. Như Long Thọ nói : Thân tâm Bồ-tát như cây thuốc, lấy tất cả gốc thân, nhánh lá mà không phân biệt, do ta mà được lợi ích. Nếu ông có nhiều của cải nhưng kia được lợi ích thì tất cả điều bố thí là không đúng. Tụng rằng:

Cha mẹ và thầy bạn
Chưa cho, mình không được
Đây cũng đối tất cả
Hoàn toàn không nên làm.

Bồ-tát Địa chép: Thân mạng cho đến chất độc, dao gậy, rượu, v.v… nhưng có nghĩa lợi, thì tất cả thí cho. Cha mẹ thầy bạn thì chắc chắn không được thí. Vì sao? Vì người có ân thường sinh kính trọng, không được tuỳ tiện mua bán. Nói chưa cho phép cũng có hai thứ: một là sở hữu của người, nghĩa là như luận chép: không được chiếm láy của cải của cha mẹ, vợ con, tôi tớ, để bố thí, việc làm có tội phước, vì nhiếp

công đức tương tự của Bồ-tát, hai là sở hữu của mình như luận chép: Nếu không dùng lời chân chánh dẫn dắt giúp cho họ vui vẻ trước thì không bao giờ được ép buộc khiến họ buồn rầu mà thí cho người đến xin. Tuy là dắt dẫn khiến họ sinh tâm vui vẻ nhưng không bố thí cho kẻ thù và người ác, không dùng dáng vẻ yểu điệu của vợ con nam nữ bố thí cho người đến xin đem về làm tôi tớ. Ý này là rõ ràng, ở đây cũng là sự thương xót chúng sinh bình đẳng, không được làm người kia vui mà giúp cho người nầy sinh khổ. Nếu ông Giải thích tại sao Thái Tử Tu-ĐạtNoa bắt buộc nam nữ thí cho Bà-la-môn? Vì kia cũng dẫn dắt, nghĩa là như kia Giải thích : hai đứa trẻ bạch rằng. Con đời trước bị tội gì mà là hạt giống của vua lại phải làm tôi tớ, nay xin sám hối. Thái Tử bảo rằng: Thiên hạ ân ái điều phải chia lìa, tất cả điều vô thường, đâu có gì giữ gìn mãi được. Khi ta đắc đạo bình đẳng vô thượng sẽ độ người.

Hỏi: Nếu đã dẫn dắt rồi tại sao không chịu đi, như kinh ấy chép , Bà-la-môn đánh đập máu chảy dầm dề khắp đất, Thái tử rơi lệ thì đất ấy liền rung động?

Đáp: Hai đứa trẻ kia chẳng phải không chịu làm tôi tớ, chỉ đợi từ biệt mẹ. Như nói, mẹ đến không thấy ta, sẽ như bò mẹ mất bê con, hướng về mọi phía than khóc suốt ngày. Nói mình không thể là nếu thấy do bố thí mà lui sụt hạnh Bồ-đề thì không nên bố thí, là hiểu rõ nghĩa này. Mười Giải nêu sự tích lui sụt tâm Bồ-đề của người Thu tử, chẳng phải phần tuệ thí, trái lại sinh tâm lui sụt. Như luận Mười Trụ chép: Người xuất gia nếu thực hành tài thí thì chướng ngại pháp lành khác, chắc chắn sẽ nhiều việc, nên đối với người xuất gia khen ngợi pháp thí. Do đây, kinh Quyết Định Tỳ-ni chép : Bồ-tát tại gia nên thực hành hai thí, một là tài thí, hai là pháp thí. Bồ-tát xuất gia nên thực hành bốn thí, một là giấy, hai là mực, ba là bút, bốn là pháp, Bồ-tát đắc nhẫn nên thực hành ba thí: một là ngôi vua, hai là vợ con, ba là đầu mắt, da xương. Nhưng kinh Đại Tập chép: Bồ-tát mới phát tâm đối với thân mạng, của cải thường nghỉ đến xả, là muốn dần dần nhóm họp cho đến kham xả, như luận Mười Trụ. Khi người đến xin mà quá tiếc của nên tự khuyến dụ, tâm còn tham tiếc thì nên từ chối người xin rằng: Nay ta là người mới học, chưa thành tựu gốc lành, tâm chưa được tự tại, sau này sẽ cho ông. Nói có người cầu pháp một câu oai lực sẽ giúp cho vượt ra biển khổ luân hồi, vì thế pháp thí cao quý hơn tài thí. Như phẩm Dugià quyển bảy mươi mốt và kinh Kim Quang minh quyển hai có nói. Nhưng Bồ-tát Địa chép: Người không cầu thì không được bố thí cho họ, nói rộng pháp thí như kinh ấy nên biết. Nói “trái lại mắng nhiếc”, câu

này chung cho cả bỏn sẻn tài và pháp ở trên. Bỏn sẻn của cải lại còn mắng nhiếc, thì đoạ vào loài ngạ quỷ. Sẻn pháp vời lấy quả mãi mãi sống trong cường loạn, làm chướng ngại đạo. Luận Du-già chép . Hiện có của cải, có người đến xin thì có tâm hiềm hận, tâm sân não không bố thí thì nhiễm phạm. Nếu uể oải buông lung thì chẳng nhiễm trái phạm, không trái phạm là: hoặc vật không thể bố thí, hoặc xin của cải không thích hợp, hoặc điều phục người xin, hoặc chỗ của vua kia không thích hợp, hoặc hộ tăng chế.

Hỏi: Vì sao kinh Đại Tập chép: Đối với thân mạng của cải thường nghĩ đến xả?

Tụng rằng:

Vì thân cầu tài nên nhóm họp nhiều hạnh ác
Sẽ trở về tử diệt không biết ân
Của bỏ theo mạng nghiệp ác theo
Khi chịu quả kia không cùng thọ

9. Giới Không nhận người sám hối.

Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình giận cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.

Giải thích : Chế ý đầu tiên là điều chúng sinh không thích nhìn thấy chẳng gì hơn tức giận. Cho nên bất thiện sẽ vời lấy quả khổ. Bồ-tát thệ xả bỏ niết-bàn hai thừa chỉ vì thương xót cõi hữu tình, sân chướng đại bi là căn bản tội nặng . Như Đức Thế tôn dạy, các Bồ-tát này thường phạm những điều do sân khởi, chẳng phải do tham khởi. Luận giải thích nói mật ý trong đây, nghĩa là các Bồ-tát thương xót các hữu tình mà thêm sức mạnh. Hễ có sự tạo tác tất cả điều là việc làm của Bồ-tát, chẳng phải làm việc làm có thể hành phạm. Nếu các Bồ-tát ghét các hữu tình, ganh ghét với các hữu tình thì không thể tu hành hạnh tự lợi, lợi tha, việc làm các Bồ-tát đã không được làm, làm mà không được làm có thể thành phạm. Giải thích : Tham thật cũng phạm nên nói là mật ý, chẳng phải cho rằng sân thật phá tất cả, chớ cho là Bồ-tát có phạm vô dư, chỉ nêu tướng thô rõ ràng để chỉ bày nghĩa sâu xa vô dư. Tà kiến phẩm thượng chê bai khắp tất cả, bấy giờ làm sao còn sót lại giới hữu dư, mà chỉ phạm một tội Ba-la-di, nhưng chắc chắn sẽ đưa đến việc sinh tâm không đồng nhận. Thứ hai là giải thích văn. Tướng phạm, tánh phạm như trước nên biết. Nói “Mà Bồ-tát cho đến thường sinh tâm lòng từ bi là khuyên người khiến họ phát sinh gấc lành không tức giận, mình cũng phải thường sinh tâm đại bi, là đối với người ác khởi lên ba

điều suy nghĩ, một là nghĩ người kia tâm tánh họ vốn thanh tịnh, vì say rượu nên không biết dính mắc bởi ma phiền não, không biết mình có việc làm này, hai là nhớ bản nguyện, ta là chúng sinh thệ chứng Bồ-đề, sinh tử là khổ lớn còn không sợ, huống chi khổ nhỏ này mà không chịu đựng, ba là nhớ ân kia, do não hại mới thành tựu hạnh nhẫn, kia làm thành tựu tròn đầy nhẫn Bồ-đề của ta, vì sao vừa trái ân lại sinh tức giận não hại? Nói dùng lời ác mạ nhục cho đến vẫn còn không hết giận. Như lần lượt nói về nghiệp ngữ thân, ý, tuy đủ ba nghiệp, nay lấy ý tội, vì chỗ khởi sân phạm tội nặng , khi quyết định tội của ý này thì kết, do đó quyết định, không nhận sám hối: tuy chẳng phải chúng sinh không đến sám hối tạ tội, mà sân không chịu can ngăn vẫn thành tội nặng . Có thuyết cho rằng: Theo sự thật chỉ ở bên hữu tình, vì nhẹ so sánh nặng nên nói chẳng phải chúng sinh. Thuộc về pháp gì trong trăm pháp, tức là lấy phần làm thể. Như Du-già chép: Trưởng dưỡng chủng loại phẩn triền như thế, không chỉ phát khởi lời thô liền dứt, vì sân che lấp, lại dùng tay đánh đập, ưa phẫn hận, người đến xin lỗi tạ tội mà không chấp nhận, không bỏ oán kết gọi là Tha thắng xứ.

10. Giới chê bai Tam Bảo.

Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình chê bai Ba Bảo cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.

Giải thích : Chế ý đầu tiên là Ba Bảo Phật, Pháp, Tăng là bến lớn ra khỏi lưới tà, là cửa quan trọng vào chánh đạo, thuận theo Ba Bảo chắc chắn chứng thường lạc, trái lại thì thường chìm đắm trong biển khổ tà kiến, tội trái nghịch không gì lớn bằng vì hành tướng âm thầm mạnh mẽ dứt các gốc lành. Vì thế cũng lập thành căn bản tụng. Giải thích văn thì y theo phần trước nên biết. Nói như ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, như Du-già phẩm thứ bảy mươi chín chép: Bồ-tát nên Giải thích ; thế nào là khổ, chúng sinh bị tổn não tức là mình khổ. Hoặc nên nói; lấy gì làm vui, chúng sinh lợi ích tức là mình vui. Cho đến nói rộng chúng sinh tổn não không gì hơn chê bai chánh pháp, vì thế Bồ-tát như bị giáo nhọn đâm vào tim, nhóm họp tâm không từ bi là lấy khổ của người làm vui, tập tâm từ là lấy lợi ích cho người làm vui, vui đã như vậy thì khổ cũng vậy. Nói huống chi là tự miệng mình chê bai, như luận Du-già chép: chê bai tạng Bồ-tát, ưa thích dựng lập chánh pháp tương tự, hoặc tự mình tin hiểu, hoặc do người chuyển, ấy gọi là pháp Tha thắng xứ thứ tư. Ở đây chung với tăng ích tổn giảm tà kiến, tà kiến này trói buộc. Nếu khi quyết định, tuy chưa dứt mất gốc lành nhưng chắc chắn cũng khởi tâm bất đồng phận. Nên giới Bồ-tát không có xả đoạn thiện. Tà kiến có hai, nếu che bai toàn phần tất cả nhân quả hoặc không chê bai pháp khác mà chê bai Đại thừa, vẫn phạm tội nặng , hoặc cho đến triền phẩm thượng cũng mất tịnh giới. Tất cả phần nói trên đều là môn Thế tục. Thắng nghĩa môn tức là Ba luân thanh tịnh, như Tông yếu đã nói.

Kinh chép: Các Phật tử cần nên học cho đến nên nói rộng.

Giải thích: ở đây là kết thành môn thứ ba. Văn này có ba: một là khuyên không huỷ phạm, hai là bày phạm mất hoại, ba là chỉ rộng răn dạy người học, khuyên không huỷ phạm, như kinh chép: Các Phật tử cần nên học cho đến phạm mười giới, nói khéo học là phân biệt với các học bất thiện của ngoại đạo và cái học không rốt ráo của Hai thừa , như phẩm tám mươi chép : Lại Thanh Văn kia tuy được rốt ráo nhưng không cúng dường khen ngợi các vị Trời người kia,v.v như trụ tân nghiệp, tu hạnh Bồ-tát. Ở đây Giải thích không được phạm một giới nhỏ như hạt bụi, là tuy lỗi nhỏ nhưng dồn chứa lâu ngày thành lớn. Như kinh có bài tụng rằng:

Chớ khinh ác nhỏ
Cho là không hại
Giọt nước tuy nhỏ
Lần đầy chum to

Hoặc có người ngu phạm tội nhỏ, dù cho nhẹ như hạt bụi cũng không nên phạm. Như có bài tụng rằng:

Người ngu tội nhẹ cũng đoạ ác
Người trí tội nặng cũng thoát khổ
Như hòn sắt nhỏ cũng bị chìm
Dù bát sắt lớn cũng được nổi.

Trí luận chép: Người có trí tuệ, tâm rỗng rang như chiếc bát nổi được.

Hỏi: Biết mà cố làm là điều đáng trách ở thế gian, không bằng việc làm của kẻ cuồng, không có gì là , trí ngu gây tội cũng như vậy, vì sao trí là nhẹ, ngu là nặng? Đáp: Câu hỏi này không đúng, mình làm mình chịu, chẳng phải do người làm mà mình chịu, là như kẻ điên chạm vào lưỡi dao nên bị đứt tay, người trí tuy chạm nhau như tránh mũi dao nhọn nên không bị tổn, lại như căn phòng tối biết có cột nên chỉ đụng nhẹ, không biết có cột nên chạm mạnh thì bị lỗ đầu. Ngu trí gây ra tội tùy theo đạo lý cũng như vậy. Trong luận Mười Trụ chép: Người trí tạo tội như bỏ nắm muối xuống ao, trong luận ấy có bài tụng rằng:

Chén muối bỏ ao lớn
Vị nước không có khác
Nếu bỏ vào bình nước nhỏ
Mặn đắng không uống được.

Thứ hai: Bày Phạm mất hoại, như kinh chép: Nếu có người phạm, cho đến phạm từng giới một. Trong đây nói nếu phạm thì hiện đời không được phát tâm Bồ-đề. Nếu phạm mười giới trọng, có bảy già nạn thì không thể thọ giới Bồ-tát, chỗ khác không phải như vậy. Du-già và Bản Nghiệp cho phép phạm tội nặng được thọ.

Hỏi: Phạm nặng mất giới tại sao kinh Bản Nghiệp Giải thích giới Bồ-tát có pháp thọ mà không có pháp xả, cho đến nói rộng?

Đáp: Ở Đây có nhiều giải thích. Sư Nguyên Hiểu Giải thích : Nếu đối với giáo lý ba thừa mà phát tâm thì có mất, nếu nghe giáo lý Nhất thừa thì không bao giờ lui mất, nhưng tông giáo mới khó có thể nương định. Sư Nghĩa Tịch Giải thích : Công năng tuy mất nhưng thể của hạt giống thường còn. Du-già, Bản Nghiệp lần lượt nói khác, ở đây cũng khó hiểu. Hạt giống giới luật của Thanh Văn cũng thường lưu lại. Nay giải thích như Tông yếu. Nói cũng mất ngôi vua vv… rõ ràng vì mất nhân nên mất quả lợi, phải đoạ vào cõi ác đánh mất niềm tin ở thế gian và quả Hai thừa , huống chi quả mầu ba thân, mười Thánh, ba Hiền của Đại thừa. Nói Phật tánh là pháp thân, vì thể tánh nên nói thường trụ là chung cho hai thân còn lại, như kế là tự tánh Vô Gián nối nhau thường hằng, không nghe tên cha mẹ Ba Bảo là nói lên thế gian và xuất thế gian không thể cứu, văn còn lại rất dễ hiểu.

Kinh Phạm Võng Cổ Tích Ký quyển hạ.

(Phần đầu Hết)

 

 

PHẠM VÕNG KINH CỔ TÍCH KÝ

QUYỂN HẠ

(Phần cuối)

Kinh chép: Từ Phật dạy. Này các Bồ-tát! Cho đến bốn mươi tám giới khinh nay sẽ nói.

Giải thích: Dưới đây chỉ tụng giới khinh, trong đó có ba. Đầu tiên là trước kết sau sinh; kế là lần lượt tụng ra, sau cùng kết khuyên vậng hành. Phần đầu nói các giới khinh này tuỳ theo ý thích của mình. Có phạm, không phạm, là nhiễm hay không nhiễm, phẩm trung thượng phải biết rõ. Như Bồ-tát địa tựu trung là nhiễm phạm, nghĩa là ý thích điều ác là không đúng. Nếu có tướng phiền não phải gọi là bất nhiễm phạm ba phẩm như tuỳ tâm cảnh,v.v khác nhau. Như phẩm sáu mươi tám chép: Do sáu phần khác nhau nêu chổ phạm thành trọng, một là giáo chế là nặng , hai là sự trọng, ba là số phạm, bốn là phiền não mạnh mẽ, năm là trí lực kém, sáu là mau sám hối, như các giới này mỗi giới đều đủ nghĩa ba nhóm giới, tuỳ nội dung quan trọng mà khai hợp các giáo bất định.

1. Giới thứ nhất không kính thầy bạn .

Kinh chép: Nếu Phật tử, lúc sắp lên ngôi vua, cho đến nếu không như vậy thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Từ bài tụng riêng ở dưới, mười giới đầu có bốn môn, hai môn đầu là môn hộ tâm niệm của mình, đối với kiêu mạn, buông lung ngăn cấm khinh mạn, đối với buông lung dứt lỗi rượu. Ba môn kế là hộ tâm hạnh của người, ba môn kế nữa là kính tu pháp Phật, hai môn sau đều là cứu giúp chúng sinh. Lên ngôi vua, trước thọ giới là: truyện chép có hai, có thuyết nói: Bồ-tát tuy đã có giới, bấy giờ lại thọ nữa là vì điều tâm, nói đủ các duyên tuy dẫn vô biểu, vì loại giới trước nên nói không được mới như đối pháp nói, đã dựa theo niết bàn trước khởi gốc lành thì không còn khởi mới, huống chi người kia lúc sau không huân xông hạt giống sống. Ở đây cũng nên như vậy. Nếu không có giới sao gọi là Phật tử, phạm tội nhẹ gì? Có thuyết cho rằng: khuôn phép của giới biệt giải thoát, như giới của Tỳ-kheo không có pháp thọ lại. Dù cho thọ lại cũng chỉ thêm giới cũ, do đây Bồ-tát đã nhập vào Sơ địa rồi thì xả giới hữu lậu, thọ giới vô lậu, vì muốn nuôi lớn đức thành Phật, vì trước đã có giới, Thất đạo không đắc giới, khác với Thanh Văn vì trước không có giới nên thất đạo đắc giới. Luận Du-già chép: Thọ lại không đắc giới mới, khác với pháp khác huân xông hạt giống lại, vì người kia không làm ra pháp chế phép tắc, tuy chưa thọ giới, hạt giống Phật cũng không mất vì đã phát nguyện Vô thượng Bồ-đề. Phạm tội nhẹ là kết sinh kiêu mạn, không cần thọ lại cũng không phạm, hoặc có điều tâm rồi nên không cần. Nói Thượng Toạ là bậc Thượng thủ trong chúng. Hoà-thượng là Thân giáo sư, là Hoà-thượng truyền giới. A-Xà-lê, tức là Quỹ Phạm sư, là thầy truyền giới, Yết-ma oai nghi, giáo thọ, thọ nghiệp, v.v.. Đồng học, đồng kiến, đồng hạnh như thứ lớp đồng thầy, đồng tông, đồng thừa. Nói bảy chất báu là của quý trọng còn có thể bố thí, huống chi của tầm thường khác là ý ở đây. Nói nếu không như vậy nghĩa là cung kính cúng dường không đúng pháp,. Luân Du-già chép : Tâm kiêu mạn, hiềm hận, sân nhuế, là nhiễm phạm. Biếng nhác vọng niệm là phạm phi nhiễm. Không trái phạm là: hoặc bệnh, hoặc cuồng, hoặc ngủ, hoặc tự nói pháp, hoặc nói với người, hoặc tự nghe pháp, hoặc muốn dùng tâm che chở người nói pháp, hoặc dùng tâm che chở nhiều hữu tình, hoặc điều phục, hoặc giữ gìn Tăng chế, đều không phạm.

2. Giới không được uống rượu

Kinh chép: Nếu Phật tử cố uống rượu cho đến bảo người uống rượu thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Rượu là gốc mê loạn, sinh ra nhiều tội lỗi, xưa có thế lực hàng phục rồng mà nay không khống chế được một con cua, cho đến bốn tội nghịch đều từ uống rượu mà ra, chỉ trừ tội phá tăng, nên ở đây cấm. Nói vô lượng tội lỗi là do say rượu sinh ra lầm lỗi mà phạm tội. Như Câu-xá chép: Trị bệnh hạn lượng không có tướng của tánh tội, nên biết già tội, trì luật thì nói là tánh tội. Ô-Ba-Li hỏi rằng : Con phải làm sao để cúng dường người bệnh? Đức Thế Tôn dạy: Trừ tánh tội, ngoài ra đều có thể cung cấp, nhưng bị bệnh truyền nhiễm, Thích chủng cần rượu, Đức Thế Tôn không cho phép người kia uống rượu. Lại kinh nói sinh Thánh thì cũng không phạm. Các sư Đối pháp Giải thích chẳng phải tánh tội, nhưng vì người bệnh khai chung giá giới. Về sau, vào lúc khác cấm uống rượu, là ngăn ngừa do chất rượu này mà phạm tánh tội.

Lại nữa, tất cả bậc Thánh không uống rượu là vì các bậc Thánh có tâm hổ thẹn, vì uống rượu làm cho mất chánh niệm. Cho đến một chút cũng không uống là vì giống như lượng thuốc độc bất định. Nói năm trăm đời không tay là vì lỗi ác tâm cực tăng thượng, chẳng có tâm lành,v.v Nếu bố thí tâm lành, luận Du-già cho phép nhiếp độ thí. Như Mười Trụ chép: Bồ-tát tại gia bố thí rượu không có tội, nên nghĩ rằng: Pháp thí độ đều mãn nguyện cho người, sau mới phương tiện giáo hoá họ bỏ uống rượu. Nói không được bảo người uống, cho đến uống là tự mình uống rượu, là trước cầm bình rượu đưa cho người còn bị lỗi, huống chi tự mình uống. Đây là phần thứ hai là bảo người uống, huống là tự mình uống. Nếu cố tự mình uống, bảo người uống là là đều kiết phạm. Nhưng kinh Văn-thù Vấn chép: Không được uống rượu, nếu thầy thuốc nói nhiều loại thuốc, hoà ít rượu nhiều thuốc thì được dùng, không được uống mỡ và thoa chà vào mình,v.v Hoặc có nhân duyên được dùng, được dùng sữa, lạc, bơ sống, đề hồ. Trước kia ta ăn cháo sữa vì gió đàm lạnh. Kinh Vị Tằng Hữu chế năm giới rằng: Nếu có người uống rượu mà tâm vui vẻ, sinh pháp lành thì uống không phạm giới, rộng như kinh ấy có nói. Huống chi giới Bồ-tát có lợi không phạm. Như Duy-ma-cật vào các quán rượu, có thể lập chí cho mình.

3. Giới không được ăn thịt.

Kinh chép: Nếu Phật tử cố ăn thịt, cho đến nếu cố ăn thịt thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Bồ-tát lẽ ra phải lóc thịt trên mình mà cứu giúp mạng sống loài vật, mà lại ăn thịt loài khác, đến nỗi giết hại. Nên nay Phật cấm. Kinh Văn-thù Vấn cấm Bồ-tát rằng: Nếu người giết để đãi mình thì không được ăn. Nếu thịt như cây rừng đã tự thối rửa, muốn ăn được ăn. Nếu muốn ăn thịt phải tụng chú ba lần“Đa-Điệt-Tha”, (Hám dịch là “Như thị)” “A Nại Ma”, A Nại Ma”, (Hán dịch là “Vô ngã, vô ngã”) “A-Thị-Bà-Đa, A-Thị-Bà-Đa”,

(Hán dịch là “Vô thọ mệnh, vô thọ mệnh”), “Na-Xá Na-Xá” (Hán dịch là “Thất, Thất”) “Đà-Ha-Đà-Ha”, (Hán dịch là “Thiêu, Thiêu”). “Bà Phất, Bà Phất” (Hán dịch là “Phá, Phá”) “Tăng-Kha Phiêu-Đa Nhị”,( Hán dịch là “Hữu vi”), “Toa Ha”, (Hán dịch là “dứt sát sinh”). Văn-thù bạch rằng: Nếu được ăn thịt vì sao các kinh như: kinh Tả Quy, kinh Đại Vân kinh , chỉ Man kinh , Lăng-già,v.v đều nói dứt. Phật bảo Văn-thù, vì chúng sinh không có năng lực từ bi, có tâm giết hại, vì nhân duyên này nên phải dứt ăn thịt. Này Văn-thù-sư-lợi! Có chúng sinh ưa thích y phẩm tảo thì ta nói y phẩm tảo như thế, khất thực cũng vậy, vì giáo hoá họ nên ta nói hạnh đầu-đà như thế. Nầy Văn-thù! Vì chúng sinh có tâm giết hại nên ta nói dứt ăn thịt. Nếu không có tâm giết hại, mà có tâm đại từ bi, vì giáo hoá tất cả chúng sinh nên , không có lỗi. Nói cắt đứt hạt giống tánh đại từ bi là do ăn thịt nên dẫn đến giết hại. Nói thấy mà bỏ đi là chim ưng đuổi theo chim bồ câu, chim bồ câu chui vào núp dưới bóng ngài Xá-Lợi-Phất mà vẫn chưa hết sợ, huống chi ở chỗ người ăn thịt. Nói người ăn thịt mắc vô lượng tội, như nhân duyên không ăn thịt của vị tiên Nhất Thiết Trí Quang Minh, trong kinh nói rộng về lỗi ăn thịt. Vị Tiên ấy chính là Bồ Tát Di-lặc, nên khi thành Phật cấm ăn thịt, nếu ăn phạm nặng , đầy đủ như kinh ấy đã nói.

4. Giới không được ăn năm thứ củ cay nồng:

Kinh chép: Nếu Phật tử, không được ăn năm thứ củ cay, cho đến nếu cố ăn thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Năm thứ củ cay tuy thuộc loại cỏ nhưng hôi dơ khó gần, là vật nên tránh của bậc hiền lương, cho nên cấm, phải dứt trừ. Sư Pháp Tạng nói : Nay trong năm loại củ này, đại toán là tỏi. Có người Giải thích : Hành hẹ là hồ thông, lan thông là gia thông. Ba loại trên người thế gian thường ăn. Cách thông, Nhĩ Nhã gọi là sơn thông, thân nhỏ lá lớn, đúng là chữ “Các”, đọc cách là sai. Các vùng phương Bắc có cây này, ở Giang Nam không có, ở đó gọi là Hưng cừ. Có người nói là cây cải dầu, nhưng không thấy văn chép. Có người nói, ở Giang Nam, lá nó giống như lá tỏi rừng, gốc và thân giống như cây hẹ, Bắc ở miền không có. Lại giải thích, A-Nguỵ Dược, tiếng Phạm là hưng-cừ, truyện chép như thế. Năm thứ củ cay này trừ người bệnh nặng và trường hợp có lợi ích, ngoài ra không được ăn. Như kinh Văn-thù Vấn chép : Không được ăn tỏi, nếu có nhân duyên thì được ăn. Nếu hoà thuốc để trị bệnh thì được dùng. Lại kinh Hoa Nghiêm chép: Trong thân ta có tám muôn hộ trùng. (Kinh Chánh Pháp Niệm chép: Một hộ có chín ức vi trùng), thân ta an vui thì nó cũng an vui, thân ta đói khổ, nó cũng đói khổ, vì thế Bồ-tát có sự ăn uống gì đều vì muốn cho các loại trùng an vui, chứ không tham đắm mùi vị.

5. Giới không dạy người sám tội.

Kinh chép: Nếu Phật tử thấy tất cả chúng sinh cho đến khiến họ sám hối phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Như luận Du-già chép: Bồ-tát thương xót hữu tình

giữ tịnh giới, không bằng phạm giới để chuyển nhân khổ. Nếu vì giận ghét mà tìm cách xả bỏ không làm lợi ích, là nhiễm ô trái phạm. Kinh Duy-ma chép: chúng sinh bệnh phiền não là bệnh của Bồ-tát, ấy là Bồtát không cứu nhân khổ rất, trái với lợi lạc nên nay cấm. Tám giới này đều chung cho giới Thanh Văn va giới Bồ-tát. Luận Du-già chép: Giới Nhiếp luật nghi là giới của bảy chúng. Kinh niết bàn chép: vì đạo Vô thượng nên thọ tám giới. Nói huỷ cấm là đại giới của Tỳ kheo và nhiếp luật nghi giới của Bồ-tát. Bảy tội nghịch như ở dưới. Tám nạn là, có thuyết nói là tám nơi không rảnh rỗi, đó là ba đường ác, cõi trời Trường Thọ, Bắc châu, đui, điếc, thế trí biện thông, sinh trước Phật sau Phật. Vì người ở nơi ấy không tu đạo, nên gọi là không nhàn rỗi, cũng gọi là nạn, đó là báo chướng. Tuy không nêu sám hối nhưng trong nhân kia nói tên quả. Mười điều ác ở đây vời lấy nạn đường ác, làm việc lành thế gian sinh về châu phía Bắc, tà định chiêu cảm Trường thọ, báng pháp sinh ra đui điếc, tà trí được thông minh, không kính Ba Bảo sinh trước Phật sau Phật. Có thuyết nói. Trong mười ba nạn, trừ năm tội nghịch, xếp năm tội kia vào bảy tội nghịch, tuy nêu số lớn nhưng lấy nhiễm ô ni,v.v truyện thuyết như vậy. Nói phạm tội nhẹ cấu là trừ người không có năm đức, hoặc trái lại thì sinh lỗi, kia tuy không nêu lên nhưng không phạm. Luận Du-già chép : Không phạm là nếu biết rõ bệnh kia không thể trị khỏi, thì không được cho nói họ biết nói, hoặc lúc quán đối đãi. Hoặc quán do việc tranh đấu, kiện tụng này mà làm loạn chúng, biết người kia hết sức hổ thẹn trở lại thanh tịnh, mà không trách mắng, trị phạt, đuổi đi, đều không phạm.

6. Giới không Thỉnh nói Pháp.

Kinh chép: Nếu Phật tử, thấy có vị Pháp sư Đại thừa cho đến nếu không như vậy thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Thầy của Chư Phật chính là pháp, vì có năng lực sinh trí tuệ, chứng đắc niết-bàn. Kinh Di Giáo chép: Người trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sinh tử, là ngọn đèn sáng, chiếu soi đêm dài tăm tối vô minh, là thuốc hay trị lành tất cả bệnh, là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế, các thầy dùng văn tuệ, tự tuệ, tu tuệ mà tự tăng ích, Bồ-tát lẽ ra phải diệt thân còn cầu, mà lại khinh mạn trái phạm càng sâu, nên nay cấm. Nói Tăng phường là chế cho xuất gia, nhà cửa chế cho tại gia, thành ấp chế cho vua. Mỗi ngày ba thời là thời trai sáng sớm, thuốc phi thời,v.v. Mỗi ngày đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng là của cải quý báu cũng không tiếc. Vì sao? Vì bố thí cái chẳng phải Thánh tài mà được Thánh tài. Hai thứ của cải khác nhau như Du-già có nói rộng. Thường thỉnh Pháp sư ba thời nói pháp là nếu vị Pháp sư kia có tuệ hạnh cao siêu hơn mình thì một ngày ba thời sáng, trưa, chiều nên thỉnh nói pháp, vì thỉnh nói pháp nên ngữ nghiệp lành, vì ba thời lễ bái nên thân nghiệp lành, vì chẳng khởi sân,v.v nên ý nghiệp lành. Nói vì pháp diệt thân thỉnh pháp, như hồn trần núi Tuyết cầu nữa bài kệ, việc ấy chẳng phải một các như nạn bị bệnh,v.v Vị sư kia kém hơn ta, không thỉnh thì không trái.

7. Giới không đi nghe pháp.

Kinh chép: Nếu Phật tử thấy tất cả chỗ, cho đến không đến chỗ ấy nghe pháp thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Muôn hạnh một môn cái gọi là đắc ý, đắc ý mà làm thì chẳng có việc nào làm không được. Nên Bồ-tát tân học gặp việc không giải quyết được, phải đi học để thành Thánh hạnh. Như khế kinh nói: Nếu lửa đầy khắp thế giới cũng nhất định phải đến nghe pháp, biết sẽ thành Phật đạo, vượt qua dòng sinh tử cho nên phải như vậy. Như phẩm thứ bảy mươi chín chép : Vô thượng Bồ-đề thể của là tuệ, tuệ năng dẫn dắt đến tất cả chỗ Ba-la-mật khác, là vì khi ở tuệ khởi tà hạnh, phải biết Bồ-tát đối với Bồ-đề kia, và có công năng dẫn pháp đều khởi tà hạnh. Vì thế Bồ-tát khinh thân trọng pháp. Vì sao? Vì có bài tụng rằng: Tuệ đối các hạnh lành, như nắm chặt mái chèo, trăm ngàn mù lạc đường, nhờ một mắt được sống. Hỏi: Nếu vậy vì sao kinh Hoa Nghiêm tụng rằng:

Thí như người nghèo cùng
Ngày đêm đếm báu người
Mình không có nửa đồng
Học rộng cũng như vậy.
 
Đáp: Vì kinh ấy chỉ là ngăn học rộng là rốt ráo, chớ không ngăn gốc học rộng Thánh tuệ. Như Du-già tụng rằng:

Học rộng biết được pháp
Học rộng lìa được ác
Học rộng xả vô nghĩa
Học rộng được niết-bàn.

Nói Tỳ-ni ,Hán dịch là Điều phục, vì dứt được tác động mạnh mẽ của nghiệp ác. Nghe nhận thưa hỏi: như Du-già phẩm ba mươi chép. Người mới tu nghiệp vì chứng nghĩa lợi, trước phải an trụ chánh niệm ở bốn chỗ, sau đó mới thưa hỏi. bốn chỗ là gì? lược nhiếp tụng rằng:
 
Không ganh, không kiêu mạn
Không phô tài năng mình
Khéo an lập mình người
Rồi mới thỉnh Pháp sư

Bồ-tát chép: Tâm kiêu mạn giận ghét không đến nghe pháp là nhiễm trái phạm. Lười biếng không ô nhiễm. Không phạm là bị bệnh không có sức khỏe. Hoặc biết giảng pháp trái ngược và Pháp sư kia đã nói pháp mình đã nghe rồi, hoặc hộ tâm người giảng, hoặc siêng tu pháp lành khác.

8. Giới bỏ chánh theo tà:

Kinh chép: Nếu Phật tử, có quan niệm trái bỏ, cho đến kinh luật phạm tội nhẹ cấu. Kể rằng: Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát sợ đạo Hai thừa , cho nên mạn thì sợ xả thân, bỏ Đại thừa theo Tiểu thừa thì trái với đạo Bồ-tát, cho nên phải cấm.

Hỏi: Tâm trái bỏ Đại thừa bị mất giới, vì sao lại kết tội khinh?

Đáp: ờ đây vì chê bai giáo pháp khác chứ chẳng phải trái bỏ tấtcả, ngay cả Bồ-tát Địa nếu không chê bai mà kính mến Như lai, tuy không tin hiểu, nhưng không trái phạm. Nói kinh luật thường trụ là thường trụ sở thuyên, kinh luật năng thuyên. Lại Phật ba đời, đồng thuyết đồng hạnh, không thể thay đổi. Nếu Hai thừa chê bai pháp không, v.v gọi là Tà kiến.

9. Giới phải săn sóc người bệnh.

Kinh chép: Nếu Phật tử, thấy tất cả người tật bệnh, cho đến không cứu giúp thì phạm tội nhẹ cấu. Giải thích : Bồ-tát dùng đại bi nhở gốc khổ bệnh mà không cứu nạn thì chẳng phải lỗi này, cho nên không cứu giúp là tội, vì săn sóc bệnh tức là bố thí mạng sống. Nói cúng dường như Phật không khác Phật là bậc đáng kính, người bệnh là người đáng thương, kính thương tuy khác, nhưng ở khía cạnh nào đó có nghĩa giống nhau, nên nói là không khác. Tám ruộng phước, có chỗ nói là.

  1. Tạo chỗ rộng lớn, giếng nước ngọt.
  2. Làm cầu đường xây.
  3. Đắp đường bồi lộ
  4. Hiếu kính cha mẹ
  5. Cúng dường Sa-môn
  6. Cúng dường người bệnh
  7. Cứu giúp ách nạn.
  8. .Lập hội vô già. (Sư Pháp Tạng Giải thích chưa thấy Thánh giáo).

Ở đây Giải thích là:

  1. Phật
  2. Bậc Thánh
  3. Hoà-thượng.
  4. A-Xà-lê .
  5. Chúng tăng .
  6. Cha.
  7. Mẹ.
  8. Người bệnh

Vì sao biết như vậy?

Nay văn dưới đây chép : Tám ruộng phước là Chư Phật, bậc Thánh, tất cả Sư tăng, cha mẹ, người bệnh. Nói phạm tội nhẹ cấu là trong Du-già chép : Nếu tâm giận ghét là nhiễm ô trái phạm, nếu vì lười biếng thì không nhiễm ô trái phạm. Không trái phạm là nếu mình bị bệnh, hoặc không có sức khỏe, hoặc nhờ người , hoặc biết người bệnh tự có khả năng cung ứng, hoặc biết người kia bệnh lâu, sự tiếp xúc có thể tự chống đỡ. Hoặc tu pháp lành cao quý không để sen hở. Hoặc tự biết căn độn khó tu định tuệ, hoặc ở chỗ khác cho họ mà làm việc cung cấp, như đối với người bệnh người có nỗi khổ là đối với , v.v… Vì họ mà làm bạn để giúp đỡ, muốn dứt khổ cho họ, nên biết cũng vậy.

10. Giới chứa Khí cụ sát sinh.

Kinh chép: Nếu Phật tử, không được cất chứa những binh khí, v.v… cho đến chứa dao gậy, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Bồ-tát nên chứa vật có lợi cho hữu tình mà lại chứa khí cụ giết hại, thật trái với lòng thương xót cứu giúp, nên phải cấm. Dù cho cha mẹ bị người giết còn không được trả thù, vì để cho họ tự chịu nghiệp quả đời trước của mình, pháp nhân quả là như vậy, không được tức giận . Nếu tức giận sẽ trở lại hoặc mình, không được lợi ích. Nói phạm tội nhẹ cấu là nếu ủng hộ chánh pháp thì không trái phạm. Kinh Niết bàn nói tại gia hộ pháp cho phép giữ để chiết phục.

Kinh chép: Mười giới như thế vv,… cho đến trong sáu phẩm sau có giảng rộng.

Từ mười giới dưới đây chia làm hai môn. Bốn giới đầu là môn giữ gìn pháp lành của mình, sáu giới sau là môn giữ gìn pháp lành của người. Lời văn rất dễ hiểu.

1. Giới làm sứ mạng cho hai nước.

Kinh chép: Phật dạy, nếu Phật tử, chẳng được vì quyền lợi cho đến cố làm thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Bồ-tát lẽ ra phải hoà giải các sự tranh chấp mà trái lại đi thông sứ mạng giúp cho họ giết hại nhau, thật trái với đạo Bồ-tát, cho nên nay chế phải dứt trừ. Nếu vì điều phục chấm dứt giết hại lẫn nhau kéo dài, theo lý thì không phạm. Hưng là sinh khởi. Sư là quân lính.

2. Giới Buôn Bán làm não người:

Kinh chép: Nếu Phật tử, cố mua bán người lành, cho đến bảo người buôn bán thì phạm tội nhẹ cấu. Giải thích : Buôn bán hữu tình khác làm vui, buôn bán quan tài, thì phải mong người chết, đời sống thấp hèn không gì hơn việc làm này. Không có tội mạng duyên ở thế gian có nhiều cho nên chế, Bồ-tát phạm liền thành tội. Nói lục súc, như Chu lễ nói là Bò, Ngựa, Chó, Dê, Heo, Gà, thật ra chung cho tất cả các loài súc sinh. Huống chi bảo người buôn bán là lấy lợi tha làm đầu nên nêu mình để so sánh với người buôn bán. Trừ nghiệp thấp hèn còn chánh nghiệp khác được buôn bán, ngăn đạo khai cho thế tục. Như kinh Ưu-Bà-tắc giới chép: Phật tử tại gia có của cải nên chia làm bốn phần, một phần cúng dường cha mẹ vợ con, phần thứ hai buôn bán đúng pháp, hai phần còn lại cất giữ.

3. Giới chê bai Không có Căn Cứ.

Kinh chép: Nếu Phật tử, vì tâm ác cho đến đoạ vào đường ác, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Khinh khi chống cự lại người hiền thiện là không hổ thẹn, tất cả việc ác từ đây sinh ra, không hợp cho việc tiếp nối làm hưng thạnh hạt giống Phật, cho nên phải cấm. Tâm không lợi ích nên nói là tâm ác. Vì lìa ba căn nên cũng nói là vô sự. Không căn cứ chê bai này không thể mất đi, nên đối với lợi tha xếp vào tội khinh. Giới Thanh Văn , không y cứ mà chê bai thì kết tội nặng , chê bai có thật thì kết tội khinh. Đối với kia tự làm thì có cả khinh trọng. Thế gian có câu: Kẻ sĩ biết mình là dụng, biết mình là người hiền, người bố thí pháp lành cho ta là thầy ta, hộ tài vật của mình là lời dạy của vua, nhờ ơn nuôi dưỡng che chở là ân cha mẹ. Nói sáu thân là cha, mẹ, bác, chú, anh em. Biết ân báo ân là bản hạnh của Bồ-tát, chết còn không nề hà, mà lại sinh tâm hại chúng sanh khác. Như nói: Khi Đức Thế tôn làm chim én đầu đàn, dắt dẫn năm trăm chim én bay về hướng Nam, bấy giờ nhạn đầu đàn sa vào lưới thợ săn, lúc đó có một con chim én kêu la thảm thiết, lảng vảng không chịu bay đi. Khi ấy, gã thợ săn giương cung định bắn mà chim én kia không tránh mũi tên, đôi mắt cứ nhìn chằm chằm vào gã thợ săn, rồi lập tức vỗ cánh bay đến đậu vào chỗ chim ưng đầu đàn, năm trăm chim én khác cũng bay lượn lảng vảng trên không chẳng chịu bay đi. Gã thợ săn thấy vậy sinh tâm hổ thẹn bèn thả chim én đầu đàn. một con chim én ấy chính là A-nan. Vua A-Xà-thế tuy thả voi sai hại Phật nhưng tâm sinh quyến luyến không rời Đức Thế tôn. Năm trăm La-hán bay lên hư không như bản văn kể, hoàn toàn trùng hợp, ân ấy được bậc chí nhân khen ngợi. Bồ-tát nếu trái thì chế thành tội.

4. Giới đốt lửa làm tổn hại chúng sinh:

Kinh chép: Nếu Phật tử, vì tâm ác cho đến nếu cố thiêu đốt phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Trong việc sát sinh không gì hơn đốt lửa, con chim trĩ còn thấm canh ướt để cứu nạn thiêu đốt. Bồ-tát đốt lửa, thật là trái đạo, cho nên cấm. Nếu muốn đốt lửa hại mạng tổn vật, đặc biệt bị tội sát, trộm. Luận Du-già nói là trộm phạm tội nặng , trong đây như núi, v.v… phần nhiều không có chủ, nhưng không có lòng từ bi gọi là tâm ác.

Quyết định vật có chủ lược nêu có sáu:

  1. Nhà cửa của người
  2. Thành ấp.
  3. Tăng phòng
  4. Ruộng vườn.
  5. Cây cối .
  6. Vật của quỷ thần .
  7. Vật của quan.

5. Giới pháp hóa trái tông:

Kinh chép: Nếu Phật tử, từ đệ tử Phật cho đến luận tà kiến, v.v… thì phạm tội nhẹ cấu.

Kể rằng: Bồ-tát phải dùng pháp Đại thừa giáo hoá chúng sinh. Như Kinh Duy-ma chép: vào chỗ giảng luận, dùng pháp Đại thừa dẫn dắt chúng sinh, nếu dùng Tiểu thừa giảng làm chướng Đại thừa thì trái đạo Bồ-tát, cho nên cấm.

Hỏi: Nếu vậy, tại sao luận Du-già chép : Nếu có người đến cầu pháp, trước phải hỏi dòng họ, nếu người kia dùng trí tuệ khéo léo nói căn tánh của mình thì tuỳ theo sự thích ứng mà trao thừa pháp cho họ.

Nếu người kia không biết chủng tánh của mình, nên lần lượt cho họ nghe nói pháp ba thừa, tuỳ theo chủng tánh của họ mà nghe pháp phát tâm, sau đó phải nói thừa pháp cho họ? Nghe phải không?

Đáp: Nay ngăn tâm ác không trái với luận kia, y theo nghiệp nói dối, tuy không tin mà phạm, nay trong văn này nói lược có bốn chúng:

  1. Chúng Nhập chánh pháp.
  2. Chúng Chưa nhập chánh pháp.
  3. Chúng Đồng khí liền cành.
  4. Chúng Đồng nương bà con.

Có ba. Pháp được truyền trao

  1. Giáo pháp, là giáo pháp kinh luật Đại thừa
  2. Lý pháp: là nghĩa lý của giáo pháp.
  3. Hành pháp là phát tâm, v.v…

Nương giáo sinh giải, nương giải khởi hạnh, thứ lớp như thế, trong đây phát tâm Bồ-đề là Mười tín, Mười phát tâm là Mười trụ, trưởng dưỡng tâm là Mười hạnh. Kim cương tâm là Mười hồi hướng, không nói Mười địa vì tự chứng sẽ hiểu. Hoặc có bản kinh không có Trưởng dưỡng tâm, nên biết rất ít. Nói hoành giáo, như kinh đại Tập chép: Khuyên học Tiểu thừa là nghiệp ma, huống chi tà luận của ngoại đạo nên biết là phạm tội.

6. Giới tham của cải, bỏn sẻn pháp.

Kinh chép: Nếu Phật tử, có tâm tốt cho đến phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Phải tự học trước, sau đó dạy lại người, tham tài lợi mà sẻn pháp thì cắt đứt hạt giống Phật, trái đạo Bồ-tát, nên ở đây cấm. Trong đây ý Giải thích . Trước giảng về khổ hạnh để răn tâm, giúp cho được vững vàng, sau đó mới nói chánh pháp chân thật. Đáng trả lời mà không trả lời là không nói, nhưng chỉ vì lợi không có bỏn sẻn pháp, nên thuộc về tội nhẹ. Như luận Du-già chép: Hiện có tài pháp mà bỏn sẻn không bố thí phạm Tha thắng xứ. Chê bai thuyết Ba Bảo, như văn chấp nghĩa. Kinh Niết-bàn chép: Nếu nói chúng sinh chắc chắn có Phật tánh, hay không có Phật tánh đều là chê bai Ba Bảo Phật, Pháp, Tăng. Phạm tội nhẹ cấu, Luận Du-già chép: Có người đến cầu pháp, mà tức giận ganh ghét không bố thí là nhiễm ô trái phạm. Biếng nhác vọng niệm không nhớ thì không nhiễm ô trái phạm, không trái phạm là ngoại đạo xét lỗi, hoặc bệnh hoặc điên cuồng, hoặc muốn điều phục, hoặc đối với pháp này chưa khéo thông hiểu, hoặc lại thấy kia không cung kính, không hổ thẹn, oai nghi xấu mà đến, hoặc biết người kia ám độn lại sinh tà kiến. Hoặc biết người kia chuyển khắp phi nhân mà không thí cho, đều không phạm.

7. Giới Cậy Thế lực Quyên Tởi

Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình vì việc ăn uống cho đến đều không có tâm hiếu thuận thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Không chỉ làm phiền não người , mà mình cũng mệt mỏi, rất chướng ngại cho hai lợi nên cấm. Như kinh Di Giáo chép: Người nhiều ham muốn, vì cầu lợi nhiều nên khổ não cũng nhiều. Thực hành ít muốn thì tâm rất thản nhiên, không lo sợ gì. Không biết đủ thì tuy, giàu mà nghèo, vì thường không thỏa mãn. Người biết đủ tuy nghèo mà giàu vì thường an vui. Nói cầu quấy cầu nhiều là phân biệt với phi nhiễm có nghĩa cầu lợi. Như luận Du-già chép: Nếu các Bồ-tát như giới kinh của Phật là giúp cho Thanh Văn ít sự ít nghiệp, ít hy vọng, lập ra già tội không để tạo tác, không nên đẳng học. Vì sao? Vì Thanh Văn tu tự lợi, đối với lợi tha trụ trong ít sự, ít nghiệp, ít hy vọng gọi là Diệu. Chẳng phải các Bồ Tát đặt lợi tha làm đầu mà không đoái hoài tự lợi. Trong lợi tha thì sống trong ít sự,ít nghiệp,ít hy vọng,gọi là Diệu Bồ-tát làm lợi tha như thế, từ người không phải bà con, trưởng giả,v.v., nên cầu chứa các loại vật báu như trăm ngàn ý bát, v.v…

8. Giới luống dối làm thầy.

Kinh chép: Nếu Phật tử, phải học tụng giới cho đến truyền giới thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Mỗi ngày thường trì tụng hiểu rõ là thầy, biếng nhác không biết là điều mà cấm giới này. Nói tức là dối gạt mình và cũng là dối gạt người là tự làm cho pháp Đại thừa suy tổn, nên nói dối gạt mình, trao giáo pháp luống dối không lợi ích mà siêng năng khổ nhọc nên là nói cũng là dối gạt người. Bồ-tát Địa chép: làm ra vẻ oai nghi, tương tự công đức của Bồ-tát, ở đây tuy là nói dối nhưng dối gạt làm thầy thì phạm tội nhẹ cấu.

9. Giới làm cho hai bên tranh chấp:

Kinh chép: Nếu Phật tử, vì tâm ác cho đến gây ra nhiều tội ác thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Bồ-tát lẽ ra phải khen ngợi hạnh tốt của người, làm cho hai bên hoà hợp, sinh ra pháp lành, mà lại đâm thọc hai đầu cho hai bên bất hoà, trái đạo, cho nên chế ra giới này. Thấy Tỳ-kheo giữ giới: đây là đâm thọc chúng hiền lương. Tay bưng lư hương, v.v… là oai nghi hành đạo. Mà đâm thọc hai đầu, v.v… là đâm thọc cho hai bên sinh sự bất hoà. Cấu là gặp, chê bai khinh dối bên đây, bên kia, gây ra nhiều tội ác. Bồ-tát Địa chép: Nếu thấy chỗ nhiếp thọ của bạn ác là nói lời chia rẽ thì lại sinh công đức.

10. Giới Không cứu giúp kẻ còn người mất:

Kinh chép: Nếu Phật tử vì tâm từ bi cho đến nếu không như vậy, thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Văn kinh có hai ý, đầu tiên là phóng sinh để cứu nạn chết, sau là ăn chay giảng pháp cứu vớt vong linh. Đều là cha mẹ của ta là khởi quán thân thuộc rộng khắp. Như Đức Thế tôn dạy: ta không hề thấy tất cả hữu tình sống trong đêm dài sinh tử mà không từng là cha mẹ các thầy. Nói cũng là giết thân cũ của tà: là bốn đại năm uẩn thường bẩm thọ, đều là con cháu cũ của cha mẹ ta, không thể không phân thọ khí với ta. Như thế gian có câu. Trong lòng của bậc Trượng phu chí khí tự có gió mây, kẻ sĩ giao du trong bốn biển đều là anh em. Nói tất cả chất bốn đại đất, nước, lửa, gió đều là bản thân, bản thể của ta, ở đây đối với muôn vật là đồng thể, mặt đất đâu từng chẳng phải là chỗ bỏ thân, gió lửa còn là thân còn, gió lửa tan thì trở về với đất. Nên thường phóng sinh và dùng phương tiện trừ năng sở sát hiện đang khổ. Ngày có người chết mà giảng giới kinh này là mảnh ruộng tốt có hai việc tốt một là ngăn chặn được điều, không đoạ vào ba đừong, hai là nhờ các gốc lành nên được thấy Phật sinh về cõi trời. Giới trong giới nghĩa là giới Bồ-tát, rộng độ chúng sinh lấy lý làm gốc, vì thế chỉ giảng giới kinh của Bồ-tát.

Kinh chép: Mười giới như thế cho đến nói tướng mỗi giới. Từ mười giới sau thành sáu hoà kính. Nghĩa là mười như,kế là ba một bốn hai nhiếp nghiệp ấy kiến lợi giới đồng,

Ba giới đầu đều nhiếp ba nghiệp đồng, nên thành sáu hoà kính.

1. Giới thứ nhất không nhẫn nhục mà trái phạm:

Kinh chép: Nếu Phật tử đem sân báo sân cho đến cố báo thù phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Dùng oán báo oán là trái với hạnh nhẫn nhục. Nếu mất hạnh nhẫn thì gọi là lui sụt tâm Đại thừa, nên ở đây cấm.

Nói dùng sân báo sân, v.v… là như kinh Trường Thọ Vương chép:

lấy oán báo oán, oán không bao giờ diệt, lấy đức báo oán, oán mới tiêu tan, cho nên Bồ-tát không tức giận là mạnh mẽ ý. Nói nếu giết cha mẹ cho đến không thuận với hiếu đạo.

Hỏi: Theo lễ của thế gian, oán thù của cha mẹ chẳng trả thì không phải đạo hiếu, tại sao nay nói trả thù cho cha mẹ, vua chúa là trái với đạo hiếu?

Đáp: Hiếu có hai thứ, hiếu thế gian là dùng oán báo oán, như cỏ dập tắt lửa. Hiếu theo thắng nghĩa là lấy từ bi báo oán như nước dập tắt lửa, đã tin chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ ta, thì đâu thể vì một người thân lại hại một người thân, kia giết thân đời này đời sau đoạ vào địa ngục, chỉ đáng xót thương chớ không nên báo thù, nên dùng lòng từ bi bình đẳng cỡi mở oán thù khiến mau dứt hẳn, đó là hiếu trong hiếu. Mà Bồ-tát xuất gia không có lòng từ bi cố báo thù: xuất gia có hai, một là tâm xuất gia, hai là thân xuất gia, nên chung cho hai chúng, không nhẫn là sai. Như giới kinh chép:

Nhẫn nhục bậc đạo nhất
Phật nói vô vi cao
Xuất gia khuấy rối người
Không gọi là Sa-môn.

2. Giới khinh mạn người xem thường pháp.

Kinh chép: Nếu Phật tử, mới xuất gia cho đến nhất nghĩa đế bậc, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Thuở xưa, có người cầu pháp, dám nhảy xuống hố lửa, muốn nghe nửa bài kệ mà treo mình trên núi Tuyết, thân vua cũng làm giường cho La-sát, y trời lại trải làm chỗ ngồi cho Dã-Can, đỉnh trời tuy tôn quý lại đội chân súc sinh, ruộng tốt thì trọng pháp làm đầu. Cho nên xem thường chế là phạm tội. Trong đây có người trí và người thông hiểu việc thế tục.

3. Giới khinh thường người mới học:

Kinh chép: Nếu Phật tử, sau khi Phật diệt độ cho đến không hết lòng chỉ bảo, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Bồ-tát lẽ ra phải khen ngợi, khích lệ người mới học mà lại khinh thường không chỉ dạy thì chế thành tội. Như kinh Anh Lạc chép: Nếu giáo hoá một người khiến họ phát tâm thọ giới Bồ-tát còn hơn xây tháp Phật đầy khắp cõi Đại thiên. Nói sám hối trước Phật Nghĩa là khi sám hối nhớ nghĩ nghĩa này, lược nhiếp tụng rằng:

Phật thệ độ chúng sinh
Ta vào số một đời
Biến Tri khéo giúp ta,
Tất cả tội diệt trừ.

Tự Thọ Yết-ma như Bồ-tát Địa phẩm bốn mươi mốt chép: Nếu trong ngàn dặm,v.v, là nếu ông tự thọ công đức yếu kém thì không đúng. Tuy không hiện duyên nhưng tâm mạnh mẽ, như phẩm năm mươi ba chép: Tự thọ hay thọ với người, hoặc tâm bình đẳng thọ cũng giữ như thế, phước đức không khác.

Hỏi: Phẩm năm mươi ba chép: Nếu lại có người nghĩ rằng, chỗ ở của ta khó sinh sống, phải xuất gia mới dễ sống, như mà các Tỳ-kheo tu phạm hạnh, ta cũng tu phạm hạnh. Cho đến lúc qua đời nên tu phạm hạnh, giới xuất gia như thế không gọi là ý lạc tổn hại, tuy không thuần tịnh nhưng cũng chẳng thể không gọi là xuất gia thọ giới cụ túc, đã vậy thì cũng có thể không cầu Bồ-đề mà thọ được tịnh giới của Bồ-tát ư?

Đáp: Hạnh Thanh Văn lấy thân, ngữ làm đầu, tuy tâm không thuần phạm hạnh nhưng dễ thành tựu, Bồ-tát không phải như vậy, vì vẫn còn ý địa, hoặc nói văn kia nói lên tâm lộn xộn này, chẳng thể nói đều không có ý ưa thích niết-bàn.

4. Giới bỏ pháp cao siêu, theo pháp thấp kém:

Kinh chép: Nếu Phật tử, có kinh luật Đại thừa cho đến nếu cố làm thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Khó gặp Đại thừa, như kinh có nói rộng. Nói Bồ-tát là người học Đại thừa. Giữ chặt cái vô tri của mình, bị chuyển theo bạn ác, vì ngăn ngừa lỗi ấy, nên chế ra giới nầy. Nói có kinh luật Đại thừa pháp của Phật là nói giáo pháp, vì phân biệt với ngoại đạo nên nói kinh luật của Phật, vì khác với Hai thừa nên nói là pháp Đại thừa. Nói chánh kiến là hành pháp, chánh tánh là lý pháp, pháp thân là quả pháp. Mà bỏ bảy vật báu là pháp Đại thừa đáng xem trọng, từ thí dụ mà thành tên. Như bỏ bảy chất báu lại lấy gạch vụn. Hoặc có kinh chép không bỏ bảy chất báu, tức vật quý của thế gian. Trong đây thêm bớt gọi là tà kiến, luận Tiểu thừa,v.v gọi là A-tỳ-đàm. Nói thư ký là văn chải chuốt của thế gian. Luận Du-già chép: Nói tương tự chánh pháp và đoán trước số văn chương thế gian rõ ràng, tức là công đức tương tự của Bồ-tát. Là cắt đứt hạt giống Phật, chướng ngại nhân duyên của đạo, như Khế Kinh chép: Pháp Đại thừa lưu hành gọi là hạt giống Phật không bị cắt đứt Kinh Pháp Hoa chép: người học Tiểu thừa không được ở chung với. Như luận Du-già chép: Đối với Bồ-tát Tạng chưa nghiên cứu tinh

chuyên, chuyên học pháp Thanh Văn và luận ngoại đạo, v.v… là nhiễm ô trái phạm. Hoặc người thông minh bậc thượng mau thọ không quên. Hoặc đối với nghĩa ấy có khả năng tư duy thông suốt. Hoặc đối với giáo pháp Phật không có động giác, trong mỗi ngày thường dùng hai phần thời gian tu học Phật ngữ, một phần thời gian nghiên cứu ngoại điển thì không phạm. Lại lại nói : Nếu nói Bồ-tát vì sao lại thọ trì tạng pháp của Thanh Văn , là nhiễm ô trái phạm: pháp ngoại đạo còn học, huống chi đối với lời Phật. Không phạm là vì một người hoàn toàn học tập Tiểu thừa bỏ dục kia nên nói như thế.

5. Giới làm pháp chủ mà không có tư cách:

Nếu Phật tử sau khi Phật diệt độ, cho đến xài dùng vật của Ba Bảo, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Nói Pháp chủ là người nói pháp, làm Pháp chủ là giữ gìn kinh tạng.v.v Tăng phường chủ là Tri Sự, giáo Hoá chủ là Hộ Pháp hoá tục, Toạ Thiền chủ là dạy trao chỉ Quán. Hành lai chủ là người coi về chúng du phương. Rộng ra các chủ khác lấy nhân nghĩa làm trọng. Sư tử rút xương sườn để cứu khỉ con, nai chúa ở vườn Nai. Chính là việc ấy. Như tự mình có có hai nghĩa, một là chớ tuỳ ý dùng như vật của mình, hai là chớ nên dùng chỗ như mình tiếc rẻ. Nay trong giới này không thủ hộ, bị tội nhẹ cấu, y theo vật bị tổn hại phạm Ba-la-di.

6.Giới đón rước Tỳ-kheo khách trái với nghi thức:

Nếu Phật tử trước ở trong tăng phường cho đến không phải dòng họ Thích, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Pháp lợi trong Phật pháp lẽ ra là đồng mà lại dùng không bình đẳng cho nên chế là tội. Chỗ an cứ mùa hạ: sớ Bắc Tinh châu chép: kinh luận xưa nay hoặc gọi là toạ hạ, hoặc gọi là toạ lạp, hoặc gọi là Hạ lạp, đều do không thông hiểu phương ngôn. Nay y theo bản dịch của Ba Tạng đời Đường chép: Vũ an cư, nghĩa là an cư vào mùa mưa, nhưng phương Tây lập thời gian khác nhau, hoặc lập bốn mùa nghĩa là từ mười sáu tháng giêng đến rằm tháng tư là mùa Xuân, từ mười sáu tháng tư đến rằm tháng bảy là mùa hạ, mùa Thu, Đông này mỗi mùa đều có ba tháng. Đến rằm tháng giêng, cộng chung là một năm, hoặc một năm chia thành ba mùa, Phật pháp y theo đây mà định, từ ngày mười sáu tháng giêng đến ngày rằm tháng năm gọi là mùa nóng. Từ ngày mười sáu tháng năm đến rằm tháng chín gọi là mùa mưa. Từ ngày mười sáu tháng chín đến rằm tháng giêng là mùa lạnh. Mùa mưa côn trùng sinh nhiều nếu như tăng đi lại nhiều thì khiến người đời chê bai nên chế an cư vào mùa nầy. Nhưng sơ an cư, tức là từ ngày mười sáu tháng năm đến ngày rằm tháng tám, dù mùa mưa sắp hết, e rằng đến mùa lạnh không có lợi ích nên khai một tháng làm tháng đền bù lao nhọc. Hoặc hậu an cư từ mười sáu tháng sáu đến rằm tháng chín, thì không có tháng đền bù lao nhọc vì ba tháng mùa mưa đã kết thúc. Nay đây từ mười sáu tháng tư đến rằm tháng bảy thật là sai lầm, vì chẳng phải mùa hạ. Nói an cư mùa mưa, nói khách tăng có phần lợi dưỡng là tín thí gồm cả mười phương, Phật chế thỉnh Tăng, theo thứ lớp nên khách tăng cũng được phần. Nói bị vô lượng tội là do trộm vật của hiện tiền tăng mười phương, lợi dù nhỏ, tăng cùng phạm tội vô biên.

7. Giới Thọ người Thỉnh riêng:

Nếu Phật tử, tất cả cho đến tự mình dùng, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Vì tổn phước vô hạn của thí chủ, cũng làm mất lợi dưỡng bình đẳng của chúng tăng nên phải cấm. Tất cả không được nhận là phân biệt với Thanh Văn , nếu chẳng phải đầu-đà thì cho phép thọ thỉnh riêng. mà lợi dưỡng này thuộc về mười phương Tăng: nếu thứ lớp thọ thỉnh lẽ ra phải thuộc về Tăng mười phương và tám ruộng phước. Tức là lấy của mười phương Tăng đem về phần mình: đã nhận cúng dường của người, chẳng phải giới trọng thứ hai. Tám ruộng phước: như trong kinh Phật v.v… ở trước đã nói. Nếu như vậy vì sao Bồ-tát Địa nói: Người đến thỉnh mà giận ghét không nhận là nhiễm ô trái phạm, cho đến giảng rộng. Có thuyết cho rằng. Người kia thỉnh theo thứ lớp, có thuyết thì nói sắp nói pháp, v.v… đặc biệt có sự giáo hoá, không liên quan gì đến thứ lớp tăng được thọ thỉnh riêng. Như thế không thọ như luận đã cấm, về sau là hơn vì trước đã nói cúng dường nói pháp.

8. Giới tự Thỉnh Tăng riêng.

Nếu Phật tử, có Bồ-tát xuất gia cho đến thỉnh tăng riêng, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Hai chúng Bồ-tát là chánh chế, tất cả đàn việt là phụ chế. Nói được Hiền Thánh tăng mười phương là đối với tăng hoàn toàn mỡ rộng tâm cúng dường, như uống nước biển là uống nước các sông. Nói không bằng theo thứ lớp thỉnh một vị tăng phàm phu là.

Hỏi vì mở rộng tâm nên được phước như vậy, cũng có thể không lựa chọn đạt đến cơ nhất định giết, hay bị tội giết tất cả cõi hữu tình?

Đáp: Không đúng. Bản nguyện của Chư Phật cho phép tất cả được thọ, chớ không nguyện rộng hai tất cả loài khác. Không như vậy thì hữu tình kia chịu khổ lẽ ra không cùng tận. Nói phạm tội nhẹ cấu là trừ người có hy vọng đạo đức riêng.

9. Giới Tà Mạng có lúc nào Nuôi thân.

Nếu Phật tử, vì tâm ác cho đến không có tâm từ bi thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Buôn bán nam sắc, nữ sắc là mở nhà dâm để cầu lợi, việc buôn bán này phạm tội nhẹ cấu. Tự tay làm đồ ăn tức là tội như ác xúc hoại sinh, v.v… lại tạo ra sự hiềm khích thế gian. Ở đây không cấm Bồ-tát tại gia. Xem tướng nam nữ là xem việc cưới xin lại hợp với tưởng chỉ tay, v.v… giải mộng lành dữ rất dễ hiểu. Nam, nữ là bói bào thai trai hay gái, chú là bùa chú. Thuật là huyễn hoặc, công xảo là thợ giỏi. Rắn độc: như ngày mùng năm tháng năm rắn độc hợp thuốc độc, lại dùng thuốc độc để phòng rắn độc, v.v… sinh kim ngân là làm văn bạc giả để lừa dối người. Trùng độc là để sai quỷ, v.v…

10.Giới dối gạt người thêm, làm tổn hại chúng sinh:

Nếu Phật tử, vì tâm ác, cho đến phạm giới thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Chê bai Ba Bảo này thuộc về tội nặng , thứ mười, lừa dối cầu lợi đều măc tội này, làm mai làm mối cho nam nữ giao hội dâm sắc thuộc về trọng thứ ba. Nhưng y theo làm mai mối mà kết tội nặng . Sát sinh, v.v… tuỳ theo sự thích ứng cũng như vậy, không kính ngày trai kết thành tội khinh. Nói sáu ngày là tháng có trăng, không trăng, mỗi tháng có ba ngày, đó là ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm, những ngày này quỷ Thần có thế lực làm tổn hại người, vì đề cho người khỏi bị hại nên phải cấm. Một năm có ba tháng trường trai, như kinh Đề vị chép: Tháng giêng ngày trai chính là ngày rằm, tháng năm, tháng chín, ngày rằm cũng là ngày trái chính. Nhân duyên của ba tháng trai như kinh có nói rộng.

Kinh chép: Mười giới như thế cho đến trong phẩm “Chế Giới” có nói rộng.

Từ giới thứ chín trở xuống chia ra chánh thí, già hoành thủ, tránh tà duyên hướng về chánh thừa, phát nguyện cầu, lập thệ nhàm chán, lìa nạn, không loạn, lợi lạc, tất cả phải biết.

1. Giới thứ nhất không cứu chuộc các bậc đáng kính bị ngay nạn.

Nếu Phật tử vv cho đến… Nếu không chuộc thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Bồ-tát lấy việc hộ pháp độ sinh làm tâm, không cứu không chuộc là trái với lòng cung kính và lòng từ bi,cho nên không cứu chuộc thì chế thành tội. Về hình tượng cha mẹ, sư Pháp Tạng nói: Hình tượng cha mẹ mình được người chuộc, hoặc Phật tức là Cha Mẹ.

2. Giới lấy tài vật của người một cách ngang trái:

Nếu Phật tử, không được cho đến nuôi thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Bồ-tát Địa chép, vật có chủ, mê vật giá rẻ mà mua, Bồ-tát dạy hiểu ra đúng như giá mà mua. Nhưng đồ này bất hợp pháp cho ít lấy nhiều rất phạm. Nên ở đây cấm.

Nay vì giữ gìn của cải chứa dao gậy, khác với trước vì thích giết hại mà chứa. Đây tuy là cho phép tại gia được mua bán, nhưng không được dùng cân non dạ thiếu. Đây là tự thân quan phá việc thành công của người, lãnh vật chẳng có công lao. Khác trước là dựa vào người . Đã lấy vật của người cho thì chẳng thuộc về giới trộm. Nuôi mèo, chồn, v.v… để tìm táo vật

3. Giới Luống Làm Việc Vô Nghĩa.

Nếu Phật tử vì tâm ác cho đến nếu cố làm thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Bồ-tát hành đạo phải biết tiếc thời gian, để thời gian trôi qua vô ích thì chế thành tội. Bối là ốc. Kinh Niết-bàn chép: Thổi vỏ óc để biết thời giời. Sừng cũng là vật dùng để thổi, là khí cụ vui chơi ở phương Tây. Ba-la-Tắc-Hí: sư Pháp Tạng nói: Đó là món đồ vui chơi của binh lính các nước phương Tây, đó là hai người, mỗi người cầm hơn hai mươi viên ngọc nhỏ cưỡi trên voi hoặc ngựa, trong phần đường tranh được phần đường chính thì chiến thắng. Đạn Kỳ là dùng ngón tay gảy quân cờ, được xa là thắng. Thế gian nói gảy cờ mới có từ đời Nguỵ Lục Bác là song lục. Đầu Hồ là bỏ gậy vào trong bình, hạnh tám đạo thành tựu (Đây không có giải thích).

Trảo cảnh là, sư Pháp Tạng nói: Được nghe thuật sư ở Phương Tây thoa thuốc vào móng tay, mai rùa, chú nguyện vào đó thì thấy việc lành dữ. Những việc bói toán này đều là yêu thuật, lại dùng cỏ thơm để làm thuật, hoặc chú nguyện trên nhành dương, hoặc chú nguyện vào bình bát, hoặc có người sờ vào đầu lâu đều dùng để bói toán thì biết việc lành dữ.

4.Giới lui sụt Tâm Bồ-Đề.

Nếu Phật tử giữ gìn cấm giới cho đến tâm ngoại đạo,… phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Tâm đại Bồ-đề là gốc muôn hạnh. Tịnh giới của Bồtát là gốc ba đức, nên chế phải giữ vững không được tạm bỏ. Nói đi đứng nằm ngồi là khuyên thế lực nối tiếp nhau. Như kinh Hoa Nghiêm có bài tụng

Thí như người dùi lửa,
Lữa chưa phát đã dừng,
Thế lửa liền tắt theo
Biếng nhác cũng như vậy.

Nói giống như kim cương là ý bền chắc không thể phá hoại. Như đeo phao nổi để lội qua biển lớn là thấy lỗi nhỏ sinh tâm sợ lớn vì lỗi nhỏ cũng dể làm cho chìm đắm. Như kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát hộ giới như giữ gìn phao nổi, thí như có người đeo phao nổi ấy muốn qua biển lớn giữa đường gặp la-sát xin phao nổi, không thể cho, biển lớn sinh tử, giữ giới phao nầy , ma phiền não xin không cho dù một chút, vì sợ chết chìm, giảng rộng như trong ấy. Như các Tỳ-kheo bị cột bằng cỏ tươi, đã sinh sợ hãi không bao giờ phạm. Như luận Trang Nghiêm nói có các Tỳ-kheo bị cướp trấn lột loả hình nằm để dưới đất cỏ tươi trói bằng qua một đêm tỳ kheo không dám mở dây cỏ. Nhà vua nhân đi săn thấy người lõa hình bị trói bằng cỏ tươi cho là ngoại đạo, người tuỳ tùng thưa rằng đó là đệ tử Phật. Vì sao? Vì vai bên phải bị đen, là tướng y bày vai phải. Vua liền dùng kệ hỏi rằng:

Khi thấy dường không bệnh
Mập khỏe có sức mạnh
Vì sao bị cỏ trói
Suốt đêm không trở mình?
 
Bấy giờ, Tỳ-kheo dùng kệ đáp rằng:

Vì cỏ này dễ đứt
Bứt bỏ có khó gì
Nhưng vì Giới Kim Cương
Phật Thế Tôn đã cấm

Nhà vua sinh lòng tin bèn cỏi trói cho Tỳ-kheo dẫn về cung, may y mới, cúng dường các thứ. Huống chi giới Bồ-tát, nói nếu có một tâm niệm xu hướng theo Hai thừa , v.v… thì phạm tội nhẹ cấu, vì lui bỏ Đại thừa. Như phẩm giới trong Đại Bát-nhã chép : Nếu Bồ-tát trải qua Hằng hà sa số kiếp thọ hưởng năm dục vui sướng, đối với Bồ-tát vẫn không gọi là phạm, nếu khởi một tâm niệm xu hướng theo Hai thừa thì gọi là 80 phạm.

5. Giới không Phát Nguyện.

Nếu Phật tử thường nên phát nguyện cho đến không phát nguyện này, phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Tà chánh, đúng sai đều do nguyện. Hoặc có điều lành nhỏ vời lấy vô lượng quả. Hoặc có nhiều điều lành cảm quả nhỏ hẹp dẫn hành đến quả, nguyện là quan trọng nhất. Nay ý trong văn này phải phát nguyện lớn hai ân hiếu thuận, một là ân che chở nuôi dạy sinh thân, tức là cha mẹ, hai là ân nuôi lớn pháp thân tức là thầy bạn . Hiếu thuận là nhân, nguyện lớn là duyên, sở nguyện thành tựu là ý ở đây.

Nguyện có bốn thứ như: được gặp thầy tốt, v.v… là nguyện gần gũi bậc thiện sĩ, thường dạy bảo ta, v.v… là nguyện được nghe chánh pháp. Giúp ta hiểu rõ là nguyện tác ý đúng lý. Như pháp tu hành là nguyện pháp tuỳ pháp hành. Bốn nguyện này đều thuộc về các pháp lành, cho nên ỏ trên nói phát tất cả nguyện.

6. Giới không Phát Thệ.

Nếu Phật tử, khi đã phát mười nguyện lớn rồi cho đến nếu không phát những điều thệ này thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Tuy phát nguyện lớn nhưng nếu chẳng phải tâm thì những ác nạn trong tập khí có thể bỏ, nghiêng vỏ ốc rót nước biển thấm vào hai cánh rưới lên rừng cây được hạt châu, cảm động đến trời Đế thích đều do thệ nguyện, cho nên chế ra giới phải khế hợp. Về mười nguyện lớn kinh phát Bồ-đề Tâm chép: Người mới phát tâm, lấy đại bi làm đầu, đều phát chuyễn mười nguyện lớn chân chánh, một là nguyện từ nay về sau nếu có được gốc lành đều bố thí cho chúng sinh, với mình đều thành Phật đạo, hai là nguyện do gốc lành này được sinh về cõi nước Phật, ba là nguyện sinh về nước Phật rồi, thường không lìa Phật, như bóng theo hình, bốn là nguyện đức Như lai ta nói pháp cho nghe, thành Bồ-tát được năm thần thông, năm là nguyện do đây liền thông suốt nhị đế được chánh pháp trí, sáu là nguyện được trí tuệ, giảng nói cho chúng sinh nghe, giúp họ thông hiểu, bảy là nguyện nhờ năng phật lực cùng khắp mười phương kính Phật nghe pháp, rộng nhiếp chúng sinh khắp, tám là nguyện nghe pháp rồi liền xoay bánh xe pháp, được nghe danh hiệu ta liền phát tâm Bồ-đề, chín là nguyện chúng sinh phát tâm Bồ-đề rồi, thường tuỳ lợi lạc, gánh vác chánh pháp, mười là nguyện gánh vác chánh pháp rồi tuy thực hành chánh pháp nhưng tâm không sở hành, ấy gọi là mười nguyện lớn. Thệ chung nguyện này như chân pháp giới thật không nơi nào chẳng đến. Như cõi chúng sinh không bao giờ có lúc cùng tận. Phát nguyện này rồi lập tiếp mười ba thệ, trong đây mười hai thệ đầu là thệ nguyện giữ giới, một thệ sau là thệ nguyện chứng quả. Trong mười hai thệ đầu thì bảy thệ trước là hộ giới luật nghi, năm thệ sau là luật nghi hộ căn. Hai thứ luật nghi này như Du-già nói: Trong đây, thà bị xô thân này vào hầm lửa, v.v… lửa ở nhân gian, v.v… chỉ hại được một thân xác thịt, tội phạm giới hại cả pháp thân, nên phải biết cân nhắc.

7. Giới Cố Vào Chỗ Hiểm Nạn.

Nếu Phật tử, mỗi năm phải thực hành hai kỳ đầu đạ cho đến cố vào chỗ hiểm nạn thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Thân tâm là đồ đựng đạo, không dám làm tổn thương, khi đến chỗ vắng lặng cũng phải tránh chỗ hiểm nạn. Nói đầu đà là theo âm mới là Đỗ-đa, Hán dịch là Đẩu Tẩu, vì phủi dũi phiền não sinh tử nhiểm. Như kinh Thiện Ý Thiên Tử chép: Đầu-đà là phủi dũi tham sân si, ba cõi, sáu nhập, v.v… Dựa vào Du-già, v.v… hoặc có mười hai hoặc mười ba món, đó là y thực có bốn, riêng y có ba, đồ nằm có sáu. Y thực có bốn là, một là khất thực thường kỳ, hễ qua lại nhà nào thì tuỳ ý được thọ, hai là khất thực thứ lớp, lần lượt đến từng nhà xin, ba là chỉ ăn trong một oai nghi, bốn là trước dừng lại sau mới ăn, luận Du-già chép: Hai việc đầu đối trị tham thức ăn ngon, hai việc sau là đối trị tham ăn nhiều, nếu y theo khất thực thì không có tánh khác nhau. Mười hai đỗ-đa nếu khai thêm là mười ba. Luận Đại Trí chép: Thọ thỉnh thực, nếu được thì sinh ngã mạn, không được thì sinh buồn rầu, thọ tăng thực thì theo việc chúng, tâm tán loạn, chướng ngại đạo. Thọ thường khất thực thì còn cầu một bữa ăn, nhiều thì sinh chướng ngại, huống chi tiểu thực, v.v… nên ăn trong một oai nghi, tuy một bữa ăn nhưng ăn quá no cũng chướng đạo, nên ăn vừa đủ, nghĩa là tuỳ theo sức ăn, nếu sức ăn ba phần thì chỉ ăn hai phần để lại một phần, thân sẽ nhẹ nhàng an ổn, dễ tiêu không bệnh. Trong y có ba một là chỉ giữ ba y, hai là chỉ giữ y lông thú, ba là giữ y phẩn tảo, như lần lượt đối trị tham nhiều y mềm mại tốt đẹp . Luận Đại Trí chép : Y là để che thân không nhiều không ít, ít muốn biết đủ nên thọ ba y, thích y tốt đẹp khó tìm cũng vời lấy nạn trộm cướp, nên thọ pháp nạp y, v.v…

Đồ trải có sáu, một là trụ A-luyện-nhã, trừ lòng tham xen lẫn, gần xa cách nhau một câu-lô-xá. Tây Vực Ký chép: gọi là một con trâu 82 rống, nghĩa là tiếng rống của một con trâu lớn có thể nghe được. Luận Đại Trái chép : Tuy ra khỏi nhà, vẫn thuộc thầy trò, nhưng tâm còn tán loạn nên thọ luyện-nhã, hai là ngồi dưới gốc cây. Luận Du-già chép: Ở dưới gốc cây để dứt tâm tham nhà cửa tốt đẹp, ba là ngồi ở chỗ trống. Trí Luận chép: Để dứt lòng tham cây tốt, ánh trăng sáng chiếu khắp hư không trong vắt, tâm dễ nhập ba-muội không, bốn là ngồi ở chỗ gò mả để dứt tham dâm dật, dễ được lìa dục, năm là thường ngồi ngay thẳng để dứt tâm tham dựa nằm. Trí luận chép: Trong bốn oai nghi của thân ngồi là bậc nhất, ăn dễ tiêu hoá vì lìa được hôn trầm trạo cử, sáu là chỗ ở như thường ngồi dứt tham đồ trải, một đồ trải bày ra, rồi thì không được trãi nhiều lần, lại phải sửa sang. Luận Du-già chép: Do tham ăn, v.v… nên không thuận theo phạm hạnh, như chưa nhổ lông thì không tuỳ tiện làm tấm dạ. Nay tịnh tu hạnh đỗ-đa này cho thuần thục, có sự kham nhiệm, không thâm không bớt. Trí luận chép: Phật pháp chỉ lấy trí tuệ làm đầu, không lấy khổ làm trước, pháp ấy đều là giúp đạo, Chư Phật thường khen ngợi. Nói hai thời hành đầu-đà là hai thời xuân thu đều phải đi khắp nơi, Đông, Hạ ngồi thiền là vì cực lạnh cực nóng, thích hợp thu nhiếp hành tích. Phẩm bảy mươi ba chép : Bồ-tát tuy thưc hành mười hai đầu-đà, nhưng không quý các pháp như pháp A-luyện-Nhã vv…, Giải thích : Vì thuận theo hạnh ít việc của Thanh Văn . Dương chi thơm miệng, giải nhiệt để nhai buổi sáng. Dương chi có các rtính chất tốt như kinh A-hàm nói, xà-bông rửa bẩn, tắm gội sạch thân. Ba y là tướng ruộng phước của Chư Phật ba đời. Kinh Đại Bi chép: Nếu Phật tử, sau khi ta diệt độ người có giới hay không có giới, chỉ cần có người mặc ba y của Như-lai thì từ Đức Phật Từ Thị cuối cùng đến Phật Lâu-chí đều được nhập niết-bàn, không có dư sót. Bình là đồ chứa nước, bát để khất thực. Tiếng phạm là Bát-Đa-La, Hán dịch là ứng lượng khí, lớn thì chứa được nửa đấu, nhỏ thì đựng được năm siển, luật chế bát làm bằng sắt, sánh, ngoài ra không được chứa. Đồ nằm để hộ y, tích trường dùng để ngăn rắn rít, thú dữ, lò hương là để cảm đến Phật, đồ lượt nước để cứu lòai côn trùng, khăn tay để lau tay, dao để cắt móng tay, đá lửa để tìm lửa, cái nhiếp dùng để nhổ, giường dây để an thân, kinh, luật để sinh hiểu biết, tượng Phật Bồ-tát, để khởi lòng tin, vì thế đạo cụ phải đầy đủ mười tám vật. Sư Nghĩa Tịch Giải thích : trừ nhành dương, xà-bông, ba y, v.v… vì chỉ khai kinh luật Phật Bồ-tát. Nhưng các sư đời Đường nói: Ba y là ba, kinh luật là một, Phật Bồ-tát là một, mười tám món này luôn mang bên mình như chim mang theo hai cánh, là đạo cụ đã đủ, vì lìa nhiểu việc. Như kinh đại Tập chép: Bồ-tát sơ nghiệp thường ưa vắng lặng, không ưa nhiều việc, đối với người nhiều việc chớ khởi tâm giận ghét. Hoặc kinh ưu Bà-tắc-giới chép: Ưu-bà-tắc nên chứa y, Tăng-giàlê, bát, tích trượng, sao ở đây đã dùng? Hoà-thượng đáp rằng: Bồ-tát cũng có tâm xuất gia. Như kinh Vô Cấu Xưng khen Duy-ma-cật không lìa ba y và bát, v.v… xem văn khác rất dễ hiểu. Ở trong chỗ nạn có hai văn, một là chế sơ nhập, như kinh chép. Nếu lúc thực hành đầu-đà chớ đến chỗ có tai nạn, là tất cả chỗ hiểm nạn như quốc nạn, v.v… hai là chế trong trụ, như kinh chép: tất cả chỗ hiểm nạn ấy đều không được đến, ý nói lúc thực hành đầu đà cho đến lúc kiết hạ an cư, từ đây trở xuống lần lượt như thứ lớp nhắc lại ở trước kết phạm, các nơi có hiểm nạn nầy cũng không được vàolà nhắc lại điều cấm ở đầu. Các chỗ hiểm nạn này còn như vậy, huống chi hành đầu-đà, là nhắc lại điều cấm ở sau. Thấy chỗ hiểm nạn vv… trở xuống là nêu lỗi kết tội.

8. Giới ngồi không có thứ lớp:

Nếu Phật tử, phải theo thứ lớp ngồi đúng pháp cho đến không theo thứ lớp ngồi đúng pháp thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Trong Phật pháp giới là thượng thủ, khác thế với gian cho tuổi tác là quý, nếu tôn ty rối loạn thì không còn phép tắc giềng mối, nên nay chế, bất luận già trẻ, v.v… Sư Pháp Tạng nói: có người giải thích cho bốn chúng ngồi chung lẫn lộn là sai. Ý của văn này là nêu chung chế riêng, thật tế theo tông mình đều ngồi theo thứ lớp, Sư Nghĩa Tịch nói: các sư giải thích khác nhau, hoặc chỉ thọ giới, Bồ-tát làm thứ lớp, hoặc Tỳ-kheo trăm tuổi chưa thọ giới Bồ-tát ngồi sau Bồ-tát mười tuổi hạ. Nếu thọ thì ngồi theo số hạ như cũ, giới cũng ngược lại thành giới Bồ-tát, như tôi tớ và chủ tại gia, ở đây cũng vậy, vì tôn ti có khác, như Tỳ-kheo thọ sau ngồi trên ni trăm tuổi hạ. Một là bất luận Thanh Văn , Bồ-tát khác nhau, hễ chỉ cần người thọ giới trước thì ngồi trước, thọ giới sau thì ngồi sau. Như Trí luận chép: Văn-thù và Di-lặc vào chúng Thanh Văn cũng ngồi theo thứ lớp: Tại gia trước cũng phải thọ năm giới Thanh Văn làm đều, tuy chủ thọ sau, đối với tôi tớ là trên, vì không lộn xộn, giống như Tăng Ni tôn ti không lộn xộn.

Hỏi: Nếu vậy thì xuất gia tôn quý là trên?

Đáp: Như đã cho tôi tớ thọ giới làm thứ lớp, trong đây bất luận già trẻ, khác với luật là Sa na-di lấy tuổi tác làm thứ lớp, hoặc thọ giới làm thứ lớp, Hoà-thượng Giải thích . Theo sự thật Bồ-tát tuy là tại gia nhưng ngồi trên đại tăng Thanh Văn . Như kinh A-Xà-thế Vương chép: Văn-thù nói: Cao quý-diếp ngồi trên vì là bậc cao tuổi. Ca-diếp 8 nhường lại Giải thích : chúng tôi xin ngồi sau vì Bồ-tát là bậc tôn quý, Xá-lợi-Phất nói: Chúng tôi cũng là bậc tôn quý, nhưng đã phát tâm vô thượng. Ca-diếp nói: Bồ-tát tuổi tác cũng tôn quý, thời gian lâu cũng sẽ phát tâm Vô thượng. Nên ngài Văn-thù đem hai ngàn Bồ-tát tại gia đến ngồi ở trước Cứ-diếp khiêm, năm trăm như ca diếp vv…Thanh Văn ngồi sau. Tuy nhiên, nếu các vị Thanh Văn kia bất hoà thì ngồi theo thứ lớp. Như Trí luận chép: Trong pháp của Đức Thích Ca không riêng Bồ-tát Tăng, cho nên đức Văn-thù, Di-lặc vào trong chúng Thanh Văn cũng ngồi theo thứ lớp, ở đây nói hiện thân xuất gia làm đầu, bấy giờ cho phép hiện tướng chúng khác. Nếu theo Văn-thù, thật giới ngồi theo thứ lớp đã trải qua ba đại kiếp không được ngồi lộn xộn, cũng chẳng phải khắp học vào chúng Thanh Văn . Hoặc thọ giới Thanh Văn như Phú-lâu-na, là chúng Thanh Văn chẳng phải Bồ-tát. Tóm lại, nếu hoàn toàn là Thanh Văn không thọ giới Bồ-tát thì ngồi theo thứ lớp. Sau thọ giới Bồ-tát, tuy tuổi hạ Thanh Văn nhiều, nhưng vẫn y theo giới Bồ-tát mà ngồi theo thứ lớp. Nếu đã thọ giới Bồ-tát trước, sau chuyễn thừa thì mới thành tựu. Trong Bồ-tát thừa người nữ thọ trước ngồi trên người nam nhưng không ngồi lộn xộn. Vua quan, tớ chủ chủ nếu y theo thế tục mà ngồi như tôn ti của thế tục. Nếu ngồi theo pháp thì đều lấy việc thọ giới làm thứ lớp. Do đây kinh chép: Tất cả bất luận hễ thọ giới trước thì ngồi trước.

Hỏi: Bồ-tát có mấy chúng?

Đáp: Theo Trí luận là bốn chúng. là ý của luận kia bằng thọ ba nhóm vì xuất gia, tại gia, nam nữ có khác. Hoặc khắp học là như Thanh Văn .

9. Giới không thực hành lợi ích an vui:

Nếu Phật tử, thường phải khuyến hoá cho đến không như vậy thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích: Hai pháp lành phước và tuệ như hai bánh xe, thiếu một bánh thì quả cao quý khó thành, vì thế khuyến hoá lập chỗ hành đạo, tức là phước hạnh, giảng kinh giúp mọi người hiểu rõ tức là trí hạnh. Tu phước sinh tuệ gọi là lợi, pháp lực cứu nạn gọi là lạc, như theo thứ lớp văn ấy rất dễ hiểu. Tật bệnh trở xuống tức là cứu nạn. Qua lại trị sinh là người ở phương Nam kinh doanh sản nghiệp là nuôi sống, nuôi sống không có lợi cũng giảng Đại thừa. Trong cứu khổ tội báo, báo là báo tội trong ba thời. Trong cứu nạn địa ngục, trói tay gọi là xiềng, buộc chân gọi là cùm, xiết cổ gọi là gông, thắt lưng gọi là xích, đều có nghiệp báo dẫn đến tội này. Thường tật bệnh là người thường bị bệnh, v.v… do việc làm đời trước mà ra, nhưng có khác nhau, vì sao đều phải giảng Đại thừa? Vì Đại thừa lấy lợi sinh làm đầu.

Kinh chép: Chín giới như thế cho đến trong phẩm “Phạm Đàn” có giảng rộng. Phạm Đàn, Hán dịch là “Mặc Tẫn”, vì không chịu điều phục nên mặc tẫn để trị. Từ chín giới sau là dùng từ bi để giáo hoá, năm giới kế là nhiếp khí. Phân biệt với phi, với ngoại hộ, với nội hộ, với cung kính, bốn giới sau là như thứ lớp, thuyết hoá, ngăn ác, hộ chánh, việc làm nên biết.

1. Giới thứ nhất lỗi của sự nhiếp hóa:

Nếu Phật tử, lúc cho người thọ giới cho đến nếu cho người thọ giới thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích: Người có pháp thì có khả năng lảnh thọ giới, không chọn mà xả bỏ thì bị lỗi nhiếp hoá sai sót, cho nên Phật chế. Tất cả y mặc trên thân đều phải hoại sắc, đặc biệt chế cho người xuất gia. Ca-sa, Hán dịch là bất chánh sắc, nghĩa là mầu xanh, v.v… đủ năm mầu hợp lại không còn chánh sắc, nên gọi là Hoại sắc. Tuy nói xanh, v.v… nhưng chẳng phải là chánh mầu xanh, v.v… Như kinh Văn-thù Vấn chép: Vănthù bạch rằng: Bạch Đức Thế tôn! Y có mấy mầu? Phật dạy, này Vănthù! Không quá đỏ, không quá vàng, không quá đen, không quá trắng, ba pháp phục thanh tịnh đúng pháp các y khác có màu cũng như vậy. Hoặc tự nhuộm hoặc nhờ người nhuộm, đúng pháp đập xong, hễ mặc xong thì giặt giũ cho sạch sẻ, như thế vật của quan được dùng nhiều mầu xanh vàng. Y nói tất cả cõi nước, theo y phục của người trong nước mặc, y phục của thầy Tỳ-kheo phải khác với y phục người thế tục. Như kinh Di Giáo chép: Tỳ-kheo các thầy phải tự xoa đầu, đã bỏ trang sức tốt đẹp, mặc y loại sắc, ôm ứng khí để khất thực tự nuôi sống, tự thấy như thế, nếu sanh tâm kiêu mạn thì phải mau dứt trừ, thêm lớn kiêu mạn, tại gia thế tục còn chẳng thích hợp, huống chi là người xuất gia nhập đạo. Nói không được cho người phạm tội bảy nghịch thọ giới trong đời này: có thuyết Giải thích : Người xưa sám hối bảy tội nghịch vẫn còn nên nói hiện đời không đắc giới. Nếu y theo lời dạy sám hối, tội diệt thì được thọ giới. Như kinh Tập Pháp Duyệt giải thích: Tung Đà-la-ni diệt năm tội nghịch có thuyết Giải thích : không đúng. Vì không có văn sám rồi đã được thọ phá. Nói nếu có đủ bảy già , vì mỗi tội đủ duyên thành phạm, chẳng nói phải đủ bảy mới phạm, khi phá pháp luân tăng, không phá yết-ma tăng, nhưng chê bai pháp yết-ma, vì thế chỉ nói phá yết ma chớ không nói Tăng, chỉ phá yết-ma tăng không bị già nan, chỉ lấy phá pháp luân tăng lập thành một tội nghịch. Kinh Thiện Sinh chép: Giết chúng sinh phát tâm Bồ-đề, không được thọ giới Bồ-tát, trong đây thuộc về gì? Nghĩa là nói Hoà-thượng, xà-lê, vì kia đã vào trước. Nói người xuất gia không lạy nhà vua, v.v… nghĩa là vua chúa, v.v… dù có giới hay không tất cả đều không bằng công đức của người xuất gia. Cho nên nếu người xuất gia lạy người tại gia thì người tại gia mắc vô lượng tội.

2. Giới tham đệ tử nhiều.

Nếu Phật tử, giáo hoá người cho đến cho người thọ giới thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Phải dạy thỉnh hai thầy: Hoà-thượng là gốc đắc giới, A-xà-lê-Da là nhân duyên đắc giới. Kinh Phổ Hiền Quán dạy thỉnh ba thầy, vì sinh tâm hết lòng. Du-già chỉ dạy thỉnh một thầy, đó là người làm nhiều việc nghĩa.

Kinh Thiện Giới chép: Thầy có hai loại, một là bậc thầy không thể thấy đó là Chư Phật Bồ-tát, hai là bậc tầy thấy được, đó là thầy truyền giới. Lại Giải thích : Nếu không đối trước Phật, Bồ-tát thệ nguyện thọ giới thì không được gọi là giới Bồ-tát, nên biết nói chung tương đối. Là chổ tôn thờ.

Hỏi: Bảy già nạn làm chướng ngại giới này, như kinh Thiện Giới, y theo đủ đức?

Đáp: Đủ mười việc mới được thọ, nghĩa là trước đã thọ giới Thanh Văn , v.v…

Hỏi: Kinh Ưu-Bà-tắc Giới chép: thọ giới Ưu-Bà-tắc có mười lăm già nạn, vì sao thông thường chỉ hỏi bảy già nạn?

Đáp: Vì kinh ấy dựa theo tánh cận sự nên không trái nhau. Nói dạy sám hối, như kinh Niết-bàn chép: Thế gian có hai hạng người mạnh nhất, đó là người không gây ra tội và người đã gây ra tội rồi mà biết ăn năn sám hối, vì làm người ai mà không có lỗi, có lỗi mà biết sửa đổi thì không có gì hơn.

Du-già chép: Dốc lòng sám hối, như Đức Thế tôn dạy, đối với phạm tội do ý lạc nên ta nói có thể thoát ra, chẳng trị phạt là thuốc sám hối dứt trừ được tội. Kinh Thiện Giới chép: Bồ-tát che giấu tội nặng thuộc về gốc tội, nếu chỉ che giấu tội Tăng tàn thì cũng phạm tội Bala-di. Phẩm Đẳng Tuỳ chép: Nếu Thanh Văn che giấu thì chỉ phạm tội Đột-cát-la. Ngàn Phật ba đời, sư Pháp Tạng nói: Kiếp trang nghiêm ở quá khứ có Đức Phật Hoa Quang vv…một ngàn vị Phật như . Hiền kiếp thời hiện tại có Đức Phật Câu Lưu Tôn một ngàn vị Phật khác như Kiếp Tinh Tú thời vị lai có một ngàn vị Phật như Đức Phật Nhật Quang, v.v… đây là nói theo hiển bày lý chung cho tất cả. Nói nếu không được thấy tướng tốt thì dầu có sám hối cũng vô ích, đây là nói triền phẩm thượng phạm lỗi, chẳng phải triền phẩm trung hạ. Như Du-già chép : lại nữa, tất cả Bồ-tát nầy trái phạm, nên biết đều thuộc về ác tác, nên hướng về người có đạo lực lời nói biểu nghĩa năng giác năng thọ giới Tiểu thừa, Đại thừa Bổ-Đặc-già-la mà phát lồ sám hối thì tội liền diệt. Nếu các Bồ-tát triền phẩm thượng phạm tội Tha thắng xứ mất giới luật thì nghi phải thọ lại. Nếu triền phẩm trung nên đối trước ba người, hoặc hơn số này mà phát lồ sám hối lỗi đã phạm. Nếu triền phẩm hạ phạm Tha thắng xứ và phạm tội khác (tội nhẹ nói là khác) thì nên đối trước một người sám hối. Nếu không thuận theo Bổ-Đặc-già-là có thể đối phát lồ sám hối trình bày lỗi đã phạm, dùng ý lạc thanh tịnh khởi tâm tự thệ, ta phải quyết định phòng hộ đời tương lai không hề tội nặng . Nay trong đây nói dù sám hối vẫn vô ích, sứ Pháp Tạng và sư Nghĩa Tịch nói triền phẩm thượng thì mất giới, nếu sám hối thấy được tướng tốt thì giới cũ sẽ sinh, không cần thọ lại. Nếu không thấy được điều lành, giới cũ đã mất, nên nói hiện đời không đắc giới, chẳng phải bảy già nạn lại thọ, nên nói “nhưng được tăng ích thọ giới”, ý nói khác với bảy già nạn, là kết, nói lên phạm nặng và tội nhẹ cấu, khác với bảy già nạn, không bao giờ được thọ giới khi đã phạm bảy già nạn. Nói đều thông hiểu, như Du-già chép, chỉ tứ người có đức như văn có kia nói . Trong kinh cho phép vợ chồng làm thầy truyền giới lẫn nhau cũng là từ người có đức. Nói “nếu không thông hiểu kinh luật Đại thừa v.v.… là không thông hiểu giáo pháp. Nói không hiểu Đệ nhất nghĩa đệ là không thông hiểu lý pháp, không thông hiểu tập chủng tánh, v.v… là không thông hiểu hành quả. Tập chủng tánh tức là Mười Phát thú, vì nhóm họp đầu tiên. Trưỡng dưỡng tánh tức là Mười Trưỡng dưỡng tánh, vì dần dần thêm lớn. Bất khả hoại tánh là Mười hồi hướng vì đã vững chắc. Đạo chủng tánh thuận quyết trạch phần vì dẫn đến Thánh đạo, tuy thuộc về hồi hướng nhưng nói riêng như thường. Do đó, giai vị Nhân Vương Mười Hồi Hướng đều gọi là đạo chủng. Chánh pháp tánh tức là Thánh chủng tánh, nhiếp chung Phật địa, đã rõ chân tánh gọi là Chánh pháp tánh. Nói mười chi thiền là gom chung mười tám phần lại thành mười chi. Hỷ lạc định, v.v… tuỳ nơi tuy có khác nhưng danh nghĩa thì giống nhau. Mười chi gồm có: tầm tứ, hỷ, lạc, định, nội đẳng, tịnh, xả, niệm, chánh tri và xả thọ. Dù biết nội đẳng tịnh tức là xả niệm chánh trí, vì chung riêng có khác nên lập riêng làm số, truyện chép rằng: Nói ác cầu, v.v… là cầu lợi phi pháp, đam mê không thoả mãn gọi là Tham, ra vẻ oai nghi khác lạ gọi là dối, lùa dối người là khi. Giới này có khác gì giới thứ mười tám kia, giới ấy cấm biếng nhác nhưng, ở đây cấm đệ tử, vì tham lợi mà ác cầu.

3. Giới nói giới cho người ác nghe.

Kinh chép: Nếu Phật tử, không được cho đến nếu giảng nói giới của Bảy Đức Phật thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Phẩm bốn mươi của luận Du-già chép: Đối với người không tin và chê bai Đại thừa thì không được giảng nói khai ngộ bừa bãi, vì sao? Vì người ấy nghe rồi không thể tin hiểu, bị sở tri chướng che lấp, liền sinh chê bai , vì chê bai giống như người đã trụ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, thành tựu vô lượng kho công đức rộng lớn, người kia chê bai nên cũng bị vô lượng kho tội nghiệp lớn theo bên mình, vì có lỗi lớn như vậy nên ở đây cấm. Trong đây, người chưa thọ giới, ngăn không phát tâm được. Như Luận Du-già phẩm bốn mươi chép: khi muốn truyền giới Bồ-tát, trước phải nói pháp tạng Ma-Đát-lý-ca của Bồ-tát, học xứ của Bồ-tát và tướng phạm của Bồ-tát, giúp cho người thọ giới nghe nhận, dùng tuệ quán sát từ chỗ ý lại có khả năng thể suy nghĩ lựa chọn. Nói ngoại đạo là tìm lỗi của chánh pháp. Nói người ác là nghe rồi chê bai , đại tà kiến là bác bỏ chung lỗi của nội đạo và ngoại đạo, vì sợ họ thêm lớn việc ác nên không giảng cho họ nghe. Như kinh Thiện Giới chép: không được giảng cho người không tin, cho đến không được giảng cho người chê bai Đại thừa nghe, vì sao? Vì nếu người không tin thì đó là nhân duyên đọa vào địa ngục. Ngoại trừ vua chúa là Phật pháp giao phó cho hai hạng người, một là đệ tử Phật gọi là nội hộ, hai là các vua chúa gọi là ngoại hộ, nên giảng cho họ nghe. Lại vua có thế lực nên dựa vào giới luật nghi sách tấn răn bảo người thực hành, nên phải biết. Nói hạng người không thọ giới của Phật gọi là súc sinh nghĩa là thân này tuy là người nhưng vì không làm nhân lành nên bị gọi như thế.

4. Giới cố ý làm trái giới cấm của Phật.

Kinh chép: Nếu Phật tử, do đức tin mà xuất gia cho đến phá huỷ chánh giới thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích: Tâm còn không được thầm nghĩ việc phạm giới huống chi Bồ-tát lại làm việc hủy phạm, hoặc trọng hoặc nhẹ, trái lời Phật dạy thì phạm tội này.

Nói không được thọ lãnh đồ cúng dường của tất cả đàn việt, chẳng những tự thêm tội mà còn tổn phước người . Không được uống nước của Nhà Vua: người xuất gia tránh việc nặng nhọc thì chẳng phải ruộng phước, đối với nhà vua không có ân phần nên không sử dụng được, vì thế nói là tên cướp nguy hiểm. Có tội thì đồng với súc sinh, không có điều lành thì đồng với cây gỗ.

5. Giới Không xem trọng kinh luật.

Kinh chép: Nếu Phật tử phải thường nhất tâm cho đến không y theo pháp cúng dường thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Trong đây khó so sánh với dễ, lời văn rất dễ hiểu, đều tùy theo năng lực của mình của báu cúng dường, ý ở đây, trong Dugià, Trung Biên,.v..v…. có nói mười thhứ pháp hành trong đây phải đủ. Du-già nói cúng dường Ba Bảo là giới khinh thứ nhất. Kinh Thiện Sinh chép: Nếu làm y phục, bình bát, trước phải dâng lên cúng dường Phật, cha, mẹ, thầy bạn , thọ dụng trước, rồi mình mới dùng. Nếu người dâng lên cúng Phật phải dùng hương hoa chuộc lại.

6. Giới Không Giáo Hóa hữu tình.

Kinh chép: Nếu Phật tử, nên có tâm đại bi cho đến không phát tâm giáo hóa chúng sinh thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích: Tất cả thánh đạo lấy âm thanh của người làm gốc, tuy có tánh ấy nhưng không giáo hóa thì không thành, cho nên phải giáo hóa. Hữu tình có trình độ thấp kém nếu không lãnh hội nổi thì âm thanh lọt vào lỗ chân lông, xa làm nhân duyên Bồ-đề, lời văn trong đây rất dễ hiểu. Nhưng Du-già chép: Dùng phương tiện khéo léo giáo hóa chúng sinh lược có sáu thứ:

1.Có năng lực giúp cho hữu tình chỉ cần chút ít gốc lành mà cảm được vô lượng quả. Là khuyên hữu tình bỏ chút ít của cải, cho đến dù chỉ một hạt gạo bố thí cho người nghèo hèn, nhẫn đến bố thí cho loài bàng sinh máy cựa, hồi hướng cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gốc lành bố thí như thế ruộng phước tuy ít nhưng do năng lực hồi hướng chiêu mà cảm được quả vô lượng, hai là giúp cho hữu tình nhờ chút ít công đức dẫn dắt gốc lành rộng lớn vô lượng. Tóm lại: là dựa vào tà pháp để nói chánh pháp, lại ở thế gian gieo trồng nhân duyên phước thọ là tùy hỷ khuyên người cũng như vậy. Lại nguyện chịu khổ thay cho hữu tình ở mười phương với ý ưa thích đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng, cho đến khi qua đời không luống uổng. Lại tất cả những trái phạm ở quá khứ và hiện tại dùng ý thanh tịnh quán tưởng đối trước Chư Phật chí thành phát lồ sám hối cho đến kiếp vị lai, thường dùng chút ít công đức như thế, thì tất cả nghiệp chướng đều được giải thoát, như trọng ấy đã giảng rõ. Ba là ghét bỏ Thánh giáo, dứt hết sân não, bốn là đối với hữu tình giúp họ hướng về, năm là đã vào rồi thì giúp họ được thành thục, sáu là đã thành thục rồi thì được giải thoát, lần lượt phân tích bốn phần trước lại có sáu thứ phương tiện khéo léo, một là thuận theo hiểu thông phương tiện khéo léo, thuận theo ý muốn của hữu tình kia, sau đó dùng pháp giáo hóa. Lại đối với pháp sâu xa hiểu thông rồi giảng, hai là cùng lập phương tiện khéo léo khế hợp, nghĩa là thấy có hữu tình đến cầu thì dùng phương tiện khéo léo khế hợp mà dạy: nếu ông muốn tu pháp lành thì ta sẽ thuận theo giảng nói, lại cứu người bị khổ cũng như vậy , v.v… ba là khác phần ý, lạc phương tiện khéo léo, giáo hóa người kia rồi mà họ chẳng làm theo, nên vì lợi ích lại phải thị hiện tức giận quở trách mà không bố thí cho họ, tạm thời buông bỏ, cuối cùng trở về chổ an ổn, bốn là bắt buộc chỗ sinh phương tiện khéo léo, hoặc chủ nhà, hoặc Quốc vua được năng lực tăng thượng, buộc phải tu pháp lành, năm là phương tiện khéo léo thi ân báo ân, đối với hữu tình tùy năng lực ít nhiều bố thí làm ân huệ, hoặc cứu giúp ách nạn, kia muốn báo ân. Bấy giờ, Bồ-tát khuyên tu pháp lành để thọ ân báo ân, bảo rằng chớ đem của cải thế gian mà báo đáp, sáu là rốt ráo thanh tịnh phương tiện khéo léo, được rốt ráo tám tướng thành đạo, phương tiện như thế phải học.

7. Giới nói Pháp trái với nghi thức:

Kinh chép: Nếu Phật tử thường phải có lòng đại bi, phát tâm giáo hóa cho đến nói pháp không đúng pháp thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Kính người trọng pháp thì pháp lành cao quý mới sinh, nếu không như vậy thì sẽ sinh lại pháp ác. Quý nhân trong đây thường ngã mạn nên chỉ nêu về điều này. Nói người nghe ngồi thấp, vì sinh kính trọng. Như Nhiếp Luận chép: Nếu người có đủ giới tuy yếu kém hơn có khả năng nói lợi ích cho nhiều người, như Phật Thế tôn đáng được cúng dường, thọ pháp lành kia cũng nói tương tợ. Lại kinh NiếtBàn chẻp: Nếu có người biết pháp, hoặc già hoặc trẻ như tầng Trời thứ hai kính thờ Đế-Thích.

8. Giới Lập Chế Phi Pháp.

Kinh chép: Nếu Phật tử, đều có lòng tin cho đến làm những tội phá Ba Bảo thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Nếu đối với người ác không cho xuất gia, không cần tạo tượng và buôn bán, v.v… theo lý lẽ ra không phạm, ngoài ra đều kết phạm.

9.Giới Phá Diệt Phật Pháp.

Kinh chép: Nếu Phật tử do lòng tốt mà xuất gia cho đến nếu cố phá giới pháp thì phạm tội nhẹ cấu.

Giải thích : Nói là sai mà phá chỉ ở trong nội đạo, còn ngoại đạo thì chẳng được phép. Như Kinh Liên Hoa Diện chép: Phật bảo A-nan, Này A-nan! Thí như sư tử chết, hoặc trên hư không, hoặc ở dưới nước, hoặc trên đất liền, tất cả chúng sinh đều không dám ăn thịt sư tử, chỉ có giòi bọ trong thân sư tử ăn thịt sư tử. Này A Nan! Phật pháp của ta, chẳng có ngoại đạo nào khác làm hư hoại được, trong pháp của ta, tất cả Phật pháp đã nhóm họp trong suốt ba đại a-tăng-kỳ kiếp chứa nhóm hạnh siêng năng khổ nhọc, mới bị các Tỳ-kheo phá hoại.

Kinh chép: Chín giới như vậy phải học, hết lòng kính trọng vâng giữ.

Giải thích: Ba môn giới nhẹ từ môn thứ ba trở xuống là môn Kết khuyên vâng giữ.

Kinh chép: bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni., cho đến phẩm Thất Hạnh.

Giải thích: Quyển đầu và quyển cuối, đầu tiên chia làm ba đoạn, đây là phần lưu thông thứ ba, ý văn này nói khi một Đức Thích-ca hành tác ý thì các Đức Thích-ca khác cũng như vậy , nên biết từ Ma-hê-Thủla, v.v… là nói Mười thế giới hải, v.v… như quyển đầu nói, Tâm Tạng, v.v… là truyện chép Tâm Tạng tức là Ba Hiền. Địa Tạng tức là địa vị Mười thánh. Giới Tạng là mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh. Vô lượng hạnh nguyện tạng là Ba Hiền. Mười Thánh đã có hạnh nguyện ở trên. Nhân là ba kiếp, quả vv…là bốn trí là Phật tánh thường trụ thanh tịnh pháp giới. Từ đây trở xuống là tổng hết,lời văn rất dễ hiểu.

Kinh chép: Người nhẫn trí tuệ mạnh mẽ, cho đến mau được thành Phật đạo.

Kinh Phạm Võng cổ Tích Ký quyển hạ. (hết).

 

 

Pages: 1 2