THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH SỚ

Hán dịch: Đời Đường, Sa-môn Khuy Cơ, chùa Đại Từ ân.

PHẨM 1: TỰA

Phần I

Phàm thật tế rỗng rang, mở then huyền nơi bất nhị, cõi quyền khai đạo, diễn diệu pháp nơi vô tam. Hoặc hiển bày giáo rộng lớn, ngưỡng tạ sự nghiệp Đấng Chí Tôn, hoặc thầm khai lý sâu mầu, cúi khen sự nối dòng của chư Bồ-tát; tất cả đều muốn dùng mưa tuệ để dập tắt lửa khổ đau, dùng bến từ để vớt người chìm đắm, vì thế nêu chỉ chín hữu mà hội về mười không, nêu tám giải mà bày bảy giác. Cùng tột thay! Lớn lao thay! Thật khó có thể đặt tên. Nay kinh này là thái hư bao trùm các yếu chỉ, là trời rộng thâu tóm các giáo ngôn. Lý tận cùng chân tục, dấu vết vượt ngoài tâm ngôn; thần cơ u vi thật khó lường, đức độ thuần trong thật khó biết. Ấn ngón chân biến thành trăm ức, dùng bàn tay chuyển vận đại thiên; hợp các bảo cái bao trùm vạn tượng, hiển thế gian đều là hư vọng, trượng thất có tám việc thù thắng, chiếu chân trường vĩnh viễn an tịnh. Nhét núi Diệu cao vào hạt cải, cảnh lớn nhỏ vẫn không tăng, rót hết nước biển lớn vào dấu chân trâu, sự đan dệt rộng hẹp vẫn chẳng đổi. Kinh này là cái khóa bí mật để mở rộng huyền môn, là vùng đất đạo để dời vườn giác, là xe trâu để ra khỏi ngôi nhà mục nát, là xe voi để vượt khỏi dòng sông. Vì thế ngọc điệp (kinh điển) rực rỡ ở phương Tây, Kim tứ (tượng Phật) chói sáng nơi Đông độ. Chỉ từ một bản chánh văn nhưng trải qua sáu người dịch. Do Hoa Phạm cách xa, âm vận khác biệt, cho nên hoặc là phảng phất theo văn, dẫn đến sự lầm lẫn huyền chỉ. Do đó Đại sư như vầng trăng chói sáng giữa trời sao, là tấm gương viên giáo rực rỡ trên đài tình. Nối lại khung đã đứt mà giúp đỡ hậu sinh, vá tấm lưới đã hư mà chấn chỉnh quy tắc đời trước, phân biệt đúng sai, lựa chọn từ nghĩa, mà dịch kinh này hoặc giả là để tuân theo phép tắc chân chính.

Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, phẩm Tự Đệ Nhất. Phát lời vàng từ miệng vàng, viết chữ ngọc nơi bút ngọc, cảnh tỉnh người học mà diễn xướng lên, cho nên gọi là “thuyết”. Đạo thì dung thông chân tể, nghiệp thì thơm ngát loài quần sinh. Dấu áo tía để ẩn oai nghi, xướng huyền nho để bày diệu chỉ. Hoặc quyền hoặc thật, hiện có bệnh để diễn đại Phương đẳng. Thoạt ẩn thoạt hiển, nhờ hỏi đáp để sáng tỏ thể mệnh. Mười vị đại Thanh văn đều nói là bị khuất phục, một vị Quán Đảnh đứng đầu, thừa oai Phật mà im lặng. Phạm hạnh đã trong sạch, thần đức đã uy nghiêm, danh tiếng vang xa, nên gọi là Vô Cấu Xưng. Kinh nghĩa là xuyên giữ là thâu nhiếp, xuyên giữ hai lý, không để thiếu sót, thu nhiếp bốn loài sinh, không để bị đọa lạc. Tự tức là nguyên do, là bắt đầu, tức trình bày nguyên do khởi giáo, là bắt đầu của việc phát dương diệu pháp. Phẩm tức là loại là biệt. Phân biệt huyền chỉ, xuyên suốt các giáo sâu xa; phân biệt theo từng loại để hiểu rõ nên gọi là phẩm.

Kinh này gồm sáu quyển, mười bốn phẩm. Nay đặt ở đầu cho nên gọi là thứ nhất.

*****

Kinh: Như thị ngã văn (Chính tôi được nghe như thế)

Tán: Nay giải thích kinh này, tổng quát có thể chia làm sáu môn:

  1. Một là, Nhân phát khởi kinh.
  2. Hai là, Tôn chỉ của kinh.
  3. Ba là, Thuật thể tánh của kinh.
  4. Bốn là, Thuật về sự bất đồng của kinh.
  5. Năm là, Chỗ y cứ để phân khoa các phẩm.
  6. Sáu là, Giải thích văn nghĩa.

Một, Nhân phát khởi kinh: Nêu tóm lược năm loại:

  1. Khiến chúng sinh khởi tâm ưa thích và nhàm chán.
  2. Khiến Nhị thừa có tâm lấy bỏ.
  3. Hiển thị pháp tu tập trong ngoài của Bồ-tát.
  4. Hiển bày oai đức lớn của Như Lai.
  5. Chúng đương thời căn cơ thuần thục được nghe pháp.

1. Khiến chúng sinh khởi tâm thích và chán:

Từ xưa đến nay, suy tìm kỹ thì chư Phật thị hiện lợi ích chúng sinh không ngoài hai việc, đó là hiện thân và thuyết pháp. Vả lại nếu luận về thân của chư Phật, thì xưa nay không hai, cho nên kinh Niết-bàn ghi: “Nếu có thể cho rằng Tam bảo thường trụ đồng với chân đế, đó tức là nguyện tối thắng của chư Phật”; tùy theo sự thấy nghe của chúng sinh mà phân biệt thành ba thân:

  1. Pháp thân, tức chân lý lìa vọng.
  2. báo thân, tức thật trí hợp với chân.
  3. Hóa thân tức là quyền thân ứng vật.

Kinh Phật Địa ghi: “Tự tánh pháp thân, thọ dụng thân sai biệt chuyển, đều do hư vọng che lấp; do việc tục ngăn che mà sự ngu si sinh. Nay nhờ vào pháp chân thật để tu tập, chánh lý hiển lộ mà báo thân khởi”. Phàm lý là gốc để giác ngộ chánh đạo, do hiển được vị mà gọi là pháp thân, báo là khởi đầu của Thánh đức, do tu viên mãn mà gọi là báo thân. Nhưng diệu lý thì hàng trung nhân không thể liễu ngộ. (Diệu lý tức là pháp thân Phật tánh, hàng trung nhân tức Bồ-tát Thập địa. Bồtát Thập địa chưa liễu ngộ được pháp thân Phật tánh).

Kinh Bồ-tát địa ghi: “Bồ-tát Địa thứ mười, hiện quán cảnh tượng như người mắt sáng nhìn hình ảnh qua lớp vỏ lúa mỏng, các luận cũng nói như thế. Pháp thân chư Phật chỉ có Phật với Phật mới biết được. Hàng trung căn không thể biết, thì hàng hạ căn chẳng thể biết được). Thượng trí thì hàng hạ ngu cũng chẳng thể biết (Thượng trí tức báo thân Phật trí, Hạ ngu tức Nhị thừa và phàm phu. Nhị thừa phàm phu chưa thể biết chân trí của Phật.

Kinh Pháp Hoa ghi: “Giả sử tất cả chúng sinh trong cõi thế gian này đều như ngài Xá-lợi-phất, cùng dùng trí tuệ tư duy tính lường, thì cũng không thể biết được trí Phật”. Hàng hạ ngu không biết, hàng trung nhân chẳng liễu). Vì thế ứng theo vật khí mà hóa hình (Phân thân thành trăm ức, hóa độ Nhị thừa phàm phu, đó là diệu dụng của hóa thân). Tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hiện chứng giác ngộ (Hiện thân Đại sĩ, hóa độ Bồ-tát Thập địa, đó là diệu dụng của tha thọ dụng thân), cũng như ánh sáng nơi hư không thì chiếu diệu đến vô cùng; ánh sáng của hạt châu trong thì chiếu soi có hạn. Về thân Phật quyền và thật thì có thể theo ví dụ trên mà hiểu được. Vì thế trong đoạn kinh sau ghi: “Toàn chúng hội chiêm ngưỡng Đức Đại Mâu-ni, chẳng có ai không phát sinh tín tâm thanh tịnh. Mỗi mỗi đều thấy Thế Tôn hiện trước mặt mình, đó là tướng bất cộng của Như Lai”.

Thân đã không khác, nhưng tùy nghi có ba; pháp cũng không có sai biệt, ứng theo cơ mà thành bốn. Giống như hạt châu như ý tùy theo người mong cầu mà mưa xuống báu vật; như trống trời, tùy theo chư Thiên nghĩ đến mà tự phát ra âm thanh. Pháp có bốn là giáo, lý, hành, quả. Pháp tuy có muôn ngàn sai biệt, không vượt ra ngoài bốn loại này. Trình bày những điều ý đã hiểu gọi là giáo, điều được giáo diễn bày là lý, theo lý tu tập là hành, chứng đắc do tu tập gọi là quả. Nhưng bốn pháp này mỗi mỗi tự nó không có hai, tùy theo duyên mà có khác, đồng thời cũng chung cho cả ba thừa, nên đoạn kinh sau có nói: “Phật dùng một loại âm thanh để nói pháp, nhưng chúng sinh tùy theo loại mà hiểu được, đều được thọ dụng, đạt được lợi ích, đây là pháp bất cộng của Như Lai”. Đó là từ một giáo, tùy duyên có ba, cũng là ý nghĩa “một trận mưa mà thấm nhuần tất cả” nói trong kinh Pháp Hoa. Ba thừa là ba loại cỏ, hai bậc Thánh là hai loại cây, sự sinh trưởng khác nhau, đó chính là giáo đồng mà căn cơ khác, thành ra có pháp ba thừa.

Kinh này lại nói: “Phật dùng một loại âm thanh để nói pháp, hoặc có người sợ hãi, hoặc có người vui mừng, hoặc sinh tâm nhàm chán xa lìa, hoặc đoạn nghi, đây là tướng bất cộng của Như Lai”.

Đây là từ lý chỉ một, theo duyên thành ba, như ý nghĩ “Tánh của sông chẳng khác mà thỏ, voi, ngựa qua sông lại khác” trong luận Bảo Tánh. Đây là lý thì đồng mà chứng ngộ có sai biệt, thành ra nghĩa ba thừa. Trong kinh Pháp Hoa nói về y phục, bàn ghế chỉ có một cửa, nên xuất xứ tuy khác, nhưng nhân lìa khổ nạn và lấy xe trâu đều giống nhau.

Kinh Thắng Man ghi: “Chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, Ba-lađề-mộc-xoa, Tỳ-ni, xuất gia, thọ giới cụ túc, sáu pháp này là Đại thừa, nên nói tạng là kinh và luận”. Khéo ngăn che gọi là trụ, trừ chướng nạn là diệt, bản lược của giới bản gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa, bản đầy đủ của luật gọi là Tỳ-ni. Đây là pháp Tam tạng được học. Người học gọi là xuất gia, thọ cụ túc gọi là Nhị thừa, nhân pháp hợp chung thành sáu nơi. Đã nói: “đều là pháp Đại thừa cho nên thuyết”, vì thế biết pháp sở học của Tiểu thừa là nhân của Đại thừa, đây là hạnh đồng mà tu tập khác nhau. Đốn tiệm sai biệt nên có ba thừa. Kinh Pháp Hoa ghi: “Giữa đường lập hóa thành” là nơi để nghỉ ngơi, cho nên gọi là hai, đầu tiên dùng ba xe dụ dẫn, cuối cùng đều ban cho xe trâu, đây là quả đồng mà lập phương tiện có khác, thật giả khác nhau, cho nên có quả ba thừa. Vì thế nên biết rằng pháp tánh được chỉ bày thì không sai biệt, nhưng tùy theo duyên bên ngoài mà phân chia thành nhiều loại, do đây mà kinh phát khởi lược có năm nhân; mà đâu biết làm cho chúng sinh khởi tâm thích hay chán.

Thích, chán có hai: Một là, bên trong thích và chán; hai là, bên ngoài thích và chán.

Bên trong thích, chán: chán nghĩa là nhàm chán thân sinh tử, thích tức ưa thích được thân Phật. Phẩm Phương Tiện ghi: “Lúc bấy giờ, Cư sĩ Vô Cấu Xưng dùng đại phương tiện hiện thân có bệnh, vì ông có bệnh, cho nên vua, quan, trưởng giả, cư sĩ và vô số ngàn người đều đến thăm bệnh. Lúc ấy, Vô Cấu Xưng bèn nói rộng giáo pháp. Ông nói rằng: “Này các nhân giả! Thân này do bốn đại chủng tạo thành, vô thường, không khỏe mạnh, không bền chắc, không có sức, yếu đuối, cho nên chóng sinh bệnh tật. Không thể tin tưởng nó được, thường bị khổ não hại, là vật chứa đựng các khổ, nhiều hoạn lụy, là pháp biến hoại. Này các nhân giả! Thân như thế, nên xa lìa, nhàm chán mà sinh tâm ham thích Như Lai. Thân Như Lai là do vô lượng pháp thiện tụ họp mà thành, do tu vô lượng phước đức thù thắng mà sinh, từ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến mà sinh, cho đến nói rộng khắp; Này các nhân giả! Thân Như Lai có công đức như thế, các ông nên phát tâm cầu chứng đắc. Các ông muốn được thân Như Lai, thì nên dứt trừ tất cả bệnh cho loài hữu tình, khiến họ phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nhàm chán, xa lìa thân bệnh khổ, diệt gốc khổ làm cho họ ưa thích thân Phật, tu tập nhân Phật.

“Cho nên biết thị hiện bệnh hiển bày bất tư nghị là muốn khiến cho chúng sinh trong khởi tâm thích và chán. Vả lại khi việc đối luận đã xong, sắp trở về Am viên, thì đại chúng ở bên Phật, toàn thân đều ánh hiện sắc vàng, biết là thích và chán. Sau ắt được quả tức là ngoài tâm thích và chán. Chán nghĩa là xa lìa uế độ, thích tức là ưa thích thanh tịnh độ. Kinh này về tịnh độ thì có hai:

  1. Bậc Thánh cõi này hiện.
  2. Bậc Thánh cõi kia hiện.
  3. Uế độ cũng có hai:
  4. Chúng sinh hiện.
  5. Thích-ca hiện.

Suy xét trên dưới mà luận về thỉ chung của kinh thì cõi nước sở y có hai uế hai tịnh. Đầu tiên Phật ở tại vườn Am-la trong thành Quảng Nghiêm, tuyên thuyết diệu pháp cho đại chúng đồng nghe. Bảo Tích dâng lọng báu, tán thán Phật xin giải nghi, Phật hiện thần thông hợp các lọng báu để trả lời, chưa nói về nghĩa pháp là cõi nước thường trụ, nhân 71 đó mà nói Bảo Tích: “Nếu muốn tinh cần tu tập hạnh trang nghiêm cõi Phật thì trước nên tịnh tâm mình”.

Thu Tử nương vào oai lực của Phật mà nghĩ rằng: “Nếu tâm Bồtát tịnh thì cõi Phật tịnh, vậy Đức Thế Tôn ta khi còn Bồ-tát, tâm ngài chẳng thanh tịnh sao, mà cõi nước lại tạp uế như thế?”.

Đức Phật dùng dụ khó, cho nên ngài Thu Tử chưa hiểu, đến khi Trì Kế nói rộng thì mới ngộ được. Thế Tôn giải nghi cho đại chúng hoặc là dùng ngón chân ấn xuống đất, đại thiên biến thành cõi có vật báu trang nghiêm, ngài Thu Tử mới khen là việc chưa từng có. Bảo Tánh và năm trăm đồng tử đã chứng Vô sinh, tám vạn bốn ngàn chúng sinh nghe được liền sinh giác tuệ, hóa duyên đã xong, chúng hội đã kham nhận lãnh, Phật liền thu nhiếp thần thông thì thế giới trở lại như cũ. Sau đó Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Cát Tường đến thăm bệnh ngài Vô Cấu Xưng, khi đối đáp xong thì trở về Am viên.

Phẩm Bồ-tát hạnh biểu thị nơi kia thị hiện việc khó bàn, mà Am viên biến thành rộng rãi, đến khi thuyết kinh chưa từng không có lời văn biến uế độ. Hiển bày việc nhàm chán uế độ mà ưa thích tịnh độ, cuối cùng ắt phải nên trang nghiêm cõi tịnh. Một và ba là hiện uế độ, hai và bốn là biến thành tịnh độ. Đầu tiên Thế Tôn tự biến ra cõi tịnh, sau đó ngài Tịnh Danh và Diệu Đức lại ngăn che cõi uế. Cho nên nói tịnh độ do bậc Thánh ở cõi này biến hiện, vì Phật và Tịnh Danh đều là bậc Thánh ở phương này.

Bậc Thánh ở cõi kia hóa hiện; bậc Thánh ở cõi kia gồm có hai:

1. Trong phẩm Hương Đài, khi ngài Thu Tử nghĩ đến bữa ăn, thì ngài Vô Cấu Xưng hiện thần thông. Ở phương trên, cách đây hơn ba mươi hai ngàn khắc-già-sa cõi Phật, có một thế giới tên là Diệu Hương, Đức Phật trụ ở cõi này hiệu là Tối Thượng Hương Đài. Tất cả vật ở thế giới này đều do mùi hương tạo thành, không có hàng Nhị thừa, chỉ có các bậc Đại Bồ-tát thanh tịnh. Bấy giờ, các đại chúng ở cõi này đều thấy được các việc ở cõi Phật kia, liền có trăm ngàn chúng sinh phát tâm Bồ-đề, mười ngàn Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn.

2. Phẩm Quán Như Lai thì nói hàng người căn cơ thấp không thể biết được bậc ở giai vị cao, ngài Thu Tử sinh nghi rằng Cư sĩ Vô Cấu Xưng này từ đâu sinh đến đây? Đức Phật liền nói: “Ở cõi Diệu Hỷ có Đức Như Lai Vô Động, ông Duy-ma vì độ chúng sinh ở cõi này mà đến đây”. Đại chúng tâm sinh khát ngưỡng muốn thấy cõi Phật Diệu Hỷ có các công đức trang nghiêm thanh tịnh kia và các vị Bồ-tát ở đó. Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng đoạn lấy cõi kia, nhanh như cắt, đặt vào bàn tay phải, nhẹ nhàng như cầm tràng hoa, đưa vào thế giới này chỉ rõ cho đại chúng. Tuy hai cõi xen nhau cùng một nơi mà mỗi mỗi đều thấy quốc độ của mình vẫn không khác. Đức Phật bảo đại chúng rằng: “Muốn được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh như thế, thì các ông cần phải tu hành theo những pháp mà Như Lai Vô Động đã hành.” Lúc bấy giờ, có tám mươi bốn na-do-tha Trời, người phát tâm Vô thượng Đẳng chánh giác, nguyện sinh sang cõi kia. Thế Tôn liền thọ ký cho tất cả sẽ được sinh.

Hai cõi này đều là do bậc Thánh ở cõi kia biến hóa ra, vì Phật Hương Đài và Vô Động đều là bậc Thánh ở cõi kia. Khiến cho chúng sinh khởi tâm nhàm chán uế độ chẳng tạo nhân ác, khiến chúng sinh khởi tâm ưa thích tịnh độ tu trì tịnh nghiệp, do đó mà biến hóa cõi nước hiện bất tư nghị. Muốn cho chúng sinh khởi sự nhàm chán và ưa thích bên ngoài, tức chúng sinh phàm phu nghe pháp tu học ắt lấy sự ham thích và chán ghét làm căn bản.

Trong kinh, việc bậc Thánh ở cõi này biến hiện cõi tịnh thì gồm có hai:

  1. Đức Thích-ca tự biến.
  2. Ngài Diệu Đức, Tịnh Danh muốn đến tham dự việc biến hóa.

– Cõi tịnh được biến hóa ra cũng gồm có hai:

  1. Xa thì thấy cõi Diệu Hương.
  2. Gần thì thấy cõi Diệu Hỷ.
  3. Uế độ cũng có hai:
  4. Do chúng sinh biến hiện.
  5. Do Đức Thích-ca biến hiện.

Phẩm Tựa ghi: Bảo Xá-lợi-phất rằng: Quốc độ của Thế Tôn ta thường tịnh như thế, nhưng vì muốn thành thục cho loài hữu tình thấp kém, cho nên mới thị hiện cõi nước nhơ uế có vô lượng điều xấu ác vậy. Ví như chư Thiên cõi trời thứ ba mươi ba cùng có một loại bát ăn cơm, nhưng tùy theo phước lực chiêu cảm, mà màu cơm khác nhau. Này Xálợi-phất! Vô lượng hữu tình cùng sinh vào một cõi Phật, nhưng tùy theo tâm tịnh uế mà chỗ thấy khác nhau. Vì thế cõi tịnh vốn là cõi của bậc Thánh, do thần lực mà khiến cho các loài hữu tình thấp kém, cũng biến thành tịnh, uế vốn là cõi uế của loài hữu tình thấp kém, bậc Thánh tùy thuận theo đó mà biến thành uế. Các thân độ này gồm có hữu lậu và vô lậu, hoặc chân thật hoặc tương tự, theo quả theo nhân, y phàm y Thánh, tự thức dị thức, tịnh uế được biến hiện theo như luận Duy Thức thì cùng ứng theo sự phân biệt.

– Bậc Thánh cõi này biến tịnh độ, lược có hai duyên:

  1. Tức nghi cho Tiểu thừa.
  2. Cảnh tỉnh quần mê.

Bậc Thánh cõi kia biến tịnh, đều là tất cả Như Lai biến uế độ, nhưng chỉ vì hàng Nhị thừa phàm phu, chẳng phải vì hàng Bồ-tát.

Hỏi: Vì sao ngài Thu Tử sinh nghi, Như Lai tự biến tịnh độ; Tịnh Danh sắp đến, Diệu Đức dự biến đạo tràng?

Đáp: Giải nghi phá bệnh nên Như Lai biến cõi tịnh, cảnh giác quần mê, nên Diệu Đức dự biến trang nghiêm đạo tràng.

Hỏi: Cõi Diệu Hương thanh tịnh, vì sao ngài Tịnh Danh không chuyển đến, mà chuyển cõi Diệu Hỷ đến?

Đáp: Diệu Hương đang dùng cơm chỉ khiến cho thấy mà không mang về, cõi Diệu Hỷ hiện thần thông, nên cũng khiến cho thấy và mang đến cõi Ta-bà. Thần thông đều có lợi ích cứu độ, không chỉ ở một phương nào, hà tất phải mang đến đây, hà tất phải đều thấy hết.

Hỏi: Phật vốn tế độ quần sinh, lợi lạc có chán và thích, vì sao không cho thấy cõi tịnh được lâu hơn, mà chỉ tạm ngăn cách cõi uế.

Đáp: Cơ đã thành thục, duyên đã đến thì nên để cho tạm thấy cõi tịnh, nếu duyên chưa đến cơ chưa thành thục thì chưa ngăn cách được uế độ.

2. Khiến cho hàng Nhị thừa có tâm lấy bỏ (thủ xả):

Thủ xả có hai là nội thủ xả và ngoại thủ xả. Nội thủ xả: Xả tức là xả bỏ tâm Nhị thừa, thủ tức là giữ lấy trí Đại thừa. Chướng có hai loại là phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng thì chướng ngại Niết-bàn, sở tri chướng thì chướng ngại Bồ-đề. Thanh văn thì chỉ đoạn được phiền não chướng đã vượt sinh tử mà chứng Niết-bàn, chẳng thể đoạn sở tri chướng, nên chẳng được Bồ-đề, chẳng đạt các pháp, cho nên tâm phân biệt của Nhị thừa vẫn còn hiện hữu, do pháp thấp kém này mà hàng Thanh văn không thể thành tựu trí vô phân biệt, còn Bồ-tát thành tựu được là do pháp thù thắng này. Lý lẽ thủ xả, nghĩa đã rõ ràng vậy. Do đó Thu Tử ngồi im, thân tâm vắng lặng không lay động thì bảo hiện oai nghi mà thường trụ nơi định tịch diệt.

Ngài Mục-liên thuyết pháp lợi lạc các cư sĩ thì hiển thị pháp lý ngôn thuyết, mới thật là chân thuyết pháp. Ẩm Quang khất thực, đến nhà nghèo bỏ nhà giàu, thì nói tâm từ bi bình đẳng để phá chấp trước kia. Thiện Hiện ôm bát, thì nói tu hành nên nhập vào lý mới được nhận thức ăn. Mãn từ giảng thuyết giáo hóa hàng tân học Tỳ-kheo, thì bảo nên trao cho họ đại pháp, chớ dùng pháp Thanh văn. Tiễn Thế theo

Phật, quyết trạch khổ không, vì sao lại dùng tâm phân biệt mà thuyết pháp thật tướng. Thiên nhãn của Vô Diệt thấy khắp đại thiên, hạnh hữu vô đều nêu lên, ngay nơi định mà thấy thì mới gọi là đạt. Cận Chấp nêu lên tội của hai Tỳ-kheo, thì bị chê trách là chớ làm cho tâm họ ưu não. Tâm nhơ tức tội sinh, tâm tịnh thì tội cấu diệt. Chấp Nhật khen ngợi đức xuất gia, dụ dẫn các đồng tử kia, thì được dạy là xả bỏ phân biệt mà hành vô vi, đó là lợi ích của xuất gia. Thế Tôn hiện thân có bệnh, Khánh Hỷ nhân đó mà xin sữa, thì bảo là thân Phật vô lậu, khiến xả bỏ kiến giải Nhị thừa.

Trộm xét rằng khi xưa hội ngộ còn khuyên xa lìa tâm phân biệt huống gì hôm nay thị hiện có bệnh mà nói đại Phương đẳng, chẳng tán thán trí Bồ-tát, vì thế trong phẩm Vấn Tật, Bồ-tát Cát Tường sắp đến thăm bệnh, thì Tịnh Danh trước làm ngôi trượng thất trống không tức đã đồng với cõi Phật trong mười phương, cũng hiện cái không phân biệt kia. Trong phẩm Bất Tư Nghị, Thu Tử mong cầu tòa ngồi, thì bị trách mắng và bảo nên vì pháp, sau đó xin tòa của Phật Đăng Vương, để Bồtát và Thanh văn ngồi, nói rộng về bất tư nghị chẳng phải là cảnh giới mà hàng Nhị thừa có thể luận bàn đến. Ẩm Quang nêu lên người mù bẩm sinh để dụ cho mình liễu ngộ được pháp khó nghĩ bàn này. Phẩm Quán Hữu Tình, Thiên nữ rải hoa, thì hoa dính trên thân Thanh văn. Ngài Thu Tử cho rằng hoa không như pháp nên dùng hết thần lực để phủi, Thiên nữ liền nói: Hoa này như pháp, mà Tôn giả tự chẳng như pháp, hoa không phân biệt mà Tôn giả tự có phân biệt. Trong phẩm Hương Đài, ngài Thu Tử thấy giờ thọ trai sắp đến, tâm nghĩ đến thức ăn, thì liền xin cơm của cõi Hương đài, khuyên xả bỏ tâm Thanh văn. Cho nên Nhiếp Luận ghi: “Ba loại mài luyện, đoạn trừ bốn xứ, trừ tác ý của Nhị thừa, khiến người có tâm nghi thì dứt nghi.” Hễ có phân biệt liền mê cảnh, nếu dứt trừ phân biệt, thì sẽ thầm hợp với chánh lý. Nếu có phân biệt tức chưa khế diệu chỉ của chân tông, chẳng thể chứng Bồđề. Nếu vô phân biệt thì hội được chỗ cùng cực của huyền môn, mới thành đại giác. Cho nên biết thị hiện bệnh, hiện bất tư nghị là muốn làm cho hàng Nhị thừa khởi bên trong có chán thích, thân khổ lụy của Thanh văn tự tại diệt tận, cho nên bên trong có sự thích chán, chỉ nói trí tâm. Tâm phân biệt diệt thì cảnh vọng liền không, chánh trí đã sinh thì lý liền hiện.

Hỏi: Đại chúng theo đến rất nhiều, tại sao chỉ có một mình Thu Tử bị khuất phục bởi ngôn từ và nghĩa lý?

Đáp: Chúng Thanh văn tuy nhiều, nhưng chỉ có ngài Thu Tử là bậc có trí tuệ cao, nêu lên đầu tiên để đối đáp, như thế thì biết các vị khác cũng phải khuất phục.

Bên ngoài thích chán, chán tức là nhàm chán muốn xa lìa uế độ, thích tức ưa thích cõi thanh tịnh. cõi Phật có ba:

  1. Pháp tánh độ là nơi cư trụ của pháp thân, tức lý chân như.
  2. Thọ dụng độ là nơi cư trụ của báo thân được các vật báu trang nghiêm.
  3. Biến hóa độ, nơi cư trụ của hóa thân, uế tịnh không nhất định.

Văn kinh sau sẽ phân biệt rõ. Lại Diệu Đức và Tịnh Danh, đều biến Am viên thành tịnh, là để cảnh tỉnh chung cho chúng nghe pháp lúc bấy giờ, đâu chỉ giáo hóa riêng hàng Thanh văn, chỉ có trì kế đối đáp? Thế Tôn ấn ngón chân cõi đại thiên biến thành tịnh, bỗng chốc lại trở về như cũ, đó chỉ là hóa độ riêng cho Thanh văn, vì muốn dứt trừ tâm nghi cho ngài Thu Tử vậy. Tuy đại chúng cùng thấy, không phải chỉ có Thanh văn, nhưng bây giờ chỉ có một mình Thu Tử sinh nghi, cho nên các cõi này đều gọi là hiện, tức là đầu tiên hiện cõi tịnh, là vì khiến cho hàng Nhị thừa có tâm thích và chán bên ngoài, còn cõi hiện về sau này đều là vì tất cả. Sự việc cũng như trên, không cần phải luận đủ.

Vì tâm thanh tịnh cho nên cõi Phật cũng tịnh, tâm cấu uế thì cõi Phật cũng cấu uế, vì thế từ trên đến đây nêu lên thích chán, lấy bỏ đều là nói trong và ngoài.

3. Vì để hiển thị trong ngoài tu tập của Bồ-tát:

Pháp tu riêng của Bồ-tát tuy khó nêu lên nhưng tổng quát mà lược phân thì không ngoài hai loại: Nội tu và ngoại tu.

Nội tu tức trong thân mình để thành tựu công đức tự lợi, đó là đại trí, là thượng thủ.

Ngoại tu, tức ngoài tu hạnh lợi tha để thành tựu công đức lợi tha, tức đại bi, cũng làm thượng thủ.

Luận Thành Duy Thức ghi: “Tuy Bồ-tát tu tập tùy thuận theo ý thích của chúng sinh, nhưng cũng chung cho tự lợi và lợi tha; cứu độ chúng sinh tức vì tự lợi; tự mình tiến tu, là vì chúng sinh, nhưng tùy theo chỗ thù thắng mà hiển sáu pháp Ba-la-mật, các nghiệp tướng hảo, Bồđề phần… là hạnh tự lợi; sáu thần thông, bốn vô lượng, bốn nhiếp… là hạnh lợi tha.

Hạnh tự lợi thì phẩm Tựa kinh này trong đoạn tán thán công đức của Bồ-tát có ghi: “Thường được oai đức của chư Phật gia bị, khéo léo ủng hộ thành trì chánh pháp, thâu nhiếp chánh pháp, nối tiếp làm hưng thạnh dòng giống Tam bảo chẳng cho đoạn tuyệt, cho đến giảng rộng… các việc làm, cũng chẳng mất. Hơn nữa Bảo Tánh hỏi về tướng tịnh độ”. Vì sao gọi là trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh? Thế Tôn đáp: ‘Tu hồi hướng độ, là tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát được Bồ-đề, thì cõi nước đầy đủ các công đức trang nghiêm’. Hơn nữa phẩm Bồ-đề phần nói: “Tuy các Bồ-tát thực hành năm vô gián mà không có tâm sân hận, buồn bã, não hại.” Bồ-tát Hiện Nhất Thiết Sắc Thân hỏi ngài Vô Cấu Xưng về cha mẹ, ngài Vô Cấu Xưng đáp: “Tuệ độ là mẹ Bồ-tát, phương tiện khéo léo là cha, thế gian là chân Đạo sư.” Tất cả do đây mà sinh. Tuệ độ thứ sáu (Tuệ ba-ba-mật) là đức tự lợi, phương tiện thứ bảy, là đức lợi tha. Trong phẩm Bồ-tát Hạnh nói về chín trăm vạn Bồ-tát phương trên bạch Đức Thích-ca rằng: “Cầu xin Thế Tôn ban cho một ít giáo pháp, để đem trở về bản độ”. Đức Thế Tôn nói: “Có một pháp môn giải thoát của các Bồ-tát tên là hữu tận và vô tận, các ông nên tu học, hữu tận tức là pháp hữu vi sinh diệt, vô tận là pháp vô vi không sinh diệt”.

Như thế tất cả công đức tự lợi đều là pháp mà hàng Bồ-tát, bên trong cần phải tu tập, tất cả đều lấy trí làm chủ. Sợ văn dài dòng cho nên trong phần nói về hạnh tự lợi chỉ nêu lên như thế, những nghĩa khác căn cứ theo đây cũng có thể hiểu được. Về hạnh lợi tha, phần tán thán công đức trong phẩm Tựa có nói rằng: “Dùng tiếng đại sư tử hống diễn thuyết, âm thanh vang xa cùng khắp mười phương, cho đến diễn thuyết khiến cho người thấy nghe đều được lợi ích. Sau đó Trưởng giả Bảo Tánh hỏi tướng của cõi Phật tịnh và việc Bồ-tát tu tướng cõi Phật tịnh.” Đức Phật dạy: “Các hữu tình độ là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, tùy theo sự tăng trưởng lợi ich của hữu tình mà nhiếp thọ cõi Phật nghiêm tịnh.” Trong phẩm Phương Tiện, tán thán Vô Cấu Xưng rằng: “Khéo léo nơi trí độ, thông đạt nơi phương tiện đại nguyện thành tựu viên mãn, thấu suốt được tâm ưa thích và sở hành của hữu tình.”

Phẩm Bồ-đề Phần ghi: “Tuy Bồ-tát thực hành nơi cõi của Diêmma vương mà lại gom tập tất cả phước tuệ rộng lớn làm tư lương.” Bồtát Phổ Hiện Nhất Thiết Sắc Thân hỏi ngài Vô Cấu Xưng về cha mẹ, thì ngài Vô Cấu Xưng nói: “Tuy biết cõi Phật và chúng sinh không, nhưng thường tu tịnh độ, làm lợi ích chúng sinh không biếng trễ”.

Phẩm Bồ-tát Hạnh, Bồ-tát ở phương trên cầu thỉnh Đức Thích-ca ban cho một ít pháp để đem về bản quốc. Thế Tôn dạy rằng: “Vì sao gọi là bất tận hữu vi? Nghĩa là Bồ-tát không bỏ đại từ chẳng lìa đại bi. Thế nào là bất tận vô vi?”. Tuy quán vô ngã nhưng không bỏ đại bi đối với hữu tình, đó gọi là Bồ-tát không trụ vô vi. Trên là nói về hạnh lợi tha, sợ văn dài dòng nên chỉ nêu lên như thế mà thôi, các ý còn lại theo đó có thể hiểu. Như thế tất cả các công đức lợi tha đều là việc mà Bồ-tát, bên ngoài cần phải tu tập. Như thế phàm Thánh, luận chung đến và chưa đến, gồm thuyết đức và tướng, tất cả không ra ngoài bảy địa:

  1. Chủng tánh địa.
  2. Thắng giải hạnh địa.
  3. Tịnh thắng ý lạc địa.
  4. Hành chánh hạnh địa.
  5. Quyết định địa.
  6. Quyết định hành địa.
  7. Đáo cứu cánh địa.

Trong bảy địa này thì địa đầu tiên chỉ có chủng tánh mà chưa tu, kế đến tuy có tu mà chưa chứng, năm địa sau tuy đều có chứng đắc, nhưng địa sau hơn địa trước.

Lại có mười Địa:

  1. Trụ chủng tánh.
  2. Dĩ thư nhập.
  3. Vị tịnh ý lạc, chưa vào sơ địa.
  4. Dĩ tịnh ý lạc, đã vào sơ địa.
  5. Vị thành tựu, chưa đến cứu cánh địa.
  6. Dĩ thành tựu, đã đến cứu cánh địa.
  7. Vị quyết định, bảy địa trước, chưa thành thục.
  8. Dĩ đọa quyết định, trụ địa thứ tám, chín.
  9. Nhất sinh sở hệ, đến cứu cánh vị.
  10. Tối hậu hữu, tức địa thứ mười.

Các việc tu hành của các bậc Bồ-tát này, về riêng có vô biên, nhưng tổng quát không ngoài bốn hạnh: Hạnh Ba-la-mật, hạnh Bồ-tát phần, hạnh các thần thông, hạnh thành thục hữu tình. Sợ văn rườm rà cho nên không nêu lên hết, đến đoạn văn sau, tùy chỗ ứng hợp sẽ giải thích riêng. Đây là pháp trong ngoài nên tu; nhưng hàng Bồ-tát có năm loại sinh:

1. Trừ tai sinh, các Bồ-tát có đại nguyện tự tại với hai loại lực dụng, khi có nạn đói kém nguy ách, thì có thể dùng một ít công sức mà cứu tế cho tất cả chúng sinh, lại sinh vào các loài như cá lớn… Với thân hình to lớn, dùng thịt của thân mình, ban phát cho tất cả những chúng sinh đói khát, hoặc trì thần chú hoặc làm cây thuốc quý, cứu các người bị dịch bệnh. Nếu nước bên cạnh có chiến tranh, thì có đủ thể lực để trừ tai nạn, nếu có hữu tình trái nghịch thì khuyên răn hòa giải, nếu có vua ác bức bách thì sinh vào đó để điều thuận vua, nếu có kẻ tà kiến thì sinh vào cõi trời để dùng phương tiện đoạn trừ. Tất cả những điều trên đều thuộc về trừ tai sinh.

2. Tùy loại sinh, các Bồ-tát dùng đại nguyện tự tại, tùy thuận sinh vào các loài mà đứng đầu trong đó, dùng phương tiện dẫn dắt. Như họ làm việc ác mà mình chẳng làm, họ chẳng làm việc thiện mà mình lại làm, phương tiện khuyên bảo, trừ diệt tội lỗi cho họ.

3. Đại thế sinh, Bồ-tát lúc mới sinh thì thọ mạng hình sắc, tộc tánh đều tự tại và các quả dị thục như giàu có… đều thù thắng nhất trong thế gian.

4. Tăng thượng sinh, các Bồ-tát khi còn ở giai vị Sơ địa thì làm Chuyển luân vương, cai trị Nam Thiệm bộ châu; Địa thứ hai thì làm Kim luân vương làm vua bốn thiên hạ, Địa thứ ba thì làm vua cõi trời Đaolợi, Địa thứ tư thì làm vua trời Dạ-ma; Địa thứ năm làm vua cõi trời Đổsử-đa. Địa thứ sáu thì làm vua cõi trời Lạc biến hóa. Địa thứ bảy thì làm vua cõi trời Tha hóa tự tại. Địa thứ tám thì làm vua cõi trời sơ thiền. Địa thứ chín thì làm vua trời Nhị thiền. Bồ-tát Địa thứ mười thì làm vua trời Đại tự tại, vượt qua trời Sắc cứu cánh làm vua trời Đệ tứ thiền, trong tất cả loại sinh, đây là loại đệ nhất. Không sinh vào Tứ Thiên vương vì cõi này không có vị chủ quản nhất định, không sinh vào trời Đệ tam thiền vì ở cõi này quá vui thú.

5. Tối thắng sinh, nghĩa là Bồ-tát, có tư lương Bồ-đề viên mãn, sinh vào nhà đại quốc sư dòng đại Bà-la-môn, hoặc sinh vào nhà đại quốc vương dòng Sát-đế-lợi, hay hiện đẳng giác làm những Phật sự, như kinh Bồ-tát Địa, quyển bốn mươi tám đã phân biệt giải nói đầy đủ.

Theo kinh Vô Cấu Xưng thì năm loại sinh này, vì tài bảo vô lượng, cứu vớt kẻ bần cùng nên được gọi là Trừ tai sinh; nếu ở trong hàng trưởng giả thì làm bậc tôn quý nhất trong hàng trưởng giả, thuyết cho họ nghe pháp thù thắng nên được gọi là Tùy loại sinh; đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu cội công đức, nhân đã lớn thì quả chẳng nhỏ, cho nên gọi là Đại thế sinh. Hiện sinh chẳng thọ quả vị Thập vương cho nên chẳng phải là Tăng thượng sinh, tướng chẳng phải là Bồ-tát thân sau cùng cho nên chẳng phải là Tối hậu sinh. Hoặc chỉ là Tùy loại sinh, nhiếp phục tất cả các loài, làm bậc Thượng thủ, hóa độ hết thảy. Đó đều là do Bồ-tát trong ngoài tu tập tự lợi và lợi tha, có thể hiện các việc này là các Bồ-tát có loại như thế, có sinh như thế để thực hành lợi ích. Cho nên trong phẩm Hương Đài ở kinh này có ghi: “Vô Cấu Xưng nói với các Bồ-tát ở phương trên rằng: Như thế, các vị Đại sĩ, Đức Thích-ca Như Lai có thể vì việc khó mà ẩn giấu công đức vô lượng tôn quý, chẳng kể công lao, phương tiện điều phục những chúng sinh cang cường. Các Bồ-tát sinh vào cõi này, cũng phải kham chịu các khổ nhọc để thành tựu tâm đại bi kiên cố tinh tấn trợ giúp hoằng dương chánh pháp vô thượng của Như Lai, làm lợi ích hữu tình; kham nhận thế giới này, thực hành hạnh Bồ-tát, lợi ích chúng sinh; trụ ở một đời này tu tập đạt được công đức, còn nhiều hơn công đức lợi lạc hành hạnh Bồ-tát trong trăm ngàn kiếp ở tất cả thế giới Diệu Hương, vì ở thế giới này có mười loại tu tập thiện pháp, đó là dùng tuệ thí nhiếp kẻ bần cùng, cho đến dùng bốn nhiếp, nhiếp phục chúng sinh. Tuy biết tất cả Bồ-tát đều tu tập hai hạnh trong ngoài nhưng kinh này chỉ hiển bày việc Bồ-tát ở cõi này tu tập hạnh thù thắng chẳng thể nghĩ bàn, hơn cả những cõi Phật khác.

4. Hiển oai đức to lớn của Như Lai:

Thánh đức của chư Phật tuy có trăm ngàn, nhưng không ngoài hai loại là Đại oai lực và Đại thần đức.

Oai lực có ba: Thánh oai lực, Pháp oai lực và Câu sinh oai lực.

Thánh oai lực nghĩa là khi xưa Phật tu tập định lực, nay cũng nương vào sức định đó mà được định tự tại, rồi tùy theo ý muốn mà thành tựu tất cả các việc. Vì điều nhu, khéo léo tu tâm cho nên gọi là Thánh oai lực.

Pháp oai lực, nghĩa là khi xưa Bồ-tát tu tập sáu độ… là các pháp thù thắng, vì có quả rộng lớn, có lợi lạc rộng lớn, cho nên gọi là pháp oai lực.

Câu sinh oai lực nghĩa là khi xưa, đầu tiên Đức Phật tích tập các phước đức tư lương, chứng đắc pháp câu sinh rất kỳ đặc, nên gọi là Câu sinh oai lực.

Đầu tiên, Thánh oai lực là sáu thần thông:

  1. Thần cảnh trí tác chứng thông.
  2. Tùy niệm túc trụ trí tác chứng thông.
  3. Thiên nhĩ trí tác chứng thông.
  4. Kiến tử sinh trí tác chứng thông.
  5. Tri tâm sai biệt trí tác chứng thông.
  6. Lậu tận trí tác chứng thông.

Thần cảnh thông lại có hai là năng biến và năng hóa, biến nghĩa là thay đổi cái đã có từ trước, tức mười tám thần biến: Chấn động, sáng soi, lưu bố, thị hiện, chuyển biến, đến, đi, co, duỗi, các ảnh tượng nhập thân, đồng loại đều đến, hiển, ẩn, việc làm tự tại, chế phục các thần thông khác, ban cho biện tài, ban cho sự nhớ nghĩ, ban cho sự an lạc, phóng ánh sáng.

Hóa, tức chưa có mà làm cho có, tức là ba loại hóa: Hóa thân, hóa cảnh và hóa ngữ.

Như trên đã nói, hai loại biến hóa là vì hai việc:

  1. Dẫn dắt chúng sinh vào Thánh giáo của Phật.
  2. Ban ân tuệ cho tất cả chúng sinh thọ khổ.

Thần thông của chúng sinh chỉ có đến hai ngàn, thần thông của Độc giác thì đến ba ngàn, thần thông của Như Lai thì trong một niệm có thể biến khắp mười phương. Thần thông của Bồ-tát Sơ địa đạt đến một trăm cõi Phật, cho đến Bồ-tát Địa thứ mười thì tùy theo phẩm loại mà có số lượng nhiều hay ít, như kinh Thập Địa có nêu lên phần hạn đó; đến như Lậu tận thông thì Nhị thừa chỉ có thể đoạn được các lậu chứng hiện mà chẳng đoạn được các lậu thô nặng, chỉ biết được Tự lậu tận mà không biết Tha lậu tận và phương tiện lậu tận, chẳng biết được người khác ở nơi lậu tận có Tăng thượng mạn. Còn Như Lai thì có thể liễu tri được Tự lậu tận, Tha lậu tận và phương tiện lậu tận, cũng có thể biết được người khác có Tăng thượng mạn, còn tự mình thì không nhiễm ô, cũng có thể vì người khác khéo léo phân biệt các Tăng thượng mạn. Đó là luận về ba loại thần biến.

Phần tựa kinh này ghi: “Bảo Tánh và năm trăm trưởng giả hiến cúng lọng báu, Đức Phật hợp làm một, che phủ cả đại thiên”, đây thuộc về chuyển biến thứ năm trong mười tám biến. Chuyển nhiều thành ít, tức là biến thứ tám, duỗi tức khai triển nhỏ thành lớn. Lúc bấy giờ, Thế Tôn biết đại chúng còn do dự, bèn ấn ngón chân lên mặt đất, tức thời cõi tam thiên đại thiên có vô lượng trăm ngàn vật báu trang nghiêm, đây thuộc về chuyển biến thứ năm. Căn cứ theo sự thật thì chỗ thấy của Bồ-tát vốn là cõi tịnh, còn Nhị thừa và phàm phu thấy là cõi uế. Nay vì hàng Nhị thừa… mà biến cõi uế thành cõi tịnh, đây cũng thuộc về chuyển biến thứ năm, trở về lại cõi uế thì cũng như thế. Vì do Phật có thắng giải nên có thể chuyển biến.

Trong phẩm Vấn Tật thì ngài Vô Cấu Xưng dùng đại thần lực, làm cho trượng thất trống không, không có vật gì, chỉ đặt một chiếc giường để nằm hiện bệnh, đây thuộc về biến mười hai là ẩn trong mười tám biến. Ẩn dấu các vật đã có, làm cho không hiện hữu.

Trong phẩm Bất Tư Nghị, khi ngài Thu Tử mong cầu tòa ngồi thì bị trách cứ và bảo nên vì pháp. Sau ngài Vô Cấu Xưng hỏi Bồ-tát Diệu Cát Tường cõi Phật nào có tòa báu, Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời là cách đây ba mươi sáu hằng hà sa cõi Phật về phương Đông, có một cõi Phật tên là Sơn tràng, Đức Phật trụ ở cõi này hiệu là Sơn Đăng Vương, thân Phật cao tám mươi bốn ức du-thiện-na, tòa sư tử của ngài cao sáu mươi tám ức du-thiện-na, thân của Bồ-tát cao bốn mươi hai ức du-thiệnna, tòa cao ba mươi bốn ức du-thiện-na, các tòa này đều rất đẹp đẽ. Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng liền phát khởi đại thần thông, thì liền thấy Đức Phật Sơn Đăng Vương dời ba mươi hai ức tòa sư tử lớn vào trong trượng thất của ông Duy-ma-cật. Việc này thuộc về biến thứ sáu đến đi trong mười tám biến, cũng là biến mười ba việc làm tự tại. Vì nghĩ đến liền đến được tùy ý, tự tại. Ngôi trượng thất của ngài Vô Cấu Xưng bỗng nhiên rộng lớn trang nghiêm, đây là thuộc về biến thứ tám là duỗi, vì biến nhỏ thành lớn, tức có thể dung chứa ba mươi hai ức tòa sư tử mà không ngăn ngại. Thành lớn Quảng Nghiêm cho đến các cung điện của A-tố-lạc… cũng không bị ép chật, vẫn thấy y như cũ, trước sau không khác. Đây là thuộc về biến thứ chín, các hiện tượng nhập vào thân, các hiện tượng chẳng nhỏ, thân cũng chẳng lớn, cho nên thuộc về biến này. Vì lấy thân làm chủ cho nên lấy thân đặt tên cho biến này. Hiện tượng lớn nhập vào trượng thất là thuộc vào loại này. Còn khiến các Bồ-tát mỗi mỗi tự biến thân mình cao bốn mươi hai ức du-thiện-na để lên tòa sư tử là thuộc về biến thứ tám là duỗi, vì làm cho ngắn thành dài. Ngài Vô Cấu Xưng nói với Xá-lợi-phất rằng: “Chư Phật Như Lai trụ nơi giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, có thể đem núi Diệu cao nhét vào hạt cải, rót nước biển vào sợi lông, đặt đại thiên giới vào lòng bàn tay, ba việc này, thì hai việc lớn nhỏ không tăng giảm, tức là các ảnh tượng nhập vào thân, hoặc kéo bảy ngày thành một kiếp, đây là biến thứ tám kéo ra. Tức kéo ngắn thành dài, hoặc rút một kiếp thành bảy ngày, đây là biến thứ bảy, co, rút lại, tức rút dài thành ngắn. Như thế tất cả đều trụ nơi giải thoát chẳng thể nghĩ bàn. Thần lực của Phật nói rộng như dưới đây, đều nằm trong mười tám thần biến cả.

Ba loại hóa nhiếp, phẩm Quán Hữu Tình nói Thiên nữ rải hoa, hoa là cảnh hóa hiện ra trong Thần cảnh trí thông, vì hóa làm sắc hương… Việc hy hữu thứ nhất trong tám hy hữu nói rằng: Ngôi trượng thất này thường có ánh sáng màu vàng ròng chiếu soi, tức là biến thứ mười tám, phóng ánh sáng, cho đến điều hy hữu thứ tám là nói ngôi thất này thường hiện tất cả cõi Phật có công đức trang nghiêm và các cung điện của chư thiên được các loại báu vật trang sức. Đây là thuộc về chuyển biến, hoặc cũng cho là thuộc về biến các ảnh tượng nhập thân.

Trong phẩm Hương Đài thì hóa làm Bồ-tát, lên cõi Diệu Hương xin cơm của Phật và cùng với chín trăm vạn Bồ-tát đến cõi này, đây là biến thứ sáu, đến đi. Toàn thể đại chúng đều thấy các việc Bồ-tát đến cõi kia… đây là biến thứ tư, thị hiện, tức là thị hiện việc ở cõi kia khiến đại chúng cùng thấy. Hóa chín trăm ức tòa ngồi tức là Hóa cảnh, vì vốn đã không mà hiện nay có. Đại chúng ăn cơm mà còn thừa, thuộc về duỗi, tức là làm ít thành nhiều. Như thế nói rộng ra đến việc của Phật Bất Động đều thuộc về mười tám thần biến này. Văn sau cũng nên như thế mà phối hợp riêng. Những điều nói trên đều là oai lực thần thông của bậc Thánh.

Kế đến là nói về oai lực của pháp; do khi xưa Bồ-tát tu tập oai lực của sáu Độ, nên hay hiện bốn tướng là Đoạn chướng, Tư lương thành tựu, Lợi ích tự tha và Đương lai chứng quả.

Do Bố thí mà đoạn trừ tâm bỏn sẻn, có thể lấy đó làm tư lương cho Bồ-đề của chính mình, lại trừ được đói khát dịch bệnh, nghèo khổ cho người khác, mai sau giàu sang, đạt được vị đại lộc tài bảo và đại bằng đảng quyến thuộc, cho đến do Bát-nhã mà đoạn được vô minh làm tư lương cho chính mình; có thể dùng bốn nhiếp để thành tựu cho chúng sinh, như đã giác ngộ, dẫn đến được niềm vui an lạc thanh tịnh, vì tất cả hữu tình mà như lý thuyết pháp, khiến cho được lợi ích an lạc ở hiện đời và mai sau, gồm nhiếp các thiện căn, chân chánh đối với việc làm, vị lai sẽ chứng quả nhị chướng ly hệ. Tùy theo thứ tự phối hợp với bốn tướng, vô minh, keo lận của thế gian đều đoạn trừ, cho đến lộc vị tài bảo, bằng đảng quyến thuộc, nhiếp vào thiện căn, chứng quả ly hệ. Đây là hiển bày oai lực của pháp thiện.

Cuối cùng là, Câu sinh oai lực, nghĩa là tánh có thể nhớ nghĩ đến các việc bản sinh…, tự tại vì các loài hữu tình mà kham nhận những khổ não lớn, hết thọ mạng ở trời Đổ-sử mới nhập diệt. Thọ mạng, hình sắc, danh tiếng đều vang xa. Hạ sinh nhân gian vào thai thì phóng quang chiếu cùng khắp, nhập, trụ, xuất thai thì ba thời đều biết; vừa sinh ra đi bảy bước, không cần nâng đỡ; trời rồng có oai đức, rải hoa cúng dường, tướng hảo trang nghiêm thân, phá diệt các ma oán, các chi đều đầy đủ, có sức mạnh của trời Na-la-diên, tướng hài nhi vẫn tự nhiên thấu đạt được công xảo minh; không thầy chỉ dạy mà chứng được Vô thượng Bồ-đề; Đại phạm Thiên vương tự nhiên khuyến thỉnh; mây chớp kinh hoàng mà nhập định chẳng lay động; loài nhuyễn động đều quy hướng tin kinh Bồ-đề; đã thành Phật rồi thì dưới đến loài bàng sinh cũng đến cúng dường; rồng mây thường dò ngóng, tắm rửa liền tuôn mưa; khi đi chẳng lìa tòa; cành lá của cây đều tỏa bóng che mát thân thể, chưa từng thiếu sót, sáu năm ma tìm cầu chẳng được, những kẻ động kinh tán loạn thấy được liền trở lại tâm bình thường, nghịch thai thì được thuận, người mù thì được sáng, kẻ điếc lại nghe được, ba độc trừ diệt, thường nằm nghiêng bên hông phải, ngồi nơi tòa cỏ, chưa từng động loạn, tuy hiện ngủ nghỉ mà không chuyển mình, gió chẳng lay động y, đi như dáng sư tử, khi đi chân phải bước trước chân trái bước sau, thế như trâu chúa, tùy theo đất cao thấp mà bàn chân đều tiếp xúc đầy đủ, chẳng ngại sỏi đá, cửa thích ứng theo lớn nhỏ, thức ăn đều nghiền nát, khi Niết-bàn, mặt đất chấn động, các vì sao mất ánh sáng, xen nhau rơi rụng, các việc như thế gọi là Câu sinh oai lực, chẳng phải do thần thông oai lực tạo ra.

Kinh này đã trình bày đầy đủ oai lực thần thông năm vị Phật Hương Đàn, Đăng Vương, Vô Động, Dược Vương, Thích-ca, còn những vị khác thì tùy sự ứng hiện mà có, không có một tiêu chuẩn nhất định, chẳng thể nhất nhất phải hiển thị những việc như thế, đến văn sau sẽ nói rộng hơn.

Đại Thánh đức, tức là hiển thị mười hiệu viên mãn của Như Lai. Nhị đoạn nhị trí gọi là đại Thánh đức. Nhị đoạn tức là đoạn tập khí phiền não chướng và đoạn tập khí sở tri chướng, tức hai chướng tận trừ, chân lý được hiển bày do nơi đoạn chướng, vì đoạn tánh cho nên gọi là đoạn nhị trí: Đã đoạn phiền não chướng rồi thì trí chẳng tùy chuyển, tức trí sinh không; đã đoạn sở tri chướng rồi thì đối với tất cả cảnh trí không chướng ngại tức là trí pháp không. Lại có thể nêu ba trí là Thanh tịnh trí, Nhất thiết trí và Vô tuệ trí. Lại Phật có một trăm bốn mươi pháp bất cộng đó là ba mươi hai tướng quý, tám mươi vẻ đẹp phụ, bốn tất cả loại thanh tịnh, bốn Vô sở úy, ba Niệm trụ, ba chẳng hộ đại bi, mười Lực, pháp không quên sót, tập khí vĩnh viễn đoạn trừ, Nhất thiết chủng diệu trí và Phật vô tránh nguyện trí, Vô ngại giải thoát. Như thế đều là pháp của đại Thánh đức.

Như Luận Du-già quyển bốn mươi tám, bốn mươi chín đã phân biệt hiển bày thể nghĩa của các công đức này. Nay kinh nêu lên bảy loại tối thắng gọi là đại Thánh đức:

  1. Sở y thắng, tức hiển thân Phật có tướng quý và vẻ đẹp phụ.
  2. Chánh hạnh thắng, Phật có hai điều lợi, lợi ích an lạc, thương xót thế gian, khiến cho trời người cùng đạt được lợi ích.
  3. Viên mãn thắng, tức giới, kiến quỷ tắc và tịnh mạng của Phật đều đầy đủ.
  4. Trí tuệ thắng, do Phật thành tựu bốn Vô ngại giải.
  5. Oai lực thắng, vì có sáu thần thông.
  6. Đoạn thắng, tập khí hai chướng đều đoạn trừ.
  7. Trụ thắng, trụ ở ba trụ vô thượng vô đẳng.

Nghĩa là Thánh, Thiên, Phạm trụ; tam Giải thoát môn và Diệt tận định gọi là Thánh trụ thì phần nhiều trụ ở diệt tận định.

Bốn tĩnh lự gọi là Thiên trụ, thì phần nhiều trụ ở tĩnh lự thứ tư vô động; bốn vô lượng gọi là phạm trụ, thì trụ ở đại bi.

Do ngày đêm sáu thời dùng Phật nhãn quán xét thế gian, biết người nào đối với thiện căn có tăng có giảm và đạt Tam thừa. Từ đầu đến cuối của kinh này đều hiển thị bảy món thù thắng này đó gọi là đại Thánh đức, oai lực và Thánh đức gọi chung là Như Lai oai đức thứ tư.

5. Chúng đương thời căn cơ thành thục nên nghe:

Phật dùng mắt đại bi trí, ngày đêm sáu thời quán xét thế gian, phương tiện làm lợi ích cho chúng sinh, không có bốn lỗi: Không phi xứ, không phi thời, không phi pháp, không phi khí.

Như kinh này đã ghi: “Những oai nghi, đi đứng, chỗ sắp đặt thực hành, đều là Phật sự cho nên thuyết kinh này, chúng đương thời nên nghe” chẳng phải là hư dối lập bày không có lợi ích người nghe. Kinh này gồm có mười ba vị lợi ích. Vả lại, phẩm Tựa, nhân nói tướng nghiêm tịnh của cõi Phật thì năm trăm trưởng giả được vô sinh nhẫn, tám mươi bốn ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ba mươi hai ngàn trời người biết được pháp hữu vi là vô thường, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh, tám ngàn Tỳ-kheo được lậu tận ý giải.

Phẩm Phương Tiện, ngài Tịnh Danh hiện bệnh nhân có người hỏi mà thuyết pháp, có vô số trời người, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng chánh Giác. Trong hai phẩm Thanh Văn và Bồ-tát, đầu tiên gặp Tịnh Danh, tuy lúc bấy giờ nghe mỗi người đều có đắc đạo, Phật bảo đi thăm bệnh thì đáp là không đắc đạo. Trong phẩm Vấn Tật, nhân nghe đàm luận nhau mà tám ngàn Thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phẩm Bất Tư Nghị, ngài Ca-diếp nêu lên các người mù bẩm sinh để dụ cho chính mình không liễu ngộ được pháp môn giải thoát, thì ba mươi hai ngàn Thiên tử phát tâm vô thượng chánh đẳng giác, tám ngàn Bồ-tát nhập vào trí phương tiện thiện xảo của Bồ-tát, nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghị sở nhập. Phẩm Quán Hữu Tình, phẩm Bồđề Phần chẳng nói đắc đạo. Phẩm Nhập Pháp Môn Bất Nhị thì nói năm ngàn Bồ-tát vào pháp môn Bất nhị; phẩm Hương Đài nói mười việc thù thắng hơn các cõi Phật khác thành tựu tám pháp, sinh về tịnh độ, thì năm ngàn Thiên tử phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mười ngàn Bồ-tát được Vô sinh nhẫn.

Phẩm Bồ-tát Hạnh thì nói chín trăm vạn Bồ-tát ở phương trên nghe được pháp hữu tận vô tận thì vui mừng, dùng hương hoa vi diệu rải khắp đại thiên giới cúng dường Phật pháp và Bồ-tát rồi tự nhiên biến mất ở đây mà trở về cõi nước kia. Phẩm Quán Như Lai, nhân thấy thế giới Diệu Hỷ và Vô Động Như Lai mà mười bốn na-do-tha người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, nguyện sinh sang cõi nước kia, Phật thọ ký sẽ được sinh. Phẩm Pháp Cúng Dường, phẩm Chúc Lụy thì chẳng nói đến đắc đạo.

Hai, Tông chỉ của kinh:

Đức đầu tiên ở phương này là y cứ theo nghĩa chỉ của các kinh luận hiện có mà tổng quát lập bốn tông:

1. Lập tánh tông, thành lập pháp Tam khoa đều có thể, đó là Tátbà-đa bộ, tức Ca-diên, Tạp tâm và Bà-sa.

2. Phá tánh tông, cho các pháp chỉ có tướng mà không có thật tánh, phá thuyết lập tánh nêu trên, như luận Thành Thật.

3. Phá tướng tông, cho rằng các pháp không chỉ không có thật tánh mà tướng trạng cũng chẳng thực có, như các kinh Bát-nhã… Trung luận, Bách luận…

4. Hiển thật tông, cho rằng tất cả pháp thật có đạo lý, chỉ tùy theo chỗ thích ứng mà có không có hữu, các kinh Niết-bàn, Hoa Nghiêm, Lăng-già… đều thuộc tông này.

Nếu các kinh luận chỉ có như thế, có thể định làm bốn Tông thì chỉ như kinh A-hàm xưa ghi: “Khi Xá-lợi vào Niết-bàn thì trời Vô sắc than khóc nước mắt rơi như mưa xuân”. Kinh của Đại chúng bộ thuộc tông nào; kinh Phạm Võng Lục Thập Nhị Kiến, Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm, giáo của Chánh lượng bộ, luận Tam-di-đế, các luận của Thượng tọa bộ, các kinh luận ấy đều chẳng thuộc bốn tông đâu được chỉ tổng gom có bốn tông? Nay căn cứ theo các kinh luận mới phiên dịch, tổng y theo các giáo, thì phân loại giáo có ba; dùng lý để nêu tông, thì tông gồm có tám. Giáo có ba, quyển hai kinh Giải Thâm Mật nói, Thế Tôn vì Bồ-tát Thắng Nghĩa Sinh nên nương vào Biến kế sở chấp thể tướng không mà thuyết tướng vô tự tánh tánh, y vào y tha khởi không có Biến kế sở chấp tự nhiên sinh mà thuyết sinh vô tự tánh tánh, nương vào Viên thành thật không có Biến kế sở chấp mà thuyết Thắng nghĩa sinh, nói Tam vô tánh đều y cứ vào nghĩa không có Biến kế sở chấp.

Thắng nghĩa đã sinh thì lãnh ngộ sâu xa, nói rộng về các ví dụ như thuốc Tỳ-thấp- phược của thế gian, như các thứ bột màu, thục tô, hư không… xong Thế Tôn liền tán thán việc khéo lãnh ngộ lời chỉ dạy. Bồ-tát Thắng nghĩa sinh lại bạch Đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ đầu tiên ở tại rừng Thi lộc, nơi mà tiên nhân Bà-la-ni-tư bị đọa, Đức Thế Tôn vì những người cầu Thanh văn thừa mà dùng tướng bốn đế để chuyển pháp luân, tuy là rất kỳ đặc, rất hy hữu, tất cả trời người… trong thế gian, đầu tiên không ai có thể như pháp mà chuyển, nhưng pháp luân được chuyển ở thời kỳ này còn có hạn lượng, chưa phải là liễu nghĩa, là nền móng của sự tranh luận. Bạch Thế Tôn! Trong thời kỳ thứ hai, Thế Tôn đã vì những người phát tâm cầu Đại thừa, nên y cứ theo lý “Các pháp đều không tự tánh, không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng tự tánh Niết-bàn”, dùng tướng ẩn mật để chuyển pháp luân, tuy càng kỳ lạ, càng rất hy hữu, nhưng pháp luân chuyển lúc bấy giờ cũng có pháp cao hơn, còn có chỗ để dung nạp, chưa phải là liễu nghĩa, cũng là nền móng cho sự tranh luận. Bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ thứ ba, Thế Tôn vì những người thú hướng Nhất thiết thừa, mà y cứ theo lý “. Tất cả pháp đều vô tự tánh, vô sinh vô diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn, không có tự tánh tánh”, để liễu rõ tướng chuyển pháp luân. Đây là giáo kỳ đặc đệ nhất, rất hy hữu. Pháp luân mà Thế Tôn chuyển ở thời kỳ này thật không có giáo nào hơn nữa, không có gì để dung nạp được, là chân liễu nghĩa, chẳng phải là nền tản của sự tranh luận. Tức là trong kinh Quang Minh nói ba loại pháp luân: Chuyển, chiếu, trì. Đầu tiên Thế Tôn thuyết Tam thừa cũng tu hành hữu giáo bốn đế, gọi là chuyển pháp luân, vì chuyển mười hai hành tướng nên chỉ gọi là chuyển. Thời thứ hai, Thế Tôn thuyết Đại thừa chỉ hành lý không chiếu phá hữu, cho nên gọi là chiếu pháp luân. Thời thứ ba, thuyết về phá chấp không, còn hai tánh hữu, hạng người Tam thừa đều có thể tu trì, cho nên gọi là trì pháp luân.

Cũng như trong kinh Niết-bàn nói: “Như có một vị thầy thuốc, đầu tiên cho người bệnh uống sữa để trừ bệnh, nhưng do uống sữa người trong nước chết nhiều, một vị thầy thuốc khác khuyên vua nên bảo mọi người không dùng sữa, người trong nước đều hết bệnh, sau vua có bệnh, thầy thuốc lại hòa thuốc vào sữa cho vua dùng. Vua vặn hỏi, thầy thuốc đều nói: có bệnh nên uống sữa, có bệnh không nên uống sữa. Bệnh này nên hòa thuốc vào sữa để trị nên không có lỗi.” Cũng như Tam thời giáo nói trong luận Du-già vậy. Tuy biết chỉ một trận mưa mà nhuần thấm khắp cả, tức giáo thật không sai biệt, nhưng tùy theo căn cơ mà thành ẩn hiển, giáo đã có ẩn hiển tức chỉ nói không hữu mà chẳng phải là trung đạo, không hữu mà giáo trung đạo nói không có ẩn hiển. Ở đây tuy có dẫn văn nhưng chưa phân biệt thuộc vào giáo nào. Thế nào là ba thời giáo này:

1. Chỉ thuyết pháp hữu tông, tức các giáo vào thời kỳ đầu như Ahàm… căn cứ theo hàng tiểu cơ mà phá chấp ngã, nói không có ngã của hữu tình, chỉ nói nhân của pháp. Tuy có mười hai bộ chấp khác nhau, nhưng đầu tiên theo hàng tiểu cơ mà nói pháp cơ.

2. Chỉ thuyết pháp không tông, tức các giáo ở thời thứ hai như Bát-nhã… theo căn cơ Đại thừa, phá chấp pháp, nói tất cả pháp vốn vô tánh.

3. Đoạn trừ chấp hữu không, đồng thời thuyết hữu không tông, tức các giáo Hoa Nghiêm, Thâm Mật, Niết-bàn, Pháp Hoa, Lăng-già, Hậu Nghiêm, Thắng Man…

Xưa ngã pháp được chấp là có, hữu vi, vô vi thì đều không, nay nói ngã pháp được chấp là không, hữu vi vô vi là có, cho nên hữu không đều đoạn, mà không hữu đồng nói đến, theo lý phối hợp với kinh, thì hai Sư dẫn khác nhau, tức là thời giáo thứ hai và thứ ba. Các Sư Trung luận và Bách luận phần nhiều chỉ dẫn dụng giáo thuyết không. Nay giải thích chẳng phải như thế, giáo trung đạo chân chánh thì dùng lý để làm căn cứ cho tông. Tông thì có tám:

1. Ngã pháp câu hữu tông, Như Độc Tử Bộ nói ngã pháp đều có, lập ba tụ pháp là hữu vi tụ, vô vi tụ và phi nhị tụ. Hai tụ trước thuộc pháp, tụ thứ ba thuộc ngã. Lại lập năm pháp tạng là quá khứ, vị lai, hiện tại, vô vi và bất khả thuyết, đây cho rằng ngã bất khả thuyết, là hữu vi vô vi.

2. Hữu pháp vô ngã tông, tức là Tát-bà-đa bộ… thuyết các pháp thuộc về hai loại là danh và sắc, hoặc thuộc về bốn loại là quá khứ, hiện tại, vị lai và pháp vô vi, hoặc thuộc năm loại là tâm, tâm sở, sắc, bất tương ưng, vô vi, cho nên tất cả pháp đều thật có.

3. Pháp vô khứ lai tông, tức Đại chúng bộ… thuyết có pháp hiện tại và vô vi, còn quá khứ và vị lai thì không có thể dụng.

4. Hiện thông giả thật tông, tức Thuyết giả bộ… nói không có quá khứ và vị lai, còn các pháp trong hiện tại, nơi uẩn thì thật, nơi giới xứ thì giả, các pháp tùy thích ứng mà giả thật không định được. Các sự thành thật… và các sự khác của kinh bộ tức thuộc về tông này.

5. Tục vọng chân thật tông, tức Thuyết xuất thế bộ… cho thế tục đều là giả vì hư vọng, pháp xuất thế là thật vì chẳng phải hư vọng.

6. Chư pháp đản danh tông, tức Nhất thuyết bộ cho rằng tất cả ngã pháp chỉ có giả danh, không có thật thể.

7. Thắng nghĩa giải không tông, tức các Luận sư Thanh Biện… cho rằng các kinh nói về nghĩa không là liễu nghĩa, nói tất cả pháp thế tục là có, còn thắng nghĩa thì đều không.

8. Ứng lý viên thật tông, tức các luận sư như Hộ Pháp… hoằng dương các kinh Hoa Nghiêm, Thâm Mật… tuy nói Nhị đế, nhưng tùy chỗ thích ứng, đều có lý không, viên mãn vi diệu không thiếu sót, chân thật thù thắng.

Nay kinh này không thuộc về sáu tông trước, hai tông sau thuộc Đại thừa, cho nên biết kinh này thuộc về hai tông này. Nếu căn cứ theo nghĩa Đại thừa thứ nhất của Thanh Biện thì kinh này, chỉ nói nghĩa Nhị đế, căn cứ theo Thắng nghĩa đế thì lấy không làm tông, vì thế mười vị đại đệ tử đều dùng nghĩa không để cật vấn, lời nói của họ đều bị khuất phục. Bốn vị Đại Bồ-tát cũng dùng lý không chân như để trình bày, thì đều nói là không thể đối đáp, biện lý được. Ngài Cát Tường thăm bệnh, trước tiên làm cho phương trượng đều trống không, lại nói cõi nước của chư Phật, tất cả cũng đều không, không có sự phân biệt kia, chân không cũng không. Hơn nữa, phẩm Quán Chúng Sinh nói rằng: Ví như nhà huyễn thuật thấy việc huyễn hóa, Bồ-tát quán chúng sinh cũng như thế, cho đến như lửa không khói… vì thế kinh này tuy luận về nhị đế, nhưng thắng nghĩa rất sâu xa, vì lấy nghĩa làm chủ cho nên đặt không làm tông. Nếu căn cứ theo nghĩa Đại thừa sau của ngài Hộ Pháp… thì tuy thuyết nhị đế, nhưng thế tục đế có bốn chung cho không và hữu; Thắng nghĩa đế cũng có bốn mà chỉ có hữu mà chẳng có không, không tức là vô. Biến kế sở chấp chỉ vọng chấp hữu, thể của nó thật là không vô, cho nên chẳng phải là Thắng nghĩa. Hai đế đều có bốn lớp bất đồng. Bốn lớp của thế tục đế:

  1. Do thế gian thành tựu, pháp thể vị tất đã có, tất cả thế gian cùng dùng ngôn thuyết của mình chấp đó là có, tức thật có ngã pháp, ví như bình, thau…
  2. Do đạo lý thành lập, hữu tình thế gian có tầm tư… đạo lý được nói ra thể dụng đều có, tức pháp hữu vi, vô vi, uẩn, xứ, giới…
  3. Do chứng đắc thành lập, các học giả, thế gian dùng phương tiện học tập, trừ ác làm thiện, chứng Thánh quả, tức bốn đế lý…
  4. Do nghĩa chân thành lập, các học giả thế gian đã tu học rồi, dùng pháp thù thắng này làm chỗ chứng đắc, tức là nhị không chân như.

Trong bốn lớp này, một lớp đầu là thể không, ba lớp sau là thể hữu. Bốn lớp của Thắng nghĩa:

  1. Do thế gian thành lập, các học giả thế gian, dùng ngôn thuyết thế gian, cho điều này là có, tức các pháp hữu vi vô vi uẩn xứ giới.…
  2. Do đạo lý thành lập, các học giả thế gian cùng lập đạo lý, như lý bốn đế…
  3. Do chứng đắc thành lập, các học giả thế gian dùng phương tiện này để chứng quả Thánh, đó là nhị không chân như.
  4. Do chân nghĩa thành lập, các học giả thế gian đã tu học rồi, dùng nơi thâm diệu làm chỗ chứng ngộ, phế bỏ việc luận đàm yếu chỉ, chỉ có nhất chân pháp giới.

Luận về hai đế này, đều chung cho nhân pháp, pháp mà hàng trung trí biết được là thế tục đế, pháp mà bậc thượng trí liễu tri gọi là thắng nghĩa đế. Vả lại, đạo lý thấp kém gọi là thế tục đế, đạo lý thù thắng cao xa gọi là thắng nghĩa đế. Vì thế nhị đế mỗi mỗi đều có bốn lớp, y nhân y pháp, đạo lý có sâu có cạn, cảnh có thô có tế để phân định sự sai biệt, nhưng một bộ kinh này phần nhiều nói về thế tục đế, cho nên phẩm Tựa ghi: “Không có ngã tạo tác không có người thọ nhận”. Phẩm Thanh Văn ghi: “Pháp chẳng phải chúng sinh vì lìa cấu nhiễm chúng sinh”. Phẩm Bồ-tát ghi: “Giả gọi là Bồ-đề vì danh tự tánh không”. Phẩm Vấn Tật ghi: “Vả lại bệnh này phát khởi đều là do chấp ngã, vì thế chẳng nên sinh tâm chấp ngã. Đã biết gốc bệnh tức trừ tướng ngã và tưởng chúng sinh. Như khởi tưởng về pháp, nên nghĩ thế này: Vì do các pháp hợp thành thân, cho nên khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt, cho đến nói rộng ra… Vì diệt tưởng về pháp, nên nghĩ thế này: Pháp tưởng này cũng là điên đảo, điên đảo tức là đại hoạn. Ta phải nên xa lìa, nói lìa tức lìa, tức lìa ngã và ngã sở, cho đến các phẩm đều nói ngã pháp không, khuyên xa lìa các phân biệt. Ba thế tục sau tức ba thắng nghĩa trước không cầu phải luận riêng.

Nói về Thắng nghĩa đế có bốn lớp:

  1. Nhân duyên pháp môn.
  2. Duy thức pháp môn.
  3. Vô tướng pháp môn.
  4. Chân như pháp môn.

a) Nhân duyên pháp môn: Phẩm Tựa ghi: “Do nhân duyên nên các pháp sinh, nghiệp, thiện, ác cũng chẳng mất”. Phẩm phương tiện ghi: “Thân này do bốn đại chủng hợp thành, nó vô thường, không mạnh mẻ, còn pháp thân Như Lai do vô lượng pháp thiện gom tập mà thành, cho đến muốn được pháp thân này nên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”.

Phẩm Vấn Tật ghi: “Bệnh của Cư sĩ nhân đâu mà khởi? Duy-macật nói: Do si khởi ái, tức bệnh của tôi sinh, vì tất cả chúng sinh bệnh, cho nên tôi bệnh”. Trước trả lời về bệnh là nói về nhân duyên sinh tử, si là gốc. Câu trả lời sau là nói về nhân duyên xuất thế, dùng Đại từ bi làm gốc. Vả lại Bồ-tát có bệnh nên nghĩ rằng: “Bệnh của tôi hôm nay đều là do các phiền não vọng tưởng điên đảo từ đời quá khứ sinh ra, vì do bốn đại hòa hợp, giả danh là thân.” Các văn như trên đều nói về pháp nhân duyên.

b) Duy thức pháp môn: Phẩm Tựa ghi: “Trực tâm là tịnh độ của Bồ-tát, thân tâm Đại thừa là tịnh độ của Bồ-tát, cho đến nói rộng ra… tùy theo tâm tịnh tức cõi Phật tịnh; do đó tâm nhơ thì cõi Phật nhơ, tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”.

Phẩm Thanh văn ghi: “Như Đức Phật nói vì tâm nhơ cho nên chúng sinh nhơ, tâm tịnh thì chúng sinh tịnh”. Các văn như thế đều nói về pháp Duy thức.

c) Vô tướng pháp môn: Phẩm Thanh văn ghi: “Pháp thường vắng lặng, vì diệt hết các tướng; pháp lìa tướng vì không có sở duyên. Bài báng Phật, hủy nhục pháp, không vào chúng số, rốt cuộc chẳng được diệt độ, ngài nên như thế mới được thọ nhận thức ăn”, cho đến nói rộng ra… Tất cả ngôn thuyết chẳng lìa tướng, đến như người trí chẳng chấp trước văn tự, cho nên không kinh sợ, vì văn tự tánh ly (tánh văn tự là xa lìa), không có văn tự, tức là giải thoát, tướng giải thoát tức là các pháp”. Các đoạn văn như thế, đều là nói về pháp vô tướng.

d) Chân như pháp môn: Phẩm Tựa ghi: “Nếu có thể phân biệt khéo léo được các pháp tướng, thì nơi Đệ nhất nghĩa thường chẳng động”. Phẩm Thanh Văn ghi: “Nếu có thể dùng tánh bình đẳng của món ăn mà nhập vào tánh bình đẳng của các pháp, dùng tánh bình đẳng của các pháp nhập vào tánh bình đẳng của các món ăn, mới có thể thọ nhận thức ăn. Lại chẳng nên dùng tâm hành sinh diệt mà nói pháp thật tướng. Các pháp rốt ráo chẳng sinh chẳng diệt là nghĩa vô thường”. Phẩm Bồtát ghi: “Tất cả chúng sinh đều như, tất cả pháp cũng như, các Hiền Thánh cũng như, cho đến Di-lặc cũng như, như tức là chẳng một chẳng khác”. Phẩm Quán Chúng Sinh ghi: “Hỏi: ‘Điên đảo tưởng lấy gì làm gốc?’ Đáp: ‘Lấy vô trụ làm gốc.’ Hỏi: ‘Trụ lấy gì làm gốc?’ Đáp: ‘Vô trụ thì vô bản (không có gốc), từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp. Cho nên biết chân như rất rốt ráo sâu xa. Phẩm Pháp Môn Bất Nhị nói ba mươi ba bậc Đại sĩ đều hiển bày pháp môn Bất nhị, trong đó ba mươi mốt vị nói về tướng vô sai biệt, cho rằng vào pháp môn Bất nhị, đều là dùng vô tướng phá tướng, đều là pháp môn vô tướng thứ ba, nghĩa còn thô, còn chấp trước. Đến Bồ-tát Diệu Cát Tường, tuy dùng không lời không thuyết, không chỉ bày, lìa các hỏi đáp là vào pháp môn Bất nhị, tức cũng dùng chân như phá không ngôn thuyết, tức là dùng lời nói để hiển lý, cũng chưa phải là sâu xa cùng tột, vì còn nương vào sự giải thích để hiểu, cũng là pháp môn vô tướng thứ ba, thứ ba thuộc về thắng nghĩa chứng đắc; chỉ có ngài Tịnh Danh im lặng không lời, chánh tri chánh chứng được chân như vi diệu, là pháp môn chân như, sâu xa lại càng sâu xa. Các văn dẫn như thế đều nói về pháp môn chân như. Nhân duyên sự pháp thì rất thô hiện, còn Duy thức lý quán thì rất vi tế, vì thuyết thì có tướng trạng của nội tâm, còn vô tướng thì quán chung với vô sai biệt tướng lại càng rất vi tế, nhưng vẫn có tâm vô tướng, chưa được chánh chứng. Chỉ có pháp môn chân như rất sâu xa vi diệu, tâm cảnh thầm hợp với trí, thần thì hợp với chánh lý; khế hội với chân trí thì trừ diệt hoặc chướng tập khí, lập tất cả pháp, cho nên đó gọi là bậc nhất.

Tuy nói bốn môn nhưng không trái nhau, mỗi một pháp môn, thâu nhiếp tất cả. Vả lại trong nhân duyên lại có Duy thức, trong Duy thức lại có nhân duyên, cũng có vô tướng, vô tướng được duyên chẳng lìa nhân duyên, thể chân như cũng là nhân duyên vì nhân duyên thâu nhiếp tất cả pháp, cho đến trong chân như cùng với tất cả pháp chẳng phải một, chẳng phải khác, tùy sự thích ứng mà chẳng trái với nghĩa của ba môn trước. Nay tùy sự tướng, thô tế khác nhau mà nói có bốn loại, chẳng phải nhất định là riêng biệt. Nay kinh này hiển thị thế tục đế, ngã pháp đều không, chẳng nên chấp trước. Thuyết pháp nhân duyên để trừ nhiễm giữ tịnh, nên lý Duy thức để nói cảnh là vọng chẳng phải chân, chứng được lý duy tâm thì rõ được yếu chỉ vô tướng, đoạn trừ tướng phân biệt sai biệt. Thuyết lý chân như khiến cho khởi trí chứng. Nhờ vào ngôn thuyết mà nói bốn sự lý khác nhau, bỏ yếu chỉ mà luận bàn, tất cả đều không sai biệt. Văn kinh sau nên tùy nghi mà phối hợp riêng. Trong đó hai tông đều giải thích nghĩa kinh. Tông Đại thừa trước thì nói chung về hai đế, Tông Đại thừa sau thì nói riêng hai đế. Trước cho ba vô tánh là chân, ba tánh là tục; sau cho ba vô tánh là tục, ba tánh là chân. Về tông thuyết có hữu không, là do lý bất đồng.

Ba, Thể tánh của kinh:

Thể của kinh có hai:

  1. Văn năng thuyên.
  2. Nghĩa sở thuyên.

Văn là sở y, nghĩa là năng y, do nơi văn năng thuyên mà nghĩa được hiển bày. Nếu căn cứ theo Luận sư Thanh Biện giải thích hai thể này, thì vào thế tục đế để nói về thể của kinh, vì như tất cả pháp hữu vi vô vi, hoặc không hoặc hữu, nên các pháp là thể, vì đều lấy tất cả pháp làm sở thuyên. Như văn kinh sau ghi: “Ví như người huyễn thuyết pháp cho người huyễn nghe, tánh đó chẳng phải không, nhưng lại là giả chẳng phải là thật.

Trong giáo năng thuyên cũng có nói ngôn luận chương cú, lấy âm thanh làm thể tánh. Phạm âm là Bát-đà, Hán dịch là Tích, là tên của Hộ Pháp, nhưng đó chỉ hiển thể mà chưa hiển được nghĩa. Cú (câu) có thể phân làm hai loại:

1. Tập pháp mãn tích cú, như nói chẳng sinh cũng chẳng diệt, chẳng đến cũng chẳng đi, chẳng phải một cũng chẳng phải khác, chẳng thường cũng chẳng đoạn. Một câu này tuy nghĩa chưa đủ nhưng cũng được gọi là câu. Vì nghĩa viên mãn, nên đầu tiên âm thanh có thể gom tập hiển bày các pháp, gọi đó là tích, giáo là tích của Lý, như tìm dấu vết mà được voi, cho nên được giáo mà quán xét nghĩa lý, chẳng lập danh từ “Tự” mà đầu tiên lập tích này.

2. Hiển nghĩa châu viên cú, như nói: “Các hành vô thường là pháp sinh diệt, sinh diệt đã diệt, tịch diệt là an lạc”. Một câu này, nghĩa đã đầy đủ.

Nay lấy câu tập pháp tạng mãn túc giải thích ở trên, mà không lấy câu hiển nghĩa châu viên này. Âm Phạm là Phược-ca, Hán dịch là Ngôn. Nghĩa đã hiển đầy đủ gọi là Ngôn, tức là từ cú “câu” được Hộ Pháp nói. Âm Phạm là Bát-thích-ca-la, Hán dịch là Chương, chương tức minh nghĩa, đoạn nghĩa, một chương một đoạn để nói rõ về các nghĩa. Âm phạm là Xa-tát-đát-la, Hán dịch là Luận. Tổng quát một bộ để lập tên luận.

Bốn loại này đều lấy âm thanh làm thể tánh, từ hẹp mà được rộng, giải thích các pháp một cách đầy đủ, tức đầu tiên hiển thể, kế đó hiển nghĩa, rồi giải thích rộng và cuối cùng là hoàn bị. Cho nên chẳng lập tên “Tự”, Bát-nhã Đăng luận có giải thích rõ về điều này. Đó là căn cứ theo thế tục, nếu căn cứ theo thắng nghĩa thì tất cả năng thuyên, sở thuyên đều không.

Cho nên văn kinh sau ghi: “Pháp không danh tự vì đoạn dứt ngôn ngữ, pháp không nói năng vì lìa giác quán, pháp không hình tướng vì như hư không, cho đến nói rộng ra, phàm người thuyết pháp thì không nói không chỉ bày, phàm người nghe thì không nghe không được. Vì thể tánh các pháp là không thì đâu có gì là giáo là lý? Căn cứ vào hai lý thế tục và Thắng nghĩa mà văn kinh sau có ghi: “Thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không, vì thể của thắng nghĩa là không, thuyết pháp chẳng có, thể của thế tục là có nên ngôn ngữ chẳng phải không. Lại thể của Thắng nghĩa là không cho nên chẳng phải có ngôn ngữ; chẳng phải không có ngôn ngữ; pháp tánh đã không, thì đâu thể nhất định nói là không là hữu. Cho nên cả hai đều chẳng phải. Từ thế tục đế mà có thể dùng giáo nghĩa làm thể của kinh, nếu theo thắng nghĩa tất cả đều không thì chẳng có thể hay không thể. Nếu căn cứ theo ngài Hộ Pháp… thì thắng nghĩa và thế tục đế của Bồ-tát đều lấy hai giáo năng thuyên và sở thuyên làm thể của giáo. Vả lại sở thuyên thế tục đế đều lấy các pháp hữu vi vô vi hoặc không hoặc hữu làm thể, tức dùng ba tánh làm thể sở thuyên. Pháp không có ngã vì lìa ngã cấu là biến kế sở chấp; từ si sinh ái thì bệnh của tôi liền sinh tức y tha khởi tánh. Tất cả pháp đều “như” nên viên thành thật tánh cũng “như”. Các văn như thế trên dưới rất nhiều, đều nói chỉ dùng âm thanh, danh, cú văn làm thể tánh.

Luận Thập Địa ghi: “Người thuyết người nghe đều lấy hai việc làm cứu cánh, đó là âm thanh và danh tự.” Trong kinh Giải Thâm Mật, ở Địa thứ chín nói đoạn hai ngu: Một là, đối với vô lượng pháp sở thuyết, vô lượng danh, cú, tự, Đà-la-ni tự tại ngu”. Luận Thành Duy Thức, quyển chín giải thích rằng “Vô lượng danh, cú, tự là pháp vô ngại giải; pháp sở thuyết tức là nghĩa vô ngại giải; danh, cú, tự là văn năng thuyên; pháp sở thuyết là nghĩa sở thuyên”.

Đối pháp thứ nhất ghi: “Âm thanh mà Thành Duy Thức luận dẫn dụng là âm thanh mà chư Thánh tuyên thuyết”. Luận Thành Duy Thức quyển hai lại ghi: “Do pháp và từ, cả hai vô ngại giải, mà cảnh có sai biệt. Pháp duyên với danh… Từ duyên với âm thanh, cho nên y theo thế tục, âm thanh… là thể; nếu y theo thắng nghĩa, luận chung về thể tánh các pháp thì gồm bốn loại:

  1. Nhiếp tướng quy tánh thể.
  2. Nhiếp dư quy thức thể.
  3. Nhiếp giả tùy thật thể.
  4. Giả thật biệt luận thể.
  5. Nhiếp tướng quy tánh thể: Nghĩa là tất cả pháp hữu vi vô vi, có thể tánh là chân như, chân như là gốc, cho nên kinh Đại Bát-nhã ghi: “Tất cả hữu tình là Như Lai tạng”.

Kinh Thắng Man cũng ghi: “Phàm sinh tử tức Như Lai tạng, nếu không phải là Như Lai tạng thì chẳng thể chán khổ vui mà cầu Niếtbàn, vì thế Như Lai tạng là y, là trì là kiến lập”.

Kinh Vô Cấu Xưng nói: “Tất cả hữu tình đều như, tất cả pháp cũng như.”

Lại nói: “Từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp”.

Các văn như thế, thật chứng chẳng phải là một.

2. Nhiếp dư quy thức thể: Nghĩa là thể của tất cả pháp chẳng lìa thức.

Kinh Hoa Nghiêm quyển chín ghi: “Tâm như người họa sĩ, vẽ các loại năm ấm; trong tất cả thế gian; không pháp nào chẳng tạo; như tâm Phật cũng thế; như Phật, chúng sinh, đồng; tâm, Phật và chúng sinh, ba pháp không sai biệt; chư Phật thảy đều biết; tất cả từ tâm chuyển; nếu rõ biết như thế, người này thấy chân Phật, thân cũng chẳng phải tâm, tâm cũng chẳng phải thân, làm tất cả Phật sự, tự tại chưa từng có, nếu có người muốn biết, ba đời tất cả Phật, nên hiểu rõ như thế, tâm tạo chư Như Lai.”

Kinh Vô Cấu Xưng ghi: “Vì tâm cấu nên chúng sinh cũng cấu nhiễm”.

Các văn như thế chẳng phải là một.

3. Nhiếp giả tùy thật thể: Nghĩa là tất cả các giả pháp, đều không có một thể riêng biệt tùy gốc nương tựa mà lấy thật pháp làm tánh, như phẩn, hận… lấy sân làm thể. tịnh độ giả danh lấy bốn trần làm thể. Chúng sinh giả danh lấy năm uẩn làm thể; tất cả chư Phật lấy năm pháp làm thể.

4. Giả thật biệt luận: Nghĩa là dụng của giả thật khác nhau, mỗi mỗi đều được nói riêng. Như văn sau kinh ghi: “Hoặc có cõi Phật dùng âm thanh, danh tự làm Phật sự.”

Danh cú đó thuộc về pháp xứ là bất tương ưng pháp. Âm thanh sở khởi thuộc về thanh xứ, thuộc về sắc trụ, như thế chẳng phải là một. Nay nói giáo thể, theo như văn nghĩa, đều có bốn loại này;

Thứ nhất, văn nghĩa nhiếp tướng quy tánh đều lấy chân như làm thể. Chân như tức là bản tánh của tất cả pháp, như biển lấy vị mặn làm tánh, các nước ở trăm sông đổ ra biển đều biến thành vị mặn. Vạn pháp trở về chân thì cũng đồng một vị.

Cho nên kinh Bát-nhã ghi: “Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh để cầu ta, người ấy thực hành tà đạo, chẳng thể thấy được ta.”

Luận Thiên Thân ghi: “Ứng hóa chẳng phải chân Phật, chẳng phải người thuyết pháp, thuyết pháp bất nhị thư, không thuyết tướng ly ngôn.”

Phẩm Thanh Văn kinh này ghi: “Ngài Vô Cấu Xưng nói với ngài Thiện Hiện rằng: ‘Văn tự tánh lìa, không có văn tự tức là giải thoát, tướng của giải thoát là các pháp.”

Kinh lại ghi: “Pháp chẳng phải là kiến văn giác tri, nếu thực hành kiến văn giác tri thì đó là kiến văn giác tri mà chẳng phải là cầu pháp.”

Phẩm Bất Tư Nghị ghi: “Pháp không có hý luận; nếu nói biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo thì đó là hý luận, chẳng phải là cầu pháp.”

Phẩm Quán Chúng Sinh ghi: “Từ vô trụ lập tất cả các pháp.” Các văn như thế, thật chứng dẫn chẳng phải một.

Thứ hai, nhiếp dư quy nhất: năng thuyên sở thuyên nếu theo căn bản thì lấy thức tâm của người năng thuyết làm thể; nếu căn cứ theo ngọn thì lấy tâm thức của người năng văn làm thể.

Cho nên luận Thập Nhị Duy Thức ghi: “Sức triển chuyển tăng thượng, hai thức thành quyết định.”

Phẩm Tựa ghi: “Tùy theo pháp giáo tức có diệu phước, tùy theo diệu phước tức có diệu tuệ, tùy theo diệu tuệ tức có diệu trí, tùy theo diệu trí mà có diệu hạnh, tùy theo diệu hạnh mà có tự tâm thanh tịnh, tức có các diệu công đức thanh tịnh.”

Kinh Giải Thâm Mật ghi: “Sở duyên của các thức chỉ là sở hiện của “thức”.”

Kinh A-tỳ-đạt-ma: “Người thành tựu giản trạch, có trí được định.

Tư duy tất cả pháp, nghĩa như đều hiển hiện”.

Văn chứng minh rất nhiều.

Thứ ba, nhiếp giả tùy thật, sở thuyên có bốn:

  1. Tâm, “thâm tâm là tịnh độ của Bồ-tát”.
  2. Tâm sở, “Các chúng sinh tu tập Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi, sinh sang nước kia”.
  3. Sắc: “Chúng sinh có ba mươi hai tướng quý trang nghiêm sinh sang nước kia”.
  4. Vô vi “Nếu không có tướng tạo tác, tức là vô vi, trong pháp vô vi, làm sao có kiến”.

Cho nên biết sở thuyên chỉ có bốn, các đoạn văn như thế toàn bộ kinh chẳng phải có một, chẳng thể dẫn hết. Vả lại, chỉ như thế năng thuyên có một, chỉ một âm thanh làm thể tánh.

Phẩm Hương Tích kinh này ghi: “Chín trăm vạn Bồ-tát ở phương trên hỏi Duy-ma-cật rằng: Thích-ca Như Lai dùng gì để thuyết pháp? Duy-ma-cật đáp: Chúng sinh cõi này cang cường khó giáo hóa, cho nên Đức Phật dùng lời nói cang cường để thuyết pháp, lời nói lấy âm thanh làm thể tánh.”

Kinh Pháp Hoa cũng ghi: “Chúng ta hôm nay thật là Thanh văn, từ âm thanh của Phật đạo mà tất cả đều được nghe”, cho nên giáo tức âm thanh.

Thứ tư, tướng dụng luận riêng, sở thuyên có năm:

  1. Tâm.
  2. Tâm sở.
  3. Sắc.
  4. Bất tương ưng.
  5. Vô vi.

Bốn pháp khác như đã nói ở trên, còn bất tương ưng thì có văn:

“Không nên dùng tâm sinh diệt mà thuyết pháp thật tướng”.

Lại ghi: “Ngôn ngữ văn tự là Phật sự”.

Một pháp này là giả, bốn pháp kia là thật. năng thuyên có bốn:

âm thanh, văn, danh, cú. Phẩm Bồ-tát Hạnh kinh này ghi: “Hoặc có cõi Phật dùng âm thanh ngôn ngữ văn tự làm Phật sự”. Trên dẫn chứng, chỉ lược nêu lên ít phần, như dùng lý để chuẩn định văn, thì thể của kinh nhất định như thế. Vả lại, có bốn loại là nhân duyên, duy thức, vô tướng, chân như căn cứ theo phần nói về tông ở trước, thì đều nêu dẫn thuyết, nhưng chẳng nêu dùng văn thuyết chân như, cho nên không có ba pháp kia; văn thuyết vô tướng, không có hai pháp kia, văn thuyết duy tâm không có một pháp kia, người trí nên như lý mà xét biết.

Bốn, Các kinh bất đồng:

Bất đồng có hai:

  1. Tên giáo bất đồng.
  2. Tên phẩm bất đồng.

1. Tên giáo bất đồng:

Kinh này trước sau có bảy bản dịch:

1. Nghiêm Phật Điều, dịch vào đời Hán, ở Bạch mã.

2. Chi Cung Minh, dịch vào đời Ngô, ở Vũ khương.

3. Gồm ba bản dịch vào đời Đông tây Tấn, của Pháp Hộ, Lâm Lan và Mật-đa mỗi mỗi truyền giáo nghĩa của mình.

4. Ngài La-thập, dịch vào đời Tần.

5. Hòa thượng, dịch vào đời Đường ghi rằng: “Trừ bản của ngài La-thập ra còn các bản khác hoặc có tên là Duy-ma-cật kinh, hoặc gọi là Vô Cấu Xưng kinh, hoặc gọi là Thuyết Duy-ma-cật kinh, hoặc gọi là Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, hoặc gọi là Tỳ-ma-la-cật kinh.

Độc nhất bản của ngài La-thập đặt tên là Duy-ma-cật Sở Thuyết kinh và một tên khác là Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát kinh. Căn cứ theo bản phạm ở phần Thư đề có ghi: “A-phất-ma-la chỉ-lý-để, A là vô, Ma-la là cấu, như nói A-ma-la thức, Hán dịch là Vô cấu thức. Nay đã thêm chữ Phất nên gọi là Xưng. Đã nói Vô Cấu Xưng còn Chỉ-lý-để là Thuyết. Âm Phạm phần nhiều là đảo ngược, như nói: “Áo mặc, cơm ăn”. Nay nói Vô cấu xưng thuyết”, tức kinh này nói Vô Cấu Xưng là sở thuyết, nếu thuận theo âm Hán phải nói là Thuyết Vô Cấu Xưng kinh. Ngài La-thập chẳng theo Hán dịch giữ nguyên thứ tự theo tiếng Phạm tức chấp nhận Duy-ma-cật cũng được thuyết kinh, bởi vì thân bị tục vọng vây quanh, lìa tăng đã lâu, sợ người chê trách, nên chấp nhận việc ông Duy-ma thuyết kinh. Như Lộc Nữ Sở Thuyết kinh tức kinh nói về việc của Lộc Nữ mà chẳng phải là Lộc nữ thuyết kinh. Nếu ở trước Phật, Phật đã ấn khả, thì thiên ma ngoại đạo cũng được thuyết kinh, tuy chấp nhận người khác nói nhưng vẫn phải ghi là Phật thuyết kinh, người khác không được thuyết kinh.

Luận Du-già ghi: “Trong mười hai thể loại, thì hàng đệ tử chỉ thuyết kinh luận nghị, vì lý chẳng trái với Phật, còn mười một loại khác thì hàng đệ tử không được thuyết. Thay đổi thành lời Phật thì thầy trò khác biệt, nếu chẳng như thế thì thầy trò đâu khác? Trong ba tạng thì chỉ được thuyết tạng A-tỳ-đạt-ma, mà chẳng được thuyết hai tạng kia”. Thầy trò đã khác nhau, cho nên ngài Tịnh Danh và Diệu Đức không được thuyết kinh; cũng chẳng phải toàn bộ kinh đều do ngài Tịnh Danh thuyết, vì sao lại gọi là Duy-ma-cật thuyết?

Duy-ma gọi là Tịnh Danh, nghĩa có thể đã rõ ràng nhưng lời thì chẳng thông, như nói Duy-ma thì mới chỉ là Cấu Xưng, thiếu hai chữ Ala là Cật, lí-để tức là thuyết, nhưng lại nói là sở thuyết, thêm lời để làm gì? Chỉ vì ngài La-thập là người Quy Tư không thông thạo tiếng ở vùng trung thổ Ấn Độ, cho nên văn lầm lẫn không chánh xác, mà ý nghĩa chưa thể dung thông. Hoặc gọi là bất khả tư nghị Giải thoát, điều này căn cứ theo quyển cuối của bản phạm có ghi: “Phật nói, kinh này tên là Thuyết vô cấu xưng bất khả tư nghì tự tại thần biến giải thoát pháp môn”. Nếu luận về người. Thì chỉ nói là A-phất-đa-la chỉ-lý-để nếu chỉ luận về pháp thì ghi chú là: Cũng có tên Bất khả tư nghì giải thoát; bản cựu dịch, Đức Phật dạy chỉ có hai tên, mà ở đây người dịch lại chia riêng, chẳng phải bản phạm như thế. Như đã thật có hai tên gọi thì đều nêu lên rồi, như kinh Thắng Man có mười lăm tên gọi, kinh Vô Lượng Nghĩa có bảy tên đều đã ghi chép đủ, vì sao đã đều là tên gọi mà chẳng cùng nêu lên? Tất cả là do ngài La-thập thấy tên chú thích liền cho là tên kinh mà không có bản ghi cước chú, người sau tiếp tục chép theo, khiến cho nhiều đời cứ như thế mà nêu lên giải thích. Lý chẳng phải như thế, căn cứ theo lời chú thì nói về việc bất khả tư nghì Giải thoát, cho nên theo đó mà đặt tên.

2. Tên phẩm khác nhau: Kinh gồm mười bốn phẩm, về số lượng phẩm thì đồng mà tên có khác. Phẩm thứ nhất tên là phẩm tựa, ngài Lathập gọi là phẩm Phật Quốc. Khế kinh này chính là nói về việc của ngài Duy-ma-cật, muốn đề cập rõ về việc ấy cho nên trước nói phẩm Tựa, vì sao chẳng gọi là tựa mà gọi là Phật quốc? Nếu nói rằng Bảo Tánh hỏi Phật, Phật thuyết về cõi Phật nghiêm tịnh thì gọi là Phật quốc, để nói riêng về nghĩa Phật quốc, chẳng phải là tự thuật. Lời tựa để nói về Tịnh Danh, vậy như kinh Pháp Hoa, phẩm Tựa nói về bảy loại thành tựu như vô lượng nghĩa… vì sao không gọi là phẩm thành tựu mà gọi là phẩm Tựa? Vả lại các kinh đều có phẩm Tựa, vì sao kinh này lại không? Lại theo sau để làm chuẩn định cho trước, thì sau đã có phẩm Chúc Lụy, vì sao trước lại không có phẩm Tựa.

Phẩm thứ hai tên là Hiển Bất Tư Nghị Phương Tiện Thiện Xảo, ngài La-thập chỉ gọi là phẩm phương Tiện. Nghĩa của Phương tiện thì chung cho cả Đại Tiểu, nay thì hiển Đại, cho nên cần phải nói là chẳng thể bàn, đâu được chỉ nói là Phương tiện. Trong pháp Đại thừa, phương tiện thì chung cho cả quyền và thật, đây là hiển quyền mà chẳng phải thật, hàng giai vị thấp chẳng thể biết, diệu dụng vô cùng, cho nên gọi là bất tư nghị thiện xảo, để phân biệt tiểu và phân biệt thật, thì không nên chỉ gọi là phương tiện. Vả lại bản Phạm có ghi đủ Hiển bất tư nghị thiện xảo, vì sao ngài La-thập lại dùng đơn danh phương tiện.

Phẩm thứ ba là phẩm Thanh Văn, ngài La-thập gọi là phẩm Đệ Tử. Bồ-tát và Thanh văn đều là đệ tử, vì sao chỉ gọi Thanh văn là Đệ tử, dùng Tiểu so sánh với Đại thì nên gọi là Thanh văn mà chẳng nên gọi là Đệ tử, huống gì bản Phạm không ghi từ Đệ tử.

Phẩm thứ năm nay gọi là Vấn Tật, ngài La-thập gọi là phẩm Vănthù-sư-lợi Vấn Tật. Ngài La-thập cho rằng Bồ-tát Cát Tường là bậc thượng thủ, cho nên lấy đó làm tên. Nay thì cho rằng chẳng phải một người đến thăm cho nên gọi chung là Vấn Tật, nếu theo bản Phạm thật cũng chẳng có tên như thế.

Phẩm thứ bảy nay gọi là Quán Hữu Tình, ngài La-thập gọi là phẩm Quán Chúng Sinh, cỏ cây không có sự biết cũng gọi là chúng sinh. Có biết thì gọi riêng là hữu tình, chẳng dùng để gọi chung cho cây cỏ, huống gì bản Phạm ghi: Ma-hô thiện-na, dịch là chúng sinh, lại nói Tát-đỏa, cho nên gọi là Hữu tình.

Phẩm thứ tám nay gọi là phẩm Bồ-đề Phần, ngài La-thập gọi là phẩm Phật Đạo. Bồ-đề nghĩa là giác, tức quả Phật ở vị lai, phần là nghĩa nhân, đó chính là các hạnh, thành nhân của giác, vả lại Bồ-đề là giác tức là diệu tuệ, phần nghĩa là chi phần, đây là chi phần của diệu tuệ. Nếu nói Phật đạo, thì Phật là quả Phật, đạo tức nhân, nghĩa là con đường, con đường để chứng đắc Phật quả, nghĩa tuy có thể được, nhưng theo ý ngài Tăng Triệu: Muốn cho chữ đạo của Lão tử đồng với chữ của Phật, mà lấy làm tên. Bồ-đề nghĩa là Giác, chưa phải là nghĩa Phật đạo, vậy đã trái âm Phạm, mà nghĩa lại vượt quá, vậy há đã ở giai vị Phật mà không có đạo ư? Cho nên phải gọi là phẩm Bồ-đề Phần.

Phẩm thứ chín là phẩm Bất Nhị Pháp Môn, ngài La-thập gọi là phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn. Nay nói về độ lý của pháp môn Bất nhị, đâu nhọc gì phải nói trực nhập? Ngài La-thập cho rằng Cư sĩ Tịnh Danh im lặng không nói là vào Bất nhị, Diệu Đức… có lời lẽ ra phải nói là nhị. Tất cả đều nói rõ nghĩa Bất nhị, cho nên chẳng cần nói nhập. Bản kinh tiếng Phạm không có chữ nhập.

Phẩm thứ mười nay gọi là phẩm Hương Đài, ngài La-thập gọi là phẩm Hương Tích. Thể Hương của thân Phật cao diệu như đài hương, chỉ nói là Hương tích, do tích tụ hương mà thành, thì không có nghĩa cao diệu. Vì muốn hiển thị thể của cõi Phật vi diệu cao xa, cho nên phải gọi là phẩm Hương Đài.

Phẩm mười hai nay gọi là Quán Như Lai. Ngài La-thập gọi là phẩm A-súc Phật. Ở phẩm này Đức Phật hỏi Duy-ma-cật thế nào gọi là Quán Như Lai, và nói về các phẩm quán pháp thân Như Lai… Sau nhân ngài Thu Tử thưa hỏi mới nói về việc ngài Tịnh Danh từ cõi nước của Phật A-súc đến; đâu chỉ nói về Phật A-súc. Nay chỉ lấy tên là Phật A-súc thì mất đi nghĩa của phẩm kinh này, thế thì đâu chỉ trái với âm Phạm mà thôi? Nhưng dùng phương ngôn thì xa cách, chánh lý thì thiếu khuyết, cho nên nghĩa đã trái với bản tông, thì tên làm sao không lầm lẫn được?

Năm, Chỗ y cứ để phân khoa phẩm mục:

Xưa phân khoa kinh này, trong mười bốn phẩm có nhiều điểm khác nhau. Như bản sớ giải xưa. Nay phân khoa làm ba:

  1. Một phẩm đầu tiên nói về phần duyên khởi của kinh.
  2. Mười một phẩm kế tiếp, phần chính thức nói về bản tông.
  3. Hai phẩm cuối là phần tán thán phó chúc lưu thông.

Kinh này nói về hai lợi ích quyền thật của hàng Bồ-tát, hai vị nhân quả, hai đế chân tục, hai lý không hữu. Nói về nhân phát khởi cho nên đầu tiên gọi là Tựa. Đã nêu duyên khởi kế đó là nói về tông chỉ của kinh, cho nên mười hai phẩm tiếp theo gọi là phần bản tông. Yếu chỉ của kinh đã sâu xa, e rằng không thể truyền học, nên có các việc tán thán Đức Dược Vương Như Lai ở quá khứ… để khuyên việc truyền trao cho đời sau, vì thế hai phẩm sau gọi là phần lưu thông. Trong phần duyên khởi có bốn loại viên mãn:

  1. Tựa viên mãn: Từ câu “Đúng thật như thế” đến câu “rừng Amla-vệ.”
  2. Chúng viên mãn: Từ câu “Cùng với chúng đại Bí-sô” đến câu “phóng ánh sáng vi diệu che phủ đại chúng.”
  3. Thuyết nhân viên mãn: Từ câu “Lúc bấy giờ ở thành Quảng Nghiêm có một vị Bồ-tát” đến câu “Thắng quốc độ này có vô lượng công đức báu vật trang nghiêm.”
  4. Lợi ích viên mãn: Từ câu “Lúc Phật hiện cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh” đến hết phẩm.

Tuy phẩm này đều là tựa, nhưng đầu tiên là tựa chung các kinh đều có, vì nghĩa của tựa rất thù thắng nên đặc biệt được gọi như thế. Chúng tức là đồ chúng, là hàng quyến thuộc thân cận bậc Thánh đức. Nhân tức nguyên do, Bảo Tích hiến dâng lọng báu, hỏi Đức Phật về cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, Đức Phật nói hai lợi ích, là nhân nghiêm tịnh cõi Phật để phát khởi chánh tông, là các hạnh tu tập thân độ của Bồ-tát, cho nên gọi là thuyết nhân. Trời, người nghe pháp đạt được quả vị khác nhau, nói về việc khác nhau này gọi là lợi ích viên mãn.

Trong phần tựa viên mãn, văn thì gồm bốn đoạn, thắng diệu thì có hai. Bốn đoạn văn:

  1. Hiển bày chung đã được nghe, tức câu “Đúng thật như thế chính tôi đã được nghe”.
  2. Thời gian thuyết pháp tức là câu: “nhất thời”.
  3. Giáo chủ, tức Đức Bạc-già-phạm.
  4. Nơi thuyết kinh tức là câu: “Trụ tại rừng Am-la-vệ ở thành Quảng Nghiêm”.

Hai việc thắng diệu:

  1. Thành Quảng Nghiêm hơn hẳn các thành khác.
  2. Rừng Am-la hơn hẳn các khu rừng khác.

Thành này rộng lớn hơn các thành khác, lầu các trang nghiêm tốt đẹp hơn những nơi khác. Cây trong vườn kết quả đã hơn các khu vườn khác mà thường tự bảo vệ, đó là hiển bày pháp đáng tôn trọng; hiển thị pháp nghĩa rộng lớn, vạn đức trang nghiêm, khế hợp với khu vườn đạo quả, rất đáng được tôn trọng. Cho nên phẩm Tựa có hai viên mãn như trên.

PHẦN 2

Sáu, Giải thích bản văn:

Kinh: Như thị ngã văn.

Như kinh Ma-ha Ma-gia nói đây là nguyên do mà Đức Phật dạy phải đặt ở đầu kinh. Luận Phật Địa nói: Như thị, y cứ theo bốn nghĩa mà biến chuyển:

Y cứ theo thí dụ: Như có người nói rằng: “Giàu sang như thế (như thị) giống Tỳ-sa-môn”. “Pháp được truyền được nghe như thế (như thị) đúng như lời Phật thuyết, nhất định không có sai khác, nhất định là nhân phương tiện lợi lạc”, hoặc “Sẽ nói văn cú như thế (như thị), đúng như xưa tôi đã nghe”.

Y theo sự dạy dỗ: Như có người nói “ngài nên như thế (như thị) mà tụng đọc kinh luận”. Lời như thị ở đây, xa thì đó là lời dạy của Phật, gần thì lời dạy của người truyền pháp.

Hoặc bảo chúng đương thời rằng: Đúng như thế (như thị), nên nghe điều mà tôi đã nghe khi xưa.

Y theo hỏi đáp: Nghĩa là khi có người hỏi: “Ngài sẽ nói điều mà khi xưa nhất định đã được nghe chăng?”, thì đáp rằng: “Đúng thật như thế (như thị) chính tôi đã nghe”.

Y theo sự hứa khả: Như có người nói “Tôi sẽ vì ông mà tư duy như thế (như thị), làm như thế (như thị), nói như thế (như thị)”, nghĩa là khi kết tập các vị Bồ-tát đều cùng nhau thỉnh rằng: Như điều ngài đã nghe, nên nói đúng như thế! (Như thị), vị Bồ-tát truyền pháp chấp nhận rằng: “Sẽ nói như thế (như thị), đúng như lời tôi đã nghe”. Hoặc tin có thể nói: “Việc này như thế, giống như đang nói đây, nhất định không sai khác”.

Do bốn nghĩa này mà đầu một bộ kinh có đặt câu “Như thị ngã văn”. Ngài Tam tạng Chân Đế nói rằng: “Luật vi tế ghi: “Khi ngài Anan lên tòa kết tập pháp tạng, thì thân hình như Đức Phật, đầy đủ tướng quý và vẻ đẹp, khi hạ tòa thì trở lại thân chính mình”, xét trong tập tạng lưu truyền cũng có thuyết này.

Từ đây lại sinh ra ba điều nghi:

  1. Nghi Đức Phật vì lòng đại bi, từ Niết-bàn trở lại thuyết diệu pháp.
  2. Nghi có một Đức Phật từ phương khác đến đây thuyết pháp.
  3. Nghi A-nan chuyển thành thân Phật để thuyết pháp cho đại chúng nghe.

Cho nên đầu kinh đặt “Như thị ngã văn” để phát tín tâm, trừ ba điều nghi này. Pháp Hoa chú ghi: “Như thị là điềm lành cảm ứng, “như” là do “thuận cơ” mà lập, “Thị” là từ “chẳng phải không” mà gọi. Chúng sinh lấy “chẳng phải không” làm cảm, Như Lai dùng “thuận cơ” làm ứng. Truyền kinh, nghĩa là dùng danh giáo phát xuất từ cảm ứng, cho nên lập “như thị”.

Chú Vô Lượng Nghĩa kinh ghi: “Bậc Chí nhân thuyết pháp, chỉ vì để hiển như, chỉ có như là thị, cho nên nói như thị.

Chửng công nói: “Vì lìa năm báng, cho nên gọi là như thị:

Câu thứ nhất, kinh này như thế (như thị) lìa chấp hữu tăng ích báng.

Câu thứ hai, kinh này như thế lìa chấp vô tổn giảm báng.

Câu thứ ba, kinh này như thế lìa chấp cũng hữu cũng vô tướng vi báng.

Câu thứ tư, kinh này như thế lìa chấp chẳng hữu chẳng vô ngu si báng.

Câu thứ năm, kinh này như thế lìa chấp chẳng phải chẳng phải hữu chẳng phải chẳng phải vô hý luận báng.

Quang Trạch ghi: “Như thế (như thị), sắp truyền lại điều đã nghe, làm tiền đề cho toàn một bộ kinh. Một bộ kinh như thế (như nhị), chính tôi đã nghe từ Đức Phật, tức là tôi đã nghe mà thuật lại vậy”.

Lương Võ Đế ghi: “Như thị nghĩa là như thế, tức lời Đức Phật dạy, cho nên nói là như nhị”.

Trường Nhĩ Tam tạng nói: “Như thị có ba nghĩa:

1. Căn cứ theo Phật, vì ba đời chư Phật cùng thuyết giống nhau không khác, gọi là như; đồng thuyết cho nên gọi là thị, do đây có thể tin, vì đồng thuyết.

2. Căn cứ theo pháp, thật tướng các pháp xưa nay không khác, cho nên gọi là như, như “như” mà thuyết, cho nên gọi là “thị”, lời đã xứng lý, chẳng tăng chẳng giảm, nhất định có thể tin, cho nên gọi là như thị.

3. Căn cứ theo tăng, vì điều A-nan nghe rồi truyền lại so với lời Phật dạy không sai khác, cho nên gọi là như, vĩnh viễn xa lìa các lỗi nên gọi là thị.

Vả lại nói như thị là lời tin thuận. Luận Trí Độ ghi: “Như thị ngã văn (Đúng thật như thế, chính tôi được nghe) là phát sinh tính tâm; tín thọ phụng hành (tin nhận cung kính thực hành) là phát sinh trí tuệ. Tín là năng nhập, trí là năng độ. Tín là nền tảng đầu tiên để vào đạo, trí là thuật u huyền để đạt đến cứu cánh. Có tín thì thuận với lý được trình bày, thuận thì thành tựu đạo thầy trò. Do tín nên pháp đã nói ra, đều có thể tin thuận theo. Do thuận, cho nên hai bên nói và nghe, thầy và trò được kiến lập. Trong chữ tín này có thể lược nêu mười cách giải thích:

1. Tín, theo kinh Nhân Vương… là nhân đầu tiên hướng vào Thánh vị, là pháp cao tột để chứng đế lý. Cho nên đứng đầu trong ba mươi tâm. Sắp nhập Thánh vị phải có tín căn tín lực, do có tín căn, nên vạn thiện sinh ra, có tín lực nên bốn ma không thể khuất phục được. Do đó, đầu kinh lập như thị để sinh tín.

2. Theo luận Tỳ-bà-sa, tín là cánh tay khỏe mạnh để nắm pháp vị mà dùng. Người học Phật pháp như loài voi lớn, dùng tín làm tay, dùng xả làm thân, dùng niệm làm cổ, dùng tuệ làm đầu, hai vai gánh vác các pháp thiện. Loài voi ăn uống, lấy vòi làm tay, cho nên người học pháp, đầu tiên phải sinh lòng tin.

3. Người học như một đại thương chủ, mong cầu được pháp bảo; cho nên đầu tiên phải sinh tín, để đạt bảy Thánh tài. Luận Hiển Dương Thánh Giáo ghi: Bảy Thánh tài là tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý, tín là một trong bảy pháp này.

4. Luận Du-già ghi: “Vào tất cả các pháp, thì dục là căn bản, vì sinh khởi hy vọng, tác ý là sở sinh vì luôn luôn cảnh giác, xúc là chỗ tập khởi, vì thời hòa hợp; thọ là dẫn nhiếp, vì lãnh nạp tại tâm; định là tăng thượng vì tâm vắng lặng, tuệ là tối thắng vì phân biệt thiện ác; giải thoát là kiên cố vì dứt trừ sự trói buộc; xa lìa là hậu biên vì giác đạo viên mãn. Tín là chỗ nương của dục, cho nên đầu tiên phải phát khởi.

5. Luận Thành Duy Thức ghi: “Tín như hạt châu thủy tinh, có thể làm trong sạch nước dơ, có thể chữa trị tự tánh của bất tín là vẩn đục.” Cho nên Trọng Ni (Khổng tử) nói: “Binh, lương thực và tín thì không thể bỏ.” Xuân Thu cũng nói: “Nếu như có lòng tin trong sáng thì một cọng cỏ nhỏ ở núi rừng, khe lạnh cũng có thể tiến cúng quỷ thần, một lá rau cũng có thể dâng cho vương công.”

6. Luận Câu-xá ghi: “Cứu vớt chúng sinh ra khỏi vũng bùn sinh tử thì chánh pháp là tay Phật, tức chánh tông; tín là tay của chúng sinh, tức là phần tựa. Vì hai tay tiếp giúp nhau để ra khỏi bùn lầy.”

7. Các luận đều nói: “Tín là nhân để vượt khỏi ác đạo, xa lìa sự bần tiện.” cho nên đã vào Thánh vị rồi thì có lòng tin chẳng hoại. Cho nên đầu tiên phải sinh tín. Ba nghĩa sau theo kinh giải thích.

8. . Trôi nổi nơi biển khơi thì phải nhớ vào hai tay để chèo thuyền; vượt khỏi giòng sinh tử, phải cần tín để phát tuệ.

9. Thấy tài vật cần phải có tay để nhặt; lấy nghe pháp bảo, cần phải nhờ tín mới nhận được.

10. Dạo đi nơi đồng hoang vắng vẻ phải có tay để sử dụng vũ khí, chống lại giặc cướp, ra khỏi giòng sinh tử phải có tín, phát sinh tuệ giải phải đoạn phiền não, do đó mà đầu kinh phải ghi: “Như thị ngã văn”, để khiến cho chúng sinh phát khởi lòng tin chân chánh.

Ở trên tổng hợp gồm hai mươi sáu cách giải thích. Ngã văn (tôi nghe):

Vị Bồ-tát truyền pháp tự chỉ bản thân mình mà nói rằng: “Pháp như thế, chính tôi nghe từ Đức Phật” cho nên nói tôi nghe (ngã văn).

Ngã tức các uẩn, là thế tục giả nhưng ngã có ba:

  1. Ngã do vọng chấp, là ngã do ngoại đạo cưỡng chấp trước.
  2. Ngã tạm lập bày, tức là ngã trong Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của đại Niết-bàn, do trừ bốn điên đảo của Nhị thừa mà tạm lập ra.
  3. Ngã do thế gian lưu bố, nghĩa là ngã được thế gian truyền xưng và chư thiên trao phó.

Nay người truyền pháp tùy thuận thế gian, tự xưng mình là ngã, chẳng thuộc hai nghĩa trước, tức là đại ngã của vô ngã.

Hỏi: Chư Phật thuyết pháp, tận trừ ngã chấp, vì sao chẳng gọi là vô ngã văn mà gọi là ngã văn?

Đáp: Vì có bốn nghĩa nên chỉ gọi là ngã văn:

  1. Vì ngôn thuyết dễ hiểu, nếu nói là vô ngã thì sẽ biết là ai nói.
  2. Thuận theo thế gian.
  3. Trừ sự sợ hãi về vô ngã, vì nói vô ngã thì ai tu học.. Vì còn có các sự nghiệp tự tha, nhiễm tịnh, nhân quả… Vì thế gọi là ngã.

Hỏi: Nếu thế thì sao không tự xưng tên, mà chỉ gọi là ngã?

Đáp: Có ba nghĩa:

1. Hiển thị việc chẳng trái với thế tục; tông tuy hiển chân, mà lời chẳng trái tục; lý tuy hiển diệu mà lời thì đơn giản, muốn hiển chân đế để chẳng lìa tục đế.

2. Ngã nghĩa là chư tể tự tại, A-nan nghe nhiều nhớ kỹ, những điều đã nghe được tích tập, ba tuệ đầy đủ, văn nghĩa giữ gìn chẳng mất, đối với ba tạng giáo gồm giữ một cách tự tại. Nếu tự xưng tên thì tuy thuận chánh lý, nhưng không được tự tại đối với các pháp. Do đó mà tự xưng là ngã, chẳng xưng là A-nan.

3. Ngã nghĩa là thân, tức chính mình, tự mình; người thế gian thường nói tôi thấy tôi nghe điều này, chính là từ thân chứng. Nếu nói A-nan nghe thì hoặc chẳng phải là chính mình nghe mà do người khác truyền thọ.

Nay muốn nêu lên việc chính mình được nghe từ Thế Tôn thuyết, chẳng phải do truyền lại mà nghe được để phá lưới nghi cho người vì thế chẳng xưng tên.

Nhưng nói ngã văn thì văn (nghe) là từ tai phát ra thức, nghe nhận điều đã nói, nay không luận đến nhĩ căn, chỉ căn cứ theo ngã mà gọi chung là ngã văn. Nhưng theo Đại thừa thì căn, thức, tâm sở, cảnh đến hòa hợp mới gọi là nghe (văn), nhưng căn có năm nghĩa thù thắng hơn thức, cho nên căn gọi là văn. Nếu chỉ nói văn thanh (nghe âm thanh) thì có thể chỉ tại tai (nhĩ căn), nay đã duyên với danh nghĩa, thì liền ở tại ý rồi.

Cho nên luận Du-già ghi: “Văn là tỷ lượng; nhĩ căn gọi là văn, nghĩa là tự thân nghe âm thanh qua cửa ý, ý mới nghe, nhân đó mà cái nghe (văn) thành tựu, nên gọi chung là văn. Nếu duyên với danh nghĩa gọi là văn, thì văn đó đã tại nơi ý, cho nên hợp danh văn, giản lược nhĩ căn và ý, gọi chung là ngã văn. Lấy nhĩ căn làm cửa, huân tập tại ý, nhân đó mà cái nghe thành tựu, gọi chung là văn, nên gọi là ngã văn”.

Ngài Khánh Hỷ lúc bấy giờ tuy cũng có kiến giác tri (thấy, hay và biết) Phật thuyết pháp, nhưng muốn chứng được lý sâu xa, trước hết cần phải nghe. Ở cõi này dùng âm thanh làm Phật sự, mong cầu chứng Bồ-đề, cần phải nhờ nghe huân tập. Do đó đầu kinh chẳng nói ngã kiến, ngã giác, ngã tri. Tuy nói ngã văn nhưng thật ra lúc bấy giờ cũng có thấy Phật thuyết pháp. Các cõi Phật khác dùng ánh sáng… Làm Phật sự, thì có thể nói là thấy (ngã kiến)…

Ngài Long Quân… đều nói: “Phật chỉ có ba pháp đó là đại tịnh, đại trí, đại bi, đã xa lìa hý luận từ lâu, chẳng từng thuyết pháp, vì do sức duyên của tâm Từ bi bản nguyện của chư Phật mà nơi thức của chúng sinh tướng văn nghĩa phát sinh, tướng văn nghĩa này tuy tự thân nương vào sức thiện căn sinh khởi, nhưng theo duyên mạnh mẽ, cho nên gọi là Phật thuyết. Do sức nhĩ căn và từ ý biến chuyển cho nên gọi là ngã 70 văn”.

Cho nên ngài Vô Tánh nói: “Văn, nghĩa là trên thức tu tập hiển hiện trực thuyết và phi trực thuyết, lấy đó làm thể tánh. Nếu thế thì vì sao Bồ-tát tuyên thuyết mà người kia lại sinh tăng thượng? Cho nên nói rằng: Thí như nhờ sức tăng thượng của chư Thiên mà khiến cho trong mộng thấy nghe được luận chú…

Cho nên kinh cũng nói: “Từ lúc đầu tiên mới thành đạo đến cuối cùng là vào Niết-bàn, ở khoảng giữa Đức Thế Tôn chẳng nói một lời, các ông cũng chẳng nghe”.

Ngài Thân Quang… cũng nói: “Phật lìa phân biệt mà gọi là không hý luận, chứ đâu phải không thuyết pháp mà gọi là không hý luận”, nghĩa là do sức duyên của thiện căn bản nguyện của người nghe mà trên thức Như Lai sinh ra tướng văn nghĩa, tướng văn nghĩa ấy là do sức thiện căn lợi tha của Phật phát khởi, nên gọi là Phật thuyết.

Ngài Thế Thân nói: “Do các thức tương tục khác sai biệt, nên khiến cho các thức tương tục sai biệt khác phát sinh, đây kia làm tăng thượng duyên cho nhau”, do đó mà kinh ghi: “Pháp mà ta nói ra như lá trong tay, còn những pháp mà ta chưa nói thì nhiều như lá trong rừng”.

Hai cách giải này tùy theo hai văn mà nương nhau để giải thích. Nên biết nói Như thị ngã văn là tránh được lỗi thêm bớt phân biệt. Nghĩa là “Pháp như thế chính tôi được nghe từ Phật, chẳng phải do người khác truyền lại”, đó là hiển thị việc người nghe có khả năng kham nhận được các điều đã nghe, đều lìa được lỗi thêm bớt phân biệt, chẳng phải như người ngu không thể kham nhận được các điều đã nghe, không thể xa lìa được lỗi thêm bớt phân biệt, cho nên khi kết tập, người truyền pháp vâng theo lời dạy của Như Lai mà đầu tiên nói lời này, hầu làm cho chúng sinh cung kính, tin nhận nói rằng: “Pháp như thế (như thị pháp), chính tôi được nghe từ Đức Phật thuyết, văn nghĩa đã quyết định, không có thêm bớt, vì thế người nghe nên nghe theo, rồi đúng như lý mà tư duy, tinh cần tu học.

Kinh: Nhất thời (Một thời)

Tán: Thứ hai, nói về thời gian thuyết giáo.

Đấng Pháp Vương thuyết pháp giáo hóa thì tất cả các căn cơ đều vân tập, khi thuyết và nghe đã xong, gọi chung là một thời. Đây là căn cứ theo sát-na tương tục không gián đoạn, thuyết và nghe đã xong, tạm gọi là một thời. Luận có hai cách giải thích:

1. Đạo lý thời, tức hai bên nói và nghe xa lìa chỉ có một hiện tại. Các hành của năm uẩn sinh diệt trong từng sát-na, tức là pháp hiện tại này có nghĩa thù đáp pháp trước dẫn sinh pháp sau, tức lấy pháp được thù đáp giả danh là quá khứ, lấy pháp được dẫn sinh giả danh là vị lai, tất cả đều từ pháp hiện tại mà giả lập. Tức các pháp năm uẩn của người nghe và người thuyết sát-na sinh diệt, trước sau tương sinh, việc đã xong thì ba đời giả lập được gọi chung là một thời, chẳng phải là một thời gian sinh diệt.

2. Duy thức thời, trên thức tâm của người nói và người nghe, biến thành tướng trạng ba thời mà khởi, thật ra là chỉ là hiện tại, tùy theo phần hạn của tâm mà biến thành dài ngắn, sự việc kết thúc gọi chung là nhất thời.

Như nằm mộng thấy cảnh, nghĩa là qua nhiều đời, giác vị chỉ do tâm, đều chẳng phải là cảnh thật; tâm của người nghe biến hiện ba thời cũng như thế, chỉ là sở duyên của ý, thuộc về bất tương ưng hành uẩn, pháp giới, pháp xứ.

Ở đây nói một thời thì:

  1. Không nhất định căn cứ theo Sát-na.
  2. Không nhất định căn cứ theo tương tục.
  3. Không nhất định căn cứ theo bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời…
  4. Không nhất định căn cứ theo thời gian, số năm sau khi thành đạo.

Nói nhất thời, chỉ là người nghe căn cơ đã thành thục, cảm được Phật nói, người thuyết có tâm Từ bi, ứng cơ mà luận, việc nói và nghe hoàn tất thì gọi là một thời, chẳng nhất định căn cứ theo sát-na, vì hạng người nghe pháp căn khí hoặc chậm chạp, thời gian thuyết thì hoặc là ngắn, thời gian nghe hiểu thì lâu dài; hoặc người thuyết thời gian dài, người nghe cũng thời gian lâu dài, trong một sát-na chưa thể hiểu được, cho nên chẳng căn cứ theo một sát-na. Cũng chẳng nhất định theo tương tục, vì người thuyết đắc Đà-la-ni, thuyết nghĩa một chữ thì tất cả đều thấu suốt, hoặc người nghe đã đạt được nhĩ căn thanh tịnh, khi nghe một chữ thì tất cả đều hiểu, cho nên chẳng phải tương tục.

Do căn cơ của người nghe trong một hội có lợi có độn, mà Như Lai dùng thần lực hoặc kéo dài một niệm thành kiếp, hoặc rút ngắn nhiều kiếp thành một niệm, không nhất định. Chỉ căn cứ theo việc thuyết và nghe đã rốt ráo mà gọi là một thời, không thể căn cứ theo một nghĩa nào; cũng không thể nhất định căn cứ theo bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời; vì một ngày một tháng, căn cứ theo bốn thiên hạ thì ấm lạnh dài ngắn, ngày đêm xa gần các phương không nhất định, chỉ có hai thiên hạ luôn luôn khởi dụng đồng nhau. Vả lại trừ cõi người ra, các cõi trời đều không có bốn thời và tám thời… còn kinh thì ấn định lưu thông ở tất cả các phương của cõi trên. Nếu nói bốn thời thì sự lưu hành không cùng chấp. Vì thế không nói bốn thời tám thời… cũng không nhất định căn cứ theo thời gian và số năm sau khi thành đạo, là vì chỗ thấy của hàng phàm Thánh ba thừa về báo thân hóa thân Phật, về số năm nhiều ít, thành đạo đến nay là xa hay gần, về pháp được nói, về sâu cạn mãn bán, mỗi mỗi đều khác nhau. Còn kinh thì định cho phàm Thánh ba thừa đồng được nghe, cho nên không nói riêng về bao nhiêu năm sau khi thành đạo. Nhưng trong các kinh lại có thuyết về bốn thời, như kinh Niết-bàn ghi: “Ngày mười lăm tháng hai”. Có thuyết nói về các danh từ sáu thời, tám thời, mười hai thời, như kinh Niết-bàn ghi: “Vào lúc sáng sớm, khi dùng cành dương”.

Kinh Kim Cang Bát-nhã ghi: “Dùng cơm xong thâu y bát, rửa chân rồi trải tòa mà ngồi, khi thời gian vừa đúng ngọ thì tuyên thuyết”.

Kinh Thượng sinh ghi: “Vào lúc đầu đêm”.

Kinh Di Giáo ghi: “Vào lúc nửa đêm, vắng lặng không một âm thanh”.

Có thuyết nói đến thời gian số năm sau khi thành đạo, kinh Thập Địa ghi: “Vào khoảng thời gian bảy ngày thứ hai thì tuyên thuyết giáo pháp trong điện Ma-ni bảo tạng ở cung trời Tha hóa tự tại”.

Kinh Pháp Hoa ghi: “Trong hai mươi mốt ngày tư duy xong liền thẳng đến thành Ba-la-nại, chuyển pháp luân bốn đế”.

Kinh Vô Lượng Nghĩa ghi: “Từ ta thành đạo đến nay đã hơn bốn mươi năm”, tuy có các thuyết như thế, nhưng cũng tùy theo một nơi chốn thấy nghe mà kết tập. Vả lại nói như thế nhưng vẫn chẳng phải là đề đầu tiên khi thuyết pháp, vì thế chỉ nên gọi chung là “một thời”.

Hỏi: Về nơi chốn thì có tịnh uế, tùy theo căn cơ mà ấn định nơi thuyết, thời gian thì có phàm Thánh khác nhau, sao lại không cho nói riêng?

Đáp: Nơi thuyết thì có tịnh uế, tịnh uế thì nhất định có thể biết, thời gian thuyết thì có dài ngắn, nhưng phàm Thánh không thể định được; cơ nghi của một hội có lợi có độn, thời gian dài ngắn làm thể nào để định chuẩn, cho nên nơi chốn thì có thể nói nhất định, mà thời gian thì chỉ có thể nêu chung.

Kinh: Bấy giờ, Đức Bạc-già-phạm

Tán: Đây là nói về giáo chủ. Phật có mười hiệu, đây là hiệu thứ mười. Bạc-già, nghĩa là Thanh danh, Phạm nghĩa là Cụ đức.

Nếu có người vì thanh danh bạc-già này, mà tự có thể phá bốn ma, đầy đủ sáu đức thì gọi là Bạc-già-phạm, vả lại bốn ma của phần đoạn sinh tử là phiền não ma, uẩn ma, tử ma và thiên ma. Một trăm hai mươi tám căn bản phiền não và tùy phiền não là phiền não ma. Năm uẩn hữu lậu là uẩn ma; vô thường tử diệt là tử ma; vua trời tha hóa gọi là thiên ma. Bốn loại này phá hoại các pháp thiện, khiến cho loài hữu tình lưu chuyển trong sinh tử, vô cùng tổn hại, nên gọi là ma. Phật phá dẹp được bốn loại này nên gọi là Bạc-già-phạm. Nếu căn cứ theo tướng giáo hóa thì ngồi nơi cội Bồ-đề nhập định Kim cang dụ phá ma phiền não; xả bỏ thân năm ấm nhập Vô dư Niết-bàn ở Sa-la Song lâm là phá ma uẩn; lưu sắc thân lại ba tháng là phá ma tử, tự tại đối với việc chết, cho nên có thể lưu giữ lại sắc thân; nơi cội Bồ-đề sau khi thành đạo, đầu tiên nhập định từ là phá thiên ma. Nếu căn cứ theo thật phá thì Bồ-tát Thập trụ (Thập địa) hiện tám tướng thành đạo phá dẹp thiên ma. Tuy kinh này sau đó, trong phần tán thán đức hạnh của Bồ-tát, thì Bồ-tát Địa thứ tám trở lên hay hàng phục ma oán, chế ngự ngoại đạo, tán thán năng lực của hàng Bồ-tát này là chẳng phải nay mới phá, vả lại phá bốn loại ma này phải là Bồ-tát Địa thứ tám trở lên, cho nên nay mới tán thán, chẳng phải nói Bát địa mới phá thiên ma. Ma uẩn, Địa thứ bảy trở về trước có phần đoạn tử thô, có uẩn hữu lậu, hoặc chưa có thể diệt, hoặc ở sơ địa đã xả bỏ. Địa thứ tám trở lên còn biến dịch sinh, nhất định đã xả bỏ ma uẩn thô, nếu xả bỏ ma uẩn vi tế thì cần phải đến giải thoát đạo; được Phật quả rồi thì bốn trí đều viên mãn, mới xa lìa hữu lậu. Phiền não ma, tức phiền não không cùng với vô minh làm bạn. Trong sinh quý trụ thứ tư của mười trụ thì chế phục gọi là xả. Trong gia hạnh vị thì có thể đốn phục xả bỏ phân biệt chủng tử phiền não và tùy miên. Sơ địa đoạn xả câu sinh phiền não, địa tiền Tiệm phục xả, sơ địa trở lên thì đốn phục xả. Nhưng có Bồ-tát trước Địa thứ bảy thời thời đã khởi, Địa thứ tám trở lên có thể quyết định phục xả; kim cang tâm khởi, chủng tử tập khí đều dứt mới vĩnh viễn đoạn xả. Sở tri chướng phân biệt, như phân biệt phiền não ma, câu sinh, nghĩa là trong mười Địa mỗi một địa đều có thể đoạn; trong sáu thức thì đến kim cang tâm, cùng với thức thứ bảy, đồng thời đều xả. Ma tử, là ma phần đoạn tử, có Bồ-tát vào sơ địa thọ thân biến dịch tức liền vĩnh viễn xả bỏ, có Bồ-tát đến Địa thứ tám mới thọ biến dịch, lúc ấy mới xả bỏ biến dịch tử kia, quyết định thành Phật. Đến giải thoát đạo mới vĩnh viễn phá dẹp.

Nay hiển bày bốn loại ma này Thế Tôn đều đã phá trừ cho nên gọi là Bạc-già-phạm. Vì thế luận Du-già ghi: “An nhiên ngồi nơi tòa Bồ-đề, phá dẹp bốn ma, gọi là Bạc-già-phạm”. Đầy đủ sáu đức; về sáu đức thì luận Phật Địa ghi: “Tự tại, xí thạnh và trang nghiêm; danh xưng, kiết tường và tôn quý”. Đầy đủ sáu nghĩa này nên biết, gọi chung là Bạc-già. Tự tại nghĩa là vĩnh viễn không bị các phiền não trói buộc; xí thạnh, nghĩa là lửa trí cháy mạnh thiêu đốt, đoan nghiêm nghĩa là đầy đủ các tướng tôn quý và những vẻ đẹp trang nghiêm; danh xưng, nghĩa là tất cả công đức thù thắng đều viên mãn, không gì không biết; kiết tường tất cả thế gian đều gần gũi cúng dường, đều xưng danh tán thán; tôn trọng, nghĩa là đầy đủ công đức, thường khởi phương tiện, làm lợi ích an lạc tất cả loài hữu tình, không biếng trễ. Do sáu đức này mà gọi là Bạc-già-phạm, chỉ có một tên mà bao hàm các đức, thế gian đều tôn trọng, cho nên các ngoại đạo đều gọi là bổn sư, gọi là Bạc-già-phạm. Do đó Thế Tôn dạy đầu kinh nên đặt lời này. Các nhà dịch kinh xưa đều muốn tĩnh lược, chẳng luận đến nghĩa có đầy đủ hay thiếu khuyết, mà đều đặt chữ Phật. Trong mười hiệu thì Phật là hiệu thứ chín, Bạc-giàphạm là hiệu thứ mười, hiệu thứ mười tổng gom chín đức, cho nên nay được nêu lên ở đầu kinh. Nhưng nay lại thay đổi đặt hiệu Phật thì tuy sở thuyên không khác nhưng năng thuyên hơi sai biệt. Do đó ngài Bồ-đềlưu-chi thời Hậu Ngụy nói: “Bạc-già-bà thì âm tuy hơi sai nhưng nghĩa thì không khác, như Phật Địa sớ đã giải thích đầy đủ”.

Hỏi: Trong ba thân thuộc về thân nào?

Đáp: Căn cứ theo giáo hóa thì Bạc-già-phạm thuộc về hóa thân; như trong phẩm Bồ-tát, Trì Kế nói: “Ta thấy tịnh độ”, cho nên biết đều là Phật tha thọ dụng, ứng hóa chẳng phải là chân thật, cũng chẳng phải là người thuyết pháp; suy công đức mà quy về gốc tức là pháp thân. Thân ứng vật, chẳng thể khởi riêng, ắt phải từ hóa sinh, đồng với Tự thọ dụng. Nhưng vì căn cơ bất đồng, ở một nơi mà lại thấy khác nhau, nên chẳng thể nhất định nói là thân báo, hóa. Nhưng căn cứ theo nơi chốn mà luận thì nhất định là hóa Phật, cho nên đoạn sau kinh ghi: “Đức Thích-ca Như Lai ẩn giấu vô lượng công đức tôn quý, muốn độ những người có căn cơ thấp kém này. Vì thế mới hiện cả nước tạp uế như vậy”. Cho nên biết đó là hóa. Nay hiển thị pháp của Đấng Chủ Tôn ắt phải thù thắng, nên đầu kinh ghi là Bạc-già-phạm.

Kinh: Trụ tại vườn Am-la-vệ nơi thành Quảng Nghiêm Tán:

Nói về nơi chốn giáo hóa.

Đây là địa phận ở trung Ấn Độ, nước tên là Phệ-xá-ly, Hán dịch là Quảng Nghiêm xưa âm là Tỳ-da-ly, Tỳ-xá-ly, Duy-da-ly, đều là sai lầm. Chu vi nước này hơn năm ngàn dặm, đô thành lớn của nước này, tuy nay đã hoang phế nhưng nền cũ vẫn còn, đo được sáu mươi bảy dặm. Nền của thành vương cung chu vi bốn mươi lăm ngàn dặm. Trong khoảng năm, sáu dặm về phía Tây bắc thành vương cung có một ngôi già-lam, là nơi tu tập của Chánh lượng bộ, gần bên có một ngôn tháp, Phật thuyết kinh Vô Cấu Xưng tại nơi đây, là nơi Trưởng giả Bảo Tánh dâng cúng lọng báu. Cách ngôi già-lam ba, bốn dặm về hướng chánh Bắc là khu vườn mà Am-la nữ dâng cúng Đức Phật. Đức Phật thường thiền định tại đây. Cách già-lam ba, bốn dặm về hướng Đông bắc có ngôi nhà cũ của Vô Cấu Xưng, lại cách đây không xa có một đền thờ thần hình trạng như một cái lũy gạch; tương truyền đây là nơi mà ngài Vô Cấu Xưng hiện bệnh thuyết pháp; lại cách đây không xa có một ngôi tháp là vườn cũ của trưởng giả Bảo Tánh, không xa nơi đây là nền nhà cũ của Am-ba-la nữ. Đô thành không có tên riêng, chỉ lấy tên nước làm tên đô thành, lấy tên đô thành làm tên nước, vì thế nước tên là Quảng Nghiêm, thành cũng tên Quảng Nghiêm. Trụ; nơi dừng nghĩ trong khi du hóa gọi là trụ. Quảng Nghiêm; quảng tức rộng rãi to lớn hơn đô thành các nước khác, nghiêm; tức tráng lệ hơn các cung điện của những vị vua khác.

  1. Việc tục điều thuận phong nhiêu.
  2. Chân đồ thì trang nghiêm rộng lớn, nên gọi là Quảng Nghiêm, biểu thị nghĩa của kinh bao hàm tất cả là quảng, văn đức trang hoàng gọi là nghiêm.

Am-la, Thiên Trúc có một loại quả tên là Am-một-la, ở đây gọi tắt, lược bỏ chữ một. Thành Quảng Nghiêm có một người con gái lấy tên loài quả này làm tên, gọi là Am-một-la nữ, cô gái này có một khu vườn rất đẹp, với cây cối sầm uất, khe suối trong veo, hoa thơm cỏ lạ, đá núi chất chồng, cảnh trí đủ để làm cho người lắng đọng tâm linh, đủ để thân cận bậc Thánh. Người con gái này thường chăm sóc vườn cây, sửa sang và tự giữ gìn nên gọi là Vệ. Vệ là âm Hán, ý nói người con gái ấy tự giữ gìn bảo vệ khu vườn của mình nên gọi là Vệ. Nàng Am-la dâng cúng khu vườn cho Phật, Đức Phật du hóa thường trụ tại đây, cho nên lấy đó làm tên. Quả biểu thị nghĩa đương quả, vệ có nghĩa quý trọng. Hiển bày việc nghe được diệu pháp tu hành thì có ngày nhất định sẽ đạt được đương quả, diệu pháp chẳng nên xem nhẹ, mà thường khuyên khiến bảo vệ, cho nên nơi này Đức Phật đã thuyết bộ kinh sâu xa này. Mới xem thì khu vườn của Am-la và nơi Dâng cúng bảo cái là một, nhưng Đức Phật ở bên trong khu vườn, còn hiến bảo cái thì ở bên ngoài, biểu thị dấu vết thì Nam Bắc bất đồng, nhưng lý thì không sai biệt. Nơi khu vườn vắng lặng biểu thị sự xa lìa ồn náo mà tự an vui. Đô thành xao động biểu thị việc khởi tâm từ bi để lợi ích hữu tình. Cho nên thành và vườn cùng nêu lên, là vì lợi ích cho cả đạo và tục, không trái nghịch nhau. Xưa có người giải thích rằng: “Người con gái này sinh ra từ cây Am-la, giống như Nại nữ, cho nên lấy đó làm tên”. Ở đây chẳng phải giải thích như thế, chẳng thể nghe theo, như Pháp Hoa thuyết ở Linh sơn, Bát-nhã thuyết ở Xá-vệ, Niết-bàn thuyết ở Kim hà, kinh này thuyết ở thành Quảng Nghiêm, mỗi mỗi đều có nguyên do.

Hỏi: Xem nơi giáo hóa này thật là uế độ, vì sao Phạm vương nói: “Tôi thấy cõi này xưa nay thanh tịnh”

Đáp: Đây là muốn hiển tâm Từ bi của Phật vì hóa độ mà biến thành cõi uế, thật ra chỗ thắng của Bồ-tát thì chỉ trụ ở cõi tịnh. Báo hóa khởi nơi phàm Thánh, tịnh uế khởi từ hai tâm, mà Phật thì không có chuẩn mực để định, xứ sở cũng chẳng thể biết. Chẳng thể cùng nêu lên tịnh uế, chỉ nêu lên một nơi giáo hóa, nghĩa chuẩn xác của ba quốc độ cũng chẳng trái nhau. Dùng Phật mà ấn định quốc độ, thì lý thật có thể rốt ráo.

Kinh: Cùng với tám ngàn đại Bí-sô đều đến tham dự.

Tán: Đây là phần thứ hai nói về chúng viên mãn. Trước tiên lược nêu lên năm môn để phân biệt:

  1. Nêu mục đích lý do.
  2. Hiển quyền thật.
  3. Định nhiều ít.
  4. Thứ tự về chúng.

(Bản Hán tạng không có môn thứ năm).

1. Mục đích lý do có năm:

– Chứng minh là kinh đáng tin, dứt trừ ba điều nghi: Nghi ngài Khánh Hỷ tự thuyết kinh, nghi nghe từ người khác thuyết mà nói lại, nghi chẳng phải do Phật thuyết. Nay nêu lên đại chúng đương thời để ấn chứng cho pháp không nghi, khiến mọi người phát tín tâm, vì thế luận Đại Trí Độ ghi: “Thuyết thời gian, xứ sở và đại chúng, để khiến sinh lòng tin”.

– Hiển đức độ tôn quý cao tột: Chư Phật có đức tôn quý, ở trong đại chúng thì hào quang che mờ bốn bộ chúng, như Đế Thích ở cõi trời, Phạm vương trụ trong định. Cho nên văn kinh sau có ghi: “Ví như núi chúa đại bảo Diệu cao, xuất hiện vòi vọi nguy nhiên giữa biển khơi, Đức Phật ngồi trên tòa sư tử Bảo tạng, oai quang chiếu soi rực rỡ che mờ cả đại chúng, ý cũng như thế.

– Hiển thị cho việc về sau sẽ phát dương: Thu Tử sinh nghi, cõi Đại thiên biến thành thanh tịnh; ngài Diệu Cát Tường đầy đủ đức trí được Đức Phật sai đến đối đáp, khích phát. Hai chúng Thánh phát khởi đầu tiên, tám bộ tùy tín theo sau.

– Đương cơ được lợi ích: Tám bộ, bốn chúng phát tâm vô thượng, Bồ-tát Thanh văn đạt tâm Bồ-đề, tùy duyên ngộ đạo, đã ghi tại văn kinh, như trên đã thuật, chẳng cần phải phiền dẫn chứng.

– Hàng thân cận chiêm ngưỡng, dùng quỹ phạm để dẫn dắt: Luận Phật Địa ghi: “Bồ-tát Thanh văn là thân cận (phụ dực) viên mãn, tám bộ bốn chúng là quyến thuộc viên mãn”, tất cả đều do tâm Từ bi phát khởi, tâm an nhẫn ban cùng khắp, khiến cho loài hàm linh ai mà chẳng vân tập đến. Các chúng này vân tập đến để dẫn nhiếp các chúng sinh khác phát tâm. Kinh đã ghi rõ, lại khiến nên đương thời phát tâm. Phàm đến trụ xứ của Phật, gồm có hai duyên:

  1. Chiêm ngưỡng.
  2. Nghe pháp.

Hàng căn cơ thuần thục đương thời hội đạo, còn hàng căn cơ chưa thuần thục ngay hôm ấy phát tâm.

1. Hiển quyền thật:

Căn cứ theo kinh Phật Địa: “Hàng Thanh văn và bát bộ nói trong cõi thanh tịnh đều là do chư Phật Bồ-tát biến hiện ra để trang nghiêm đạo tràng, dẫn nhiếp chúng sinh, khiến cho họ phát đạo tâm. Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Như nước, chim… đều do Phật biến hóa ra”. Căn cứ theo kinh này thì tất cả Bồ-tát sinh ở cõi này đều ẩn đức thù thắng, hiện khởi bi tâm bền chắc, tùy loại chúng sinh mà nhiếp hóa. Cho nên biết Phật trụ ở uế độ thì hàng Thanh văn là thật, Bồ-tát là quyền; Phật trụ ở tịnh độ thì Thanh văn là quyền, Bồ-tát là thật. Căn cứ theo việc ở tịnh uế mà nghĩa có thể biết được, còn chúng quyền thật khác thì lý khó có thể chuẩn định. Nếu căn cứ Thiên nữ ở phương trượng, Bồ-tát thọ thức ăn thì kinh văn đã nói, còn các loài khác thì khó biết.

2. Định nhiều ít:

Luận theo phàm Thánh có hai: Bồ-tát, Thanh văn là Thánh, các loài khác là phàm; hoặc chúng đầu tiên hoặc chúng sau cùng. Chúng đã trụ tại Am viên là chúng đầu tiên, chúng mà ngài Vô Cấu Xưng từ nơi khác đem đến vườn Am-la là chúng sau cùng. Luận theo bộ loại thì có ba:

  1. Chúng đại Thánh.
  2. Chúng Bát bộ.
  3. Chúng Bốn bộ.

Tất cả Bồ-tát, Thanh văn trước và sau là chúng đại Thánh, tất cả phàm phu có oai đức là chúng tám bộ, các trời Thích, Phạm hộ vệ thế gian… Vì xếp vào chư Thiên trong bát bộ, cho nên không nêu riêng. Nếu ở loài người, thì hàng đã vào đạo mà sống ở thế tục, có giới hạnh, thì gọi là bốn bộ chúng, hoặc bốn chúng, loại thứ ba là thiên chúng ở cõi này, còn ba loại khác thì như trước đã nói. Trước sau hợp thành chín loại, đầu tiên có bảy chúng: Thanh văn, Bồ-tát, Phạm vương ở phương khác; Đế Thích ở phương khác; chúng bát bộ oai linh; chư Thiên ở cõi này, như đoạn văn kinh sau nói bát bộ chúng… là nêu lên các trời Thích, Phạm hộ vệ thế gian. Bản dịch xưa không có ghi việc này; loại thứ bảy là bốn bộ chúng có giới hạnh. Sau có hai loại: Chúng của ngài Vô Cấu Xưng. Như trong phẩm Bồ-tát Hạnh nói: “Mang đến trụ xứ của Phật”, trong phẩm Hương Đài nói: “Nước Diệu Hương có chín trăm vạn Bồ-tát cùng với cơm đều được đưa đến trượng thất của Duy-ma-cật”. Lại ghi: “Trưởng giả Chư Nguyệt Cái cùng tám mươi bốn ngàn người đều vào trượng thất của ông Duy-ma-cật”. Đó đều là những vị về sau cùng đến với ngài Duy-ma-cật, được xếp vào chúng Vô Cấu Xưng. Hai, chúng ở cõi Diệu Hỷ, tức cõi Phật A-súc do ngài Vô Cấu Xưng ở tại trụ xứ của Phật vận sức thần thông mang đến, không luận bàn. Tổng cộng gồm mười chín chúng: Thanh văn, Bồ-tát, Phạm vương ở cõi khác, Đế Thích ở cõi khác, các vị trời khác, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẫn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Phạm Thích ở phương này, Bí-sô, Bí-sô¬-ni, Ô-ba-tố-ca, Ô-bà-tư-ca, chúng Vô Cấu Xưng, chúng cõi Phật Bất Động. Trong đó có bốn nhóm chúng khác nhau:

1. Ba cõi không có cõi Vô sắc, trong kinh Nhân Vương có đủ, kinh này không có. Vì cơ nghi chưa thành thục không có duyên với Phật pháp.

2. Năm đường, không có địa ngục, kinh Đà-la-ni có nhóm chúng này, kinh này không có, vì tu tâm Đại thừa ắt có chỗ tự do, ở địa ngục không có thời gian nhàn nghĩ, cho nên chúng này không tấn, còn minh chú có sức oai thần, vốn để trừ khổ cho nên thuyết Đà-la-ni thì chúng địa ngục có đến.

3. Chúng vua tôi, không có hai vị vua, kinh Pháp Hoa có đủ, kinh này không có, tức Luân vương và tiểu vương, cả hai kinh này không nêu lên.

4. Chúng Tam thừa, không có Độc giác. Kinh Nhân Vương có, kinh này không có. Vì bậc Độc giác xuất thế phần nhiều không gặp Phật, lúc bấy giờ căn cơ chưa thuần thục, vì thế không nêu lên.

3. Thứ tự về chúng:

Luận Phật Địa đã có giải thích, ở đây nêu lên bốn nghĩa:

  1. Hình tướng bất đồng.
  2. Ngồi có xa gần.
  3. Giới hạnh khác nhau tùy loại hóa sinh.
  4. Khiến các Bồ-tát bỏ tâm kiêu mạn đối với Thanh văn.

Đây là căn cứ theo thứ tự Thanh văn, Bồ-tát, thứ tự các chúng khác, tùy theo chỗ thích ứng mà biết được. Đầu tiên nêu lên bốn viên mãn trong chúng: Hạnh viên mãn, số viên mãn, công đức viên mãn và oai nghi viên mãn.

Hạnh viên mãn gồm có bốn:

  1. Hàng Thanh văn tu hạnh Tiểu thừa, có tên là Bí-sô.
  2. Bồ-tát tu hạnh Đại thừa, có tên là Bồ-tát.
  3. Các Bồ-tát thường tùy loại giáo hóa, thân tướng không nhất định, nên có tên là Bồ-tát.
  4. Thanh văn thân tướng nhất định, gọi là Bí-sô.

Số viên mãn, Thanh văn thì có tám ngàn, Bồ-tát thì ba mươi hai ngàn. Công đức viên mãn, nghĩa là tất cả đều là bậc mà mọi người đã quen biết. Chung và riêng hợp lại gồm bốn mươi mốt câu. Oai nghi viên mãn, như nói “Lúc bấy giờ Thế Tôn với vô lượng trăm ngàn các đại chúng…” Đây là bốn loại viên mãn, Bồ-tát có đầy đủ, còn Thanh văn chỉ có ba:

  1. Hạnh viên mãn, nên gọi là Bí-sô.
  2. Số viên mãn, tám ngàn người, oai nghi viên mãn, đồng như Bồ-tát.

Nay hiển về trong ngoài tu tập của hàng Bồ-tát cho nên chỉ luận về đức, hàng Thanh văn thì không như thế, cho nên không tán thán đức, chẳng đồng các kinh khác. Phạm vương và Đế Thích ở phương khác có hai viên mãn là số và oai nghi; chẳng lấy hạnh làm tên, chẳng tán thán đức. Bốn chúng như Bí-sô… cũng có hai viên mãn là hạnh và oai nghi. Chẳng tán thán đức, chẳng nêu số lượng.

Tám bộ chúng chỉ có một là oai nghi mãn, vì chẳng lấy hạnh làm tên, chẳng tán thán đức, chẳng nêu số lượng. Trong các chúng thành thục, theo văn lại có hai: Đầu tiên nêu lên đại chúng, sau nói về oai nghi.

Nên đại chúng lại có hai là Thánh và phàm. Bồ-tát, Thanh văn là Thánh, tám bộ bốn chúng là Phàm, hoặc có ba: Chúng đại Thánh, chúng tám Bộ và chúng bốn Bộ, hoặc có sáu như trước đã ghi: Thánh chúng là hai:

  1. Thanh văn.
  2. Bồ-tát.

Đây là nói về chúng Thanh văn, Đức Phật cùng với đại chúng tập hội cho nên gọi là “Cùng với”.

Đại gồm năm nghĩa:

  1. Danh xưng đại, đó là những người mà đại chúng và các bậc đại nhân quen biết.
  2. Giai vị đại, vì đều trụ ở quả Thánh chẳng phải phàm phu.
  3. Công đức đại, các lậu đã hết, chứng trí đoạn.
  4. Tu hành đại, vì cầu đại Bồ-đề, tu tập tất cả các hạnh.
  5. Đồ chúng đại, vì có tám ngàn vị.

Âm Phạm: Bí-sô, gồm năm nghĩa:

  1. Bố ma, vì phát tâm xuất gia thì bốn ma đều sợ hãi.
  2. Khất sĩ, xin ăn để nuôi sống, cứu độ tự và tha.
  3. Tịnh mạng, xa lìa năm thứ tà mạng, ba nghiệp chân chánh.
  4. Tịnh giới, trụ ở giới hạnh, oai đức chưa từng thiếu sót.
  5. Phá ác, tu đạo được quả đoạn trừ phiền não.

Tăng-già gọi là chúng, đã chứng lý pháp và sự, cả hai hòa hợp. Bậc học và Vô học tính chung gồm tám ngàn người cùng với Phật tụ hợp tại một nơi, gọi là đều (câu).

Kinh: Ba mươi hai ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát.

Tán: Đây là nói về chúng Bồ-tát. Gồm có bốn:

  1. Nêu tên chung và số lượng.
  2. Tán thán công đức.
  3. Nêu tên riêng.
  4. Nêu lên tổng kết: “Các vị Bồ-tát thượng thủ như thế”.

Đây là phần đầu: Bồ-tát Ma-ha-tát là tên chung, ba mươi hai ngàn là số lượng. Bồ-đề Tát-đỏa gọi tắt là Bồ-tát. Gọi đủ gồm bốn nghĩa: Bồ-đề là giác, tức trí cầu Phật quả; Tát Đỏa tức hữu tình là chúng sinh được độ. Nhiếp luận ghi: “Dùng Bồ-đề Tát-đỏa làm cảch sở duyên, cho nên gọi là Bồ-tát; Bồ-tát tu tập hai lợi ích tự và tha, hai lợi tức hai hạnh, cho nên lấy đó làm tên. Vả lại Bồ-đề như trước đã giải thích, Tát-đỏa là hữu tình, nghĩa là các Bồ-tát còn có dị thục thức cho nên gọi là hữu tình, tức là hữu tình cầu đại Bồ-đề, phân biệt với loại hữu tình khác, cho nên gọi là Bồ-tát. Vả lại Bồ-đề như trước đã giải thích, Tát-đỏa có nghĩa là mạnh mẽ, tức không sợ nơi chốn hay thời gian, không tham tiếc tài bảo, dõng mãnh cầu đại Bồ-đề. Phân biệt với sự dõng mãnh của các hữu tình sinh tử khác cho nên gọi là Bồ-tát. Nhiếp luận ghi: “Có ý chí có năng lực, cho nên gọi là Bồ-tát”. Kinh Thập Nhất Diện ghi: “Bồ-đề tức Bát-nhã, Tát-đỏa tức phương tiện.” Kinh Pháp Hoa ghi: “Sở chứng của chư Phật, sâu xa khó biết, ngôn thuyết diễn bày, ý thú khó hay”, tức có trí tuệ, có phương tiện, có thật trí, quyền trí, chân trí, tu trí, lý trí, sự trí tự lợi lợi tha cho nên gọi là Bồ-tát. Ma-ha Tát-đỏa gọi tắt là Maha-tát; Ma-ha nghĩa là Đại; Tát-đỏa, như đã giải thích. Vì để phân biệt với hàng Nhị thừa, phàm phu trước mười Địa và Bồ-tát Địa thứ bảy trở về trước, cho nên đặt là Đại. Các vị Bồ-tát này đều là những Bồ-tát Địa thứ tám trở lên, chẳng phải những vị trước. Ba vạn hai ngàn là những bậc căn cơ đã đầy đủ, chỉ nêu lên Bồ-tát thượng vị còn hạ vị thì theo đó cũng có thể biết được. Cho nên không nêu riêng.

Kinh: [Đều được những bậc trọng vọng (chúng vọng) biết đến.]

Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ hai nói về việc tán thán công đức. Đoạn này gồm bốn mươi mốt câu, bốn mươi câu đầu là tán thán riêng về công đức, một câu sau là tổng kết công đức sâu rộng, cùng kiếp tán thán cũng khó cùng tận. Bản dịch xưa chỉ có ba mươi tám câu mà thôi. Trong bốn mươi mốt câu, thì câu thứ mười là nói: “Niệm định tổng trì không đâu chẳng viên mãn”, câu thứ mười một: “Kiến lập trí môn vô ngại giải thoát”, thì bản kinh xưa hợp chung là: “Tâm thường an trụ vô ngại giải thoát”. Câu thứ ba mươi mốt: “Chánh trực thẩm đế, nhu hòa vi mật”, thì bản dịch cũ không có. Câu thứ ba mươi bốn: “Đạt được vô đẳng Phật trí quán đảnh”; câu thứ ba mươi lăm: “Cận lực vô úy bất cộng Phật pháp”; bản dịch cũ hợp chung là: “Cận vô đẳng đẳng Phật tự tại tuệ, mười Lực, Vô úy, mười tám pháp Bất cộng”. Vì thế bản cũ chỉ có ba mươi tám câu. Người xưa cũng có phân khoa riêng về mười Địa, trong đó chỉ tán thán Địa thứ tám trở lên, hoặc là Địa thứ mười; nhân vị đã rốt ráo, mà không tán thán những giai vị trước, tức chẳng phải tán thán Địa thứ bảy về trước thần thông đã đầy đủ vĩnh viễn xa lìa hoặc chướng trói buộc; tổng trì viên mãn. Trong đó văn cú đã lược bỏ sai lầm, đến văn sẽ giải thích. Phần tán thán riêng trong bốn mươi câu đầu; được phân làm hai mươi mốt loại công đức thù thắng: Hai câu đầu nói về đức ủy thác ngoại hóa của người khác; hai câu kế nói về đức tha hộ tư hộ; ba câu kế nói về đức lợi tha kế thừa tha; trong lợi tha có hai câu là thuyết pháp và thiện hữu. Hai câu tiếp nói về đức hàng phục nhân ác pháp ác; ba câu kế nói về đức nội đức ngoại biện; nội đức có hai, năng phát và sở phát là hai câu. Niệm định, tổng trì là nhân năng phát, giải thoát trí môn là quả sở phát; trí do niệm định tổng trì phát khởi; hai câu kế nói về đức hạnh thành trí mãn; sáu độ là hạnh thành; ba vô sinh nhẫn là trí mãn; hai câu kế nói về đức thuyết pháp đạt lý; hai câu kế là nói về đức trí căn năng phục; ba câu kế nói về đức nhân nghiêm quả mãn, quả mãn có hai, đạt diệu thể lìa nhân ác là hai câu; hai câu tiếp nói về đức danh cao tín trọng; hai câu kế nói về đức pháp thắng âm diệu; một câu kế nói về đức lìa biên hội trung; hai câu kế nối về đức quyết định sâu xa; một câu kế nói về đức siêu xuất tính chấp; hai câu kế nói về đức tích thiện lìa ác; hai câu kế nói về đức đạt lý chứng chân; hai câu kế nói về đức nói vị kế đạo; hai câu kế nói về đức chẳng trụ nhị biên, trừ ác thú, vượt hầm sâu nhờ duyên khởi, phân sinh tử làm hai loại, đều chẳng trụ bên sinh tử; thị hiện sinh vào các đường mà chẳng trụ bên Niết-bàn. Kế đến một câu nói về đức theo bệnh cho thuốc; một câu kế nói về đức nội ngoại nhị nghiêm; một câu kế nói về đức tự tha chẳng hư vọng. Căn cứ theo văn nghĩa, từ sự chế định này, các bậc có trí nên như lý mà hiểu. Bốn mươi mốt câu tán thán riêng về đức, nên mỗi mỗi lập tên. Đều được những bậc trọng vọng biết đến; đây là tán thán Bồ-tát có đức lớn vị cao, người trí đều quen biết; công đức thù thắng, quốc vương, đại thần trưởng giả, cư sĩ, các bậc có tài đức đều suy vọng, tức là bậc kiệt xuất chiếu soi mọi người nên gọi là chúng vọng. Nay các Bồ-tát được những bậc mà tất cả mọi người trọng vọng này biết đến ví như những bậc thông tuệ thấy biết sáng suốt, các Bồ-tát này vị cao đức lớn được mọi người biết đến cũng như thế. Chẳng phải là hàng phàm phu biết đến, dẫu biết đến cũng chưa trân trọng. Luận Trí Độ ghi: “Vua của chư Thiên, vua của loài người và các bậc Địa nhân”; nay chủ yếu là được mọi người biết đến. Các vị Bồ-tát này đều được đại chúng tôn trọng chiêm ngưỡng, được đại chúng biết đến. Hai nghĩa đều đầy đủ. Xưa nói: “Mọi người đều quen biết,” thì không có hai nghĩa này.

Kinh: Đã thành tựu việc tu tập nghiệp đại thần thông.

Tán: Đây là tán thán công đức diệu dụng lợi tha, biến khắp mười phương; phát khởi sự giáo hóa khó nghĩ bàn, nhân đã thành tựu. Nghiệp tức là sự nghiệp có nghĩa tác dụng, thể tức thần thông. Sự nghiệp của Bồ-tát có tác dụng lợi tha, tức là thần thông. Luận Thành Duy Thức quyển thứ chín giải thích hai ngu của Bồ-tát Địa thứ mười; một trong đó là Đại thần thông, tức là sự nghiệp được phát khởi. Bản dịch xưa ghi: “Đại trí và bản hạnh đều thành tựu”. Tuy văn nói chung là bản hạnh, nhưng đó cũng là thần thông lợi ích chúng sinh.

Kinh: Oai đức của chư Phật… luôn nhiếp thọ chánh pháp.

Tán: Hai câu đầu nói về công đức tu tập hạnh rộng lớn được chư Phật nhiếp thọ. Hai câu sau nói về công đức khinh thân trọng đạo giữ gìn diệu pháp. Địa thứ tám trở lên có thể tu tập các hạnh, nơi biển vô tướng có thể tự tại tiến tu, được chư Phật trong mười phương duỗi tay xoa đầu, dùng oai lực thần thông cùng đức phước tuệ, trong tất cả thời luôn luôn giúp cho tăng trưởng sức lực, giữ gìn chẳng bỏ mất, vì thế nên gọi là đức tu tập rộng lớn được chư Phật nhiếp thọ. Bản dịch xưa ghi là kiến lập; thì không có nghĩa này. Thành pháp có hai nghĩa: Một là pháp tức là thành, các Bồ-tát này như người giữ thành, thường chống giữ không cho kẻ bên ngoài xâm nhập làm tổn hại. Người nương vào Phật pháp tu hành gọi là người trong thành. Thành có nghĩa phòng giữ chế ngự bên ngoài, người tu hành ở trong thành phòng giữ, án ngữ bên ngoài không cho bốn ma xâm nhập. Cho nên pháp gọi là thành, hoặc gọi chánh pháp như người ở trong thành, Bồ-tát như thành, Bồ-tát khéo léo làm thành trì hộ pháp. Các vị Bồ-tát này xả bỏ thân mạng tài sản giữ gìn chánh pháp, có thể nhiếp thọ chánh pháp.

Kinh Thắng Man ghi: “Nhiếp thọ chánh pháp”. Chánh pháp có bốn là giáo, lý, hạnh, quả. Bốn pháp này đều có thể nhiếp thọ, lãnh nạp nơi chính mình; hoặc nhiếp trì, chưa từng xả bỏ, tùy chỗ thích ứng đều có thể gom nhiếp bốn pháp; đối với các pháp khéo học, khéo tuyên thuyết, đối với lý khéo quán xét, khéo liễu đạt, đối với hạnh thì khéo tu khéo tập, đối với quả thì khéo biết khéo chứng. Hoặc đoạn tất cả ác tu tất cả thiện, độ tất cả chúng sinh gọi là nhiếp chánh pháp. Phàm các pháp thiện được tu tập đều gom nhiếp về chánh pháp, pháp ác được xa lìa đều nhiếp về chánh pháp, việc lợi sinh đã làm đều nhiếp về chánh pháp. Cho nên kinh Thắng Man ghi: “Nhiếp thọ chánh pháp, nghĩa là được vô lượng tất cả Phật pháp”. Gom nhiếp tám mươi bốn ngàn pháp môn, xả bỏ thân mạng tài sản để nhiếp thọ chánh pháp. Chữ thiện (khéo léo) ở đây không chỉ là Thiện hộ thành pháp mà còn thông xuống Câu thiện nhiếp chánh pháp, hoặc chữ thiện nói riêng cho một câu trên mà không chung cho các câu dưới. Vì giữ gìn thành pháp lại có thể nhiếp thọ chánh pháp, cho nên gọi là công đức khinh thân trọng đạo gom nhiếp giữ gìn diệu pháp.

Kinh: Dùng tiếng rống sư tử… Biến khắp mười phương.

Tán: Đoạn này nói về công đức thuyết pháp rộng lớn và giác ngộ. Đoạn dưới nói: “Diễn nói pháp vô úy như tiếng rống sư tử”. Mới nghe tưởng như giống với nghĩa giác ngộ ở đây. Nhưng ở dưới nói rằng: “Dùng tiếng thuyết pháp quyết định vô úy, như tiếng rống sư tử”, nay dùng để giác ngộ chúng sinh, khiến cho họ tăng trưởng đạo tâm, giống như tiếng rống sư tử, cho nên chẳng đồng. Khi sư tử rống thì có mười một việc.

Kinh Niết-bàn ghi:

“1. Phá những tiếng thật chẳng phải sư tử mà dối xưng là sư tử.

  1. Tự thử nghiệm sức lực của bản thân.
  2. Tự làm vắng lặng trụ xứ.. Khiến biết được nơi ở.

2. Khiến mọi loài không có tâm sợ hãi.

  1. Tỉnh thức người ngủ say.
  2. Làm cho loài cầm thú không được buông lung.

3. Khiến các loài thú đều đến quy thuận.

  1. Điều phục loài đại hương tượng.
  2. Dạy dỗ các con.
  3. Trang nghiêm quyến thuộc”.

Các Bồ-tát này thực hiện tiếng rống như sư tử ý nghĩa cũng như thế:

  1. Phá dẹp ma quân.
  2. Hiển hiện các thần lực.
  3. Chỉ bày chỗ thực hành của Phật.

4. Làm chỗ quy về cho những kẻ tà kiến.

5. An ủi những chúng sinh sợ hãi.

  1. Làm cho chúng sinh tỉnh thức giấc ngủ vô minh.
  2. Khiến cho những chúng sinh hành ác pháp khởi tâm sám hối.

6. Chỉ ra pháp tà kiến, khiến chúng sinh biết lục sư… chẳng phải là sư tử chân thật.

  1. Phá các Nhị thừa như Phú-lan-na… khiến cho những vị này sinh tâm hối cải.
  2. Giáo hóa hàng Bồ-tát ngũ trụ, khiến cho sinh tâm đại dõng mãnh.
  3. Làm cho những bậc có chánh kiến không sinh tâm dọa sợ, vì Bồ-tát có khả năng phá dẹp hàng phục.

Dùng âm thanh sư tử hống để phu diễn. Phu nghĩa là khai phát, đánh thức kẻ sơ cơ, diễn nghĩa là nói rộng ra, giác sát hàng căn cơ thuần thục. Đã trụ ở Thập địa, có thể biến khắp mười phương; thuyết pháp như mây mưa, âm thanh thuyết pháp, vang xa khắp mười phương, âm thanh hay tốt gọi là mỹ âm. Hà nghĩa là xa; chấn tức là dương cao. Tiếng nói của Thế Tôn, âm vận đầy đủ, tùy theo đại chúng nhiều ít mà tất cả đều được nghe. Các vị Bồ-tát này tùy chúng sinh ở mười phương mà âm thanh hay tốt này cũng biến thành âm vận đầy đủ. Bản dịch xưa gọi là “Danh văn mười phương”, cùng với câu “danh xưng cao viễn” ở đây đâu có gì sai khác? Có thể nói danh tức là âm thanh thuyết pháp, thì không bị mất nghĩa này.

Kinh: Vì các chúng sinh… có thể làm cho chẳng tuyệt.

Tán: Hai câu trên nói về công đức của ba loại từ bi cứu khổ; hai câu sau nói về công đức kế thừa Pháp vương chẳng để đoạn tuyệt. Từ, Bi, Hỷ, Xả mỗi mỗi đều có ba:

  1. Hữu tình duyên, khởi tưởng có giả hữu tình.
  2. Pháp duyên, chẳng thấy có giả hữu tình.
  3. Vô duyên, trong pháp ấy cũng xa lìa sự phân biệt, chỉ thấy như mà thôi.

Hoặc cho rằng pháp duyên là duyên mười hai phần giáo, vô duyên thì chẳng thấy hữu tình và pháp, mà thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, chẳng thấy ngoài thân có thật chúng sinh, chúng sinh tức tự kỷ, cho nên hành Từ bi. Làm người bạn chẳng mời. Ví như cha mẹ thương xót cứu giúp con cái, không cần đợi mời thỉnh. Ở các giai vị trước hoặc đợi người thỉnh mới đến cứu giúp, chưa thể tự tại làm người bạn chẳng mời. Đây đều là do tâm Từ bi sâu xa tự tại. Kinh Trường A-hàm ghi: “Có bốn loại bạn ác:

  1. Bạn ác như thân thuộc, vì sợ mà quy phục, chứ thật chẳng có ý muốn thân thiết.
  2. Bạn ác nói lời hay, tức lời nói thì thuận mà ý thì trái nghịch.
  3. Bạn ác kính thuận, tức tâm tuy kính thuận nhưng khi làm thì thiện ác đều nghe theo, không có tâm can ngăn lẫn nhau.
  4. Bạn ác là bạn làm việc ác, hoặc cùng uống rượu, đánh bài, ca múa, dâm dật…

Trong bốn loại này mỗi mỗi đều có bốn, cần phải xa lánh.

Lại có bốn loại bạn tốt:

  1. Bạn tốt ngăn dứt điều lỗi, ngăn cấm nhau về các việc ác.
  2. Bạn tốt từ mẫn, tức có khổ cùng cứu giúp.
  3. Bạn tốt lợi người, tức cùng làm các việc thiện.
  4. Bạn tốt đồng sự, bạn cùng nhau làm việc thiện.

Trong mỗi loại đều có bốn, phải nên gần giữ. Các vị Bồ-tát này thường làm bốn người bạn tốt này với chúng sinh.” Tam bảo ở đây, lược giải thích hai nghĩa:

1. Đồng thể Tam bảo. Chủng tức chủng tử tức Như Lai tạng, là nhân vô lậu của quả Phật. Các Bồ-tát này, tu tập các chủng tử không để đoạn dứt, thường tinh cần cầu chứng ngộ.

2. Biệt thể Tam bảo, tức hữu vi vô vi, tự lợi lợi tha, tùy chỗ thích ứng mà thị hiện ba Phật, bốn Pháp, Thập địa tăng…

Các vị Bồ-tát này tu tập chủng tử Tam bảo rồi lần lượt chỉ dạy cho người tiếp nối như thế chẳng để đoạn dứt. Như trong phẩm Minh Pháp, kinh Hoa Nghiêm có nêu lên ba lớp giải thích: Phát tâm Bồ-đề thì Phật bảo chẳng đoạn, diễn nói chánh pháp thì Pháp bảo chẳng đoạn, thọ trì giới hạnh thì Tăng bảo chẳng đoạn, tự tha đều như thế.

Kinh: Hàng phục ma oán chế ngự ngoại đạo.

Tán: Đây là hiển bày công đức phá dẹp oán địch. Ma tức bốn ma, hoặc tám ma như kinh Niết-bàn đã nói. Tức bốn ma đã nêu trước cộng thêm bốn đảo. Vì bốn điên đảo phá hoại bốn đức cho nên gọi là ma. Ma tức là oán, là oán chướng của pháp. Hàng phục các ma như chương riêng đã giải thích. Bốn đảo ma là phân biệt pháp chấp, sơ địa vĩnh viễn đoạn trừ, trước sơ địa chỉ mới dần dần điều phục. Chế tức là chế ngự, như chế ngự trâu ngựa. Do đầy đủ trí tuệ biện tài, nên chế ngự các ngoại đạo, do đạt được mười phương nên có thể chế phục thiên ma, do đạt được bốn vô úy nên phá dẹp ngoại đạo.

Kinh: Vĩnh viễn xa lìa tất cả chướng và các triền.

Tán: Câu này nói về công đức lìa nhiễm của Bồ-tát. Chướng nghĩa là chướng ngại, gồm hai loại là phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng lấy một trăm hai mươi tám phiền não căn bản và các tùy phiền não thuộc kiến tu sở đoạn của ba cõi làm thể; sở tri chướng lấy tham, sân, si… chướng ngại trí thuộc kiến tu sở đoạn của ba cõi làm thể tánh, số lượng nhiều ít cũng giống tiệm đốn phục đoạn của phiền não chướng, tất cả đều như luận đã thuyết. Các Bồ-tát này đều ở giai vị Địa thứ tám, tất cả sáu thức hai chướng hiện hành đều đã chế phục, hoặc chủng tử đã đoạn trừ, cho nên nói cầu xa lìa. Cái nghĩa là sự che lấp tâm tánh của hành giả, làm cho không được thanh tịnh. Cái gồm có năm loại: Tham dục cái, sân nhuế cái, hôn trầm cái, điệu cử cái, và ác tác cái, nghi cái. Năm loại này chướng ngại ba thời: Tham dục năm cảnh, chướng ngại tâm xuất gia. Đã xuất gia rồi, trước phạm tà hạnh, lại có tâm muốn giác ngộ, nhưng do sân nhuế làm chướng không thể giác ngộ mà sinh sân nhuế. Nếu chẳng phạm tà hạnh, khi học định tuệ thì ba pháp sau làm chướng ngại. Đầu tiên học tâm chỉ thì hôn trầm làm chướng ngại, kế đó học tâm cử thì điệu hối làm chướng ngại, nếu trụ ở vị xả thì tâm nghi làm chướng ngại. Vì chướng ngại năm pháp này,

cho nên gọi là cái. Triền nghĩa là trói buộc vì luôn luôn hiện khởi, trói buộc tâm hành giả, cho nên gọi là triền. Gồm tám loại: Vô tàm, vô quý, hôn trầm, thùy miên, điệu cử, ác tác, tật, xan; hai loại đầu chướng ngại giới học, hai loại kế tiếp chướng ngại định học, hai loại kế tiếp chướng ngại tuệ học, hai loại sau cùng chướng ngại tự lợi. Nghĩa là người xuất gia luôn luôn hiện khởi tâm bỏn sẻn tật đố đối với việc lợi lạc tự tha; hai chướng đã gồm thâu tất cả nhiễm ô, trong đó nếu y cứ theo sự trội hơn thì chỉ nêu lên cái và triền, còn ba lậu, bốn thủ, thân hệ kiết phược thì đều căn cứ theo nghĩa đã xa lìa. Bản dịch xưa ghi: “Tất cả đã thanh tịnh”, văn ý khó biết, tức hai chướng đã trừ.

Kinh: Niệm định tổng trì… giải thoát trí môn.

Tán: Hai câu đầu nói về công đức có thể dùng ít pháp mà bao hàm nhiều nghĩa. Hai câu sau nói về công đức thù thắng vô lậu lìa phược. Niệm nghĩa là nhớ rõ những việc đã làm, như luận Du-già năm mươi bảy giải thích Khế kinh có ghi: “Niệm đẳng, niệm tùng niệm, biệt niệm bất vong niệm, tâm nhớ rõ chẳng quên, không quên không mất pháp”. Nghĩa này như Du-già Nhiếp Dị Môn đã nói. Định nghĩa, nghĩa là tâm không tán loạn khi đối cảnh. Du-già năm mươi bảy ghi: “Khiến tâm trụ đẳng trụ, an trụ và cận trụ, điều tịch tỉnh tịch chỉ, một đường tánh đẳng trì”. Nghĩa này thì như luận Đối Pháp thứ mười đã nói. Tổng trì tức là Đà-la-ni, lấy niệm tuệ làm thể, có thể dùng một ít công đức mà hàm chứa nhiều nghĩa; có thể gom chứa, tự tại giữ gìn tất cả, gọi là tổng trì. Gồm có bốn loại: Pháp, nghĩa, được pháp nhẫn của Bồ-tát, chú. Do niệm mà ghi nhớ rõ ràng, cho nên không quên sót; do định mà không tán loạn, thường an trụ một đường, do tổng trì mà bao hàm tất cả, nên dễ thọ nhận và tuyên thuyết, vì thế có thể dùng ít pháp mà bao hàm nhiều pháp. Giải thoát trí môn, tức là trí vô lậu, vì xa lìa hữu lậu trói buộc, cho nên gọi là giải thoát. Giải thoát tức không còn hoặc chướng, giải thoát vô chướng lấy trí làm thể, trí tức là môn, lấy trí làm môn thì có thể nhập vào cảnh ba tánh. Cho nên luận Du-già ghi: “Nếu nói theo môn giải thoát thì xuất thế thuộc về chánh trí”. Luận Hiển Dương ghi: “Chỉ nói các Tam-ma-địa Không, Vô nguyện, Vô tướng, thông với hữu lậu vô lậu, là định là tán, là văn, tư, tu tuệ. Chỉ nói các Tam-ma-địa Không, Vô tướng, Vô nguyện thông với hữu lậu vô lậu, chỉ là định chẳng phải tán, chỉ là tu tuệ, chẳng phải văn tư tuệ. Như nói các môn giải thoát Không, Vô nguyện, Vô tướng chỉ là vô lậu chẳng phải hữu lậu, chỉ là định chẳng phải là tán, chỉ là tu tuệ chẳng phải văn tư tuệ”. Nay nói giải thoát, cho nên chỉ là vô lậu. Không môn duyên với sở chấp, vì không có thể. Vô nguyện môn duyên với y tha, vì chẳng cầu nguyện nơi ba cõi. Vô tướng môn duyên với viên thành, quán chân như là vô tướng. Hoặc cho rằng ba môn giải thoát đều duyên với ba tánh, hoặc mười sáu hành, nhiều loại bất đồng, như Xu Yếu và luận Du-già Đệ Thập Nhị Sao đã nói. Bản dịch xưa hợp hai câu thành: “Tâm thường an trụ nơi vô ngại giải thoát”, vô ngại tức vô chướng, giải thoát tức trí môn; đó có thể cho rằng kiến lập vô chướng giải thoát trí môn và tâm thường an trụ nơi đó. Thoạt xem thì chừng như là thường an trụ nơi vô ngại giải thoát kia, nhưng đó chỉ là định mà không có niệm và tổng trì ở đây; hợp hai câu của bản này làm một câu ở bản dịch xưa thì ý nghĩa vẫn không hoàn toàn.

Kinh: Cho đến được tất cả… Đà-la-ni biện.

Tán: Đoạn này là nói về công đức thành tựu sáu biện tài:

  1. Vô đoạn biện, tức là thuyết pháp liên hoàn không ngừng dứt.
  2. Thù thắng biện, không thể bị khuất phục.
  3. Niệm biện, ghi nhớ tuyên thuyết các pháp sự.
  4. Tuệ biện, phân tích các pháp.
  5. Đẳng trì biện, khéo nói các định.
  6. Tổng trì biện, trong một chữ mà tuyên thuyết các nghĩa.

Đã chẳng phải bốn vô ngại giải cũng chẳng phải bảy biện, cho nên thành tựu riêng sáu biện này. Một chữ biện sau cùng thông cả lên trên. Biện thứ sáu nếu y cứ theo bốn vô ngại biện thì thuộc về pháp nghĩa, còn năm biện trước thuộc về biện tài. Biện thứ nhất ở đây thì thuộc về vô đoạn tận thứ tư trong bảy biện. Biện thứ hai ở đây thuộc về biện thứ bảy Nhất thiết thế gian tối thượng diệu trong bảy biện, biện thứ tư ở đây thuộc về biện thứ năm vô sơ mậu trong bảy biện, đều chung cho niệm và định, tùy chỗ thích ứng mà lấy hậu trí làm thể. Bản dịch xưa ghi: “Niệm, định, tổng trì, biện tài chẳng đoạn”. Niệm, định, tổng trì là ba, nói biện tài chẳng đoạn, mới là một biện thiếu thắng tuệ. Ý của bản dịch xưa là nói ba loại trên có biện tài chẳng đoạn, chẳng phải là nói bất đoạn biện.

PHẦN 3

Kinh: Đều đạt Đệ nhất… Ba-la-mật-đa.

Tán: Đoạn này hiển bày công đức đến bờ kia. Tức là mười Ba-lamật. Đệ nhất nghĩa là hiển mười độ đều có thể tu tập đầy đủ, thuần là vô lậu. Nhưng mười độ này, nếu trước Thập địa thì trong một hạnh, chỉ tu một hạnh thuộc về hữu lậu, Địa thứ bảy về trước, trong một hạnh tu tất cả hạnh, gồm hữu lậu vô lậu; Địa thứ tám trở lên trong tất cả hạnh tu tất cả hạnh, thuần là vô lậu, thù thắng hơn các giai vị trước cho nên gọi là Đệ nhất. Mười độ:

  1. Bố thí.
  2. Tịnh giới.

Gọi là điều phục tịch tĩnh; nói Thi-la tức là tịnh giới. Trong Quảng Luật Tỳ-nại-da gọi là điều phục, tức là điều hòa, khống chế các nghiệp thân, ngữ… chế phục diệt trừ các phiền não. Tịch tĩnh tức là thân ngữ ý vắng lặng, các ác giới trong sáu căn bặt dứt (tĩnh).

Thi-la nghĩa là mát mẽ, tức đạt được quả Niết-bàn mát mẽ. Hoặc cho rằng tự thể của giới có thể trừ được sự nóng đốt của các phiền não ác nghiệp. Thi-la là thể của giới, điều phục tịch tĩnh là công năng của giới.

  1. An nhẫn.
  2. Chánh cần, tức tinh tấn.
  3. Tĩnh lự tức thiền định.
  4. Bát-nhã.
  5. Phương tiện thiện xảo.
  6. Diệu nguyện.
  7. Lực.
  8. Trí ba-la-mật-đa.

Bản dịch xưa thiếu nguyện, nhưng lại hợp chung thứ mười và thứ sáu, cho rằng cũng đầy đủ và ý cũng đã bao hàm, vậy chỉ nêu lên một Ba-la-mật đầu tiên thì đầy đủ những Ba-la-mật khác, nếu thế thì đâu phải nhọc gì mà nêu lên riêng biệt? Sáu độ được chia làm năm môn để phân biệt: Thích danh, nêu thể, giải thích tướng, luận về quả, phân biệt năm môn.

1. Thích danh:

Phạm gọi là Thỉ-ca ba-la-mật-đa. Thỉ-ca là thập, ba-la là bỉ ngạn, mật-đa là ly, đáo. Tức là thập ly đáo bỉ ngạn. Thập (mười) tức là số lượng. Bỉ ngạn có năm: Tri, giáo, lý, hạnh, quả. Do mười hạnh này nên có thể liễu tri tất cả cảnh không hữu, có thể hiểu tất cả giáo năm minh, có thể đạt tất cả lý chân tục, có thể tu tất cả hạnh phước tuệ, có thể chứng tất cả quả Bồ-đề nên gọi là đáo bỉ ngạn. Bồ-đề và Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề, Bồ-đề và Niết-bàn đều gọi là Bồ-đề, trong năm cảnh còn một ít chưa cùng tận nên không gọi là đáo bỉ ngạn. Ly tức là viễn ly (xa lìa), do mười hạnh này mà xa lìa được các pháp năm uẩn sinh tử, đạt đến năm loại bỉ ngạn sở tri, nên gọi là mười Ba-la-mật-đa. Trong Bátnhã giải thích như thế, thuộc về Đới số thích. Nếu giải thích tên riêng thì dẹp bờ xan lận gọi là bố thí cho đến quyết đoán sự lý các pháp thì gọi là trí. Bố thí tức Ba-la-mật-đa cho đến Trí tức Ba-la-mật-đa, đó đều thuộc về Trì nghiệp thích.

2. Nêu thể tánh:

Bố thí có ba: Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Người nghèo không ruộng nương thì ban cho tài vật, người ở trong sinh tử thì ban cho chánh pháp, những chúng sinh sợ hãi thì thí sự không sợ hãi. Tất cả đều lấy vô tham và ba nghiệp mà họ phát khởi làm tánh. Thể này có hai: Vô tham và tư. Ba nghiệp tức tư.

Giới có ba loại: Luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới. Cả ba giới này đều lấy ba nghiệp khi thọ giới Bồ-tát làm tánh, thể này chỉ có tư.

Nhẫn có ba: Nại oán hại nhẫn, an thọ khổ nhẫn, đế sát pháp nhẫn. Bị người khác não loạn, chịu đựng được mà không sân hận; tu hành bức bách mà vẫn an ổn không lui sụt, nghe thật lý các pháp có thể quyết định không nghi. Đầu tiên là vô sân, nhẫn thứ hai là tinh tấn, nhẫn thứ ba là thẩm tuệ. Cả ba đều lấy ba nghiệp làm tánh, vậy thể này gồm bốn pháp: Vô sân, tinh tấn, tuệ, tư.

Tinh tấn gồm ba: Bị giáp tinh tấn, nhiếp thiên tinh tấn, lợi lạc tinh tấn như Khế kinh giải thích. Trụ ở hữu thế, hữu cần, hữu dõng mãnh vững chắc, đối với các pháp thiện thường không xả bỏ. Luân có năm tên là bị giáp, gia hạnh, vô hạ, vô hoàn, vô túc. Theo thứ tự phối hợp với năm loại tinh tấn trong kinh, bi giáp tinh tấn kia đều là nhiếp thiện, tuy gom nhiếp năm nhưng đều là tự lợi, đến khi cứu vật lợi sinh thì không sinh biếng trễ, nên gọi là lợi lạc tinh tấn. Ba tinh tấn này đều lấy cần và ba nghiệp của chúng sinh khởi làm tánh, thể chỉ có hai pháp là tinh tấn và tư.

Tĩnh lự có ba: An trụ tĩnh lự, dẫn phát tịnh lự, biện sự tĩnh lự. Hiện pháp lạc trụ định gọi là an trụ tịnh lự, dẫn phát thần thông thành sữa ngon để ban phát cho kẻ bần cùng gọi là biện sự tịnh lự. Ba pháp này chỉ lấy tĩnh lự làm tánh, thể chỉ là định.

Bát-nhã có ba: Sinh không phân biệt tuệ, pháp không vô phân biệt tuệ, câu không vô phân biệt tuệ, phương tiện thiện xảo có hai: Hồi hướng phương tiện thiện xảo, bạt tế phương tiện thiện xảo. Nguyện có hai là: Cầu Bồ-đề nguyện và lợi lạc tha xảo nguyện. Lực có hai: Tư trạch lực và tu tập lực; trí có hai: Thọ dụng pháp lạc và thành thục hữu tình trí. Năm độ này đều lấy tuệ làm tánh; hoặc nguyện thứ tám lấy dục, thắng giải và tín làm tánh, cũng đều có tuệ làm tánh. Mười độ như thế tổng cộng có chín pháp làm tánh: Vô tham, tư, vô sân, tinh tấn, tuệ, tịnh lự, dục, thắng giải, tín. Trong đó biến hành chỉ có một pháp là tư; biệt cảnh có bốn pháp là dục, thắng giải, định và tuệ; thiện có bốn là tín, tinh tấn, vô tham, vô sân. Hoặc cho rằng thân, ngữ sắc chung cho vô biểu sắc, tổng cộng thành mười pháp làm thể.

3. Giải thích tướng:

Cần phải có đầy đủ bảy loại tối thắng nhiếp thọ mới thành mười tướng Ba-la-mật-đa:

1. An trụ tối thắng, nghĩa là an trụ nơi chủng tánh Bồ-tát, không có chủng tánh tu, tức chẳng phải là tướng độ.

2. Y chỉ tối thắng, nghĩa là cần phải nương vào tâm Bồ-đề, nếu không có đạo tâm, tuy có tu nhưng chẳng phải độ.

3. Ý lạc tối thắng, nghĩa là cần phải thương xót tất cả loài hữu tình, thì chẳng thương xót loài hữu tình tuy có tu nhưng chẳng phải độ.

4. Sự nghiệp tối thắng, nghĩa là cần phải làm tất cả sự nghiệp như khi bố thí cần phải có tín tâm, chí tâm, tùy thời tự mình thực hành bố thí như pháp, hoặc hành thí đầy đủ sáu nghĩa: Một là, thí không có chỗ gá nương, vì giải thoát xả, hướng Niết-bàn, không có chỗ chấp trước; hai là, bố thí rộng lớn, duỗi tay ban phát vì ân cần bố thí tất cả; ba là, hoan hỷ thí, vui vẻ xả bỏ, trước khi thí, trong lúc thí và sau khi thí, tâm ý đều vui vẻ, không hối tiếc; bốn là, sát sát thí (luôn luôn thí) vì cầu được thí; một bề như pháp, không nên dùng sự hung bạo tích tập tài vật, khi bố thí luôn luôn xả thí tài vật đầy đủ cùng khắp; năm là, điền khí thí vì xả thí viên mãn. Nghĩa là đối với phước điền mà Dâng cúng; sáu là nhiếp thọ quyến thuộc thí, đối với tuệ thí, ưa thích phân chia, nghĩa là đối với cha mẹ, vợ con… thì luôn luôn bình đẳng phân bố, tài vật do phi lý mà cầu được thì chẳng ban phát cho người, vì vật ấy không thanh tịnh. Lưới bẫy giăng bắt chẳng nên bố thí cho người, vì tổn mạng chúng sinh, dao gậy thuốc độc chẳng nên thí cho người, vì hại mạng chúng sinh; âm nhạc nữ sắc chẳng nên bố thí cho người, vì phá hoại tâm tịnh. Tóm lại, tất cả vật chẳng như pháp, đều chẳng nên bố thí, như thế gọi là sự nghiệp tối thắng.

5. Xảo tiện tối thắng, nghĩa là cần phải vô tướng trí để nhiếp thọ, như không thấy có người thí, vật thí và người được thí, ba việc đều không, ba luân đều thanh tịnh. Tức kinh Bát-nhã ghi: “Chẳng nên trụ tướng mà hành bố thí, cho nên trụ tướng mà tu thì tuy có tu nhưng chẳng phải là độ”.

6. Hồi hướng tối thắng, nghĩa là cần phải hồi hướng vô thượng Bồđề, nếu chẳng cầu Bồ-đề, thì tuy có tu nhưng chẳng phải độ.

7. Thanh tịnh tối thắng, chẳng nên để hai chướng xen lẫn, ba thời không lo buồn mới gọi là độ, nếu có phiền não xen lẫn, thì tuy có tu nhưng chẳng phải là độ.

4. Luận về quả:

Quả hữu lậu có bốn: Quả dị thục, quả đẳng lưu, quả sĩ dụng và quả tăng thượng; chẳng chứng vô vi thì không được quả ly hệ. Vô lậu có bốn là bốn quả trên trừ quả dị thục thêm quả ly hệ. Quả dị thục tức là do các nghiệp thiện ác hữu lậu chiêu cảm. Nếu trong mười Địa, cả hai giúp đỡ nhau thì chung cho năm quả. Tướng của năm quả này phần sau sẽ biết.

5. Phân biệt các môn:

Nghĩa là trong đó lại dùng năm môn để phân biệt. Thứ tự, lìa chướng, phế lập, tu tướng và thuần tập, như luận Thành Duy Thức quyển thứ chín đã giải thích.

Kinh: Thành tựu vô sở đắc, chẳng khởi pháp nhẫn.

Tán: Đây, nói về công đức thứ mười bốn là tương tục Vô sinh pháp nhẫn. Thanh Biện giải thích: “Vì là thế tục cho nên hữu, vì là thắng nghĩa cho nên không, không tức vô sở đắc. Quán pháp vốn không thì có gì mà sinh. Quán pháp vô sinh mà khởi trí nhẫn gọi là vô sở đắc bất khởi pháp nhẫn”. Hộ Pháp… giải thích: “Biến kế sở chấp, chấp có nhân pháp, gọi là sở đắc. Nay quán pháp không thì gọi là vô sở đắc. Khởi tức là sinh, nhẫn tức là trí. Đối với ba tánh, quán sở chấp đều không, gọi là vô sở đắc, thể đã không có, thì có gì gọi là sinh? Quán pháp bất sinh này, khởi trí nhẫn, tức ba vô sinh nhẫn:

  1. Bản tánh Vô sinh nhẫn, tức quán biến kế sở chấp, hai tướng nhân pháp vốn không có thể.
  2. Tự nhiên Vô sinh nhẫn, quán y tha khởi, chỉ có giả nhân duyên, chẳng phải tự nhiên sinh.
  3. Hoặc khổ Vô sinh nhẫn, quán chân như hoặc khổ vốn không vô sinh.

Ba vô sinh nhẫn này đối với Bồ-tát trước Thập địa thì tu học pháp quán, vào sơ địa thì chứng đắc, đến Địa thứ tám thì được tương tục. Nay lại tự tại thành tựu, cho nên có tên như thế.

Kinh: Đã có thể tùy thuận chuyển pháp luân bất thoái.

Tán: Câu này nói về công đức năng thuyết của giai vị cao chuyển nghĩa là di chuyển, thể là Thánh đạo, nghĩa là khi xưa Phật thọ nhận từ nơi khác, ngày hôm nay thuyết lại cho người nghe, gọi đó là chuyển. Bồ-tát theo Phật, cũng có thể di chuyển, nên gọi là tùy thuận. Luân có nghĩa là phá hoại, tức phá dẹp hai chướng, có nghĩa bất định vì hay qua lại, có nghĩa viên mãn, vì đầy đủ vành, trục, căm… nghĩa là tám Thánh đạo có đầy đủ ba nghĩa này, cho nên gọi là pháp luân. Pháp luân có năm:

  1. Pháp luân thể, tức tám Thánh đạo.
  2. Pháp luân nhân tức là giáo này và niệm trụ… được nhân của Thánh đạo.
  3. Pháp luân quyến thuộc, tức là vạn hạnh phước tuệ.
  4. Pháp luân quả, tức Bồ-đề Niết-bàn.
  5. Pháp luân cảnh, tức đế lý chân tục.

Chuyển nghĩa là vận động di chuyển, vận chuyển huyền giáo, hiển dương diệu lý; tức trước nhờ âm thanh vận Thánh đạo, sau từ ngôn giáo mà khởi viên trí. Cho nên bốn pháp bảo đều gọi là chuyển.

Bất thoái có hai:

  1. Dĩ đắc bất thoái, sơ địa đã đạt được, đối với pháp chưa đạt được, thì chưa có thể tu, gọi là thoái.
  2. Vị đắc bất thoái, Địa thứ tám mới đạt được, đối với pháp chưa đạt được thì có thể tự tại tu tập.

Nay đầy đủ hai bất thoái thì cần phải từ Địa thứ tám trở lên, cho nên có thể chuyển. Hoặc nói bốn bất thoái:

  1. Tín bất thoái, tức tâm thứ sáu trong thập tín, chẳng thoái tâm  sinh vào tà kiến.
  2. Vị bất thoái, tức trụ thứ bảy trong thập ttrụ, chẳng thoái tâm rơi vào Nhị thừa.
  3. Chứng bất thoái, từ sơ địa trở lên đã đắc pháp vĩnh viễn chẳng thoái tâm.
  4. Hạnh bất thoái, từ Địa thứ tám trở lên tu tập tất cả các hạnh mà chẳng thoái.

Nay tùy theo giai vị mà có thể chuyển đầy đủ bốn vị này; bốn bất thoái chuyển pháp luân, cần phải đạt Địa thứ tám trở lên mới được.

Kinh: Đều diệt vô tướng… các căn thắng liệt.

Tán: Hai câu đầu hiển công đức của pháp quyết định, hai câu sau hiển công đức trí lực của các căn thượng hạ. Diệu ấn có hai: Có sai biệt tức ba pháp ấn là các hành vô thường, Niết-bàn tịch tĩnh và các pháp vô ngã. Pháp ấn này chung cho Đại, Tiểu thừa. Vô sai biệt, tức lý vô tướng và năng ấn, giáo pháp luân sở chuyển là sở ấn. Hàm là đều, đắc là đạt được. Do các Bồ-tát tự tại đạt được lý vô tướng, khéo léo ấn chứng giáo sở ấn, cho nên có thể chuyển được pháp luân bất thoái. Nếu chưa tự tại đạt được lý vô tướng, diệu ấn giáo sở ấn thì rốt cuộc chẳng thể chuyển được pháp luân bất thoái. Đó là dùng câu sau mà giải thích hai câu trước, như thế thì không có bốn mươi mốt câu, nếu căn cứ theo cách giải thứ hai thì có được bốn mươi mốt câu. Diệu ấn vô tướng tức là giáo vô tướng; sở ấn của giáo tức là lý vô tướng; đây là do các Bồ-tát tự tại đạt được giáo vô tướng ấn chứng lý vô tướng sở ấn.

Trước tu mười Lực, tuy đã phần đắc nhưng còn chưa viên mãn. Còn các bậc Đại Bồ-tát này đã đạt được viên mãn lực thứ tư trong mười Lực, nên gọi là khéo biết phẩm loại căn cơ hữu tình. Bản dịch xưa đầu tiên ghi: “Khéo hiểu các pháp tướng”, do hiểu được giaó vô tướng năng thuyên, cho nên có thể tùy thuận chuyển pháp luân bất thoái, hoặc cho rằng các Bồ-tát hiểu rõ được chân thể tất cả pháp. Nghĩa là tự tại đạt được lý vô tướng. Tướng tức là thể.

Tuy biết hai cách giải thích, nhưng nay lại phù hợp với giáo mới, nghĩa lý cạn cợt, bậc trí nên biết.

Kinh: Tất cả đại chúng… được vô sở úy

Tán: Câu này nói về công đức điều phục những chúng sinh khó hóa độ, như ba Ca-diếp cho rằng đã đạt được đạo chân thật, tất cả đại chúng chẳng thể điều phục được; các Bồ-tát này lại điều phục được, họ đã bị khuất phục, không thể cật vấn trái nghịch các Bồ-tát. Vì thế các Bồ-tát đạt được vô sở úy. Bản dịch xưa kia ghi: “Che phủ đại chúng”, tức là tà kiến, hạng người khó hóa độ. Ác danh và ác giải (kiến giải sai lầm) bao trùm đại chúng, Bồ-tát có thể hàng phục được họ, hoặc cho rằng trí tuệ và biện tài của Bồ-tát đều thành tựu, bao trùm cả đại chúng, cho nên đạt được vô sở úy

Kinh: Đã tích chứa vô tận phước tuệ tư lương

Tán: Câu này hiển thị công đức nhân viên mãn tự tại. Giai vị trước Thập địa đã khéo léo tích tụ hai nhân phước và tuệ. Địa thứ bảy trở về trước còn tu tập hữu lậu vô lậu xem lẫn; đến Địa thứ tám, trong thức thứ sáu chỉ thuần tu vô lậu, tự tại tương tục cho nên nói tích chứa vô tận tư lương. Bản dịch xưa ghi: “Vì tu tâm ấy”, không chỉ tu tâm mà thân cũng phải tu tập.

Kinh: Tướng hảo nghiêm thân… những vật trang sức có được.

Tán: Hai câu trên nói về công đức đoan nghiêm thù thắng của nội thân. Hai câu sau nói về công đức của việc xả bỏ những trang sức thế gian. Các tướng quý và vẻ đẹp phụ; thức thứ tám biến các quả di thục, Sơ địa thì được một phần. Thức thứ sáu cũng biến thành vô lậu, Địa thứ tám trở lên các tướng quý và vẻ đẹp phụ viên mãn, hữu lậu vô lậu tương tục thù thắng vi diệu, cho nên nói sắc tượng của các tướng quý và vẻ đẹp là đệ nhất. Các tướng quý và vẻ đẹp phụ đều lập bốn căn là mắt, lưỡi, thân và nam căn làm chỗ y và lưỡi làm thể, cho nên nói sắc tượng. Được vị thượng diệu, thì lưỡi làm thể; mắt như sen xanh, con ngươi như mắt trâu chúa, lấy mắt làm chỗ y cứ. Lưỡi che trùm cả mặt, thi lưỡi là chỗ y cứ. Thân màu vàng ròng… thì thân là chỗ y cứ. Nam căn ẩn kín thì nam căn là chỗ y cứ. Các tướng khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được. Những người giàu có ở thế gian thường dùng các vật quý giá để trang sức. Những vật quý báu trang sức gọi là sức hảo. Nay các Đại Bồtát xem đó không những là vô ích mà trái lại còn tổn hại, cho nên xả bỏ tất cả, dùng nội đức nghiêm thân, không cần vật trang sức bên ngoài.

Kinh: Danh vang cao xa hơn trời Đế Thích.

Tán: Câu này nói về công đức thù thắng danh dự vang xa. Vua trời Đao-lợi là Thích-ca Đề-bà Nhân-đạt-la, Thích-ca tức là Năng, là họ, Đề-bà là Thiên, Nhân-đạt-la là Đế. Đế chủ của cõi trời họ là Thíchca, hiệu là Đế Thích, tên là Kiều-thi-ca, như các kinh khác đã nói rõ về bản duyên, rất tôn sùng Phật pháp, các Bồ-tát phương khác và chư Thiên ở cõi trời trên đều nghe danh. Du tức là việt (vượt qua). Danh tiếng của Bồ-tát lại vượt hơn cả trời Đế Thích, mười phương đều nghe biết. Nhưng người phiên dịch cho rằng Đế Thích trụ tại núi Tu-di, người chấp bút bèn theo đó ghi chép, vì thế bản dịch xưa ghi: “Vượt hơn núi Tu-di”. Núi Tu-di kia thì trời Tha hóa còn không biết có, hà huống gì những cõi khác.

Kinh: Ý lạc kiên cố… đạt được lòng tin chẳng hoại.

Tán: Đoạn này nói về công đức tự tại quyết định đạt được sự lý chẳng nghi. Hai câu trên là nêu dụ, hai câu dưới là nói về thể. Ý lạc dùng tín và thắng giải làm tự thể, dẫu có ác ma và các ngoại đạo phá hoại vẫn quyết định kiên cố, không thể phá hoại ngăn trở được, ví như kim cang rất cứng chắc vậy, chẳng thể dùng phá được. Cho nên đối với Phật pháp đạt được lòng tin chẳng hoại. Phật, Pháp, Tăng và Giới, gọi chung là Phật pháp; được lòng tin chẳng hoại là do tin bốn pháp này. Tức là bốn chứng tịnh mà luận đã nói. Hoặc cho rằng chân lý của pháp gọi là đồng thể Tam bảo Phật pháp. Nay tự tại đạt được lòng tin chẳng hoại này, thì Sơ địa tuy đã được nhưng đối với sự còn do dự. Do dự này thuộc về dị thục sinh. Địa thứ tám trở lên, tất cả đều quyết định. Nay nêu lên pháp thù thắng gọi là lòng tin chẳng hoại, tin tất cả, nhưng nói bốn pháp là căn cứ theo cảnh thù thắng mà thuyết. Luận Câu-xá ghi: “Tin Tam bảo tức là xa lìa được nhân ác đạo, tin giới là xa lìa nhân bần tiện”, cho nên chỉ nêu bốn pháp. Bản dịch xưa chỉ có dụ, nên nghĩa chẳng đầy đủ.

Kinh: Lưu chiếu ánh sáng Pháp bảo, rưới trận mưa cam lồ.

Tán: Câu này là nói về công đức phá thiện sinh ác, lưu diễn ánh sáng pháp chiếu phá tối tăm si mê của chúng sinh, rưới mưa giáo pháp như cam lồ, để trưởng dưỡng mầm thiện căn của chúng sinh. Hoặc cho rằng giáo là Pháp bảo, thuyết là ánh sáng của văn, chiếu để hiển lý, nghĩa như cam lồ có vị đậm. Đây cũng như ý nghĩa mưa thấm nhuần mầm cây cỏ.

Kinh: Âm thanh của lời nói vi diệu bậc nhất.

Tán: Câu này nói về công đức thuyết pháp có âm thanh thù thắng vi diệu. Thanh vận thuyết pháp như tiếng chim Tần-ca, bậc nhất trong các loại âm thanh của chúng sinh. Vi tức là mật, tức khéo nói nghĩa sâu xa. Diệu tức là hảo, tức hòa nhã dễ mến thích. Đức Phật có năm loại âm thanh hay tốt:

  1. Rền sâu như sấm.
  2. Trong trẻo vang xa, người nghe đều vui thích.
  3. Khi nghe, tâm sinh cung kính lãnh thọ.
  4. Hiểu thấu suốt.
  5. Người nghe không sinh tâm nhàm chán.

Ở đây đầy đủ bốn nghĩa sau, cho nên nói là âm thanh của lời nói vi diệu bậc nhất. Trong ba mươi hai tướng đây là tướng Phạm âm thanh, công đức rất lớn, như kinh đã so sánh.

Kinh: Nơi pháp nghĩa sâu xa… kiến, tập tương tục.

Tán: Đoạn này nói về công đức đạt trung đạo. Duyên khởi tức là đợi duyên mới khởi, cũng gọi là duyên sinh. Gồm ba loại:

1. Ái phi, ái đạo duyên khởi tức là mười hai duyên sinh lấy năm uẩn làm tánh, hay hiển hiện trong các đường thiện ác, đó là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử.

2. Thọ dùng, duyên khởi, tức lấy sáu thức thân làm tánh; hay thọ dụng cảnh.

3. Tự tánh duyên khởi, tức tự tánh sinh tử duyên khởi lấy bản thức làm tánh.

Ba loại duyên khởi này, diệu lý khó thấu hiểu, cho nên gọi là pháp nghĩa sâu xa. Pháp nghĩa rộng lớn gọi là quảng đại. Khi xưa còn ở vị phàm phu, mê pháp duyên khởi trung đạo, khởi tà kiến nhị biên thường đoạn, chấp không có nhân sinh khởi. Như chấp Niết-bàn là thường, gọi là thường kiến, chấp quả đời sau là không, vô sở hữu tức đoạn kiến. Hai kiến chấp này huân tập thành chủng tử chứa ở bản thức, tương tục chẳng đoạn. Nay Bồ-tát Địa thứ tám trở lên lìa phần đoạn sinh tử, đạt ba loại duyên khởi trung đạo, thì sự hiện hành và chủng tử tập khí tương tục của hai kiến liền diệt. Hai kiến về pháp chấp đã đoạn thì phiền não kiến cũng theo đó mà xả bỏ. Hiện hành và chủng tử của hai kiến chấp đoạn thường này tương tục, đều là do mê nơi pháp duyên khởi tà biên, cho nên khi đạt được pháp duyên khởi trung đạo thì hai kiến kia vĩnh viễn diệt. Bản dịch xưa ghi: “Đoạn các tà kiến”, vốn không có văn này; người xưa cho rằng thể của hai kiến là tà kiến, chưa hẳn lý đã như thế. Vì bất chánh gọi là tà, hai kiến cũng chẳng phải là tà của bốn kiến, mà chỉ là tổn giảm kiến.

Kinh: Diễn pháp vô úy… như sấm vang rền.

Tán: Hai câu đầu nói về công đức ở trước chúng thuyết pháp không sợ sệt, hai câu sau nói về công đức của âm thanh thuyết pháp vang rền. Do các phiền não không nhiễm, vô minh chẳng hiện hành, cũng không có phân biệt ta và người hơn tự kỷ, ở trong chúng thuyết pháp không thấy có người nào hơn được tự thân, vì thế không sợ sệt, như tiếng rống của sư tử, giảng thuyết đàm luận, âm thanh như sấm, rền vang rền vang, sâu mà lớn. Trong năm loại âm thanh đã nói đây là loại thứ nhất.

Kinh: Chẳng thể xưng lượng vì vượt quá cảnh để xưng lượng.

Tán: Câu này nói về công đức thù thắng của đức to lớn kỳ diệu vượt ngoài tâm ý ngôn ngữ. Xưng tức là ngôn thuyết, lượng tức là tâm suy lường. Nghĩa là bậc Đại Bồ-tát có Thánh đức rộng lớn, vi diệu khó biết, lời nói chẳng thể xưng tán, tâm suy chẳng thể lường, chẳng phải là cảnh giới mà lời nói và tâm suy nghĩ của hàng Bồ-tát Địa thứ bảy trở về trước đạt đến, cho nên chẳng phải cảnh giới của xưng lượng. Đây là dùng câu dưới để giải thích câu trên. Do vượt trên cảnh giới đó, cho nên nói là Bất khả xưng lượng. Địa thứ tám trở lên, chuyển dịch tăng tiến trong từng sát-na, một sát-na đầu tiên tăng gấp đôi (một bội) sự tu hành của hai kiến trước, hai niệm thì tăng hai bội, cho đến thượng bội thì hơn trước vô số. Cho nên hàng Bồ-tát Địa thứ bảy trở về trước chẳng thể xưng lượng được cảnh giới này. Bản dịch xưa thiếu chữ xưng, thì nghĩ khó biết.

Kinh: Tập tuệ pháp bảo… nhu hòa vi mật.

Tán: Hai câu đầu tán thán công đức đạt được Thánh bảo, hai câu sau là hiển công đức lìa ác pháp. Giáo lý, hạnh; quả rất quý trọng, cho nên gọi là bảo (vật báu). Trong pháp bảo thì tuệ là thượng thủ, dẫu dắt tất cả pháp. Địa thứ tám trở lên có thể kham nhận, tư duy, giữ gìn tất cả pháp; ba tuệ tích tụ lâu ngày, nên gọi là tập. Tuệ tích tụ đã lâu, nên có thể làm vị đại Đạo sư. Nếu không có tuệ thì không thể làm bậc Đạo sư. Hoặc cho rằng tài bảo của bậc Thánh là bảy Thánh tài là: Tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý. Tuy có đầy đủ các pháp bảo, nhưng tuệ là thượng thủ, lâu ngày tích tập, làm vị Đạo sư. Bản dịch xưa ghi: “Tập chúng pháp bảo”. Văn không có ghi tuệ, thì thật khó làm Đạo sư. Chẳng siểm khúc, chẳng kiêu mạn gọi là chánh trực, chẳng thô chẳng sơ gọi là thẩm đế (xét kỹ), chẳng mềm chẳng cứng, gọi là nhu hòa; đạt đến chỗ vi tế, biết đến chỗ sâu xa nên gọi là vi mật. Hai câu này bản dịch xưa không ghi.

Kinh: Khéo đạt được các pháp… thật nghĩa sâu xa.

Tán: Đoạn này tán thán công đức liễu tri chân lý. Chân lý các pháp gọi là nghĩa sâu xa, không thể dùng tuệ thế tục mà thấy, không thể dùng tâm phân biệt mà biết; không thể dùng tuệ suy cầu mà thấy, không thể dùng trí thế tục mà biết; không thể dùng tâm phàm phu mà thấy, không thể dùng tâm Nhị thừa mà biết; không thể dùng nhãn thức để thấy. Không thể dùng các thức khác để biết. Các pháp như thế, nay các Bồ-tát đều liễu đạt, tức hậu đắc trí đạt tục đế, chánh thể trí đạt chân đế.

Kinh: Tùy thuận vào tất cả… ý lạc sở quy.

Tán: Đoạn này tán thán công đức liễu đạt không hữu là tông chỉ quy về. Ngài Hộ Pháp giải thích: “Nhập (vào) tức là chứng giải, hữu tức là hữu vi vô vi, vô tức là ngã và ngã sở, tức là ba tánh, thú nghĩa là thú hướng đến hữu, hướng đến vô. Ý lạc tức là tâm duyên với hữu vô, sở quy tức đạo lý trung đạo. Nói hữu vô thú ý lạc sở quy, nghĩa là trí vô lậu là hữu vô thú ý lạc, là chỗ quy của trí vô lậu, tức cảnh chân như. Hữu vô sở thú ý lạc mà Đức Phật thuyết là chỗ quy về rốt ráo. Cảnh chân như Bồ-tát có thể nhập vào và chứng biết. Đây là hiển thị khả năng liễu đạt lý ba tánh”. Thanh Biện giải thích: “Thế tục đế là hữu, thắng nghĩa đế là vô, vô tức là không, hai đường này là chỗ quy rốt ráo của ý lạc, tức là lý chân như. Các vị Bồ-tát này, có thể tùy thuận chứng nhận. Bản dịch xưa ghi: “khéo biết chỗ đến đi và chỗ tâm hành của chúng sinh” thì không có lý này. Hoặc nói chỗ đến đi là phân biệt hoạch định. Chỗ thú hướng của tâm, tức ba tánh không hữu và tâm sở hành đều quy về ba tánh chân như, tâm sở hành rốt ráo. Tâm là ý lạc, tuy có cách giải thích này nhưng lý không sâu xa.

Kinh: Đạt được vô đẳng đẳng… Bất cộng Phật pháp

Tán: Hai câu đầu nói về công đức sắp nối vị Phật, hai câu sau nói về công đức đã gần vị Phật. Đại Giác Thế Tôn gọi là Vô đẳng đẳng, vì không ai có thể bằng được. Bồ-tát Địa thứ mười ngồi trên tòa hoa sen báu lớn; như phép tắc nhận vương vị của các vương tử, chư Phật trong mười phương dùng nước trí Phật rưới lên đảnh tâm, khiến thọ nhận giai vị Phật. Nay đạt được giai vị này là hiển thị việc nối tiếp tôn vị. Lực tức là mười Lực, úy là bốn Vô sở úy, bất cộng Phật pháp là mười tám pháp Bất cộng của Phật.

Mười Lực được chia làm năm môn giải thích: Thích danh, nêu thể, hành tướng, thứ tự, các môn.

Thích danh gồm hai là nêu tên và giải thích.

Nêu tên:

  1. Xứ phi xứ trí lực.
  2. Tự nghiệp trí lực.
  3. Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực.
  4. Căn thắng liệt trí lực.
  5. Chủng chủng giới giải trí lực.
  6. Chủng chủng thắng giải trí lực.
  7. Biến thú hành trí lực.
  8. Túc trụ tùy niệm trí lực.
  9. Tử sinh trí lực.
  10. Lậu tận trí lực.

Giải thích gồm hai là giải thích chung và giải thích riêng.

Lực tên chung tức là phá dẹp oán địch, chẳng thể khuất phục. Bồtát địa, Du-già bốn mươi chín, năm mươi; quyết trạch, Du-già năm mươi bảy, kinh Bồ-tát Tạng năm, luận Hiển Dương bốn, luận Đối Pháp mười bốn, kinh đại Bát-nhã đều giải thích tướng này tương ứng với công năng làm lợi ích tất cả hữu tình, rốt ráo chiến thắng, khuất phục được các ma oán. Vì có đại oai lực nên gọi là lực. Cho nên lấy công năng phá dẹp, khuất phục gọi là lực. Đối pháp ghi: “Khéo hàng phục các ma, khéo ghi nhớ lời luận hỏi”, cho nên có mười danh từ lực. Mười là số lượng, vì lực dụng khác nhau cho nên có mười loại này, vì thế gọi là mười Lực. Căn cứ theo lục hợp thích thì đây thuộc về đới số thích.

Giải thích riêng từng danh từ: Nhân quả tương đương thì gọi là xứ, nếu chẳng tương đương thì gọi là phi xứ, cho nên luận Du-già ghi: “Quả tịnh, bất tịnh, đều bình đẳng; như nhân chuyển biến gọi là xứ”. Xứ nghĩa là kiến lập, y cứ, khởi; hay kiến lập quả là y, vì hay khởi nơi quả pháp. Nhân lập tên xứ, nhân bất bình đẳng, trái ngược với nghĩa trên nên gọi là phi xứ. Đối với hai loại này thì Nhất thiết trí, Vô tuệ trí, Thanh tịnh trí xa lìa Tăng thượng mạn, nên gọi đó là trí. Nghĩa lực như đã giải thích, mỗi mỗi tự tạo tác ba nghiệp ở ba thời, hoặc là thuận hiện thọ, thuận sinh thọ, thuận hậu thọ, không nhất định, nên gọi là tự nghiệp. Biết đúng như thế gọi là tự nghiệp trí lực. Tĩnh lự tức là bốn tịnh lự, giải thoát tức tám giải thoát, Đẳng trì tức tất cả định hữu tâm, đẳng chí tức tất cả định hữu tâm định Vô tâm. Biết đúng như thế gọi là tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực. Căn tức năm căn tín… là hơn hết mọi người, cho nên gọi là thắng liệt, biết đúng điều này nên gọi là căn thắng liệt trí lực. Nếu từ người khác tin, cho là trước tiên, hoặc quán các pháp cho là trước tiên, thành trên hết trong loại, ưa thích thắng giải, gọi là chủng chủng thắng giải, biết đúng điều này gọi là chủng chủng thắng giải trí lực. Nếu kiến lập khắp các chủng tánh, hoặc nhất thừa, hoặc Tam thừa, hoặc tứ thừa, hoặc năm thừa, hoặc tham, sân, si… hoặc phần hạnh tham, sân, si… cho đến tám vạn hạnh của hữu tình, đều gọi là chủng chủng giới. Giới là tánh, biết đúng việc này gọi là chủng chủng giới trí lực. Nếu trong các thú môn như thế mà tùy thuận chánh hạnh, như thật tu hành bất tịnh quán, thì gọi là Biến thú hành, hoặc thú hướng đến tất cả hạnh trong năm đường, hoặc các ngoại đạo Bà-la-môn, Samôn, mỗi mỗi đều thấy các hành phẩm loại khác nhau, hoặc đời này đời khác thú hành vô tội, đều gọi là biến thú hành. Biết đúng điều này gọi là biến thú hành trí lực. Nếu trong các chúng hữu tình, đối với danh tự ở bốn phương giả thuyết an lập các phẩm loại sai biệt, tùy theo tự thể đã có mà nói tám câu: Như thị danh, sinh loại, chủng tánh, ẩm thực, thọ khổ lạc, trường thọ, cữu trụ, thọ lượng biên tế. Rồi trong tám câu này tùy thuận nhớ nghĩ sáu hạnh sở hành đơn giản có vô lượng túc trụ tùy niệm. Sáu hành đơn giản:

  1. Hô chiêu giả danh.
  2. Sắc loại sai biệt của sát-đế-lợi… .
  3. Cha mẹ.
  4. Phép tắc ăn uống.
  5. Hưng suy.
  6. Thọ lượng.

Các túc trụ này là cảnh quá khứ, tức đời quá khứ. Đối với túc trụ này mà khởi tùy niệm, niệm và trí đều hành, gọi là túc trụ tùy niệm trí lực. Các loại hữu tình khi sắp mệnh chung thì gọi là tử thời, trụ ở thân trung hữu… gọi là sinh thời, ở các đường thiện ác khi sinh khi tử đều có thể liễu tri đúng đắn, nên gọi là sinh tử trí lực. Tất cả các tùy miên thuộc các lậu đều vĩnh viễn đoạn diệt, gọi là lậu tận, biết đúng điều này gọi là lậu tận trí lực. Trí là thể, lực là tác dụng, nhưng lực tức là trí, không có tánh khác nhau, trong đó túc trụ tùy niệm tương ưng với trí lực thì thuộc về lân cận thích, còn những lực khác từ đầu tiên xứ phi xứ cho đến lậu tận là cảnh sở quán, trí lực là trí năng quán. Từ trí lực xứ phi xứ đến lậu tận đều thuộc y chủ thích.

Nêu thể: Quyết trạch phần năm mươi bảy ghi: “Phật có đủ tri căn, dùng tuệ căn làm thể”. Đối Pháp luận ghi: “Định, tuệ và các tâm, tâm sở tương ưng”. Bồ-tát Địa ghi: “Cho rằng tất cả năm căn làm tự tánh”. Tuy có ba văn khác nhau, nhưng thể có năm:

1. Tối thắng thể, Quyết Trạch phần ghi: “Phật có đủ tri căn, lấy tuệ căn làm tánh”.

2. Dẫn xuất thể, luận Đối Pháp ghi: “Định, tuệ…”.

3. Khắc thật thể, Bồ-tát Địa ghi: “Năm căn là tánh vì tuệ là tối thắng”, vả lại nói mười lực thì tuệ là tự tánh, vì thế chỉ nói các trí lực xứ phi xứ… mà chẳng nói các lực như Tín lực, Tinh tấn lực… Căn cứ theo đây thì hiểu được văn của Quyết Trạch phần.

4. Tương ưng thể, luận Đối Pháp ghi: “Và các tâm tâm sở tương ưng với nó lấy bốn uẩn làm tánh.

5. Quyến thuộc thể, năm uẩn làm tánh, Định cộng, Đạo cộng, vô lậu sắc… cũng gọi là thể.

Tuy không có văn chứng minh, nhưng lý ắt phải như thế, tức ngăn chặn sự dơ xấu phạm giới, hỗ trợ phá dẹp ma oán.

Hành tướng: Xứ phi xứ lực thuộc về nhân như thật tri trong các nhân, thuộc về quả như thật tri trong các quả, và có thể hàng phục được những kẻ tranh luận về không nhân và ác nhân. Tự nghiệp trí lực có thể liễu tri như thật được nghiệp quả thọ dụng do tự kỷ tạo tác và có thể hàng phục được sự luận tranh về thí phước di chuyển, không làm mà được; tĩnh lự giải thoát đẳng trí đẳng chí trí lực, có thể hiện các loại thần biến giáo hóa hữu tình và hàng phục được các luận tranh về việc an trụ trái nhau, dị phẩm oán hại, lại có thể ngộ nhập vào tâm hành của loài hữu tình. Căn thắng liệt trí lực, có thể liễu tri như thật các phần sai biệt của hàng thượng căn trong các loài hữu tình, và có thể tùy cơ nghi thuận theo chỗ thích ứng mà thuyết chánh pháp. Chủng chủng thắng giải trí lực, có thể biết như thật về tịnh và bất tịnh, thắng giải sai biệt của hàng thượng phẩm trong loài hữu tình. Nếu là tịnh thì khiến được tăng trưởng, bất tịnh thì khiến xa lìa. Chủng chủng giới lực, có thể biết như thật các phần sai biệt của diệu giới trong các loài hữu tình hạ liệt, có thể tùy theo căn, ý lạc, tùy miên của họ và y cứ theo chỗ hướng vào của mỗi mỗi người mà dạy dỗ không trái ngược, tùy chỗ thích ứng mà an lập cho nên luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập tất cả, có thể phá tùy miên, thú hướng khắp các hành lực, đối với tất cả khổ, về hạnh hay xuất ly, hạnh không xuất ly đều biết như thật, và có thể khiến xả bỏ hạnh chẳng xuất ly, có thể chính thức trao cho hạnh hay xuất ly. Luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập vào tất cả cảnh giới sở nhập của các giáo Đại Tiểu thừa”. Túc trụ tùy niệm lực, luôn luôn ghi nhớ về bản sự bản sinh ở kiếp trước, khiến cho tâm được hóa độ sinh xa lìa, tâm sinh tịnh tín, vì họ tuyên thuyết và hàng phục các sự tranh luận về thường kiến. Luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập tất cả nhân duyên Thánh đạo đã gom tập từ đời trước”. Sinh tử trí lực, tức có thể thọ ký chỗ thọ sinh ở đương lai cho những đệ tử đã quá vãng, lại có thể hàng phục các kẻ tranh luận về đoạn kiến. Luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập tánh công năng ở vị lai’” Lậu tận trí lực, không nghi hoặc đối với sự giải thoát của tự kỷ và hàng phục những kẻ đối với A-la-hán khởi tăng thượng mạn. Luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập tất cả sự xa lìa ba cõi”.

Hai loại lực đầu là thuyết tăng thượng Thánh đạo, tám loại lực còn lại là thuyết quyết định thắng đạo, cho nên tất cả đều hiển thị chỗ làm của chư Phật.

Thứ tự:

Như Lai, đầu tiên đạt Vô thượng Bồ-đề là đốn ngộ, sau đó thì lần lượt khởi các lực: Trước hết lập tất cả nhân quả không trái nghịch, khởi xứ phi xứ lực. Kế đó có người cầu mong quả dị thục ở cõi Dục nên vì họ thuyết pháp xa lìa các nghiệp bất thiện, khiến thực hành pháp thiện, mà khởi tự nghiệp lực; kế đó có người cầu đạo ly dục, dạy họ thú hướng đến, mà khởi tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực; kế đó quán căn cơ của người ly dục mà khởi căn thắng liệt lực. Kế đó quán căn cơ của họ là ý lạc đã có từ trước mà khởi chủng chủng thắng giải trí lực; kế đó quán ý lạc là tùy miên đã có từ trước mà khởi chủng chủng giới lực; kế đến khiến trong môn hướng vào sở duyên mà được vào, nên khởi biến thú hành lực; kế đến, từ môn hướng vào sở duyên thích ứng mà tu gia hạnh, nhiếp trụ tâm rồi, tịnh tu các hạnh rồi, liền thuyết trung đạo, khiến xa lìa Tát-ca-da kiến, rồi lấy đó làm căn bản, thường đoạn các chấp nhị biên, khởi Túc trụ tùy niệm lực và sinh tử lực; kế đến khiến vĩnh viễn đoạn tất cả phiền não, khởi lậu tận trí lực. Lại có cách giải thứ hai, thứ tự như Bồ-tát Địa đã nói. Các môn phân biệt:

  1. Phân biệt.
  2. Bất cộng.
  3. Bình đẳng.
  4. Sai biệt.
  5. Dẫn phát.

– Môn phân biệt gồm có ba:

  1. Thời phân biệt, ba thời đều biết, tùy thuận mà ngộ nhập.
  2. Phẩm phân biệt, mỗi mỗi tự tướng, cộng tướng, tất cả hành tướng, tùy thuận mà ngộ nhập.
  3. Thân phân biệt, hữu tình trong mười phương, mỗi mỗi đều khác nhau, tất cả tương trụ, tất cả sự nghiệp, tùy thuận ngộ nhập.

– Môn bất cộng: Chỉ Như Lai mới có mười Lực này mà không cùng chung cho Thanh văn và Độc giác, còn Bồ-tát chỉ được một phần mà chưa viên mãn, cho nên nay gọi là cận (gần).

– Môn bình đẳng: Tất cả các Như Lai đều bình đẳng, đều có đầy đủ mười Lực này không sai khác. Nếu căn cứ theo việc Như Lai có nhiều chỗ an trụ, thì đó là do chư Phật xoay chuyển khác nhau; như có một Như Lai trụ ở lực này, thì các Đức Như Lai khác lại trụ ở các lực khác.

– Môn sai biệt: Như Bồ-tát địa đã nói rõ tướng của các lực nên ở đây sợ dài dòng không thuật lại.

– Môn dẫn phát: Có ba loại là phương tiện, căn bản và phát khởi. Phương tiện nghĩa là nơi giáo pháp tùy thuận kiến lập mà sinh khởi tác ý hoặc định tâm, luôn luôn tư duy về hành tướng, sau đó liền được viên 7 mãn. Căn bản, nghĩa là tuy chung cho tĩnh lự nhưng tất cả đều có. Như Lai phần nhiều trụ ở tĩnh lự thứ tư là bờ mé thù thắng. Phát khởi, gồm hai loại:

  1. Hiện tiền khởi dụng, dùng Hậu đắc trí xuất thế gian làm thể mà khởi tác nghiệp.
  2. Trụ ở bản tánh, dùng chánh trí xuất thế gian làm thể, phát khởi Hậu đắc trí.

Bốn Vô sở úy: Cũng được chia làm năm môn để giải thích: Bàn về tên, luận thể, hành tướng, thứ tự, các môn. Như kinh Bồ-tát Tạng bốn, luận Hiển Dương năm, Du-già năm mươi, Đối Pháp mười bốn đã nói.

Bàn về tên gồm hai phần là nêu tên và giải thích.

Nêu tên:

  1. Chánh đẳng giác vô úy.
  2. Lậu tận vô úy.
  3. Chướng pháp vô úy.
  4. Xuất khổ đạo vô úy.

Giải thích có hai: Giải thích chung và giải thích riêng.

Giải thích chung: Bốn là số lượng, vô sở úy nghĩa là đối với bốn nơi này luôn tự thấu suốt, thản nhiên không sợ sệt, tâm không khiếp nhược, không có sự lo nghĩ, nghi ngờ, không chút kinh sợ, cho nên gọi là vô úy.

Giải thích riêng: Chánh giác các pháp, đẳng giác các pháp nên gọi là Chánh đẳng giác. Các chủng tử và hiện hành của các phiền não lậu hoặc đều đoạn trừ, cho nên gọi là lậu tận.

Thuyết pháp chướng ngại, vì là nhiễm thì ắt phải chướng, cho nên gọi là chướng pháp. Nói đạo xuất ly, các Thánh tu tập, nhất định lìa khổ, nên gọi là xuất khổ đạo. Nơi bốn pháp này được vô sở úy, đều là y chủ thích.

Luận về thể: Du-già năm mươi bảy ghi: “Dùng tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ và tri căn làm tánh”.

Luận Đối Pháp ghi: “Định, tuệ và các tâm tâm sở tương ưng với nó…” Lại ghi: “Nếu khởi tác dụng thì lấy Hậu đắc trí làm tánh, nếu trụ tự tánh thì dùng chánh trí làm thể”.

Thể này có năm:

  1. Căn cứ theo sự thù thắng thì hai trí là thể.
  2. Nếu căn cứ theo phát khởi thì định tuệ là thể.
  3. Luận theo thật thì năm căn là thể.
  4. Luận theo tương ưng thì bốn uẩn là thể.
  5. Nếu luận theo quyến thuộc thì năm uẩn là thể.

Hành tướng: Kinh ghi: “Thế Tôn tự xưng Ta là Chánh đẳng giác giả; sau có Sa-môn hoặc chẳng phải Sa-môn từ phương khác đến, Đức Phật liền an ủi thăm hỏi rằng: “Ông trụ có được an ổn chăng? Khất thực được chăng?”. Từ đây lại có người nạn vấn rằng: Đã nói là Chánh đẳng giác thì không điều gì chẳng biết, mà nay lại hỏi vị kia, sao lại trái nghịch như thế? Đối với câu vấn nạn này tôi cho rằng bậc Chánh kiến thì không từ đâu đến, trụ được an ổn, không sợ hãi, tự xưng Ta ở tôn vị Đại tiên. Vì sao? Vì muốn nhiếp thọ những người đến tham kiến, khiến họ phát tâm, vì khi nghe Phật an ủi thăm hỏi thì phát đạo tâm. Vì muốn mọi người suy xét kỹ nơi sự mà Phật còn thăm hỏi, hà huống gì những việc khác mà không biết. Làm cũng để làm quy tắc mô phạm cho người sau, thấy đó mà phát tâm, thích hợp dần nhiếp, chứ chẳng phải Phật không biết mà nói là Đẳng giác. Như kinh ghi: “Nơi ta các lậu đã tận trừ vĩnh viễn, sau Thiên Thọ làm việc ác thì Đức Phật quở trách, Chấp Nhật tánh điều phục, Đức Phật thường dùng lời nói nhu hòa. Có người hỏi rằng: Đã nói các lậu đã tận trừ, phiền não đã sạch, sao còn la mắng Thiên Thọ? Nói ôn hòa vói Chấp Nhật? Vậy tham sân chưa diệt, huống gì nói lậu tận? Sao lại trái ngược như vậy? Đối với câu vấn nạn này, ta nói rằng bậc Chánh kiến không từ đâu đến, an ổn không sợ sệt, ở giai vị Đại tiên. Thiên Thọ dụ cho ác mã, dùng độc mới điều phục được nếu chẳng la mắng, trái lại nói lời dọa nạt ta. Chấp Nhật dụ cho tuệ tượng, thường thuận tâm người, nên dùng lời nhu hòa liền có thể điều phục được, chứ chẳng phải Phật còn tham, sân, các lậu chưa trừ”. Kinh ghi: “Ta vì các đệ tử nói pháp chướng ngại, vì nhiễm ắt là chướng, thì chẳng ngăn chặn được hàng Dự lưu, Nhất lai có vợ con… có người hỏi rằng: Nhiễm ắt là chướng, sao bậc Thánh vẫn nuôi dưỡng vợ con, vì sao lại trái ngược như thế? Đối với câu vấn nạn này, ta nói rằng bậc Chánh kiến không từ đâu đến, an ổn không sợ sệt, ở giai vị Đại tiên. Tà hạnh chướng Thánh đạo, nuôi dưỡng vợ con thì chướng đạo ly dục, hàng sơ quả và quả thứ hai chưa ly dục, tánh của họ hoặc đã thành từ lâu, cho nên đã trừ tà hạnh, chẳng đoạn dứt vợ con, thì đâu có gì trái ngược? Vì thế pháp nhiễm chẳng phải không chướng ngại. Kinh ghi: “Ta vì hàng đệ tử thuyết đạo xuất ly, bậc Thánh tu tập quyết định xuất ly, quyết định thông đạt. Sau có một người Vô học là Ca-lưu-đà-di chôn vùi trong phân hoại, Ươngquật-ma-la bị lửa địa ngục đốt thân. Do đó có người hỏi rằng: “Tu tập Thánh đạo lâu ngày là để mong cầu xa lìa các khổ. Nhưng hàng Vô học đã trở lại chịu khổ, vậy tu đạo làm gì? Sao lại trái ngược như thế? Đối với câu vấn nạn này. Ta nói rằng bậc Chánh kiến không từ đâu đến, an ổn không sợ hãi, ở giai vị Đại tiên, chân thật đạt được vô học, quả khổ nhất định đã hết. Nhưng thị hiện ác nhân ắt có quả báo khổ. Do đó, bậc Thánh phải cùng chịu khổ, để phát khởi tâm giáo hóa hậu học. Hoặc nghiệp đạo quyết định chẳng thể trừ, còn nghiệp bất định thì bậc Vô học đã trừ sạch. Hoặc khổ dị thục, bậc Vô học chẳng thọ, vì ác nghiệp đã dứt, có quả chướng ngại thì chẳng thành Vô học. Kia nói Vô học thọ khổ báo là vì hiện tại ở giai vị Hữu học, còn chưa lìa dục; vì nhất định sẽ thành Vô học, cho nên lấy làm tên. Dẫu cho có thần thông thì cũng chẳng phải là Bất hoàn… vì đó là năm thông thế gian.

Thứ tự: Luận về thứ tự ở đây là căn cứ theo luận Đối Pháp và Bồtát Địa. Xuất khổ là pháp thứ ba, Pháp chướng là pháp thứ tư. Luận Đối Pháp ghi: “Hai pháp trước là lợi tha, đầu tiên là trí, sau cùng là đoạn, vì có sai biệt. Hai pháp sau là tự lợi, xa lìa pháp sở trị, tu tập đạo năng trị. Bồ-tát Địa ghi: “Đầu tiên là chánh đẳng giác chẳng chung cho Thanh văn, kế đến là lậu tận chung cho Nhị thừa, kế đến nêu đạo xuất khổ, là vì người xa lìa các khổ, cầu giải thoát; sau cùng nói pháp chướng đạo xuất khổ là chướng ngại. Cho nên giáo của hai bậc Thánh khác nhau.

Các môn: gồm có năm: chỗ làm, phân biệt, bình đẳng, sai biệt, dẫn phát.

Sở vi (chỗ làm): Đẳng giác vô úy là vì hàng Bồ-tát thú hướng đến Đại thừa, lậu tận vô úy là vì các hữu tình thú hướng Nhị thừa, hai vô úy sau là vì những người cầu các thừa. Kinh ghi: “Cho rằng ta vì Bồ-tát và Thanh văn mà thuyết đạo xuất ly”. Các người kết tập kinh điển, trong Thanh văn tạng đã lược bỏ lời Bồ-tát, còn trong tạng Bồ-tát chỉ tụng lời Bồ-tát, lý như thế có thể thông hiểu. Các môn khác thì có thể căn cứ theo mười lực đã nêu, ở đây sợ rườm rà nên không kể ra.

Mười tám pháp Bất cộng: Gồm năm môn: Nêu tên, luận thể, hành tướng, sai biệt, các môn.

– Luận về tên có hai phần: Nêu tên và giải thích.

Nêu tên:

  1. Không lầm lỗi.
  2. Không có âm thanh khó nghe.
  3. Không quên sót.
  4. Không có tâm bất định.
  5. Không có các tưởng.
  6. Không có bất trạch xả.
  7. Chí dục, không thoái lui.
  8. Tinh tấn không lui sụt.
  9. Niệm không lui sụt.
  10. Định không lui sụt.
  11. Tuệ không lui sụt.
  12. Giải thoát không lui sụt.
  13. Tất cả thân nghiệp đều lấy trí làm tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển.
  14. Tất cả ngữ nghiệp lấy trí làm tiền đạo tùy theo trí mà chuyển.
  15. Tất cả ý nghiệp đều lấy trí làm tiền đạo tùy theo trí mà chuyển.
  16. Biết đời quá khứ không dính mắc, không ngăn ngại.
  17. Biết đời vị lai không vướng mắc, không ngăn ngại.
  18. Biết đời hiện tại không dính mắc không ngăn ngại.

Giải thích tên: Mười tám là số lượng, Phật là Bậc năng thành thục, pháp Bất cộng là pháp sở thành thục.

Vì chỉ có Phật mới đặc biệt thành tựu, những người khác không có, cho nên gọi là pháp Bất cộng, hoặc cho rằng những hạng người khác tuy có được một phần, nhưng tất cả đều chưa được viên mãn. Còn Đức Như Lai đối mười tám pháp này tất cả đều đã chứng đắc, tất cả các loại không đâu chẳng viên mãn, cùng tột, siêu việc, thù thắng bậc nhất, cho nên gọi là pháp Bất cộng, đó là nghĩa bất cộng. Pháp bất cộng của Phật gọi là Phật bất cộng pháp. Đó là y chủ thích. Nói chung mười tám Bất cộng pháp là đối số thích.

Thể tánh: Hai pháp đầu tiên thì dùng thân ngữ nghiệp và tư làm tánh, pháp thứ ba và thứ chín lấy niệm làm tánh, pháp thứ tư thứ mười lấy định làm tánh, pháp thứ năm lấy tưởng làm tánh, pháp thứ sáu và thứ mười một và sáu pháp sau cùng lấy tuệ làm tánh, pháp thứ bảy lấy dục làm tánh, pháp thứ tám lấy tinh tấn làm tánh, pháp thứ mười hai lấy thắng giải làm tánh. Như thế mười tám pháp Bất cộng lấy tám pháp: Tư, tưởng, dục, cần, niệm, định, thắng giải và tuệ làm tánh. Trong đó có hai biến hành là tư và tưởng, một thiện là cần, năm biệt cảnh là dục, niệm, định, thắng giải và tuệ, còn những pháp khác chẳng phải là thể của mười tám pháp Bất cộng. Tất cả chỉ có ba uẩn là sắc tưởng và hành. Hai nghiệp thân và miệng thuộc về sắc uẩn, trở về gốc là tư. Nếu khởi tác dụng thì nương vào Hậu đắc trí, nếu trụ ở tự tánh thì nương vào chánh thể trí. Nếu gồm cả tương ưng thì lấy bốn uẩn làm tánh, nếu thêm quyến thuộc thì lấy năm uẩn làm tánh.

Hành tướng: Bậc A-la-hán… tuy các lậu là tận, nhưng vì khất thực nên phải đến các thành ấp hoặc cùng với ngựa dữ và đạo tặc… đi lại nghỉ ngơi, hoặc bước trên gai góc, nhảy vọt qua hầm, vào nhà nữ nhân, chẳng y chánh lý mà đàm luận nói năng, không theo đường chánh mà vào nẻo tà, các việc sai trái như thế, vĩnh viễn Như Lai chẳng phạm. Bậc A-la-hán… mê lầm đường chánh, hoặc vào nhà trống, lớn tiếng nói năng, nhân chẳng nhiễm tập khí, nên vào tụ lạc cười đùa lộ môi răng, âm thanh chói tai, Như Lai vĩnh viễn không có những lỗi này. Bậc A-lahán, còn có sự bất tịnh, những việc làm từ lâu xa, những điều luận nói từ lâu xa, đã quên không nhớ được, Như Lai vĩnh viễn không như thế. Bậc A-la-hán, khi thúc liễm thì tâm mới an định, khi khây thúc liễm thì tâm không định, Như Lai vĩnh viễn không như thế. Bậc A-la-hán,… đối với sinh tử hữu dư còn khởi tưởng trái nghịch, đối với Niết-bàn Vô dư khởi tưởng tịch tĩnh; Như Lai vĩnh viễn không có các tưởng tịch tĩnh; Như Lai vĩnh viễn không có các tưởng này mà trụ ở tại xả rốt ráo. Bậc A-la-hán… chẳng từng dùng trí tuệ để giản trạch, xả bỏ những việc lợi lạc hữu tình, Như Lai vĩnh viễn không như thế. A-la-hán… đối với sở tri chướng thanh tịnh có vị đắc thoái, nghĩa là ý dục thoái, tinh tấn thoái, niệm thoái, định thoái, tuệ thoái, giải thích thoái, còn Như Lai vĩnh viễn không như thế. Bậc A-la-hán… trong một thời khéo léo chuyển ba nghiệp, hoặc chẳng khéo léo chuyển ba nghiệp, còn ba nghiệp của Như Lai, thì trí là tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển, cho nên không có vô ký, chỉ có tánh thiện. Bậc A-la-hán… đối với cảnh ba đời, chẳng thể khởi tâm liền hiểu, cho nên trí có sự dính mắc, chẳng thể thấu hiểu tất cả, cho nên trí có chỗ ngăn ngại. Như Lai đối với việc này, thì vừa khởi tâm liền biết tất cả, cho nên trí không dính mắc không bị chướng ngại.

Sai biệt: Trong mười tám pháp bất cộng thì sáu pháp đầu là nương vào ba nghiệp thanh tịnh mà thuyết, tức không lầm lỗi là nương vào thân thanh tịnh, không có âm thanh chói tai là nương vào lời nói thanh tịnh, bốn pháp kia nương vào ý thanh tịnh. Sáu pháp kế tiếp, đối với sở y và quả căn chưa được bất thoái. Sở y tức là chí dục, do đây làm gốc mà khởi tinh tấn, cho nên gọi là sở y. Các giáo khác cũng nói dục là chỗ nương (sở y) của tinh tấn. Quả tức giải thoát, do dục dẫn đầu, sau nơi Niết-bàn giải thoát và tất cả cảnh, khởi sự tin hiểu quyết định, cho nên gọi là quả. Dục là sở cầu, tinh tấn, niệm định tuệ là căn. Lâu ngày tu tập bốn pháp này thì sinh thiện, khởi giải thoát. Trong sáu pháp cuối cùng, thì ba nghiệp lấy trí làm tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển. Đó là ba nghiệp bất cộng của Như Lai, rõ biết quá khứ, vị lai và hiện tại, không dính mắc không chướng ngại, cho đến đó là trí Bất cộng của Như Lai.

Các môn: Gồm có năm: Tác nghiệp, phân biệt, bình đẳng, sai biệt và dẫn phát.

Tác nghiệp nghĩa là do thân ngữ ý thanh tịnh, nên được bất thoái, đi đứng ánh sáng che mờ Thanh văn và Độc giác. Ba nghiệp thanh tịnh là thuộc về sáu tác nghiệp đầu, đạt được bất thoái là thuộc về sáu tác nghiệp kế tiếp; như đi như đứng là thuộc về sáu tác sau cùng. Các môn khác căn cứ theo sự giải thích ở trên cũng có thể hiểu được, ở đây sợ rườm rà nên không ghi. Lực, Vô úy… được nói ở đây chỉ có Phật mới thành tựu viên mãn, nay đã được một phần, cho đến nối tiếp tôn vị, nên gọi là cận (gần). Nêu lên loại này thì các Phật pháp khác cũng đều như thế. Bản dịch xưa, tổng hợp giai vị này và công đức, gọi chung là cận (gần).

Kinh: Đã tận trừ tất cả đường ác đáng kinh sợ… hầm sâu nguy hiểm.

Tán: Câu này tán thán công đức xa lìa các quả ác. Đường ác kinh sợ là ba ác thú, quả ba ác thú đáng kinh sợ. Hoặc là tám đường không rảnh rỗi gọi là đáng sợ, còn ba ác đạo gọi là ác thú. Hoặc năm chỗ kinh sợ gọi là kinh sợ, tuy Sơ địa đã xa lìa, nhưng nay nói Địa thứ tám trở lên xa lìa nhân này. Nhân quả đều trừ, cho nên nay gọi là lìa. Sinh về cõi trời người, cho nên trừ đường ác; cõi trời người lại có hầm sâu nguy hiểm. Các loại không có hình hoặc hai hình, hoàng môn… cho đến người nữ… đều bị gọi là đường ác trong loài người. Những loại này khó cứu độ cho nên gọi là hầm sâu, sâu thì đáng sợ, cho nên gọi là nguy hiểm. Như đường nguy hiểm, cũng như hầm sâu, hoặc khởi tà kiến, bác không nhân quả, nên gọi là hầm sâu nguy hiểm, như trên đã nói, đều chỉ chung cho quả ác. Nay đã vượt qua tất cả loại này. Bản dịch xưa ghi: “Đóng tất cả các cửa ác thú” thì nghĩa cũng thông suốt.

Kinh: Vĩnh viễn xả bỏ duyên khởi… thị hiện sinh vào các đường (hữu thú).

Tán: Câu này là tán thán công đức đạt được Niết-bàn vô trụ. Duyên khởi sinh tử khó có thể phá hoại giống như kim cang; hay làm tổn hại chúng sinh giống như dao gậy. Nghĩa là pháp duyên khởi tựa như kim cang, là dao là gậy, hay làm tổn hoại chúng sinh khó có thể phá trừ được. Hoặc cho ác thú là quả khổ, hầm sâu là nhân, rơi vào đó ắt khó ra khỏi. Cho nên pháp duyên khởi này gọi chung là sinh tử, đều đã xa lìa. Bồ-tát đã xa lìa phần đoạn sinh tử từ lâu, hoặc nhất định đã lìa tất cả duyên khởi, chứng đắc Niết-bàn mà chẳng trụ trong đó, thường suy nghĩ đến ba hữu, bốn hữu, bảy hữu, chín hữu, hai mươi lăm hữu, năm thú, bốn loài sinh, tùy loại mà thị hiện để giáo hóa, vĩnh viễn xa lìa duyên khởi, lấy đại trí làm đầu, chẳng trụ sinh tử, thường nghĩ đến việc thị hiện, tùy loại mà giáo hóa; lấy đại bi làm đầu, chẳng trụ Niết-bàn. Bản dịch xưa ghi: “Hiện thân sinh vào năm đường”. Tuy có đại bi mà không có đại trí để xả bỏ duyên khởi.

Kinh: Làm bậc Đại Y vương… bệnh lành ban cho sự an ổn.

Tán: Đoạn này là nói về công đức khéo đạt cơ nghi lợi ích cứu vật. Y tức là ý, biết rõ nguồn gốc của bệnh, quen thuộc tánh của thuốc, tùy thời cứu giúp nên đặt tên là Y. Đối với việc này rất tự tại cho nên gọi là Đại y vương. Phương nghĩa là phương pháp, tức giáo pháp nói về thuốc, thuật tức đạo thuật, tức pháp cần yếu để cứu tế, biết rõ hai môn này nên gọi là y vương. Đã biết căn cơ của chúng sinh, cho nên có thể tùy theo bệnh mà cho thuốc, thuốc đã cấp thì bệnh liền khỏi, ban cho sự an lạc.

Lạc có năm:

  1. Tự tánh lạc, là thể của lạc thọ.
  2. Nhân lạc, có thể sinh các pháp lạc thọ, căn, cảnh.
  3. Khổ đối trị lạc tức ý tưởng về lạc sinh khởi khi các pháp khổ nóng lạnh tạm tiêu trừ.
  4. Đoạn lạc thọ, tức là diệt tận định.
  5. Vô não hại lạc, có bốn loại: Một là, xuất ly lạc, tức là lạc ở cõi Sắc và Vô sắc; hai là, viễn ly lạc, là lạc của sự xuất gia; ba là, giác pháp lạc, tức là Bồ-đề; bốn là, tịch tịnh lạc, tức Niết-bàn.

Như Bồ-tát Địa đã giải thích năm loại lạc này; an thì lạc, trong đó có hai cách giải: Một là, nêu dụ bậc đại Y vương chữa bệnh sinh tử, bệnh tức là cơ cảm, thuốc tức là chánh pháp; hai là, Bồ-tát hiểu rõ năm minh, biết suốt y phương thuật, cho nên có thể tùy bệnh cho thuốc, bệnh lành thì ban cho sự an lạc, vì cứu giúp cả bệnh của thân hiện tiền việc thân đời sau, nên thông cả hai cách giải thích.

Kinh: Vô lượng công đức… đều nghiêm tịnh.

Tán: Đoạn này nói về công đức nội ngoại thù thắng. Công đức của nội thể đã thành tựu thì cõi Phật bên ngoài đều nghiêm tịnh; nếu công đức bên trong không thành thì cõi Phật bên ngoài chẳng tịnh.

Kinh: Những người thấy nghe… cũng không luống bỏ.

Tán: Câu này nói về công đức tự tại đối với hai lợi ích. Nếu có chúng sinh, thấy nghe Bồ-tát thì đều được lợi ích cứu giúp, tùy theo bệnh mà đều được chữa trị. Người mù thì được mắt sáng, người điếc thì được tai nghe… Các hạng người như thế, thì Bồ-tát liền khởi tâm, phàm ý phát khởi thì tất cả đều là việc thiện. Trước khi có lợi ích, sau thì tất cả công lao không luống bỏ. Đường tức là luống qua, quyên tức là bỏ.

Bốn mươi câu trên đã tán thán riêng về đức.

Kinh: Dù trải qua câu-chi… cũng chẳng thể cùng tận.

Tán: Tổng kết việc tán thán đức cao rộng, đạo vi diệu. Dẫu trải qua nhiều kiếp, rốt cuộc nói cũng chẳng hết công đức. Trăm ngàn mười vạn câu-chi, trăm ức na-do-tha nhiều ức ức số mà ít tu đức cạn, thì thuật cũng khó cùng. Vì nhân rộng trí sâu, đức bày khó hết, cho nên trải qua mười vạn trăm ức kiếp, tán thán công đức ấy cũng chẳng thể hết được.

Kinh: Tên các vị Bồ-tát ấy là… Bồ-tát đẳng bất đẳng quán.

Tán: Đây là phần ba nêu tên riêng. Trong đó gồm có năm mươi sáu vị. Bản dịch xưa chỉ nêu năm mươi hai vị. Ở đây thừa năm vị Bồ-tát là Diệu Tuệ, Liên Hoa Thắng Tạng, Tam-ma-địa Vương, Thắng Ma, Thù Bảo Cái; nhưng không có ghi Bồ-tát Bảo Thắng ở bản dịch cũ. Đẳng quán, tức là bình đẳng quán lý, quán sự và quán các hữu tình. Bất đẳng, tức quán lý không bình đẳng, nghĩa là quán chân chẳng phải tục, quán sự không bình đẳng, nghĩa cũng có thể biết, quán hữu tình không bình đẳng, tức người có thể độ thì độ họ, người không thể độ thì không độ. Hoặc có lúc bình đẳng quán xét, hoặc có lúc không bình đẳng quán xét, nên gọi chung là đẳng bất đẳng quán.

Kinh: Bồ-tát Định Thần Biến Vương, Bồ-tát Pháp Tự Tại.

Tán: Nương vào định khởi thần biến để hóa độ chúng sinh, gọi là Định Thần Biến. Bản dịch xưa gọi là Định Tự Tại, chỉ là xuất nhập tự tại các định mà không có thần biến. Thuyết pháp vô ngại, nên gọi là pháp tự tại.

Kinh: Bồ-tát Pháp Tràng, Bồ-tát Quang Tràng.

Tán: Âm Phạm: Hệ-đô, Hán dịch là Tràng. Đối với pháp được tự tại, dương cao như cột cờ (tràng). Phóng quang tự tại cũng như cột cờ cao. (Cao Tràng) Bản dịch xưa ghi là Pháp Tướng, Quang Tướng, chẳng phải lời này. Nhưng người dịch kinh nói như cao tràng, người bút thọ không hiểu, cho rằng chỉ tràng là tướng, tương tự như nêu lên tướng trạng, cho nên ghi lầm.

Kinh: Bồ-tát Quang Nghiêm, Bồ-tát Đại Nghiêm.

Tán: Trong ánh sáng có các màu sắc, và các thứ trang nghiêm, nên gọi là Quang Nghiêm. Dùng nhiều loại châu báu trang nghiêm nội thân nên gọi là Đại trang nghiêm.

Kinh: Bảo Phong Bồ-tát… Bảo Ấn Thủ Bồ-tát.

Tán: Pháp bảo cao vót nên gọi là Bảo Phong. Ngôn từ cao vót nên gọi là Biện Phong. Bản dịch xưa nói Bảo Tích, Biện Tích, thì nghĩa hơi xa hơn. Từ tay lưu xuất ra của báu ban phát cho hữu tình, nên gọi là Bảo Thủ, trên tay có ấn, ấn định cho chúng sinh, khiến họ thoát khỏi sáu đường, nên gọi là Bảo Ấn Thủ.

Kinh: Bồ-tát Thường Cử Thủ… Bồ-tát Vô Khuất Biện.

Tán: Kêu gọi chúng sinh, khuyên tu pháp thiện, nên gọi là Thường Cử Thủ. Trao cho pháp thiện, nên gọi là Thường Hạ Thủ; nghểnh cổ ngóng nhìn chúng sinh, thường mong cứu giúp, cho nên gọi là Thường Diên Cảnh. Bản dịch xưa ghi là Thường Thảm; vì thường xót xa cứu vớt, Bồ-tát không còn lo buồn cho nên chẳng thảm thương. Khi sáu căn vừa quán một chúng sinh, thì mỗi một căn đều sinh hoan hỷ, như cha gặp con, cho nên gọi là Thường Hỷ Căn. Nếu thấy chúng sinh, vừa mĩm cười thì khởi đại hoan hỷ, như vương tự tại cho nên gọi là Hỷ vương. Lời nói khó điều phục gọi là Vô Khuất Biện. Bản dịch xưa ghi là Biện Âm, nghĩa này sai lầm.

Kinh: Bồ-tát Hư Không Tạng… Bồ-tát Bảo Thí.

Tán: Hư không là kho tàng, dùng để ban cho chúng sinh cho nên gọi là Hư Không Tạng. Tâm giữ gìn đuốc tuệ báu, chiếu phá si mê tăm tối của chúng sinh, cho nên gọi là Chấp Bảo Cự. Dùng pháp bảo ban phát cho chúng sinh, làm việc tốt lành, cho nên gọi là Bảo Cát Tường. Bản dịch xưa gọi là Bảo Dõng, thì thiếu nghĩa dùng pháp bảo thí cho chúng sinh, lại thiếu việc Cát Tường. Vì thường dùng bảy báu ban phát cho chúng sinh nên gọi là Bảo Thí. Bản dịch xưa ghi là Bảo Kiến, thì khó thành đạo lý.

Kinh: Bồ-tát Đế Võng… Bồ-tát Tuệ Phong.

Tán: Như trời Đế Thích có thuật tự tại, đối với mỗi một sự, hiện tất cả sự, bao phủ tất cả chúng sinh. Các Bồ-tát dùng sức thần thông thực hành các huyễn thuật, làm lợi ích phủ tất cả chúng sinh, cho nên gọi là Đế Võng. Phóng ánh sáng giống như lưới châu nên gọi là Quang Võng. Xưa dịch là Minh Võng, ánh sáng thần được phóng ra chẳng gọi là Minh. Xa lìa các chướng về định, mà nhập tĩnh lự được đại tự tại nên gọi là vô chướng tịnh lự. Xưa dịch là Vô duyên quán tức là quán Vô Sở Duyên, chẳng phải là nghĩa này. Hoặc cho rằng vô là vô chướng, duyên quán tức là định, nghĩa này có thể biết được. Trí tuệ cao tột gọi là Tuệ Phong. Xưa dịch là Tuệ Tích thì trái với nghĩa ở đây. Bản dịch xưa sau đó có ghi Bồ-tát Bảo Thắng, còn bản này thì không có.

Kinh: Bồ-tát Thiên Vương… Bồ-tát Phong Tướng Đẳng Nghiêm.

Tán: Tự tại đối với pháp như vua trời nên gọi là Thiên vương.

Vả lại các Bồ-tát tên Thanh Tịnh Thiên, trong đó có vị tự tại như Luân vương, dần dần được mười phương, phá dẹp bốn ma, nên gọi là hoại ma. Pháp bảo lưu chuyển, ánh sáng như điện, tự tại như trời nên gọi là Điện Thiên. Bản dịch xưa ghi là Điện Đức, đức tức công đức. Hay hiện thần biến tự tại như vương, cho nên gọi là Hiện Thần Biến Vương. Bản dịch xưa ghi là Tự Tại Vương, tức Thần Biến Tự Tại Vương; có thể dùng công đức bình đẳng tự trang nghiêm, như hình tướng của ngọn núi cao vót, cho nên gọi là Phong Tướng Đẳng Nghiêm. Bản dịch xưa ghi Công Đức Tướng Nghiêm. Tướng tức là Phong. Nghĩa đồng nhưng tên hơi khác.

Kinh: Bồ-tát Sư Tử Hống… Bồ-tát Sơn Tương Kích Vương

Tán: Âm thanh thuyết pháp như tiếng rống sư tử. Không sợ sệt cho nên gọi là Sư Tử Hống. Âm vang của tiếng thuyết pháp như tiếng mây sấm. Tây phương nói sấm là âm thanh của mây, cho nên gọi là Vân Lôi Âm. Bản xưa không có chữ Vân, vì ở Trung quốc cho rằng sấm (lôi) không phải mây (vân) nên không ghi: Âm thanh thuyết pháp như tiếng chấn động của hai núi chạm nhau rất ghê sợ, cho nên gọi là Sơn Tương Kích, tự tại như Vương. Bản xưa gọi là Sơn Tương Kích Âm, nghĩa cũng như thế.

Kinh: Bồ-tát Hương Tượng… Bồ-tát Xả Thiện Ách.

Tán: Loài voi hay nhất trong các loài voi thì gọi là hương tượng, như thế hương tượng, như thanh hương tượng. Đại hương tượng thì lại càng hay hơn nữa. Bản xưa ghi là Bạch Hương Tượng, bạch hương tượng chẳng bằng hương tượng, cho nên phải gọi là Đại Hương Tượng. Tu hành không biếng trể nên gọi là Thường Tinh Tấn. Các pháp thiện tu tập giống như cái ách, trồng vào con trâu hành giả, kéo thẳng đến cung điện Niết-bàn, mà chẳng hướng đến nơi khác. Bồ-tát thường trụ trong pháp thiện nên gọi là Bất khả Xả Thiện Ách. Bản xưa ghi là: Bất Hưu Tức, thì chỉ được ý chung, nghĩa chưa được trọn vẹn.

Kinh: Bồ-tát Diệu Tuệ… Bồ-tát Liên Hoa Nghiêm.

Tán: Vì trí thù thắng, nên gọi là Diệu Tuệ. Bản xưa không có ghi vị Bồ-tát này. Chứng đắc pháp giới thanh tịnh, sinh vào nhà Như Lai nên gọi là Diệu Sinh. Bên trong hàm chứa pháp bảo nên gọi là Thắng Tạng. Như hoa sen chưa nở, cho nên gọi là Liên Hoa Thắng Tạng. Đạt được định thù thắng, tự tại như vua; hoặc định thù thắng như vua, nên gọi là Tam-ma-địa, vương. Tam-ma-địa. Hán dịch là Đẳng trì, thể tức là định. Hai vị Bồ-tát này, bản xưa không ghi. Vì dùng diệu đức nhất thừa như hoa sen mà trang nghiêm, luôn tự trang nghiêm, biểu thị cho nghĩa 79 ra khỏi bùn lầy, trí giác nở tròn đầy, cho nên gọi là Liên Hoa Nghiêm.

Bản xưa ghi Hoa Nghiêm thì nghĩa cũng đồng như thế.

Kinh: Bồ-tát Quán Tự Tại… Bồ-tát Thắng Ma.

Tán: Các loài hữu tình thanh tịnh ba nghiệp và quy y thì ắt sẽ ứng điều mong cầu. Nương sáu thông hóa độ, tám ách nạn phá trừ, cỡi xe mà cứu bạt, làm người bạn chẳng mời, làm vị thầy chữa bệnh. Cứu độ các chúng sinh, nhiếp phục loài hữa tình, thật chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là Quán Tự Tại. Bản xưa ghi là Quán Thế Âm; không chỉ quán âm thanh mà còn cứu khổ. Phàm chỗ du hóa đều làm lợi ích chúng sinh, có thế lực lớn nên gọi là Đại Thế Phạm Võng, cũng như Đại Phạm vương, có thể nơi một việc mà hiện tất cả việc, che phủ tất cả một Phạm vương khác, khiến họ tin phục. Bồ-tát dùng thần thông làm lợi lạc phủ trùm tất cả, cũng như thế; cho nên gọi là Phạm Võng. Tay cầm gậy báu, khích lệ chúng sinh, khiến họ phát tâm, cần cầu Bồ-đề, nên gọi là Bảo Trượng. Đức cao không ai bằng, cho nên gọi là Vô Thắng. Thường phá dẹp bọn ma nên gọi là Thắng Ma. Bản xưa không có ghi vị Bồ-tát này.

Kinh: Bồ-tát Nghiêm Độ… Bồ-tát Châu Kế.

Tán: Thường tu diệu hạnh trang nghiêm cõi Phật cho nên gọi là Nghiêm Độ, quán pháp vô vi chẳng lìa tâm thủ (đầu tâm như dùng vàng làm búi tóc, cho nên gọi là Kim Kế, thường dùng trí tuệ trang nghiêm nơi tâm, như dùng châu làm búi tóc, cho nên gọi là Châu Kế. Hoặc cho rằng Nhất thừa là hạt châu trên búi tóc của Phật. Bồ-tát thường tu pháp này cho nên gọi là Châu Kế.

Kinh: Bồ-tát Từ Thị… Bồ-tát Châu Bảo Cái.

Tán: Tánh người mẹ thường hành từ, thân cũng từ ái nên lấy từ làm họ, nên gọi là Từ thị. Bản duyên của Bồ-tát này như Di-lặc sớ đã ghi. Bản xưa gọi là Di-lặc. Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Cát Tường, Vì thường khuyên chúng sinh thực hành các việc cát tường, vô cùng thù thắng, cho nên gọi là Diệu Cát Tường. Khởi bốn tâm vô lượng che phủ tất cả chúng sinh, như dùng châu báu mà bao trùm, cho nên gọi là Châu Bảo Cái, vị Bồ-tát này, bản dịch xưa không ghi.

Kinh: Như thế, tất cả gồm ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát thượng thủ.

Tán: Đây là ý thứ tư, nêu lên để tổng kết đoạn trên. Vả lại để nêu các vị đó đều có đức cao tột, nên gọi là thượng thủ, còn những vị khác là ở giai vị thấp, lược bỏ chẳng kể ra. Cho nên ba mươi mốt người ở phẩm Bất Nhị không thuộc những vị đã được nêu ra ở đây.

Kinh: Lại có vạn Phạm vương… đến tại hội tòa.

Tán: Đoạn trên là nói về Thánh chúng, từ đây trở xuống là nói về phàm chúng. Phàm chúng có ba:

  1. Thiên chúng ở cõi khác.
  2. Chúng Bát bộ oai linh, chư Thiên ở cõi này được xếp vào Bát bộ, do đó kinh văn này hợp chung lại mà gọi là hội tọa.
  3. Bốn bộ chúng tu hành.

Hoặc phân làm bốn tức chia các trời Thích Phạm hộ thế gian riêng làm một. Hoặc phân làm năm tức tách Phạm vương ở phương khác làm một bộ, Đế Thích ở phương khác làm một bộ. Đây là nói về loại thứ nhất. Nói có vạn Phạm vương tức là nêu chung. Nếu luận về Phạm vương thì số đã là vạn rồi.

Phạm vương Trì Kế là thượng thủ, đây là vị Phạm ở cõi sơ thiền. Kinh Pháp Hoa ghi: “Đại phạm Thi-khí, Đại phạm Quang Minh…” Bản dịch xưa cũng ghi là Thi Khí. Vì đảnh có nhục kế giống như Đức Thế Tôn, đây là vị Bồ-tát Địa thứ tám, thuộc về Tăng thượng sinh. Vì hiển sự đối đáp với ngài Thu Tử ở chương sau: “Ta thấy cõi Phật thanh tịnh như thế”, nên biết chẳng phải là phàm. Nêu vị này lên để nói rằng tất cả các Phạm vương đều có đến. Từ bản vô ưu tức là cõi Sắc, cõi Dục còn ưu khổ, có sự bức bách, các cõi trời trên thì không còn. Bốn đại châu giới, vì sơ thiền có lớn nhỏ như bốn châu lớn, tức cõi trên đặt tên theo cõi dưới, là nói về chỗ đến. Muốn chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, nghe pháp, tức là nói do bốn duyên mà đến hội tòa. Bản dịch xưa không có từ bản và giới, cũng không có ý đến chiêm lễ cúng dường. Tuy nói đến nghe pháp nhưng không nói dự hội tòa. Căn cứ theo văn sau có thể biết.

Kinh: Lại có một vạn hai ngàn… đến tại hội tòa.

Tán: Đây là đoạn thứ hai nói về Đế Thích ở phương khác. Bản trụ (xứ) của Đế Thích là ở trên đỉnh núi Tu-di. Nói từ bốn địa châu ở phương khác đến cũng là nói phương trên lấy tên phương dưới làm tên. Vì nơi cư trụ của chúng sinh ở bốn đại châu lớn là trong biển nước mặn, cho nên chẳng phải là cõi trên. Nay nêu Thắng Thiên Đế Thích là bao gồm cả thiên chúng, Lục dục thiên ở phương khác.

Kinh: Cùng với các chư Thiên có đại oai lực… đều đến tại hội tòa.

Tán: Từ đây trở xuống là đoạn ba nói về Bát bộ oai linh. Trong đó có ba loại: Đầu tiên nói về Bát bộ, kế đến nêu Thích Phạm, cuối cùng nói về hội tòa. Tám bộ chúng này có oai lực lớn nên gọi là đại oai lực.

Bát bộ là:

1. Trời, tất cả cõi trời đều gọi là Thiên (trời).

2. Rồng, nơi cư trú là biển lớn, có thể nổi mây mưa.

3. Dược-¬xoa, Hán dịch là Bạo ác, cũng gọi là Dõng kiện, bay trên hư không, gồm cả loại La-sát-bà đi trên đất. La-sát-bà, Hán dịch là khả úy, ăn máu thịt, có đuôi và răng nanh, đầu có hình dáng như ngọn lửa, tay chân có móng vuốt.

4. Kiện-đạt-phược, họ không có nghề nghiệp để sinh sống, chỉ nghe mùi hương của thức ăn thì tìm đến tấu nhạc xin ăn, nên gọi là tầm hương hành. Nay các loài quỷ thần này, thường tấu nhạc hưởng các mùi hương, nên gọi là Kiện-đạt-phược. Luận Trí Độ ghi: “Đây là loại thần kỹ nhạc ở cõi trời thường theo hầu chư Thiên, tâm tánh nhu hòa, ít phước hơn chư Thiên”. Nêu vị thần này làm đầu là gồm nhiếp tất cả loại này.

5.. A-tố-lạc, Hán dịch là Phi thiên. Luận Phật Địa thì xếp loại này vào cõi trời, phần nhiều làm những việc dối trá, không có thật hạnh của chư Thiên. Gọi là Phi thiên cũng như nói người ác hạnh là phi nhân, nhưng thật ở hàng trời. Tông Tát-bà-đa cho đó thuộc về loài quỷ; kinh Chánh Pháp Niệm thì xếp loại này vào quỷ và súc sinh. La-hầu A-tu-la vương, con của sư tử là súc sinh. Kinh Già-tha thì xếp loại này vào ba đường trời, quỷ và súc sinh. Nay căn cứ theo Đại thừa thì chỉ xếp vào cõi trời. Chúa của loại này cư trú ở biển lớn phía Bắc núi Diệu cao, còn những Phi thiên khác thì không định.

6. Yết-lộ-trà, xưa dịch là Kim sí điểu. Ở đây dịch là Diệu sí điểu. Vì cánh của loài chim này có nhiều màu sắc rực rỡ, không chỉ có màu vàng ròng. Loài này có bốn loại sinh là hóa, thai, noãn, thấp. Tùy theo mỗi phương cư trụ mà ăn bốn loài sinh của rồng. Nêu loại này là gồm thâu tất cả loài chim.

7. Khẫn-nại-lạc, Hán dịch là Ca thần, tức các vị Thần này thường ca vịnh trổi nhạc, cùng với Kiện-đạt-phược hầu cận chư Thiên, khi chư Thiên cần thì những vị này đến.

8. Mạc-hô-lạc-già, Hán dịch là Đại phúc thuộc về loại đại mãng xà, nêu lên loại này là gồm thâu tất cả những loại di chuyển bằng bụng.

Trên đã nêu lên tám bộ, tuy gồm nhiếp tất cả các loài có oai linh, nhưng những loài tôn quý ở phương này còn chưa kể riêng. Cho nên kế đó nêu Thích Phạm… Thích tức Đế Thích, Phạm tức Vương. Hộ thế, tức bảo vệ người ở bốn châu trong thế gian, tức bốn vị Thiên vương. Vị Thiên vương ở phía Đông tên là Trì Quốc, vị Thiên vương ở phương Bắc tên là Đa Văn, vị ở phương Nam tên là Trường Thọ, vị Thiên vương ở phương Tây tên là Xú Mục.

Luận Du-già cho rằng bốn vị Thiên vương này trụ ở tầng thứ tư lưng chừng núi Diệu cao; luận Câu-xá thì nói trụ ở trên đảnh Kim Sơn, tầng thứ nhất; nhưng hai bộ nói không trái nhau. Lại nói vân vân, tức là gồm bốn cõi trời cư trụ trên không trung thuộc cõi Dục và chư Thiên cõi Sắc.

Kinh: Và bốn chúng… đều đến hội tòa.

Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ tư nói về bốn chúng tu hành. Bí-sô như trước đã giải thích; Ni tức chỉ cho người nữ. Người nữ gồm đủ năm nghĩa gọi là Bí-sô ni. Ô-bà-tố-lạc, Ô-bà là Cận, Ca là Sự, Hán dịch là Cận sự, lại nói Tố tức chỉ cho người nam, tức Cận sự nam. Vì đầy đủ giới nghiệp, có khả năng kham nhận việc thân cận phụng sự bậc đại Bí-sô. Cho nên gọi là Cận sự nam. Ô-ba-tư-ca, Tư là chỉ cho người nữ, các nghĩa khác cũng như trên, tức cận sự nữ. Vì có đầy đủ giới đức, có khả năng kham nhận việc thân cận phụng sự đại Bí-sô-ni cho nên gọi là Cận sự nữ. Xưa gọi là thanh tín nam nữ là không đúng.

Kinh: Lúc bấy giờ, Thế Tôn… vì chúng mà thuyết pháp

Tán: Trong phần chúng viên mãn có hai; nêu đại chúng và luận về oai nghi.

Đây là phần hai. Theo văn gồm ba:

  1. Nêu oai nghi.
  2. Ví dụ.
  3. Tôn quý thù thắng.

Đây là ý đầu, ba nghiệp đều ngưỡng mộ gọi là cung, một lòng tôn sùng gọi là kính; nhìn chung quanh gọi là vi, tùy thuận hóa độ giáp vòng gọi là nhiễu. Bốn chúng có oai nghi này, Như Lai ứng cơ thuyết pháp. Trước khi diễn kinh thường có nói lời này.

Kinh: Ví như đại bảo Diệu cao sơn vương đứng cao chót vót giữa biển lớn.

Tán: Đây là nêu thí dụ. Tu-di sơn gọi là Diệu cao, cao khỏi mặt nước tám vạn du-thiện-na. Vì do bốn báu tạo thành cho nên gọi là Diệu, Diệu nghĩa là thù thắng. Nay căn cứ theo Đại thừa, thì mặt Đông của núi là vàng, mặt Tây là bạc, mặt Nam là lưu ly, mặt Bắc là thủy tinh. Dùng bốn vật báu gom tập lại mà thành, cho nên gọi là Đại bảo. Diệu cao sơn vương trụ ở biển lớn, biển lớn sâu tám vạn du-thiện-na, rộng hai mươi bốn vạn du-thiện-na. Bảy núi khác theo thứ tự vây quanh từ trong ra ngoài, núi ngoài thì thấp bằng một phần hai núi ở trong. Biển cũng như thế. Chỉ có núi Diệu cao, cao chót vót sừng sững giữa các núi 79 và các biển. Biển dụ cho chúng sinh, núi dụ cho Bồ-tát và Thanh văn. Diệu cao sơn vương dụ cho Như Lai. Cao chót vót sừng sững là tả dáng vẻ cao và to lớn. Tông Tát-bà-đa cho rằng núi ở trên Kim luân. Đại thừa không cho như thế nên nói ở trên biển lớn.

Kinh: Ngồi trên tòa đại sư tử Thắng tạng, hiển hiện oai quang che mờ cả đại chúng.

Tán: Đây là hiển sự tôn quý thù thắng. Cứ tức là ngồi. Đức Như Lai ngồi trên tòa vô úy, gọi là tòa sư tử vì tòa có hình dáng của sư tử. Hiển thị việc người ngồi trên đó thì được vô úy. Tòa do các vật báu như đế thanh, đại thanh, thạch tạng, Chử tạng, châu Ma-ni… trang sức, cho nên gọi là Thắng tạng. Thân màu vàng ròng, phóng thần quang ra bên ngoài che mờ tất cả chúng hội, như ánh trăng thu làm mờ các vì sao. Như âm thanh của tiếng sấm mùa xuân át các tiếng vang khác. Đó đều là do nội đức siêu tuyệt, cho nên ngoại hình tú lệ.

Kinh: Bấy giờ, ở thành Quảng Nghiêm có một vị Bồ-tát dòng Lychiêm-tỳ, tên là Bảo Tánh.

Tán: Trong phần duyên khởi thuyết pháp được chia làm bốn. Từ đây trở xuống là đoạn thứ ba nói về nhân viên mãn, gồm ba:

  1. Nói về tu hành.
  2. Nói về hỏi đạo và Đức Phật đáp.
  3. Quyết nghi tức Thu Tử nghi, bậc Thánh giải thích.Trong phần tu hành, theo văn gồm hai:

1. Nói về hạnh tu thân, tức là các việc như dâng bảo cái… 2. Nói về hạnh tu ngữ nghiệp, tức là các việc thuyết tụng… Trong văn nói về hạnh tu thân lại gồm ba:

  1. Nói về Bảo Tánh Dâng cúng lọng báu.
  2. Phật hiện thần lực.
  3. Đại chúng đều thấy, vui mừng tán thán.

Văn đầu tiên gồm mười việc, đoạn này chỉ có bốn:

  1. Nói về trụ xứ, tức câu: “Lúc bấy giờ, ở thành Quảng Nghiêm”.
  2. Luận về giai vị, tức câu: “Có một vị Bồ-tát”.
  3. Nêu chủng tánh, tức câu: “Dòng Ly-chiêm-tỳ”; đây là một trong mười sáu họ của Bà-la-môn.

2. Nêu tên, tức câu “tên là Bảo Tánh;” khác với bản dịch cũ, ý nghĩa có thể hiểu được.

Kinh: Cùng với năm trăm Ly-chiêm-tỳ đồng tử, mỗi mỗi đều cầm lọng bảy báu trang nghiêm đến trụ xứ của Như Lai ở rừng Am-la và mỗi mỗi dâng cúng lọng báu của mình lên Đức Thế Tôn. Tán: đoạn văn này gồm sáu việc:

3. Nói về các đồng tử đều có họ Ly-chiêm-tỳ.

  1. Số lượng lọng báu, tức câu: “mỗi mỗi đều cầm lọng báu”.
  2. Bảy báu trang nghiêm.
  3. Đến trụ xứ của Phật, tức câu: “đến rừng Am-la”.
  4. Dâng cúng, tức câu: “mỗi mỗi đều dâng lọng báu lên Đức Thế Tôn”.

Cầm một lọng báu tức hiển thị mỗi vị đều khởi bốn tâm vô lượng che chở chúng sinh. Bảy báu trang nghiêm là biểu thị việc tu tập bảy Thánh tài để hỗ trợ được vô lượng trang nghiêm. Bảy báu, luận Phật Địa ghi: “Vàng, bạc, phệ-lưu-ly, mâu-bà-lạc yết-bà-lạp xưa dịch là san hô; yết-kê đát-nặc-ca xưa dịch là xa cừ, hạt-thấp-ma Yết-bà xưa dịch là mã não, xích trân châu lấy từ loài trùng đỏ; hoặc cho rằng châu màu đỏ. Các văn khác tuy có nói đến, nhưng tùy theo các nơi xem quý trọng mà mỗi mỗi ghi khác nhau. Kinh nói bảy báu, thì lấy đó làm nhất định. Dâng cúng lên Đức Phật, tức hiển thị việc gần thì tu diệu hạnh, xa thì báo ân Đức Phật.

Kinh: Dâng cúng xong liền đảnh lễ… lại đứng về một phía

Tán: Đoạn này còn một việc thứ mười là thấy nghi quỷ. Dâng cúng tuy là việc tốt rồi, nhưng tình vẫn chưa đủ cho nên mới trịnh trọng nói đến pháp tắc oai nghi thành kính này. Hạ thấp cái cao nhất của mình để cung kính cái thấp nhất của người, cho nên nói đảnh lễ hai chân Đức Thế Tôn; tu nhân thần thông nhiễu về bên phải bảy vòng; việc kính thành đã xong, tình có chỗ đối đãi, tùy theo bộ loại mà đứng, cho nên nói “lại đứng về một phía”.

Kinh: Do sức oai thần của Phật, khiến các bảo cái hợp thành một bảo cái, che phủ tam thiên đại thiên thế giới.

Tán: Đoạn thứ hai nói về việc Đức Phật hiện thần lực trong đoạn này có ba:

1. Biến nhiều thành ít. 2. Biến nhỏ thành lớn. 3. Ảnh hiện trong đó.

Đoạn này có hai việc:

1/ Biến nhiều thành ít, tức hợp thành một bảo cái, biểu thị tu các diệu nhân như bốn tâm vô lượng… đồng chứng đắc nhất chân pháp giới.

2/ Biến nhỏ thành lớn, che phủ cả tam thiên thế giới, tức hiển thị lý chân như, cùng khắp pháp giới không đâu chẳng có, đó cũng là hiển thị vô lượng, che phủ tất cả. Vả lại cũng để thị nhân nhỏ mà quả lớn. Một ngàn tứ thiên hạ thì có một luân vi, gọi là tiểu thiên giới, một ngàn tiểu thiên giới thì có một luân vi gọi là trung thiên giới, một ngàn trung thiên giới có một luân vi gọi là tam thiên đại thiên thế giới. Vì có ba lớp ngàn thứ ba, cho nên gọi là đại thiên. Do đó mà văn sau ghi là Luân vi sơn, Đại luân vi sơn.

Kinh: Mà hình tướng rộng lớn của thế giới này, thảy đều hiện trong đó.

Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ ba nói về ảnh hiện trong lọng báu. Văn sau nói: “mười phương thần biến hiện thế gian, tất cả đều như bóng dáng”. Tức muốn hiển thị các nhân duyên ở thế gian đều không thật, cho nên nói là bóng dáng. Văn sau có hai:

  1. Hiện cõi này.
  2. Hiện cõi khác.

– Hiện cõi này có hai ý:

  1. Hiện phần lượng.
  2. Hiện các hình tượng.

Đây là văn đầu tiên, nói về chân như kia cùng khắp các tướng chung. Hiện hình lượng của thế giới là biểu thị việc thành Phật đạt được Nhất thiết trí.

Kinh: Tam thiên đại thiên thế giới này… sông, vũng, suối, ao, lạch.

Tán: Đây là phần nói về hiện các hình tượng ở thế gian, gồm có hai là nói riêng và tổng kết. Nói riêng gồm có tám việc. Văn này có năm:

  1. Hiện núi chung của bốn đại châu là núi Diệu cao.
  2. Hiện núi riêng của Thiệm bộ châu, gồm tám núi là núi Tuyết…
  3. Hiện ngọn núi chung của bốn châu là Luân vi sơn.
  4. Hiện núi chung của tiểu thiên giới là Đại luân vi sơn.
  5. Hiện sông nước riêng của bốn châu, tức nói biển lớn…

Kinh: Và trăm câu-chi… đều hiện trong bảo cái này Tán: Đoạn này gồm có ba việc.

1. Hiện trăm ức bốn đại châu. Châu nghĩa là châu chữ, tức bãi đất hay cù lao nổi lên giữa sông nước. Vì bốn vùng đất này mỗi mỗi đều nổi lên giữa biển lớn nên gọi là châu. Bốn châu là: Đông Thắng thân, Tây Ngưu hóa, Nam Thiệm-bộ, Bắc Câu-lô. Về thọ mạng tăng giảm, hình lượng của xứ sở, tướng thành hoại thì như luận Du-già bốn đã nói. Kinh này muốn nói đến chánh lý sâu xa vi diệu cho nên không giải thích các sự tướng.

2. Hiện các cung điện, mặt trời, mặt trăng… về tên gọi, phần lượng, cao thấp của mặt trời, mặt trăng… thì như luận Du-già đã nói.

3. Hiện vương quốc và các thành ấp… bản văn xưa không ghi việc này. Ảnh hiện là biểu thị cho việc khi thành Phật thì đạt được Nhất thiết chủng trí. Như thế đều hiện trong lọng báu, đây là câu tổng kết.

Kinh: Vả lại, chánh pháp được chư Phật trong mười phương thế giới… đều được thấy nghe.

Tán: Đoạn này nói về mười phương Như Lai ở cõi khác và chánh pháp do các Như Lai ở cõi ấy nói ra, đều hiện trong lọng báu. Trong lọng báu có âm thanh giống như tiếng dội trong hang ứng theo chỗ tuyên thuyết mà đây có thể nghe được. Vì âm thanh ảnh hiện có thể nghe thì Phật ảnh hiện lại cũng có thể thấy được. Vì thế nói trong lọng báu đều có thể thấy nghe. Ở đây không nói đến quyến thuộc, theo lý thì biết nhất định phải có, chẳng phải chỉ có một mình Đức Phật trụ mà luống nói pháp… Hiện cõi khác là để biểu thị khi thành Phật sẽ đạt được tất cả cõi Phật thanh tịnh.

Kinh: Lúc bấy giờ, đại chúng… im lặng mà trụ.

Tán: Đây là đoạn thứ ba nói về việc đại chúng đều thấy vui mừng cung kính, tâm sinh hoan hỷ, vì ý ưa thích, thân thì nhảy nhót như múa; lời thì khen là việc hy hữu, vì nói không cùng tận. Tay chắp mắt nhìn, khát ngưỡng vô cùng, một giây cũng chẳng rời, lóng tâm nghe pháp hy hữu, im lặng mà trụ.

Kinh: Lúc bấy giờ, Bảo Tánh… mà khen ngợi Đức Phật rằng.

Tán: đây nói về hạnh tu thân trong phần nói về tu hành. Đoạn sau nói về tu ngữ nghiệp. Cúng dường tài vật chưa đủ, cần phải dùng thân đảnh lễ, thân cúng dường chưa đủ, cho nên phải dùng lời tán dương, đó là biểu thị tâm quy mệnh sâu xa, lộ bày đạo cung kính đầy đủ. Đây là nói về phép tắc tán dương. Dưới là thuật lời lẽ tán thán. Già-tha là âm Phạm, Hán dịch là tụng. Xưa dịch là kệ, tức lầm lẫn.

Kinh: Mắt tịnh dài rộng thật đoan nghiêm… đến bờ kia

Tán: Bốn câu là một bài tụng, ở đây tổng cộng là mười chín bài rưỡi. Xưa ghi mười tám bài rưỡi. Trong đó chia làm ba đoạn:

  1. Gồm mười một bài rưỡi, nêu lại việc đã nói ở trước để tán dương; xưa chỉ nêu mười bài rưỡi.
  2. Gồm bốn bài, nêu lên lợi ích đại chúng đạt được để tán thán, xưa nay giống nhau.
  3. Gồm bốn bài tụng, thuật về đức riêng, mỗi mỗi đều thành kính quy y.

Bản xưa chỉ ghi ba bài rưỡi. Trong đoạn đầu lại chia làm hai:

  1. Gồm mười bài rưỡi, nêu lên việc đã nói ở trước để tán dương, bản dịch xưa chỉ ghi chín bài.
  2. Gồm một bài nói về ý nghĩa hiện ảnh tượng.

– Phần đầu lại chia làm hai:

  1. Gồm ba bài, nêu lên việc hiện cõi nước phương khác, bản xưa ghi hai bài.
  2. Gồm bảy bài rưỡi, nói việc hiện cõi nước phương này.

Hoặc phân làm hai: Đầu tiên ba bài, nêu việc hiện cõi nước phương khác để tán dương; sau gồm tám bài rưỡi, nêu lên việc hiện cõi nước phương này để tán dương.

Phần thứ nhất lại chia làm hai: Đầu tiên gồm hai bài, tán dương sáu việc tu tịnh của Phật; sau gồm một bài, nêu lên việc hiện mười phương.

Trong phần nói về sáu việc thanh tịnh thì một bài rưỡi bài tụng đầu là tán thán sáu đức, nửa bài sau là kết luận, kính lễ. Trong bài tụng này có bốn tịnh: Mắt thanh tịnh, ý lạc tịnh, định tịnh và bĩ ngạn tịnh. Bản dịch xưa gọi ý lạc tịnh là tâm tịnh, bĩ ngạn tịnh gọi là dĩ độ (đã vượt). Trong sáu căn thì mắt đứng đầu; dẫn dắt thân, nếu không có mắt thì không thể thấy sự việc, nghe lý thì mắt là trước hết; đối với sự đoan nghiêm của thân thì mắt là kỳ diệu bậc nhất cho nên chỉ nói đến mắt mà thôi, các căn khác theo đó cũng có thể biết. Nói mắt tịnh, tức là mắt có đủ sáu điều thù thắng:

  1. Rất thanh tịnh (Tịnh thắng), vì xa lìa được sự ngăn che.
  2. Dài (Tu thắng), như nửa vầng trăng trong mây, đuôi mắt kéo dài tới mai.
  3. Rộng (Quảng thắng), quảng tức là khoát (rộng) tương xứng với dài; có thể mở rộng.
  4. Diệu (Đoan nghiêm thắng), tức trên dưới tương xứng, dày mỏng đúng nơi, rất thanh nhã và đẹp.
  5. Sáng (Kiểu thắng) kiểu tức minh (sáng), trong sáng dễ mến, có thể nhìn thấu tất cả.
  6. Màu sắc đẹp (Sắc thắng) tức mắt có màu xanh biếc, trong dụ này bản dịch xưa chỉ có ba.

Nay theo bản dịch mới cho rằng mắt giống như cánh hoa sen xanh biếc, chứ chẳng phải là hoa sen rụng cánh kết hạt lộ ra đài gọi là sen, cho nên nói mắt như cánh hoa sen, chẳng giống với loại đài sen kia.

Trong các loại hoa sen, thì cánh hoa sen xanh giống mắt, hình thể khác biệt, chẳng lấy hoa sen màu khác làm dụ vì cánh hoa tròn. Cánh hoa sen xanh rất sáng và tinh khiết, rất đẹp và nghiêm tịnh giống con mắt, dài và rộng thanh nhã tú lệ rất dễ nhìn, hàm chứa ánh sáng xanh biếc, cho nên lấy làm dụ, màu cám (ánh đỏ) thì chỉ chung cho các màu có ánh đỏ, nay chỉ lấy xanh ánh đỏ (thanh cám) mà thôi.

Trong ba mươi hai tướng quý của Phật, thì con ngươi của mắt Phật có màu xanh biếc, lại có một vòng tròn phân biệt vây quanh, cho nên dùng hoa sen xanh biếc để dụ. Đã chứng đệ nhất tịnh ý lạc. Ý lạc lấy A-thế-da, tín và thắng giải rộng lớn làm thể. Ý lạc của Phật thanh tịnh không có Tạp ý lạc, thuần vì lợi sinh; vượt hơn tất cả cho nên gọi là đệ nhất. Đây là phẩm loại mà Bồ-tát chứng đắc, cho nên gọi là chứng. Nói chứng đệ nhất tịnh là chung cho Xa-ma-tha. Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ, tức tâm dừng trụ, tức định tịnh, chẳng đồng với Nhị thừa còn có phân biệt chướng, chẳng phải là đệ nhất tịnh.

Kinh: Xưa chứa vô biên nghiệp thanh tịnh… khai đạo hy di tịch lộ giả.

Tán: Hai câu đầu là nói về hai tịnh. Câu thứ nhất nói về nghiệp tịnh thứ năm, câu hai nói về danh xưng tịnh thứ sáu. Hạnh vô lậu gọi là nghiệp thanh tịnh, như biển sâu rộng, luôn luôn tu tập dài lâu, cho nên nói xưa chứa vô biên nghiệp. Đức đã cao tột, cho nên danh vang khắp mười phương cõi nước; mười hiệu đều đầy đủ cho nên gọi là thắng danh văn. Khể tức chạm đến, thủ tức đầu, nghĩa là đầu chạm đất, cho nên gọi là khể thủ, là tên khác của kính lễ. Đại Sa-môn, Hán dịch là Tức ác (đoạn trừ điều ác). Phật quả tôn quý cùng cực, vượt qua tất cả cho nên gọi là Đại. Hy di nghĩa là Niết-bàn cung. Không thể nghe đến được gọi là Hy, không thể nắm bắt được gọi là Di. Hy di thể vắng lặng, vắng lặng sinh tử, vì tánh vốn vắng lặng. Lộ tức là đạo (đường), con đường hướng đến Niết-bàn cung, tức Thánh đạo. Như Lai khai phát con đường vắng lặng cho người sơ cơ căn khí thuần thục; có thể dẫn dắt người sơ cơ căn khí thuần thục trên con đường vắng lặng này. Gọi khai đạo, khai là khai phát, đạo là dẫn dắt, vả lại Tịch lộ tức Hy di. Như thi-đà lâm gọi là Tịch lộ, cho nên kinh nói là con đường kinh sợ. Vả lại người chỉ bày dẫn dắt đến Niết-bàn Hy di và Tịch lộ Bồ-đề, Đức Phật có đủ sáu loại tịnh đã nêu trên, cho nên chúng con kính lễ bậc Sa-môn, đó là chỉ bày dẫn dắt đến Bồ-đề Niết-bàn. Bản kinh xưa trên đã thuyết một bài tụng.

Kinh: Đã thấy đại Thánh dùng thần biến… nơi đây tất cả đều thấy nghe.

Tán: Trên là tán thán sáu pháp thanh tịnh của Phật, còn văn này thì nêu lên việc hiện mười phương. Gần thì hiện Đại thiên, còn gọi là việc kỳ lạ. Sau hiện thế giới này thì lý tuyệt tâm hiển bày. Văn Trường hàng thì căn cứ theo xa gần để trình bày, văn tụng thì căn cứ theo hơn kém mà luận rõ; vì thế trước nêu phương khác, sau mới nêu cõi này. Diệu dụng khó lường gọi là thần, thay đổi hình cũ thì gọi là biến. Ý văn có thể biết, nên không giải thích riêng.

Kinh: Pháp lực Pháp vương vượt quần sinh… cho nên kính lễ Pháp vương này.

Tán: Bảy bài tụng rưỡi sau đây là nêu lên việc hiện phương này để tán thán, trong đó được chia làm hai: Đầu tiên gồm sáu bài rưỡi, tán thán ba đức của Phật, sau một bài, nêu lên việc hiện phương này. Trong đoạn đầu lại có ba ý. Đầu tiên một bài rưỡi tán thán đức từ chân khởi hóa độ của Phật, kế đến gồm bốn bài, tán thán đức được quả và lợi sinh của Phật, sau cùng một bài là tán thán đức chẳng lay động đối với các việc thuận nghịch. Đây là ý đầu, Phật Tự Tại đến với các pháp nên gọi là pháp vương; pháp ấy khó khuất phục nên gọi là pháp lực. Đã vượt ba cõi gọi là siêu quần sinh, đầy đủ ba pháp này, nên luôn dùng pháp tài ban cho tất cả; hoặc do Đấng Pháp vương dùng pháp lực nên có thể siêu việt quần sinh, sau dùng pháp tài ban cho tất cả. Tất cả bậc Thánh đều lấy pháp làm tài sản để lợi ích cho mình và người, tuy đối với tài bảo không sợ sệt nhưng cũng dùng để ban phát cho chúng sinh, lấp dòng sinh tử; vì chỉ dùng pháp thí, cho nên chỉ nói đến pháp mà thôi. Hậu đắc trí của Phật khéo phân biệt tự, cộng tướng của các pháp. Tự tướng tức sắc thọ tưởng… cộng tướng tức khổ, vô thường… vì khi bố thí pháp thì khéo phân biệt. Tuy bên ngoài khởi tác dụng này nhưng trí thì vô phân biệt, thường quán Đệ nhất nghĩa, Đệ nhất nghĩa tức thắng nghĩa, thể của thắng nghĩa tức chân như. Phá dẹp oán địch, vì trong quán nghĩa chân, nên có thể phá ma oán, ngoài khởi dụng giáo hóa, nên có thể dẹp thiên ma; gọi tồi oán địch, tồi nghĩa là phá hoại, bốn ma đối với Phật là oán là địch cho nên gọi là oán địch; chẳng cùng chung với Phật. Bản xưa thiếu câu này, lại nói “mà bất động” tức chẳng bị ma oán làm động loạn, nghĩa còn thiếu sót. Đã khởi hai trí, chứng môn lý sự, mà đối với pháp được tự tại. Tự tại có mười, trong kinh Hoa Nghiêm cũng nêu lên mười, nhưng nghĩa khác nhau. Như Pháp Hoa tán mười nói. Nay căn cứ theo Nhiếp luận ghi:

  1. Thọ tự tại, tức kéo dài mạng sống.
  2. Tâm tự tại, không nhiễm sinh tử.
  3. Tài tự tại, có thể tùy theo sự ưa thích mà hiện tài bảo; do hành bố thí, chứng ba quả này.
  4. Nghiệp tự tại, chỉ làm nghiệp thiện và khuyên người khác làm.
  5. Sinh tự tại, tùy nơi ưa muốn mà sinh đến; do hành giới Ba-lamật mà đạt được hai quả này.
  6. Thắng giải tự tại, có thể tùy sự ưa muốn mà biến hiện, đây do tu nhẫn mà được.
  7. Nguyện tự tại, tùy chỗ ưa thích mà thành tựu, đây là do tinh tấn mà được.
  8. Thần lực tự tại, có thể phát khởi đạo tối thắng, đây là do định mà được.
  9. Trí tự tại, tức tuệ tùy thuận âm thanh ngôn ngữ.
  10. Pháp tự tại, Tức tự tại diễn thuyết các Khế kinh… hai quả này do tu tuệ mà được.

Nay muốn hiển bày việc do Phật bên trong đầy đủ hai trí, cho nên trong đó được tự tại, mà tùy thuận tuyên thuyết. Tán thán đức đã xong cho nên tự thân kính lễ.

Kinh: Thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không… nghiệp thiện nghiệp ác cũng chẳng mất.

Tán: Từ đây trở xuống bốn bài là tán thán đức được quả và lợi sinh, gồm hai: Hai bài đầu là nói về được quả, hai bài sau là nói về lợi sinh. Trong phần được quả có hai ý: Bài đầu nói về quả cùng lý, bài sau nói về quả cùng chân. Đây là bài đầu. Ngài Thanh Biện ghi: “Phật nói các pháp chẳng có, chẳng có không, cũng chẳng không có”. Căn cứ vào thế tục đế, tướng các pháp chẳng không, theo thắng nghĩa đế tướng các pháp chẳng có. Tất cả đều đợi nhân duyên lập, nghĩa là pháp nhờ vào duyên, pháp nương vào duyên; nhân tức là duyên cho nên gọi là nhân duyên. Vả lại như hữu vi, đợi vô vi mới lập được, pháp vô vi lại đợi hữu vi mới lập được. Chân đợi tục mà lập, tục lại đợi chân mà lập. Không và có cũng như thế. Nghĩa chờ đợi nương gá đó gọi là nhân duyên. Nhân quả làm tông, sở đải (chờ đợi) là nhân, năng đải là quả, cho nên đối với thế tục là có và đối với Thắng nghĩa là không. Vì là tThế tục đế cho nên có ngã để thọ, còn trong Thắng nghĩa đế thì tất cả đều không có ngã. Cho nên thế tục đế phải đợi Thắng nghĩa đế mới thành có, Thắng nghĩa đế kia phải đợi thế tục đế mới thành không. Ngã đã là do xưa phàm phu mà vọng chấp, cho nên nay là bậc Thánh, Thắng nghĩa thành không, tuy thắng nghĩa không mà chẳng hoại mất tục đế, cho nên các nghiệp thiện 06 ác nương vào thế tục đế, cũng chẳng thể nói không; vong giống như vô. Hoặc ở đây đều căn cứ theo thắng nghĩa đế mà thuyết thì tánh không lìa ngôn ngữ, thì không nào có? Không và có đều đợi nhân duyên mới thành lập. Trong Thắng nghĩa đế vốn vô ngã và nghiệp thiện ác; tánh nghiệp chẳng mất, do phàm phu chấp có; khi chứng Thánh thì thành không vì tánh vốn không, chẳng phải nay mới không. Nói “cũng chẳng vong”, thì chẳng vong tức chẳng không. Vì tánh của sắc vốn không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không. Vì chẳng phải hôm nay mới không cho nên nói chẳng không. Ngài Hộ pháp giải thích rằng: “Y theo Thắng nghĩa đế, chư Phật nói các pháp chẳng có chẳng không; không mà có tức Biến kế sở chấp; có mà không tức Y tha và Viên thành. Vì sao? Vì tất cả đều đợi nhân duyên mới thành lập, không và có, sự và lý đối đãi nhau mà thành lập. Sở đãi gọi là nhân, năng đãi là quả. Phật nói nhân quả lấy đó làm tông. Chẳng phải chỉ là không, cũng chẳng phải chỉ là hữu, cần phải đối đãi nhau. Bản xưa nói “sinh” thì chẳng đúng nghĩa. Các pháp hữu vô không đợi nhân duyên mà sinh, chỉ có đợi nhân duyên mà lập. Vô ngã… tức hiển pháp chẳng có, nói nghiệp thiện ác cũng chẳng mất là hiển thị pháp chẳng không, tức nghiệp duyên sinh tử ở đây chẳng phải không. Đó là hiển thị lý quả không hữu của Khế kinh được Đức Phật tuyên thuyết.

Kinh: Đầu tiên hàng ma nơi Phật thọ… ngoại đạo, tà đồ đều chẳng lường.

Tán: Bài tụng này là hiển quả chứng ngộ cùng tột chân thật. Phật thọ tức cây Bồ-đề, thành đạo nơi cội cây Bồ-đề nên lấy đó làm tên. Tại gốc Phật thọ, sau nửa đêm hàng phục thiên ma. Dùng mười Lực phá dẹp ma cho nên gọi là hàng ma. Tướng hàng ma như các giáo đã nói. Được cam lộ diệt và Thắng Bồ-đề, diệt tức Niết-bàn, như thuốc cam lộ uống vào thì bất tử. Thắng Bồ-đề, chứng được chân trí, vượt trên Nhị thừa gọi là Thắng Bồ-đề. Nhưng Bồ-đề Niết-bàn được nói ở đây chẳng phải là sở thọ, chẳng phải là sở hành của tất cả tâm phân biệt, cũng chẳng phải là sở thọ chẳng phải là sở hành của tất cả ý suy lường. Vì các tâm phân biệt nó chẳng đến, các ý suy lường cũng chẳng đến. Luận Nhiếp Đại thừa ghi: “Chẳng phải tâm mà là tâm, là trí vô phân biệt, chẳng phải là tâm suy lường mà là tâm vô phân biệt. Cam lộ diệt… này là sở duyên của tâm vô phân biệt, chẳng phải là nghĩa sở thủ của tâm suy lường, vì kia có phân biệt. Thọ tức lãnh nạp, hành tức duyên lự. Hoặc cho rằng sở hành của các tâm, sở thọ của các ý phối hợp riêng với tâm ý, hoặc với cam lộ diệt, tức Thắng nghĩa Bồ-đề, tánh Bồ-đề”. Ngài Thanh Biện giải thích: “Chư Phật chứng đắc cam lộ diệt không vô sở hữu, chẳng phải là chỗ hành của tâm ý; pháp thể đều không, nào có tâm ý để mà thọ và hành? Do đó ngoại đạo và tà đồ không thể suy lường, họ chỉ có thể suy lường được hữu là pháp thô lậu cạn hẹp, mà không thể lường được không và pháp sâu xa vi diệu. Ngài Hộ Pháp giải thích rằng: “Niết-bàn Bồ-đề sở chứng tuy có mà tánh vi diệu, nhưng đây là sở chứng của trí, mà chẳng phải là cảnh của tâm ý, cho nên ngoại đạo và hàng tà kiến chẳng thể lường được. Do đó văn sau nói: “Bồ-đề chẳng thể dùng thân mà chứng, chẳng thể dùng ý mà được, chỉ có trí chứng được mà thôi”. Hoặc trong hai bài tụng trên nửa đầu là tán thán chung đạo lý không hữu được nói, một bài tụng kế, hiển riêng pháp không hữu, nửa bài sau tán thán đức sâu xa khó lường. Bài tụng hiển vô ngã trong pháp không hữu, thì một câu nói về sở chấp pháp có, một câu kế nói về y tha hữu, còn nửa bài sau (hai câu còn lại) là nói về viên thành thật hữu. Nay đối hai tánh này thì không pháp nào chẳng có; các pháp vô lậu đều thành tựu viên mãn vì diệt và Bồ-đề đều là viên thành thật, ngăn chặn sở chấp đoạn là y tha chứng viên thành, cho nên ba tánh khác nhau. Trên đã nói Phật chứng quả lý của ba tánh cho nên tất cả đều chẳng thể suy lường. Hai bài tụng sau nói về lợi sinh, trong đó có hai ý: Bài tụng đầu nói về chuyển pháp luân. Tam bảo xuất thế, một bài tụng sau nói về việc quần sinh được ban cho pháp này thì có thể vượt qua sinh tử.

Kinh: Tam chuyển pháp luân nơi đại thiên… từ đó Tam bảo hiện thế gian.

Tán: Đây là luận về chuyển pháp luân và Tam bảo xuất hiện ở đời, pháp luân có ba, đó là pháp luân Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát. Tùy căn cơ khác nhau, nên pháp thành ba. Vả lại căn cứ theo Pháp Hoa thì trong hai mươi mốt ngày tư duy về việc này xong, Đức Phật mới đến Ba-la-nại chuyển pháp thành bốn đế cho năm vị Tỳ-kheo. Pháp luân bốn đế này thì hàng Thanh văn trong ba đời… tu tập xong, nương vào uẩn xứ giới mà chứng bốn đế, cho nên gọi là pháp luân Thanh văn,. Trong bốn đời… tu tập đã xong nương vào mười hai nhân duyên mà chứng bốn đế, nên gọi là pháp luân Độc giác. Hàng Bồ-tát trong ba đại a-tăng-kỳ kiếp tu sáu Ba-la-mật, thực hành mười thiện xảo, quán ba tánh, chứng bốn đế, nên gọi là pháp luân Bồ-tát. Kinh Đại Bát-nhã ghi: “Khi Đức Thế Tôn mới chuyển pháp luân thì có vô lượng chúng sinh phát tâm Thanh văn, vô lượng chúng sinh phát tâm Độc giác, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chứng Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, cho đến trong một đời sẽ được tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đây là pháp luân chung cho ba thừa. Nếu chẳng như thế thì bảy ngày thứ hai ở thiên cung Tha hóa thuyết Thập địa vì sao chẳng gọi là chuyển pháp luân? Tam chuyển có hai nghĩa:

  1. Tự chuyển.
  2. Vị tha chuyển.

Tự tam chuyển: Đầu tiên chuyển ở giai vị kiến đạo, gọi là ấn tướng chuyển, kế đến chuyển tại tu đạo gọi là ứng tác chuyển; sau cùng là chuyển tại giai vị vô học, gọi là dĩ tác chuyển. Vị tha chuyển cũng có ba: Đầu tiên là thị tướng chuyển, tức chỉ tướng bốn đế cho năm vị Tỳ-kheo, nói rằng: Đây là khổ, đây là tập, đây là diệt, đây là đạo. Kế đến là khuyên tu chuyển; tức khuyên năm vị Tỳ-kheo tu bốn đế, nói rằng: “Đây là khổ các ông nên biết, đây là tập các ông nên đoạn, đây là diệt các ông nên chứng và đây là đạo các ông nên tu.” Sau tác chứng chuyển, sợ rằng các Tỳ-kheo chưa tin, cho nên Đức Phật dẫn tự thân để chứng minh, tức nói: Đây là khổ ta đã biết, đây là Tập ta đã đoạn, đây là diệt ta chứng, đây là đạo ta đã tu”. Thời chuyển thứ nhất, dẫn Kiều-trầnna vào vị kiến đạo; thời chuyển thứ hai đạt đến tu đạo, thời chuyển thứ ba thành đạo vô học. Trong mỗi một đế gồm có mười hai hành tướng. Nghĩa là nơi khổ đế sinh tuệ nhãn Thánh đạo là chung, riêng tức nơi khổ đế ở quá khứ sinh trí, khổ đế vị lai sinh minh, hiện tại khổ đế sinh giác, cho đến đạo đế cũng như thế. Một pháp nhãn chung và hành tướng riêng của ba thời hợp thành bốn, ba chuyển thì thành bốn mươi tám hành tướng. Vì chẳng quá mười hai, cho nên gọi chung là ba chuyển mười hai hành tướng pháp luân. Chương pháp luân trong Pháp Hoa tán bốn nói trong đại thiên nghĩa là trong đại thiên giới có một trăm ức Đức Thíchca đồng thời chuyển, đó đều là hóa Thích-ca, cho nên nói đại thiên. “Luân đó vắng lặng, bản tánh tịch”. Bản tánh tịch tức là bản thể chân như vắng lặng cảnh tánh lý pháp luân có thể gọi là pháp luân là vì xưa khi chưa chuyển thì chủng tử phiền não sinh khởi hiện hành, xao động che lấp, nay chuyển pháp luân thì sinh Thánh đạo, phiền não tận trừ, bản tánh chân thật vắng lặng, lý kia liền hiển, cho nên gọi là có thể làm vắng lặng bản tánh tịch kia. Bản dịch xưa ghi; “Luân ấy xưa nay thường thanh tịnh” tức cảnh tánh pháp luân gọi là pháp luân xưa nay thanh tịnh. Ý câu này là do chuyển Thánh đại luân, mà luân của pháp tánh xưa nay thanh tịnh. Xưa bị phiền não che lấp, nay hiển được thanh tịnh. Văn ẩn kín khó biết. Nói pháp trí nghĩa là vô lậu chánh trí mà hàng Tam thừa đạt được. Lúc bấy giờ trời người mới chứng đắc. Bản xưa ghi: “Trời người đắc đạo đó là chứng.” Trời người đắc đạo, đây là bản tịnh, luân là

0sở chứng, trái với bản. Do đó Tam bảo hiện ở thế gian, vì đầy đủ ba bảo. Lúc Phật mới thành đạo, có người khách buôn dâng cúng bột gạo rang Đức Phật truyền cho tam quy, và dặn rằng về sau có Tăng ngươi nên quy y, Thánh tăng ba thừa lúc bấy giờ chưa có; sau khi chuyển bốn đế xong thì Thánh tăng tam thừa mới có, Tam bảo mới đầy đủ.

Kinh: Dùng diệu pháp này cứu quần sinh… đảnh lễ vô biên công đức hải.

Tán: Một bài tụng này nói về quần sinh được ban pháp mà vượt qua sinh tử. Dùng diệu pháp này, tức nêu lên pháp luân ở trên. Đắc quả viên mãn, lại không sợ sệt, vì đã vượt sinh tử, lại không kinh hãi, cho nên đạt được Niết-bàn, thân tâm an tịnh. Vì thế tôn Đức Phật là bậc Đại Y vương cứu độ vượt sinh tử, con nay kính lễ Đức Vô Biên. Xưa ghi: “Đã thọ bất thoái thường tịch nhiên”. Đã được bản tịch thì không thoái chuyển, nên thường tịch nhiên, nhưng lại thiếu nghĩa không sợ sệt.

Kinh: Tám pháp chẳng động như Sơn vương… Ai chẳng tuân kính Đấng Năng Nhân.

Tán: Đoạn thứ ba, một bài tụng nói về việc Đức Phật chẳng động đối với việc thuận nghịch. Tám pháp: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Được tài bảo gọi là lợi, mất tài bảo gọi là suy (hao), sau lưng nói xấu người gọi là hủy, sau lưng khen người gọi là dự, đối mặt nói tốt gọi là xưng, đối mặt nói xấu gọi là cơ, bị bức bách gọi là khổ, được an vui thích thú gọi là lạc. Do Phật trụ nơi ba niệm trụ, cho nên tám pháp này, không làm lay động. Ba niệm trụ: Nhất phần tùy thuận cúng dường bất hỷ; nhất phần vi bối tổn hại bất sân; trong đại chúng nửa thuận nửa trái cũng không ưu bất ưu hỷ, giống như núi Diệu cao trụ trên Kim luân, gió mạnh bốn phương thổi đến mà chẳng đỗ ngã. Xưa không ghi đủ tám pháp này, chỉ có hủy và dự, vì người dịch lượt bỏ. Chúng sinh tốt gọi là thiện, chúng sinh xấu gọi là bất thiện. Phật ở trong đó không thiên lệch một bên nào đều dùng từ ban vui, dùng tâm mẫn để cứu khổ. Mẫn tức là bi. Hành tướng của tâm Phật xa lìa sự chấp trước, rỗng rang như hư không, bình đẳng an trụ, không còn yêu ghét. Thục tức là “thùy” nghĩa là ai. Ai chẳng phụng thờ kính ngưỡng bậc năng nhân này? Âm Phạm Thích-ca, Hán dịch là Năng Nhân, vừa có năng lực vừa nhân từ, là bản tánh Phật. Giải thích về bản duyên của ngài thì như luận Du-già đã nói. Bản dịch xưa ghi: “Nhân Bảo”, tức là báu vật trong loài người, thiếu nghĩa Thích-ca.

Kinh: Dùng các lọng báu dâng Thế Tôn… nên lễ trí kiên công đức thân.

Tán: Trên là tán thán ba đức của Phật, còn bài tụng này thì nêu lên việc trong lọng báu ảnh hiện, tán thuật đã xong, cho nên tự thân kính lễ. Trí kiến tức là trí, công đức tức là phước. Tức chư Phật dùng trí và phước làm thân.

Kinh: Mười Lực thần biến hiện thế gian… nên lễ mười Lực đại tri kiến.

Tán: Nêu lên việc trước để tán dương, là đoạn thứ hai nói về nguyên do trong lọng báu ảnh hiện vật tượng để hiển thị tánh của thế gian đều chẳng thật, giống như hình bóng, chẳng phải co mà tựa như co, dối gạt kẻ ngu. Khiến cho biết được đó là hư dối chẳng nên chấp trước. Bản xưa không có nghĩa này. Đại chúng đã thấy, đều kinh ngạc cho đây là việc hy hữu, cho nên nay con kính lễ.

Kinh: Chúng hội chiêm ngưỡng Đại Mâu-ni… Đây là Như Lai Bất cộng tướng.

Tán: Đây là đoạn thứ hai gồm bốn bài tụng, nói về việc chúng lợi ích để tán thán. Gồm hai: Bài tụng thứ nhất là nói về lợi ích của thân; ba bài sau nói về lợi ích của ngữ. Đây là bài tụng đầu. Tiếng Phạm Mâuni, Hán dịch là tịch mặc, tức hay tịch sinh tử, chứng pháp tịch mặc, cho nên nói là tịch. Mọi người thấy Phật đều có thể tùy thuận, chẳng ai mà không sinh tín tâm thanh tịnh. Chẳng tùy thuận, nghĩa là nếu là ở gần tâm tín không sinh, thì lâu ngày ắt trở lại, Đức Phật hiện thần thông, xót thương cứu khổ, chỉ có tùy thuận, chẳng có trái nghịch, đều hiện thân trước mặt người có lòng tin, thuyết pháp cho họ nghe, người tin pháp cũng thấy Phật, chỉ mới hiện thân, hiện tiền được lợi lạc. Người khác chẳng có được, nên gọi là bất cộng tướng.

Kinh: Phật dùng một âm diễn thuyết pháp… Đây là Như Lai bất cộng tướng.

Tán: Ba bài tụng sau là nói về lợi ích về ngữ nghiệp. Văn gồm ba phần. Phật có bốn vô ngại giải. Chẳng tán thán biện vô ngại mà thuyết ba vô ngại, tức là biện tài:

  1. Pháp vô ngại giải, tức trí thuyết pháp vô ngại.
  2. Nghĩa vô ngại giải, tức là trí thuyết pháp lý vô ngại.
  3. Từ vô ngại giải, tức là trí tùy thuận ngôn ngữ âm thanh các phương vô ngại.
  4. Biện tài vô ngại, tức là trí khéo léo thuyết bảy biện như pháp nghĩa… vô ngại.

Đây là tán thán từ vô ngại giải là lợi ích. Phật dùng một âm thanh nghĩa là âm thanh trong một sát-na, âm thanh của một phương, âm thanh có một bản chất, âm thanh của một giáo pháp. Khi thuyết pháp, tám bộ bốn chúng, tùy theo bộ loại tất cả đều được hiểu. Tùy theo xứ sở, âm vận tiếng nói khác nhau, nhưng Phật có thể đồng, tất cả mọi người đều cho rằng mỗi mỗi đều đồng với mình, cho nên thành bất cộng. Địa thứ chín tuy được từ vô ngại, nhưng chưa viên mãn, nay đã hiển đầy đủ.

Kinh: Phật dùng một âm diễn thuyết pháp… đó là Như Lai bất cộng tướng.

Tán: đây là tán thán pháp vô ngại giải. Thuyết pháp hợp cơ, theo căn cơ, theo thắng giải, theo tánh giới khác nhau, cho nên nói mỗi mỗi tùy theo đó mà hiểu. Người nghe nghe pháp tùy theo căn tánh, tất cả đều được thọ nhận hành trì, tùy theo đó mà đạt được quả, cho nên gọi là bất cộng. Một trận mưa thấm nhuần tất cả, nhưng mỗi loại cỏ cây thọ nhận khác nhau.

Kinh: Phật dùng một âm diễn thuyết pháp… đó là Như Lai bất cộng tướng.

Tán: Đây là tán thán nghĩa vô ngại giải. Phật nói một pháp nghĩa, mà người trước hành ác nghe thì kinh sợ, vì sợ đọa lạc; người trước hành thiện nghe thì vui mừng, vì đường thiện sinh; người đắm sinh tử khi nghe được pháp thì sinh tâm nhàm chán, mà vui cầu Niết-bàn. Người có tâm bất định nghe được thì dứt trừ gốc nghi, tâm được chánh định; như ba con thú qua sông, sự chứng đắc có sâu cạn.

Kinh: Kính lễ mười phương đế dõng mãnh… kính lễ Đấng trụ nơi bờ kia.

Tán: Từ đây trở xuống gồm bốn bài tụng là nói về đức riêng, mỗi một đức đều chí thành quy kính. Có chín lần kính lễ. Bản xưa chỉ ghi ba bài rưỡi. Đoạn này có sáu:

  1. Tán thán sự tinh cần.
  2. Tán thán tâm lìa sự sợ hãi.
  3. Tán thán đắc định.
  4. Tán thán là đạo sư.
  5. Tán thán xa lìa các lậu.
  6. Tán thán đắc quả.

Như văn đã ghi có thể biết. Đế tức là thật, tu hành thật tinh tấn gọi là đế dõng mãnh. Đã trừ năm sự sợ hãi, được bốn vô úy. Bản xưa ghi: “Được vô sở úy” mà không có chữ bố. Phật đã đến pháp định bất cộng, tức là tất cả diệu định, Phật đều đạt được. Bản xưa không có nghĩa này. Tổng kết có chín loại là ái, nhuế, mạn, vô minh, nghi, kiến kết, thủ kết, tật, xan. Chín pháp này có thể trói buộc vào năm thú bốn loài sinh. Tự thể các loài sinh cũng như kết, khó tháo mở được. Phược cũng là ba là tham, sân, si. Phược này hay trói buộc hữu tình vào nơi sinh tử.

Kinh: Kính lễ Đấng cứu khổ quần sinh… khéo nơi các đường tâm giải thoát.

Tán: Bài tụng này có hai quy kính:

  1. Tán thán tâm Từ bi.
  2. Tán thán đắc quả.

Chẳng nương vào sinh tử, vì xuất thế gian; đạt được cõi bình đẳng đối với các hữu tình, vì đã chứng Niết-bàn, Niết-bàn là cõi của hữu tình bình đẳng. Bản dịch xưa ghi: “Khéo biết tướng đến đi của chúng sinh”, nghĩa là hướng đến Niết-bàn, ra khỏi sinh tử. Nhưng nghĩa hơi trái. Tâm giải thoát nghĩa là đã lìa phiền não, được tuệ giải thoát, tâm tương ưng cũng không bị trói buộc, gọi là tâm giải thoát. Đối với các đường Đức Phật đã đạt được điều này.

Kinh: Mâu-ni khéo tu “không” như thế… Kính lễ Đấng không vô sở trụ.

Tán: Đây là một lần quy kính, tán thán chứng chân không. Ngài Thanh Biện giải thích rằng: “Khéo tu “Không” nghĩa là chứng chân lý”, như hư không không ngăn ngại, như hoa sen chẳng nhiễm bùn dơ, các tướng đã tận trừ, lại không có chỗ để trừ vì sinh tử đã diệt tận. Nguyện xuất thế đã viên mãn, lại không có gì là nguyện, cho nên nay kính lễ bậc đạt chân đế vô trụ như hư không; ngài Hộ Pháp giải thích: “Khéo tu “không”, nghĩa là hai loại không hữu, một là Thuấn-nhã, đây gọi là không, không này là vô, tức biến kế sở chấp; hai là Thuấn-nhã-đa, Hán dịch là tánh không, tức tánh của không; thể tức chân như tánh là hữu. Khéo tu biến kế sở chấp không cho nên tất cả tướng đều trừ, khéo tu tánh không viên thành thật cho nên tất cả nguyện đều viên mãn. Do đó quy y Phật, như hư không vô trụ. Bản dịch xưa tựa như có, nhưng trong văn lại thiếu.

Kinh: Lúc bấy giờ, Bảo Tánh… hỏi ta về nghiêm tịnh cõi Phật.

Tán: Trong phần nói về nhân viên thì từ đây trở xuống là phần thứ hai trình bày việc thưa hỏi. Gồm có bốn:

  1. Bảo Tánh thưa hỏi.
  2. Phật tán thán bảo nên nghe.
  3. Bảo Tánh vâng lời.
  4. Như Lai nói rộng thêm.

Đây là văn đầu. A là vô, nậu-đa-la là thượng, tam là chánh, miệu là đẳng, tam là chánh, Bồ-đề là giác, gọi chung là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, như thường phân biệt giải thích, không cần phải nói nhiều. Phát thú nghĩa là năm trăm trưởng giả phát tâm cầu hướng đến. Họ đều hỏi ta về nghiêm tịnh cõi Phật, là gồm hai, nghĩa là cõi thanh tịnh được trang nghiêm tức là tướng trạng của cõi nước, và tu tập để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tức là nhân tịnh độ, cho nên hỏi có hai ý:

  1. Tướng trạng của cõi Phật thanh tịnh.
  2. Nhân tu để được cõi ấy.

Bản dịch xưa nói “Nguyện nghe hạnh tịnh độ”, tức chỉ hỏi về nhân mà chẳng có ý hỏi về tướng tịnh độ.

Kinh: Nói lời này xong… phân biệt giải thích.

Tán: Đây là nói về việc Đức Phật tán thán, bảo nên nghe. Có hai:

1. Đầu tiên là khen và sau là bảo.

Kinh: Bấy giờ, Bảo Tánh… đều mong được nghe nhận.

2. Tán: Đây là nói về Bảo Tánh vâng mệnh cung kính nghe. “Thiện tai! Thế Tôn!” là lời cung kính. Bản dịch xưa không có lời này.

Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… nghiêm tịnh cõi Phật.

Tán: Từ đây trở xuống là nói về việc Như Lai giải thích rộng.

Theo văn gồm hai đoạn:

  1. Đáp câu hỏi trước.
  2. Bảo trang nghiêm tâm.

Đáp có hai: Đầu tiên là đáp về tướng tịnh độ; sau đó là đáp về nhân trang nghiêm.

Trong đoạn đáp về tướng tịnh độ lại có ba: Đầu tiên là nêu chung, kế đến là luận riêng và sau cùng là giải thích nguyên do.

Đây là đoạn văn thứ nhất, nêu lên. Cõi phàm có hai là thế gian hữu tình và khí thế gian. Cõi Thánh có hai là Bồ-tát và bảo phương. Hai loại này hợp chung tạm gọi là cõi nước (độ). Lìa hữu tình thì không có cõi nước riêng khác. Do có hữu tình mới có khí thế giới. Nếu hữu tình thành Bồ-tát thì khí thế giới biến thành bảo phương. Bồ-tát vốn muốn hóa độ các hữu tình khiến cho tất cả đều được xuất thế, mà biến uế độ thành bảo phương, nhưng căn bản không biến khí thế giới thành tịnh độ, khí là ngọn; vì thế nay nêu lên cõi hữu tình vì đó là nơi Bồ-tát tu hành để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Cho nên thế tục có câu: “Người là gốc của một nước, gốc chắc thì nước an ninh”, tức đồng với nghĩa này. Bản dịch xưa nói: “Các loại chúng sinh là cõi Phật Bồ-tát”, văn nghĩa đều khác nhau. Nghiêm tịnh cõi thành Phật ở đương lai gọi là tịnh cõi Phật, chứ chẳng phải khi còn là Bồ-tát mà đã gọi là cõi Phật.

PHẦN 4

Kinh: Vì sao?…

Tán: Từ đây trở xuống là phần luận riêng, gồm có hai: Đầu tiên là hỏi; sau là luận bàn.

Đây là hỏi. Có nguyên do gì mà các cõi hữu tình này là cõi được trang nghiêm?

Kinh: Này các thiện nam!… nghiêm tịnh cõi Phật

Tán:Từ đây trở xuống gồm có năm lớp. Bản dịch xưa chỉ nêu bốn lớp, thiếu lớp thứ hai. Có thể hợp hai lớp của tân dịch thành một lớp của cựu dịch. Nói “Tùy thuận chúng sinh được hóa độ mà lãnh lấy cõi Phật”, về lý tuy cũng đồng mà nghĩa thật khó biết. Năm lớp được phân làm hai: Đầu tiên gồm hai lớp nói về việc tùy chúng sinh phát tâm tu hành, tức nhiếp chúng sinh kia để nghiêm tịnh cõi Phật. Sau gồm ba lớp luận về việc tùy chúng sinh đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế mà được thành thục, tức liền nhiếp thọ cõi Phật như thế. Hoặc đầu tiên nhiếp chúng sinh ngoại phàm mà trang nghiêm biến hóa độ. Sau là nhiếp chúng sinh trước Thập địa mà trang nghiêm báo độ khác. Hoặc đầu tiên là nhiếp chúng sinh, sau là nhiếp hạnh. Hai nghĩa tuy khác nhưng đều dùng việc trang nghiêm cõi chúng sanh làm trang nghiêm cõi Phật. Trong đoạn đầu có hai lớp thứ nhất nói về chúng sinh sinh thiện lìa ác, tức thuộc nghiêm tịnh, lớp sau nói về việc chúng sinh phát khởi phước tuệ, tức thuộc nghiêm tịnh. Hoặc đầu tiên nói về việc chúng sinh phát khởi tu hành tức thuộc nghiêm tịnh, sau nói chúng sinh phát khởi các công đức khác, tức thuộc nghiêm tịnh. Hoặc đầu tiên nói chúng sinh đắc lạc lìa khổ tức thuộc nghiêm tịnh, sau nói chúng sinh tăng thiện diệt ác, tức thuộc nghiêm tịnh. Có ba phen luận nghĩa. Đây là văn đầu. Để tăng trưởng thì hoặc là sinh khởi thiện căn, hoặc là phát tâm, hoặc là đắc lạc; để được ích lợi thì hoặc là lìa ác, hoặc là tu hành, hoặc là lìa khổ. Bản dịch xưa ghi: “Tùy sở hóa chúng sinh mà giữ lấy cõi Phật”.

Tức hợp hai lớp đầu. Sở hóa chúng sinh tức là hữu tình được lợi ích.

Kinh: Tùy các hữu tình… cõi Phật như thế.

Tán: Đây là lớp thứ hai nói về việc tùy chúng sinh phát khởi phước tuệ mà khởi các công đức khác, tăng thiện giảm ác, tức nhiếp phục chúng sinh kia để nghiêm tịnh cõi Phật. Mỗi một đôi trước đều có ba phen giải thích nghĩa.

Kinh: Tùy các hữu tình… cõi Phật như thế.

Tán: Từ đây trở xuống có ba lớp nói về việc chúng sinh đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế mà được thành thục, thì liền nhiếp thọ cõi Phật như thế. Ở đây có hai: Một lớp đầu là nói về việc tùy chúng sinh đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế mà lìa được ác thì liền nhiếp thọ cõi này, một lớp sau là nói về việc tùy chúng sinh đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế mà đạt được thiện, thì liền nhiếp thọ cõi Phật ấy. Đây là văn đầu tiên. Điều phục tức là điều hòa ngăn ngừa thân và ngữ nghiệp, chế phục diệt trừ các hoặc nghiệp. Đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế, nghĩa là tu tất cả các thắng hạnh của Bồ-tát gọi là trang nghiêm tịnh độ, vì trang nghiêm tịnh độ nhân cho nên tu nhân gọi là nghiêm. Trong đó có nghĩa là, tùy theo chúng sinh đáng được dùng các diệu hạnh Bồ-tát như thế mà diệt được ác tức liền nhiếp thọ diệu hạnh Bồ-tát này. Như tự trì giới để điều phục kẻ ác. Nghiêm cõi Phật vốn là vì lợi sinh.

Kinh: Tùy các hữu tình… cõi Phật như thế.

Tán: Đoạn này có hai lớp nói về việc tùy chúng sinh mà đạt được thiện pháp, tức nhiếp cõi ấy. Gồm hai: Đầu tiên nói về người chưa đắc quả, tùy theo đó mà được quả thiện; kế đó nói về người chưa được nhân thì tùy theo đó mà được nhân thiện. Phật trí tức quả thiện; căn, hạnh của bậc Thánh là nhân thiện. Được Thánh căn là tâm Bồ-đề, được Thánh hạnh là hậu hành. Hoặc cho rằng Thánh căn là năm căn như tín… ; Thánh hạnh tức là vạn hạnh khác. Hoặc cho rằng Thánh tức là Phật, Thánh căn tức hạnh, lấy hạnh làm căn bản mà đạt được Thánh căn. Hoặc cho rằng Thánh căn là tuệ vô lậu, Thánh hạnh là các nhân khác.

Kinh: Vì sao?… công đức thanh tịnh.

Tán: Đây là phần thứ ba giải thích nguyên do. Theo văn gồm có hai:

  1. Giải thích nguyên do.
  2. Nêu ví dụ.

Đây là văn đầu tiên. Trước hỏi sau đáp câu hỏi này có nghĩa là trước nói các cõi hữu tình là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, vậy có nguyên do gì mà nay lại nói tùy các hữu tình tăng trưởng lợi ích mà nhiếp thọ chúng sinh kia để nghiêm tịnh cõi Phật. Đức Phật nói: “Thiện nam! Bồ-tát căn bản nhiếp thọ cõi Phật, nghiêm tịnh cõi Phật, tất cả chỗ làm, đều là để hữu tình tăng trưởng lợi ích, khởi các công đức thanh tịnh, mà không vì những gì khác, vì thế dùng sự tăng trưởng lợi ích hữu tình làm cõi Phật. Nếu các hữu tình không tăng trưởng lợi ích và vui khởi các công đức thanh tịnh, thì đó chẳng phải là chỗ giáo hóa của Phật, chẳng phải là Bồ-tát trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Bản dịch xưa lược đoạn văn này, ý cũng hơi khác.

Kinh: Này các thiện nam… rốt cuộc chẳng thể thành tựu.

Tán: Từ đây trở xuống là hiển ví dụ, gồm hai là dụ và hợp. Đây là dụ. Dụ này gồm có bốn: Nhân (người), đất trống, cung điện trang nghiêm và hư không. Trang nghiêm nghĩa là dùng báu vật mà trang hoàng. Nếu người không cất nhà cửa trên đất trống, mà cất nhà trong hư không thì rốt cuộc không thành tựu được.

Kinh: Bồ-tát cũng như thế… tức liền nhiếp thọ cõi Phật như thế.

Tán: Đây là hợp. Người dụ cho Bồ-tát, hư không dụ cho nhân pháp sở chấp không có thể, vì pháp là gốc chỉ nói pháp không. Đất trống dụ cho tánh y tha, tất cả hữu tình tạo lập cung điện trang nghiêm là dụ cho hữu tình tăng trưởng lợi ích, phát sinh công đức thanh tịnh, chứng viên thành thật, tức liền nhiếp thọ cõi Phật ấy.

Kinh: Nhiếp thọ cõi Phật như thế, nghĩa là chẳng phải nơi hư không.

Tán: Trừ Bồ-tát ra, thì tất cả hữu tình đối với pháp không vô mà họ chấp trước để nhiếp thọ cõi Phật thì đều không thành, trái lại nếu ở nơi y tha, thì hữu tình tăng trưởng lợi ích, phát sinh công đức thanh tịnh, chứng viên thành thật.

Kinh: Lại nữa, Bảo Tánh… sinh sang nước kia.

Tán: Đây trở xuống là đoạn thứ hai đáp về nhân nghiêm tịnh. Gồm hai: Đầu tiên trả lời về nhân nghiêm, sau từ câu: “Thiện nam! Bồ-tát! Như thế, tùy phát tâm Bồ-đề…”trở xuống là hiển thị nhân tịnh độ và lợi ích của chỗ thực hành. Nay có mười tám hạnh nghiêm tịnh cõi Phật, bản xưa chỉ có mười bảy, không có hạnh thứ ba. Trong mười tám lần này được chia làm bảy loại: Bốn loại đầu như văn đã nói, tức hợp sáu độ gọi là ngừng dứt các chướng; bốn Vô lượng tâm, bốn Nhiếp sự, xảo phương tiện, Bồ-đề phần thì gọi chung là phát khởi thuyết; đoạn dứt cõi vô hà (không rãnh rỗi) tự giữ giới hạnh; thập thiện nghiệp đạo, ba pháp này gọi là tịch tĩnh. Tất cả đều có hai văn: Đầu tiên nêu nhân hạnh, sau là hiển quả. Đây là phen thứ nhất. Nếu Bồ-tát phát khởi cõi tâm vô thượng, tức là trang nghiêm nhân tịnh độ ở đương lai. Kế câu văn trước nói các cõi hữu tình, tức là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát. Cho nên nói nơi tự phát tâm độ của Bồ-tát đó là nhân nghiêm, nội nhân đã như thế thì bên ngoài sẽ cảm được các hữu tình Đại thừa chưa sinh sang nước kia. Bản dịch xưa thì nơi hạnh thứ ba đại tâm Bồ-đề lấy năm căn làm thể, đại nguyện làm duyên, chẳng lui sụt làm sách tấn, còn các nghĩa khác như u tán đã nói.

Hỏi: Kinh Phật Địa nói nhân tịnh độ viên mãn hơn cả phát khởi thiện căn xuất thế gian, vì sao ở hội này nói phát tâm… là nhân tịnh độ.

Đáp: Đó là căn cứ theo nhân năng phản của chánh nhân, nhân dẫn dắt, chỉ lấy trí làm tánh; còn ở đây căn cứ theo việc chủ yếu là do vạn hạnh viên mãn mới cảm tịnh độ, cho nên phát tâm… là nhân tịnh độ, vì thế không trái nhau.

Kinh: Thuần ý lạc độ… sinh sang nước kia.

Tán: Đây là phen thứ hai. Phạm Hà-thế-da, Hán dịch là ý lạc, chẳng xen lẫn ác pháp nên gọi là thuần tịnh ý lạc. Vì ý lạc bên trong thuần thanh tịnh, cho nên những chúng sinh không tà vạy, không hư dối lầm lỗi sinh sang nước đó vì trong thuần thiện chất trực tu tập. Bản dịch xưa gọi trực tâm, thì thể của trực tâm thuần là ý lạc, không có si mê.

Kinh: Thiện gia hạnh độ… sinh sang nước kia.

Tán: Ý này bản xưa không có. Khéo tu phước tuệ gia công tu tập, cho nên gọi là thiện gia hạnh, vì thế những hữu tình phát sinh hạnh lành, những hữu tình giữ gìn chẳng bỏ hạnh lành đều được sinh sang.

Gia hạnh lấy tuệ làm thể, hoặc chung với các thiện.

Kinh: Thượng ý lạc độ… sinh sang nước kia.

Tán: Thượng tức tăng thượng; phàm khi tu thiện thì phát khởi uy thế mạnh mẻ tăng tiến thì gọi là thượng ý lạc, cho nên các hữu tình đầy đủ thiện pháp sinh sang nước ấy. Bản dịch xưa nói là thâm tâm. Ý lạc tăng thượng mạnh mẽ cũng là thâm tâm, vậy nghĩa thì đúng mà văn thì quá giản lược.

Kinh: Tu bố thí độ… sinh sang nước kia.

Tán: Sáu độ ở đây, được gọi chung là ngừng dứt (chỉ tức), tức ngăn dứt các chướng, thể của nó như trước đã nói. Bố thí diệt trừ keo lậu, bên ngoài cảm được xả, trì giới trừ được tâm phạm điều dơ xấu, đây tức Thập thiện nghiệp đạo, cảm được hữu tình tu mười thiện sinh sang nước ấy. An nhẫn trừ sân nhuế, cho nên cảm được ba mươi hai tướng trang nghiêm thân. Về ba mươi hai tướng thì văn sau sẽ biết. Do kham nhẫn được sự oán hại mà bên ngoài cảm được việc có thể kham nhẫn được các khổ. Do an thọ nhẫn mà bên ngoài cảm được hữu tình nhu hòa; do đế sát nhẫn mà bên ngoài cảm được hữu tình vắng lặng sinh sang. Xưa chỉ nói chúng sinh đủ ba mươi hai tướng sinh sang, trái với lý ở đây. Tinh tấn (cần) trừ giãi đãi, bên ngoài cảm được có thể biết. Định trừ tán loạn, bên ngoài cảm được hữu tình có chánh niệm, chánh định, chánh tri sinh sang. Do chánh niệm cho nên được định, do văn tư cho nên định sinh, hai tuệ văn và tư lấy chánh tri làm thể. Vả lại do niệm cho nên có định, do định cho nên tuệ sinh. Tuệ tức chánh tri. Bản xưa không ghi chánh niệm chánh tri. Tuệ trừ ngu si, nên cảm được hữu tình đã vào Thánh vị sinh sang. Người nhập chánh định, đạt được kiến đạo.

Tụ này có ba:

  1. Chánh định tụ tức vào kiến đạo.
  2. Tà định tụ, tức các hạng người tà kiến.
  3. Bất định tụ, trừ hai loại trên.

Nhập chánh định tức là vào chánh định của các bậc Thánh, cũng chung cho phàm phu. Tín định cũng gọi là chánh định, về lý không trái.

Kinh: Bốn Vô lượng độ… sinh sang nước kia.

Tán: Đây là phen thứ tư, gọi là phát khởi. Đã trừ chướng rồi thì phát khởi thiện căn. Ở đây được phân biệt làm năm môn để giải thích:

Nêu tên, giải thích tên, luận về hành tướng, thể tánh, bàn về sai biệt.

Nêu tên: Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Giải thích tên: Du-già mười hai ghi: “Duyên với cảnh vô lượng duyên khắp với tất cả hữu tình, mà khởi bốn tâm này. Khởi hạnh vô lượng, hành giải cũng rất rộng lớn cho nên cảm được quả vô lượng, được phước vô cùng thanh tịnh, thành Như Lai. Cho nên gọi là vô lượng; bốn là số, đây thuộc về Đới số thích: Luận về hành tướng, hữu tình trong pháp giới gồm có ba loại:

  1. Không khổ không vui, không điên đảo mà ban vui gọi là từ lấy vô sân làm thể.
  2. Có khổ, cứu khổ là bi, lấy bất hại làm thể.
  3. Có vui, giúp đỡ thêm hỷ, lấy thiện căn chẳng tật đố làm thể.

Vả lại đối với hạng hữu tình không khổ vui thì khiến cho họ khởi tưởng xa lìa si mê. Đối với hữu tình có khổ, thì khởi tưởng lìa sân, đối với hữu tình có vui thì khởi tưởng lìa tham, bình đẳng muốn khiến cho họ xa lìa các ác, gọi đó là xả, vì khiến xả bỏ pháp ác, lấy thiện xả làm thể. Luận về thể tánh. Nay lấy ba pháp làm thể là vô sân, bất hại và xả, luận về sai biệt: Gồm có ba:

  1. Duyên với hữu tình thì khởi tưởng về hữu tình.
  2. Duyên với pháp, chẳng thấy hữu tình thì chỉ khởi tướng về pháp.
  3. Đối với các pháp thì lìa tâm phân biệt, khởi tưởng về chân như gọi là duyên vô vi.

Trong ba pháp này thì pháp đầu tiên chung cho ngoại đạo, kế đến chung cho Nhị thừa, và pháp sau cùng chỉ riêng cho Bồ-tát. Ba pháp đầu là an lạc, một pháp sau là lợi ích. Cảm quả có thể biết được.

Kinh: Bốn nhiếp sự độ… sinh sang nước kia.

Tán: Pháp này được chia làm ba môn để giải thích: Giải thích tên, biện tướng trạng, nêu thể tánh.

Giải thích tên: Dùng bốn nhiếp này mà nhiếp thủ chúng sinh, khiến cho họ hướng về Bồ-đề. Đạt được quả thù thắng, cho nên gọi là nhiếp sự.

Biện tướng trạng:

1. Bố thí, khác với bố thí Ba-la-mật, kia là cho người tài vật, còn đây thì sau lại nhiếp phục, cho nên khác.

2. Ái ngữ, tức thường nói những lời làm người vui thích tâm ý, chân thật như pháp, dẫn sinh yếu nghĩa, xa lìa sự giận dữ, bực tức, mỉm cười trước khi nói, sai bảo đến vấn an, tùy nghi an ủi, cho đến giải thích rộng, căn cứ theo bốn tịnh ngữ, tám Thánh ngữ…

3. Lợi hành, do ái ngữ, nên trước chỉ bày chánh lý, tùy chỗ học xứ, tâm bi không bị nhiễm khuyên răn điều phục. Kiến lập nơi ở an ổn khiến đạt được tài vật, xuất gia lìa dục, nhẹ nhàng giải thoát, cho đến giải thích rộng, tuy thọ khổ lớn nhưng tâm càng sinh hoan hỷ; tuy ở trong chốn giàu sang mà tự khuất mình, như nô như bộc, như Chiên-bà-la, như người con hiếu thảo… .

4. Đồng sự, dùng sự lợi ích này, nếu khuyên người tu học, chính mình cũng tự tu học, làm cho căn lành của người vững chắc, chẳng lui sụt. Vì thấy mình thực hành cho nên người càng thêm tiến tu. Vốn nhiếp phục chúng sinh khiến họ hướng đến Bồ-đề, cho nên khi đắc quả, những hữu tình giải thoát đều sinh sang nước ấy.

Luận thể: Bố thí dùng ba nghiệp vô tham làm tánh, ái ngữ lấy ngữ nghiệp làm thể, lợi hành và đồng sự lấy ba nghiệp làm thể, hợp chung hai pháp làm tánh là vô tham và tư.

Kinh: Xảo phương tiện độ… sinh sang nước kia.

Tán: Xảo phương tiện tức là dụng của trí tuệ, gồm hai loại là hồi hướng và bạt tế (cứu giúp), tổng cộng có mười hai. Văn sau sẽ nói rõ. Do hai loại xảo là hồi hướng và bạt tế này mà khi đắc quả thì những hữu tình khéo quán các pháp sinh về, vì trí nhân nơi xảo phương tiện. Bản dịch xưa: “Đối với tất cả pháp đều có phương tiện vô ngại”, cũng thuộc về nghĩa “khéo quán”, dùng hậu đắc trí làm thể.

Kinh: Tu ba mươi bảy Bồ-đề phần độ… sinh sang nước ấy.

Tán: Ba mươi bảy pháp này được phân biệt thành năm môn:

  1. Giải thích tên chung.
  2. Nói về vị và số.
  3. Nêu thể tánh.
  4. Giai vị tu tập.
  5. Hữu lậu vô lậu.

Giải thích tên chung: Bồ-đề là giác, là quả Phật được mong cầu; phần tức nhân, ba mươi bảy pháp này là nhân giác ngộ, cho nên gọi là Bồ-đề phần. Nói về vị và số: Gồm có bảy vị:

1. Niệm trụ, tức do niệm ghi nhớ rõ, thì tuệ trụ ở cảnh, lấy lân cận làm tên. Đây gồm có bốn loại là thân, thọ, tâm, pháp. Quán bốn tuệ này là thể của niệm trụ.

2. Chánh đoạn, cũng gồm bốn loại: Một là luật nghi đoạn tức là đã sinh pháp ác thì dùng phương tiện đoạn trừ; hai là đoạn đoạn, chưa sinh pháp ác thì ngăn chặn khiến cho không sinh; ba là phòng hộ đoạn, tức đã sinh pháp thiện, thì bảo hộ khiến cho được tăng trưởng; bốn là tu tập đoạn, tức chưa sinh pháp thiện thì tu tập khiến cho sinh. Trong bốn pháp này, nếu tinh tấn khởi dụng, có thể chánh thức đoạn trừ pháp ác, nên gọi là chánh đoạn, đối với pháp năng đoạn, khiến sinh mà chẳng sinh, thể đều là tinh tấn, cho nên gọi là chánh đoạn.

3. Thần túc, diệu dụng vô cùng gọi là thần, tức biến hóa, chỗ nương của tâm thần gọi là túc. Thể của nó là định, phân biệt gồm bốn loại là dục, cần, tâm và quán, từ bốn loại này mà tu tập định; định gọi là thần túc.

4. Năm Căn, phát sinh pháp thiện gọi là căn.

5. Năm Lực, khó có thể khuất phục được gọi là lực. Cả hai về thể đều có năm là tín, tấn, niệm, định, tuệ; tên tức là thể. Mới tu tập là tạo gốc thiện gọi là căn, sau khi tu tập thì khó có thể khuất phục nên gọi là lực.

6. Giác chi, giác tức tuệ, chi nghĩa là phần. Gồm hai loại: Một là, giác tức chi, tức là trạch pháp giác chi; hai là, các chi của giác, tức là chi phần của sáu tuệ còn lại. Gồm có bảy món: Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, niệm, định, xả, khinh an. Trong đó một biến hành là Hỷ giác chi.

7. Đạo chi, đạo tức tuệ căn của Thánh đạo vô lậu, chi tức là phần. Một là, đạo tức chi; hai là, các chi của đạo, gồm bảy pháp còn lại như trước có thể biết. Đạo chi gồm có tám pháp đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh định, Chánh tinh tấn. Trong đó Chánh tư duy lấy tuệ làm thể; nơi tâm Phật không có tầm tứ, không có sân và si, phát ra nơi thân và lời nói, gọi là chánh ngữ chánh nghiệp. Vô tham phát ra nơi thân và lời nói, gọi là chánh mạng. Vì đối với năm loại tà mạng cho nên phải nêu riêng. Ba loại thuộc thân và ngữ này đều lấy tư vô biểu sắc làm thể tánh.

Luận về thể tánh: Ba mươi bảy pháp gồm có chín thể: Tuệ, tinh tấn, định, tín, niệm, hỷ, xả, khinh an và vô biểu sắc. Vì thế luận Du-già năm mươi bảy ghi: “Năm căn như tín… không thuộc vào ba mươi bảy phẩm. Thế nào gọi là sáu pháp; đó là: Hỷ, khinh an, xả, ngữ, nghiệp và mạng; ngữ nghiệp và mạng tức vô biểu”. Trong chín thể tánh này thì có một biến hành là hỷ, ba biệt cảnh là niệm, định, tuệ; bốn thiện là tín, tinh tấn, xả, khinh an; một sắc pháp là vô biểu sắc. Đây là nói theo giai vị Phật, nếu chẳng theo giai vị Phật thì lấy mười pháp làm thể. Thành Duy Thức nói Chánh tư duy là Tầm vô lậu. Luận có hai thuyết nhưng đây là nghĩa chính.

Luận về giai vị tu tập: Niệm trụ, chánh đoạn và thần túc, tức lúc mới tu tập, ở tại giai vị giải thoát phần thiện; năm căn ở vị noản, đãnh; năm lực tại nhẫn và thế đệ nhất pháp; bảy giác chi tại vị kiến đạo, tám Chánh đạo tại vị tu đạo. Hữu lậu vô lậu: Căn cứ theo vị có thể biết, trước kiến đạo thì đều là hữu lậu, sau kiến đạo có thể thông với vô lậu, cho đến Phật vị mới chính là vô lậu. Nói rõ về tướng trạng thì như luận Đối Pháp đã ghi.

Kinh: Tu hồi hướng độ… các đức trang nghiêm.

Tán: Đây là đoạn thứ bảy. Tu tập thiện pháp hồi hướng về Bồ-đề thì gọi là hồi hướng. Chẳng cầu sinh tử, cho nên khi đắc quả thì nước ấy sẽ có đầy đủ các đức trang nghiêm. Hồi hướng tức là nguyện, nguyện hướng đến Bồ-đề, đầy đủ các đức. Nguyện lấy tín, dục, thắng giải làm thể.

Kinh: Khéo thuyết dứt trừ tám vô hà độ… vĩnh viễn xa lìa ác thú vô hà.

Tán: Từ đây trở xuống có ba phen gọi chung là tịch tĩnh. Tịch tĩnh hai ác là tịch tám nạn tức là tịch quả ác và tịch Phạm cấm mười thiện nghiệp, tức là tịch nhân ác. Đây là văn đầu tiên. Tám vô hà, xưa dịch là tám nạn. Luôn luôn chịu thống khổ không bao giờ tạm có giây lát nhàn rỗi để tu tập pháp thiện cầu Bồ-đề, cho nên gọi là vô hà (không nhàn rỗi). Tám vô hà là ba ác thú; đui, điếc, câm, ngọng bẩm sinh (tức các căn không hoàn toàn); người tà kiến, thế trí biện thông; sinh trước và sau khi Đức Phật xuất thế; sinh vào Bắc Câu-lô châu; sinh vào Trời Trường thọ, nghĩa là sinh vào cõi sắc, không thuộc hàng Thánh ở cõi trời. Theo luận Thành Duy Thức thì bốn luân của cõi trời và người có thể phá diệt tám nạn:

  1. Trụ ở cõi thiện tức là sinh vào trung thổ trừ được năm nạn là ba ác thú, Bắc Câu-lô châu và trời Trường thọ.
  2. Nương vào người thiện, tức gặp Đức Phật xuất thế, trừ được một nạn là sinh trước và sau Phật xuất thế.
  3. Phát chánh nguyện, nghĩa là có tâm chánh kiến, trừ được một nạn là thế trí biện thông.
  4. Trồng gốc thiện, trừ được một nạn là mù điếc câm ngọng.

Vả lại tu năm hạnh thì cũng trừ được tám nạn này:

  1. Thọ trì giới cấm, đối trị ba đường ác.
  2. Thích thực hành bố thí pháp, trừ được nạn đui điếc câm ngọng.
  3. Tin hiểu chân chánh, trừ được nạn thế trí biện thông.
  4. Gần gũi bạn lành, trừ được nạn sinh trước và sau khi Phật xuất thế.
  5. Sinh vào vùng trung thổ, trừ được nạn sinh vào Bắc Câu-lô châu và trời Trường thọ.

Bồ-tát thường thuyết bốn luân đầu tiên, hoặc thuyết năm hạnh sau mà dứt trừ tám nạn, cho nên khi đắc quả thì lìa ba đường ác và tám vô hà. Vô hà là nói chung, ba đường ác là nói riêng.

Kinh: Tự giữ gìn giới hạnh… không có danh từ phạm giới.

Tán: Trong phần đoạn dứt nhân ác của phần tịch tĩnh dưới đây gồm có hai:

  1. Đã thọ pháp thiện mà lại khởi ác.
  2. Tánh tự đã ác.

Đây là lời văn đầu tiên. Giữ gìn giới chẳng thiếu sót, mình làm ác thì luôn luôn sám hối, người làm ác thì không chê trách, người làm việc thiện thì tán thán, cho nên khi đắc quả, ở cõi nước ấy còn không nghe đến danh từ phạm giới cấm, hà huống gì thấy có người phạm giới cấm.

Kinh: Mười thiện nghiệp… sinh sang nước kia.

Tán: Đoạn này nói về việc ngăn dứt tự tánh ác. Thập thiện nghiệp

đạo, được nêu lên ba môn để phân biệt: Nêu thể, giải thích danh, luận quả.

Nêu thể: Đầu tiên là ba nghiệp về thân như không sát sinh…, kế đến là bốn nghiệp về ngữ như không nói dối… sau cùng là ba nghiệp về ý như tham…, tất cả đều lấy tư làm thể. Vì thể của ba nghiệp đều là tư. Luận Thành Duy Thức ghi: “Bảy nghiệp đạo trước cũng lấy tư làm thể, không chỉ là ba nghiệp sau mới lấy tư làm thể”. Thân ngữ là biểu hiện về tư của ý, tức giả danh biểu nghiệp, tư này huân tập thành chủng tử. Giả danh vô biểu sắc nghiệp, thể của nó thật chẳng phải sắc. Luận Hiển Dương ghi: “Hai sắc thân và ngữ, tánh của nó chẳng phải thiện ác, mà biểu hiện thiện ác, tức giả danh thiện ác, cho nên thể tức là tư.

Tư có ba loại:

  1. Thẩm lự tư, suy xét việc làm.
  2. Quyết định tư, quyết định sẽ làm.
  3. Động phát tư, chánh thức khởi động tác.

Lấy loại thứ ba làm thể của nghiệp đạo.

Giải thích danh: Mười là số lượng, thiện nghĩa là thuận theo chánh lý lợi ích hữu tình, nghiệp tức sự tạo tác, đạo nghĩa là nơi đạo bước lên, có thể thông cho nghĩa sinh. Phân biệt về loại của tư này gọi là mười, thuận lý lợi vật gọi là thiện, thể hay tạo tác nên gọi là nghiệp. Luận Thành Duy Thức ghi: “Tư thứ ba là nơi dạo bước của hai tư trước, thông với nghĩa đương lai sinh quả dị thục… cũng gọi đó là đạo. Dạo bước (Du lý) nghĩa là duyên lự dẫn phát, đồng với tạo thành nghiệp”. Luận Du-già sáu mươi ghi: “Tư là nghiệp mà chẳng phải là nghiệp đạo; sát sinh cho đến ỷ ngữ cũng là nghiệp mà chẳng phải là nghiệp diệt, tham nhuế, tà kiến là nghiệp đạo chẳng phải là nghiệp, vì thuộc tùy chuyển lý môn”. Đây là thuận theo Tát-bà-đa tuyên thuyết”. Luận Thành Duy Thức nói chân thật lý môn, vả lại kia cũng là chân thật lý môn. Ý của luận kia cho rằng nếu nghiệp đạo tư tạo tác chỗ du lý (dạo bước) thì có thể gọi là đạo. Tư thứ ba chẳng phải là chỗ du lý của nghiệp đạo tư, chẳng thể gọi tên đạo. Trong luận Thành Duy Thức chỉ nói Tư thứ ba là chỗ du lý của kia, thông với danh từ đương quả, không trái với danh từ nghiệp đạo. Vả lại thân ngữ biểu nghiệp do tư phát sinh, giả gọi là nghiệp; nghiệp tạo tác, chỗ du lý của tư, giả danh là nghiệp đạo. Dugià căn cứ theo đây lại nói sát sinh cho đến ỷ ngữ cũng là nghiệp, cũng là đạo, kỳ thật chẳng phải là nghiệp mà có thể gọi là đạo, chẳng phải là năng tác. Về ba loại tà kiến thì đây kia không khác. Giải thích tên riêng mười loại này thì như giải thích mười ác có thể biết được, như luận Du-già tám, chín đã nói. Luận về quả: Nghiệp đạo thiện hữu lậu thì được bốn phi ly hệ, nghiệp đạo thiện vô lậu thì được bốn phi di thục. Nếu giúp đỡ nhau mỗi mỗi sẽ có năm quả. Mỗi một phen thuyết mười nghiệp đạo ác theo lý có thể biết được. Trong đó nói mười nghiệp đạo thiện cực thanh tịnh nghĩa là nghiệp đạo vô lậu gọi là cực thanh tịnh mà chẳng phải là hữu lậu. Luận về khi thành Phật không có quả Dị thục vì do hành trì giới chẳng sát sinh khi đạt được sau cùng thì thọ lượng quyết định; xa lìa trộm cắp (bất dữ thủ) cho nên được giàu sang. Hai quả nói trên đều thuộc về quả Đẳng lưu. Xa lìa dục tà hạnh cho nên có hạnh thanh tịnh, xa lìa lời nói hư dối cho nên được lời nói chân thật; xa lìa lời nói thô ác cho nên thường dùng lời nhu hòa, ba quả này là ba quả tăng thượng. Xa lìa lời nói ly gián cho nên được quyến thuộc sum họp, đây là quả Đẳng lưu, xa lìa lời nói tạp uế, cho nên khéo diễn bày mật ý, đây cũng là quả tăng thượng; xa lìa tham, sân tà kiến thì được ba quả còn lại, ba quả này đều thuộc về quả Đẳng lưu. Bốn nghiệp khác được quả tăng thượng nay hỗ tương căn cứ, như lý có thể biết được, sở văn dài dòng nên chẳng nêu lên, tất cả đều như luận Du-già tám, chín, năm mươi chín, sáu mươi, luận Đối Pháp bảy, luận Thành Duy Thức đã nói. Bản dịch xưa ghi: “Khéo giải hòa sự tranh tụng” là quả của nhân không có lời tạp uế. Khéo diễn nói mật ý, mật ý nghĩa là lý ẩn sâu nơi tâm, nếu trau chuốc văn từ, thì sẽ che lấp chánh lý. Lời chánh trực thì có thể diễn bày nghĩa lý, có thể lợi ích hữu tình, đây là quả của vô tham. Nếu tham dục khởi thì chẳng thể lợi ích hữu tình; chẳng tật đố, chẳng sân hận đều là quả của vô sân vì thể của tật đố tức là sân. Nếu căn cứ theo bản dịch mới thì không có nạn si.

Kinh: Này thiện nam… thì có tịch tĩnh.

Tán: Từ đây trở xuống là phần hai nói về trang nghiêm nhân tịnh độ và chỗ làm lợi ích. Trong đó gồm mười bảy chuyển, phân làm hai, đầu tiên gồm tám chuyển, nêu lên tướng thứ tự triển chuyển của mười tám phen thực hành nêu trên; sau gồm chín chuyển tướng nói về nghiêm nhân tịnh độ và thắng quả sinh khởi. Đây là văn đầu. Bản dịch xưa gồm mười ba chuyển, đầu tiên có bảy chuyển, nêu lên các phen luận ở trên, sau gồm sáu chuyển nói về nhân nghiêm tịnh độ sinh quả. Đoạn này có năm chuyển. Ngăn dứt (chỉ tức) tức họp nêu lên sáu độ ở văn trước, tức ngăn sáu tệ; chuyển thứ sáu ở đây tức phát khởi, là họp nêu các pháp ở trên như bốn vô lượng, bốn nhiếp sự, xảo phương tiện và Bồđề phần, vì đó là phát khởi sự ích lợi thù thắng của tự và tha. Chuyển thứ tám tức là tịch tĩnh tức hợp nêu ba tức, bốn vô hà, Tự thủ giới hạnh và mười thiện nghiệp đạo, vì vắng lặng các pháp ác. Trong mười tám nhân thì thứ mười sáu là dứt trừ cõi vô hà, thứ mười bảy là tự thủ giới hạnh, trang nghiêm hai nhân này thì người không gặp thế giới ác; còn trang nghiêm mười sáu nhân còn lại thì khí thế gian không có người ác. Bản dịch xưa đầu tiên nói trực tâm, kế đến là phát hạnh, phát hạnh hợp với thâm tâm. Thâm tâm lẽ ra là tâm Đại thừa, nhưng văn lại lầm lẫn. Phát hạnh là thứ hai, đạo lý khó biết. Điều phục, tức là nêu lên sáu độ trước để điều phục sáu điều tệ hại. Như thuyết mà hành, tức là bốn vô lượng, bốn nhiếp sự, xảo phương tiện và đạo phẩm. Đây là bốn loại tu hành. Thứ bảy tức phương tiện, tức thuyết trừ tám nạn, tự thủ giới hạnh và mười thiện nghiệp đạo. Ba loại phương tiện thù thắng này làm vắng lặng pháp ác.

Kinh: Tùy chỗ tịch tĩnh… nghiêm tịnh cõi Phật.

Tán: Từ đây trở xuống là gồm chín chuyển nói về nhân trang nghiêm tịnh độ sinh ra quả thù thắng. Gồm có hai: Đầu tiên gồm hai chuyển nói về việc nhân trang nghiêm trước kia mà cảm quả tịnh độ; sau gồm bảy chuyển nói về thành tựu tịnh độ lại sinh quả thù thắng. Đây là văn đầu. Do nhân trang nghiêm trước kia mà cảm được chúng sinh thuần thiện, cho nên nói: “Do đó mà có hữu tình thanh tịnh, lìa ác tu thiện.” Đây là chỗ mà Bồ-tát vui thích mong cầu, là cõi Phật thanh tịnh của Như Lai, các hữu tình độ là cõi Phật. Trong có hữu tình độ thanh tịnh thì thế giới độ bên ngoài tự nhiên cũng thanh tịnh, vì tâm tịnh nên cõi Phật thanh tịnh.

Kinh: Tùy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh… các công đức thắng diệu.

Tán: Từ đây trở xuống là bảy quyển nói về việc cõi Phật đã thành lại sinh quả thù thắng. Trong đó được chia làm hai phần: Đầu tiên gồm một chuyển nói về quả lợi ích năng hóa; sau gồm sáu chuyển nói về quả lợi ích sở hóa. Ở đây gồm hai nghĩa:

1. Nghĩa chuyển pháp luân, tức xoay chuyển tương sinh, cho nên có hữu tình độ kia, cõi này đã nghiêm tịnh rồi thì liền có thể giáo hóa kẻ khác, cho nên có giáo pháp, giáo pháp để lập bày, thì hóa độ sinh diệu phước, sinh vào cõi trời, người, thọ nhận phước báu tốt đẹp, kế đó lại sinh ba diệu tuệ hữu lậu văn tư tu; diệu tuệ đã sinh thì trí vô lậu phát khởi, trí vô lậu đã khởi thì hạnh vô lậu sinh, hạnh vô lậu đã sinh, thì tám thức tâm đều thanh tịnh, thức tâm đã thanh tịnh thì đạt được quả viên mãn, đầy đủ vô lượng diệu đức. Như thế gọi là cõi Phật nghiêm tịnh.

2. Nghĩa có thể lập bày cho người khác. Cõi hữu tình kia đã nghiêm tịnh rồi thì có thể dùng giáo mười Địa mà giáo hóa người khác. Cõi hữu tình thanh tịnh là mười Địa. Pháp giáo đã lập thì có phước vô lậu, đạt được các phước như quả Thập vương… sau đó lại sinh tuệ vô phân biệt, tuệ vô phân biệt đã sinh, thì lại sinh hậu đắc trí, hậu đắc trí đã có thì sinh hạnh vô lậu, hạnh vô lậu đã sinh thì tám thức tâm thanh tịnh, tám thức tâm thanh tịnh thì đầy đủ vạn đức, đạt đến thành Phật. Nguyện này do nhân nghiêm tịnh độ mà cảm sinh quả tịnh độ, quả tịnh độ đã cảm sinh rồi thì sinh quả thù thắng này. Bản dịch xưa chỉ nêu bốn chuyển thiếu hai loại là diệu phước và diệu hạnh; hợp trí và tuệ thành một chuyển.

Kinh: Này các thiện nam… nghiêm tịnh tự tâm

Tán: Đây là ý thứ hai trong phần Như Lai giải thích rộng nói về khuyên phát tâm nghiêm tịnh. Đầu tiên khuyên, sau giải thích.

Kinh: Vì sao?… cõi Phật nghiêm tịnh.

Tán: Đây là phần giải thích nguyên do. Các người tu hành, tự tâm nên nghiêm tịnh, thì bên ngoài sẽ cảm được hữu tình và khí thế giới cũng tịnh, nếu tự tâm chẳng tịnh thì làm sao cõi nước được tịnh? Vì thế tự tâm Bồ-tát thanh tịnh thì hữu tình năm uẩn giả cũng tịnh, nội tâm đã tịnh, bên ngoài cảm được hữu tình và thế giới cũng tịnh. Kinh Phật Địa ghi: “Tự tại cùng cực, tịnh thức là tướng. Cho nên khi thức tịnh thì cõi Phật liền tịnh”. Trên chỉ nói hữu tình là cõi nước, vốn là chỗ hóa độ, mà chẳng nói khí giới (thế giới). Cõi hữu tình tịnh thì khí giới tự tịnh, chẳng nói cũng tự thành tựu.

Kinh: Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất… tạp uế như thế.

Tán: Trong phần nói về nhân viên mãn có ba; từ đây trở xuống là ý thứ ba nói về quyết định. Trong đó gồm có bốn:

  1. Ngài Thu Tử sinh nghi.
  2. Bậc Thánh hiển dụ.
  3. Phật hóa hiện cõi tịnh.
  4. Ngài Thu Tử hết nghi.

Đây là văn đầu tiên. Theo lời dạy nghiêm tịnh tự tâm ở trên mà ở đây phát sinh nghi hoặc. Nếu tâm tịnh, hữu tình độ cũng tịnh, hữu tình độ tịnh thì khí thế giới tịnh (đây là lặp lại văn trước) thế thì tâm của Đức Thích-ca ta chẳng tịnh sao, mà cõi Phật lại tạp uế như thế? Vật tức là mạc (chớ nên, chẳng nên) ý câu này nói rằng chẳng lẽ do tâm của Đức Phật ta trước kia không tịnh, nên nay cõi Phật thành tạp uế thế kia ư? Tiếng Phạm Xá-lợi, Hán dịch là xuân anh, vì người mẹ có biện tài, nên lấy dụ làm tên, do bà sinh ra nên gọi là tử (con), Thu Tử nghe ít hiểu nhiều, là bậc Thượng thủ trong hàng Thanh văn. Cho nên được Phật gia trì khiến phát khởi tâm nghi.

Kinh: Đức Phật biết tâm niệm ấy… như người mù chẳng thấy.

Tán: Đoạn này là nói về bậc Thánh hiểu dụ. Gồm có hai: Đầu tiên Đức Phật nêu dụ; lại có ba: Hỏi, đáp và trình bày. Đây là văn đầu.

Kinh: Đáp: Chẳng phải!… Chẳng phải lỗi của mặt trời, mặt trăng.

Đây là lời Thu Tử đáp.

Kinh: Đức Phật nói: Đúng thế… mà ông chẳng thấy.

Tán: Đức Thế Tôn trình bày. Đầu tiên trình bày chung. Nói vì chúng sinh có tội nên chẳng thấy cõi Phật của ta nghiêm tịnh. Sau là nói riêng, dạy rằng cõi của ta nghiêm tịnh mà ông không thấy. Kinh Pháp Hoa ghi: “Ta thường trụ ở nơi đây, dùng sức thần thông khiến cho những chúng sinh điên đảo, tuy ở gần mà không thấy. Chúng sinh đã tin phục, ý ngay thẳng nhu hòa, một lòng muốn thấy Phật, chẳng tự tiếc thân mạng, bấy giờ ta và chúng tăng đều ra khỏi núi Linh Thứu. “Kinh lại nói rằng: “Cõi tịnh của ta chẳng hủy, mà mọi người thấy cháy thiêu hết, lo sợ khổ não, như thế thảy đều đầy đẫy. Các chúng sinh có tội này vì nhân duyên ác nghiệp nên a-tăng-kỳ kiếp chẳng nghe danh Tam bảo”, cho đến nói rộng ra… tức là việc này.

Kinh: Lúc bấy giờ, Phạm vương Trì Kế… nghiêm tịnh cùng tột.

Tán: Đây là Trì Kế nêu dụ. Văn gồm năm lớp:

  1. Trì Kế nêu lên.
  2. Ngài Thu Tử vấn tật.
  3. Trì Kế dùng dụ.
  4. Ngài Thu Tử trình bày.
  5. Dùng chánh lý hiển dụ.

Đây là đoạn văn đầu. Ngài chớ nên nghĩ rằng cõi nước không thanh tịnh, mà quốc độ này nay rất thanh tịnh. Bản dịch xưa có ba lớp, không có lớp thứ hai là hỏi, hợp với lớp thứ ba là dụ và đáp làm văn thứ nhất, văn sau cùng lại thiếu phần sai biệt.

Kinh: Xá-lợi Tử nói… cõi Phật này trang nghiêm thanh tịnh như thế nào?

Tán: Ngài Thu Tử hỏi về tướng của cõi Phật thanh tịnh.

Kinh: Phạm vương Trì Kế nói… cũng như thế.

Tán: Đây là Trì Kế nêu dụ, từ chữ trang nghiêm trở về trước là nêu ví dụ. Từ chữ ngã kiến (Tôi thấy) trở xuống là phần chánh thức hiển thị. Tầng trời thứ sáu của cõi Dục là trời Tha hóa tự tại, chư Thiên ở cõi trời này biến hóa ra các cảnh dục trần mà thọ dụng rất tự tại, đây là việc tối thắng. Mượn đây làm ví dụ, tuy biết đó là dụ hữu lậu chẳng phải là dụ vô lậu. Vì nêu gần để dụ cho xa, khiến cho dễ hiểu.

Kinh: Xá-lợi-phất nói… đầy dẫy những tạp uế.

Tán: Ngài Thu Tử trình bày, chỉ ra chỗ tạp uế thấy được, để hiển thị sự thanh tịnh đã nói ở trước.

Kinh: Phạm vương Trì Kế nói… là không thanh tịnh.

Tán: Từ đây trở xuống là dùng chánh lý để hiển dụ. Có hai: Đầu tiên cho rằng tâm kia chẳng tịnh cho nên thấy cõi uế; sau nói Bồ-tát tâm tịnh thì liền thấy cõi tịnh.

Đây là đoạn văn đầu. Tâm của ngài có cao thấp, các hạnh chẳng thanh tịnh, lại cho rằng trí Phật cũng có cao thấp, mà thấy cõi nước luôn luôn chẳng thanh tịnh. Cho nên các loài dị sinh và Nhị thừa đều thấy cõi nước chẳng tịnh.

Kinh: Nếu các Bồ-tát… rất nghiêm tịnh.

Tán: Đây là hiển ý nghĩa nếu tâm Bồ-tát tịnh thì liền thấy cõi tịnh. Nội tâm bình đẳng, công đức nghiêm tịnh; cũng lại cho rằng ý lạc của Phật đã thanh tịnh, thì liền thấy cõi Phật nghiêm tịnh. Cho nên cõi mà Bồ-tát Địa thứ mười thấy được thường thanh tịnh cùng cực. Bản dịch xưa đoạn văn này hơi khác: “Chẳng nương vào Phật tuệ”, mới nghe tin như chẳng tu Phật tuệ, nhưng thật ra là nói chẳng nương vào tuệ thanh tịnh bình đẳng của Phật, nghĩa là Phật tuệ không bình đẳng, cho nên thấy uế độ, nghĩa cũng không khác.

Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… vô lượng trăm ngàn báu vật trang nghiêm.

Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ ba nói về việc Phật hiện tịnh độ. Nghĩa cõi Phật, được phân làm tám môn để giải thích:

  1. Hiển sai biệt.
  2. Nêu thể tánh.
  3. Luận nhân hạnh.
  4. Nói quả tướng.
  5. Thích phần lượng.
  6. Giải xứ sở.
  7. Cộng bất cộng.
  8. Các môn biện.

1. Hiển sai biệt: Luận Phật Địa bảy ghi: “Thân Phật có hai là sinh thân và pháp thân; như tự tánh thân, tự thọ dụng thân đều gọi là pháp thân. Vì do các pháp công đức gom tập mà thành. Còn như tha thọ dụng thân và biến hóa thân đều thuộc về sinh thân, vì đó là tùy theo chỗ ưa thích của chúng sinh mà thị hiện. Tất cả các cõi Phật đều có thân cư trụ. Vậy thân đã có hai thì cõi cũng như thế, cõi của sinh thân chung cho cõi uế, cõi của pháp thân thuần là cõi tịnh. Hoặc cho rằng thân có hai là quyền và thật, thật tức pháp thân, quyền tức sinh thân. Cõi cũng có hai, uế tịnh cũng như đã giải thích ở trước. Kinh Phật Địa nói thân Phật có ba: Tụng rằng: “Tự tánh pháp, thọ dụng, biến hóa, sai biệt chuyển.” Luận lại giải thích rằng: “Tự tánh pháp, tức là thân tự tánh đầu tiên của Như Lai, thể không biến chuyển, cho nên gọi là tự tánh; đó là chỗ nương của các pháp công đức như lực, vô úy… nên cũng gọi là pháp thân. Thọ dụng tức là thọ dụng thân, vì có thể làm cho tự và tha. Thọ dụng tất cả các pháp lạc lớn. Biến hóa tức là biến hóa thân, tức là vì sự lợi ích an lạc của hữu tình mà thị hiện các việc biến hóa. Tuy thể tánh của pháp giới thanh tịnh không sai biệt, nhưng có ba thân khác nhau, chuyển biến bất đồng, cho nên gọi là sai biệt.” Thân đã có ba thì cõi nước tùy theo đó cũng như thế:

  1. Pháp tánh độ.
  2. Thọ dụng độ.

Hai cõi này chỉ thuần là tịnh.

– Biến hóa độ, chung cho tịnh và uế.

Luận Thành Duy Thức mười nói: “Thân Phật có bốn, cõi Phật cũng thế.” Đó là:

  1. Tự tánh thân nương pháp tánh độ. Kinh Xưng Tán Đại Thừa Công Đức ghi: “Đức Bạc-già-phạm trụ ở pháp giới tạng mà thuyết kinh kia.” Tức trụ ở pháp tánh độ.
  2. Tự thọ dụng thân nương ở cõi Tự thọ dụng độ.
  3. Tha thọ dụng thân nương vào Tha thọ dụng độ. Kinh Phật Địa ghi: “Trụ ở viên mãn mười tám, ánh sáng rực rỡ thù thắng.”
  4. Biến hóa thân nương Biến hóa độ, kinh này ghi: “Trụ ở thành Quảng Nghiêm.”

Ba thân độ đầu chỉ thuần là tịnh chẳng có uế. Thân độ biến hóa thứ tư thông cả tịnh và uế. Vì hàng Bồ-tát trước mười Địa và Nhị thừa mà thị hiện và cõi nước có cả tịnh và uế. Nếu vì người phân biệt phiền não và sở tri chướng chưa tận trừ, chưa chứng nhị không chân như thì thân và cõi nước thị hiện hoặc là tịnh hoặc là uế. Nếu vì người hai chướng phân biệt đã dứt trừ và đã chứng nhị không chân như thì thân và cõi nước thị hiện ra đều là tịnh. Luận Phật Địa ghi: “Ba thân có bốn câu: Một là, thọ dụng phi biến hóa nghĩa là tự thọ dụng thân; hai là, biến hóa phi thọ dụng, tức là biến hóa thân; ba là, cũng thọ dụng biến hóa, tức tha thọ dụng thân; bốn là phi thọ dụng biến hóa, tức tự tánh thân. Cũng giống như Duy Thức.” Hội Thắng Thiên vương ba trong kinh Bát-nhã quyển năm trăm sáu mươi tám nói rằng, Phật có mười thân: Thân bình đẳng, thân thanh tịnh, thân vô tận, thân thiện tu, thân pháp tánh, thân ly tầm tứ, thân bất tư nghị, thân tịch tĩnh, thân hư không, thân diệu trí. Thiên vương bạch Phật rằng: ‘Ở giai vị nào thì được mười thân Như Lai?’ Đức Phật đáp: ‘Sơ địa được thân bình đẳng, thông đạt pháp tánh, xa lìa các tà vạy, thấy bình đẳng; Địa thứ hai đạt được thân thanh tịnh, xa lìa được lỗi phạm giới, vì giới thanh tịnh; Địa thứ ba được thân vô tận, vì lìa dục tham và sân, đắc định thù thắng; Địa thứ tư được thân thiện tu, vì thường tinh cần tu tập Bồ-đề phần, Địa thứ năm được thân pháp tánh, vì quán các đế lý chứng được pháp tánh. Địa thứ sáu được thân ly tầm tứ, vì quán lý duyên khởi xa lìa tầm và tứ. Địa thứ bảy được thân bất tư nghị, vì có phương tiện thiện xảo, trí và hành viên mãn; Địa thứ tám được thân tịch tĩnh, vì đã xa lìa các phiền não hý luận; Địa thứ chín được thân hư không, vì thân tướng vô tận, cùng khắp tất cả. Địa thứ mười được thân diệu trí vì tu tập Nhất thiết chủng trí viên mãn.’ Thiên vương lại hỏi: ‘Thân Phật và Bồ-tát há lại không sai biệt ư?’ Đức Phật đáp: ‘Thân thì không sai biệt, nhưng công đức thì khác nhau. Vì tất cả pháp đồng nhất pháp tánh cho nên thân không sai biệt, nhưng thân Như Lai có đầy đủ các công đức còn Bồ-tát thì không như thế cho nên công đức khác nhau’. Nói rất nhiều dụ để hiển thị việc này. Cho nên biết mười thân đều là pháp thân. Pháp thân căn cứ theo nghĩa đã có mười tên, vì thế chân như tùy theo các giai vị thù thắng đó mà có mười cõi: Biến hành, tối thắng, thắng lưu, vô nhiếp thọ, loại vô biệt, vô nhiễm tịnh, pháp vô biệt, bất tăng giảm, trí tự tại và nghiệp tự tại. Cũng tùy theo người chứng ngộ mà phân biệt thành mười cõi vì y theo nghĩa mà phân biệt. Luận Phậto1ịa ghi: “Các kinh khác nói có mười thân Phật. Như kinh Hoa Nghiêm ghi: Hiện đẳng giác Phật, hoằng thệ nguyện Phật, nghiệp dị thục Phật, trụ trì Phật, biến hóa Phật, pháp giới Phật, tâm Phật, định Phật, bản tánh Phật, tùy nhạo Phật. Năm thân Phật trước thuộc thế tục đế, năm thân Phật sau thuộc thắng nghĩa đế. Tùy chỗ ứng hiện mà thuộc về ba thân. Vả lại tùy theo tướng thô mà phối hợp với ba thân: Năm thân trước là hóa thân, hai thân kế là pháp thân, ba thân sau là thọ dụng thân. Đã có ba thân thì cũng có ba cõi, ý nghĩa cũng không khác. Luận Du-già bốn ghi: “lại có cõi Đại tự tại vượt trên cõi trời Tịnh cư, có Bồ-tát Địa thứ mười cư trụ. Vì đã huân tu rốt ráo

Địa thứ mười cho nên được sinh vào đó”. Tức Hoa Nghiêm ghi: “Có cõi diệu tịnh, vượt ngoài ba cõi, Bồ-tát Địa thứ mười sẽ sinh đó.” Cũng tức luận Thập Địa ghi: “Hiện báo lợi ích thì thọ nhận giai vị Phật, hậu báo lợi ích thì sinh vào cõi Trí Ma-hê-thủ-la”. Ma-hê-thủ-la là âm Phạm, tức Đại tự tại nói trong luận Du-già là Bồ-tát Địa thứ mười. Bồ-tát Địa thứ mười khi sắp thành Phật, thì sinh lên cõi trời Sắc cứu cánh ngồi trên hoa sen báu mà thành chánh giác, nên cảm được cõi này. Đã thành Phật rồi thì cõi nước biến thành vô biên, lại không có chỗ phân biệt. Luận Đối Pháp sáu ghi: “Lại có một thế giới thanh tịnh, chẳng thuộc khổ đế, chẳng phải do sức phiền não sinh, chẳng phải do sức tăng thượng của nghiệp phiền não khởi, mà do sức tăng thượng của thiện căn thanh tịnh của đại nguyện dẫn phát, chỗ sinh này bất khả tư nghị, chỉ có Phật mới biết được; chẳng phải là cảnh giới của người được tĩnh lự huống gì là cảnh giới của tầm, tứ; đây là cõi Tự thọ dụng, chỉ có Phật mới biết, còn chẳng phải là cảnh giới của hàng Thập địa và Nhị thừa, huống gì là người còn tầm tứ chưa đạt Thánh vị mà có thể biết được ư? Tuy có các giáo khác nhau và như trên đã nói nhưng thân cõi bất đồng chẳng ngoài ba và bốn loại đã nêu ở đầu nhưng loại khác không cần giải thích, theo lý cũng có thể biết được.

2. Nêu thể tánh: Cõi tự tánh thân tức là lý chân như. Tuy thân và cõi, thể không sai biệt nhưng theo tánh tướng của Phật pháp thì khác, vì lấy nghĩa tướng làm thân, lấy thể tánh làm cõi (độ); lấy giác tướng làm thân, lấy pháp tánh làm cõi; thể đầy đủ hằng sa công đức chân lý. Phật thân độ này chẳng thuộc sắc, chẳng thuộc tâm tâm sở. Nhưng nếu căn cứ theo nghĩa nhất như và sai biệt thì tự thọ dụng thân lại nương vào tự độ, nghĩa là Viên cảnh trí tương ưng với tịnh thức, do khi xưa tụ tập nhân duyên thuần tịnh cõi Phật vô lậu tự lợi đã thành thục, nên khi mới thành Phật cho đến đời vị lai tương tục biến làm cõi Phật thuần tịnh, chỉ dùng vô lậu sắc uẩn, bốn trần sắc hương vị xúc tương tục gián đoạn và năm trần (thanh) làm tánh, thể đầy đủ các công đức sự tướng sắc pháp. Luận Đối Pháp nói: “Chỉ có Phật mới biết, còn chẳng phải là cảnh giới tĩnh lự của người đạt tịnh lự, huống gì người còn Tầm tứ”, tức là cõi này. Thân tha thọ dụng lại nương vào tự độ, nghĩa là trí bình đẳng và sức Đại Từ bi, do xưa tu tập nhân duyên thuần tịnh cõi Phật vô lậu lợi tha đã thành thục, tùy chỗ thích nghi của Bồ-tát Địa thứ mười mà biến thành tịnh độ; khí giới cũng lấy sắc uẩn vô lậu, bốn trần, năm trần làm thể tánh, giống như cõi nước của vua ở thế gian lấy hữu tình độ và khí thế giới làm thể tánh, lìa hai loại này thì không có cõi nước của vua. Do đó mà tịnh độ của thân tha thọ dụng cũng lấy năm uẩn của Bồ-tát Thập địa và cõi nước có bốn trần do vàng bạc tạo thành làm thể tánh. Điều này ở quyển thượng ghi: “Các hữu tình độ là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Tất cả Bồ-tát, tùy theo sự tăng trưởng lợi ích cho hữu tình mà liền nhiếp thọ cõi Phật nghiêm tịnh, cho đến nói rộng ra… Cõi thập thiện nghiệp đạo là cõi Phật của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, những hữu tình giàu có, Phạm hạnh cho đến được chánh kiến đều sinh sang nước kia”. Cho nên biết hữu tình và khí thế giới đều gọi là cõi Phật. Trì Kế nói: “Tôi thấy cõi Phật của Đức Thích-ca rất nghiêm tịnh lại có vô lượng công đức trang nghiêm.”, đây cũng là cõi Tha thọ dụng. Trì Kế là Bồ-tát Địa thứ tám. Kinh Pháp Hoa ghi: “Chúng sinh thấy kiếp tận, khi lửa mạnh thiêu đốt, mà cõi nước của ta vẫn an ổn, trời người đầy dẫy”. Kinh Phạm Võng ghi: “Ta nay Lô-xá-na; ngồi trên tòa hoa sen, một hoa trăm ức cõi, mỗi cõi một Thích-ca”. Đây tức cõi Tha thọ dụng. Luận Tịnh Độ của Bồ-tát Thế Thân ghi: “Những người nữ, người các căn thiếu khuyết và hàng Nhị thừa chẳng sinh”, đều là cõi Tha thọ dụng. Về cõi Phật này nếu do Phật biến hóa ra thì nhất định là vô lậu, nếu do Bồ-tát biến hóa thì chung cho hữu lậu vô lậu; do thức thứ tám và năm thức trước biến hiện thì chung cho vô lậu. Hữu tình độ kia đều lấy công đức của năm uẩn làm tánh, nên khí thế giới độ này có đầy đủ mười tám viên mãn. Biến hóa thân Phật cư trụ ở tự độ, tức là thành sự trí và lực đại Từ bi, do xưa tu tập nhân duyên cõi Phật tịnh uế vô lậu lợi tha đã thành thục, tùy thuận hữu tình đã vào Sơ địa mà hóa hiện cõi Phật hoặc tịnh hoặc uế, như cõi Di-lặc thì tịnh, trong cõi Thích-ca thì kinh Thuyết Vô Cấu Xưng nói: Khi Đức Phật chưa ấn chân trên đất, cõi đó uế chẳng phải là tịnh, khi ấn chân trên đất tạm thời khiến cho thấy tịnh.

Khi Phật thuyết kinh Pháp Hoa thì cõi Phật mười phương đều tịnh mà chẳng phải uế, khi chưa tập hội thì uế mà chẳng phải tịnh. Kinh Niết-bàn ghi: “Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới, do thần lực của Phật mà biến thành bằng phẳng, mềm mại, không có gò nổng, đá sỏi cũng thuộc về cõi biến hóa, tùy chỗ sinh thích hợp mà hiện cõi nước. Cõi này cũng lấy năm uẩn hữu tình và bốn trần khí thế giới… làm thể tánh. cõi Phật biến hiện chỉ là vô lậu, còn những cõi do hữu tình khác biến hiện thì chung cho hữu lậu vô lậu. Thức thứ sáu, thứ bảy và cõi biến hiện thì chung cho hữu lậu vô lậu, các thức khác và cõi biến hiện thì chỉ là hữu lậu, tuy có các báu vật trang nghiêm. Căn cứ theo pháp mà nêu thể, thì cõi bên ngoài chỉ là sắc, cõi bên trong là năm uẩn, vì hữu tình được hóa độ do năm uẩn tạo thành, hoặc tựa như có công đức, tựa như không có công đức.

3. Luận về nhân hạnh: Trên kinh có ghi: “Phát khởi tâm vô thượng Bồ-đề là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồđề thì tất cả hữu tình phát tâm hướng đến Đại thừa, đều sinh sang nước kia. Thuần ý lạc, Thiện gia hạnh, Thượng ý lạc, sáu Ba-la-mật, bốn Vô lượng, bốn Nhiếp sự, Xảo phương tiện, ba mươi bảy Bồ-đề phần, tu hồi hướng khéo thuyết trừ tám Vô hà, tự thủ giới hạnh chẳng chê lỗi người, mười thiện nghiệp đạo, hợp ý thành mười tám loại cõi Phật nghiêm tịnh, tất cả đều là nhân tịnh độ. Văn kinh sau ghi: “Thành tựu tám pháp sinh sang tịnh độ”. Phẩm Hương Đài ghi: “Thế giới kham nhẫn, các chúng Bồ-tát, thành thục tám pháp, không hủy phạm, không tổn thương, mệnh chung nơi đây sẽ sinh sang tịnh độ. Tám pháp:

  1. Suy nghĩ rằng: Ta đối với hữu tình nên làm các việc thiện, chẳng nên mong cầu thiện báo ở nơi họ.
  2. Lại suy nghĩ: Ta nên thay thế cho tất cả hữu tình mà nhận chịu các khổ não, thiện căn của ta nên ban thí cho họ.
  3. Suy nghĩ: Ta đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm bình đẳng, tâm vô quái ngại.
  4. Lại suy nghĩ: Đối với tất cả hữu tình, ta nên dẹp bỏ tâm kiêu mạn, kính thương họ như Phật.
  5. Tín giải tăng thượng, đối với những kinh điển sâu xa chưa được nghe nhận, khi vừa nghe thì không nghi ngờ không hủy báng.
  6. Đối với lợi dưỡng của người không sinh tâm tật đố, đối với lợi dưỡng của mình thì không sinh tâm kiêu mạn.
  7. Điều phục tự tâm, thường xét lỗi mình, chẳng chê lỗi người.
  8. Luôn không buông lung, nên thường tìm cầu pháp thiện tinh tấn tu hành pháp Bồ-đề phần.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rõ về các nhân quán sinh tịnh độ, cho đến hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, mười niệm thành thục, đều là nhân của tịnh độ. Luận Phật Địa Kinh và Nhiếp Đại thừa đều nói: “Hơn cả cõi do thiện căn xuất thế gian sinh khởi”, nên chỉ nói thiện căn vô lậu làm nhân. Tuy có các văn khác nhau như thề nhưng mỗi mỗi tùy chỗ hóa độ, cơ nghi khác nhau, mà nên như thuyết thực hành, chứ không nhất định như thế. Cho nên Đối Pháp luận ghi: “Chẳng phải do sức phiền não sinh, chẳng phải do nghiệp tăng thượng sinh khởi, nhưng lại do thiện căn thanh tịnh của đại nguyện dẫn phát.” Tóm lại, nhân tịnh độ là:

  1. Do thiện căn.
  2. Do đại nguyện.

Nếu chẳng tu thiện căn thì tịnh độ không có nhân, chẳng phát đại nguyện thì tịnh độ không có duyên. Nếu đủ nhân duyên thì mới cảm được quả. Như thế gian có bạn giúp đỡ, yêu mến nhuần thấm, mới cảm được hai quả độ trong và ngoài. Cần phải tu hành, lấy nguyện làm tư lương thì mới được sinh vào cõi Phật. Nếu chẳng thế thì không được thấy Phật nghe pháp, sinh vào cõi Phật. Tổng tướng tuy như thế nhưng nhân thù thắng của bốn cõi Phật mỗi mỗi khác nhau: Pháp tánh độ, chỉ lấy trí vô phân biệt hai không làm nhân duyên; chứng lý pháp tánh chỉ do trí này. Tự thọ dụng độ chỉ lấy Hậu đắc trí lợi làm nhân duyên, vì chứng năm uẩn sự chỉ do trí này. Tha thọ dụng độ và Biến hóa độ chỉ lấy hậu đắc trí lợi tha làm nhân duyên. Kinh Bát-nhã ghi: “Trang nghiêm cõi Phật, trang nghiêm cõi Phật tức chẳng trang nghiêm cõi Phật, mới gọi là trang nghiêm cõi Phật, trang nghiêm cõi Phật”. Ngài Thiên Thân nói: “Trí tập thông Duy thức; như thế giữ tịnh độ; chẳng hình, đệ nhất thể, chẳng nghiêm và trang nghiêm,” nói rộng như thế, cũng đồng với nghĩa ở đây. Đây là nói cõi Phật và chúng sinh được hóa độ có nhân khác nhau. Pháp tánh độ, Bồ-tát Thập Địa cũng dùng trí vô phân biệt làm nhân duyên. Pháp tánh độ viên mãn, Bồ-tát mười Địa chẳng sinh, nhưng có phần chứng hội, nên Bồ-tát cũng chứng đắc như trước đã nói. Cho nên các luận đều nói: “Sơ địa trở về trước đã được sinh vào nhà Như Lai”. Tịnh pháp giới gọi là nhà Như Lai, chứng hội vào trong đó cho nên nói là sinh. Tự thọ dụng độ, mười Địa chẳng sinh, vì biết mà chẳng chứng. Cõi Tha thọ dụng lấy hậu sở đắc trí của Bồ-tát Thập địa làm nhân duyên, lấy vô phân biệt trí, gia hạnh trí… làm trợ nhân. Luận Phật Địa cũng nói: Vô phân biệt; giúp nhau để luận chung thì lý trí chẳng là nhân duyên sự. Như cõi Biến hóa, thì hàng phàm phu trước mười Địa dùng gia hạnh trí, Nhị thừa dùng hậu sở đắc trí làm Chánh nhân duyên. Các nghĩa đã nói ở trên đều là chánh nhân duyên, nếu gồm cả trợ nhân và duyên trợ giúp thì tùy thuận lý độ mà dùng sự hành và nguyện làm duyên trợ giúp. Nếu theo sự độ thì lấy lý hành và nguyện làm duyên hỗ trợ; sinh vào cõi hữu lậu, lấy vô lậu làm trợ duyên; sinh vào cõi vô lậu thì lấy hữu lậu làm trợ duyên; luận Đối Pháp ghi: “Chỉ lấy thiện căn của đại nguyện làm nhân mà được sinh khởi. Các giáo được nói ra có nhiều loại khác nhau đều tùy theo thời gian và cơ nghi mà thuyết, chẳng nhất định.” Kinh Vô Cấu Xưng nói: “Tám pháp chẳng thương tổn, được sinh vào tịnh độ”. Luận Phật Địa ghi: “Hơn cả cõi do thiện căn xuất thế gian sinh khởi”. Cả hai đều là nhân của cõi Tha thọ dụng. Kinh Vô Cấu Xưng ghi: “Phát khởi cõi tâm Bồ-đề ở cõi trời, cho đến mười thiện nghiệp đạo, đều là tịnh tu cõi Phật; đây là nói chung cho hai nhân hữu lậu vô lậu trợ giúp nhau, sinh vào cõi Tha thọ dụng, cũng có thể nói chung là sinh vào cõi Biến hóa. Quán kinh nói các pháp quán và việc hiếu dưỡng cha mẹ… cho đến mười niệm đều là tịnh độ nhân, ở đây gồm hai nghĩa:

1. Theo Nhiếp Đại thừa luận thì Tây phương là cõi Tha thọ dụng, vì Quán kinh tự nói các Bồ-tát A-bệ-bạt-trí bất thoái mới được sinh về cõi ấy, chẳng thể dùng một ít thiện căn nhân duyên mà được sinh”. Luận tịnh độ của ngài Thiên Thân ghi: “Hàng nữ nhân, người thiếu khuyết các căn và hàng Nhị thừa thừa đều không được sinh về”. Luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Chẳng phải chỉ do sức nguyện mà được sinh vì đó là biệt thời ý, như dùng một đồng mà có được một ngàn đồng, thì ở một thời gian khác mới được chẳng phải hiện nay liền được. Mười niệm vãng sinh cũng như thế. Mười niệm làm nhân sau đó dần dần mới được sinh, chẳng phải do mười niệm sau khi chết liền được sinh. Vì muốn trừ người giãi đãi chẳng tu thiện, khiến họ niệm Phật, nên nói nhân mười niệm sinh tịnh độ. Vả lại thuyết tướng bạch hào và thân lượng của Phật A-di-đà như năm núi Tu-di, chẳng phải là tha thọ dụng, đâu thể cho như thế? Kinh Quan Âm Thọ Ký ghi: “Sau khi Phật A-di-đà diệt độ, Bồ-tát Quán Âm, kế đó làm vị Bổ xứ mang hình Bồ-tát Địa thứ mười.” Nói sẽ làm bổ xứ, chẳng phải là tha thọ dụng thì đó là Phật nào?

2. Tây phương chung cho báo hóa. Văn kinh chứng minh cho Báo độ thì như trước đã nói. Đây là nói văn chứng minh cho Hóa độ. Kinh Cổ Âm Vương ghi: “Đức Phật A-di-đà có cha là Nguyệt Thượng, mẹ là Thù thắng Diệu Nhan, có con, có ma, cũng có Điều-đạt, có quốc thành”, nếu chẳng phải là Hóa thân thì đâu có việc này. Cho nên trong chín phẩm mà quán kinh đã nói có đủ A-la-hán, Tu-đà-hoàn… cho nên những người sinh sang đó có đủ ba thừa, quốc độ này chung cho hai cõi báo, hóa. Nếu căn cứ theo sự giải thích trước, thì đây là thân tha thọ dụng, thị hiện cũng có cha mẹ, vương quốc, thật thân thì không có, thật không có nữ, đường ác, kinh sợ… Trong chín phẩm vãng sinh thì A-lahán… mượn tên kia mà gọi, chứ thật là Bồ-tát. Hai cách giải thích tùy theo tâm, lấy bỏ tùy theo ý.

4. Quả tướng: Kinh Phật Địa ghi: “Dùng tịnh thức tự tại cùng cực làm tướng”. Luận này lại giải thích rằng: “Dùng tâm Phật vô lậu làm thể tướng, vì chỉ có thức, chẳng thể lìa thức mà có quốc độ riêng biệt”. Nghĩa là pháp tánh độ tức pháp tánh tâm, không lìa tịnh thức tương ứng với vô phân biệt trí. Nhưng thức có khác nhau, như cõi Tự thọ dụng tức thức thứ tám, cõi Tha thọ dụng tức thức thứ bảy, cõi biến hóa tức năm thức trước, tùy chỗ thích ứng mà hậu sở đắc trí kia tương ưng với thức. Bồ-tát Thập địa thấy được cõi Pháp tánh và cõi Tha thọ dụng, ba thừa trước Thập địa thấy được cõi biến hóa, tất cả đều tùy chỗ thích ứng, chẳng lìa tịnh thức năng quán hữu lậu vô lậu của người thắng. Cho nên kinh này ghi: “Nếu muốn tinh cần tu tập nghiêm tịnh cõi Phật, thì trước nên dùng phương tiện nghiêm tịnh cõi Phật”. Luận Bát-nhã của Bồ-tát Thiên Thân ghi: “Trí tập thông duy thức, như thế giữ tịnh độ”, cho nên tu tập nhân quả của trí thì thức liền tịnh. Thức bên trong đã tịnh thì bên ngoài cảm được chúng sinh và quốc độ thế gian cũng đều thanh tịnh. Nói rộng như kinh đã ghi, cũng tùy thức sở ứng của người thấy, như đã nói ở trước, căn cứ theo đó cũng biết được.

5. Phần lượng: Luận Phật Địa và Duy Thức đều cho rằng cõi pháp tánh tuy chẳng thuộc sắc, chẳng thể nói đến hình lượng của nó là lớn hay nhỏ, nhưng nếu căn cứ theo sự tướng thì hình lượng của cõi này vô biên, ví như hư không cùng khắp. Cõi Tự thọ dụng thì kinh Thập Địa nói rằng Bồ-tát Địa thứ mười được sinh vào cung trời Đại tự tại, có hiện mười quả tướng, có tòa hoa sen báu lớn, chu vi bằng số vi trần trong a-tăng-kỳ trăm ngàn tam thiên đại thiên thế giới. Bồ-tát Địa thứ mười ngồi trên tòa này mà thành chánh giác. Thành Phật rồi thì tận đến đời vị lai tương tục biến thành cõi Phật thuần tịnh, chu vi vô biên. Các báu vật trang nghiêm, tùy theo lượng của cõi pháp tánh vô biên. Cõi Tha thọ dụng thì tùy theo cơ nghi của Bồ-tát Địa thứ mười mà hiện, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc hơn, hoặc kém, trước sau biến chuyển. Kinh Phạm Võng ghi: “Ta nay Lô-xá-na, ngồi trên tòa hoa sen, một hoa trăm ngàn cõi, mỗi cõi một Thích-ca”. Nhiếp Luận ghi: Bồ-tát Sơ địa ngộ một trăm môn, thấy một trăm cõi Phật, một cõi Phật có tam thiên thế giới, trong tam thiên thế giới có một trăm ức tứ thiên hạ, mỗi một tứ thiên hạ có một hóa Phật, trong tam thiên giới có một trăm ức hóa Phật. Bồ-tát Sơ địa thấy thọ dụng thân của một trăm ức hóa Phật, thọ dụng thân này ngồi trên tòa hoa sen báu lớn, hoa có một trăm cánh, mỗi một cánh tức tam thiên đại thiên thế giới. Một thọ dụng Phật tên là Lô-xá-na, trăm ức Hoa Phật tên là Thích-ca chẳng lìa một thân Lô-xá-na có chung Thích-ca.

Bồ-tát Địa thứ hai thấy một thọ dụng Phật ngồi trên hoa sen ngàn cánh, cho đến Bồ-tát Địa thứ mười thấy Phật lớn cùng cực, hoa sen cũng vô biên. Vả lại trong Địa thứ hai thì thấy được mười thọ dụng thân Lôxá-na mà Sơ địa đã thấy, cho đến Địa thứ mười thì thấy được vô lượng thọ dụng thân Lô-xá-na mà Địa thứ chín đã thấy. Vô lượng hóa thân Thích-ca, nơi đại thiên thế giới, số lượng Đức Phật tuy nhiều nhưng không lìa hóa của Thích-ca, cho nên gọi là một sở hóa của Phật. Vả lại trong Tiểu thừa chỉ nói một Phật, không có nhiều hóa thân, và cũng tùy theo căn cơ của họ mà hiện một Phật. Hoặc ở tư lương đạo thấy một bốn thiên hạ có một vị Phật chủ tôn; ở Gia hạnh đạo thấy tam thiên giới có một Phật chủ tôn. Sơ địa trở lên thì dần dần tăng, cho nên cõi Tha thọ dụng, có hình lượng không định.

6. Giải xứ sở: Cõi Biến hóa thì hoặc là tịnh hoặc là uế, hoặc nhỏ hoặc lớn, trước sau biến chuyển, cùng không có hạn lượng nhất định, tùy theo chỗ thích ứng của chúng sinh mà nhất thời xuất hiện. Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng: Đức Phật ấn ngón chân trên đất thì đại thiên giới liền biến thành thanh tịnh. Vô Cấu sắp đến thì trước biến thành Tỳ-da thanh tịnh. Khi thuyết kinh Pháp Hoa thì đầu tiên biến cõi đại thiên; kế đó biến mười phương, mỗi mỗi đều có hai trăm ức cõi Phật trở thành thanh tịnh, sau cùng lại biến một lần nữa. Cho nên biết lớn nhở tùy thời chẳng định được. Kinh Anh Lạc nói: “Tỳ-lô-giá-na Phật là pháp thân, Lô-xá-na Phật là thọ dụng thân, Thích-ca Mâu-ni Phật là hóa thân”, cho nên nói như thế, chỗ thứ sáu tức là cõi Pháp tánh tức lý chân như, không có cõi nào khác.

Cõi Tự thọ dụng cũng đầy cả pháp giới, lại không có cõi nào khác. Cõi Tha thọ dụng, thì kinh Phật ghi: “Vượt khỏi chỗ sở hành của ba cõi”. Luận này giải thích: “Chẳng phải là chỗ chắp thủ của ái ở ba cõi, cho nên lìa hai ở duyên phược tương ưng, tùy tăng mà nói vượt trên ba cõi, thuộc về tánh thiện của Đạo đế”. Có ba cách giải thích, mỗi mỗi đều khác nhau, có thuyết nói ở trời Tịnh cư, có thuyết nói ở Tây phương, có nghĩa nói đồng xứ sở, chu vi tịnh độ không có bờ mé, khắp cùng pháp giới. Nếu theo Phật nghĩa thì cõi Tự thọ dụng biến khắp thế giới, không nơi nào không hiện, chẳng diễn bày, lìa ba cõi, tức ba cõi. Cõi Tha thọ dụng hoặc tại trời Tịnh cư ở cõi Sắc hoặc ở Tây phương… nơi chốn không định. Kinh Pháp Hoa cũng nói: Chúng sinh thấy kiếp tận, khi lửa mạnh thiêu đốt, mà quốc độ này của ta vẫn an ổn, trời người đầy dẫy”. Cõi mà Bồ-tát Thập địa thấy là Báo độ, cõi mà hàng trước mười Địa thấy là Hóa độ. Tùy nghi mà hiển hiện, đâu thể định nơi chốn, chỉ riêng ra một cõi? Muốn khiến cho chúng sinh khởi tâm ham thích nên mới chỉ ra một cõi, tùy nơi tâm tịnh, tức nơi cõi tịnh. Hóa độ thì phải tùy theo nơi chốn của ba cõi, thuận vật lợi sinh mà hiển hiện. Người xưa đối với việc này cũng có nhiều cách giải thích phân biệt. Nếu ngoài ba cõi có một nơi chốn riêng mà cho là tịnh độ, thì chẳng đúng lý, vì người hóa độ ắt phải còn dị thục thức, còn dị thục thức ắt thuộc về giới, đâu thể ra khỏi giới, nhưng do chẳng bị giới trói buộc, nên nói là vượt trên ba cõi. Chứ chẳng phải xứ sở có khác, vì tùy thuận chỗ hóa độ vậy.

7. Cộng và bất cộng: Luận Thành Duy Thức ghi: “Pháp tánh độ kia đồng là chỗ chứng ngộ của tất cả Như Lai, thể không sai khác. Cõi Tự thọ dụng tuy tất cả Như Lai mỗi mỗi biểu hiện khác nhau, mà đều vô biên, không chướng ngại nhau, hai cõi kia thì tùy theo hữu tình được Như Lai hóa độ mà có cộng và bất cộng. Sở hóa cộng tức là cùng một nơi đồng một thời gian, tùy thuận chư Phật mà mỗi mỗi biến hiện cõi nước, hình trạng giống nhau, không ngăn ngại nhau, xoay vần xen lẫn làm tăng thượng duyên cho nhau, khiến cho tự thức của chúng sinh được hóa độ biến hiện, cho rằng trong một cõi có một thân Phật, hiện thần thông thuyết pháp làm lợi ích. Chúng sinh ở cõi này nghe Phật Thíchca, Di-lặc, Di-đà, nên các Đức Phật này liền cùng biến hiện. Đối với bất cộng thì chỉ một vị Phật biến hóa. Các loài hữu tình từ vô thỉ đến nay, có chủng tánh pháp nhĩ, lại lệ thuộc vào nhau, hoặc nhiều lệ thuộc một, hoặc một lệ thuộc nhiều, như Đức Phật Để-sa, làm cho Bồ-tát Thích-ca vượt chín kiếp… cho nên chúng sinh được hóa độ có cộng và bất cộng. Nếu chẳng thế thì nhiều Đức Phật trụ lâu ở thế gian, các việc làm lao khổ lại thành vô ích, vì một Đức Phật làm lợi ích tất cả chúng sinh. Do đo mà cõi Biến hóa và Tha thọ dụng này có cộng và bất cộng.

8. Các môn: Gồm có mười:

  1. Chủ tên của cõi.
  2. Phụ dực.
  3. Quyến thuộc
  4. Nhậm trì.
  5. Sự nghiệp.
  6. Nhiếp ích.
  7. Vô úy.
  8. Du lộ.
  9. Sở thừa.
  10. Nhập môn.

1. Chủ:

Kinh Phật Địa ghi: “Nơi trụ của Như Lai là các cõi Phật, chư Phật làm chủ, vì thù thắng nhất, chẳng phải là nơi cư trụ của các loài khác. Chỉ thuộc Thế Tôn, hoặc chỉ do Thế Tôn nhiếp thọ, mà chẳng phải ai khác. Tức ba thân Phật, mỗi mỗi ở nơi cõi của mình mà làm chủ, chẳng phải là ai khác”. Nghĩa là thể tánh của cõi pháp tánh là một, pháp thân là chủ. Cõi Tự thọ dụng tuy biến khắp pháp giới, mỗi mỗi đều tự biến hiện nên gọi tự là chủ, chẳng chướng ngại nhau. Cõi Tha thọ dụng và cõi Biến hóa, tuy do chư Phật biến, nhưng chỉ có nhất hợp tướng. Vả lại một thân tướng, mỗi mỗi tùy theo chỗ nhiếp thọ mà làm chủ, cũng không chướng ngại nhau.

2. Phụ dực: Cõi Pháp tánh và cõi Tự thọ dụng chỉ có Phật cư trụ mà không có hàng phụ trợ. Bồ-tát Thập địa tuy phần chứng, chẳng phải là phụ trợ của pháp thân, pháp thân vô tướng, chẳng thể luận nói. Về cõi Tha thọ dụng thì kinh Phật Địa ghi: “Các chúng Bồ-tát vân tập đến”. Nghĩa là cõi tịnh này thường có vô lượng Đại Bồ-tát Tăng đến phụ trợ, cho nên không có oán địch làm trái nghịch tổn hại. Chư Phật Từ bi, từ nơi tự thức của các ngài, tùy theo cơ nghi của các Bồ-tát mà hiện các cõi thô hoặc diệu, còn trên tự thức của Bồ-tát tùy theo sức nguyện thiện căn của mình mà hiện tướng cõi Phật giống như Phật hóa sinh ra. Tuy tự tâm mỗi mỗi đều biến hiện khác biệt, nhưng lại cùng tại một nơi, hình tướng giống nhau, nghĩa là một cõi cùng tụ hội trong đó. Luận Phật Địa ghi: “Như thế, tịnh độ do Bồ-tát mười Địa biểu hiện ra như thế, là hữu lậu hay là vô lậu? Lược có ba nghĩa: Một là, nghĩa vô lậu, do sức nguyện của chủng tử vô lậu tư trợ, nên biến sinh tịnh độ, trong đó thọ dụng pháp lạc Đại thừa, chứng chân như, được chân vô lậu, thường thấy chư Phật, cho nên thuộc Đạo đế; hai là, nghĩa hữu lậu, nghĩa là trong tự tâm có thêm sức nguyện của chủng tử hữu lậu tư trợ, cho nên biến sinh tịnh độ, trong đó thọ dụng pháp lạc Đại thừa. Địa thứ bảy về trước còn phiền não hiện khởi, Địa thứ mười còn phiền não tu đạo và chủng tử sở tri chướng; nơi thể của thức thứ tám, hay giữ gìn các loại này, vì hiện hành bị huân tập, còn thuộc về hữu lậu vô ký, cho nên chẳng phải là vô lậu. Vả lại hữu tình chẳng thể có hai thật tâm, vậy thân đã hữu lậu thì cõi tịnh nương gá làm sao vô lậu? Cho nên chỉ thuộc về Khổ đế. Nghĩa như thật, Bồ-tát mười Địa, trên tự tâm biến hiện tịnh độ thì gồm có hai: Do thức thứ tám biến, chỉ là hữu lậu, hữu lậu thuộc về tướng. Phần của thức thứ tám, là sở y của thân hữu lậu. Tuy được sức thiện vô lậu giúp đỡ huân tập tướng diệu tịnh kia, nhưng hữu lậu tùy gia tịnh này biến hiện cũng như thế. Như ảnh tượng của tịnh độ tùy Hậu đắc vô lậu tâm biến hiện, thì thuộc về tướng phần của thức vô lậu, vì từ chủng tử thiện vô lậu sinh, thể là vô lậu, thuộc về Đạo đế, Biến hóa độ thì ba thừa đồng tụ tập, là chỗ vân tập của Thánh nhân Nhị thừa, Bồ-tát và phàm phu, cõi do Phật biến hiện chỉ là vô lậu; cõi do các giai vị khác biến hiện thì nghĩa chỉ là hữu lậu. Vì Hậu đắc trí vô lậu chẳng thể biến ra tướng tịnh độ. Lại có nghĩa cũng vô lậu, hậu đắc trí vô lậu tùy sức duyên tăng thượng do Phật biến hiện, nên có thể biến ra sự tướng. Lý chẳng trái nhau, cho nên cách giải thích này thích hợp nhất.

3. Quyến thuộc: Kinh Phật Địa ghi: “Vô lượng trời, rồng, người và phi nhân, thường theo hầu”. Cõi Pháp tánh và cõi Tự thọ dụng không có chúng phụ trợ vì vô tướng như trước đã nói. Cõi Tha thọ dụng chỉ có trời người làm quyến thuộc, không có các loại khác. Tuy vượt ba cõi, không gì bằng, nhưng cũng thuộc ba cõi. Tịnh thức như thế nhiếp thọ sự biến hiện là trang nghiêm tịnh độ, cho nên chẳng trái nhau, hoặc vì thành thục cho hữu tình được hóa độ mà thị hiện các chủng loại biến hóa như thế. Ví như vì điều phục vua Kiếp-tì-nô mà hiện vô lượng chúng Chuyển luân vương có quyến thuộc vây quanh, hoặc Phật tự hóa, hoặc các Bồ-tát hóa các loại này, trụ trì ở tịnh độ, trang nghiêm cúng dường, dẫn dắt chúng phương khác, theo hầu Như Lai. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói đến chim Mạng mạng… đều là do Đức Phật A-di-đà biến hóa ra việc hóa ra Nhị thừa trang nghiêm tịnh độ, cũng như thế. Trong cõi biến hóa cũng có tám bộ chân thật làm phụ tá, trong cõi Tha thọ dụng thì Bồ-tát là thật, Nhị thừa và tám bộ là quyền hiện, chẳng phải chân thật được sinh vào đó. Trong cõi biến hóa thì Nhị thừa và tám bộ là chân thật, Bồ-tát mười Địa đều là quyền tích. Bồ-tát Thập địa chẳng sinh vào cõi biến hóa, chỉ có quyền hiện hóa hình sinh vào trong đó.

4. Nhậm trì: Cõi pháp tánh không nhờ vào sự giữ gìn, cõi Tự thọ dụng do pháp lạc giữ gìn; cõi Tha thọ dụng thì kinh Phật Địa ghi: “Được hỷ lạc của pháp vị rộng lớn giữ gìn”. Tức Bồ-tát mười Địa, do hỷ lạc của pháp vị Đại thừa giữ gìn, ăn vào khiến có thể trụ nơi ấy đó là nghĩa tự tại giữ gìn (Nhậm trì). Đã vượt ba cõi, tánh là vô lậu, hay đoạn trừ hữu lậu, lẽ ra chẳng gọi là thực (thức ăn) nhưng đó là nhân của nhậm trì cho nên cũng gọi là thực; như pháp hữu lậu tuy chướng ngại vô lậu, nhưng giữ gìn pháp hữu lậu nên được gọi là thực. Vô lậu cũng thế, tuy đoạn hữu lậu nhưng giữ gìn vô lậu sao chẳng được gọi là thực? Hậu đắc diệu trí của chư Phật Bồ-tát, hay thuyết hay lãnh thọ pháp vị Đại thừa, sinh hỷ lạc lớn, có thể giữ gìn thân, khiến cho không đoạn dứt, trưởng dưỡng pháp thiện, cho nên gọi là thực. Địa thứ bảy trở về trước còn phần đoạn sinh chẳng thể không tư dưỡng bằng bốn loại thực là đoàn, xúc… Địa thứ tám trở lên và tất cả các Đức Phật, chẳng cần hoàn thực, nhưng có thể nói là còn có các loại thực khác tư dưỡng. Vì các luận thuyết muốn thị hiện thuộc về y chỉ trụ thực. Nếu cõi Biến hóa thì thật có bốn loại thực, và cũng lấy pháp vị làm thực (Thức ăn). Như nghe nói sáu mươi kiếp trụ trong kinh Pháp Hoa. Nhưng phẩm Bồ-đề Phần kinh này nói: “Đã thực pháp bất tử, uống vị giải thoát. Dùng Niết-bàn bất tử làm thức ăn, nghĩa là diệu cảnh chứng ngộ, sinh nơi hỷ lạc, có thể gọi đó là thực. Hay giữ gìn pháp vô lậu nên đặt tên là thực cũng không trái nhau. Nhưng thể của thực này, các giáo nói khác nhau, rộng như biệt chương và Pháp Hoa sớ đã giảng.

5. Sự nghiệp: Pháp thân Phật hoặc chỉ có tự lợi là chỗ y cứ của hai thân, hoặc gồm cả hai lợi. Thân tự thọ dụng chỉ có tự lợi, thân tha thọ dụng và thân biến hóa thì chỉ thuộc lợi tha, vì người khác mà hiện. Kinh Phật Địa ghi: “Làm nghĩa lợi cho tất cả chúng sinh”. Đức Phật tuy đã tịch định, nhưng do trước tụ tập, nhờ sức hạnh nguyện, tự tại hay làm tất cả nghĩa lợi cho loài hữu tình’. Trong cõi Tha thọ dụng, phần nhiều thuyết diệu pháp, ít dùng thần thông, làm nghĩa lợi lợi ích cho Bồ-tát mười Địa, trong cõi Biến hóa phần nhiều dùng thần thông, ít thuyết pháp, làm tất cả nghĩa lợi lợi ích cho hàng Tam thừa.

6. Nhiếp ích: Tự tánh thân độ và tự thọ dụng đã đoạn viên mãn, không nói đến nhiếp phục lợi ích chúng sinh, còn tha thọ dụng có nghĩa nhiếp ích thì kinh Phật Địa ghi: “Diệt các phiền não tai hoạnh Triền cấu”. Các phiền não là Triền cấu, như thế nên gọi là nhân của các tai hoạnh. Trong đó không có phiền não triền cấu, tai hoạnh tạo ra cũng không có. Hoặc cho rằng phiền não tức mười phiền não phối hợp với kiến tu hoặc trong ba cõi thành một trăm hai mươi tám món. Triền có tám loại là vô tàm, vô quý, hôn trầm, thùy miên, điệu cử, ố tác, tật, xan, cấu sáu món. Hại, hận, não, xiểm, cuống và kiêu. Tai hoạnh là chỗ phát nghiệp và quả báo của các món này. Trong sở tri chướng thì chủng tử gọi là phiền não, hiện khởi gọi là triền cấu. Xa lìa hai loại này gọi là nhiếp ích. Như các lãnh chúa ở thế gian tuy không nhiếp ích, nhưng cũng chẳng gây tai họa. Đối Hộ cũng nói: “Chủ nhiếp ích ngã”; ở đây cũng như thế. Vả lại hiện chứng đắc thì được phước trí thù thắng xa lìa phiền não tai hoạnh triền cấu, cho nên gọi là nhiếp ích. Trong Hóa thân độ, bậc Thánh Nhị thừa cũng chỉ như thế. Phàm phu, Bồ-tát tuy chưa vĩnh viễn đoạn trừ, chế phục hiện hành nên có thể gọi là nhiếp ích. Trước mười Địa gọi là tổn lực ích vì hay chuyển đạo. Nhưng ở các giai vị này, phân biệt có hai chướng. Trong tâm này dần dần chế phục, trong gia hạnh đạo thì nhanh chóng chế phục. Sơ địa thì đốn đoạn gọi là nhiếp ích, hai chướng câu sinh, nơi đạo gia hạnh có thể dần dần chế phục được. Mười Địa tùy theo giai vị mà có thể dần dần đoạn được. Sơ địa trở lên có thể đốn phục tận, nên gọi là nhiếp ích.

7. Vô úy: Địa thứ bảy được vô úy, nghĩa là bên trong không tổn ích, ngoài không sợ hãi. Cõi Tự, Tha thọ dụng và Biến hóa, đã có vô úy từ lâu. Kinh Phật Địa ghi: “Xa lìa các ma”, ma tức bốn ma là nhân của sự sợ hãi, vì do đây mà hay sinh ra sợ hãi, Phật không có các việc này, cho nên không sợ hãi. Cõi Tha thọ dụng, Bồ-tát Thập địa đã xa lìa bốn ma không có năm loại bố úy, uẩn tử phiền não, thứ tự đoạn trừ, tùy theo đó mà luận, nghĩa có thể hiểu được. Trong cõi Biến hóa bậc Thánh ba thừa cũng từng phần xa lìa. Bồ-tát Thập trụ hiện tám tướng thành đạo chế phục thiên ma; trong đạo gia hạnh cũng có thể chế phục phiền não phân biệt, lìa phiền não ma. Thập Trụ thứ tư sinh vào Quý trụ xa lìa sinh tử, xuất ba cõi, từng phần xa lìa ma tử. Khi vào Sơ địa thì từng phần lìa phần đoạn tử, cũng gọi là từng phần lìa ma ngũ uẩn, vì thế cho nên được vô úy.

8. Du lộ: Địa thứ tám thì đạt Du lộ, kinh Phật Địa ghi: “Đại niệm, tuệ hành gọi là Du lộ”. Luận này giải thích rằng: “Đại niệm của các Như Lai là vô phân biệt trí, do niệm an trụ nơi lý chân như. Vô phân biệt trí là con đường mà cõi pháp tánh dạo bước. Đại Tuệ tức là Hậu sở đắc trí vì phạm biệt tướng của các pháp chân tục, là con đường của hai cõi Thọ dụng và Biến hóa. Hai pháp này có nghiệp dụng tăng thượng tạo tác tịnh độ. Cho nên đều gọi là hành, vì là con đường dẫn đến tịnh độ cho nên gọi là Lộ. Hoặc đại niệm hạnh là hạnh tự lợi, vì gồm nhiều vô ký, là con đường của cõi Pháp tánh và cõi Tự thọ dụng. Đại tuệ hạnh là hạnh lợi tha vì phân biệt ngoại cảnh, đây là con đường của cõi Tha thọ dụng và cõi Biến hóa. Trên là nói về Phật, bây giờ là nói về Đại niệm của Bồ-tát mười Địa, đó là văn tuệ, đại tuệ là tư tuệ và đại hạnh là tu tuệ. Ba tuệ này, tùy chỗ ứng hợp mà thân sơ giúp nhau, làm con đường (lộ) của cõi hữu lậu, vô lậu. Ba tuệ chung cho hữu lậu vô lậu. Như ở cõi Biến hóa thì hàng ba thừa trước Thập địa cũng lấy ba tuệ làm Du lộ. Tu tuệ của Nhị thừa cũng chung cho vô lậu; phàm phu Bồ-tát chỉ là hữu lậu cũng lấy đó làm Du lộ.

9. Sở thừa: Tức ngồi trên chiếc xe này (sở thừa) mà đi trên con đường kia. Kinh Phật Địa ghi: “Đại chỉ và Diệu quán làm sở thức”, Chỉ là Tam-ma-địa tức Đẳng trì, quán nghĩa là Ba-la-nhã, tức tuệ. Chỉ, quán chuyển vận cho nên gọi là sở thừa, lộ (con đường) là vị chung, chỉ quán trong vị gọi riêng là sở thừa. Ba thân Phật, hằng cỡi trên đó mà vào ba cõi Phật, Bồ-tát mười Địa cỡi trên đó mà vào cõi Tha thọ dụng, hàng Tam thừa trước mười Địa, tùy thuận vị trước mà cỡi trên phẩm chỉ quán này vào tịnh độ. Nếu ở cõi uế thì chung cho Tán, định tuệ, lấy đó làm sở thừa, nếu không như thế thì không cách gì mà sinh vào tịnh độ.

10. Nhập môn: Từ cửa nhập này mà cỡi trên sở thừa kia để vào. Kinh Phật Địa ghi: “Đại không vô tướng, vô nguyện giải thoát là môn sở nhập”, giải thoát là Niết-bàn, diệu trí này gọi là môn; hoặc trí vô lậu gọi là giải thoát vì xa lìa sự trói buộc. Nhờ ba môn này mà vào tịnh độ. Lại có một nghĩa khác: “Nhân vô tướng môn mà vào cõi pháp tánh, quán pháp vô tướng, chứng chân như. Nhân nơi vô nguyện môn mà vào cõi Tự thọ dụng, vì không nguyện cầu sinh trong ba cõi. Nhân nơi không môn mà vào cõi Tha thọ dụng và Biến hóa, đạt hai vô ngã vào hai cõi”. Hoặc cho rằng ba môn đều vào ba cõi Phật. Luận thuyết về ba môn, hoặc mỗi mỗi quán riêng ba loại tự tánh, hoặc năng quán ba tánh, đây là luận theo Phật môn, nếu theo Bồ-tát thì nhân ba môn vô lậu này mà vào cõi Tha thọ dụng. Nếu theo Nhị thừa và trước mười Địa, thì cũng nhân ba môn vô lậu hoặc hữu lậu mà vào cõi Biến hóa. Còn phàm phu và Bồ-tát chỉ nhờ ba môn hữu lậu đẳng trí mà vào hóa độ, không gọi là giải thoát môn, vì chẳng thuộc vô lậu. Theo thật lý thì cõi Tha thọ dụng và Biến hóa đều có môn sự thừa du lộ… nhưng vì muốn cho loài hữu tình ưa thích thật đức, cho nên căn cứ theo hạnh mà thuyết. Cõi Pháp tánh và cõi Tự thọ dụng thì phần lượng vô biên, chẳng nói riêng các tướng có sự môn… cõi Tha thọ dụng đã có phần hạn, đều y vào hoa sen mà kiến lập. Kinh Phật Địa ghi: “Do hoa sen báu lớn kiến lập”. Quán kinh cũng nói: “Khởi tướng về huyền cổ (trống treo), có tòa hoa sen, cõi biến hóa chẳng định, hoặc có hoặc không. Chỉ cõi Phật này không có hoa sen, Phật hiện trong đó”. Theo văn thì gồm có ba:

  1. Phật hiện.
  2. Nêu ví dụ.
  3. Hiển đại chúng nhìn thấy.

Đây là văn thứ nhất. Tâm Bồ-tát, xưa nay thấy tịnh, hàng Thanh văn thì ý kém cõi, chưa thấy cõi tịnh nên tạm biến tâm của hàng phàm phu, khiến cho họ thấy được cõi tịnh. Vì thế nhờ việc ấn ngón chân mà biến đại thiên. Đây là tịnh độ biến hóa để cho hàng phàm phu thấy mà thôi.

Kinh: Thí như công đức… cõi bảo trang nghiêm.

Tán: Đây là nêu ví dụ. Phật bảo trang nghiêm là thân tha thọ dụng. Cõi Bảo trang nghiêm là cõi vô lậu. Thân Phật chẳng đổi, chỉ có cõi nước biến thành tịnh. Nêu lên Báo độ kia để dụ cho Hóa độ, hoặc nhờ vào dụ để hiển. Việc Đức Phật nêu thân báu thì quốc độ cũng thế.

Kinh: Tất cả đại chúng đều khen là việc chưa từng có, mà tự thấy  mình ngồi trên tòa hoa sen.

Tán: Đây là nói về việc đại chúng thấy: Tạm biến tâm của đại chúng trở thành bình đẳng, cho nên thấy ngồi trên tòa sen, thấy cõi nước cũng thanh tịnh, chưa bao lâu thì tâm được tịnh, nên khiến cho tạm thấy; lâu thì do hạnh mà thành tựu, không lâu thì do Phật khiến cho được.

Kinh: Lúc bấy giờ, Thế Tôn… các đức nghiêm tịnh cõi Phật chăng?

Tán: Phần thứ tư, Thu Tử dứt trừ được nghi. Có ba ý:

  1. Chỉ cõi nước mà hỏi.
  2. Thu Tử hoan hỷ trả lời.
  3. Nêu lý để trừ nghi.

Đây là lời văn thứ nhất.

Kinh: Xá-lợi Tử nói… nghiêm tịnh đều hiện.

Tán: Đây là Thu Tử hoan hỷ trả lời.

Kinh: Bảo Xá-lợi Tử… cõi tạp uế.

Tán: Nói về lý để trừ nghi, theo văn gồm ba:

  1. Bảo chung.
  2. Lập dụ để chỉ bày.
  3. Kết luận.

Đây là văn đầu. Chữ “cáo” (bảo) như nghĩa đã giải thích. Tâm ta thanh tịnh từ lâu, mà cõi tịnh như thế, là vì thương xót hàng chúng sinh hạ liệt, tùy theo họ hiện ra cõi kém xấu. Cõi này vốn chẳng phải do ta trang nghiêm, là cõi mà chúng sinh ba thừa đều nên thấy.

Kinh: Xá-lợi Tử… thức ăn khác nhau.

Tán: Đây là phần nêu dụ để chỉ bày cõi trời Tam thập tam ở trên đỉnh núi Diệu cao, bốn mặt, mỗi mặt có tám vị trời, Đế Thích trụ ở giữa mà làm chủ. Xưa dịch: “Màu cơm”, sắc và kiến (thấy) đồng nghĩa.

Kinh: Như thế Xá-lợi Tử… chỗ thấy có khác.

Tán: Đây là phần kết luận. Vả lại đây là câu kết luận chung. cõi Phật tuy đồng, chỉ là cõi Thích-ca, nhưng tâm hữu tình khác, nên thấy tịnh uế khác. Tam thừa trước mười Địa thì thấy cõi nước tạp uế, còn Bồtát Thập địa thì luôn luôn thấy tịnh.

Kinh: Nếu tâm người tịnh… diệu bảo trang nghiêm.

Tán: Kết luận riêng. Như có Trì Kế tâm tịnh, liền thấy cõi tịnh.

Kinh: Ngay lúc Đức Phật hiện việc này… tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Tán: Từ đây trở xuống là phẩm thứ tư của phẩm này, nói về lợi ích viên mãn. Văn gồm có hai:

  1. Lợi ích Đại thừa.
  2. Lợi ích Tiểu thừa.

Trong văn nói về lợi ích Đại thừa thì đầu tiên nói hai lợi ích, sau đó là thâu nhiếp thần túc. Đây là văn đầu tiên. Tại Sơ địa, mới đạt vô sinh; Địa thứ tám thì tự tại vô sinh, đã nghe nghiêm tịnh tức rõ được việc kia, chưa biết tịnh độ của Phật nay được vô sinh, cho nên vào Sơ địa.

Hoặc vô sinh là được vào Địa thứ tám. Phát tâm có hai:

  1. Mới phát tâm, tức mới vào Sơ địa.
  2. Vô lậu phát tâm, tức chưa vào Sơ địa.

Cho nên biết phát tâm là mới vào Sơ địa.

Kinh: [Bấy giờ, Đức Phật Thế Tôn… trở lại như cũ.]

Tán: Không biến cõi tịnh là để nêu lên đại ý; quả lớn đã đạt được ở đây, cho nên thu nhiếp thần túc; tuy cũng chứng quả nhỏ, nhưng chẳng vì đó mà hiện cõi tịnh, vì thế văn sau sẽ nói.

Kinh: Cầu Thanh văn thừa… khéo giải thoát.

Tán: Đây là nói về lợi ích Tiểu thừa. Biết vô thường, thấy cõi nước chuyển biến, thuận lý vô thường, trái nghịch Khổ đế, văn này nói là kiến đạo. Xa trần tức vô gián đạo, đoạn chướng; lìa cấu tức giải thoát đạo, vì lìa cấu, chứng vô vi, đắc pháp trí, gọi là pháp nhẫn tịnh. Vĩnh viễn xa lìa các lậu, phiền não chướng trừ sinh tức lìa sở duyên phược. Tâm khéo giải thoát tức lìa tương ưng phược. Đó là nói về việc chứng đắc quả A-la-hán. Bản dịch xưa ghi: Chẳng thọ các pháp tức chẳng chấp thủ ngã và ngã sở, vì chẳng thọ quả sinh tử, ý giải tức là tâm giải thoát.