TẬP 02

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG THUẬT

Quyển 02

Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư

Phẩm Tựa thứ nhất của Kinh Pháp Hoa, là nghiên cứu nhân duyên của bổn kinh, Phẩm Phương Tiện thứ hai dùng quyền xảo phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Vì để cho chúng sinh tiến thêm một bước thấy rõ giáo nghĩa, nên đức Phật tiếp tục nói Phẩm Ví Dụ thứ ba.
Bây giờ nói đến Phẩm Tin Hiểu thứ tư, khiến cho chúng sinh tăng thêm niềm tin. Do đó, có câu:

« Tin là nguồn đạo mẹ công đức,
Nuôi lớn tất cả các pháp lành ».

Lại có câu rằng:

« Phật Pháp như biển cả,
Chỉ cần tin thì vào được ».

Do đó, có thể thấy niềm tin rất quan trọng, có thể nói là cửa đi vào Phật Pháp.

Chữ tin bằng tiếng tàu (信), chữ nhân đứng trước chữ ngôn, hợp lại thành chữ tín, biểu thị lời nói của người nào đó nói, nếu bạn không tin lời của họ nói, dù lời của họ vốn có lợi ích, thì bạn cũng chẳng có được ích lợi. Cũng thế, nếu ai hay tin hiểu nghĩa lý trong Kinh, sau đó cung hành thực tiễn, thì mới thật sự đắc được pháp ích. Ví như tính nóng giận của bạn quá lớn, nhưng đọc Kinh rồi, thì hiểu được tính nóng giận có thể tránh khỏi, do đó lập chí trừ khử ác tập này, trong sự tu hành bất tri bất giác, một ngày nào đó, bạn sẽ phát giác, tập khí xấu xưa kia đã tiêu đâu mất, đột xuất có người vô cớ nhiễu loạn bạn, nhưng bạn cũng xem như chẳng có gì, đó là công năng của niềm tin.

Ngược lại, nếu người nào đó sinh tâm nghi hoặc đối với Kinh điển, cho rằng tính nóng giận ai ai cũng đều có đủ, không nóng giận là việc không thể được, do đó không thể tương ưng với Phật Pháp, đừng nói đến đắc được pháp ích. Nói tóm lại, ai tin hiểu được pháp đại thừa không thể nghĩ bàn, thì mới có thể thực tiễn chứng được pháp vi diệu thậm thâm vô thượng. Cho nên phẩm nầy lấy « Tin Hiểu » làm tựa.

Lúc đó, Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Mục Kiền Liên, nghe Phật nói pháp chưa từng có. Ðức Thế Tôn thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sinh tâm hi hữu vui mừng hớn hở, bèn từ tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, hở bày vai phải, gối phải đụng đất, một lòng chắp tay, cúi mình cung kính, chiêm ngưỡng dung nhan của đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng:

« Lúc đó »: Tức là lúc đức Phật diễn nói Phẩm Ví Dụ. Phẩm nầy, đức Phật chỉ truyền thọ đối với người đương cơ, chẳng tuyên nói đối với đại chúng, vì muốn tránh chúng sinh khởi nghi hoặc. Ma Ha Tu Bồ Ðề cũng gọi là « Huệ Mạng » Tu Bồ Ðề, vì Ngài tiếp nối huệ mạng của Phật, cũng vì Ngài phụng mạng của Ðức Phật, bậc đại giác trí huệ, nên gọi là « Huệ Mạng ». Trong pháp hội Bát Nhã, Phật muốn Ngài Tu Bồ Ðề giáo hóa tất cả chúng sinh và Bồ Tát, mà kế thừa gia nghiệp của Như Lai. Tu Bồ Ðề có ba tên:

  1. Thiện Cát,
    2. Thiện Hiện,
    3. Không Sinh.Khi ngài Tu Bồ Ðề ra đời, thì có những việc kỳ lạ phát sinh. Các báu vật trong nhà phụ thân của Ngài đột nhiên biến mất. Thầy bói tướng xem thì cho rằng: Ngài ra đời rất là « Thiện cát » (tốt lành), các báu vật mất hết đó là biểu hiện giải không, cho nên lại được tên là « Không sinh ». Bảy ngày sau, các báu vật mất đi đều xuất hiện trở lại, do đó lại được tên là « Thiện Hiện ». Tôn giả là người giải không đệ nhất trong hàng đệ tử của Ðức Phật.

Có người hỏi: « Không là gì ? Có cần giải không chăng »? Ðương nhiên cần giải không, nếu không thì không thể thấu hiểu Phật pháp, nói chi đến thành Phật. Lại hỏi: « Không tức nhiên là gì cũng chẳng có, hà tất phải thấu hiểu » ? Tức bởi vì gì cũng chẳng có, nên bạn mới cần minh bạch nó, ai lĩnh ngộ được nghĩa nầy, thì được lợi ích vô cùng.

Hư không là gì? Nó chẳng có hình tướng, cũng vô sở đắc, nếu có sở đắc, thì chẳng gọi là hư không. Khi Ngài Tu Bồ Ðề thấu rõ nghĩa lý chẳng có gì giữ lấy, chẳng có gì xả bỏ, chẳng có gì thọ nhận rồi, liền giác ngộ diệu nghĩa về « không ». Tuy nói trong hư không chẳng có một vật, song vẫn « có vật » ở trong đó, có và không là tương đối, nếu ai có thể đập vụn hư không, thì sẽ rõ Phật tính, thấy nguồn gốc. Cho nên hòa thượng Hư Vân có nói rằng:

« Bôi tử phác lạc điạ,
Hưởng thanh minh lịch lịch,
Hư không phấn toái dã,
Cuồng tâm đương hạ hiết ».

Nghĩa là:

Cái ly rớt xuống đất
Âm thanh chợt phát ra
Hư không bị đập vụn
Tâm cuồng tiêu tan mất.

Hòa thượng Hư Vân ở trong thiền đường Chùa Cao Mân tại Dương Châu, lúc cây hương thứ sáu khai tĩnh (xả thiền), thì vị hộ thất (Người giúp việc trong thiền thất) rót trà cho từng thiền sinh. Chỉ sơ ý một chút, làm rớt ly trà của ngài Hư Vân xuống mặt đất, phát ra tiếng trong trẻo, tức thời làm cho mê mộng trong vô lượng kiếp của Ngài Hư Vân kình tỉnh dậy. Ly trà rớt xuống đất, một âm thanh chợt phát ra, đập vụn hư không, cuồng tâm tiêu tan chấm dứt. (Cuồng tâm tức là tâm phan duyên, phiền não, chấp trước). Cho nên Ðức Phật nói:

« Hết thảy chúng sinh,
Ðều có Phật tánh,
Đều có thể thành Phật,
Chỉ vì vọng tưởng chấp trước,
Mà không thể chứng đắc ».

Trong Kinh Lăng Nghiêm cũng có nói:

« Cuồng tâm đốn hiết, hiết tức Bồ Ðề ».

Nghiã là cuồng tâm tức bồ đề, khi cuồng tâm chẳng còn nữa, thì bồ đề (giác ngộ) sẽ hiển hiện.

Tôn giả Ma Ha Ca Chiên Diên. Ma ha nghĩa là “đại” (lớn), Ca Chiên Diên dịch là “Văn sức”. Tôn giả cũng có những tên khác như « Hảo Kiên », « Phiến Thừng » và « Thắng Tư ». Trong chúng đệ tử của Ðức Phật, Ngài là người luận nghị đệ nhất, biện tài vô ngại. Ngài dùng thiện xảo phương tiện, biện tài thao thao bất tuyệt, triết phục được rất nhiều ngoại đạo đoạn kiến.

Ma Ha Ca Diếp là vị Tổ thứ nhất, được truyền từ Ðức Phật. Ngài hiện nay vẫn còn nhập định ở núi Kê Túc tỉnh Vân NamTrung Quốc, tức chưa vãng sinh, cũng chưa vào Niết Bàn, Ngài đợi Bồ Tát Di Lặc thành Phật, thì trao y bát cho Phật Di Lặc.

« Ca Diếp » dịch là “Ẩm quang”, vì trên thân của Ngài phóng ra ánh sáng vàng tía, che lấp các ánh sáng khác, như ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng, ánh sáng ngôi sao, giống như uống ánh sáng. Thân của Ngài hiện ánh sáng vàng, là vì trong quá khứ Ngài và vợ của Ngài (Tử Kim Quang Tỳ Kheo Ni), cùng nhau tu sửa sơn son thếp vàng tượng Phật Tỳ Bà Thi. Ca Diếp còn dịch là “Ðại quy thị”, vì khi tổ tông của Ngài tu đạo, thì thấy con rùa lớn cõng ở trên lưng một bức họa đồ, do đó mà được tên. Tên của Ngài Ca Diếp còn gọi là “Tì Bát La”, là tên của một thứ cây, vì cha mẹ của Ngài cầu nguyện với cây nầy mà sinh ra Ngài, cho nên lấy tên cây làm tên.

Ngài Ma Ha Ca Diếp đã từng là một vị ngoại đạo lạy thần lửa, cho rằng thần lửa là thần minh cao thượng nhất. Khi Ðức Phật độ xong năm vị Tỳ Kheo rồi, thì biết cơ duyên đã chín mùi, mới đến độ Ngài Ma Ha Ca Diếp, lúc đó Ngài đã 102 tuổi. Khi Ngài hiểu rõ công phu tu hành của mình, chẳng thể sánh được cảnh giới và thần lực của Ðức Phật, tu khổ hạnh, trở thành đầu đà đệ nhất. Hạnh đầu đà có mười hai hạnh, Phật thấy Ngài tuổi đã cao, nên khuyên tôn giả hà tất phải tu khổ như thế, song tôn giả vẫn tiếp tục duy trì tu khổ hạnh. Cho nên Ðức Phật khen ngợi Ngài: Phật pháp của ta trụ lâu đời, có quan hệ rất lớn với sự thực hành hạnh đầu đà của Ca Diếp, ai hay tu khổ hạnh như thế, thì Phật pháp nhất định sẽ trụ lâu nơi đời.

Tôn giả Ma Ha Mục Kiền Liên. Mục Kiền Liên là tiếng Phạn, dịch là “Lai bặc căn”, hoặc “Thải thúc thị”. Tôn giả có đại thần thông, một lần nọ, Ngài vận dụng thần thông đi về hướng đông, qua vô lượng vô biên thế giới, song dù đi xa bao nhiêu cũng chẳng cách chi lường được âm thanh của Phật vang xa bao nhiêu, vì pháp thân của Phật khắp tận cùng hư không, biến pháp giới.

Tôn giả Mục Kiền Liên là một vị đại hiếu tử, khi Ngài chứng được ngũ nhãn lục thông, quả vị A La Hán rồi, bèn quán khắp pháp giới tìm mẹ của Ngài, thấy mẹ ở trong địa ngục làm ngạ quỷ, chịu nhiều thống khổ. Ngài đau đớn muôn phần, lập tức đem một bát cơm đến dâng cho mẹ dùng, mẹ của Ngài dùng một tay che, một tay bốc ăn, vì sợ ngạ quỷ khác thấy đến cướp giựt, ai biết cơm vừa đến miệng, thì hóa thành lửa than, ăn chẳng được, vì nghiệp chướng của bà ta quá nặng. Tôn giả Mục Kiền Liên tuy có đại thần thông, nhưng không thể cứu được mẹ của Ngài, do đó lập tức đi tìm Ðức Phật, để nhờ Phật cứu giúp. Phật nói vì mẹ của Ngài, lúc còn sinh tiền phỉ báng Tam Bảo, khinh khi chư Tăng, lại thích ăn cá, trứng, cho nên đọa làm ngạ quỷ ở trong địa ngục. Nếu muốn cứu vớt mẹ của Ngài, thì phải vào ngày rằm tháng bảy, ngày Phật hoan hỉ, chư Tăng Tự Tứ, thiết lễ Vu Lan Bồn để cúng. Trước khi cúng mười phương chư Phật, Pháp, Tăng, mười phương Tăng chưa dùng trai, thì người khác không được dùng trước, nhờ công đức thanh tịnh của mười phương Tăng, khiến cho mẹ của Ngài thoát khỏi biển khổ.

Phật chế hàng Tỳ Kheo, từ ngày rằm tháng tư đến ngày rằm tháng bảy, kiết hạ an cư ba tháng. Trong mấy tháng nầy mùa hè nóng nực, trời mưa, trên đường đi có nhiều côn trùng, vì dưỡng tâm từ bi thương xót tất cả chúng sinh, nên chư Tăng chẳng đi đâu xa, để tránh khỏi đạp chết những sinh linh nhỏ bé. Ngày mười lăm tháng bảy, là ngày chư Tăng kiết hạ viên mãn, là ngày Tự tứ, cũng là ngày Phật hoan hỉ. Ngày đó chư Tăng cùng nhau xem xét lỗi lầm với nhau, tự nhận lỗi lầm của mình, hoặc thỉnh chư Tăng nói ra lỗi lầm của mình, để sám hối, mọi người cùng nhau sửa đổi làm mới.

Cho nên, Ðức Phật dạy tôn giả Mục Kiền Liên cúng dường chúng Tăng vào ngày nầy. Do đó, mỗi năm vào ngày rằm tháng bảy, mỗi chùa đều thiết lễ pháp hội Vu Lan Bồn, siêu độ cha mẹ bảy đời trong quá khứ, và cha mẹ đời nay đã qua đời. Vu Lan Bồn dịch là “Giải đảo huyền”. Chúng sinh trong địa ngục chịu thống khổ, như bị dây thừng trói treo ngược xuống. Ngày nầy nhờ công đức cúng dường mười phương chư Phật Bồ Tát và hiền Thánh Tăng, các Ngài có thể giải trừ thống khổ trong các đường ác.

Tên của tôn giả Mục Kiền Liên gọi là “Tì Lợi Bát”, là tên cây, vì cha mẹ của tôn giả cầu nguyện nơi cây nầy, mà sinh ra tôn giả, tình hình cũng giống như Ngài Ca Diếp.

Khi Ngài Tu Bồ Ðề và các vị tôn giả khác, nghe Ðức Phật thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì hoan hỉ vui mừng hớn hở, nghe được pháp chưa từng nghe qua, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đây là biểu thị thân nghiệp thanh tịnh. « Sinh tâm hi hữu », biểu thị ý nghiệp thanh tịnh. « Hở bày vai phải », là biểu thị các Ngài buông bỏ pháp tiểu thừa, mà hướng về pháp đại thừa. Nghĩa là khai quyền hiển thật, ngày xưa chưa khai quyền, như vai mặt bị che lấp; nay đã khai quyền, cho nên hở vai phải. « Gối phải đụng đất », đất biểu thị thật pháp, thật trí. « Một lòng chắp tay », quyền thật không hai, quyền pháp tức thật pháp, thật pháp tức quyền pháp, khai quyền hiển thật, vì thật thí quyền. Chắp tay là biểu thị quyền thật không hai, không hai tức là một lòng chẳng phải quyền chẳng phải thật. « Cúi mình cung kính », thân mình chẳng thẳng cũng chẳng cúi, hay thẳng cũng hay cúi. Thẳng là biểu thị thật pháp, cúi là biểu thị quyền pháp. Nay cúi mình cung kính, chiêm ngưỡng dung nhan của đức Thế Tôn, biểu thị các Ngài dùng « quyền » hướng về thật pháp của Phật. « Mà bạch Phật rằng », tức khẩu nghiệp thanh tịnh.

Chúng con đứng đầu trong hàng Tăng chúng, tuổi đã già nua, tự cho mình đã được Niết Bàn, chẳng kham nhiệm gì nữa, chẳng còn cầu mong quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

« Chúng con » là chỉ Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Ðề, Ngài Ma Ha Ca Chiên Diên, Ngài Ma Ha Ca Diếp và Ngài Ma Ha Mục Kiền Liên. Các Ngài đứng đầu trong hàng Tăng chúng, song tại sao các Ngài không tu tập pháp đại thừa để cầu Phật đạo? Vì các ngài xuất gia đã lâu, tuổi hạ cao, những người hậu bối đều lấy các Ngài làm mô phạm, nếu sửa đổi bỏ pháp tiểu thừa để cầu đại thừa, thì sợ người sau quở trách, vì muốn giữ sự tín nhiệm của người khác đối với các Ngài, cho nên chấp trước tiểu thừa mà chẳng cầu pháp đại thừa, chẳng muốn xả bỏ tiểu thừa, đều vì chưa biết khai ba quyền thừa để hiển thật thừa pháp. Ba quyền thừa tức : Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát thừa. Vì chấp nơi tiểu thừa chưa bỏ đi, giữ gìn kiến giải của mình, cho nên không thể khai quyền hiển thật, bỏ quyền về thật, mà gây nên lỗi lầm thứ nhất. Lỗi lầm thứ hai là tự cho rằng tuổi tác đã già nua, có thể tránh trách nhiệm nặng nề hành Bồ Tát đạo rộng độ tất cả chúng sinh. Các Ngài quá xem thường chính mình, chấp trước việc tuổi tác đã cao, chẳng còn làm gì được nữa, cho nên lười tinh tấn, cầu Phật đạo. Lỗi lầm thứ ba là các Ngài tự cho rằng mình đã chứng được Niết Bàn, đây là chưa chứng mà nói chứng. Theo sự trắc lượng của các Ngài cho rằng, hoa sen chẳng sinh nơi đất cao, chỉ lớn lên ở dưới nước, cho nên nói mình đã vào chánh vị vô vị, được Niết Bàn, chẳng còn kham phát tâm bồ đề, cho rằng những gì làm trước kia đều là Bồ Tát đạo, song vì mê thật pháp mà chẳng hiểu nghĩa của nó, chẳng còn mong cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đức Thế Tôn trước kia nói pháp đã lâu, con ngồi tại tòa thân thể cảm thấy mệt mỏi, chỉ nhớ pháp không, vô tướng, vô tác. Nơi pháp Bồ Tát du hí thần thông, thanh tịnh cõi Phật, thành tựu chúng sinh, thì tâm chúng con chẳng vui thích. Tại sao ? Vì đức Thế Tôn khiến cho chúng con ra khỏi ba cõi, chứng được Niết Bàn. Hơn nữa, nay chúng con tuổi đã già nua, chẳng sinh tâm niệm ưa thích nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà đức Phật giáo hóa Bồ Tát.

Bốn vị tôn giả bạch Phật: ỀÐức Thế Tôn ! Trước kia Phật nói pháp thời gian lâu dài, chúng con ngồi lâu, dần dần cảm thấy mỏi mệt giải đãi, vì chỉ nghĩ nhớ pháp tiểu thừa : Không, vô tướng, vô tác. Tức là không vô sở hữu, tức không cần hành Bồ Tát đạo, hoặc tu công đức, cho nên chẳng vui thích pháp Bồ Tát du hí thần thông, giáo hóa thành tựu tất cả chúng sinh, cho đến nghiêm tịnh cõi Phật, cũng chẳng sinh một niệm tâm vui mừng, Ðó là được ít cho là đủ, lỗi giải đãi chẳng tinh tấn. « Vì sao » ? Vì sao chúng con chẳng cầu pháp đại thừa ? Vì Phật từng nói khiến cho chúng con ra khỏi ba cõi, chứng được Niết Bàn, hơn nữa, nay tuổi chúng con đã già sức yếu, cho nên nơi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà Phật mở bày cho Bồ Tát đại thừa, chúng con chẳng sinh tâm ưa thích.

Hôm nay chúng con ở trước đức Phật, nghe thọ ký cho hàng Thanh Văn, sẽ thành Vô hượng chánh đẳng chánh giác, tâm chúng con rất vui mừng được chưa từng có, không ngờ hôm nay hốt nhiên được nghe pháp chưa từng có, rất tự mừng may được lợi lành lớn, vô lượng châu báu, chẳng cầu mà tự được.

Hôm nay chúng con ở trước Phật, được nghe Phật thọ ký cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát sẽ thành Phật, thấy Ngài Xá Lợi Phất được thọ ký, sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, trong tâm chúng con rất vui mừng, vì đây là biểu thị chúng con cũng sẽ được Phật thọ ký. Nay nghe pháp hi hữu Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy, rất tự mừng may được lợi lành lớn, như hốt nhiên được vô lượng châu báu, chẳng cầu mà tự được.

Đức Thế Tôn ! Chúng con hôm nay xin nói ví dụ để làm rõ nghiã đó. Ví như có người tuổi còn nhỏ, bỏ cha trốn đi sang nước khác, ở lâu hoặc mười, hai mươi, cho đến năm mươi năm.

Ðức Thế Tôn ! Hôm nay chúng con xin dùng một ví dụ để làm sáng tỏ nghiã nầy. « Ví như có người », dụ cho người nhị thừa. “Tuổi còn nhỏ” dụ cho người căn lành còn yếu kém, vì không thể thọ pháp đại thừa mà bỏ cha đi xa. « Cha » dụ cho ứng thân của Phật. Trong thời gian lâu dài nơi hai vạn ức vị Phật xuất hiện ra đời, Phật Thích Ca vẫn giáo hóa chúng sinh thành vô thượng đạo, như cha lành đối với tất cả chúng sinh. Song, khi ứng thân của Phật vào Niết Bàn rồi, thì chúng sinh thối tâm bồ đề, cho nên gọi là « trốn đi ». « Sang nước khác ở lâu » : Tức chỉ ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc) và năm dục : Tài, sắc, danh, ăn, ngủ, nghĩa là chúng sinh nhiễm sâu trần lao năm dục, chẳng biết bỏ mê về giác. Ðường cõi trời, là “mười”, đường cõi người là “hai mươi”, “năm mươi năm” dụ cho năm đường chúng sinh: Trời, người, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. A tu la chẳng lập riêng một đường, vì trong năm đường đều có A tu la. Chúng sinh trong ba cõi đều quay lưng với giác ngộ, mà hợp với trần lao, chẳng biết pháp môn tìm cầu giải thoát.

Người đó tuổi tác đã lớn, lại thêm bần cùng khốn khổ, lang thang khắp bốn phương, để tìm cầu cơm ăn áo mặc, lần lần du hành tình cờ trở về bổn quốc.

“Người đó tuổi tác đã lớn”, dụ cho hạt giống đại thừa còn tồn tại, song vì bỏ đại thừa mà tu tập tiểu thừa, thối lùi đã lâu, phước đức từ từ tiêu mất, cho nên gọi là nghèo khổ. « Lại thêm bần cùng khốn khổ »: Tức tám thứ khổ: Sinh, gìa, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh. Chúng sinh trong ba cõi chịu đủ tám thứ khổ, chẳng ra khỏi đặng, cho nên nói là « bần cùng », tám thứ khổ trói buộc như lửa thiêu đốt, nên gọi là « khốn khổ ».

« Lang thang khắp bốn phương »: Tức thiên về thân thọ, tâm, pháp. « Tìm cầu cơm ăn áo mặc »: Chẳng thiên về phải trái, ở giữa cầu chánh đạo cơm ăn và chánh đạo áo mặc. « Lần lần du hành, tình cờ trở về bổn quốc »: Tức chẳng phải như ý muốn, chỉ là sự tình cờ. Ngoại đạo chán khổ cầu đạo, tu các khổ hạnh, tuy là chẳng chánh đáng, cũng được nhân duyên có thể giáo hóa họ. Như Phật mới thành đạo, thì các ngoại đạo đều được độ trước, tức cũng là ý nầy.

Người cha từ trước đến nay, tìm con chẳng được, bèn dừng lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông đó rất giàu có, của cải báu vật vô lượng, nào là : Vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, trân châu .v.v… các kho tàng của cải, thảy đều tràn đầy. Có nhiều tôi tớ, thần tá sử dân, voi ngựa xe cộ, bò dê, nhiều vô số, cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.

Người cha từ trước đến nay, tìm con chẳng được: Dụ cho Phật dùng pháp đại thừa giáo hóa chúng sinh, song chúng sinh bỏ trốn đến nước khác. Phật tìm con chẳng được, nhưng không thể vì một đứa con mà bỏ gia nghiệp, cho nên dừng lại ở tại một thành trong nước đó. Trong tức là giữa cõi thật báo và cõi phương tiện. Phật lúc ban đầu dừng nơi hữu dư Niết Bàn Hóa Thành, tức dừng nơi quyền lý, chẳng muốn nói pháp yếu mà muốn vào Niết Bàn, nhưng vì nhà ông rất giàu có, pháp tài vô lượng (Chỉ Tam tạng mươi hai bộ Kinh các pháp bảo), muốn có người sau nấy kế thừa gia nghiệp của Như Lai, cho nên chẳng vào Niết Bàn. Quyền lý nầy là thật tướng, nên gọi là nhà ông. Ðầy đủ vạn đức, cho nên gọi là rất giàu có.

Vàng bạc bảy báu, và bảo châu như ý, đại đồng tiểu dị, chỉ cần được một hạt châu như ý, thì đồng như được các báu vật khác, đây là biểu thị tiểu thừa ba mươi bảy đạo phẩm, bốn thánh đế, mười hai nhân duyên, và đại thừa lục độ vạn hạnh, các pháp bảo.

Các kho tàng của cải: Tức là vô lượng pháp bảo sở tại. Có nhiều tôi tớ, thần tá sử dân: Dụ cho pháp thiện xảo phương tiện của Phật.

Voi dụ cho nhất tâm tam quán, pháp viên giáo đại thừa. Tam quán nầy đồng tại một lúc, chẳng lìa một mà có, không tức giả, giả tức không, cũng không, cũng giả. Ðây là pháp môn viên giáo sở tu của Bồ Tát, là đốn ngộ mà chẳng phải tiệm tu.

Ngựa, đại biểu thứ đệ tu hành từ từ vào tam quán của đại thừa:
1. Quán không,
2. Quán giả,
3. Quán trung.

Ðây là biệt giáo đại thừa.

Bò dụ cho không, tích, hai quán, là thông giáo các pháp đại thừa.

Dê Dụ cho tích pháp tự hành quán, từ Thanh văn thừa tu, thì có thể vào đại thừa. Khi có Phật tại thế, thì Duyên Giác và Thanh Văn thành một thể.

Vô số tức là chúng sanh tiểu thừa nhiều vô số lượng. Cho vay thâu vào lời lãi: Cho vay là chỉ tâm sinh vạn pháp, thâu vào tức vạn pháp quy về tâm. Lời lãi là giáo hóa chúng sinh được pháp đại thừa, tự thân được lợi ích. Như lợi tức ở ngân hàng, nếu độ được nhiều chúng sinh, thì được nhiều lợi, do đó mà khắp đến nước khác, khắp tam giới. Khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều: Biểu thị quả vị bậc đại, tiểu thừa rất đông nhiều. Nghĩa là các Bồ Tát vào tam giới để cầu pháp lợi, giáo hóa chúng sinh, hoặc Bồ Tát cõi nầy đến cõi khác nghe pháp, hoặc Bồ Tát cõi khác đến cõi nầy nghe kinh, hoặc vì khế cơ mà ứng hoá làm Thanh văn, gọi là ứng và hoá thân. Ví như buôn bán đem thật pháp vào khắp tam giới, giáo hoá lợi ích chúng sinh, sau khi hoàn thành thì trở về pháp thân tức nhập diệt, cho nên cũng gọi là rất đông nhiều.

Bấy giờ, gã cùng tử đi dạo đến các tụ lạc, trải qua các xóm làng, lần hồi đến thành của người cha ở.

Gã cùng tử: Tức là hàng nhị thừa. Ði dạo đến các tụ lạc: Tức đi dạo trong nhà lửa tam giới, chịu các sự khổ, rất nhàm chán mõi mệt, muốn cầu thoát khỏi. Trải qua xóm làng: Tức là lặn lội đường dài, trải qua vô số nước khác, nghiã là quán sát tụ lạc năm uẩn, và cõi nước mười tám giới (sáu căn, sáu trần và sáu thức), từ đây mà vào xóm, tức quán mười hai nhân duyên, nơi nơi cầu chánh trợ cơm áo, do khốn cảnh nầy, mà cảm lòng đại bi của Phật, có được nghĩa tịch diệt, cho nên nói lần hồi đến thành của người cha ở.

Người cha nhớ con, cách biệt con đã hơn năm mươi năm, mà chưa từng nói với ai về việc nầy, chỉ tự suy nghĩ, lòng rất hối tiếc, tự nghĩ mình đã già nua. Có nhiều của cải, vàng bạc châu báu, kho tàng tràn đầy, mà chẳng có con cái. Một khi chết mất, thì của cải sẽ mất đi, chẳng có người giao phó, cho nên rất ân cần luôn nhớ đến con. Lại nghĩ rằng, nếu ta gặp lại con để giao phó của cải, thì sung sướng biết mấy, chẳng còn sầu lo.

Người cha nhớ con: Phật luôn luôn nhớ các Phật tử căn cơ đại thừa, cách biệt con đã hơn năm mươi nămỂ: Đại biểu trời, người, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục, các chúng sinh. Song, ông ta chưa từng nói với ai. Phật thì chẳng nói, vậy các vị Bồ Tát biết việc nầy chăng ? Biết. Song, Phật chẳng nói, mà các Bồ Tát cũng im luôn, vì biết chúng sinh căn cơ đại thừa chưa chín mùi. Tâm Như Lai rất hối tiếc, ban đầu chẳng ân cần giáo hóa pháp lớn, e rằng họ sẽ thối thất bổn tâm, hơn nữa con ngu si đã trốn đi, bỏ giác hợp trần mà trong lòng rất lo lắng.

Tự nghĩ mình đã già nua: Dụ cho Phật ra đời, giáo hóa chúng sinh hoàn mãn rồi, tất cả pháp đại thừa, giàu có đủ pháp tài, thiền định Bát nhã trí đức, mà chẳng có con cái để kế thừa. Một khi báo thân mất đi, thì công đức pháp tài chẳng có ai tiếp nối, cho nên ân cần luôn luôn nhớ đến đứa con thất lạc, nếu có người để giao phó lại của cải pháp tài, thì trong tâm sung sướng biết mấy, chẳng còn sầu lo nữa gì nữa.

Đức Thế Tôn ! Lúc bấy giờ, gã cùng tử làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhà người cha, bèn đứng bên cửa, xa trông thấy người cha ngồi trên giường sư tử, ghế báu đỡ chân. Các vị Bà la môn, Sát đế lợi, cư sĩ thảy, đều cung kính vây quanh. Dùng chuỗi trân châu giá trị ngàn vạn, để trang nghiêm thân, các sử dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che phía trên, các hoa phan thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ hoa quý, các báu vật la liệt, phát ra thâu vào, lấy, cho, có đủ thứ sự, nghiêm sức như thế, uy đức rất tôn kính quý trọng. Gã cùng tử thấy cha có thế lực rất lớn, bèn sinh tâm kinh sợ, hối hận về việc đến chỗ nầy, bèn nghĩ thầm rằng : Ông nầy chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật, chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo, có chỗ cho ta ra sức chăm làm, để kiếm được đồ mặc vật ăn. Nếu ở đây lâu, họ sẽ cưỡng ép sai ta làm, nghĩ như thế rồi, bèn mau bỏ chạy đi.

Ðức Thế Tôn ! Khi người cha già nghĩ nhớ gã cùng tử, thì gã cùng tử làm thuê làm mướn lưu lạc khắp đó đây. Ý nói họ đã bỏ đại thừa, ở trong tam giới chịu các sự thống khổ, cho nên tâm sinh nhàm lìa, mà đi tứ xứ tìm cầu đường thoát ly, từ đó dần dần tích tập căn lành xuất thế, do căn lành nầy mà cảm ứng lòng từ bi của Phật, cho nên cuối cùng về đến nhà người cha : Ðứng ở bên cửa: Gã cùng tử thấy người cha và sự trang nghiêm đẹp đẽ, cho nên chẳng dám ngang nhiên đứng giữa cửa. Ðây là biểu thị người tiểu thừa thiên về không, thiên về giả, mà chẳng đứng nơi trung đạo. Xa trông thấy người cha: Tuy nhiên hiện nay lìa đạo đã xa, còn có thể ở xa trông thấy người cha, ý nói người tiểu thừa còn có căn cơ đại thừa. Ngồi ở trên giường sư tử: Tòa cao rộng lớn nầy, chạm hình con sư tử, dụ cho Phật ngồi toà pháp vương, hiển hiện vạn đức đầy đủ, trang nghiêm viên mãn báo thân pháp thân và hoá thân. Ghế báu gát chân: Biểu thị Phật đầy đủ định huệ.

Các vị Bà La Môn: Là giai cấp cao nhất trong bốn giai cấp của Ấn Ðộ thời xưa, tu hành phạm hạnh, đức hạnh thanh cao, đây dụ cho Ðẳng Giác vị và Bồ Tát Pháp Vân Ðịa trong hội Hoa Nghiêm. Sát đế lợi: Là dòng dõi vua chúa, dụ cho các đại Bồ Tát từ sơ địa đến cửu địa trong hội Hoa Nghiêm. Cư sĩ: Ðại biểu ba mươi tâm Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Những vị Bồ Tát nầy, đều cung kính nhiễu quanh Ðức Phật.

Chuỗi trân châu: Dụ cho cứu kính giới, định thủ Lăng Nghiêm, Nhất thiết chủng trí, pháp âm Ðà la ni bốn trí. Giá trị ngàn vạn để trang nghiêm thân: Dụ cho Phật Pháp vi diệu thâm áo, không thể luận bàn dò lường. Các sử dân tôi tớ: Sử dân là Bồ Tát đã chứng quả, Ềtôi tớ: Bậc tu hành phương tiện Ba la mật, đồng với thật trí.

Tay cầm phất trần trắng: Dụ cho dùng quyền trí. Ðứng hầu hai bên: Bên trái biểu thị nhập vào không khí và quét đi bốn trụ trần :

  1. Ái kiến trần.
    2. Ái dục trần.
    3. Ái sắc trần.
    4. Ái vô sắc trần.Bên phải biểu thị nhập vào giả trí, quét sạch vô tri trần. Hai bên, biểu thị quét không trần và giả trần, đây là trung đạo phương tiện, cho nên nói là hai bên.

Màn báu che phía trên: Dụ cho từ bi chân thật. Các hoa phan thòng xuống: Hoa dụ cho bốn pháp nhiếp:

Bố thí
Ái ngữ
Lợi hành và
Ðồng sự.

Bố thí có ba :

Tài thí,
Pháp thí và
Vô úy thí.

Ái ngữ là nói lời hòa nhã, êm diệu. Lợi hành là hành vi lợi ích kẻ khác. Ðồng sự là thị hiện thân phận đồng với chúng sinh. Phan dụ cho thần thông:
1. Thiên nhãn thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Tha tâm thông.
4. Túc mạng thông.
5. Thần túc thông.
6. Lậu tận thông.

Nước thơm rưới đất: Dụ cho nước pháp (pháp thuỷ) rưới vào tâm địa của các Bồ Tát rửa sạch hoặc trần. Cũng dụ cho nước định rưới tâm tán loạn. Rải các thứ hoa quý : Phong ích, tính bình đẳng và tôn qúy, ý nói Bồ Tát đại thừa như thất tịnh hoa. Hoa biểu hiện cho bốn trí :
Thành sở tác trí.
Diệu quán sát trí.
Bình đẳng tính trí.
Ðại viên cảnh trí.

Thất tịnh hoa:
1- Tam tụ tịnh giới.
2- Thủ Lăng nghiêm đại định.
3- Thật huệ.
4- Ðoạn nhị đế nghi.
5- Hành ư phi đạo thông đạt Phật đạo.
6- Trí đức viên mãn.
7- Ðoạn đức thành tựu.

Người nào muốn đắc được định, thì trước phải giữ giới mới có định và huệ. Cho nên trong sự tu đạo, giới là quan trọng nhất. Giới có năm:
1- Không sát sinh.
2- Không trộm cắp.
3- Không tà dâm.
4- Không nói dối.
5- Không uống rượu.

Có người nói : Sát sinh, trộm cắp có thể giữ được, giới không tà dâm tuy không dễ, song cũng phải giữ, giới nói dối là ác tập nên trừ khử. Song, uống một vài ly rượu thì đâu có vấn đề gì ! Hà tất phải giữ giới rượu ? Bạn nói họ nói như vậy có lý chăng ? Hoàn toàn sai ! Rượu khiến cho con người loạn tâm tính mà gây ra việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm và nói dối. Trong trường hợp nào đó, bạn nói dối mà chẳng biết, còn cho rằng mình chẳng có phạm lỗi.

Tôi nhớ đến một câu chuyện, có một người nọ giữ gìn năm giới, giới rượu đã giữ được hai ba năm. Một ngày nọ, hốt nhiên khởi ý niệm uống rượu, cho rằng uống một vài ly rượu đâu có vấn đề gì. Bắt đầu anh ta chỉ uống một chút, từ từ càng uống càng nhiều, say lúc nào chẳng hay. Hốt nhiên thấy con gà nhà kế bên chạy qua nhà anh ta, cho rằng trời ban cho, bèn bắt gà làm thịt ăn, lát sau có cô gái nhà kế bên chạy qua tìm gà, thì anh ta nói chẳng thấy gà. Thấy cô gái bèn nổi tâm dâm dục, làm ô nhục cô ta. Vì anh ta phạm giới rượu, mà gây ra tội sát sinh, trộm cắp, tà dâm và vọng ngữ. Ðủ thấy giới rượu rất là quan trọng.

Tịnh Hoa thứ hai : Thủ Lăng Nghiêm đại định là đại định tất cả sự cứu kính kiên cố. Chúng ta làm bất cứ việc gì, đều phải triệt để kiên cố, có tâm kiên, thành, hằng, thì mới có đại định, tu đại định thì sau sẽ thành tựu định lực tất cả sự cứu kính kiên cố, tức là đại quả.

Tịnh Hoa thứ ba: Thật huệ, thật huệ nầy ai ai cũng có đủ, chẳng có ai mà không có trí huệ. Song, bây giờ chúng ta chẳng những không hiểu được sự vận dụng mà còn quên đi mất, ngược lại cứ dụng công phu trên trí quyền xảo phương tiện, đó là trí thế gian mà thôi, là hư vọng chẳng thật. Thật trí mới là trí huệ siêu thế gian, hay khiến cho thấy được thật tướng của các pháp.

Tịnh Hoa thứ tư: Ðọan hai đế nghi:

  1. Không đế: Quán tự tính vốn không của các pháp, phá trừ pháp chấp.
    b. Giả đế: Ðây là tác dụng của nhân duyên, hiện tượng y chánh, đồng nơi huyễn hoá, cho nên giả đế là lập pháp. Hai đế nầy thiên về không, hoặc thiên về có, chẳng vào trung đạo, cho nên chẳng phải cứu kính, mà phải đoạn trừ.

Tịnh Hoa thứ năm: Hành ư phi đạo thông đạt Phật đạo. Sở hành phi đạo như là pháp tiểu thừa hoặc như khổ hạnh của ngoại đạo, song cuối cùng vẫn phải trở về với đại thừa, tu pháp đại thừa mới thành tựu Phật đạo.

Tịnh Hoa thứ sáu: Trí đức viên mãn tức là minh tâm kiến tánh.
Tịnh Hoa thứ bảy: Ðoạn đức thành tựu, biểu thị phá sạch vô minh.

Các báu vật la liệt, phát ra thâu vào lấy cho, có đủ thứ sự nghiêm sức như thế: Biểu thị đại thừa diệu pháp. Phát ra tức giáo hóa chúng sinh pháp đại thừa. Thâu vào biểu thị nhiếp thọ người nhị thừa. Uy đức rất tôn kính quý trọngỂ biểu thị vô biên đại uy đức thần lực, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.

Gã cùng tử thấy cha có thế lực lớn: Tức người nhị thừa trí nhỏ đức mỏng, thấy Phật có sức đại trí huệ thần thông, và uy đức thân tướng tốt trang nghiêm, mới khởi tâm kinh sợ hoài nghi: Tướng trang nghiêm vi diệu nầy, trước kia con chưa từng thấy, phải chăng là ma vương? Bèn tỉnh ngộ ăn năn về việc đến chỗ nầy, muốn đi đến xóm nghèo, tu pháp nhị thừa, lấy sự cầu chánh đạo làm vật ăn, ngộ đạo làm đồ mặc. Với trí huệ của ngài Xá Lợi Phất, còn sinh tâm nghi hoặc đối với Phật: Phải chăng đây là ma giả Phật, nhiễu loạn tâm ta ư ? Huống gì là người mới vào đạo? Gã cùng tử chẳng dám ở lại lâu nơi đây, sợ bị ép tu tập pháp đại thừa, mà cất bước chạy nhanh. Chẳng phải là chỗ người tiểu thừa được lợi ích, cho nên nói Chẳng phải chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật, ý nói căn cơ nhỏ không thể tiếp thọ giáo hóa pháp đại thừa,

Tu pháp đại thừa Bồ Tát chẳng dễ gì thực hành, nhậm vận vào sinh tử, du hí nhân gian, tịnh cõi nước Phật, giáo hóa chúng sinh. Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, vào sinh tử mà chẳng sinh tử; tại phàm trần mà xuất phàm trần. Người nhị thừa thì nhàm sợ sinh tử, và sợ rộng học vạn hạnh, bỏ lớn giữ nhỏ, cho nên nơi cửa đại thừa mà bỏ đi mau.

Lúc đó, ông trưởng giả giàu có ngồi trên tòa sư tử, nhìn thấy biết là con mình, trong tâm rất vui mừng, bèn nghĩ : Của cải kho tàng của ta, nay đã có người giao phó. Ta thường nhớ đến đứa con nầy mà chẳng thấy, nay nó bỗng nhiên đến đây, rất vừa ý của ta, ta tuy tuổi già, do vì tham tiếc.

Lúc đó, Phật ngồi trên tòa sư tử, nhìn thấy biết là con mình: Tức là biết những người tiểu thừa, vì quá khứ Phật đã từng giáo hóa chúng sinh pháp đại thừa, cho nên tâm rất vui mừng, kho tàng trí huệ đức hạnh đã có người giao phó, nguyện lực của Phật sẽ viên mãn. Của cải kho tàng: Tức là pháp tài, thiền định và vô lượng pháp môn giải thoát, như : Ba mươi bảy đạo phẩm, sáu độ vạn hạnh, mười hai nhân duyên, bốn diệu đế, các pháp tạng, nay đã có chỗ giao phó.

Tuy nhiên ta thường nghĩ nhớ chúng sinh lưu chuyển trong biển khổ sinh tử, muốn cứu vớt, nhưng vì chúng sinh bỏ Phật trốn đi quá xa, cho nên chẳng thể thấy. Nay nó bỗng nhiên đến đây: Biểu hiện nay họ đã hồi tiểu hướng đại, phát đại bồ đề tâm, rất là vừa ý của ta. Tuy ta tuổi tác đã già nua, sẽ vào Niết Bàn, do vì tham ái thương tiếc. Tức tương lai độ được người nào, thì người đó có căn cơ đại thừa, có thể giao phó pháp lớn cho người đó.

Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại. Lúc đó, kẻ sứ giả chạy mau đến bắt lại, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: Tôi không phạm lỗi gì, sao lại bắt tôi ? Người sứ giả càng nhanh qua bắt, cưỡng dắt đem về. Lúc đó, gã cùng tử tự nghĩ, mình chẳng có tội gì mà bị bắt, chắc chắn phải chết, lại càng sợ hãi, ngất xỉu ngã xuống đất.

Phật liền sai khiến Bồ Tát đuổi gấp theo bắt lại: Dùng đốn giáo pháp đại thừa để giáo hóa người tiểu thừa, muốn khiến cho họ đốn ngộ vô thượng đạo. Chạy mau bắt lạiỂ, đơn đao vào thẳng, kiến tánh thành Phật. Nhiếp hóa chúng sinh, khiến cho họ vào trí huệ của Phật. Người nhị thừa tu tập pháp nhỏ (pháp tiểu thừa), đột nhiên nghe được pháp lớn (pháp đại thừa) nầy, bèn sinh tâm kinh ngạc. Tiểu thừa lấy phiền não làm oán, sinh tử làm khổ. Nếu thường nói với họ phiền não tức bồ đề, thì họ lớn tiếng kêu oan, nếu họ nghe sinh tử tức Niết Bàn, thì họ lớn tiếng kêu thống khổ, tôi vô ý cầu pháp đại thừa, sao lại bức bách tôi. Kẻ sứ giả, càng nhanh qua muốn cho họ tự thức bản tính, người nhị thừa tự nghĩ mình chẳng có tội: Tự bảo chẳng có đại từ bi tu pháp lớn nầy, cho nên chẳng muốn bị pháp lớn ràng buộc. Chúng sinh nghiệp nặng cho nên ở trong ngục sinh tử, Bồ Tát dùng tâm đại từ bi vào ngục cứu vớt. Người tiểu thừa tự bảo chẳng có đại phương tiện mà vào sinh tử, tất sẽ mất đi tam thừa huệ mạng, cho nên nói chắt chắn phải chết: Suy lường như thế lại càng sợ hãi. Người trí nhỏ chẳng hiểu pháp lớn, cho nên nói ngất xỉu. Ngã xuống đất : Tức là đắm chìm ở trong vô minh.

Người cha ở xa trông thấy vậy, bèn nói với sứ giả: Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, hãy lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh lại, đừng nói chi với nó. Tại sao ? Vì người cha biết con mình ý chí hạ liệt, tự biết mình giàu sang, làm cho con khiếp sợ. Biết rõ là con, bèn dùng phương tiện, chẳng nói với người khác đó là con mình. Người sứ giả nói : Nay ta thả ngươi muốn đi đâu tùy ý. Gã cùng tử vui mừng được chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến xóm nghèo, để tìm cầu sự ăn mặc.

Phật thấy người nhị thừa chẳng thọ Bồ Tát giáo hóa, tức chẳng có đại căn cơ, sợ thương hại căn lành của họ, cho nên tùy thuận căn tính của họ mà dạy Bồ Tát dùng pháp phương tiện giáo hóa. ‘’Lấy nước lạnh rưới lên mặt‘’: Nếu ai ngất xỉu ngã xuống đất, thì lấy nước lạnh rưới lên mặt của họ, thì sẽ khiến cho họ tỉnh lại. Ðây là biểu thị dùng pháp thủy bốn diệu đế của hàng Thanh Văn, khiến cho họ tu hành, từ từ sẽ chứng quả. Phật biết người nhị thừa ý chí hạ liệt cầu pháp nhỏ. ‘’Tự biết mình giàu sang‘’: Vì Phật có đại oai đức, ‘’pháp thân‘’: Biến khắp pháp giới, ‘’báo thân‘’ và ‘’ứng thân‘’: Rất thù đặc tôn quý, mà người tiểu thừa chẳng dễ gì tin thọ. Phật quán nhân duyên nầy rồi, biết rõ họ nơi hai vạn ức vị Phật, đã từng phát đạo tâm, thật là con của Phật. ‘’Chẳng nói với người khác‘’: Tức trước kia vì thật mà thí pháp phương tiện quyền xảo, nơi vườn lộc uyển vì năm vị Tỳ Kheo nói pháp bốn diệu đế, cho đến mười hai nhân duyên. Trong các pháp hội A Hàm, Phương Ðẳng, Bát Nhã, Phật chưa từng đề cập đến hàng Thanh Văn Duyên Giác là con của Phật, chỉ có trong hội Pháp Hoa, cơ duyên đã thành thục, vì Xá Lợi Phất thọ ký sẽ thành Phật, mới nói các Ngài là con của Phật.

‘’Nay ta thả ngươi‘’: Tức là biết căn cơ mỏng cạn, tùy ý thích của họ, gã cùng tử vui mừng, chẳng vì pháp lớn ép buộc, cho nên vui mừng. Tạm lưu lại nơi pháp nhỏ có thể được tỉnh ngộ, cho nên nói “từ đất đứng dậy”, lại tu chánh đạo và trợ đạo, như “tìm cầu sự ăn mặc”.

Bấy giờ, ông trưởng giả muốn dẫn dụ con mình, bèn bày phương tiện, bí mật sai hai người hình sắc tìu tụy, chẳng có uy đức, bảo họ đi tìm, và nói với gã cùng tử, ở đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Nếu gã cùng tử chịu, thì dẫn về cho gã làm. Nếu nó có hỏi sai làm gì, thì nói là thuê hốt phân, chúng ta hai người cũng làm chung với ngươi.

“Muốn dẫn dụ con mình: Phật quán căn cơ của họ, mà bày phương tiện pháp môn. Bí mật sai hai người: Phái Bồ Tát hóa làm người Thanh văn thừa để độ hóa, nơi giáo pháp mà nói, tức pháp bốn diệu đế, mười hai nhân duyên. Nếu nơi người mà nói, tức người nhị thừa, tức Thanh Văn và Duyên Giác; nơi lý, tức có làm chân tục hai đế. ỀBí mật sai: Chiếu theo giáo lý tức ẩn thật là bí mật, khai quyền là sai khiến. Mật giáo tức viên giáo, mãn tự giáo, như Kinh Pháp Hoa vậy. Bán tự giáo tức di giáo, như tam tạng và thông giáo. Nơi người mà nói thì bên trong bí ẩn hạnh Bồ Tát là mật, bên ngoài hiện thân Thanh Văn là sai khiến.

Người tiểu thừa chẳng tu tướng tốt, song nói : Khổ, không, vô thường, vô ngã, bất tịnh quán, thiên về không chẳng phải là trung đạo, cho nên nói “hình sắc tìu tụy”. ‘’Chẳng có uy đức‘’ : Tức chẳng đủ mười lực, bốn vô sở úy. Ý nói Bồ Tát đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì hiện thân Thanh Văn, mà vì họ nói pháp để giáo hóa họ. ‘’Ở đây có chỗ làm‘’: Thấy, tu hai lối, tức nhị quả, tam quả La Hán vị. Khổ hạnh của ngoại đạo chỉ phục được hoặc, mà không thể đoạn sạch được hoặc. Hoặc có thể phân ra thô hoặc và tế hoặc. Kiến (thấy), tư (suy nghĩ) hoặc là thô hoặc, trần sa hoặc là tế hoặc, vô minh hoặc có thể đạt đến sắc giới, vô sắc giới, tức tự cho rằng đến được cõi trời, cho rằng là cứu kính. Thật tế thì chưa ra khỏi tam giới, như ở trong nhà lửa. ‘’Trả giá gấp bội‘’: Nếu tu pháp bốn diệu đế và mười hai nhân duyên, thì có thể đoạn vô minh, dứt sinh thoát tử, vượt ra tam giới. ‘’Nếu gã cùng tử chịu‘’: Tức người có căn cơ thì được giáo hóa, nếu chẳng đối cơ thì không thể giáo hóa. ‘’Thuê người hốt phân‘’: Biểu thị khổ, tập, hai đế trong bốn diệu đế, trừ kiến, tư hai hoặc. ‘’Chúng ta hai người, cũng làm chung với ngươi‘’: Biểu thị Bồ Tát thị hiện thân nhị thừa, cũng cùng nhau tu hành tiểu thừa.

Khi đó, hai kẻ sứ giả tìm được gã cùng tử rồi, bèn thuật lại đủ mọi việc như trên. Bấy giờ, gã cùng tử trước hết hỏi lấy giá cả, liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót mà trách.

Lúc đó, Bồ Tát hóa thành người nhị thừa, đến chỗ gã cùng tử (chỗ chúng sinh), quán cơ thí giáo, biết rõ có căn cơ, cho nên nói đã tìm được. Hai người vì họ mà nói việc tiểu thừa, tức hốt phân: Khổ, tập, diệt, đạo. Song, gã cùng tử sợ bị lừa, cho nên trước hết lãnh lấy tiền làm công, sau mới chịu làm thuê, ý nói trước hết phải mộ diệt, sau mới chịu tu đạo. Người cha thấy con, thương sót họ thủ quả tiểu thừa, mà trách họ chẳng cầu Phật đạo.

‘’Trước hết hỏi lấy giá cả‘’: ‘’Giá cả‘’ nầy cũng có thể dụ cho sự giá trị vi diệu của Kinh Pháp Hoa.

Giảng đến đây, hốt nhiên tôi nhớ lại một câu chuyện : Tại Trung Quốc vào đời nhà Tấn, có một vị pháp sư tên là Vân Dực, kiếp trước là một con gà rừng, đời nầy được đầu thai làm người, mà tu hành chánh quả. Tại sao gà rừng được đầu thai làm người ? Vì mỗi lần đại sư Pháp Trí giảng Kinh Pháp Hoa, thì đều thấy có một con gà rừng đến nghe kinh, bảy năm như một ngày. Sau đó, con gà rừng nầy chết đi, thì đêm đó đại sư Pháp Trí mộng thấy một vị đồng tử nói: ‘’Ta là con gà rừng mà hằng ngày đến nghe Ngài thuyết pháp, do sự nghe pháp mà tôi đã đầu thai vào nhà cư sĩ Hoàng, tương lai sẽ xuất gia với đại sư‘’.

Mấy năm sau, cư sĩ họ Hoàng thiết trai cung thỉnh đại sư Pháp Trí, khi đứa bé vừa thấy đại sư đến, thì vui mừng chạy đến nói rằng: ‘’Sư phụ của con đến rồi‘’!

– Ðại sư Pháp Trí nói: ‘’Thì ra ngươi là con gà rừng đó‘’! Họ cởi áo của đứa bé xuống, thì thấy trên thân của đứa bé có ba cái lông chim. Cha của đứa bé thấy vậy, thì cho phép đứa bé lạy đại sư Pháp Trí làm thầy, và xuất gia tu đạo.

Pháp sư Vân Dực chuyên tâm trì tụng Kinh Pháp Hoa và kiến lập một tịnh xá Pháp Hoa, siêng năng tu hành mười năm như một ngày. Một ngày nọ, chợt có một thiếu nữ cầm cành hoa vẫy, và nâng lên một cái giỏ, trong đó có một cái đầu heo trắng và hai củ tỏi, cô ta xin ở lại một đêm. Pháp sư Vân Dực kiên quyết cự tuyệt ở ngoài cửa, nhưng cô ta nhất quyết không đi, pháp sư Vân Dực phải cho cô ta ở trong phòng trên đống cỏ một đêm, vào lúc nửa đêm, cô ta hốt nhiên vừa khóc vừa la, rên rỉ kêu đau bụng, yêu cầu pháp sư vì cô ta mà bắt ma. Pháp sư thấy tình trạng nghiêm trọng, cho nên dùng tích trượng bắt ma ở bụng của cô ta, khiến cho cô ta bình phục.

Sau khi trời sáng, thì thấy cô ta mặc xiêm y màu hoa lục, đằng vân mà đi, hóa thành mây ngũ sắc, đầu heo trắng nhỏ đó đã biến thành con voi trắng, hai củ tỏi thì biến thành hai đóa hoa sen. Một đóa hoa sen con voi ngự lên, còn đóa hoa sen kia thì thấy Bồ Tát Phổ Hiền ngự lên và còn nói: ‘’Mấy ngày nữa, thì ngươi có thể đến pháp hội của ta, cho nên trước hết ta phải đến thử trình độ tu hành của ngươi, quả nhiên không sai, ngươi có thể làm quyến thuộc của ta. ‘’Lúc đó, trong hư không phóng ra luồng quang minh rất cát tường, hoàng đế thấy được luồng quang minh nầy, trong tâm rất hoan hỉ, bèn kiến tạo một ngôi chùa Pháp Hoa rất lớn. Gà rừng nghe Kinh còn có cảm ứng như thế, chúng ta là thân người đừng bỏ qua cơ hội tu học pháp vi diệu thâm sâu nầy.

Vào thời vua Lương Võ Ðế, có một vị Tỳ kheo Ni, tên là Ðạo Ký, biệt hiệu là Tổng Trì, là đệ tử lớn của Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma, ở một mình trong túp lều tranh chuyên tâm trì tụng Kinh Pháp Hoa. Sau khi qua đời, thì tín đồ mai táng ở ngoài túp lều tranh. Bảy tám năm sau, dưới mộ tự nhiên mọc lên một đóa hoa sen xanh. Hoàng đế nghe được tin nầy, bèn sai người đào mộ lên xem thử hoa sen từ đâu mọc lên, thì phát hiện hoa sen nầy mọc ra từ miệng của vị Tỳ kheo Ni đó, thật là chuyện kì lạ ! Do đó, chứng minh tụng trì Kinh Pháp Hoa không thể nghĩ bàn.

Lại có một vị Tỳ Kheo ni tên là Hoa Thủ, mỗi khi vị sư cô nầy tụng một biến Kinh Pháp Hoa, thì trên tay hiện ra một đóa hoa sen. Do đó, hai tay đều mọc đầy hoa sen. Hoàng đế nghe được tin nầy, bèn truyền gọi đến phong cho pháp hiệu là Hoa Thủ.

Nếu có cơ hội nghe được Kinh Pháp Hoa, cho đến một câu kinh một bài kệ, hoặc danh hiệu người trong Kinh Pháp Hoa, thì đều có căn lành lớn, bằng không thì chẳng vào được pháp môn nầy.

Có một vị pháp sư tên là Pháp Vân, khéo diễn giảng Kinh Pháp Hoa, biện tài vô ngại, theo lời phát nguyện mà đến độ hóa tất cả chúng sinh. Lúc đó, có một vị hòa thượng rất kính ngưỡng đức hạnh của vị pháp sư nầy, bèn phát nguyện như vầy : Tôi muốn đời đời kiếp kiếp đều có tướng tốt như vị pháp sư nầy, biện tài vô ngại và sức đại nguyện. Ðêm đó, sau khi vị nầy phát nguyện rồi, thì mộng thấy có người nói với ông ta, đại sư Pháp Vân vào thời Phật Nhiên Ðăng, đã bắt đầu diễn giảng Kinh Pháp Hoa, chẳng phải một sớm một chiều mà thành tựu như thế. Nếu bạn muốn được biện tài vô ngại như ông ta, thì phải hạ thủ công phu một phen. Do đó, có thể biết Kinh Pháp Hoa trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, khó thấy, khó có thể nói pháp môn vi diệu nầy.

Lại một ngày khác, ông ở trong cửa sổ, xa trông thấy con, thân thể ốm gầy tìu tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy chẳng sạch. Ông bèn cởi chuỗi ngọc áo tốt mịn màng, và đồ trang sức, lại mặc đồ thô rách trỉn dơ, bụi bặm lấm thân, tay phải cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ.

‘’Lại‘’ nghĩa là trịnh trọng. ‘’Ngày‘’ là thời gian hoặc trí huệ. ‘’Khác’’ người nhị thừa dùng quyền giáo làm giáo lý của mình, còn thật giáo thì cho rằng giáo lý của kẻ khác. ‘’Ông ở trong cửa sổ‘’: Ý nói Phật chẳng đứng ở cửa giữa mà đứng ở kế bên, nói tóm lại, Phật vì giáo hóa người nhị thừa, mà tạm thời chẳng đứng ở trung đạo, xa trông thấy con bỏ pháp lớn.

‘’Ốm‘’: Chẳng có đại trí huệ. ‘’Gầy‘’: Phước lực chẳng đủ, họ chẳng hiểu rõ đức Phật ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp gieo trồng tướng tốt, cho nên thân thể ốm gầy. ‘’Tiều tụy‘’: Bên trong sợ vô thường, còn bên ngoài gặp năm ấm tám thứ khổ. Bốn trụ trần là phân đất, vô minh phiền não là bụi bặm, có bụi bặm vô tri nầy, và bốn trụ trần ràng buộc, kiến tư hai hoặc chưa dứt, tâm phan duyên không ngừng, cho nên nói dơ dáy chẳng sạch. Người xuất gia tu đạo cẩn thận, không nên mượn tiền người khác, hoặc nghĩ muốn được người khác cúng dường, đó là tâm niệm chẳng trong sạch, là điều dơ dáy chẳng sạch. Nên lấy tông chỉ:

Dù chết lạnh chẳng phan duyên,
Dù đói chết chẳng hóa duyên,
Dù nghèo chết chẳng van nài
Làm bổn phận của người xuất gia.

Bồ Tát Vi Ðà từng phát nguyện rằng: Nếu có ai tu được ba phần đức hạnh, thì có bảy phần cảm ứng. Khi tôi còn trẻ, thì từng gặp người vu khống phỉ báng và hết lương thực mấy ngày, song chưa vì gặp hoàn cảnh khó khăn nầy mà giải đãi tu hành, cho nên được cảm ứng Bồ Tát Vi Ðà, vì tôi giải trừ đủ thứ chướng ngại.

‘’Ông bèn cởi chuỗi ngọc các thứ‘’: Dụ cho báo thân và ứng thân vô lượng công đức của Phật. Phật chẳng muốn gã cùng tử sợ hãi, cho nên ẩn ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp, mà hiện thân tướng Tỳ Kheo già cao một trượng sáu, cho nên nói “cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng và đồ trang sức mà mặc đồ thô rách trỉn dơ”. ‘’Thô‘’, ẩn tàng thân Lô Xá Na ngàn trượng, mà hiện thân cao một trượng sáu. ‘’Rách‘’, tức sinh nhẫn và pháp nhẫn. Người hữu lậu có phiền não, hữu vi nên nói là ‘’bụi bặm lấm thân‘’. Tay phải dụ cho dùng pháp quyền xảo phương tiện giáo hóa hàng nhị thừa. ‘’Ðồ hốt phân‘’: Dụ cho pháp môn đối trị kiến hoặc và tư hoặc, tự dùng pháp nầy đoạn sạch các hoặc, mà được thành Phật đạo, hơn nữa, lại dùng pháp nầy để giáo hóa người, cho nên gọi là cầm.

‘’Bộ dạng đáng nể sợ‘’: Phật vì giáo hóa chúng sinh, nên có khi thị hiện tướng sợ hãi sinh tử.

Hôm nay kể lại chuyện vua Lưu Ly giết dòng họ Thích. Một ngày nọ vua Lưu Ly khởi tâm sân hận muốn giết dòng họ Thích, song chẳng có binh quyền, có một ông quan tên là Hảo Khổ, khuyên vua giết cha đoạt binh quyền, hưng binh đến nước Ca TìLa Vệ, giết hết dòng họ Thích trong bảy ngày đêm. Lúc đó, các vị đệ tử lớn thỉnh Phật cứu, nhưng Phật im lặng chẳng nói, mà đầu của Phật cũng đau ba ngày. Tôn giả Mục Kiền Liên không đành làm ngơ, mới cứu năm trăm người bỏ vào bình bát, mang đến hư không, bảy ngày sau lui binh thì năm trăm người đều biến thành máu. Các vị đệ tử lớn hỏi Phật, vì nguyên nhân gì ? Phật nói: ‘’Trong quá khứ, có một nước nọ tên là Bổ Ngư. Nước đó vì hạn hán đói khác, trong nước đó có một cái hồ lớn, trong hồ có rất nhiều cá. Dân trong nước đói gần chết, mới đến bắt cá trong hồ để ăn. Nước trong hồ cạn dần, trong đó có Ngư vương tên là Bật Ngư, bị bắt lên bờ, cá nhảy vùng vẫy. Có một đứa bé thấy vậy, vì thích chơi nên lấy cây gõ lên đầu cá ba cái. Hiện tại binh mã nước Xá Vệ đến giết dân nước Ca Tì La Vệ, tức là cá ở trong hồ xưa kia vậy, ông quan Hảo Khổ là thuộc hạ của Ngư vương. Nay nhân dân của nước Ca Tì La Vệ bị giết, là nhân dân của nước Bổ Ngư xưa kia. Ðứa bé gõ lên đầu cá ba cái là thân ta vậy. Lúc đó, tuy ta chẳng ăn cá, nay tuy đã thành Phật, vẫn bị quả báo đau đầu, cho nên nói nhân quả chẳng mất vậy‘’. Phật lại nói kệ rằng:

‘’Cho dù trăm ngàn kiếp
Nghiệp tạo ra chẳng mất
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo mình phải chịu’’.

Bảo những người làm: Các ngươi phải siêng làm, chớ nên lười nghỉ ! Vì dùng phương tiện nên được đến gần người con. Lúc sau lại bảo : Này gã nam tử ! Ngươi thường làm ở đây, chớ đi nơi khác nữa, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi. Những đồ cần dùng như : Bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi nan, cũng có kẻ tớ già để sai khiến, nếu cần ta cấp cho. Ngươi nên an lòng, ta như cha của ngươi, chớ có sầu lo. Tại sao ? Vì ta tuổi tác đã già nua, mà ngươi thì trẻ mạnh. Ngươi thường trong lúc làm việc, chẳng có lòng khi dối, lười biếng, nóng giận, than oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó, như các người làm công khác. Từ nay về sau, ngươi như con đẻ của ta. Tức thời, ông trưởng giả bèn đặt tên cho gã cùng tử gọi là con.

Bấy giờ, gã cùng tử tuy mừng gặp được việc như thế, song vẫn còn tự cho mình là khách làm công hèn. Vì vậy nên trong suốt hai mươi năm thường sai hốt phân.

‘’Bảo các người làm công‘’: Tức Phật vì những người tu hành diễn nói pháp bốn niệm xứ :
1. Quán thân bất tịnh.
2. Quán thọ thị khổ.
3. Quán tâm vô thường.
4. Quán pháp vô ngã.

Có rất nhiều người coi thân thể mình rất quan trọng, cuối cùng của báu trong nhà vốn có bị mất sạch, không thể thức tỉnh bổn tính của mình. Thân thể nầy vốn chẳng phải là chân ngã, chỉ có thể nói đây là thân thể của ta, song quyết không thể nói thân thể nầy tức là ta. Nếu ai quá luyến ái tham trước thân thể của mình, thì ngày càng trầm luân đọa lạc, càng thêm ngu si. Nên biết thân như cái phòng, chỉ tạm thời tá túc, chẳng phải chân tính thường trụ, hà tất quá luyến ái không xả bỏ nó đặng !

Tứ niệm xứ.
1. Quán thân bất tịnh : Thân thể là vật dơ dáy nhất, khi còn sống thì chín lỗ thường chảy ra đồ dơ bẩn: Mắt, tai, mũi, đều có ghèn, cứt váy, cức mũi các vật nhơ nhớp, trong miệng thì có nước bọt và đàm, lại thêm tiểu tiện đại tiện, đó là chín lỗ bất tịnh. Thế mà người chẳng những chẳng thấy là bất tịnh, ngược lại còn trang điểm bên ngoài, khiến cho nó hưởng thụ thức ăn ngon, mặc đồ đẹp, mà chẳng biết con người càng tham trước hưởng thụ, thì tự tính càng ô nhiễm. Khi con người phải chết thì chẳng mang theo được thứ gì, chỉ có nghiệp tùy thân. Ai Làm nghiệp thiện nhiều, thì sẽ tái sinh về ba đường lành; còn ai làm ác, thì đọa vào ba đường ác.

Bất cứ người nam người nữ nào đẹp nhất trần gian, sau khi chết thì thân hình đều ghê sợ như nhau, thân thể sình thối rữa nát sinh dòi, cuối cùng thành một đống xương trắng, hoặc thiêu rồi thì thành tro, bạn lại ở đâu ?

Ai là cha con chồng vợ !
Trước mắt cốt nhục đã chẳng thật,
Ân ái trở thành cừu hận.
Phú quý như xuân mộng,
Công danh tợ mây trôi,
Hãy nhớ vô thường,
Chớ đừng chấp trước túi da hôi thối nầy !

2. Quán thọ thị khổ: Ðối trị duyên thọ chấp lạc điên đảo vọng kiến.
3. Quán tâm vô thường: Do huệ lực quán chiếu nầy, khiến cho tâm xa lìa lỗi lầm chấp thường vọng kiến.
4. Quán pháp vô ngã: Vũ trụ vạn pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Thân thể của chúng ta do năm uẩn, bốn đại hợp lại mà thành, một khi bốn đại chẳng điều hòa, năm uẩn ly tán thì thân thể chết mất. Các pháp vốn không, cho nên nói quán pháp vô ngã. Tu bốn niệm xứ, thì có thể đoạn trừ ái mhiễm chấp trước, mà được giới định huệ .

Các người phải siêng làm, chớ nên lười nghỉ”: Dụ cho tu bốn chánh cần, hay phát sinh noãn vị. Ðã sinh điều ác thì khiến cho đoạn diệt, chưa sinh điều ác thì khiến cho đừng sinh. Chưa sinh điều lành thì khiến cho sinh ra, đã sinh điều lành thì khiến cho tăng trưởng, phải luôn luôn thời khắc tu bốn chánh cần, như người dùi cây lấy lửa, phải tiếp tục nỗ lực. Một khi giải đãi thì sự lấy lửa không thành. Cho nên nói bốn chánh cần là noãn vị trong bốn gia hạnh. Bốn gia hạnh tức: Noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất. Tu bốn chánh cần, thì từ từ tiếp cận được với chân như, cho nên nói được đến gần người con. Lúc sau lại bảo: Dụ cho bốn như ý túc. Này là từ kinh tỉnh giác, khiến cho kẻ mê mộng tỉnh giác.

Chánh cần: Thuộc về trí huệ, như người nam là dương tính. Bốn như ý túc thuộc về định, như người nữ là âm tính, đây biểu thị định huệ tương trợ mới có thể sinh trí huệ vô lậu. Người tu đạo vốn không, nên có sự phân biệt nam nữ, đều nên có chí khí đầu đội trời chân đạp đất, siêng tu Phật đạo mới có thể phát dương Phật giáo. Ngươi thường làm ở đâyỂ: Biểu thị đã đạt được đỉnh vị, chớ hướng ngoại truy cầu nữa. Song, phải nhẫn thọ tất cả cảnh giới nghịch, do đó có câu:

Không trải một phen lạnh thấu xương,
Sao được hoa mai thơm ngát mũi.

Chớ đi nơi khác nữa: Tức bảo gã cùng tử chớ theo tà, hoặc tu pháp ngoại đạo vô ích nữa, nên lấy sự chánh niệm tu thân, trừ khử hữu lậu. Sẽ trả thêm giá cho ngươi: Biểu thị được pháp vô lậu, tu chánh đạo như mặc áo, trợ đạo như ăn cơm, phá huỷ kiến tư hai hoặc, sẽ được vô học vị, tức là thế đệ nhất vị.

Những đồ cần dùng: Tức y áo chánh đạo, thức ăn trợ đạo. ‘’Bồn chậu‘’, dụ cho tứ thiền. ‘’Gạo‘’, biểu thị sinh không trí huệ, ‘’Sinh‘’ tức chúng sinh, cũng là người, cho nên cũng có thể gọi là nhân không trí. ‘’Bột‘’ biểu thị pháp không trí. Sinh không trí là thô, còn pháp không trí là tế. Gạo bột cũng có thể dụ cho chánh đạo. Người thế gian nhìn chẳng thấu, chấp người và chấp pháp, cho nên mọi thứ đều buông xả chẳng đặng, mà nơi nơi tự đi tìm phiền não.

Một lần nọ, đức Phật và các đại chúng đi thọ trai chủ cúng dường, đại chúng đều đi đền nhà trai chủ, chỉ để lại một chú tiểu Sa Di trông giữ tịnh xá Cấp Cô Ðộc. Lúc sau, lại có một vị cư sĩ đến chỉ thỉnh được một chú tiểu Sa Si đó đi. Khi chú Sa Di dùng xong bữa cơm, thì trai chủ quỳ xuống thỉnh thuyết pháp. Ai biết vị Sa Di đó chẳng biết thuyết pháp, thấy tình hình như vậy bèn trốn bỏ chạy đi. Vì thời đó ở Ấn Ðộ, người thỉnh pháp biểu thị cung kính, đều phải năm thể sát đất, không thể tuỳ tiện ngước đầu lên nhìn, cho nên chú Sa Di lén trốn đi mất, mà vị trai chủ cứ chờ nghe pháp, rất lâu mà chẳng nghe tiếng nào, mới ngước đầu lên nhìn thì lạ thật ! Người cũng chẳng có, mà pháp cũng không, tức khắc ngộ được “người không, pháp không”, chứng được sơ quả. Ông ta lập tức đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn, để đảnh lễ chú tiểu Sa Di cảm tạ, còn chú Sa Di thì sớm đã vào phòng khóa cửa lại, nghe tiếng gõ cửa tâm càng bối rối; hốt nhiên cũng khai ngộ ! Song, thời đại mạc pháp nấy, muốn khai ngộ chẳng phải là việc dễ dàng.

‘’Muối dấm‘’: Muối dụ cho vô thường, tức tu quán vô thường. “Dấm”, tức quán tất cả là khổ. Vì ăn chánh đạo : Gạo và bột, nếu chẳng có muối dấm các mùi vị, thì chẳng dễ gì nuốt vào; tóm lại, nếu ai muốn tu chánh đạo, cũng phải có nhân duyên tương trợ để trợ đạo. Trợ đạo tức là bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần và tám chánh đạo. Bốn như ý túc còn gọi là bốn thần túc :

  1. Dục như ý túc : Nghĩa là dục vọng gia tăng tu đạo chứng quả.
    2. Niệm như ý túc: Niệm niệm nhất tâm, trụ vào chánh lý, tức dùng tư duy để tu thiền định, ví như tham thoại đầu: ‘’Niệm Phật là ai‘’ ? Hoặc ‘’Bộ mặt thật trước khi cha mẹ sinh ra’’.
    3. Cần như ý túc.
    4. Quán như ý túc.‘’Cũng có kẻ tớ già để sai khiến‘’: Dụ cho như ý quán hay phát thần thông, dùng thay thế chân tay, nhưng thần thông liệt nhược, cho nên nói là già. ‘’Sai khiến‘’ trong như ý quán cũng có pháp nầy trợ giúp cho chánh đạo, tức thành câu giải thoát nhân, cho nên nói nếu cần sẽ cấp cho. ‘’Ngươi nên an lòng‘’: Dụ cho năm lực:
  2. Tín lực: Niềm tin đủ thì chẳng khi dối.
    2. Tinh tấn lực: Tinh tấn nên không giải đãi.
    3. Niệm lực: Niệm niệm trụ nơi chánh lý, cho nên không sân hận.
    4. Ðịnh lực: Có định lực thì không hận.
    5. Huệ lực: Trí huệ đủ thì chẳng sinh oán. Nếu được năm căn thì sẽ bền vững khó hoại, đây là nhẫn vị vậy .

‘’Ta như cha của ngươi‘’: Phật vốn là cha lành của tất cả chúng sinh, song vì chúng sinh mê muội, chẳng biết mình tương lai cũng sẽ thành Phật, cho nên Phật nói chớ sầu lo nữa. ‘’Vì sao‘’: Tại sao‘’? Tuổi tác của ta đã già lớn‘’: Phật đã viên mãn đầy đủ trí đức và đoạn đức, còn hàng Thanh Văn chưa có trí đoạn hai đức, cho nên nói ‘’mà ngươi thì trẻ mạnh‘’. Ngươi thường tu năm lực, bốn chánh cần, bốn như ý túc, cho nên chẳng có khi dối giải đãi, sân hận, than oán các tật sấu, như người làm công khác, tức chẳng tu ngoại đạo các khổ hạnh vô ích. từ nay về sau ngươi giống như con đẻ của ta. ‘’Bèn đặt cho cái tên‘’: Thế đệ nhất vị, tên là ‘’con‘’, tức chuyển phàm thành Thánh. Kinh A Hàm có nói về năm loại con, là tứ quả và Bích Chi Phật.

‘’Bấy giờ, gã cùng tử tuy mừng gặp được việc như thế, song vẫn còn tự cho mình là khách làm công hèn‘’: Lúc nầy, người nhị thừa tuy gặp được pháp duyên đại thừa, nhưng chẳng biết mình có thể sẽ thành Phật để tiếp nối dòng dõi Phật, cho nên nói tự cho mình là khách làm công hèn, song, tu pháp quyền giáo mà ‘’trong hai mươi năm thường sai hốt phân‘’: Hốt phân kiến, tư hai hoặc, đây có thể giải thích là vô ngại giải thoát, trong sự tư duy, vô ngại có chín loại, riêng giải thoát cũng có chín loại, lại thêm vào một kiến đế và một vô ngại, hợp lại thành hai mươi, cho nên nói trong hai mươi năm thường sai hốt phân.

Sau đó, tâm của gã cùng tử tin dần ra vào chẳng ngại sợ, nhưng chỗ gã ở vẫn nguyên chỗ cũ.

‘’Sau đó‘’: Khi người nhị thừa trừ kiến tư hai hoặc rồi; đã tạm tin pháp đại thừa, chẳng khởi nghi hoặc phỉ báng, cho nên nói tâm tin dần dần. Nghe pháp đại thừa gọi là “vào”. Thấy thân Phật cao một trượng sáu nói pháp tiểu thừa gọi là “ra”. Ra vào đại tiểu nầy tuy chẳng nghi nan, song vẫn bảo đại thừa là việc Bồ Tát, chẳng phải trí huệ năng lực của mình sánh kịp, mà chẳng chịu hồi tiểu hướng đại, cho nên gọi là vẫn còn ở chỗ cũ. Tuy Phật có đại bi nguyện lực muốn cứu vớt tất cả tội khổ chúng sinh, chỉ vì chúng sinh tự cam chịu đọa lạc, không chịu thoát ly, cho nên Phật vừa bắt đầu diễn nói Kinh Pháp Hoa, thì có năm ngàn Tỳ kheo rút lui. Do đó, có thể thấy chúng sinh khó độ, mê các trần lao tính điên đảo, cho đến Phật Bồ Tát, cũng cảm thấy khó độ chúng ta chúng sinh đáng thương nầy, đó chẳng phải rất đáng thương xót chăng ?

Ðức Thế Tôn ! Khi đó, ông trưởng giả bị bệnh, biết mình chẳng bao lâu nữa sẽ chết, bảo gã cùng tử nói : Nay ta có nhiều vàng bạc châu báu, kho tàng tràn đầy, trong đó bao nhiêu chỗ đáng lấy cho, ngươi phải biết, tâm ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta. Vì sao ? Nay ta với ngươi chẳng khác biệt, nên gắng dụng tâm đừng để mất đi.

“Ðức Thế Tôn ! Vị trưởng giả đó mắc bệnh, biết mình chẳng bao lâu nữa sẽ chết‘’: Có cơ duyên thì ứng, là sinh; cơ hết là tạ, là chết, nay cơ duyên giáo hóa chúng sinh sắp hết, nên vào Niết Bàn. ‘’Vàng‘’, biểu thị trung đạo. ‘’Bạc‘’, biểu thị chân lý, đủ thứ pháp môn đều là châu báu. ‘’Kho tàng tràn đầy‘’: Dụ cho tất cả thiền định trí huệ, chẳng có thiếu khuyết, trong đầy ngoài tràn. ‘’Trong đó bao nhiêu‘’: Tức Bát nhã quảng, lược hai môn, Bồ Tát hành Bát Nhã, nên biết tướng quảng lược, lược tức là ít, quảng tức là nhiều. ‘’Chỗ đáng lý cho‘’: Tự mình tu hành là ‘’lấy‘’, còn giáo hóa kẻ khác là ‘’cho‘’. Chỗ đáng lý lấy và đáng cho ngươi đều phải biết. ‘’Tâm ta như thế‘’: Phật lấy Bát Nhã làm tâm. Tâm, Phật, chúng sinh cả ba chẳng khác biệt. ‘’Ngươi nên thể theo ý ta‘’: Khiến cho đồng ngã thể pháp không vậy. ‘’Nay ta với ngươi, chẳng có khác biệt‘’: Nay những gì ta có, đều phó thác cho ngươi. Hiện tại ngươi và ta đã không khác, nên gắng dụng tâm chiếu cứ, chớ quên lời nói của cha, đừng làm cho mất đi pháp Bồ Tát đạo.

Khi ấy, gã cùng tử liền thọ nhận lời dạy bảo, biết các của cải vàng bạc châu báu, và các kho tàng, mà chẳng có ý muốn lấy chừng bữa ăn, song chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm hạ liệt vẫn chưa bỏ được.

Lúc đó, hàng nhị thừa lãnh thọ giáo lý đại thừa và trí huệ công đức của Phật, tâm lượng tạm rộng lớn, song vẫn ở tại cảnh giới nhị thừa, chưa bỏ được tâm hạ liệt.

Lại trải qua ít lâu sau, cha biết con ý chí tạm thông thái, thành tựu chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Ðến giờ sắp chết, ông gọi người con đến, và hội cả thân tộc, quốc vương đại thần, Sát đế lợi cư sĩ, khi đã hội đến đông đủ, ông bèn tuyên bố rằng : Các vị nên biết, người nầy là con ta, do ta sinh ra trong thành nọ, bỏ ta trốn đi lang thang, khốn khổ hơn năm mươi năm. Nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành nầy, ôm lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha của nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là con của ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết.

‘’Lại trải qua ít lâu sau‘’: Từ thời A Hàm đến thời Pháp Hoa. Sau khi Phật thành đạo, trước hết nói Kinh Hoa Nghiêm, như mặt trời mọc chiếu vùng cao nguyên, kế đó nói Kinh A Hàm, như mặt trời sau đó chiếu thung lũng, song lúc ấy cũng đều chiếu vùng núi cao. Cho nên Phật ở trong pháp hội Hoa Nghiêm, vì pháp thân Ðại sĩ nói pháp, độ đại Bồ Tát, còn ở thời A Hàm, Phương Ðẳng, thì Bồ Tát cũng đến pháp hội để làm ảnh hưởng chúng. Thời Bát Nhã thì phải hồi tiểu hướng đại, hàng nhị thừa chuyển làm đại thừa, thời nầy Phật muốn đem gia nghiệp phó thác cho đệ tử, song vẫn chưa thật hành, đến hội Pháp Hoa mới chánh thức phó thác cho đệ tử.

‘’Cha biết ý của con tạm thông thái‘’: Dụ cho Phật sau thời Bát Nhã vừa nói Kinh Vô Lượng Nghĩa, thì hàng nhị thừa bèn nghe vốn từ một pháp sinh vô lượng pháp, đều suy tư vô lượng các pháp, lý nên trở về một pháp. Tư duy như thế dần dần thông thái, cho nên được cơ duyên đại thừa phát sinh, do đó nói tự chê tâm ngày trước.

‘’Ðến lúc sắp chết‘’: Ðức Như Lai chẳng còn bao lâu sẽ vào Niết Bàn, hóa duyên đã hết, những người đáng độ đều đã độ xong, cho nên vào Niết Bàn, chính là chỉ thời Pháp Hoa vậy. ‘’Ông gọi người con đến‘’: Tức là hai vạn ức người được Phật giáo hóa, đều vân tập đến. ‘’Thân tộc‘’: Biểu thị pháp thân của Bồ Tát trong mười phương đến pháp hội nầy làm ảnh hưởng chúng. ‘’Quốc vương‘’: tất cả tiệm đốn, Tam Tạng mười hai bộ Kinh, đương cơ đều được lợi ích, mỗi bộ đều khác nhau, đều là đệ nhất. Ðẳng Giác Bồ Tát là ‘’Ðại thần‘’, Thập địa Bồ Tát là ‘’Sát Ðế Lợi‘’, ba mươi tâm Bồ Tát là ‘’cư sĩ ‘’.

Ông trưởng giả ở trong pháp hội nầy, tuyên nói rõ hàng nhị thừa thật là con đẻ của ông, do ông sinh ra, biểu thị gã cùng tử đã được Phật giáo hóa, tạm phát bồ đề tâm. Gã cùng tử nầy xưa kia ở trong thành nọ, bỏ pháp đại thừa mà trốn vào sinh tử, trôi nổi lang thang trải qua sáu nẻo luân hồi khốn khổ, tức một mình nghèo khổ, cho nên nói hơn năm mươi năm. Do đó, Phật ôm lòng lo lắng tìm kiếm, thường tìm cơ duyên để hóa độ. Bỗng ở nơi căn nhà nầy được cảm ứng đạo giao, toại tâm mãn nguyện, dùng pháp quyền xảo phương tiện để độ, truyền trao pháp lớn, phó thác gia nghiệp, cho nên nói: ‘’Nay ta có hết thảy tất cả của cải, đều là con ta có‘’. Của cải tức là đại thừa vạn đức vạn hạnh. ‘’Trước đây của cải cho ra thâu vào con ta đây coi biết‘’: Xưa kia Phật nói pháp tiểu thừa, nay đã quy vào pháp đại thừa, hồi tiểu hướng đại. Tóm lại, hàng nhị thừa đã biết Kinh Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Ðẳng, Bát Nhã, cho đến Pháp Hoa Niết Bàn…

Ðức Thế Tôn ! Khi ấy gã cùng tử nghe cha nói như thế, bèn rất vui mừng, được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng : Ta vốn chẳng có lòng mong cầu, nay kho tàng châu báu nầy, tự nhiên mà đến.

Ðức Thế Tôn ! Khi gã cùng tử được Phật thọ ký vui mừng tin nhận, được điều chưa từng có. Ta vốn chẳng có tâm hành Bồ Tát đạo làm Phật tử, nay sao lại gặp được nhân duyên thù thắng nầy, nghe Phật khai quyền hiển thật, pháp bảo diệu thừa nầy, như kho tàng châu báu tự nhiên mà đến.

Ðức Thế Tôn ! Ông trưởng giả giàu có tức là đức Như Lai, chúng con giống như con của Phật. Ðức Như Lai thường nói chúng con là con.
Ðức Thế Tôn ! Chúng con vì ba sự khổ, nên ở trong sinh tử chịu các sự nhiệt não, mê hoặc vô tri, ưa thích các pháp nhỏ.

Ðức Thế Tôn ! Ông trưởng giả giàu có tức là Ðức Như Lai. Bồ tát là chân tử của Phật, còn hàng nhị thừa tuy đã hành Bồ Tát đạo mà chẳng tự biết, cho nên nói: ‘’Giống như con‘’. Ðức Như Lai xem chúng sinh như con một, chỉ vì chúng sinh xả bỏ pháp lớn thành Phật mà ưa thích pháp nhỏ, mê hoặc vô tri, cho nên ở trong biển khổ sinh tử, ở trong nhà lửa tam giới, chịu sự bức bách nhiệt não của lửa năm uẩn, nhận giặc làm con, bỏ giác hợp trần. Ba khổ:

  1. Thân thể vốn có đủ thứ khổ, gọi là khổ khổ.
    2. Thân thể từ từ suy nhược, gọi là hoại khổ.
    3. Nghiệp vận thiên lưu gọi là hành khổ .Ngày nay đức Thế Tôn khiến cho chúng con, suy nghĩ dọn trừ phân dơ các pháp hí luận. Chúng con ở trong sự siêng gắng tinh tấn, được đến Niết Bàn giá một ngày, đã được đây rồi, tâm rất hoan hỉ, tự cho đã đủ, bèn tự bảo rằng : Ở trong Phật pháp, do siêng năng tinh tấn nên được rộng nhiều, song đức Thế Tôn trước biết chúng con tâm hèn tệ, ưa thích pháp nhỏ, liền khiến cho chúng con buông bỏ, Phật chẳng phân biệt nói chúng con sẽ có phần bảo tàng tri kiến của Như Lai.

    Hôm nay ở trong hội Pháp Hoa, đức Thế Tôn khiến cho chúng con ngộ, biết sở tu tập pháp nhỏ trước kia, đều là các pháp hí luận, cho nên nay muốn trừ khử. Chúng con vì sợ sinh tử vô thường các thứ khổ, mà siêng tinh tấn tu đạo, chỉ vì được giá Niết Bàn một ngày, được chút ít quả vị, thiên chân Niết Bàn bèn tự cho là đủ. Song đức Thế Tôn sớm đã biết chúng con tham trước năm dục thô tệ, ưa thích pháp nhỏ, cho nên chẳng phân biệt diễn nói pháp đại thừa, khiến cho buông bỏ tu tập pháp nhỏ, xả nơi đại thừa giáo hóa, còn tuyên nói chúng con đều có trí huệ công đức bảo tàng tri kiến của Như Lai.

    Ðức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết Bàn một ngày, cho đã được nhiều rồi, đối với pháp đại thừa nầy chẳng có chí cầu. Chúng con lại vì trí huệ của Như Lai, vì các Bồ Tát mở bày diễn nói, mà tự mình chẳng có chí muốn nơi pháp đó. Tại sao ? Vì đức Phật biết chúng con tâm ưa thích pháp nhỏ, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con để nói, mà chúng con chẳng biết thật là con của Phật.

    Ðức Thế Tôn từ bi dùng pháp quyền xảo phương tiện, diễn nói pháp thâm sâu trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật nghe pháp tu hành, được tiểu Niết Bàn, bèn cho đã được đại Niết Bàn, chẳng muốn tấn tu Pháp Hoa viên đốn đại thừa. Ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Ðề cho rằng: Các Ngài hay vì các đại Bồ Tát nói pháp đại Bát nhã, hoàn toàn là trí huệ thần lực của Phật gia bị, mà chẳng biết mình vốn có hạt giống Bồ Tát cũng diễn nói được pháp lớn, cho nên nói chúng con chẳng biết thật là con của Phật.

    Nay chúng con mới biết, đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật, chẳng có lận tiếc. Tại sao ? Vì thuở xưa thật là con của Phật, nhưng lại ưa thích pháp nhỏ. Nếu chúng con có tâm thích pháp lớn, thì Phật sẽ vì chúng con nói pháp đại thừa. Ở trong Kinh nầy chỉ nói nhất thừa, mà xưa kia ở trước các Bồ Tát, Phật chê trách hàng Thanh Văn ưa thích pháp nhỏ, song đức Phật thật dùng đại thừa giáo hóa, cho nên chúng con nói : Vốn chẳng có tâm mong cầu, mà nay châu báu lớn của đấng Pháp Vương tự nhiên đến, như chỗ con của Phật đáng được, đều đã được vậy.

    Hôm nay, chúng con mới biết Phật dùng đại từ bi, vốn muốn giáo hóa chúng sinh pháp đại thừa, chỉ vì chúng sinh căn tính hạ liệt ưa thích pháp nhỏ, cho nên Phật thuận theo căn cơ mà diễn nói quyền pháp. Hiện nay, chúng con đã biết, xưa kia từng thọ Phật giáo hóa, vốn đầy đủ hạt giống đại thừa, cho nên phát tâm ưa thích đại thừa, mà Phật lại vì chúng con khai quyền hiển thật, diễn bày duy nhất một Phật thừa, mà chẳng có thừa nào khác. Thuở xưa, ở trong hội Phương Ðẳng, Bát Nhã, Phật ở trước các vị Bồ Tát, chê trách hàng tiểu thừa là tiêu nhạ bại chủng. Chúng con vốn chẳng có tâm mong cầu Phật pháp, nay ở trong hội nầy, châu báu lớn vô thượng (tất cả Phật pháp) của đấng Pháp Vương (Như Lai) chẳng cầu mà tự đến, như sở đắc pháp của các Bồ Tát, chúng con hôm nay đều đã được. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, ba thừa, hiện nay ở trong pháp hội nầy, đều quy về một Phật thừa, tự nhiên mà được.

    Bấy giờ, Ngài Ma Ha Ca Diếp muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :


Chúng con hôm nay
Nghe tiếng Phật dạy
Vui mừng hớn hở
Ðược chưa từng có.
Phật nói Thanh Văn
Sẽ được thành Phật
Kho báu vô thượng
Chẳng cầu tự được.
Ví như đồng tử
Thơ bé chẳng hiểu
Bỏ cha trốn đi
Xa đến xóm khác.
Lang thang các nước
Hơn năm mươi năm
Người cha buồn nhớ
Tìm khắp bốn phương.
Tìm kiếm mỏi mệt
Ở lại một thành
Tạo lập nhà cửa
Năm dục tự vui.
Nhà đó giàu lớn
Nhiều các vàng bạc
Xa cừ mã não
Trân châu lưu ly.
Voi ngựa trâu dê
Kiệu cán xe cộ
Ruộng vườn tôi tớ
Nhân dân rất đông.
Lợi tức xuất nhập
Khắp đến nước khác
Khách thương buôn bán
Không đâu chẳng có.
Ngàn vạn ức chúng
Vây quanh cung kính
Ðược bậc vua chúa
Thương yêu nhớ tưởng.
Quần thần hào tộc
Cũng đều tôn trọng
Vì bởi duyên ấy
Nhiều người lui tới.
Giàu sang như thế
Có thế lực lớn.

Chúng ta hàng Thanh Văn, hôm nay được Ðức Phật thọ ký, cho nên hoan hỉ hớn hở, được chưa từng có, diệu pháp vô thượng không câu mà tự được. Vì như đồng tử vô tri chẳng hiểu, bỏ cha trốn đi. ‘’Lang thang các nước‘’: Dụ cho luân hồi ở trong nhà lửa tam giới. ‘’Hơn năm mươi năm‘’: Biểu thị năm đường: Trời, người, súc sinh, ngạ quỷ, và địa ngục. A Tu La tức ở trong năm đường nầy.

Người cha buồn nhớ, ‘’tìm khắp bốn phương‘’: Tức quán bốn loài sinh (thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh). ‘’Ở lại một thành‘’: Dụ cho đức Phật ở tại thế giới nầy cứu độ chúng sinh, lại qua nước khác mà thị hiện nhập Niết Bàn. ‘’Tạo lập nhà cửa‘’: Tạo nhà từ bi, lập phòng tính không. ‘’Năm dục tự vui‘’: Thọ dụng thắng diệu năm trần, gọi là tính pháp lạc, lương do Phật cư phương tiện, là thật báo, cũng là tịch quang. Thường tịch quang mới thường hành biến chiếu tất cả các hữu tình, tìm cơ mà độ. ‘’Vua‘’ dụ cho pháp thân của Phật và thân tự thọ dụng. Phật là đấng Pháp Vương cho nên thường được chư Phật hộ niệm. ‘’Quần thần hào tộc‘’: Biểu thị pháp thân Ðại sĩ. ‘’Nhiều người lui tới‘’: Dụ cho mười phương Bồ Tát tới lui nghe pháp.

Mà tuổi già nua
Lại buồn nhớ con.
Sớm tối nghĩ ngợi
Giờ chết sắp đến
Con dại bỏ ta
Hơn năm mươi năm.
Kho tàng của cải
Phải làm sao đây ?

‘’Mà tuổi già nua‘’: Dụ cho Ðức Phật tuổi đã cao, sẽ chấm dứt việc giáo hóa chúng sinh, càng thêm buồn nhớ gã cùng tử, ngày đêm suy nghĩ nhớ đến con, mà con dại tức là hàng nhị thừa, xa cách Phật địa hơn năm mươi bậc, ở trong năm đường, tất cả pháp tài bảo tàng, làm sao để giao phó ?
Ai ai cũng đều có sinh tử, lại sợ nơi sinh tử, song chẳng biết tu tập Phật pháp để ra khỏi sinh tử, thật là đáng thương xót !

Xưa có ba ông già rất tâm đầu ý hợp, nên thường tụ lại với nhau.

Ông già lớn tuổi nhất đã tám mươi tuổi, kế đến là ông già bảy mươi tuổi, còn ông già kia là sáu mươi tuổi. Vào dịp cuối năm thì ba vị nầy tụ lại, khó tránh khỏi cảnh bùi ngùi than thở, thời gian trôi qua chẳng bao giờ trở lại, mà tuổi đã già nua. Vị sáu mươi tuổi nói: ‘’Năm nay chúng ta cùng nhau ăn cơm uống trà, nhưng chẳng biết năm tới ai sẽ ra đi‘’ ! Ông bảy mươi tuổi nghe rồi nói : ‘’Nầy ông bạn ! Bạn nói xa quá ! Tối nay lên giường, chúng ta cởi giày cởi vớ ra, sáng mai không biết có còn mang trở lại hay chăng‘’ ? Ông già tám mươi tuổi nói: ‘’Bạn nói cũng quá xa ! Khi chúng ta thở vào, không biết có thở ra nữa hay không’’ ! Trong ba người nầy, người già nhất là người thông minh nhất, hiểu rõ đời người vô thường mỏng manh nơi hơi thở. Song, người lanh lợi nhất chẳng bằng người tu đạo tức thời niệm Phật, hoặc là bạn hoài nghi ‘’làm như thế thì không chết sao‘’? Không nhất định là không chết. ‘’Vậy niệm Phật có ích gì‘’? Tuy nhiên người tu đạo niệm Phật, không thể tránh khỏi sự chết chóc, nhưng diệu ở chỗ, làm thế nào để chấm dứt sự chết. Lúc chưa tu đạo, thì sinh mạng ở nơi hơi thở, ở trong sự tu đạo chuyên cần dụng công có thành quả rồi, thì hơi thở tự như, đến đi tự do, tuy có sinh tử mà chẳng có sinh tử. Nếu muốn sinh về thế giới Cực Lạc, cho đến tất cả mười phương thế giới đều được toại tâm như ý.

Khi ấy cùng tử
Tìm cầu cơm áo.
Xóm nầy xóm khác
Nước nầy nước nọ
Hoặc có chỗ được
Hoặc có chỗ không.
Ðói khát ốm gầy
Thân sinh ghẻ lát
Lần lược trải qua
Ðến thành cha ở.

Lúc đó, gã cùng tử vì cầu cơm trợ đạo, áo chánh đạo, mà trôi nổi lang thang từ xóm nầy qua xóm khác, từ nước nầy qua nước nọ. Ðây là biểu thị mười hai xứ (mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn, nhiễm trước sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần) và mười tám giới (sáu căn, sáu trần và sáu thức). Mắt thấy sắc, thì nhãn thức bèn khởi phân biệt tốt sấu; tai nghe âm thanh, thì nhĩ thức cũng khởi phân biệt tác dụng, cho đến tĩ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức cũng lại như thế, gặp việc thì phân biệt, đối cảnh thì tâm mê muội.

‘’Hoặc có chỗ được‘’: Biểu thị căn lành hữu lậu. ‘’Hoặc có chỗ không‘’: Biểu thị căn lành vô lậu, tức đã đoạn trừ sinh tử mà vào Niết Bàn. Chân như Niết Bàn vốn vô sở đắc, sinh tử tức Niết Bàn, Niết Bàn tức sinh tử, cho nên gọi là có chỗ không, chẳng có pháp hỉ đại thừa là ‘’đói khác‘’, chẳng có lực dụng là ‘’gầy‘’, chẳng có công đức lớn là ‘’ốm‘’. Mê hoặc về chân lý mà khởi kiến hoặc là ‘’thân sinh ghẻ lát‘’. Kiến hoặc là gì ? Tức là ‘’đối cảnh khởi tham ái‘’, đối cảnh chẳng nhận thức, thường bị cảnh giới lay chuyển. Kiến hoặc là do vô minh khởi lên, nếu không phá trừ vô minh, thì không thể trừ được tham ái chấp trước, khiến cho chúng sinh lưu chuyển, do mắt thấy mà tâm khởi phân biệt tốt, sấu, phải, trái, dài, ngắn, cứ dùng các vọng tưởng, tư tưởng chẳng thật, cho nên có điên đảo, thế mà một số người đều lấy đó làm tâm tính, do đó mà bỏ gốc tìm ngọn, mê nơi bổn tính.

Lần lược làm thuê
Bèn đến nhà cha
Lúc đó trưởng giả
Ðang ở trong nhà.
Giăng màn báu lớn
Ngồi tòa sư tử
Quyến thuộc vây quanh
Nhiều người hầu hạ.
Có người tính toán
Vàng bạc châu báu
Tài sản xuất nhập
Ghi vào sổ sách.
Cùng tử thấy cha
Giàu sang quý trọng
Bảo rằng là vua
Hoặc bằng ông vua.
Kinh hãi tự trách
Sao lại đến đây ?
Lại tự nghĩ rằng :
Nếu ta ở lâu.
Sẽ bị ép buộc
Cưỡng sai ta làm
Suy nghĩ vậy rồi
Bèn bỏ chạy đi.
Hỏi thăm xóm nghèo
Muốn đến làm thuê.

Khi gã cùng tử đi khắp nơi làm thuê làm mướn để nuôi thân, lần hồi đến nhà cha của gã. Kinh văn ở trước nói, người cha đứng bên cửa sổ, chẳng đứng ở cửa giữa, còn đây thì nói ông trưởng giả ở trong nhà, biểu thị được cả hai nơi đại thừa và nhị thừa. Lúc đó, gã cùng tử thấy người cha ở trong màng báu, ngồi ở trên tòa Pháp vương, pháp thân Ðại sĩ và các Bồ Tát đều vây quanh.

‘’Có người tính toán, vàng bạc châu báu‘’: Bồ Tát hạnh nguyện đếm tính nhiều việc rõ ràng, cho nên gọi là tính toán. ‘’Tài sản xuất nhập, ghi chép sổ sách‘’: Dùng quảng, hiển, lược, làm ‘’ghi‘’, thọ quyết là ‘’chép‘’. Bốn hoằng thệ nguyện là ‘’sổ‘’, tu hành là ‘’sách’’. Bốn hoằng thệ nguyện :

  1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
    2. Phiền não vô tân thệ nguyện đoạn.
    3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
    4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.Nếu ai phát được bốn hoằng thệ nguyện nầy, thì đã ghi thành Phật đạo.

Gã cùng tử thấy cha giàu sang cao quý, tôn nghiêm chẳng gì sánh bằng, cho nên bèn nghĩ rằng, đây là vua chăng ? Hoặc là bậc đồng với vua ? Do đó, kinh hãi nghi hoặc tự trách, không nên đến chỗ nầy. Lại nghĩ rằng : Nếu ở đây lâu, thì sợ bị ép tu pháp đại thừa, cho nên không dám ở lại lâu, bèn chạy bỏ đi đến xóm nghèo tu pháp tiểu thừa.

Lúc đó trưởng giả
Tại tòa sư tử.
Xa thấy con mình
Yên lặng nhớ biết
Bèn sai sứ giả
Ðuổi theo bắt lại.
Cùng tử sợ la
Xỉu ngã xuống đất
Người nầy bắt tôi
Chắt sẽ phải chết.
Cũng vì cơm áo
Khiến tôi đến đây
Trưởng giả biết con
Ngu si hèn hạ.
Chẳng tin lời ta
Chẳng tin là cha.

Lúc đó, đức Phật ngự trên tòa sư tử, nhìn xem thì nhận ra gã cùng tử đứng ở xa, song chưa từng nói với ai về việc nầy, bèn ra lệnh cho Bồ Tát theo đuổi bắt lại, mang đến trước Ðức Phật. Nhưng gã cùng tử căn tính hạ liệt, nghe được pháp đại thừa bèn sinh lòng sợ hãi, lại sợ sinh tử, như là trí nhỏ chẳng hiểu giáo lý đại thừa, cho nên nói là “xỉu ngã xuống đất”.

Ông trưởng giả biết con mình ngu độn, kiến thức hẹp nhỏ, tất không tin lời thật nói thẳng, cho nên vì thật thí quyền, khai diễn pháp nhị thừa. Có người nói, đứa con bỏ trốn lúc đó còn nhỏ, mà thời gian xa cách mấy mươi năm, cho đến ngày hôm nay cha con mới gặp lại, lẽ ra thấy mà chẳng biết, thế mà cha lại nhận ra được người con, đó là lý đương nhiên. Ðây là lời chẳng hư, song những gì nói ở trong Kinh Pháp Hoa, chẳng phải cha với con ở thế tục, đây là pháp xuất thế gian. Nói về thế gian, bậc làm cha, tuy rất thương yêu đối với con cái, song vẫn còn có quan niệm nuôi con để nhờ về tuổi già, đó là tâm ích kỷ dù ít hay nhiều. Ðức Phật mới là cha lành chân chánh, chẳng có chút quan niệm nào ích kỷ, thương xót tất cả chúng sinh, đem hết sức lực để giáo hóa tất cả chúng sinh, mong muốn cho họ sớm thành Phật đạo.

‘’Gã cùng tử là ai” ? Tức là tất cả chúng sinh, cũng là hàng nhị thừa. Các Ngài tuy có mắt mà chẳng biết Ðức Phật, ngược lại bỏ Phật ma đi, cuối cùng chìm đắm ở trong biển khổ, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh. Ðến chẳng rõ, mà đi cũng chẳng biết, cầu danh cầu lợi, khổ cầu được bằng tiến sĩ, thạc sĩ, song sau khi chết đi, học vấn cũng chẳng mang theo được, sau khi đầu thai kiếp khác làm người, thì tất cả đều học lại từ đầu, cứ như thế cầu rồi lại mất, mất rồi lại cầu, đời đời kiếp kiếp, bị dính mắc ở trong sự được mất.

Phật giáo chúng ta phải làm thế nào để liễu sinh thoát tử, biết từ đầu đến và đi về đâu ? Ðức Phật còn dùng đủ thứ pháp phương tiện, khiến cho chúng ta ngộ biết nhân duyên đời quá khứ, mà hiểu rõ được vì sao con người có giàu có nghèo, hoặc đẹp hoặc xấu, và thấy được tất cả vạn sự vạn vật.

Vô minh duyên hành,
Hành duyên thức,
Thức duyên sắc,
Danh sắc duyên lục nhập,
Lục nhập duyên xúc,
Xúc duyên thọ,
Thọ duyên ái,
Ái duyên thủ,
Thủ duyên hữu,
Hữu duyên sinh,
Sinh duyên lão tử.

Như vòng tròn mười hai khoen, là nhân duyên sinh tử của chúng sinh, song đáng thương xót cho chúng sinh, đều bỏ cha đi, đều bỏ giác hợp trần, không muốn trở về nhà đó, là cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.

Bèn dùng phương tiện
Sai khiến người khác.
Mắt chột lùn xấu
Chẳng có uy đức
Các ngươi bảo nó
Rằng thuê làm mướn.
Hốt các phân dơ
Trả giá gấp bội
Cùng tử nghe rồi
Vui mừng theo về.
Hốt dọn phân dơ
Làm sạch phòng nhà.

Ông trưởng giả biết gã cùng tử rất hèn hạ, cho nên mới mở bày pháp phương tiện, sai khiến Bồ Tát ngụy trang làm người một mắt, chẳng có uy đức, đi đến để khuyên nói. ‘’Chột mắt‘’ dụ cho tiểu trí thiên về không. ‘’Lùn‘’ dụ cho nguồn bất cùng thật tướng, ‘’sấu‘’ dụ cho chẳng đủ đức hạnh, chẳng có bốn vô sở úy, nên gọi là ‘’chẳng có uy‘’, chẳng có thường lạc ngã tịnh, nên chẳng có đức. ‘’Làm sạch phòng nhà‘’, tức là tịnh nhà lục căn và phòng năm uẩn. Lục căn tức nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý. Lục căn vì lục thức mà tạp nhiễm với sáu trần : Sắc thinh hương vị xúc pháp, bỏ giác hợp trần, nhiễm trước sáu trần, không thể liễu ngộ tự tâm, mà nơi nơi bị trần cảnh sở chuyển. Tịnh sáu căn tức chuyển được thức thành trí, tịnh hóa sáu căn thì trở về nguồn cội, thấy cảnh rõ tâm, chẳng còn bị sáu trần sở chuyển, đồng thời cũng tịnh hóa năm uẩn độ tất cả khổ ách.

Trưởng giả trong cửa
Thường thấy con mình.
Nghĩ con ngu dại
Thích làm việc hèn
Do đó trưởng giả
Mặc đồ cũ rách.
Cầm đồ hốt phân
Ði đến chỗ con
Phương tiện gần gũi
Khuyên nhủ siêng làm.
Trả giá gấp bội
Cho dầu thoa chân
Ăn uống đầy đủ
Nệm chiếu dày ấm.
Khuyên răng như vầy:
Ngươi gắng siêng làm
Lại dùng lời dụ
Ngươi như con ta.

Ông trưởng giả biết con bỏ pháp lớn tu pháp nhỏ, ví như Ðức Phật đầu tiên, vì các đại Bồ Tát diễn nói Kinh Hoa Nghiêm, mà người nhị thừa đều ‘’có mắt chẳng thấy pháp thân Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo pháp viên đốn‘’. Cho nên, Phật dùng sức phương tiện, ẩn lớn hiện nhỏ, chẳng hiện thân tướng tốt ngàn trượng, nhưng hiện tướng là Tỳ kheo một trượng sáu, mặc đồ cũ rách, cầm đồ hốt phân, người đáng dùng thân nhị thừa được độ, thì hiện thân nhị thừa mà vì họ thuyết pháp.

‘’Phương tiện gần gũi‘’: Dùng pháp phương tiện để được gần gũi giáo hóa hàng nhị thừa. ‘’Khuyên nhủ siêng làm‘’: ‘’Khuyên‘’ là biểu thị bốn niệm xứ, ‘’nhủ‘’ là biểu thị bốn chánh cần. ‘’Trả giá gấp bội‘’: Dụ cho bốn như ý túc. Dầu thoa chân, dầu trừ gió, biểu thị thiền định; lại hay đi nước, dụ cho thần thông. ‘’Ăn uống đầy đủ‘’: ‘’Ăn uống‘’ tức là gạo, bột, dấm, muối. ‘’Gạo‘’ biểu thị nhân không, ‘’bột‘’ biểu thị pháp không. Gạo bột hợp lại biểu thị cho chánh đạo. ‘’Dấm‘’ biểu thị cho vô thường, ‘’muối‘’ biểu thị cho khổ không. Ví như người ăn gạo bột, thì phải dùng muối dấm và các vị khác, mới có thể ăn được, con đường tu hành cũng lại như thế. ‘’Nệm chiếu dày ấm‘’: Dụ cho quán luyện huân tu các thiền định. ‘’Khuyên răn như vầy, ngươi gắng siêng làm‘’: Khuyên nhủ siêng tu bốn chánh cần, bốn niệm xứ và bốn như ý túc các pháp, lại dùng lời êm dịu khuyên nhủ, xem gã cùng tử như con đẻ.

Trưởng giả có trí
Lần cho ra vào
Suốt hai mươi năm
Trông coi việc nhà.
Chỉ chỗ vàng bạc
Trân châu lưu ly
Các đồ xuất nhập
Ðều khiến cho biết.
Vẫn ở ngoài cửa
Trong một am tranh
Tự nghĩ phận nghèo
Ta chẳng có gì.

Ðức Phật dùng đại trí huệ, dần dần khiến cho ra vào, tức là giáo hóa tất cả chúng sinh, hồi tiểu hướng đại khiến cho vào trí huệ của Phật. ‘’Suốt hai mươi năm, trông coi việc nhà‘’: Phật dạy Bồ Tát đoạn trừ kiến tư hai hoặc, với kinh văn ở trước nói hai mươi năm hốt phân, đều chẳng giống nhau.

Gã cùng tử tuy trông coi gia nghiệp của Như Lai, được Phật truyền cho pháp tạng, mà tự giữ căn cơ nhỏ nhoi, chẳng có phương tiện giáo hóa chúng sinh, và tịnh hóa quốc độ con đường của Bồ Tát thực hành, ở trong am tranh hàng nhị thừa.

Cha biết tâm con
Lần đã rộng lớn
Muốn giao của cải
Bèn nhóm thân tộc.
Quốc vương đại thần
Sát lợi cư sĩ
Trong đại chúng nầy
Nói là con ta.
Bỏ ta ra đi
Suốt năm mươi năm
Từ khi gặp con
Ðã hai mươi năm.
Xưa nơi thành nọ
Mất đứa con nầy
Tìm kiếm khắp nơi
Mới đến nơi đây.
Của cải ta có
Nhà cửa nhân dân
Ðều giao cho nó
Ðể nó sử dụng.

Ðức Phật biết gã cùng tử dần dần trừ ngã mạn, tâm lượng rộng lớn, cho nên muốn truyền cho pháp tạng của Như Lai, bèn nhóm họp thân tộc, quốc vương đại thần, biểu thị chúng đại Bồ Tát, Sát đế lợi cư sĩ, ở trong các chúng hội, tuyên bố đây là con của ta, từng bỏ ta trốn đi. ‘’Suốt năm mươi năm‘’: Biểu thị trầm luân biển khổ sinh tử ở trong tam giới, ở trong năm đường chúng sinh. ‘’Từ khi gặp con, đã hai mươi năm‘’: Biểu thị người nhị thừa bỏ tiểu hướng đại, tự làm hốt phân rồi mới gọi là con, tức là chuyển sang pháp Bồ Tát mà chấp tác gia nghiệp của Như Lai, gọi là hai mươi năm.

Xưa kia, ở tại thành nọ mất đứa con nầy, tìm kiếm đứa con nầy khắp trong năm đường, mới đến ở nơi nầy, mà bày ra hóa thành, phàm những gì ta có, gia nghiệp pháp tạng của Như Lai, đều giao phó cho nó, để cho nó tiếp tục thắp lên ngọn đèn sáng của Phật.

Con nhớ xưa nghèo
Ý chí kém hèn
Nay ở chỗ cha
Ðược nhiều của báu.
Cùng với nhà cửa
Tất cả của cải
Rất đỗi vui mừng
Ðược chưa từng có.
Phật cũng như thế
Biết con thích nhỏ
Chưa từng nói ra
Các ngươi thành Phật.
Chỉ nói chúng con
Ðược pháp vô lậu
Thành tựu tiểu thừa
Thanh Văn đệ tử.

Hàng tiểu thừa ý chí hạ liệt, thủ lợi tứ quả, nay nghe được diệu pháp thâm sâu vô thượng, thọ ký sẽ thành Phật, được chưa từng có, vui mừng hớn hở. Phật biết tâm ý của chúng con, ưa thích pháp nhỏ, chưa từng nói các ngươi sẽ thành Phật, mà nói được các pháp trí giải thoát vô lậu, thành tựu hữu dư Niết Bàn, quả vị Thanh Văn La Hán.

Phật bảo chúng con
Nói đạo tối thượng
Ai tu pháp nầy
Sẽ được thành Phật.
Con nghe Phật dạy
Vì đại Bồ Tát
Dùng các nhân duyên
Đủ thứ ví dụ.
Bao nhiêu lời lẽ
Nói đạo vô thượng
Hết thảy Phật tử
Theo ta nghe pháp.
Ngày đêm suy gẫm
Tinh tấn tu tập
Khi đó chư Phật
Thọ ký cho họ.
Ông ở đời sau
Sẽ được thành Phật
Các pháp bí tàng
Của tất cả Phật.
Chỉ vì Bồ Tát
Diễn nói việc thật
Mà chẳng vì con
Nói đạo chân yếu.

Phật vì đại chúng nói pháp vô thượng, ai tu tập pháp nầy đều sẽ thành tựu Phật quả. Con nghe Phật dạy Bồ Tát, Phật dùng đủ thứ phương tiện ví dụ để giáo hóa, khiến cho chúng con tu chứng, và trong thời gian đó, chư Phật đồng âm ấn chứng thọ ký bồ đề nói rằng: Các ngươi vô lượng kiếp đời vị lai sẽ được thành Phật. Tàng bí mật của tất cả mười chư Phật Như Lai, chỉ vì căn cơ của đại Bồ Tát, diễn nói việc vi diệu như thật, mà chẳng phải vì hàng nhị thừa nói đạo chân thật chí yếu nầy.

Như cùng tử kia
Được gần người cha
Tuy biết mọi thứ
Tâm chẳng mong cầu.
Chúng con tuy nói
Bảo tàng Phật pháp
Tự chẳng chí nguyện
Cũng lại như thế.

Gã cùng tử được gần gũi Ðức Phật, nghe pháp đại thừa, song nơi pháp chẳng tu hành, dừng nơi nhị thừa, dù có bảo tàng Phật pháp trước mắt, cũng không đắc được tơ hào pháp ích. Như nay gã cùng tử dần dần hiểu rõ pháp đại thừa, thâm nhập tạng pháp của Phật.

Chúng con nội diệt
Tự cho là đủ
Chỉ rõ việc nầy
Chẳng biết việc khác.
Nếu chúng con nghe
Tịnh cõi nước Phật
Giáo hóa chúng sinh
Đều chẳng vui thích.
Đó là tại sao ?
Vì tất cả pháp
Thảy đều không tịch
Không sinh không diệt.
Không lớn không nhỏ
Vô lậu vô vi
Suy gẫm như thế
Chẳng sinh vui thích.
Chúng con từ lâu
Nơi trí huệ Phật
Không tham không chấp
Chẳng có chí nguyện.
Nơi pháp của mình
Cho là cứu kính
Chúng con từ lâu
Tu tập pháp không.
Thoát được hoạn nạn
Khổ não ba cõi
Ở thân cuối cùng
Hữu dư Niết Bàn.
Pháp Phật giáo hóa
Đắc đạo chẳng sai
Tức đã báo đáp
Ân đức của Phật.

Ðại Ca Diếp bạch Phật rằng: ‘’Chúng con nội diệt‘’: Ðã diệt tư hoặc, tự cho đã đủ. Thường ở trong định diệt trừ phiền não, phá trừ vô minh. Ngừng nơi trí nhỏ mà chẳng ưa thích trí lớn, tịnh cõi nước Phật, hồi tiểu hướng đại và việc giáo hóa chúng sinh. Vì sao hàng nhị thừa chẳng tu tập pháp lớn ? Vì họ chấp nơi pháp không, tự cho rằng mình đắc được các pháp không tịch, thì không cần giáo hóa chúng sinh, đây là hành vi ích kỷ, chỉ biết lợi mình mà chẳng biết lợi kẻ khác. Tất cả các pháp, tính tuy là không tịch, vẫn cứu độ chúng sinh. Sự thật thì chư Phật và chúng sinh hợp hai làm một, Phật tức chúng sinh, chúng sinh tức Phật. Hàng nhị thừa ngừng ở nơi hóa thành, ví như những người nầy, trước khi chưa xuất gia thì tinh tấn tu đạo; sau khi xuất gia rồi, dần dần thối bồ đề tâm, và còn thường biện hộ cho mình: ‘’Tôi đã thọ giới cụ túc, chẳng tu hành cũng chẳng quan hệ gì, mao bệnh chẳng cần lo, giải đãi lại có ngại gì’’ ? Ðây là hành vi của hàng nhị thừa, được ít cho là đủ, tức chẳng lợi mình cũng chẳng lợi kẻ khác.

Chúng con ở trong mê mờ, đêm dài tối tăm, chỉ biết vui nhỏ, sợ khổ cầu không, phá trừ vô minh phiền não, thoát khỏi ba cõi, trụ nơi hữu dư Niết Bàn, cho là cứu kính, vì báo ân Phật, song nơi trí huệ của Phật, chẳng biết trên cầu Phật quả, dưới độ chúng sinh, chỉ cầu sự vui thích của riêng mình, các vị phải thấy rõ, vì sao Ðức Phật thường trách hành nhị thừa tiêu nhạ bại chủng, chẳng hành Phật đạo.

Chúng con tuy là
Các hàng Phật tử
Nói pháp Bồ Tát
Ðể cầu Phật đạo.
Mà nơi pháp đó
Tâm chẳng ưa thích
Ðạo sư thấy bỏ
Vì thấy tâm con.
Ban đầu chẳng siêng
Nói có lợi thật
Như trưởng giả giàu
Biết con chí hèn.
Dùng sức phương tiện
Hòa phục tâm con
Sau đó mới giao
Tất cả của cải.
Phật cũng như thế
Hiện việc ít có
Biết thích tiểu thừa
Dùng sức phương tiện.
Ðiều phục tâm con
Mới dạy trí lớn.

Chúng con tuy là đệ tử của Phật, ở trong hội Bát Nhã, mong Phật gia bị, vì Bồ Tát nói kinh đại thừa, song đối với pháp lớn, chẳng có một tâm niệm ưa thích, Ðức Như Lai thấy vậy, bèn tạm bỏ pháp lớn, chỉ nói tu tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, thì có thể chứng tứ quả La Hán, chẳng cổ lệ chúng con tu lục độ vạn hạnh, đạo Bồ Tát, mới có thể thành quả vị Phật, vì Phật thấy tâm của chúng con chẳng mong cầu pháp lớn vậy.

Phật dùng sức phương tiện, thị hiện làm một vị Tỳ Kheo bình thường để độ hàng nhị thừa, bày pháp quyền xảo phương tiện, để điều phục tâm của họ, rồi sau mới khiến cho họ vào trí huệ của Phật.

Chúng con hôm nay
Ðược chưa từng có.
Chẳng phải trước mong
Mà nay tự được
Như gã cùng tử
Ðược vô lượng báu.
Thế Tôn con nay
Ðắc đạo chứng quả
Nơi pháp vô lậu
Ðược mắt thanh tịnh.
Chúng con từ lâu
Giữ giới trong sạch
Mới ngày hôm nay
Ðược quả báo đó.
Pháp của Pháp Vương
Lâu tu phạm hạnh
Nay được vô lậu
Ðại quả vô thượng.
Chúng con hôm nay
Thật là Thanh Văn
Dùng tiếng Phật đạo
Khiến thảy đều nghe.
Chúng con hôm nay
Thật là La Hán
Nơi các thế gian
Trời người ma Phạm.
Khắp trong chúng đó
Ðáng thọ cúng dường.

Chúng con may mắn được truyền thọ mật ý, chỗ xưa kia chưa có, chẳng phải bổn tâm trước kia mong muốn, mà ngày hôm nay được Phật khai thị, tự nhiên mà được, thanh tịnh Phật nhãn mà khai tri kiến của Phật. ‘’Ðắc đạo‘’ tức là được đạo thật tướng. Ðắc quả tức là đắc Vô thượng bồ đề đại thừa Thánh quả. Pháp vô lậu trung đạo bất lậu hai bên .

Chúng con xưa kia lâu dài ở nơi vô minh, tu trì giới hạnh thanh tịnh của Như Lai, hôm nay mới được nghe Ðức Phật khai quyền hiển thật, chúng con nghe pháp của Phật như vầy, ngộ biết quả báo thành Phật chân thật. Tóm lại, giữ gìn giới thanh tịnh mới thành chân thật nhân duyên, cho nên được diệu báo. Phạm hạnh là thành chân thật liễu nhân, cho nên được diệu quả. Sở tri sở kiến tức là chánh nhân lý tính pháp thân đức vậy.

Thật là Thanh Văn, thật là A La Hán, xưa kia chúng con nghe tiếng nhập đạo, tên tiểu thừa Thanh Văn, nay là đại thừa Thanh Văn A La Hán. Viên mãn sơ trụ vị, một phần chân, tất cả phần chân, tức là phân chứng thập giới tam đức, song đó là khai quyền hiển thật, cho nên gọi là Thanh Văn A La Hán. Ở trong tam giới, chư thiên loài người ma vương Phạm vương, ở trong khắp đại chúng trời người, vì tu trí huệ của Như Lai, đều đáng thọ nhận sự cung kính cúng dường.

Thân làm người xuất gia, không được vì lợi dưỡng, mà tùy tiện tiếp thọ sự cúng dường của thí chủ, phải biết nếu như ba tâm chưa đoạn, thì một giọt nước cũng khó tiêu. Trong kinh có nói: ‘’Tam tâm bất khả đắc‘’. Tam tâm là tâm quá khứ bất kả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc. Quá khứ, đã thành quá khứ, cho nên bất khả đắc. Tâm hiện tại, trong sát na thành ra quá khứ, vô thường. Vị lai thì chưa đến, cho nên nói là bất khả đắc.

Người xuất gia nếu ba tâm chưa thấu rõ, mà thiếp thọ sự cúng dường của thí chủ, đừng nói đến cơm ăn khó tiêu, dù chỉ một ly nước sạch cũng khó tiêu. Khi ăn thì quán tưởng ngũ quán. Người chân tu thì dù thép cũng tiêu hóa được. Ngũ quán là:

  1. Kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ: Nghĩa là tính xem công đức của mình nhiều hay ít, thức ăn đó từ đâu đến.
    2. Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng: Nghĩa là xem đức hạnh của mình đủ hay thiếu, có đáng thọ lãnh sự cúng dường chăng !
    3. Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông: Nghĩa là phòng ngừa tâm tạo tội lỗi, tham lam là gốc.
    4. Chánh sự lương dược, vi liệu hình khô: Nghĩa là thức ăn như thuốc hay, chữa trị sự khô héo.
    5. Vi thành đạo nghiệp, ưng thọ thử thực: Vì thành đạo nghiệp mới thọ thức ăn nầy.‘’Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông‘’: Biểu thị bất cứ là thức ăn ngon dở, chẳng phân biệt, không tham trước, một luật bình đẳng đều thọ dụng. ‘’Chánh sự lương dược, vi liệu hình khô‘’: Vì trừ tham dục cho nên quán tưởng thức ăn như uống thuốc để thân thể nầy khỏi khô gầy.

    Ân lớn Thế Tôn
    Là việc ít có.
    Thương xót giáo hóa
    Lợi ích chúng sinh
    Vô lượng ức kiếp
    Ai báo đáp được.
    Tay chân cung cấp
    Cuối đầu đảnh lễ
    Cúng dường tất cả
    Ðều chẳng báo được.
    Nếu dùng đầu đội
    Hai vai mang vác
    Trải Hằng sa kiếp
    Hết lòng cung kính.
    Lại dùng vật ngon
    Vô lượng y báu
    Và các ngọa cụ
    Ðủ thứ thuốc thang.
    Ngưu đầu chiên đàn
    Và các châu báu
    Tạo lập chùa tháp
    Y báu trải đất.
    Những việc như thế
    Ðem cúng dường Phật
    Trải Hằng sa kiếp
    Cũng chẳng báo được.
    Chư Phật ít có
    Vô lượng vô biên
    Không thể nghĩ bàn
    Sức đại thần thông.
    Vô lậu vô vi
    Vua của các pháp
    Hay vì hạ liệt
    Nhẫn nơi việc đó.
    Hiện tướng phàm phu
    Tùy họ mà nói
    Phật nơi các pháp
    Ðược tự tại nhất.
    Biết các chúng sinh
    Ðủ thứ ưa muốn
    Và những chí lực
    Tùy sự kham thọ.
    Dùng vô lượng dụ
    Vì họ nói pháp
    Tùy các chúng sinh
    Căn lành đời trước.
    Biết đã thành thục
    Hoặc chưa thành thục
    Ðủ thứ suy lường
    Phân biệt biết rõ.
    Nơi đạo nhất thừa
    Tùy nghi nói ra.
    Phật dùng đại từ bi, thí đại ân đức, cứu vớt sáu nẻo tội khổ chúng sinh, khiến cho các Ngài, trước hết tu tứ Diệu đế, được quả vui lìa biển khổ, kế tiếp phổ độ mười pháp giới chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, nhập vào tứ hoằng thệ nguyện, đó là ân lớn của Như Lai.Vô lượng kiếp đến nay, Phật đều hành Bồ Tát đạo, từng giáo hóa chúng con pháp đại thừa, tuy tạm thời không thể tự cứu tự độ, song chí nguyện chưa mất. Nay được nghe lục đô vạn hạnh pháp Bồ Tát, đức hạnh tự lợi lợi tha, mới là chánh nhân thành Phật. Như việc ít có nầy, chúng con làm sao báo được ân đức lớn của Phật?

Nhà lửa ba cõi, đủ thứ khổ thiêu đốt bức bách, Phật hiện ra đời phổ độ chúng sinh, lợi ích quần sinh, khiến cho chúng con có chỗ về nương tựa.

Sau khi Phật thành đạo, đáng thọ sự vui tịch diệt vô vi, song vì thương xót chúng sinh, chẳng sợ sinh tử, vào đời ác năm trược nầy để cứu độ, dùng pháp quyền xảo phương tiện dạy năm giới, mười điều lành, rưới nước lạnh vào mặt, khiến cho tỉnh ngộ, trừ khử đi tham dục.

Phật dùng tâm đại bi, muốn cho chúng sinh sớm thành Phật đạo, mà diễn nói Kinh Hoa Nghiêm, song chúng sinh căn cơ còn nông cạn, cơ duyên chưa chín mùi, chưa hiểu pháp lớn, vì lẽ đó cho nên Phật ẩn lớn hiện nhỏ, hiện tướng Tỳ Kheo cao một trượng sáu, mới được gần gũi chúng sinh, xem căn cơ của họ mà tuỳ nghi hoá độ. Phương tiện gần gũi, với giá một ngày, đây là Phật trợ giúp chúng sinh đoạn trừ kiến hoặc.

Hàng nhị thừa trừ kiến, tư, hai hoặc rồi, thì dần dần tâm thể tương ưng với Phật, cho nên Phật quở trách, khiến cho họ hổ thẹn pháp nhỏ mà hâm mộ pháp lớn, đây là Phật khiến cho họ trông coi gia nhiệp của Như Lai, vàng bạc kho tàng đều phải biết hết, đây là ân trang nghiêm do Phật ban tặng. Như vậy rồi, Phật thấy cơ duyên thành thục, bèn nhóm họp thân tộc, ở trong chúng hội, tuyên nói họ là con của Phật, và giao phó cho gia nghiệp, chẳng cầu mà tự được, nghĩa là hàng nhị thừa tương lai cũng sẽ thành Phật, ngồi ở trên tòa báu Pháp vương, đây là Như Lai ban tặng tòa ân vậy.

Ngồi trên Phật tòa, thân ý thơ thới, khoái lạc yên ổn, dùng tiếng Phật đạo khiến cho tất cả chúng sinh được nghe, rộng khắp trong trời người, đáng thọ nhận sự cúng dường, khiến cho chúng con đầy đủ ân đức tự lợi lợi tha, đó là thâm ân do Phật ban tặng cho, dù chúng con dùng chân tay cung cấp, cuối đầu đảnh lễ cung kính, cho đến đầu đội hoặc hai vai mang vác, cũng không thể báo đáp được ân đức của Phật.

Ngưu đầu chiên đàn, trong Kinh Hoa Nghiêm nói, lìa khỏi núi cấu, nếu dùng để đốt thân, lửa không thể cháy.

Vô lượng thần thông việc không thể nghĩ bàn của Phật, vô lậu vô vi, vua của các pháp, vì dùng từ bi, hay vì kẻ căn cơ hạ liệt hèn kém, nhẫn nại điều hoà, tùy theo loài đáng giáo hóa mà hiện tướng phàm phu. Phẩm tính của chúng sinh hèn kém, song Phật dùng đại trí huệ biết được căn tính của họ thành thục, lại dùng đại bi trải qua ngàn kiếp, chẳng từ khổ nhọc cứu vớt tất cả tội khổ chúng sinh.

Ðời người như một tuồng hí kịch, đời nầy đóng vai cha, đời sau đóng vai con. Cha con, con cha, quan hệ như thế, nên đời đời tiếp nối không ngừng, hoặc chẳng làm con với cha, mà làm thân tộc bạn bè .v.v. Tóm lại, đời người ở trên sân khấu, ai ai cũng đều đóng vai của mình, vỡ kịch chấm dứt thì người lìa tan, lại đi diễn vỡ tuồng khác, cứ như thế mà trải qua vô lượng kiếp đến nay chúng sinh đều diễn kịch, luân hồi trong sáu nẻo. Chúng ta hãy sớm tỉnh giác, biết đường mê mà quay về !

Phật khéo dùng pháp môn đốn tiệm, nhậm vận tự tại, giáo hóa chúng sinh, tùy theo các căn cơ hạnh nghiệp của mỗi loài đáng giáo hóa, thì hiển thị phân biệt nói pháp tối hy hữu nhất, nơi một Phật thừa đạo vô thượng, mà phương tiện tùy nghi nói làm ba thừa.