THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH SỚ

Hán dịch: Đời Đường, Sa-môn Khuy Cơ, chùa Đại Từ ân.

PHẨM 3: THANH VĂN

Từ đây trở xuống gồm hai phẩm là nói về quyền riêng biệt khi xưa. Quyền xưa có hai:

  1. Quyền hóa Thanh văn.
  2. Quyền hóa Bồ-tát.

Quyền xảo hiện bệnh, mong người đến thăm, làm việc độ sinh, Phật bảo Thanh văn đến an ủi Đại sĩ, đều từ chối không nhận, xưa đã bị khuất phục dưới bậc cao nhân, nay luận việc ấy, nên gọi là phẩm Thanh Văn.

Xưa ghi phẩm Đệ Tử. Vì hình đồng với tướng Phật nên chỉ gọi tên ấy. Phật biết hàng Thanh văn không phải là đối thủ của cư sĩ, nhưng để hiển cao đức của cư sĩ, nên mới sai bảo và muốn khiến cho hàng Nhị thừa có chỗ lấy bỏ.

Kinh: [Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… đến thăm bệnh.]

Tán: Phẩm này gồm hai: Đầu tiên dùng phương tiện khéo léo, tâm nghĩ mong cầu Phật thương xót, sau nói về bậc Đại Thánh Từ bi hỏi riêng từng người bảo đến thăm bệnh.

Đây là đoạn văn thứ nhất. Tẩm là ngủ, đốn tức là mệt mỏi. Thị hiện bệnh nặng để chiêu gọi người đến thăm.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… thương xót ông ấy.

Tán: Từ đây trở xuống là phần nói bậc Đại Thánh thương xót sai người đến thăm bệnh. Văn gồm có ba:

  1. Nêu lên ý nghĩa bảo đến thăm bệnh.
  2. Bảo mười vị cao đức, đều từ chối chẳng nhận.
  3. Kết luận Thanh văn đều từ chối chẳng kham.

Đây là văn đầu. Mười vị đại Thanh văn lược phân làm năm đôi. Trong thân tâm vắng lặng, bên ngoài hiển lời lẽ, chỉ cứu kẻ bần khổ, Từ bi bình đẳng bố thí, chỉ dạy kẻ sơ cơ, chỉ dạy chỗ học trước, tùy nói thần thông hơn hết, khiến sám hối trừ tội lỗi, tán thán pháp xuất gia, theo phép tắc thông thường khuất thực dâng cúng Thế Tôn.

Tùy theo chỗ đáp mà khất phục, mỗi người liền im lặng không lời. Dấu đạo chẳng đồng, quyền cơ liền khác. Do đó mười vị Thánh đều khuất phục, dùng năm đôi để phân biệt.

Kinh: Phật bảo Xá-lợi Tử… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Từ đây trở xuống là sai bảo mười vị Cao đức, đều từ chối chẳng kham nhận. Văn đều có hai:

  1. Sai bảo.
  2. Từ chối.

Đây là lời sai bảo.

Kinh: Xá-lợi Tử… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Từ chối. Theo văn gồm có ba:

  1. Nêu tổng quát về việc đạo đã chịu khuất.
  2. Hiển riêng về việc lý đã cùng tận.
  3. Tổng kết nguyên do từ chối, tự thân xin thoái lui.

Đây và đoạn đầu. Thu Tử tuy thâm tâm đã vắng lặng, nhưng chẳng thể bỏ hình nơi ba cõi. Xa lìa nơi xao động mà vào chỗ vắng vẻ, chẳng thể tức tịch mà dụng, nhân đó mà bị khuất phục. Cho nên đáp chẳng kham nhận.

Kinh: Vì sao?

Tán: Sau đây là nêu lên lý đã cùng tận. Theo văn gồm có hai:

1.Tự hỏi.

2. Hiểu rõ.

Đây là lời tự hỏi.

Kinh: [Con nhớ khi xưa… yên tọa nơi gốc cậy.]

Tán: Hiển lý cùng. Gồm hai: Đầu tiên nêu lên việc của mình, sau là nêu lời của ngài Vô Cấu. Đây là văn đầu tiên. Yến tức là an. Khi nhập diệt tận định, vì có sáu thức hữu lậu khởi ắt có suy nghĩ, chán ghét hoạn lụy, nay làm cho chẳng hành, thức thứ bảy đã vô lậu cho nên chỉ nói sáu. Nếu căn cứ theo Nhị thừa, thì nhập định phi tưởng ở giai vị tâm vô lậu, khiến tâm tâm sở dần dần nhỏ nhiệm, khi tâm nhỏ nhiệm thì huân tập thành chủng tử, khiến cho dụng của sáu thức chẳng hiện hành, tức nói dụng này là diệt tận định, căn cứ theo chủng tử mà lập, như biệt chương đã nói. Hoặc cho rằng yên tọa là nhập vô tưởng định, thân tâm vắng lặng, chẳng phải là diệt định.

Kinh: Bấy giờ, Cư sĩ Vô Cấu Xưng… nói rằng.

Tán: Nêu lên lời của cư sĩ. Theo văn có hai: Đầu tiên nêu phép tắc đến thăm hỏi, sau chính thức thuật. Đây là văn đầu tiên. Ngài Vô Cấu tuy danh đức cao tột nhưng hình thì thuận thế tục. Hàng Thanh văn sống nơi đạo thì giai vị thấp, nhưng tướng mạo giống Như Lai, cho nên tùy loại mà hóa độ quần sinh, người đến nên theo nghi tắc mà kính lễ. Ngài La-thập lời thì khuất Dao chúa, cảnh thì nhiễm trần tục, vào tục thì làm người khách của trưởng giả, vào tăng thì đắp pháp phục Sa-di, chẳng thể khuất phục, để bậc cao đức hạ thấp lễ hàng Tăng lữ. Cho nên lược bỏ oai nghi của người đến mà không ghi lời kính lễ. Căn cứ theo bản Phạm thì có lời này.

Kinh: Thưa ngài Xá-lợi-phất… là yên tọa.

Tán: Chính thức nêu lên lời của cư sĩ. Gồm ba:

  1. Phản bác chung.
  2. Phản bác riêng.
  3. Kết luận.

Đây là đoạn một. “Duy” là lời kính vâng. Yên nghĩa là vắng lặng. Diệt định của Nhị thừa là ngừng dứt tâm suy nghĩ, tuyệt duyên tưởng nơi cảnh, thân ở yên nơi núi rừng gọi là yên tọa. Đây chẳng phải là định vắng lặng của Đại thừa cho nên bài bác chung; chẳng phải hoàn toàn bài bác cho nên nói bất tất.

Kinh: Phàm yên tọa… mới là yên tọa.

Tán: Đây là phần bài bác riêng. Gồm có sáu lý: Lý thứ nhất chẳng phải. Phàm yên tọa, nêu chữ yên thì Ứng Lý Nghĩa trong Du-già Nghĩa chỉ ghi: “Về pháp môn thì có bốn:

  1. Nhân duyên.
  2. Duy thức.
  3. Vô tướng.
  4. Chân như.

Ba môn sau, theo lý có thể hiểu, còn pháp môn nhân duyên thật khó biết.” Từ đây trở xuống chỉ là căn cứ theo pháp môn nhân duyên mà giải thích, còn ba môn khác có thể dễ biết, cho nên chẳng cần phải nói nhiều. Hàng Thanh văn yên tọa chẳng hiển hiện tâm nơi ba cõi, mà lại chẳng quên thân hữu lậu. Còn Như Lai nhập diệt định thì thân hữu lậu cũng diệt, vì thế xả bỏ sắc vô thường mà đạt được sắc thường, thọ tưởng hành thức cũng như thế. Nhập diệt định như thế gọi là chân yên tọa. Người mới học chỉ diệt tâm mà thân chưa quên, chẳng phải là chân tịch định. Nửa chấp nhận nửa bài bác cho nên nói bất tất. Nghĩa lý không trong trung luận và Bách luận nói rằng: “Nhị thừa chẳng được sắc tâm đều không, cho nên ẩn thân nơi núi rừng, diệt tâm nơi định, tuy muốn ẩn náo, trái lại hiển hiện, đạo sĩ biết sắc tâm tức không, vị tất phải yên tịch”. Chẳng hiện thân tâm nơi ba cõi gọi là yên tọa.

Kinh: Chẳng khởi diệt định… mới là yên tọa.

Tán: Đây là điều thứ hai bài bác về không. Lý Không Nghĩa ghi: “Nhị thừa có chỗ thấy cục hạn, tịch và dụng phân hai, cho nên ngừng dứt dụng để vào tịch gọi là yên tọa, bậc đại sĩ thông suốt, ngay nơi tịch khởi dụng, cho nên có thể diệt thân tâm nơi tịch định mà khởi diệu dụng ở oai nghi”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Nhị thừa vào tịch, trí gia hạnh yếu kém, tịch thân tâm mà không thể khởi động tác; dụng thì chẳng tịch, tịch thì chẳng dụng. Còn Bồ-tát vào tịch thì trí phương tiện mạnh mẽ, trước kích phát bản thức mà khởi oai nghi, hiển diệu dụng lợi sinh, sau đó sáu thức mới vào diệt định, bên ngoài hiện thân ngữ, thoạt như có tâm, trong lìa phan duyên thật đã vào tịch, tức tịch mà dụng, gọi là chân yên tọa.

Kinh: Chẳng xả tất cả… mới là yên tọa.

Tán: Đây là điều thứ ba bài bác về lý. Yên tọa nói ở đây chưa hẳn là diệt định. Không Lý Nghĩa ghi: “Hàng Nhị thừa chẳng thể tức tịnh mà cấu, cho nên dứt cấu mà vào tịnh gọi đó là yên tọa. Bậc đại sĩ thì thiện ác như nhau, cho nên chân tục nhất quán”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Nhị thừa vị thấp kém, trí dụng khác nhau, quán chân trí hiện tiền thì dụng tục liền dứt. Khởi tục trí để dụng thì chân trí chẳng hành. Bồ-tát dùng phương tiện tu tập lâu ngày trí dụng hòa hợp, cho nên bên trong thì yên chân cảnh, bên ngoài thì hiện pháp dị sinh, tướng chứng đắc là lý chân như”. Pháp dị sinh tức là phiền não. Sau Địa thứ năm thì chánh trí chứng chân, hậu trí khởi tục. Địa thứ tám trở lên thì hai quán tự tại, cho nên bên trong dứt phan duyên, ngoài hiện pháp phàm, gọi là yên tọa. Bản dịch xưa ghi: “Chẳng bỏ đạo pháp” với “tướng chứng đắc bên trong”, thì văn khác mà ý đồng.

Kinh: Tâm chẳng trụ bên trong… mới là yên tọa.

Tán: Đây là thứ tư bài bác về lý. Không Lý Nghĩa ghi: “Hàng Nhị thừa quán tâm tánh thì có, nên trong trụ sáu căn, ngoài duyên theo sáu cảnh, vì muốn đoạn dứt việc này nên nhập diệt định. Bồ-tát biết tâm tánh chẳng có, đạt được tâm cảnh đều không, gọi là dứt tâm phân biệt, cho nên chẳng trụ trong ngoài, gọi là chân yên tọa”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Nhị thừa quán cảnh”, chẳng vượt khỏi trong và ngoài. Trong là sáu căn, ngoài là sáu cảnh, tổng cộng thành mười hai xứ, gồm nhiếp tất cả pháp, tâm duyên các pháp này có thể chán ghét hoạn lụy, cho đến tận giai vị, đó gọi là nhập định. Bồ-tát vào tịch chỉ quán chân lý vô tưởng mà nhập, chẳng duyên trong ngoài mà thành diệt tâm, gọi đó là chân yên tọa. Cho nên các giáo nói rằng “nương vào giới tướng vô tướng mà nhập diệt định”. Lại nói: “Trụ chân không, ngừng dứt phan duyên, chẳng theo trong ngoài, lìa tướng an lập, gọi là yên tọa.” Kinh: Trụ ba mươi bảy phẩm… gọi là yên tọa.

Tán: Đây là thứ năm bài bác về lý. Ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần là chánh nhân để chứng giác, cho nên nói là phần pháp. Không Lý Nghĩa ghi: “Hàng Nhị thừa chẳng thể tức tà mà chánh, cho nên bỏ tà vào chánh, gọi là yên tọa. Bồ-tát tức tà mà chánh, cho nên trụ ở giác phần, chẳng lìa kiến thú, gọi đó là chân yên tọa” Ứng Lý Nghĩa ghi:

“Kiến thú tức Tát-ca-da kiến, biên chấp kiến, kiến thủ, giới thủ, tà kiến, ý cảnh của năm kiến này gọi là kiến thú, hoặc cho rằng là chỗ quy thú của năm kiến, tức là năm thú như ngoại đạo… Nhị thừa trụ ở giác phần chẳng thể chuyển hóa ác kiến thú của các ngoại đạo, cho nên gọi là lìa. Bồ-tát bên trong trụ ở pháp phần, bên ngoài thì giáo hóa các tà đạo, cho nên gọi là chẳng lìa, tức chân yên tọa. Bản xưa ghi: “Đối với các kiến chẳng động, mà tu ba mươi bảy phẩm”. Nghĩa này chẳng phải, đâu thể gọi là chân diệt?

Kinh: Chẳng bỏ sinh tử… gọi là yên tọa.

Tán: Đây là thứ sáu bác bỏ về lý. Không Lý Nghĩa ghi: “Nhị thừa không thể tức phược mà giải, cho nên đoạn phược (trói buộc), bỏ sinh tử; chứng Niết-bàn có chỗ trụ”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Bồ-tát tuy đồng phàm phu chẳng bỏ sinh tử, vì có đại trí, nhưng chẳng đồng vì không có phiền não; tuy đồng Nhị thừa chứng Niết-bàn vì có đại bi, mà cũng chẳng đồng là do vô sở trụ. Nhị thừa chẳng như thế, nếu xả bỏ sinh tử, thì đoạn phiền não. Nếu chứng Niết-bàn thì trụ nơi ấy. Cho nên Bồ-tát gọi là chân nhập tịch. Bản dịch xưa ghi: “Chẳng đoạn phiền não mà nhập Niết-bàn “, nay nói không phiền não thì lý rất trái ngược, cũng có thể nói lưu giữ hoặc, không đoạn phiền não, chứng vô trụ xứ, gọi là nhập Niết-bàn.

Kinh: Nếu có thể như thế… chư Phật ấn khả.

Tán: Đây là tổng kết sự bài bác. Nếu có các đức như trước đã nêu mà yên tọa thì khế hợp với chánh lý, được Phật ấn khả, vì đầy đủ các hạnh. Nếu như không các việc đã nêu ở trước mà nhập định thì không được chư Phật ấn khả vì đó là hạnh Tiểu thừa.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ… không đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đây là đoạn thứ ba, kết thúc lời đáp, tự biết kém sút xin rút lui.

Kinh: Lúc bấy giờ, Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy

Tán: Văn có hai: Đầu tiên sai bảo. Phạm, Ma-ha Một-đặc-già-la, Hán dịch là Đại thái thục thi, thục là đậu, thị tức là họ. Từ thời xa xưa có một vị Tiên thường ăn đậu xanh, vì đây là hậu duệ của vị tiên này cho nên có tên là Đại thái thục thị. Về nhân do của ngài cùng với Xálợi-phất và Ca-diếp thì đã nói trong quyển thượng Di-lặc Thượng Sinh Kinh Sớ.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Mục-liên… đến đó thăm bệnh.

Tán: Đây là phần từ chối chẳng kham nhận. Văn gồm có ba: Đầu tiên tổng quát về đạo đã chịu khuất phục, kế đến là hiển riêng về lời đã tận; sau cùng là kết luận nguyên do từ chối, tự thân thấy kém mà xin thoái lui. Đoạn này là nói về đạo đã khuất phục Mục-liên bên ngoài hiển ngôn ngữ lý lẽ mà chẳng khế hợp với bên trong quên lời, tuy nói ngã không mà chẳng thể luận pháp chẳng có, nhân đây mà bị khuất phục. Vì thế mà đáp chẳng kham.

Kinh: Vì sao?… diễn thuyết pháp yếu.

Tán: Từ đây trở xuống là hiển lý cùng, theo văn gồm có hai: Đầu tiên tự hỏi, sau đó là hiển bày. Trong phần hiển bày lại có hai, đầu tiên là nêu việc của mình, sau là thuật lại lời của Vô Cấu. Đây là lời tự hỏi. Cú tức là đường, “tứ cù đạo” tức ngã tư đường. Bản dịch xưa ghi: “Thôn xóm”.

Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nên như pháp mà thuyết.

Tán: Chính thức thuật lại lời của ngài Vô Cấu, theo văn gồm có bốn:

  1. Tổng bài bác.
  2. Phản vấn cật.
  3. Bài bác riêng.
  4. Lợi ích.

Tức câu “tám trăm cư sĩ phát tâm Bồ-đề”. Bản dịch xưa chỉ có ba, không có phần phản cật này. Chẳng đúng như Tôn giả đã nói, nghĩa là đạo lý thuyết pháp của Tôn giả là không đúng, không khế hợp, nói không khế lý gọi là bất đáng (không đúng). Không Lý Nghĩa ghi: “Pháp lý vốn không, Thanh văn nói có, cho nên chẳng đúng”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Pháp không có hai ngã, vì tánh lìa ngôn thuyết, kia nói pháp có, vẫn chưa lìa ngôn, cho nên nói chẳng đúng. Phàm thuyết pháp thì nên như pháp mà thuyết”.

Kinh: Bấy giờ, con liền hỏi rằng… thế nào gọi là như pháp mà thuyết.

Tán: Đây là lời phản vấn.

Kinh: Ông ấy liền đáp… mé trước mé sau.

Tán: Phản bác riêng. Gồm có hai: Đầu tiên hiển đạo lý nhị vô ngã, sau từ câu “Phàm người thuyết pháp…” là nói về đạo lý thuyết pháp. Trong ý đầu lại có hai, đầu tiên nói về vô ngã, sau kết luận vô ngã, tức là câu “Tưởng các pháp như thế, há có thể nói được sao?” Trong ý nói về vô ngã lại có hai, đầu tiên nói về chúng sinh vô ngã, sau nói về pháp vô ngã. Đây là nói về chúng sinh vô ngã. Năm uẩn trong ba đời vốn không có ngã; vô ngã mà chấp ngã, thì ngã càng cấu nhiễm, ô uế bản tánh. Các pháp quá khứ vốn không có tình, chấp là có tình, như bụi dơ nhiễm; các pháp hiện tại, vốn không có mạng giả, chấp có mạng thì càng tăng thêm sinh tử. Thọ mạng đang sinh tồn gọi là mạng giả, chấp cái này thật có tức chấp có thật sinh tử, hoặc là chấp cái ấy hiện có sinh có tử, cho nên có mạng giả. Nay lìa sinh tử, cho nên không có mạng giả. Các pháp vị lai, không có số thủ thú (chủ thể của sinh tử), chấp có hiện tại thì mé trước mạng căn đã đoạn, sinh vào sáu đường ở mé sau; đoạn nghĩa là không vô. Đã không có mé trước mé sau chân thật thì đâu có số thủ thú chân thật. Bốn vô ngã này cũng đồng với bốn vô ngã trong luận Bát-nhã và chương Như Lai Tạng trong kinh Thắng Man. không Lý Nghĩa ghi: “Thế tục đế hữu có bốn loại, Thắng nghĩa đế không làm gì có bốn, cho nên nói Thắng nghĩa nên nói bốn Không”. Ứng Lý Không ghi: “Trong thế tục đế thì bốn cũng không thật, theo Thắng nghĩa đế thì Y tha và Viên thành cũng không có thật bốn, nên y theo Thắng nghĩa phải nói bốn không; hàng Thanh văn thuyết pháp, chẳng nêu bốn hữu. Nay luận chung về các pháp tánh lìa nhân lìa pháp, cho nên nói bốn không.

Bản dịch xưa lầm lẫn, theo bản mới có thể biết được.

Kinh: Pháp thường tịch nhiên… vì không có sở duyên.

Tán: Từ đây trở xuống là nói pháp không, gồm hai mươi câu. Không Lý Nghĩa ghi: “Nếu căn cứ theo thế tục đế thì pháp tánh có thể là có, nhưng căn cứ theo Thắng nghĩa đế, thì pháp tánh đều không; nhưng vì phá các chấp trước sai biệt, cho nên đặc biệt nêu lên. Có thể dùng câu dưới để giải thích câu trên. Tục có tướng nên chẳng tịch chân vô tướng cho nên tịch nhiên, đây là cảnh không. Tục có duyên nên tham trước, chân không duyên cho nên lìa tham, đây là năng duyên không. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Trong hai mươi câu phân làm hai, mười câu đầu hiển lý chân như lìa chấp không, mười câu sau hiển tánh y tha lìa chấp không. Hoặc cho rằng hai mươi câu đều nói về chân như. Chân như tịch nhiên, vì bặt mười tướng. Chân như lìa tham, vì không có tâm phân biệt sở duyên. Bản xưa ghi: “Pháp lìa tướng”, tướng tức tướng tham, thì cũng không ngại. Đầu tiên lìa tướng sở duyên, sau lìa tướng năng duyên. Tham tức là chấp trước, tâm năng duyên. Vì cảnh không, cho nên tâm cũng không.

Kinh: Pháp không có văn tự, vì lìa sóng suy nghĩ.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Tục thì có ngôn ngữ cho nên có văn tự, chân đã đoạn ngôn ngữ nên không có văn tự. Tục có suy nghĩ, như sóng nước khởi, cho nên có dụ thuyết, chân đế lìa suy nghĩ cho nên không có dụ thuyết”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Chân như thì ngôn ngữ đoạn cho nên không có văn tự, chân như lìa sóng suy nghĩ tục đế, nên không có dụ thuyết”. Bản dịch xưa ghi: “Pháp không có ngôn thuyết vì lìa giác quán”, sóng suy nghĩ tức là giác quán.

Kinh: Pháp cùng khắp tất cả… vì lìa tất cả việc làm.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Tục chẳng như không, tánh chẳng cùng khắp, chân lý tánh không, cho nên cùng khắp; tục có hành động co duỗi… cho nên có hiển sắc, cũng có biểu tướng, có hình sắc; chân thì không có các hành động co duổi… thì đâu có hiển tướng và hình sắc? Ứng Lý Nghĩa ghi: “Chân như như hư không, tánh không ngăn ngại, cho nên cùng khắp tất cả, cũng không có các hành động co duỗi… cho nên không hiển hiện tướng và hình sắc… tướng tức biểu sắc. Bản dịch xưa, hai văn hơi khác nhau, đầu tiên nói như hư không không hình tướng có thể cùng khắp tất cả, sau là rốt ráo không nói không hý luận. Hý luận tức là hiển tướng hình sắc. Rốt ráo không tức là không có các hành… Kinh: Pháp vô sở hữu… lìa tâm thức.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Tục chấp có ngã sở cho nên pháp có ngã sở. Chân không chấp sở hữu cho nên pháp không có ngã sở. Tục có tâm thức pháp thành đối tượng để biết. Chân không có tâm thức thì pháp chẳng thành đối tượng để biết”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Chân như không có ngã, vì lìa ngã sở”, cho nên các luận ghi: “Không nhiếp thọ chân như, chẳng phải là chỗ y chỉ của ngã chấp… chân như chẳng phải là cảnh liễu vì xa lìa cảnh tâm thức, vì tâm thức có phân biệt cho nên chân như chẳng phải cảnh, hoặc không có năng liễu vì lìa tâm thức.

Kinh: Pháp không so sánh… chẳng tại duyên.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Tục có đối đãi nên pháp có sự so sánh, chân chẳng đối đãi nên không so sánh; trong tục có duyên nên thuộc nhân, do nhân mà được; trong chân không có duyên, cho nên không thuộc nhân. Pháp nhân duyên sinh đều nói là không”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Chân như vi diệu không gì sánh, lại không có vật gì có thể đối đãi. Chân như chẳng thuộc nhân, vì chẳng do duyên mà được.

Chẳng do nhân mà sinh cho nên nói chẳng tại duyên”.

Kinh: Pháp đồng pháp giới… không có chỗ tùy theo.

Tán: Lý Không Nghĩa ghi: “Tục chấp pháp có thì chẳng đồng pháp giới; trong chân đế thì tất cả đều nhập vào chân pháp giới; đồng pháp giới, tất cả đều không. Tục có chỗ để tùy theo, mà không tùy theo chân như, tùy theo hữu. Chân đế không có chỗ nương theo, không tùy theo hữu, mà tùy theo như, không”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Từ đây trở xuống gồm mười câu là nói Y tha khởi chẳng chấp không, đồng thời dùng Y tha nhiếp trở về chân như. Tánh Y tha khởi, thì pháp đồng chân như, nhiếp tướng về tánh nhập vào pháp giới, chẳng đồng với sự phân biệt vọng có đã chấp trước. Bản dịch xưa ghi: “Nhập vào các pháp”, Pháp tức pháp giới, hiển thị việc tùy thuận theo như, không phải như sở chấp mà có thể thuận theo.

Kinh: Pháp trụ ở thật tế… vì chẳng nương vào sáu cảnh.

Tán: Động tức loạn động; bờ mé chân thật gọi là thật tế, không có nghĩa sở duyên điên đảo. Lý Không Nghĩa ghi: “Tục có chỗ động, chẳng trụ thật tế, chân không động nên trụ ở thật tế. Tục nương vào sáu cảnh, cho nên pháp lay dộng, lay động thì hay hoại, hay hủy, hay loạn, hay điên đảo”. Ưng Lý Nghĩa ghi: “Y tha trụ chân tế, tùy theo chân tế, rốt ráo chẳng động. Bản dịch xưa ghi: “Các bên chẳng động” tức các bên kiến chấp chẳng làm lay động được, Y tha cũng không lay động, tùy thuận chân như, chẳng nương theo sáu cảnh.

Kinh: Pháp không đến đi… vì xa lìa các tư tăng giảm.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Tục có chỗ trụ nên có đến có đi, chân thì vô trụ thì nào có đến đi. Tục có tư (suy nghĩ) tăng ích, cho nên chẳng thuận không, chấp có; vì có tư tổn giảm nên chẳng tùy thuận vô tương ưng, vô nguyện, bác bỏ không. Chân như không tăng nên thuận theo pháp tánh, không tổn giảm nên tùy thuận vô tương ưng, vô nguyện”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Y tha tùy chân cũng không đến đi vì vô sở trụ”. Khứ tức quá khứ, lai tức vị lai. Do không có trụ hiện tại thì không khứ lai, nếu có chỗ trụ thì khứ lai liền thành. Có tư tăng ích cho nên chấp có, chẳng thuận không, có tư tổn giảm cho nên bác bỏ không. Y tha chẳng tùy vô tương ưng, vô nguyện mà tùy chân như; không có tư tăng giảm cho nên tùy thuận không, tùy vô tương ưng, vô nguyện. Bản dịch xưa ghi: “Pháp không tăng giảm”, thoạt nghe thì tựa như khác biệt, nhưng so với bản này tức là giải thích nghĩa trên. Bản dịch xưa ghi: “Pháp không tốt xấu”, bản này không có, ngoài lý thêm vào, không biết là thế nào?

Kinh: Pháp không thủ xả… vượt trên tất cả đạo mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Tán: Lý Không Nghĩa ghi: “Tục có sinh cho nên có thủ, có diệt nên có xả. Chân thì không sinh diệt thì nào có thủ xả? Đạo nghĩa là sinh, căn cảnh là đạo. Tục có sáu căn là năng chấp tàng, cho nên pháp có sáu cảnh thành sở chấp tàng. Chân chẳng phải là sở tàng của sáu căn, cho nên pháp chẳng phải là sở chấp tàng, vượt trên sáu căn đạo”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Y tha tùy chân, chân thủ không xả, lìa sinh diệt, cũng không phải năng chấp tàng, siêu việt sáu căn; chẳng phải là cảnh ái nhiễm, nên chẳng phải là sở chấp tàng”. Bản dịch xưa ghi: “Pháp không sinh diệt”, câu đầu có thể hợp, câu “Pháp không có sở quy”, quy tức là sở chấp tàng, nhưng không giải thích nguyên do.

Kinh: Pháp không cao thấp… rốt ráo đoạn.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Động chuyển nghĩa là hình đối đãi, hý luận tức hư vọng sai biệt; tục chẳng bất động thì pháp có cao thấp, chân không động chuyển thì nào có thấp cao? Tục có hý luận chẳng đoạn dứt, là sở hành của tâm phân biệt, nơi chân thì hý luận đã đoạn dứt, cho nên xa lìa tất cả sở hành phân biệt”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Y tha tùy chân, không có cao thấp, trụ ở bất động, lìa tất cả sở hành phân biệt; hý luận phân biệt rốt ráo đoạn diệt. Bản dịch xưa ghi: “Pháp lìa tất cả các quán hành”, đây là nói sở hành phân biệt, phân biệt tức quán hạnh. Trong Ứng Lý Nghĩa cho rằng hai mươi câu đều nói đến pháp thắng nghĩa đế chân như, không phải như sở chấp của tâm phân biệt, cũng chẳng phải như tánh mà kia đã nói; đều là không, chẳng phải là thể tánh của chân như cũng thành không. Trước tùy theo thắng nghĩa đế mà thuyết chẳng trái lý. Hai mươi câu này, lẽ ra gom làm mười đôi, mỗi mỗi đều là quyền tư, nhưng sợ dài dòng, nên lược nói mà thôi.

Kinh: Thưa ngài Đại Mục-liên… há có thể nói sao?

Tán: Đây là lời kết luận về vô ngã. Không Lý Nghĩa ghi: “Trong Thắng nghĩa đế, pháp tánh không, như. Vậy há có thể như ngôn thuyết đề cập đến được sao?” Ứng Lý Nghĩa ghi: “Pháp thể tuy có, nhưng chẳng phải như tự tánh hữu của ngôn thuyết và phân biệt, vậy há có thể nói được sao?”

Kinh: Phàm thuyết pháp… tăng ích, tổn giảm.

Tán: Từ đây trở xuống là nói về đạo lý thuyết pháp. Gồm hai phần: Đầu tiên là luận chung đạo lý thuyết và nghe. Sau đó, từ câu “Tôn giả Mục-liên…” khuyên như pháp mà thuyết. Không Lý Nghĩa ghi: “Chân đế vốn không, thuyết nghe là có, đều gọi là tăng ích, tục đế vốn có mà nói là không vô liền thành tổn giảm. Hoặc tất cả chẳng xứng hợp tự tánh chân pháp nên gọi là tăng giảm. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Ngoài pháp mà phân biệt và khởi ngôn thuyết là tăng ích, vì làm tăng trưởng các pháp”. Luận Thành Duy Thức ghi: “Năng thuyên sở thuyên, đều chẳng phải là tự tướng, nhưng nương vào tăng ích, tương tự mà chuyển. Tựa nghĩa là tăng ích mà chẳng có tướng thật. Tự tướng các pháp giả trí và thuyên, đều chẳng phải là cảnh. Nói không có pháp thể thì gọi là tổn giảm, vì bác không thể. Hoặc tăng sở chấp mà giảm tánh vô nhị.” Bản dịch xưa ghi: “Không thuyết, không chỉ bày, không nghe, không được,” đều chẳng đúng, vì không có văn này.

Kinh: Nếu ta ở nơi này… không có chỗ rõ biết.

Tán: Đây là thành tựu chánh lý. Nếu chứng đắc pháp trí chứng hội pháp thể, không tăng không giảm, tức tất cả pháp đều chẳng thể thuyết. Bản dịch xưa nói không thuyết không chỉ bày. Nếu trí của người nghe chứng hội pháp thể, không tăng không giảm cũng chẳng thể nghe thì đâu có gì để rõ biết mà nói ta rõ biết. Ở đây có điều nghi rằng, nếu người thuyết pháp và người nghe đều có tăng giảm, thì Phật làm sao mà thuyết? Các Đại Bồ-tát làm sao nghe? Cho nên giải thích để hiểu rõ.

Kinh: Tôn giả Mục-liên… mới có thể thuyết pháp.

Tán: Từ đây trở xuống là phần nói về khuyên như pháp mà thuyết. Đầu tiên giải thích nghi, chỉ bày tướng thuyết, sau khuyên nên tu tập. Ví như ở cõi huyễn hóa vì người huyễn hóa tuyên thuyết các pháp là giả nhân giả danh, vì người nghe giả, giả thuyết các pháp, không có một mảy may chân thật, chỉ là dụ, cho nên xa lìa tăng giảm. Vì thế Phật thuyết pháp, Bồ-tát nghe, chẳng như tự tánh do phân biệt thuyết mà khởi chấp.

Kinh: Nên khéo biết rõ… đại bi hiện tiền.

Tán: Đoạn này là nói về là khuyên tu tập, gồm có tám việc. Đoạn này có ba:

  1. Biết căn cơ chúng sinh.
  2. Tuệ đạt các pháp, không quái ngại, quái nghĩa là chướng, ngại nghĩa trói buộc.
  3. Đại bi hiện tiền.

Kinh: Tán thán Đại thừa… mới nên thuyết pháp.

Tán: Đoạn này có năm câu:

  1. Khen ngợi Đại thừa.
  2. Nghĩ nhớ ân Phật.
  3. Tự ý lạc thanh tịnh, tin sâu thắng giải.
  4. Pháp từ thiện xảo, đối với pháp khéo léo, đối với pháp vô ngại. Từ thiện xảo tức là lời nói vô ngại. Hoặc nói pháp từ tức là lời thuyết pháp, biện tài vô ngại.
  5. Nối dòng Tam bảo làm cho hưng thịnh.

Đầy đủ tám việc này mới nên thuyết pháp. Hàng Thanh văn không có tám việc này thì chẳng nên thuyết pháp; mỗi một việc, ý nghĩa có thể biết được. Bản dịch xưa chỉ có sáu, không có ý lạc tịnh và từ thiện xảo.

Kinh: Thế Tôn… Chánh đẳng Chánh giác.

Tán: Đây là phần thứ tư nói về lợi ích; trong lúc ngài Vô Cấu cật

vấn thì đồ chúng được lợi ích.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ… đến vấn an bệnh của ông ấy.

Tán: Đây là đoạn thứ ba kết luận về nguyên do từ chối, tự thân kém cỏi xin thoái lui. Lúc bấy giờ chẳng đáp được cho nên im lặng; chẳng thể hiểu được điều ông ấy nói, nên gọi là không biện biệt được.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Lần thứ ba, sai bảo Đại Ca-diếp. Cũng gồm hai phần: Bảo và từ chối.

Đây là phần đầu sai bảo. Ma-ha Ca-diếp-ba, Hán dịch Đại Ẩm Quang. Xưa có một vị Tiên, thân màu vàng ròng, ánh sáng phủ trùm (ẩm) cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ngài Ca-diếp thuộc về dòng họ vị tiên này. Vả lại Đại Ca-diếp, thân cũng màu vàng ròng, ánh sáng che phủ mặt trời, mặt trăng cho nên gọi là Ẩm Quang. Nhân duyên này như đã ghi trong Di-lặc Sớ.

PHẦN 2

Kinh: Đại Ca-diếp-ba… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Từ đây trở xuống là phần từ chối, gồm có ba: Đây là đoạn nêu lên đạo đã bị khuất phục. Ca-diếp cứu kẻ bần khổ, không có tâm Từ bi bình đẳng bố thí, các tướng vẫn còn, không thể vô tướng nơi sự, nhân đó mà bị khuất phục. Cho nên đáp là không kham nhận.

Kinh: Vì sao?… mà khất thực.

Tán: Đây là phần thứ hai hiển lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi và sau là trình bày. Trong phần trình bày lại có hai: Đầu tiên là nêu việc của mình, sau là thuật lại lời của ngài Vô Cấu. Đây là lời tự hỏi và nói việc của chính mình. Vào xóm nghèo mà thuận khất thực, nghĩa là nếu kẻ bần khổ mà chẳng tu, e rằng tương lai lại sẽ nghèo tiếp, cho nên đến khuyến hóa. Giàu đã chẳng phải như thế, cho nên không đến khất thực. Giàu thì dư dật, xin nơi họ đã thuận mình mà được đầy đủ, nghèo thì các việc đều không, xin nơi họ thì trái tình mà ít được, nhưng vốn vì nuôi thân và cứu vật, chẳng mong cầu lợi ích cho mình mà phiền lụy người khác, cho nên đến xóm nghèo khất thực là có nguyên do. Thứ tự khất thực cho nên gọi là tu.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng.

Tán: Thuật lại lời của ngài Vô Cấu Xưng, gồm có hai: Đầu tiên nêu phép tắc đến gặp, sau chính thức trình bày lời của Vô Cấu. Đây là văn đầu tiên.

Kinh: Thưa Đại Ca-diếp… đến người nghèo mà khất thực.

Tán: Đầu tiên nêu lên việc chẳng đúng; kế đến là nói về chánh lý, sau cùng là tổng kết khuyên bảo. Đây là văn đầu. Khi đến người nghèo khất thực, thì khiến cho họ mai sau được giàu có, an vui, đó là Từ, tận trừ gốc nghèo khổ cho họ tức là Bi. Đây chỉ cứu giúp kẻ nghèo khổ mà bỏ người giàu có, cho nên nói không cùng khắp.

Kinh: Tôn giả Ca-diếp… nên thứ tự xin ăn.

Tán: Đây là thuật về chánh lý. Văn gồm có hai:

  1. Nói về người xin.
  2. Nói về người bố thí.

– Trong phần nói về người xin gồm có ba đoạn:

  1. Phá sáu tướng.
  2. Phòng sáu căn.
  3. Nói về chứng lý tu nhân.

– Đầu tiên phá sáu tướng:

  1. Phá hạnh thiên lệch.
  2. Trừ tướng thức ăn.
  3. Dứt tướng làng xóm.
  4. Bỏ tướng thành ấp.
  5. Thú hướng đến tướng nhà Phật.
  6. Phá tướng chấp trước.

Đoạn này là phá hạnh thiên lệch, chỉ xin nơi người nghèo, thì nghèo có thể thành giàu, chẳng xin nơi người giàu, thì giàu có thể sẽ nghèo. Cho nên phải trụ nơi bình đẳng mà hành khất thực. Bản dịch xưa không có sáu, chỉ có bốn, thiếu việc vào thành ấp và thú hướng đến nhà Phật.

Kinh: Vì chẳng ăn… cho nên khất thực.

Tán: Đây là trừ tướng thực. Ca-diếp thấy có tướng thực chỉ dùng để nuôi dưỡng thân là cứu kẻ nghèo khổ, cho nên hành khất thực. Nay dùng ba nghĩa mà dạy thực hành khất thực, không chỉ dùng để nuôi thân…

  1. Đến quả vị Phật, khi được Bồ-đề chẳng cần thức ăn, nhưng thực hành khất thực là để trưởng dưỡng pháp thân.
  2. Phá chấp về món ăn sinh tử từ xưa đến nay, tức hành khất thực để phá sinh tử. Cho nên kinh ghi: “Khi ăn đoàn thực, như ăn thịt loài khoáng dã tử”.
  3. Vì nhận của người thí, khiến cho hạnh bố thí của họ được thành tựu mà hành khất thực.

Trong ba nhân này thì đầu tiên sáu độ của mình viên mãn, kế đến là trừ sinh tử trói buộc, sau cùng là sáu độ của người viên mãn. Vì ba nghĩa này nên thực hành khất thực. Bản dịch xưa, thứ hai là nói “Phá hoại tướng hòa hợp”, tức trừ chấp thực. Thực (thức ăn) là tướng hòa hợp của ba trần. Thứ ba là nói “Vì chẳng nhận cho nên nhận thức ăn của kia”. Nay ở bản này thì đoạn trên lại đặt sau đoạn văn nói về tướng không tụ. Hai bản dịch cũ và mới thứ tự khác nhau; bản xưa lại thiếu câu thứ ba.

Kinh: Dùng tướng không tụ… vào các thành ấp.

Tán: Đoạn này gồm có hai tướng là phá tướng làng xóm và phá tướng thành ấp. Vào các thành ấp tu lạc tưởng như không tụ, chẳng thấy xóm làng do đó người thấy ta mà nghĩ nhớ đến Tam bảo, đoạn ác hành thiện, được mười lợi ích, cho nên vào thành ấp, lợi lạc chúng sinh chứ chẳng phải điều gì khác.

Kinh: Tưởng đến nhà Phật… mới nên nhận thức ăn của người.

Tán: Đoạn này có hai:

  1. Tưởng nhà Phật.
  2. Phá tưởng chấp trước.

Nhà Phật tức Phật pháp giới. Vào nhà thí chủ, khởi tưởng vào nhà chân lý vô tướng vô vi. Vì phá chấp trước cho nên thọ nhận thức ăn của người. Vì chẳng thọ nghĩa là chẳng chấp trước. Vả lại ba luận thanh tịnh, ba việc thể đều không, nên gọi là chẳng thọ. Năng thọ sở thọ đều gọi là thọ. Trên đã phá sáu tướng, sau đây là phòng hộ sáu căn. Bản dịch xưa lầm lẫn điều này như trên đã nói.

Kinh: Thấy sắc và mù… như trí chứng.

Tán: Đây là văn thứ hai, ngăn bít sáu căn. Đoạn này ngăn năm căn, thấy sắc như mù, chẳng thấy tốt xấu, đâu sinh yêu ghét? Nghe âm thanh như tiếng vang, chẳng phải thật âm thanh, có gì mà khen chê? Ngửi mùi như gió, không có thơm hôi thì đâu có tăng thêm ác. Ăn các món ăn mà không phân biệt đắng chua cay ngọt, thì cái gì có thể lấy, cái gì có thể bỏ; thọ nhận các cảnh xúc chạm, như trí chứng lý, chẳng thể đàm luận, phân biệt tướng trạng, thì cái gì mà trơn nhám, cho nên ngăn ngừa năm căn không sinh khởi các lỗi.

Kinh: Biết các pháp như tướng huyễn… không có tịch diệt.

Tán: Đoạn này là phòng ý căn. Thông đạt được duyên khởi, do đó mà thành khổ lạc nhất vị. Biết các pháp hữu vi như tướng huyễn đều chẳng phải là chân thật mà do giả nhân duyên sinh khởi, không thể tự tác dụng, chẳng từ tự sinh; không có tự tánh; không do tha tác dụng, chẳng tại pháp khác sinh, chẳng có tha tánh; chẳng từ cộng sinh, không có tánh tự tha. Tuy không có ba tánh này nhưng do sự tác dụng của nhân duyên mà có công năng, vì do duyên mà được. Do đó mà nói không thật có sinh tử xao động, không thật có Niết-bàn vắng lặng, cả hai đều một vị, cho nên đều bình đẳng, đâu có các ý thức phân biệt. Bản dịch xưa ghi: “Vốn tự chẳng như thế”, tức xưa không sinh tử thì nay không diệt, cũng không có Niết-bàn; nghĩa lý cũng giống nhau.

Kinh: Tôn giả Ca-diếp… sau đó mới được ăn.

Tán: Đây trở xuống là phần thứ ba nói về chứng lý tu nhân, gồm hai phần, đầu tiên nói về bình đẳng, sau kết luận nói có thể ăn. Đây là văn đầu. Trong đây lại có hai, đầu tiên nói về lý bình đẳng, sau nói về sự bình đẳng. Tám tà tức là tám việc trái với chánh do ngoại đạo phàm phu khởi, đó là: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà niệm, tà định, tà tinh tấn. Tám giải thoát, tức tám pháp do bậc Thánh, Phật sinh khởi, đó là:

  1. Có sắc quán các sắc.
  2. Bên trong không sắc quán sắc bên ngoài.
  3. Tịnh giải thoát tác chứng.
  4. Không xứ.
  5. Thức xứ.
  6. Vô sở hữu xứ.
  7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
  8. Diệt định giải thoát.

Tám giải thoát như trước đã giải thích. Chẳng bỏ tám tà, tức tùy thuận ngoại đạo mà cũng khởi, vì chiết phục họ mà vào tám giải thoát, tùy thuận chánh đạo. Vả lại tà chánh đều như nhau, dùng các pháp bình đẳng tà, nhập vào các pháp bình đẳng chánh, pháp tánh bình đẳng tức chân như. Trên đây đều là nghĩa của ứng lý. Nghĩa Không Lý ghi: “Cảnh vốn không, thấy sắc và mù… đều là duyên khởi, chẳng thật có, cho nên như tướng huyễn. Các pháp không hai, sinh tử Niết-bàn đều bình đẳng, tà chánh chẳng khác, cho nên dùng bình đẳng tà nhập vào bình đẳng chánh. Đây đều là chân đế, tất cả là vô tưởng, đều là tánh không. Trên là nói lý tà chánh bình đẳng, dưới đây là nói về cúng dường, tức sự bình đẳng, dùng một nắm cơm mà cúng dường mười phương Phật và các hiền Thánh đế tu nhân của tâm và hạnh bình đẳng. Hạnh này tuy nhỏ ít mà quả lại vô biên.

Kinh: Ăn như thế… mới có thể ăn.

Tán: Đoạn này là kết luận có thể được ăn. Chẳng trụ tịnh nhiễm, chẳng trụ định tán, chẳng trụ thăng trầm, gọi là chẳng trụ đạo. Có chướng gọi là tạp nhiễm, vô lậu gọi là lìa nhiễm. Vô lậu đã viên mãn thì chẳng có tạp nhiễm, nếu hiện khởi hữu lậu tức chẳng lìa tạp nhiễm. Bản dịch xưa ghi: Phiền não thì chẳng đúng. Bên ngoài thực hành việc lợi tha, chẳng nhập tĩnh định trong tâm thường chẳng loạn, chẳng xuất tĩnh định, đại trí thành tựu viên mãn, đã được Niết-bàn, chẳng trụ sinh tử, đại bi đã mãn; thường làm lợi lạc nên chẳng trụ Niết-bàn. Được pháp chẳng trụ như thế mới có thể ăn, đây là nghĩa của Ứng lý. Nghĩa Không lý ghi: “Trong chân đế không có tướng đáng gọi là tướng, cho nên chẳng có tạp nhiễm. Chẳng bỏ thế đế, mà làm việc lợi lạc cho chúng sinh; chẳng lìa tạp nhiễm, cho đến chẳng trụ sinh tử và Niết-bàn. Trụ ở chân đế này chẳng bỏ Tục đế, như thế mới được thọ nhận thức ăn.

Kinh: Các người cúng dường cho Tôn giả… chẳng hướng đến Thanh văn.

Tán: Trên là nói về người khất thực, còn đây là nói về người bố thí cúng dường. Chẳng chấp tự thể, chẳng chấp quả báo. Chẳng chấp được báo ân gọi là thí độ, cho nên vị lai không có quả nhỏ trời người và Nhị thừa, không có quả lớn Bồ-tát Như Lai. Chẳng khởi tà kiến bài bác không nhân quả, chẳng tín tâm bố thí thì gọi là không tổn giảm, chẳng khởi chấp trước hư vọng ngã pháp thì gọi là không tăng ích. Hướng đến cõi Phật tức là chân như Niết-bàn, do ba việc đều không mà thực hành bố thí, thì thú hướng đến cõi Phật, Đại Bát Niết-bàn, chân như Phật tánh mà chẳng hướng đến Thanh văn.

Kinh: Này Tôn giả Ca-diếp!… thức ăn của người thí.

Tán: Đây là phần thứ ba, kết luận khuyên tu. Theo trên đã nói phá sáu tướng, ngăn ngừa sáu căn, nhập vào tánh bình đẳng, nhân nghiêm hạnh lớn, chẳng phải không thực, tất cả đều là phước điền, vì tự tha đều lợi lạc. Nếu có sáu tướng, chẳng phòng hộ sáu căn, chẳng nhập bình đẳng, nhân hạnh cực hạn, là không thực, chẳng phải chân phước điền vì tự tha đều tổn giảm.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ… khởi tâm cung kính.

Tán: Đây là đoạn văn thứ ba, kết luận nguyên do từ chối chẳng nhận, tự nhận kém sút xin thoái lui. Gồm có năm:

  1. Nghe luận thắng pháp là điều chưa từng có.
  2. Khởi tâm cung kính Bồ-tát.
  3. Tán thán trí tuệ biện tài.
  4. Mình được lợi ích.
  5. Tổng kết lời đáp.

Đoạn này gồm hai việc.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Rất kỳ diệu… tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Tán: Đây là tán thán trí tuệ biện tài. Khen ngài Vô Cấu là một cư sĩ sống đời thế tục có gia đình mà có thể được như thế, nếu là xuất gia thì không có gì kinh ngạc tán thán, vì tham học tiến tu là bổn phận của mình. Là người có trí, ai nghe diệu pháp này mà không phát tâm Đại 90 thừa?

Kinh: Từ nay trở về sau, con… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đoạn này nói về việc mình đã được lợi ích, và kết luận lời đáp.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đây là đoạn thứ tư, đầu tiên sai bảo. Âm Phạm Ma-ha Tôbổ-đề, Hán dịch là Đại Thiện Hiện. Ứng theo Phật xuất thế mà khéo léo hiện sinh, hoặc xưa đã phát đại nguyện khéo có thể hiện tiền liễu đạt nghĩa không. Hoặc cho rằng ở thành Xá-vệ có một đại Trưởng giả tên là Câu-lưu, do cầu trời mà sinh được một người con. Lúc mới sinh thì trong nhà của trưởng giả trở nên trống vắng. Thầy tướng đến xem và đặt tên là Thiện Hiện. Hiện tức là sinh, khi sinh thì trong nhà đều trống không vắng vẻ, biểu thị sau này lớn lên sẽ thấu hiểu được nghĩa không.

Cho nên gọi là Thiện Hiện.

Kinh: Bấy giờ, Đại Thiện Hiện… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đoạn này nêu chung, việc đạo đã bị khuất phục, Thiện Hiện tuy về sự đã bình đẳng tu tập mà hành khất thực, nhưng chưa chứng được pháp không, lý chưa bình đẳng. Tuy sự đã vô tránh mà vào làng khất thực, nhưng chứng lý vô tránh chưa được viên mãn. Do đó bị chê trách, mà trả lời là chẳng kham nhận.

Kinh: Vì sao?… kế đến vào nhà ông ấy.

Tán: Hiển riêng về lý đã cùng. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích gồm có hai, đầu tiên nêu việc của mình, sau đó thuật lời của ngài Vô Cấu Xưng. Đây là lời tự hỏi và nêu lên việc của mình.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Câu Xưng… mà nói với con rằng.

Tán: Thuật lời của Vô Cấu Xưng, gồm có hai, đầu tiên nói về đến ra mắt, sau chánh thức trình bày. Đây là văn đầu tiên.

Kinh: Thưa Tôn giả Thiện Hiện!… mới có thể nhận thức ăn.

Tán: Đây là phần chính thức trình bày, gồm có sáu:

  1. Nói về lý.
  2. Nói về tự mê.
  3. Vô Cấu Xưng an ủi.
  4. Nói về lời đáp của mình.
  5. Lời của Vô Cấu Xưng chỉ dạy.
  6. Đạt lợi ích.

Văn đầu gồm có bốn:

  1. Hiển pháp và Phật bình đẳng.
  2. Phược và giải bình đẳng.
  3. Tà chánh bình đẳng.
  4. Thiện ác bình đẳng.

Đây là đoạn văn đầu. Thức ăn có bốn loại như đã nói ở trước. Không Lý Nghĩa ghi: Tánh bình đẳng này, tức Thắng nghĩa không, lấy thực làm gốc của nhân duyên, nhờ vào thực để nói, dùng lý Không của thực nhập vào tất cả pháp không. Thực là pháp riêng, những cái khác là pháp chung, cả hai đều không. Dùng lý không của tất cả pháp nhập vào lý không của Phật. Lìa ngoài không này chẳng có Phật không riêng biệt. Liễu đạt được không này, thì tâm không trệ ngại, sự hành bình đẳng và được vô tránh, như thế mới nhận được thức ăn (thực). Ngài Thiện Hiện chưa chứng được không này, tâm còn trệ ngại, chẳng bình đẳng và hữu tránh, như thế làm sao có thể nhận thức ăn”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Tánh bình đẳng này tức lý chân như, hiểu được chân như thực tức chân như các pháp, hiểu chân như tất cả pháp tức chân như Phật. Từ ẩn đến hiển đều liễu đạt tánh bình đẳng; chứng lý thì trí sinh, tâm không chấp trước; vì lợi ích hữu tình nên ngoài thực hành bình đẳng và cùng họ vô tránh mới có thể nhận thức ăn. Nếu chẳng như thế, làm sao mà không luống uổng thức ăn của người? Bản dịch xưa nói hai tánh thực và pháp bình đẳng xoay vần đồng đẳng nhau, mà không có tánh bình đẳng Phật, thì lý thiếu, văn trái nghịch.

Kinh: Thưa Tôn giả Thiện Hiện… nhập nhất thú đạo.

Tán: Phần thứ hai nói về phược và giải bình đẳng, gồm có chín đôi. Đoạn này có hai là thiện bất thiện, ngã kiến vô ngã kiến. Lý không nghĩa ghi: “Tâm có phân biệt thì trói buộc và giải thoát là hai, chứng chân đế, tâm vô phân biệt thì trói buộc (phược) và giải thoát không hai, đều là lý không”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Chẳng đoạn bất thiện căn, thì hiện hiện hành có lợi ích lớn, như vua Mãn Túc thị hiện giáo hóa… thật chẳng khiến cùng chung với nó. Tát-ca-da kiến, Hán dịch là ngụy thân kiến, ngã kiến. Chẳng hoại ngã kiến nghĩa là thị hiện sinh khởi, cầu đại Bồ-đề, độ các hữu tình, đều là ngã. Nhưng nhập vào đạo vô ngã nhất thú, lý vô ngã gọi là Nhất thú, là chỗ quy về của hành giả ba thừa. Đạo tức năng duyên, tức vô ngã kiến, chẳng đoạn ngã kiến mà chứng vô ngã kiến. Nhập tức ngộ. Bản dịch xưa ghi: “Chẳng hoại thân” tức thân kiến.

Tùy nhất tướng tức vô ngã kiến. Trong vô ngã kiến lại không hai.

Kinh: Chẳng diệt vô minh… mà giải thoát.

Tán: Đoạn này có một đôi là tạp nhiễm thanh tịnh. Vô minh là nhân phát nghiệp. Hữu tức ba hữu; ái tức ái thủ; hữu ái chính là duyên để nhuận sinh, là căn bản của sinh tử trói buộc. Thuận các chúng sinh, chẳng bỏ sinh tử cho nên nói là chẳng diệt, tuy chẳng diệt vô minh mà khởi vô lậu kiến minh; tuy chẳng diệt hữu ái mà khởi giải thoát. Giải thoát nghĩa là tuy đã có duyên nhuận sinh, nhưng đã chứng lý vô vi, thuộc về thắng giải; chân lý được chứng gọi là giải thoát, tức Niết-bàn.

Kinh: Thường dùng pháp tánh bình đẳng vô gián… pháp tánh bình đẳng giải thoát.

Tán: Đoạn này gồm một đôi là khổ lạc. Vô gián tức địa ngục vô gián, nêu lên nơi đau khổ nhất. Giải thoát tức Niết-bàn, nơi an lạc nhất. Dùng chân như đau khổ nhất để nhập vào chân như an lạc nhất, thể chỉ một vị. Bản xưa nói dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, nên nói là dùng tướng quả ngũ nghịch, nhập vào tướng giải thoát, tức chân như.

Kinh: Không giải thoát không trói buộc… chẳng lìa các pháp dị sinh.

Tán: Đoạn này gồm ba đôi:

1. Giải thoát và phược. Vô lậu là giải thoát, hữu lậu là phược(trói buộc). Chứng đắc Niết-bàn gọi là phược. Chẳng bỏ sinh tử gọi là thoát.

2. Chứng bất chứng. Thật thấy đế gọi là chứng. Cho nên không gì chẳng thấy chẳng thấy gọi là chẳng chứng. Khi chứng lý không thấy có tướng.

3. Quả phi quả. Thánh gọi là quả, thuận trụ nói sinh tử, chẳng một bề trụ nơi quả, cho nên gọi là đắc quả. Chẳng phải Thánh gọi là dị sinh; đã chứng chân đạo thì chẳng phải là dị sinh; thường giáo hóa hữu tình thích khởi phiền não, cho nên nói chẳng lìa dị sinh.

Tuy là một đôi nhưng vì hiển Đại bi, thuận trụ nơi sinh tử, nên đối với loài dị sinh, lặp lại chẳng lìa dị sinh.

Kinh: Chẳng phải Thánh… mới có thể nhận thức ăn.

Tán: Đoạn này gồm hai đôi:

  1. Phàm Thánh. Đại bi là thuận phàm gọi là chẳng phải Thánh, nhưng đã chứng xuất thế, cho nên là Thánh.
  2. Chứng ly, chứng tất cả các pháp gọi là thành tựu, đoạn các chấp phân biệt pháp tưởng gọi là ly (lìa).

Trên nói pháp nhân duyên cho nên ở đây giải thích; hoặc ở đây đều nói Biến kế sở chấp không, vô thường… hoặc ở đây chỉ nói chân lý bình đẳng viên thành thật. Lý cũng không trái ngược,

Kinh: Thưa Tôn giả Thiện Hiện… mới có thể thọ nhận thức ăn.

Tán: Đây đoạn thứ ba tà chánh bình đẳng. Lý Không Nghĩa ghi:

“Trong thế tục đế, thì tà chánh là hai, bỏ tà về chánh; trong Thắng nghĩa đế, tà chánh không hai, thì đâu có gì là bỏ là về? Ứng Lý Nghĩa cho rằng kinh Bát-nhã nói: “Dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy thuộc tà đạo, chẳng thấy được Như Lai” Đồng thể Tam bảo chẳng thấy nghe, chẳng thể phụng sự. Bản dịch xưa không có ghi Tăng. Sáu sư ngoại đạo là duyên phương tiện thù thắng để Phật được Bồ-đề, nếu ông đồng như Phật thì cũng nên xem đó là thầy. Kia còn tà kiến, thật sẽ đọa ác thú, ông vì thương xót họ cho nên cũng đọa theo để cứu giúp. Đồng Như Lai mới có thể thọ nhận thức ăn. Vì Đại Thiện Hiện xả bỏ sáu sư kia, chẳng thể theo đó mà tu học, chẳng thương xót chúng sinh đọa ác thú, thấy có Tam bảo, chẳng chứng đồng thể, cho nên nay bị quở trách. Sáu sư:

1. Mãn Ca-diếp-ba, Ca-diếp Ba là họ, Mãn là tên. Bản dịch xưa gọi là Phú-lan Ca-diếp, là ngoại đạo đoạn kiến cũng gọi là ngoại đạo không kiến.

2. Mạt-tát-yết-ly Cù-xá-ly Tử, Mạt-tát-yết-ly là tên, Cù-xá-ly là tên mẹ. Mạt-tát-yết-ly là con của Cù-xá-ly, dùng tên mẹ để phân biệt. Bản dịch xưa ghi là Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử, tức ngoại đạo thường kiến.

3. Tưởng-phệ-đa Tử, Tưởng là tên chính, Phệ-đa là tên mẹ, con của bà ấy nên gọi là Tử, như Xá-lợi Tử. Bản xưa ghi San-xà-dạ Tỳ-lachi Tử, tức ngoại đạo khổ hạnh, ngoại đạo này cho rằng sinh tử ái nhiễm của chúng sinh đều do tham trước lạc thú mà có, nếu khéo tu khổ hạnh thì được giải thoát.

4. Vô Thắng Phát Hạt, Vô Thắng là tên, xỏa tóc mặc áo vải thô cho nên gọi là Phát Hạt. Bản xưa ghi là A-kỳ-đa-xí-xá Khâm-ba-la, là ngoại đạo tự nhiên, cho rằng tất cả pháp đều tự nhiên sinh.

5. Phong-ca-diễn¬-na, Ca-diễn-na là họ, Phong là hình dáng, trên đầu có sừng giống như sừng trâu, cho nên lấy đó đặt tên. Bản xưa ghi là Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên, ngoại đạo này thờ trời Đại tự tại, cho rằng trời Đại tự tại sinh ra các pháp.

6. Ly Hệ Thân Tử, tức ngoại đạo Ni-càn-tử. Chấp Bổn sư của mình tu khổ hạnh nên gọi là Ly Hệ, vì là con nên gọi là Thân Tử, đây là ngoại đạo chấp nhân tạo tác ở quá khứ, cho rằng tất cả pháp đều là do nhân tạo tác ở quá khứ, nay chẳng tạo nhân thì nghiệp xưa liền hết, liền được giải thoát. Bản xưa ghi Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử.

Sáu sư này, có thuyết nói rằng khi Phật bỏ nước xuất gia đến chỗ các vị này hỏi han, họ dạy cho Phật làm thầy khổ hạnh, cho nên đặc biệt được nói đến. Nhưng Uất-đầu-lam-phất chỉ cho Phật được định Phi tưởng, A-lam-ca-lam chỉ cho Phật được định Vô Sở Hữu Xứ, đây đều chỉ cho Phật tu lạc hạnh, chẳng phải như thuyết trên đã nói, không nên theo đó hoàn toàn.

Kinh: Thưa Tôn giả!… lìa thanh tịnh.

Tán: Đây là đoạn thứ tư, thiện ác bình đẳng, gồm mười một câu. Đoạn này có ba câu:

1. Không Lý Nghĩa ghi: “Tâm bị trói buộc thì thiện ác là hai, có việc lìa ác tu thiện khác nhau, thiện ác đã chẳng hai, thì có gì là lìa là tu. Ý chung như thế nhưng giải thích lại thì gồm mười một câu, trong mười một câu này thì: “Như Tu-bồ-đề, thiện ác bình đẳng là ngộ được giải không, đã không có các kiến phân biệt có thể đoạn, thì sao chẳng đọa vào các kiến thú, chẳng đến hai đạo trung và biên, mà nay có đoạn các kiến lại đến trung? Nếu không có ác đạo để nhàm chán, sao chẳng đọa vào tám nạn, chẳng được không nạn? Nếu không có tạp nhiễm để đoạn, sao chẳng đồng tạp nhiễm mà lại lìa tịnh? Nếu không có Thánh hạnh để chứng, sao chẳng đồng được phước điền thanh tịnh vô tránh? Nếu không có nhân thiện ác, vì sao người không bố thí lại đọa vào ác đạo? Nếu không có hai sư tà chánh, sao chẳng cùng ma quân dắt tay nhau? Nếu không có phiền não loạn, vì sao chẳng cùng nó làm bạn? Nếu không có pháp thiện ác riêng biệt, vì sao tánh phiền não chẳng phải tức tánh Tôn giả? Nếu không có đạo từ bi khác nhau, vì sao chẳng ở nơi hữu tình mà khởi ý tưởng oán hại? Nếu không có ruộng tốt Tam bảo, sao chẳng hủy báng Phật, pháp, chẳng dự vào chúng Tăng? Nếu không có sinh tử Niết-bàn khác nhau, sao chẳng cuối cùng không có thời Niết-bàn? Ông đã chẳng như thế, chưa chứng được pháp thể bình đẳng không, làm sao có thể thọ thực suông được? Nếu có thể như thế mới có thể thọ nhận thức ăn. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Các kiến thú tức năm kiến, vì muốn giáo hóa hạng người này, nên phải đọa vào đó, chẳng đồng phàm phu thường chấp đoạn, chẳng đồng Nhị thừa thường trụ nơi đạo. Bản dịch xưa ghi nhập vào tà kiến, chẳng nói đến kiến thú, chẳng đến bờ kia, chẳng nói trung biên. Trung biên nghĩa là bờ kia bờ này.

2. Vào tám vô hà, ở tại tám nạn cứu giúp chúng sinh, bận rộn suốt ngày không được hữu hà.

3. Tùy thuận hóa độ sinh tử, đồng với các tạp nhiễm, chẳng trụ Niết-bàn, đồng với thanh tịnh.

Kinh: Nếu các hữu tình… phước điền thanh tịnh.

Tán: Đoạn này có một câu. Vô tránh có hai: Lý vô tránh và sự vô tránh.

Sự vô tránh, nghĩa là phàm ý nêu lên đều thấy đồng người, chẳng thấy đồng với mình thì phiền não tạm sinh, Tu-bồ-đề đã được đệ nhất, luôn khiến cho chúng sinh chẳng sinh phiền não. Lý vô tránh chân như vô tưởng, do chứng lý vô tránh thì sự mới được vô tránh, hai vô tránh này, tất cả hữu tình và tôn giả có lúc đều được, nhưng vẫn chẳng được gọi là thanh tịnh phước điền, vì chẳng thấy thật có tánh phước điền, ba luân thanh tịnh. Như Bồ-tát mới có thể như thế, còn Thanh văn thì chẳng thể làm được.

Kinh: Các người cúng dường… làm bạn.

Tán: Đoạn này có ba câu:

1. Người cúng thức ăn, sau sẽ được Thánh đạo, mà lại rơi vào ác đạo; giáo hóa chúng sinh khổ đau đã chẳng phải là thí điền mà lại thành tội lớn rơi vào ba ác đạo.

2. Người cúng thức ăn kia, cùng với Tôn giả và ma liên kết nhau, sớm tối chẳng rời, mà có thể điều phục chúng. Bản dịch xưa ghi làm người bạn lao nhọc, tức là làm người bạn lăn lộn mệt nhọc trong chốn sinh tử, chẳng phải là bạn xuất thế.

3. Đi đứng nằm ngồi, luôn luôn đoạn phiền não, chẳng từng xa lìa, cho nên gọi là bạn lữ. Bồ-tát luôn dùng phân biệt làm phiền não, cho nên sẽ đoạn được. Bản dịch xưa không có ý này.

Kinh: Tất cả phiền não… khởi tưởng oán hại.

Tán: Đoạn này gồm hai câu:

1. Tự tánh của phiền não tức chân như, đồng với tánh của tôn giả; nhất như không khác.

2. Khởi tưởng oán hại hữu tình; oán tức là đối, tự tu diệu hạnh lợi sinh gọi là đối, hại tức đoạn, sát, tức đoạn trừ các nghiệp quả phiền não sinh tử lưu chuyển của chúng sinh, luôn luôn khởi tưởng này. Như luận Nhiếp Đại Thừa nói mười hạnh khó làm, nghĩa là các Bồ-tát giết các sinh tử lưu chuyển của chúng sinh. Chúng sinh chẳng để cho Bồ-tát cưỡng nhiếp phục nên gọi là bất dữ thủ, ở đây cũng như thế. Bản dịch xưa ghi: “Ngài và các chúng ma cùng trần lao”, ý cũng không khác, vì pháp tánh không khác.

Kinh: Khinh chê chư Phật… mới có thể thọ nhận thức ăn.

Tán: Đoạn này có hai câu:

1. Bài báng Phật, nói Phật sắc thanh, chẳng phải là Phật chân thật, nói lý pháp thân mới là Như Lai. Nhị thừa nói hình tướng sắc thanh là chân Phật, cho nên ở đây bài báng, gọi là bài báng Phật.

2. Hủy chư pháp, hủy báng tất cả các ác pháp sinh tử, nói chân như là chân pháp, lý pháp bốn đế chẳng phải là chân pháp. Nhất thừa nói đó chẳng phải chân, mà nói pháp cứu cánh, nên gọi đó là hủy pháp. Chẳng dự vào hàng tăng số, cạo tóc đắp y, khất thực, thọ tịnh giới, yết-ma… đều gọi là tăng số. Thường ở nơi sinh tử, tùy loại hóa sinh chẳng bị câu thúc nơi tưởng kia, gọi là chẳng dự số.

Hai rốt ráo không có thời Bát-niết-bàn, Bồ-tát phát nguyện độ hết tất cả chúng sinh mới nhập Niết-bàn, nhưng cõi chúng sinh không bao giờ cùng tận, cho nên Bồ-tát rốt ráo không nhập Niết-bàn; còn hành Nhị thừa thì thân diệt tận, tức vĩnh viễn không còn gì. Hoặc cho rằng tất cả gồm mười câu, hai câu trong đoạn này hợp thành một câu. Nếu có đầy đủ các nghĩa đã nói ở trên thì bậc Đại Bồ-tát mới có thể thọ nhận thức ăn, mới là chân phước điền. Nếu chẳng như thế thì đâu có thể luống nhận thức ăn của người. Ở đây mói bình đẳng đều là mật ngữ. Như Khế kinh nói “Biết chẳng cứng là cứng, khéo trụ nơi điên đảo…”, ý của bài tụng không khác, nhưng nghĩa môn nói ở trên căn cứ theo Biến kế sở chấp nói chân như diệu lý, Y tha hư huyễn; Duy thức vô tưởng, chân như pháp môn cả hai đều bình đẳng cho nên có thuyết này. Lời giải thích trước là căn cứ vào pháp môn nhân duyên nên không trái nghịch.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ… con muốn ra khỏi nhà ông ấy.

Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ hai nói về tự mình mê ví như có người đang đi trên đường vì trời quá mờ tối làm ngăn ngại lạc mất phương hướng. Lúc bấy giờ con cũng như thế, tâm bị che khuất chẳng biết ông ấy nói lời gì và chẳng biết đáp như thế nào, muốn bỏ bát đi ra khỏi nhà ông ấy.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nên nhận lại bát chớ kinh sợ.

Tán: Đây là phần thứ ba nói về Vô Cấu Xưng an ủi, gồm có hai câu:

Đầu tiên là an ủi, sau cùng là hỏi. Đây là câu đầu.

Kinh: Vì sao?… há có kinh sợ chăng?

Tán: Đây là lời hỏi. Nếu Đức Phật hóa làm một hóa nhân đến han hỏi thì có kinh sợ chăng? Ta do pháp thân Như Lai biến hóa ra hỏi việc này có gì sợ?

Kinh: Con nói chẳng sợ.

Tán: Đây là đoạn thứ tư nói về lời đáp, nghĩa là hóa nhân có hỏi ta chẳng từng sợ.

Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… tánh tướng cũng như thế.

Tán: Đây là phần thứ năm thuật về lời dạy của ông Vô Cấu Xưng, gồm có hai: Đầu tiên khuyên chớ nên kinh sợ, sau đó là chỉ bày chánh lý. Trong đoạn thứ nhất chia làm hai, thứ nhất là tổng hợp tướng giáo hóa nói ở trước, kế đó là khuyên chớ kinh sợ. Các pháp được nói ra đều như huyễn hóa vốn chẳng phải chân thật. Chúng sinh năng thuyết và ngôn ngữ sở thuyết cũng như thế, chẳng phải chân thật.

Kinh: Những người có trí… cũng không sợ hãi.

Tán: Đây là lời khuyên chẳng nên kinh sợ. Văn tự như huyễn hóa, người trí chẳng nên chấp cho là chân thật, nếu nghe văn tự cũng chẳng nên sợ hãi, ông là người có trí sao lại kinh sợ?

Kinh: Vì sao?… đều lìa tướng tánh.

Tán: Từ đây xuống là chỉ bày chánh lý, gồm có ba:

  1. Lời nói lìa tánh tướng.
  2. Văn tự cũng lìa.
  3. Kết luận thành tựu các pháp.

Đây là đoạn văn thứ nhất chỉ bày vì sao chẳng sợ hãi văn tự. Lý Không Nghĩa ghi: “Trong Thắng nghĩa đế, thể của tánh tướng đều không, ngôn thuyết chỉ do hư vọng sinh khởi, cho nên lìa tánh không chẳng xứng hợp với lý, sao lại phải sợ”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Tánh tướng của Thắng nghĩa, thể đều ly ngôn giả lập danh ngôn, chẳng xứng hợp pháp tánh, cho nên các ngôn thuyết đều lìa tánh tướng; đã là hư giả thì có gì phải sợ hãi.

Kinh: Vì sao?… tức là giải thoát.

Tán: Đây là phần thứ hai nói về văn tự cũng lìa. Không Lý Nghĩa ghi: “Không chỉ các pháp không, vô tánh được nói ra lìa văn tự mà danh tự ngữ ngôn cũng lìa. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Không chỉ tánh tướng các pháp có không được nói ra lìa ngôn ngữ, mà ngay ngôn ngữ cũng lìa ngôn ngữ. Hoặc cho rằng ở đây không chỉ nói lý lìa tánh, mà căn cứ vào đó văn tự cũng lìa tánh tướng.” Đối với âm thanh năng thuyên thì tướng ngắn nhất gọi là chữ (tự), vừa thì gọi là danh và dài thì gọi là câu. Các tướng danh tự ngôn cũ đều là giả lập bày, thể không chân thật. Pháp đã chẳng phải pháp, chẳng phải chẳng pháp, lời cũng chẳng phải lời, chẳng phải chẳng lời, lời đã chẳng phải lời chẳng phải chẳng lời thì văn tự cũng chẳng phải văn tự chẳng phải chẳng văn tự. Đoạn trừ định chấp văn tự, cho nên chỉ nói chẳng phải. Trong tất cả pháp, sự ly ngôn tức là Y tha khởi, lý ly ngôn tức là giải thoát Niết-bàn chân như. Không Lý Nghĩa ghi:

“Tất cả pháp và văn tự tánh không tức là thể của Niết-bàn giải thoát”.

Kinh: Tướng giải thoát tức là tất cả pháp.

Tán: Đây là đoạn tổng kết thành tựu các pháp. Không Lý Nghĩa ghi: “Giải thoát Niết-bàn tức là bản tánh không của tất cả pháp”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Lý ly ngôn trong tất cả pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là bản tánh các pháp. Cho nên gọi là tức. Bản dịch xưa tại đây chỉ nói ngôn thuyết tánh ly, không nói pháp tánh đối với văn tự.

Kinh: Đức Thế Tôn… được thuận pháp nhẫn.

Tán: Đây là đoạn thứ sáu nói về lợi ích, có hai:

  1. Được quả nhỏ, tức hai vạn Thiên tử xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh chứng quả Dự Lưu, như luận đã giải thích.
  2. Được quả vị lớn tức là năm trăm Thiên tử được thuận pháp nhẫn.

Có người nói rằng Sơ địa được nhẫn thuận chánh giáo pháp, có người nói Địa thứ tám mới được. Bản dịnh xưa không có ý này. Pháp nhãn tịnh, có người cho rằng ở Sơ địa, tức trái với văn của luận, vì xa lìa trần cấu, nói là quả nhỏ. Nay giải thích đúng nghĩa thì Vô sinh pháp nhẫn Sơ địa đã đạt được, nay nói thuận nhẫn tức trước mười Địa được thiện căn nhẫn vị, hữu lậu nhẫn vị, thuận tuệ nhẫn. Hoặc cho rằng Thuận nhẫn thứ ba trong năm nhẫn, Địa thứ tư, năm, sáu thuận đạo xuất thế.

Kinh: Lúc bấy giờ, con im lặng… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Kết luận nguyên do từ chối. Tự thân kém cỏi xin thoái lui.

Thần khí của ta đã cháy tiêu tan, thì nay đâu dám đối đáp.

Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến đó thăm bệnh.

Tán: Thứ năm, Đức Phật sai bảo Mãn Từ Tử. Đầu tiên sai bảo, sau từ chối. Đây là lời sai bảo. Mãn là tên, Từ là họ của mẹ, Tôn giả Mãn này do Từ mà sinh ra, nên gọi là Tử. Âm Phạm là Mai-đát-lợi-da, Hán dịch là Từ, mẹ của Tôn giả thuộc dòng Bà-la-môn. Xưa có một vị Tiên thường tu tập hạnh Từ, sau vẫn kế thừa như thế, cho nên lấy Từ làm họ, người mẹ lúc ấy không có con, đến đó cầu xin, một đêm nằm mộng thấy một vật báu chứa đầy châu ngọc đặt bên người, ánh sáng chiếu nhập vào bụng. Sáng dậy nói với chồng: “Ắt là trời cho vật báu”. Quả thật sau đó có thai, sinh ra ngài. Thầy tướng đến xem và nhân đó mà đặt tên là Mãn. Lớn lên tụng thuộc luận Tỳ-già-la, hạnh từ cũng viên mãn. Sau xuất gia, chứng quả A-la-hán, luận nghị biện tài là đệ nhất. Cho nên Đức Phật mới sai bảo.

Kinh: Bấy giờ, Mãn Từ Tử… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Từ đây trở xuống là phần từ chối, gồm có ba. Đây là nói chung về đạo đã bị khuất phục. Mãn Từ thuyết pháp lợi ích các người mới học, nói pháp Tiểu thừa chẳng nói Đại thừa, chẳng biết tâm cơ, xưa đã bị trách, vì thế nay từ chối.

Kinh: Vì sao?… thuyết pháp cho các Tỳ-kheo mới học nghe.

Tán: Sau đây là phần hiển bày lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích lại chia hai:

  1. Nêu việc của mình.
  2. Thuật lại lời của Vô Cấu.

Đây là đoạn tự hỏi và nêu việc của mình. Hàng sơ cơ mới học, xưa nay trí còn ngăn ngại, cho nên thuyết pháp nhỏ, khiến họ dần dần thuận theo.

Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng.

Tán: Đây là thuật lại lời của Vô Cấu, gồm hai: Đầu tiên nêu phép tắc đến diện kiến, kế đó là chính thức trình bày. Đây là văn đầu tiên.

Kinh: Thưa Mãn Từ Tử… đặt vào bát báu.

Tán: Trình bày có hai: Đầu tiên trách Mãn Từ Tử làm không đúng, sau khiến được lợi ích.

Trong phần đầu lại có hai: Đầu tiên trách chẳng biết hôm nay, sau là trách chẳng biết ngày xưa, tức là câu “Tôn giả Mãn Từ Tử! Các Bísô này đều từ xa xưa…”Trong đoạn trách chẳng biết hôm nay, lại có ba: Đầu tiên nói chẳng biết tâm, kế đến nói chẳng biết ý lạc, sau cùng trách chẳng biết căn. Trong ba luân, thứ hai là ký tâm luân, tức người đã nhập vào pháp dùng tha tâm trí, trước quán tâm của người, sau đó mới thuyết pháp giáo hóa. Quán tâm là tổng. Trong mười trí lực cũng có Chủng, Chủng thắng giải trí lực, cho nên trước trách chẳng biết tâm mà thuyết pháp. Trong đoạn ngài Mục-liên ở trước đã nói nên biết căn tánh sai biệt mà thuyết Đại thừa, nói với Mãn Từ Tử trước nên nhập định, quán tâm của người; tâm hạnh của họ là Đại thừa, giống như Bát báu, thuyết giáo Tiểu thừa giống như đặt vào đó thức ăn dở.

Kinh: Trước nên biết rõ… viên thủy tinh tầm thường dễ vỡ.

Tán: Đây là khuyên nên biết ý lạc. Ý lạc tin hiểu pháp Đại thừa. Ý lạc Đại thừa như hạt châu lưu ly vô giá, ý lạc Tiểu thừa như viên thủy tinh tầm thường. Nay cho đại cơ đồng với tiểu cơ cho nên nói lưu ly đồng thủy tinh. Trước đặt tiểu pháp vào đại tâm, như đặt thức ăn dở vào bát báu. Ở đây cho tiểu tâm đồng đại tâm, cho nên dụ lưu ly đồng thủy tinh. Bản xưa nói tâm niệm, tức ý lạc.

Kinh: Thưa Tôn giả Mãn Từ Tử!… một phần căn tánh thọ pháp.

Tán: Đây là đoạn trách chẳng biết căn, gồm có ba: Đầu tiên trách chẳng biết căn, kế đó nêu nguyên do trách, sau cùng là hiển thị Đại tiểu xưa nay cách biệt. Đây là văn đầu, vật tức là chẳng nên. Tức chẳng nên chưa quán căn cơ mà trao cho Tiểu thừa, Tiểu thừa chỉ là pháp mà một phần nhỏ căn tánh của họ thọ nhận, chỉ là tự lợi chẳng phải lợi tha, là hạnh nhỏ chẳng phải hạnh lớn. Bản dịch xưa đoạn văn này hơi khác nhưng ý vẫn đồng.

Kinh: Họ vốn chẳng thương tổn… chẳng nên chỉ đường nhỏ.

Tán: Hiển nguyên do chê trách. Nguyên do có hai:

1. Phát tâm Tiểu thừa, như ung như nhọt, bại hoại thanh danh, chẳng thể cứu nạn cho người, người không có tâm này mà trao cho họ Tiểu thừa, người không thương tổn chớ làm họ thương tổn.

2. Căn cơ của họ lanh lợi, cầu hành đạo Đại thừa cho nên chẳng được dùng đạo Tiểu thừa chỉ dạy, khiến cho họ lầm lẫn tu học, một là tổn hại đến họ; hai là làm họ lầm lẫn. Do hai nguyên do này mà chê trách là chẳng biết căn cơ.

Kinh: Không nên dùng ánh sáng mặt trời… đồng với tiếng của dã can.

Tán: Đây là hiển thị Đại Tiểu xưa nay cách biệt gồm có bốn dụ, bản xưa có hai. Đại thừa như ánh sáng mặt trời chiếu khắp quần sinh, Tiểu thừa như lửa đom đóm chiếu sáng tự thân vẫn chưa đủ. Pháp Đại thừa như biển lớn sâu rộng vô biên, căn cơ Tiểu thừa như dấu chân trâu cạn nhỏ. Đại thừa như núi chúa sừng sững cao vút, Tiểu thừa như hạt cải nhỏ bé thấp kém. Đại thừa như tiếng rống sư tử, quyết định vô úy, Tiểu thừa như tiếng kêu của dã can, vì sợ hãi người. Thứ nhất là dụ lợi ích lớn, thứ hai là dụ sâu rộng, thứ ba là dụ cao tột, thứ tư là dụ vô úy. Hoặc cho rằng thứ nhất và thứ tư là dụ cho việc Đại hơn Tiểu, người có căn cơ Đại thừa thì chẳng nên trao cho pháp Tiểu thừa. Thứ hai và thứ ba dụ cho Đại hơn tiểu, người có căn cơ Tiểu thừa chẳng nên trao cho pháp Đại thừa, nên hợp cơ mà trao cho pháp.

Kinh: Thưa Tôn giả Mãn Từ Tử!… pháp Thanh văn thừa.

Tán: Đoạn này là trách chẳng biết ngày xưa, gồm có hai: Đầu tiên nói về chỗ chẳng biết, sau nói về hay không biết.

Đây là đoạn thứ nhất, kỳ tức là cầu. Hạng Tỳ-kheo mới học này, khi xưa đã hướng đến Đại thừa, tâm cầu Đại Bồ-đề, nhưng chưa đến vị Bất thoái, giữa đường quên tâm này, như thế vì sao hôm nay lại trao cho họ pháp Tiểu thừa. Cho nên đoạn trên kinh ghi: “Chớ dùng thức ăn dở mà đặt vào bát báu”.

Kinh: Ta quán Thanh văn… hơn cả người mù bẩm sinh.

Tán: Đoạn này là nói về hay chẳng biết. Đầu tiên nói cái có được, sau nói cái không có được. Đoạn này là nói cái có được. Trí tuệ của Thanh văn cạn thấp hơn cả người mù bẩm sinh. Hỏi: Kinh Thắng Man ghi: “Phàm phu như người mù bẩm sinh, chẳng thấy các hình sắc, Thanh văn như đứa bé mới sinh bảy ngày, chẳng thấy mặt trời”; vì sao nay lại nói Thanh văn hơn người mù bẩm sinh? Nếu thấy đế lý thì phàm phu không thể có, cho nên kinh kia nói giống như người mù bẩm sinh. Thanh văn được một phần, cho nên kinh kia nói giống như đứa bé sinh được bảy ngày chẳng thấy ánh sáng mặt trời. Ở đây nói Thanh văn chẳng biết căn tánh, cho nên hơn cả người mù bẩm sinh. Thanh văn không thể liễu đạt sự hơn cả người mù bẩm sinh, chứ không phải nói về đế lý.

Kinh: Không có Đại thừa… các căn lợi độn của hữu tình.

Tán: Đây là nói về cái chẳng có. Bậc Đại thừa có diệu trí quán căn tánh, cho nên có thể phân biệt được căn lợi độn ở đời trước, hàng Thanh văn thì không có diệu trí quán xét căn cơ này, cho nên không thể biết được các căn lợi độn. Như ngài Xá-lợi-phất dạy hai đệ tử, con của người thợ vàng thì dạy quán xương trắng, con của người giặt áo thì dạy quán sổ tức. Cũng như quán đứa bé hành khất thấp hèn nhất ở tám vạn kiếp trước đã tu tập Bồ-đề, mà đều chẳng biết. Bản dịch xưa chỉ có ghi: “Bất thức” mà không có nói đến trí Đại thừa.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nhớ lại vô lượng túc trụ sai biệt.

Tán: Đây là nói về lợi ích, gồm có ba: Đầu tiên khiến nhớ lại việc xưa, kế đến dạy phát tâm Đại thừa, sau cùng là khiến đạt được giai vị thù thắng.

Trong phần đầu lại gồm hai:

  1. Nêu chung việc nhớ nghĩ.
  2. Nêu riêng việc nhớ nghĩ.

Đây là văn thứ nhất, Tam-ma-địa, Hán dịch là đẳng trì, tức thiền định, dùng thiền định hiển thị thần thông, túc trụ trí lực, khiến các Bí-sô theo đó nhớ lại kiếp quá khứ. Cũng có thuyết giải thích rằng: Trong đời quá khứ tuy chỉ chung cho bốn kiếp thành, trụ, hoại, không. Nhưng kiếp không thì không có sự việc, kiếp thành kiếp hoại là trước và sau kiếp trụ. Chỉ có kiếp trụ việc thiện ác rõ ràng nên được cho nêu lên. Nhưng gọi là túc trụ là gồm cả thành hoại. Nay theo thật nghĩa thì trụ chẳng phải là kiếp trụ; trụ nơi sự việc ở đời quá khứ lâu xa nên gọi là túc trụ, thành, hoại, trụ kiếp, đều ở trong đó, chẳng nên giải thích mà phương ngại. Bản dịch xưa ghi: “Bấy giờ, Duy-ma-cật liền nhập Tam-muội”, đâu từng chẳng nhập mà nay mới nhập? Hiển thị tướng nay mới nhập, cũng không ngại.

Kinh: Từng ở nơi quá khứ… tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Tán: Đoạn này là nói riêng về việc nhớ nghĩ, gồm có bốn:

  1. Gặp duyên lành ở nơi năm trăm Đức Phật.
  2. Phát nhân Đại thừa, trồng các căn lành.
  3. Tu hạnh Đại thừa, tích tập đắc thù thắng.
  4. Mong cầu quả Đại thừa, hồi hướng Bồ-đề.

Bản dịch xưa chỉ ghi ba việc, tức hợp thứ hai, thứ ba làm một.

Kinh: Tùy nhớ lại như thế… đảnh lễ chân bậc Đại sĩ.

Tán: Đây là đoạn văn thứ hai, dạy phát tâm Đại thừa. Nói các việc trước kia, nay tiếp nối các tâm khi xưa cho nên có thể phát tâm Đại thừa. Mới vào Phật pháp, chưa hiểu quy tắc, nên vừa nghe diệu lý liền hoảng hốt sai lầm, bỏ quy tắc chánh của người xuất gia mà lễ chân thấp kém của Đại sĩ.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… lại không thoái chuyển.

Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ ba, khiến cho được quả vị thù thắng. Bất thoái chuyển, tức làm cho đạt đến vị Bất thoái ở trụ thứ bảy trong mười trụ, vĩnh viễn chẳng lui sụt làm Nhị thừa. Kinh ngũ giới Ưubà-tắc nói Xá-lợi Tử tu đạo Đại thừa sáu mươi hai kiếp rồi, nhân sau bố thí mắt mà thoái lui làm Nhị thừa. Vì thế kinh Pháp Hoa gọi là giáo hóa Thanh văn thoái tâm Bồ-đề, khiến cho họ chẳng bị lui sụt, cho nên biết là đến trụ thứ bảy. Đây chẳng phải là tín bất thoái, vì lòng tin đã có từ lâu, cũng chẳng phải là chứng, hành bất thoái, vì đây còn gọi là sơ học.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, con nghĩ rằng… vì họ thyết pháp.

Tán: Đoạn này nói về nguyên do từ chối, tự thân thua kém xin thoái lui, gồm ba:

  1. Nói về trí kém.
  2. Giải thích nguyên do.
  3. Tổng kết.

Đây là văn thứ nhất, tất cả Thanh văn chẳng biết căn tánh, nếu chẳng bạch Phật thì chẳng nên thuyết pháp, lầm lẫn căn cơ, thì không lợi ích.

Kinh: Vì sao?… như Phật Thế Tôn.

Tán: Giải thích nguyên do hàng Thanh văn, chẳng có thể thường trụ trong định như Đức Thế Tôn, cho nên chẳng thể biết các căn thắng hay liệt, còn Phật thì hằng ở trong định, cho nên có thể biết căn, biết căn là do Tha tâm trí, Tha tâm trí khởi ắt phải có định.

Kinh: Cho nên con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đây là đoạn tổng kết.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy.

Tán: Đây là lần thứ sáu, Đức Phật sai bảo Đại Tiển Thế Nam. Đầu tiên là sai bảo sau là từ chối. Đây là lời sai bảo. Ma-ha là Đại; Cađa-diễn, Hán dịch là Tiển Thế, một pháp Bà-la-môn kiêng kỵ cắt râu tóc, lấy việc bất tịnh để hiển thị các vật dơ uế làm nhiễm ô hạnh thanh tịnh. Vào thời quá khứ lâu xa có rất nhiều vị tiên sống nơi núi rừng đã lâu, râu tóc rất dài, không người cắt bỏ cho họ. Lúc bấy giờ có một vị tiên, vốn đã có hai người con, hai người này đều đến thăm cha, người con lớn xấu hổ không chịu cắt tóc cho cha, người em có tâm Từ hiếu nên cạo sạch râu tóc cho cha mình, các vị tiên khác cũng nhờ người này cắt bỏ râu tóc. Người cắt tóc này được các vị tiên hộ niệm nên được giàu có và về sau cũng thành tiên. Nhân đó mà lấy làm họ, nay vị đệ tử này thuộc dòng dõi vị tiên kia, cho nên gọi là Tiễn Thế. Vị này có đầy đủ thần thông. Vì phân biệt với các vị kém nhỏ khác cho nên gọi là Đại. Na tức là lời biểu thị cho người nam, cha và bản thân đều thuộc dòng dõi ấy cho nên dùng từ Nam để biểu thị, đây là phân biệt mà nói vậy. Ở Ấn Độ cũng có nơi lấy theo họ mẹ, như Mãn Từ Tử mẹ thuộc dòng Bà-la-môn họ là Di-lặc. Tùy theo họ tốt đẹp của cha mẹ mà đặt theo.

Kinh: Ca-đa-diễn-na… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đoạn này là nói về việc từ chối, gồm có ba: Đây là phần nói chung về đạo đã bị khuất phục, ngài Ca-chiên-diên theo lời Phật thuyết an lập đế chẳng khế hợp phi an lập đế, cho nên bị quở trách. Trí hiện đã kém thua cho nên nói đạo bị khuất phục.

Kinh: Vì sao?… liền nhập tĩnh trụ.

Tán: Đây là nói về lý cùng tận. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích, trong phần giải thích lại có hai:

  1. Nêu việc của mình.
  2. Thuật lại lời của Vô Cấu Xưng.

Trong đoạn một thì đầu tiên hiển về chỗ tùy thuận, sau hiển hay tùy thuận (năng tùy, tha tùy) Đây là lời tự hỏi và nói về chỗ tùy thuận. Liền vào tĩnh trụ, trụ có ba:

  1. Thánh trụ tức là ba môn giải thoát và diệt định, Đức Phật trụ ở không và diệt định.
  2. Thiên trụ tức bốn tĩnh lự, Đức Phật phần nhiều trụ ở tĩnh lự thứ tư.
  3. Phạm trụ tức Từ, Bi, Hỷ, Xả, Phật phần nhiều trụ ở đại bi.

Nay nói tĩnh trụ, tức trụ không hoặc diệt định, vì nương vào định thứ tư mà trụ cho nên gọi là tĩnh trụ.

Kinh: Về sau con… nghĩa tịch diệt.

Tán: Đây là hiển năng tùy. Có thể tùy theo sau Phật mà nói diệu pháp. Nay nói trong an lập đế lý, bốn đế lý đầu là khổ đế lý, một đế lý sau là diệt đế lý, tức muốn khiến chán khổ thích diệt. Quyết trạch tức quyết liễu giản trạch giải thích (phân biệt rõ ràng để giải thích). Năm uẩn sinh diệt là sự vô thường, lý sinh diệt là nghĩa vô thường, nghĩa là nghĩa lý, sau là căn cứ theo tri để giải thích, tánh uẩn bức bách gọi là sự khổ, lý bức bách gọi là nghĩa khổ; uẩn chẳng phải thật có gọi là sự không; lý chẳng phải thật có gọi là nghĩa không. Trong uẩn vô ngã gọi là sự vô ngã, lý vô ngã gọi là nghĩa vô ngã. Các hành vắng lặng không có diệt để hiển gọi là sự diệt đế, lý tịch diệt này gọi là nghĩa tịch diệt. Năm tướng này đều tùy theo sự biến hiện của tâm mà có nên gọi là an lập. Kinh Thắng Man nói: “Bốn đế có tạo tác”.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… liền nói rằng.

Tán: Đoạn này thuật lời nói của Vô Cấu Xưng, gồm có hai, đầu tiên nói về phép tắc diện kiến, sau là chính thức trình bày. Đây là lời văn đầu tiên.

Kinh: Thưa đại Tôn giả… Thuyết về pháp thật tướng.

Tán: Đây là đoạn chính thức trình bày về lời của ngài Vô Cấu Xưng, gồm có ba:

  1. Bài bác chung.
  2. Bài bác riêng.
  3. Lợi ích.

Đây là văn đầu. Không Lý Nghĩa ghi: “Năm thật nghĩa này, bản tánh đều không, tánh lìa ngôn ngữ, chẳng thường chẳng phải vô thường, chẳng khổ chẳng phải chẳng khổ, chẳng không chẳng phải chẳng không, chẳng ngã chẳng phải vô ngã, chẳng tịch diệt chẳng phải chẳng tịch diệt, đây là trừ chấp thường… mà nói vô thường… chẳng phải có thật vô thường… trong chân thắng nghĩa. Cho nên chư Phật, hoặc nói ngã hoặc có lúc nói vô ngã, nhưng thật tướng các pháp thì không có ngã không có vô ngã. Nay nói nhất định có nghĩa vô thường, vì thế bị quở trách, vì dùng tâm hành sinh diệt thuyết pháp thật tướng”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Năm thật nghĩa này, tánh tức chân như duyên với tâm này, vô phân biệt trí duyên với chân như chẳng sinh chẳng diệt là cảnh. Nay lại dùng tâm hành phân biệt duyên với đế lý sinh diệt có tạo tác mà thuyết pháp chân như thật tướng, thì thật không thích hợp, cho nên nói là “không nên dùng”.

Kinh: Vì sao?… là nghĩa vô thường.

Tán: Đây là phần nói về bài bác riêng. Năm phi (năm điều chẳng phải) là năm pháp phi vô thường. Không Lý Nghĩa ghi: “Tục đế có tướng, vì có quá khứ, nên có đã sinh đã diệt, vì có hiện tại, nên có nay sinh nay diệt; vì có vị lai nên có sẽ sinh sẽ diệt. Vì biết thắng nghĩa vô thường là vô tướng, tất cả đều không, ba đời vốn không, thì đâu có gì là sinh. Thấu đạt được lý này thì thường kiến tự tiêu, cho nên thế tục vô thường này là chân lý thắng nghĩa. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Chư Phật đạt được đạo lý thắng nghĩa rốt ráo, trong chân như vốn không có ba thời, thì chỗ nào mà có quá khứ đã sinh, hiện tại đương sinh và vị lai sẽ sinh, quá khứ đã diệt hiện tại đang diệt và vị lai sẽ diệt, cho nên vô sinh… là lý thắng nghĩa chân vô thường, chẳng đồng với lý an lập có sinh diệt là nghĩa vô thường. Nay dùng lý chân như thường làm năng thuyên để trình bày nghĩa sở thuyên sinh diệt vô thường, cho nên nói chẳng sinh chẳng diệt là nghĩa vô thường, thể của chân như là thường. Vì ngăn chấp thường, hiển bày vô thường gọi là nghĩa vô thường gia. Kinh Niếtbàn ghi: “Có khổ, có đế, có thật”. Khổ nghĩa là sự khổ, đế là lý khổ, thật là chân như, hàng Thanh văn có khổ đế mà không có thật, chẳng liễu đạt được chân như phi an lập, chỉ đạt được sự và lý an lập mà thôi.

Do đó chân như nương vào ngôn ngữ để hiển bày là nghĩa vô thường.

Kinh: Thấu suốt được năm uẩn… là nghĩa khổ.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Tục đế có khổ, vì có tướng; Thắng nghĩa vô tướng, bản tánh chẳng phải có. Vì phá chấp lạc mà nói khổ. Cho nên thấu suốt được năm uẩn vốn không, không từ đâu khởi là nghĩa chân khổ”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Năm uẩn tánh không, tức là chân như, tánh biến kế sở chấp không, tánh chẳng phải không. Đạt được lý này thì biết được bản chân, không do đâu khởi. Nương vào ngôn từ để hiển rõ sự chân thật gọi là nghĩa khổ, là thật của khổ.

Kinh: Các pháp rốt ráo… là nghĩa không.

Tán: Lý Không nghĩa ghi: “Thế tục đế thì có, thắng nghĩa đế thì không. Trong đạo rốt ráo đều vô sở hữu, đây là nghĩa không. Không tức là vô. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Trung các pháp, rốt ráo là chân như, không có như được chấp; các pháp có nhân nơi không mà hiển, nên nói là nghĩa không”

Kinh: Biết ngã và vô ngã… là nghĩa vô ngã.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Biết bản tướng của Thắng nghĩa đế đều không, thì thể của ngã và vô ngã xưa nay bất nhị. Vì phá điên đảo ngã, cho nên nói vô ngã là nghĩa vô ngã. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Biết nơi chân như không có tướng ngôn thuyết phân biệt; ngã và vô ngã xưa nay không hai, vì phá ngã, cho nên hiển vô ngã, đó là nghĩa vô ngã”.

Kinh: Không có tự tánh… là nghĩa tịch diệt.

Tán: Không Lý Nghĩa ghi: “Tất cả pháp trong thắng nghĩa đế không tự tác dụng, cho nên không tự tánh, không do pháp khác tác dụng, cho nên không phải tha tánh, pháp do nhân duyên sinh, đều nói là không. Do đó nói không có sinh tử rõ ràng, sinh tử đã không thì cũng không có Niết-bàn, hôm nay vô đã diệt, Niết-bàn đã không cho nên không có thể tịch tĩnh, cũng không có phiền não. Diệt do rốt ráo tịch tĩnh hiển bày, đã thế đều không vì sự đã rốt ráo tịch tĩnh. Thánh giáo ghi: “Dù cho có một pháp nào hơn cả Niết-bàn, thì ta cũng nói là như huyễn như hóa”, lý không này là nghĩa tịch diệt, không thật có Niết-bàn để được. Do đó mà trung luận bách luận có phẩm phá Niết-bàn. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Trong Thắng nghĩa đế, các pháp hữu vi chẳng tự sinh, không có tự thật tánh; chẳng từ pháp khác sinh nên chẳng có tha thật tánh; chẳng do cộng sinh, nên chẳng có hai thật tánh trên. Tuy không có duyên tác dụng nơi đây, nhưng lại có công năng duyên có thể được. Dó đó mà không có sinh tử rõ ràng. Sinh tử đã không, cũng không thật diệt. Chân lý vốn diệt, chẳng phải nay mới diệt, cũng không có tự thể thật tịch tĩnh. Vì phiền não rốt ráo tịch tĩnh có thể làm cho hành giả rốt ráo tịch tĩnh, đó mới là nghĩa thật tịch diệt, gọi là Đại Niết-bàn, chẳng phải là giả Niết-bàn của Tiểu thừa.

Kinh: Khi thuyết pháp này… tâm được giải thoát.

Tán: Đoạn này là nói về lợi ích. Được quả A-la-hán như trước đã nói.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, con… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân sút kém xin thoái lui.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… vấn an bệnh của ông ấy.

Tán: Đây là lần thứ bảy, Đức Phật bảo Vô diệt. Đầu tiên là sai bảo, sau là từ chối. Đây là văn đầu, lời sai bảo: Tiếng Phạm A-ni luậtđà, Hán dịch là Vô diệt. Tương truyền giải thích rằng: “Trước đây tám vạn kiếp, từng cúng dường một vị Bích-chi-phật, thiện căn đạt được, đến nay vẫn không hết cho nên gọi là Vô Diệt. Kinh Thí Dụ ghi: “Sau khi Đức Phật Tỳ-bà-thi nhập Niết-bàn, A-na-luật là một kẻ trộm, lén vào Phật đường thấy đèn sắp tắt, bèn rút một mũi tên khêu đèn sáng lên, bỗng thấy Đức Phật uy nghiêm rực rỡ, nên sắc mặt tỏ vẻ kinh sợ, nghĩ rằng: “Người kia còn xả bỏ các vật để cầu phước, vì sao ta lại

trộm cắp”, do đó mà bỏ đi. Do thiện căn này, trong chín mươi mốt kiếp thường sinh vào cõi lành. Ngày hôm nay gặp ta được Thiên nhãn. Phước quả đạt được, chưa từng bị diệt nên gọi là Vô Diệt. Vả lại A-na-luật lại là anh em chú bác với Đức Phật, kinh truyền rằng: “Cha và chú của Thế Tôn gồm bốn người:

  1. Tịnh Phạn vương, có hai người con, con trưởng tên là Tát-phượchạt Thích-tha-tất-đà, Hán dịch là Nhất Thiết Nghĩa Thành, tức là Phật, con thứ tên Nan-đà.
  2. Hộc Phạn vương, có hai người con, con trưởng tên Thiên Thọ tức Đề-bà-đạt-đa, con thứ tên A-nan-đà.
  3. Bạch Phạn vương, có hai người con, con trưởng tên A-na-luậtđà, con thứ tên Ma-ha Nam.
  4. Cam Lộ Phạn vương, có hai người con, con trưởng tên Bạt-đề, con thứ tên Đề-sa.

Tám người này đều xuất gia. A-na-luật ngủ gục trong lúc đang nghe Phật thuyết pháp, Như Lai quở trách rằng: “Ôi, sao lại ngủ gục như thế, thật giống loài ốc!” Vô Diệt xấu hổ, nghe pháp mà buồn khóc, nhiều ngày không ngủ, nên mắt bị mù. Sau đó đến hỏi Kỳ-bà, Kỳ-bà hỏi nguyên nhân phát bệnh, Vô Diệt thuật lại đầy đủ. Kỳ-bà nói rằng, ngủ là thức ăn của mắt, nhiều ngày không ngũ mắt bị chết đói khó có thể chữa khỏi. Vô Diệt bèn tu Thiên nhãn, thấy được đại thiên. Người mà được Thiên nhãn thì thành hai loại mắt. Nhưng mắt người thì mù mà mắt trời thấy được vật, nửa thấy nửa không thấy, cho nên có tên là Bán Đầu Thiên nhãn. Nay được Đức Phật sai bảo.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Vô Diệt… Không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đây là phần từ chối, gồm ba: Đoạn này nói chung về việc đạo đã bị khuất phục. Vô Diệt được Thiên nhãn. Là hữu lậu vô ký, còn có tướng tức chẳng phải chân thật. Nêu lên hai vấn đề không thể trả lời được, cho nên đầu tiên liền nói không kham nhận.

Kinh: Vì sao?… kinh hành ở một nơi.

Tán: Đây là hiển lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong giải thích lại có hai: Đầu tiên nêu lên việc của mình, sau đó là thuật lại lời của Vô Cấu Xưng. Trong phần thuật lại việc của mình gồm có ba ý:

  1. Nêu việc kinh hành.
  2. Phạm vương đến hỏi.
  3. Trả lời.

Đây là phần tự hỏi và nêu lên việc mình kinh hành. Ở Ấn Độ đất ẩm thấp, ăn khó tiêu, nên phải lát gạch làm đường để đi lại cho tiêu thực. Vì đi qua rồi đi lại như vật lăn tới lui cho nên gọi là kinh hành. Nhân đây cũng được thuyết pháp tụng kinh. Các người học thiền cũng cần phải tu ánh sáng và các tướng.

Kinh: Lúc bấy giờ, có Phạm vương… có thể thấy được bao nhiêu?

Tán: Đoạn này là phần Phạm vương đến hỏi. Thiên nhãn trụ ở cõi trời Thiền, các Phạm vương đều được, nay thấy Vô Diệt chứng đắc cho rằng cũng thuận với mình nên đến han hỏi. Nhưng cõi thì có cao thấp, tu thì có hơn và kém, cho nên chứng thiên nhãn có thể thấy được bao nhiêu. Bản dịch xưa lầm lẫn.

Kinh: Lúc bấy giờ, con đáp rằng… quả A-ma-lạc.

Tán: Vô Diệt trả lời. Một cõi Phật hóa độ là tam thiên đại thiên. Vô Diệt là hàng Thanh văn cho nên thấy được như thế. Các loại quả ở Ấn Độ màu sắc khác nhau, quả A-ma-lạc được nhiều người ưa thích cho nên lấy làm dụ, để nói lên chỗ thấy rất rõ ràng.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nói rằng.

Tán: Đây là thuật lại lời của Vô Cấu Xưng, gồm hai:

  1. Nêu phép tắc đến gặp.
  2. Chính thức thuật lại.

Đây là lời văn thứ nhất.

Kinh: Thưa Tôn giả Vô Diệt… là không có hành tướng.

Tán: Phần chánh thức thuật lại, gồm năm:

  1. Cật vấn.
  2. Im lặng.
  3. Phạm vương hỏi.
  4. Đáp.
  5. Lợi ích.

Phần cật vấn có ba:

  1. Hỏi chung.
  2. Hỏi riêng.
  3. Tổng kết.

Đây là văn thứ nhất. Có hành tướng thì Không Lý Nghĩa giải thích rằng: Thiên nhãn đạt được, thể của nó có hành tướng sai biệt hay không có hành tướng sai biệt? Đầu tiên là hỏi về thế đế, sau là hỏi về chân đế”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Là có tướng trạng hành giải phân biệt hư vọng, hay không có tướng trạng hành giải phân biệt hư vọng? Lời luận bàn ở đây, mới nghe tựa như sóng dữ, không tâm duyên cảnh thì không có hành tướng, nếu không có hành tướng, thì làm sao duyên cảnh, như

Duy Thức đã nói. Nay hỏi hư vọng cho nên không bị lỗi.”

Kinh: Nếu có hành tướng… lẽ ra chẳng thấy.

Tán: Đây là hỏi riêng. Không Lý Nghĩa ghi: “Nếu thể của nó có hành tướng thì không khác với năm thần thông của ngoại đạo, thì đâu thể gọi là nội đạo? Đẳng nghĩa là không khác. Tức là chấp có thế tục đế. Nếu thể không có hành tướng tức là vô vi, vô vi chân đế, tánh của nó đều không, vậy làm sao có thấy”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Nếu có hành tướng hư vọng phân biệt, thì không khác với năm thần thông của ngoại đạo, vì đó là từ hư vọng phân biệt mà sinh. Tâm, tâm sở trong ba cõi đều hư vọng phân biệt. Nếu không có hành tướng phân biệt hư vọng tức đồng với vô vi chân như, lẽ ra chẳng thấy. Chân như tuy có, nhưng không có hành tướng, chẳng thể có thấy”. Xem xét câu hỏi này thì cũng nên hỏi hai câu về thiên nhãn của Thanh văn và Phật. Thiên nhãn của Phật thông với tâm tâm sở, chẳng phải không có hành tướng, nhưng chẳng phải là tâm phân biệt hư vọng, chẳng phải có hành tướng chẳng đồng với lời hỏi trước, cho nên không bị lỗi.

Kinh: Vì sao Tôn giả… có thể thấy được?

Tán: Đây là đoạn kết luận lời vấn nạn. Tất cả lý này đều chẳng phải, sao lại có thấy?

Kinh: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ im lặng không thể đối đáp được.

Tán: Đây là phần thứ hai, Vô Diệt im lặng. Lời và lý lẽ không, không thể thêm bớt được, cho nên im lặng không thể đáp.

Kinh: Nhưng các Phạm vương… ai được chân Thiên nhãn?

Tán: Thứ ba, Phạm vương hỏi. Thục tức là thùy (ai) Phạm vương nghe pháp ít có, liền được điều chưa từng gặp, nên hạ mình tôn người, hỏi trên thế gian này ai là người được chân thiên nhãn tối thắng.

Kinh: Vô Cấu Xưng đáp rằng… các tướng.

Tán: Thứ tư là đáp. Có Đức Phật Thích-ca, tu tập thiện căn đã lâu, được chân Thiên nhãn. Không Lý Nghĩa ghi: “Chân trí của Đức Thíchca bên trong thì khế hợp với chân không, chẳng xả bỏ tịch định, chẳng phải hữu vi, bên ngoài hay tùy thuận thế tục, thấy các cõi Phật chẳng phải vô vi, nên gọi là chân Thiên nhãn; chẳng đồng với ngoại đạo thấy hai tướng và các tướng khác. Hai tướng tức tổng tướng có không. Các tướng tức biệt tướng có không”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Thiên nhãn của Vô Diệt thì dụng mà chẳng tịch, đầu tiên nhập định rồi sau mới khởi Thiên nhãn. Thiên nhãn tán tâm là hữu lậu vô ký gọi là phi chân nhãn, chỉ thấy đại thiên. Thiên nhãn của Như Lai là vô phân biệt trí chánh quán chân như, chẳng bỏ tịch định, trong Hậu đắc trí, khởi nơi vô lậu là thiên tánh thiên nhãn, thấy các cõi Phật rộng khắp mười phương, không có hai tướng và các tướng. Hai tướng tức hữu hành và vô hành là tổng sai biệt tướng và cộng tướng. Các tướng tức biệt sai biệt tướng và tự tướng, đều là các tướng hư vọng phân biệt.

Kinh: Lúc bấy giờ, các Phạm vương… bỗng nhiên biến mất.

Tán: Thứ năm nói về lợi ích. Nghe pháp vi diệu hy hữu liền phát tâm thù thắng. Nghe hỏi đã xong, tự nhiên chẳng hiện nữa.

Kinh: Cho nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Tổng kết nguyên do từ chối và tự thân thấy kém sút nên xin thoái lui.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy.

Tán: Lần thứ tám, Đức Phật bảo Ưu-bà-ly. Đầu tiên là sai bảo sau là từ chối. Đây là lời sai bảo. Phạm Ưu-bà-ly, Hán dịch là Cận chấp. Khi Đức Phật còn làm Thái tử, Ưu-bà-ly là một cận thần, nắm giữ việc triều chính, cho nên gọi là Cận chấp. Tức vị quan giữ gìn kho tàng. Khi các vương tử họ Thích xuất gia, thì cho ông tất cả quần áo, mũ, vật báu, trang sức, voi cưỡi. Sau đó ông ấy nghĩ rằng, các Thích tử giàu có còn xả bỏ để xuất gia, ta là hạng người nào mà còn ở lại. Bèn treo mũ lên cành cây, cột voi vào gốc cây mà nguyện rằng, nếu có người đến lấy ta sẽ dâng cho, rồi đến chỗ của các vương tử thuật lại suy nghĩ của mình. Các vương tử đều vui mừng, bạch Phật xin độ Cận Chấp trước, làm bậc trên, để chúng con xả bỏ tâm ngã mạn, sinh lòng cung kính thừa sự. Đức Phật chấp nhận. Các vương tử cung kính lễ bái Bà¬ly, lúc ấy mặt đất chấn động, trên hư không có tiếng khen rằng: “Các vương tử họ Thích này, núi ngã mạn đã sụp đổ”. Hạ thấp đầu tôn quý của mình mà nay lễ bái chân thấp kém của người. Là bậc đệ nhất về trì luật, cho nên nay Đức Thế Tôn sai bảo.

Kinh: Lúc bấy giờ, Ưu-bà-ly… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đây là phần từ chối, gồm ba: Một là, nói chung về đạo đã bị khuất phục. Con y theo luật hạnh, dạy họ dứt trừ oan nghiệp, ông ấy nói chứng chân, thì tội nặng mới diệt. Con nói do thân ngữ mà tội được trừ, ông ấy nói hội nguồn tâm thì cấu uế mới sạch. Lý đã thua, lời cũng sút kém cho nên đều từ chối.

Kinh: Vì sao?… chẳng dám đến chỗ Phật.

Tán: Đây là đoạn nói về lý đã cùng tận, gồm hai:

  1. Nêu việc của mình.
  2. Thuật lời của Vô Cấu Xưng.

Trong phần nêu việc của mình lại gồm hai:

  1. Hai người đến xin xuất tội.
  2. Mình như pháp dứt trừ.

Trong phần hai người đến xin xuất tội lại chia ba:

  1. Nguyên do đến.
  2. Phép tắc đến gặp.
  3. Xin xuất tội.

Đây là văn thứ nhất. Phật là Pháp chủ, oai đức đặc biệt tôn quý, việc tầm thường nhỏ nhặt thật chẳng thể đến, cho nên phá hoại luật hạnh xấu hổ chẳng dám đến gặp Phật.

Kinh: Đến chỗ của con… mà nói với con rằng:

Tán: Đây là nói phép tắc đến han hỏi.

Kinh: Thưa ngài Ưu-bà-ly!… khỏi được tội này.

Tán: Đây là phần xin xuất tội. Tội nhỏ đã sinh sợ hãi lớn, lại phạm luật hạnh, thật lấy làm xấu hổ, nguyện xin giải trừ sự lo buồn, sự phiền não trong tâm chúng tôi, mà tránh được tội này, tội đã có thể khỏi, nói chẳng phải là Ba-la-di.

Kinh: Con liền vì họ… thanh tịnh tội đã phạm.

Tán: Đây là nói Ưu-ba-ly như pháp trừ diệt tội lỗi cho hai vị kia. Nói như pháp tức như luật. Việc nhẹ hoặc Thế Tôn chế nặng, việc nặng hoặc có thể chế nhẹ. Nhưng khi xuất tội chỉ là tác pháp, đạo lý phải nên như thế, chẳng phải là cách y theo nghiệp đạo để trừ diệt gốc tội. Như luật pháp giải nói đạo lý khiến họ trừ ưu não, thanh tịnh được tội lỗi đã phạm.

Kinh: Thị hiện, chỉ bày, khuyến tấn, an ủi.

Tán: Hiển pháp tướng như gồm:

  1. Thị hiện.
  2. Chỉ dạy.
  3. Khuyến tấn.
  4. An ủi.

Các kinh khác cũng thêm phần khiến lìa dục. Luận Du-già tám mươi mốt ghi: “Khiến lìa dục, nghĩa là chê trách tất cả sáu hành hắc phẩm, chỉ bày tội lỗi, khiến xa lìa ái nhiễm”, tức là dạy khuyến trừ lo buồn ăn năn. Thị hiện nghĩa là khiến thọ học các hạnh bạch phẩm, nêu ra bốn đạo lý chân thật. Chỉ dạy, nghĩa là đã thị hiện thì được tin hiểu, liền lập bày chỗ học, khiến chánh thọ thực hành. Do đó họ được tự tại và liền hỏi: “Bây giờ tôi nên làm như thế nào? Xin chỉ dạy cho”. Nhân đó mà bảo rằng: “Bây giờ các ông đối với việc như thế nên làm nên học”. Khuyến tấn, nghĩa là đối với chỗ biết, chỗ làm, chỗ được họ sinh tâm lui sụt, thì bấy giờ nên khen ngợi, sách tấn tâm họ, khiến đối với việc ấy có thế lực mạnh mẽ. An ủi, nghĩa là họ dõng mãnh chân chánh thực hành pháp và tùy pháp, tức nên như thật vui mừng tán thán, khiến cho họ hoan hỷ. Có một cách giải thích khác cũng đồng như luận kia; tức trong đó cũng là khiến lìa dục nhiễm: Chỉ bày bạch phẩm, khuyên hành chánh hạnh, sách tấn khen ngợi chớ thoái lui, vui mừng với việc làm của họ, khiến sinh tâm hoan hỷ, gọi là như pháp mà thuyết, bản dịch xưa thiếu các việc này.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng.

Tán: Thuật lại lời của Vô Cấu Xưng, gồm hai:

  1. Phép tắc đến han hỏi.
  2. Chính thức thuật lại.

Đây là văn đầu tiên.

Kinh: Thưa ngài Ưu-ba-ly!… chớ làm rối loạn tâm của họ.

Tán: Thuật lời của ngài Vô Cấu Xưng, gồm năm:

  1. Nêu chánh lý.
  2. Tán dương.
  3. Đã dạy.
  4. Tội diệt.
  5. Phát nguyện.

Nêu chánh lý, gồm có ba:

  1. Bài bác chung.
  2. Hiển chánh.
  3. Kết luận chánh lý.

Đây là văn thứ nhất. Không Lý Nghĩa ghi: “Hai người phạm tội, do chấp có tướng, nên xin diệt trừ tội, lại chỉ dạy là tội có khởi, lấy có tăng thêm vào có, cho nên gọi là tăng tội. Nên diệt trừ thẳng tâm ưu não cho họ, nên nói vô tướng, tội tánh vốn không, là diệt trừ tội cho họ, chớ dùng “có tội” mà não loạn tâm họ”. Nhiễu tức là loạn. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Hai người phạm tội, tội là nghiệp đạo, cần phải chứng lý thể, đạt được hư huyễn, mới nhổ được gốc tội. Nhưng y theo tác pháp là dùng sự để diệt, thì miệng đúng tâm sai, diệt mà chẳng diệt, tội nghiệp lại sinh, nên gọi là tăng tội. Nên nói chân lý, khiến cho chứng ngộ, nên nói tục chúng như huyễn, khiến họ liễu đạt, gọi đó là trừ diệt thẳng tội cho họ, nhổ sạch chủng tử tội lỗi, chớ dùng sự tướng làm não loạn tâm họ để hiện tội tiêu diệt.

Kinh: Vì sao?… chẳng tại ở giữa.

Tán: Hiển chánh lý, gồm có hai:

1. Nói về chân lý khiến chứng được gốc tội.

2. Nói về việc tục khiến biết được tội là hư giả, tức câu “Thưa ngài Ưu-bà-ly tất cả pháp tánh, sinh diệt chẳng trụ…”, tướng của tội không thật, dể dứt trừ, chủng tử gốc tội vốn chân thật, chứng đạt đó thì tội diệt.

Tội diệt, tức là nhổ trừ các chủng tử quả khổ phiền não ác nghiệp như đoạn dứt chủng tử, tức diệt mà chẳng sinh, nếu thân ngữ sám hối thì chỉ gọi là chế phục, tăng sức giảm năng lực, chẳng phải là chân thật diệt tội, về sau tội lại sinh.

Trong phần thứ nhất lại chia làm ba:

  1. Nói về chánh lý.
  2. Hỏi khiến cho hiển.
  3. Nói về tướng hiển tịnh.

Trong phần nói về chánh lý gồm ba ý: Một là, nói về tánh tội; hai là, nói về chỗ y cứ của tội; ba là thể của tội.

Đây là văn đầu tiên. Không lý Nghĩa ghi: “Tánh tội tức Lý chân không, không có chỗ trụ; tánh tội nếu có thì trụ ở nội căn; và do ngoại sáu cảnh, nên có khoảng giữa. Tánh tội vốn không, đều không có chỗ trụ. Trong thế tục đế, tội trụ ở sáu căn, sáu trần làm duyên mà khởi tội, cho nên gọi là ở ngoài. Trong nhân, ngoài duyên, nên trụ ở giữa. Sáu thức… ở bên trong. Tánh tội đã không, cho nên không có chỗ trụ. Chứng biết được tánh tội vốn không, thì có tội gì?”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Tánh tội là lý chân như, lý này chẳng nương vào nội căn, ngoại cảnh mà trụ ở khoảng giữa. Do mê lý này nên xoay vần tội sinh, chứng đạt được lý này thì tội vĩnh viễn diệt tận.

Kinh: Như lời Phật dạy… thì hữu tình thanh tịnh.

Tán: Đây là nói về chỗ y cứ của tội, gồm có hai:

  1. Nói người giả y cứ vào tâm mà thành.
  2. Nói thể của tội y vào tâm mới khởi.

Tội y vào tâm mới sinh khởi.

Đây là đoạn văn đầu tiên. Tội tức do nghiệp thân ác tạo tác, thể của nó là hiện hành và chủng tử của tư bất thiện, lấy tâm làm chỗ y cứ, tức năng y của tư, việc này có thể phá hủy, chán lìa cho nên gọi là tội. Vì thế đầu tiên nói về chỗ y cứ của tội để khiến cho họ được liễu đạt, sau đó mới nói đến thể của tội. Sắp nói đến chỗ y cứ của tội thì trước dẫn lời Phật. Lý Không Nghĩa ghi: “Đây là dẫn giáo thế tục. Tâm tức sáu thức, chẳng nói có tám. Nếu thật có tâm thì thật có tội, tức hữu tình 91 có tạp nhiễm, tâm tánh vốn không thì tội chẳng có, hữu tình thanh tịnh”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Luận Thành Duy Thức nói tâm là thức thứ tám. Hữu tình là ngũ uẩn giả, đều là y vào tâm kia mà giả kiến lập. Thức tâm thứ tám nếu thuộc về hữu lậu tạp nhiễm thì người giả năng y cũng là tạp nhiễm, nếu thức tâm thứ tám sở y thuộc về vô lậu thanh tịnh thì người giả năng y cũng thanh tịnh. Nay ở đây đều nương vào tám thức kiến lập hữu tình giả, lấy tâm làm gốc, cho nên tội và người tội lìa tâm thì chẳng có.

Kinh: Tâm như thế… chẳng trụ ở giữa.

Tán: Nói về thể của tội nương vào tâm mới khởi. Lý Không Nghĩa ghi: “Tâm như thế, nghĩa là trong Thắng nghĩa đế cũng chẳng y cứ vào trong, ngoài, chẳng ở giữa; vì bản tánh không hay khởi thể của tội, nên chẳng phải chân thật”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Tám thức tâm này chẳng đồng sáu thức mà Nhị thừa đã nói. Sáu thức thật chẳng trụ ở sáu căn, chẳng trụ ở ngoài hoặc ở khoảng giữa. Chỉ nương vào chân như pháp giới thanh tịnh mà trụ, do đó tội cấu cũng không có chỗ trụ.

Kinh: Tâm ấy như thế… chẳng lìa như.

Tán: Đây là nói về tội thể. Không Lý Nghĩa ghi: “Tâm sở y như thế vốn không tịch, không có chỗ trụ, tội cấu năng y, trong Thắng nghĩa đế cũng vô tự tánh, không có chỗ nương gá. Tội cấu đã như thế, các pháp cũng như thế. Vậy cái gì là duyên của tội, ai là người lìa tội? Vì tâm, tội và pháp chẳng lìa như, như là không vô”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Như bản tâm kia, chẳng trụ trong ngoài, chỉ y vào chân như. Tội cấu năng y cũng y vào như, chẳng y trong ngoài. Tội cấu như đã thế thì duyên phạm tội và người lìa tội và tất cả các pháp cũng chẳng lìa như, chẳng y trong ngoài, đều không có thật tội, tất cả đều là lý chân như. Do mê tâm cho nên các tội lỗi sinh khởi, có thể hủy có thể trách nên gọi là tội. Do ngộ được tâm nên tội diệt, thiện sinh, có thể tán thán vui mừng, cho nên gọi là phước. Vì thế nói “Tội do tâm sinh cũng từ tâm mà diệt”.

Kinh: Thưa ngài Ưu-ba-ly!… đã từng nhiễm chăng?

Tán: Đây là phần hỏi khiến cho hiểu, gồm có ba ý:

  1. Hỏi.
  2. Đáp.
  3. Khiến cho hiểu.

Đây là lời hỏi: Không Lý Nghĩa ghi: “Tâm ông vốn tịnh vì tánh vốn không. Không nhiễm cho nên tịnh, khi ông được Niết-bàn giải thoát quả A-la-hán thì tâm tánh không này có nhiễm chăng? Phàm Thánh tuy khác, nhưng tâm chẳng khác. Cho nên mới hỏi”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Luận Thành Duy Thức giải thích tâm tánh tịnh gồm hai nghĩa:

1. Tức tâm chân như pháp tánh, nên kinh Thắng Man nói tự tánh thanh tịnh tâm, mà có thể nhiễm ô, thật khó liễu tri được.

2. Tâm nhân duyên, tức Luận Du-già năm mươi bốn nói tâm Y tha tánh, tánh chẳng có phiền não nên gọi là bản tánh tịnh. Nay nói tâm kia chẳng phiền não nên nói là bản tánh tịnh, tương ưng với nhiễm nên gọi là nhiễm tâm, chẳng phải thể của tâm nhiễm mà gọi là tâm nhiễm. Tâm này không chỉ khi chưa được giải thoát bản tánh vốn tịnh, mà khi được giải thoát cũng từng không nhiễm. Nay chỉ hỏi khi ông chưa được giải thoát, tâm bản tánh tịnh kia từng có nhiễm chăng? Dùng tâm khi chưa giải thoát so sánh với tâm bản tánh tịnh giải thoát.

Kinh: Con nói: Không… cũng lại như thế.

Tán: Đây là lời đáp. Được giải thoát tâm cũng chưa từng nhiễm.

Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… cũng như thế.

Tán: Đây là lời nói khiến cho hiểu được. Không Lý Nghĩa ghi: “Đạt Thánh chứng chân, biết tâm vốn không, vì thế chẳng nhiễm. Cho nên biết tâm tánh của hữu tình vốn tịnh, từng không nhiễm ô, ý cũng như thế, vì đồng là tâm không”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Dùng tâm nhân duyên phàm so sánh với tâm nhân duyên Thánh, xưa nay chẳng nhiễm thì ý cũng như thế; vì đều là tâm tánh. Do đó có thể biết tư ác là tội, như khách tạm có, nhiễm ô tâm kia, chứng lý thì trí sinh, khách tội liền diệt. Cho nên tâm đã đoạn trừ hoặc, gọi là lìa tương ưng phược, đây lại chẳng phải là duyên cảnh, nên gọi là lìa sở duyên phược. Do lìa hai phược nên gọi là tâm giải thoát, vì chứng đạt được lý, nên đạt được lý tâm. Nên gọi là tội diệt.

Kinh: Thưa ngài Ưu-ba-ly… tức là tánh thanh tịnh.

Tán: Đây là nói về tướng nhiễm tịnh, lược nêu ba phen, đây là phen thứ nhất. Tâm có phân biệt chung và phân biệt riêng tức có phiền não, phiền não khởi, tức tội bèn sinh, liền chiêu cảm sinh tử; nếu không có phân biệt chung và phân biệt riêng tức không có phiền não, không phiền não thì tội nghiệp chẳng khởi, liền được thanh tịnh chứng Niếtbàn. Phân biệt, tức nói chung về các phân biệt, phân biệt riêng tức các chấp trước. Do hai tâm này mà ông sinh phiền não. Nếu không phân biệt thì liền được thanh tịnh.

Kinh: Nếu có điên đảo… tức tánh thanh tịnh.

Tán: Đây là phen thứ hai. Điên đảo tức là chấp thật có thường lạc ngã tịnh. Trái với chân lý, nên gọi là điên đảo. Hoặc nói bảy điên đảo, tức bốn loại trên cộng với ba loại là tưởng, tâm và kiến. Khởi vọng tưởng phân biệt bốn loại trên nên gọi là tưởng đảo, chấp nhận ham thích bốn loại trên mà chấp trước, gọi là kiến đảo. Tâm đảo, tức các phiền não như tham… ở nơi các chấp trước kia. Gồm có ba loại:

  1. Lấy ngu si làm gốc.
  2. Lấy Tát-ca-da kiến, biên kiến, một phần kiến thủ,giới cấm thủ làm tự tánh.
  3. Lấy các phiền não khác làm Đẳng lưu, như Du-già tám đã nói, có các đảo này tức có phiền não, không có các đảo này tức trở thành thanh tịnh. Ông đã có phiền não nên nay có điên đảo.

Kinh: Nếu có thủ ngã… tức tánh thanh tịnh.

Tán: Đây là phen thứ ba. Thủ tức chấp thủ; chấp ngã là gốc thì tạp nhiễm liền sinh, nếu chẳng chấp thủ ngã thì liễu đạt vô ngã, tức tánh liền thanh tịnh. Ông đã có tạp nhiễm, nên nói có chấp thủ ngã, hiển thị hai người kia có nguyên do khởi phiền não. Ở trên là khiến cho biết chân thì tội cấu tự diệt, ở dưới đây là khiến cho biết tục thì tội dễ trừ.

Như biết được duyên giặc thì dễ phá dẹp.

Kinh: Thưa ngài Ưu-ba-ly!… như điện như mây.

Tán: Đây là nói về việc tục, khiến cho người biết được chân ngụy. Gồm có bốn lớp. Đây là lớp thứ nhất, nói về tục có sinh diệt. lược nêu lên bốn dụ, như huyễn, hóa, điện, mây. Tất cả đều không thật, đều chẳng dừng trụ, tánh tự hư giả.

Kinh: Tất cả pháp tánh… chẳng tạm dừng trụ.

Tán: Đây là lớp thứ hai, nói tục mau chóng không thể nương gá, chẳng dừng trụ một niệm, mau chóng biến diệt.

Kinh: Tất cả pháp tánh… như thành Kiền-đạt-phược.

Tán: Đây là lớp thứ ba, nói thể của tục do hư vọng mà thấy. Ở đây gồm có ba dụ là như thấy cảnh mộng, do tưởng tư sinh khởi. Như dương diệm vì do khát ái mà sinh; chấp thật có nước. Như thành Kiền-đạtphược, Hán dịch là thành Tầm hương. Ở Ấn Độ gọi người tấu nhạc là Tầm hương, những người này không chịu làm nghề gì để sinh sống, chỉ tìm mùi hương của thức ăn, đến tấu nhạc mà cầu xin. Ngôi thành huyễn hóa này có lầu gác rất đẹp dễ ưa thích nên gọi là thành Tầm hương. Hơi nước trên biển khi có ánh mặt trời chiếu vào thì ở xa trông như có tường thành, cũng tựa như huyễn thành, nước xao động phát ra âm thanh nhẹ nhàng như tấu nhạc, giống như thành Tầm hương, cho nên cũng gọi là Tầm hương thành. Vì dối hoặc mà sinh khởi cho nên nay lấy làm dụ.

Kinh: Tất cả pháp tánh… như ảnh trong gương.

Tán: Đây là lớp thứ tư, nói tâm tục tạo tác, như bóng trăng trong nước; trong nước thật chẳng có trăng, tâm vọng cho là có, chẳng biết lấy nước làm duyên, lại thấy mặt trăng thật. Tất cả các việc thế tục đều do tâm tạo, chẳng biết tự tâm, bèn cho là có ngoại cảnh. Ảnh trong gương, cũng chẳng phải là ảnh thật, lấy gương làm duyên thì lại thấy được mặt thật. Cảnh chấp thủ của tâm cũng như thế, chẳng biết tự tâm, cho rằng lìa tâm có cảnh. Nếu ảnh trong gương là thật có, vậy thấy đi vì sao chẳng đi, thấy đến vì sao chẳng đến? Gương kia đã chẳng thật, các việc tục cũng như thế.

Kinh: Người biết như thế… gọi là khéo điều phục.

Tán: Kết luận chánh lý. Luật tức luật nghi và giới, chứng chân biết tục, khéo có thể làm quy tắc cho người. Điều phục tức điều phục ba nghiệp, dứt trừ các pháp ác, biết rõ tánh tội, nương vào gốc tội; rõ biết tướng tội, gốc tội dễ nhổ sạch, đó gọi là khéo điều phục.

Kinh: Lúc bấy giờ, hai vị Bí-sô… mà chẳng thể nói năng.

Tán: Đây là phần tán dương. Đầu tiên thì được pháp chưa từng có, sau đó là chính thức khen ngợi trí tuệ biện tài, là điều mà Ưu-ba-ly chẳng thể bằng được.

Kinh: Con liền nói rằng… khởi tưởng về cư sĩ.

Tán: Đoạn thứ ba nói về tự mình khuyên bảo. Đầu tiên thì nêu chung, sau là nói riêng. Đây là nói chung.

Kinh: Vì sao?… thù thắng như thế.

Tán: Trừ Đức Phật ra, còn không ai có thể chế phục được trí tuệ biện tài của ông ấy, trí tuệ và biện tài của ông ấy như thế.

Kinh: Bấy giờ, hai vị Bí-sô… phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tán: Đoạn này nói về tội diệt. Tuy chưa chứng chân nhưng chủng tử tội đã trừ sạch. Đầu tiên nghe diệu lý thì ưu não đoạn dứt, không chỉ tội diệt mà còn phát tâm Vô thượng giác.

Kinh: Liền lễ kính… tuệ biện thù thắng.

Tán: Phần thứ năm, nói về phát nguyện. Các vị Bí-sô tân học, đã phạm tội, vừa thấy tuệ biện như thế, ai mà không cung kính, cho nên lễ bái.

Kinh: Bấy giờ, con im lặng… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân sút kém xin thoái lui.

PHẦN 3

Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh của ông ấy.

Tán: Đây là lần thứ chín, Đức Phật bảo La-hổ-la. Đầu tiên sai bảo, sau là phần từ chối.

Đây là lời sai bảo. La-hổ-la, Hán dịch là Chấp Nhật. Chấp Nhật vốn là tên của một A-tu-la. Tức là La-hầu A-tu-la vương nói trong kinh Pháp Hoa. Đây là tiền quân phi thiên. Khi phi thiên sắp đánh nhau với trời Đế Thích thì vị này làm tiền quân, thấy Thiên tử Nhật Nguyệt phóng ánh sáng chiếu vào mắt phi thiên, phi thiên này liền dùng tay cầm mặt trời che ánh sáng kia. Nay vị đệ tử này của Phật lấy dụ đó làm tên ý cũng như thế. Phật pháp như mặt trời, người con này làm chướng ngại ánh sáng mặt trời trí tuệ Phật pháp của Ta, như phi thiên kia, cho nên lấy đó làm tên. Xưa tên là Cung Sinh. Khi Da-du bị hiềm nghi, liền lập thệ tự minh oan: thật là con của Thái tử, chẳng phải là con của kẻ khác bên ngoài, cho nên gọi là Cung Sinh. Về nhân duyên của vị đệ tử này như các kinh đã nói rõ: “Khi xưa làm vua, có một vị Sa-môn cầu diện kiến, trải qua sáu ngày không cho gặp, hoặc cho rằng lấp hang chuột sáu ngày, ngăn chặn làm cho mẹ con chuột hết thức ăn. Cho nên nay bị quả báo ở trong thai sáu năm. Sau Đức Phật đến nước Ca-la-la, ngày thứ bảy hóa một ngàn vị Tỳ-kheo đều giống như Đức Phật, khiến La-hầu chọn đúng Đức Phật, La-hầu liền đến trước Phật, nói là con Phật. Đức Phật bèn bảo Xá-lợi và Mục-liên độ xuất gia. Bấy giờ La-hầu còn nhỏ.

Sợ văn dài dòng nên không thuật đủ.

Kinh: Lúc bấy giờ, La-hổ-la… không thể đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Từ đây trở xuống là phần từ chối, gồm có ba là nêu chung về đạo bị khuất phục. Xưa tán thán xuất gia là hữu vi hữu tướng, thì ông Vô cấu lại nêu xuất gia là vô vi vô tướng. Dùng chân mà cật vấn tục, cho nên đạo bị khuất lời đã cùng, vì thế chẳng kham nhận.

Kinh: Vì sao?… công đức thắng lợi.

Tán: Đây là phần nói về lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi sau là giải thích. Trong đoạn giải thích lại gồm có hai:

  1. Nêu lên việc của mình.
  2. Thuật lại lời của ngài Vô Cấu Xưng.

Nêu việc mình gồm có hai là người khác hỏi và mình đáp.

Đây là đoạn tự hỏi và người khác hỏi. Các đồng tử này thuộc giòng Bà-la-môn họ là Lý-chiêm-tỳ. Nếu Phật làm Luân vương thì Lahổ-la được kế thừa, cho nên nay tán thán cũng gọi là Luân vương. Luân vương có bốn hạng là Thiết, Đồng, Ngân, Kim, mỗi mỗi đều làm vua cai quản nhân dân trong một, hai, ba, bốn thiên hạ, như thường giải thích. Đã xả bỏ ngôi đế vương tầm thường mà xuất gia, vậy nêu công đức xuất gia có lợi ích gì?

Kinh: Con liền như pháp… công đức thắng lợi.

Tán: Đây là lời đáp. Xuất gia thì rộng lớn như hư không, tại gia thì bức bách giống như ở lao ngục. Cho nên kinh nói loài khổng tước tuy thân màu sắc rực rỡ nhưng không bằng loài hồng hạc bay cao xa, hàng bạch y tuy có giàu sang thế lực nhưng không bằng xuất gia có công đức thù thắng. Công đức tức sinh thiện, thắng lợi tức diệt ác. Công đức tức phước, thắng lợi là trí. Thắng lợi có thể xuất thế gian, công đức tức phước tuệ gồm đủ.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng.

Tán: Đây là thuật lời của ngài Vô Cấu, gồm năm:

  1. Chánh thức nêu lý để cật vấn.
  2. Khuyên người xuất gia.
  3. Đồng tử hỏi.
  4. Vô Cấu chỉ dạy.
  5. Đồng tử đạt được lợi ích.

– Trong phần thứ nhất lại chia làm ba:

  1. Bài bác chung.
  2. Hỏi riêng.
  3. Kết luận chánh lý.Đây là văn đầu tiên.

Kinh: Vì sao?… đó là xuất gia.

Tán: Đây là đoạn vấn cật riêng, gồm có hai:

1. Nêu lên. 2. Hiển thị.

Đây là văn đầu. Không Lý Nghĩa ghi: “Trước khen xuất gia thế tục có tướng, nay dùng thắng nghĩa vô tướng để vấn cật, cho nên nói không có thắng lợi, không có công đức”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Thế tục sự là ngọn, thắng nghĩa lý là gốc, trước khen xuất gia là khen tục sự là ngọn, nay dùng lý là gốc làm chánh, cho nên nói không thắng lợi, không công đức là chân xuất gia.

Kinh: Thưa ngài La-hổ-la!… công đức thắng lợi.

Tán: Đây là phần hiển bày, gồm có ba:

  1. Nói về xuất gia hữu vi hữu tướng.
  2. Nói về xuất gia vô vi vô tướng.
  3. Nói về công đức và thắng lợi của xuất gia Đại thừa.

Đây là văn thứ nhất. Trước Vô Cấu nói rằng có công đức, thắng lợi, thể tướng, là thuộc hữu vi hữu tướng, chẳng phải là thắng nghĩa đế.

Kinh: Phàm xuất gia… công đức thắng lợi.

Tán: Đoạn này là nói về xuất gia vô vi vô tướng. Không Lý Nghĩa ghi: “Phàm xuất gia là muốn dứt trừ thế tục hữu tướng, mong cầu hướng đến thắng nghĩa vô vi tánh không. Trong tánh không nào có đức và lợi”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Tất cả bậc Thánh đều là vô vi mà có sai biệt. Vô vi tức là Niết-bàn giải thoát, lý chân như tịch diệt; Niết-bàn xa lìa sinh tử trói buộc. Chân như vắng lặng xa lìa hư vọng điên đảo. Tánh trạch diệt xa lìa hai thắng chướng. Vì cầu vô vi nên xuất gia. Vì đó là gốc của đức cho nên chẳng phải hữu vi, vì chẳng phải là gốc của đức, nên vô vi vô đức vô lợi. Trong pháp vô vi, không có sai biệt, công đức tánh tướng cũng không sai biệt. Tác dụng thắng lợi không gì không là công đức và thắng lợi lắng trong. Vả lại người xuất gia là xa lìa phân biệt chấp, mà có đức có lợi là có phân biệt, chẳng phải là chân xuất gia. Cho nên chân xuất gia là phá phân biệt chấp trước, không có công đức và thắng lợi.

Kinh: Thưa ngài La-hổ-la… chẳng sắc phi sắc.

Tán: Đây là nói về công đức và thắng lợi của xuất gia Đại thừa, gồm hai mươi bốn câu. Bản dịch xưa có hai mươi hai câu thiếu câu chẳng sắc phi sắc và câu không có các thủ trong bản mới, nhưng trong câu chỉ quán song tu lại thiếu tu quán, trong đoạn ác tu thiện lại thiếu tu thiện. Đoạn này có ba câu, Không Lý Nghĩa ghi: “Trong thắng nghĩa đế không có kia là bỉ, đây là thử, cũng không có khoảng giữa, xa lìa các kiến, cũng không có sắc và vô sắc khác nhau”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Trong ba câu này thì một là nói về không có đây kia và khoảng giữa, người xuất gia nên dứt trừ phân biệt ta và người, ngoài thân không có kia là bỉ, nhiếp người đồng với mình, thường thực hành tế độ. Ngoài người không có đây là mình. Khi người được vui thú thì cũng như chính mình được. Cũng chẳng phải ngoài ta và người lại có khoảng giữa. Câu hai là nói về xa lìa các kiến. Năm kiến đều đoạn. Bản xưa nói sáu mươi hai kiến đều thuộc về biên kiến và tà kiến, tướng rất hạn hẹp. Câu ba là nói về chẳng phải sắc và phi sắc. Sắc tức để nghiêm sức dung nghi, vô sắc tức thông đạt rõ biết, cả hai đều không chấp giữ nên gọi là chẳng phải. Hoặc cho rằng ngoại đạo vọng kiến chấp ngã là sắc, vì chấp sắc uẩn là ngã, chấp ngã là phi sắc, vì chấp mạng căn do bốn uẩn hợp thành là thật ngã, như trong sáu mươi hai kiến nói ngã là có sắc, sau khi chết có tưởng, chấp ngã vô sắc, sau khi chết vô tưởng… tất cả đều chẳng phải là vô vi xuất gia. Cho nên lìa các lỗi mà thuận theo điều đúng, căn cứ theo văn sau sẽ biết rõ.

Kinh: Là con đường Niết-bàn… được bậc Thánh nhiếp thọ.

Tán: Đoạn này gồm ba câu. Không Lý Nghĩa ghi: “Không phải đây kia và khoảng giữa, tức có thể đến Niết-bàn, cho nên gọi là con đường. Thông đạt các kiến, người trí khen ngợi. Chẳng phải sắc và phi sắc, nên bậc Thánh nhiếp thọ”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Vô vi mà xuất gia thì một là đạt đến Niết-bàn; hai là, bậc Thánh khen ngợi; ba là, các Thánh nhiếp thọ, tức được chư Thánh luôn luôn bảo vệ và lãnh nạp, vì đó là hơn hết. Bản dịch xưa ghi: “Trụ nơi Niết-bàn”, từ đây làm con đường có thể ở nơi Niết-bàn”. Lại ghi: “là chỗ làm của bậc Thánh” tức là bậc Thánh khen ngợi, vì khế hợp tâm bậc Thánh.

Kinh: Hàng phục các ma… xa lìa các pháp ác.

Tán: Đoạn này gồm bảy câu. Không Lý Nghĩa ghi: “Phân biệt chấp có là các ma, liền vào năm đường, chẳng được năm nhãn, không có năm căn lực, làm tổn hại chúng sinh, ác của mình chẳng đoạn. Nếu đạt được không mà xuất gia, thì các ma tự quy hàng, cho đến… ác của mình liền tiêu diệt”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Vì pháp vô vi mà xuất gia thì một là, hàng phục được bốn ma, hai là, vượt khỏi năm đường, ba là, được năm nhãn; bốn là, lập được năm căn; năm là, đạt được năm lực; sáu là, không làm tổn hại tất cả chúng sinh; bảy là, xa lìa tất cả pháp ác của mình. Năm nhãn:

  1. Nhục nhãn, chẳng phải do tu định sinh mà lấy tịnh sắc do bốn đại tạo ra làm tánh.
  2. Thiên nhãn, tức tịnh sắc của bốn đại tạo, do tu tập mà sinh ra.
  3. Pháp nhãn, tức tuệ hữu duyên với giáo pháp.
  4. Tuệ nhãn, tức không trí duyên với lý.
  5. Phật nhãn, tức diệu trí chiếu soi tự tha.

Còn bốn ma, năm đường, căn, lực thì như trước đã giải thích.

Kinh: Phá dẹp ngoại đạo… lìa ngã ngã sở.

Tán: Đoạn này gồm sáu câu. Không Lý Nghĩa ghi: “Nếu là xuất gia hữu vi hữu tướng, thì không thể phá dẹp ngoại đạo, siêu việt giả danh cho đến chẳng thể lìa ngã và ngã sở. Nếu là xuất gia vô vi vô tướng thì có thể phá dẹp ngoại đạo lìa ngã và ngã sở”. Ứng Lý Nghĩa ghi: “Nếu xuất gia vô vi vô tướng thì: một là, có chánh kiến cho nên có thể phá dẹp ngoại đạo; hai là, pháp thể bặt lời cho nên siêu việt giả danh; ba là, được đại Niết-bàn, xa lìa vũng bùn tham dục; bốn là, không đắm trước cho nên không bị trói buộc; năm là, không có ta, người cho nên không có chỗ nhiếp thọ. Bản dịch xưa đảo nghịch rằng: “không có sở thọ nên lìa ngã và ngã sở”.

Kinh: Không có các thủ… khéo hộ trì tâm người.

Tán: Đoạn này gồm ba câu. Không Lý Nghĩa ghi: “Thủ nghĩa là phân biệt chấp thủ; nhiễu nghĩa là phiền nhiễu. Loạn tức não loạn, điều tức chế phục; hộ tức tùy hộ vệ. Vì vô vi không mà xuất gia nên không chấp thủ, lìa phiền não, chế phục tự tâm, khéo bảo hộ ý người, vì hữu vi tướng ma xuất gia thì chẳng được như thế.” Ứng Lý Nghĩa ghi: “Một, lìa các thủ, thủ tức là tham trước chấp thủ. Thể tức bốn thủ:

  1. Dục thủ duyên năm cảnh tham.
  2. Kiến thủ, chấp thủ các kiến.
  3. Giới thủ, chấp thủ các giới.
  4. Ngã ngữ thủ, chấp có một thật ngã riêng biệt, không có thể của ngã mà chỉ có tên, gọi là ngã ngữ thủ.

Thể của ba thủ sau như tên gọi, mỗi mỗi đều lấy kiến chấp của chính mình làm tánh. Ở đây không có các thủ gọi là đạo chiết phục, đoạn trừ các thủ gọi là đạo đoạn hoặc.

Hai là, không có nhiễu loạn, nhiễu nghĩa là tản ra, loạn nghĩa là xao động; tức là thể tán loạn tâm dong ruổi theo cảnh, loạn động không an định, cho nên gọi là nhiễu loạn. Hoặc nói sáu tán loạn:

  1. Tự tánh.
  2. Tướng.
  3. Thô trọng.
  4. Trong.
  5. Ngoài.
  6. Tác ý.

Ba là, điều phục tự tâm, bảo hộ tha tâm; tự tâm phiền não thì khéo tự điều phục; bảo hộ tâm người chớ khiến người sinh phiền não, mà lại còn thành tựu cho họ.

Kinh: Tùy thuận tịch chỉ… tu tất cả thiện.

Tán: Đoạn này gồm hai câu:

  1. Thuận theo định tu tập tuệ. Tịch chỉ tức là định; thắng quán tức là tuệ. Hai môn chỉ quán gồm thâu tất cả công đức.
  2. Lìa ác tu thiện gọi là chân xuất gia. Không Lý Nghĩa ghi: “Quán thấu đạt được tánh không, tâm thường trụ tại nơi đây, cho nên gọi là chỉ quán. Biết tục chứng chân, cho nên gọi là đoạn tu.

Kinh: Nếu có thể như thế thì gọi là chân xuất gia.

Tán: Kết luận chánh lý.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nên cùng xuất gia.

Tán: Đây là phần thứ hai, khuyên nên xuất gia. Đầu tiên là khuyên chung, sau là nêu lý do khuyên bảo. Đây là văn đầu tiên. Phật pháp khế hợp với chân lý, cho nên gọi là khéo thuyết. Tỳ-nại-da, Hán dịch là điều phục tức là quảng luật, người xuất gia chính là được Phật pháp điều phục nhiếp trí. Khuyên nên nương vào luật mà xuất gia. Đây chính là Tỳ-nại-da của Đại thừa.

Kinh: Vì sao?… khó được bậc nhất.

Tán: Đây là hiển thị nguyên do khuyên bảo, gồm có bốn điều khó:

  1. Khó gặp Phật xuất thế.
  2. Khó tránh khỏi tám vô hà.
  3. Khó được thân người.
  4. Khó gặp được cõi hữu hà.

Nay đã được hữu hà, có thể cho rằng có công đức, các ông nên xuất gia. Bản dịch xưa không ghi ba việc sau.

Kinh: Các đồng tử nói rằng… không được xuất gia.

Tán: Phần thứ ba, các đồng tử hỏi. Trong các già nạn, cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia, chẳng phải tự tâm chúng tôi không thích xuất gia.

Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… thành tánh Bí-sô.

Tán: Phần thứ tư, ngài Vô Cấu Xưng chỉ dạy. Xuất gia gồm có hai:

  1. Thân xuất gia tức cạo tóc đắp y.
  2. Tâm xuất gia tức phát tâm tu hành.

Phát tâm tu hành là chân xuất gia, thọ trì giới cấm, thành tựu tánh Bí-sô; đắp y cạo tóc thành tựu tướng Bí-sô. Nay khuyên xuất gia tức theo chân xuất gia.

Kinh: Bấy giờ, ba mươi hai đồng tử… lập thệ tu chánh hạnh.

Tán: Phần thứ năm, các đồng tử được lợi ích.

Kinh: Bấy giờ, con im lặng… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân kém sút, xin thoái lui.

Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy.

Tán: Đây là lần thứ mười, Đức Phật bảo A-nan-đà. Đầu tiên là lời sai bảo, sau là nêu lời từ chối. A-nan-đà, Hán dịch là Khánh hỷ. Khi Đức Thích-ca thành đạo thì trời người đều vui mừng, ngài A-nan sinh vào ngay đêm ấy, do đó mà có tên như thế. Đến năm hai mươi tuổi mới xuất gia nghe được hết tất cả Phật pháp, làm thị giả cho Phật, gần gũi hầu hạ, cho nên nay được Đức Phật sai bảo.

Kinh: Lúc bấy giờ, A-nan-đà… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Đây là phần từ chối, gồm có ba: Đây là phần nêu chung về đạo đã bị khuất phục. Cho rằng Đức Phật thật có bệnh, ta mới xin sữa, ông ấy nói hóa thân, chân Phật chẳng bệnh, cho nên đạo bị khuất mà từ chối.

Kinh: Vì sao?… thường dùng cháo sữa.

Tán: Đoạn này là hiển bày lý đã cùng tận, đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích thì trước nêu việc của mình sau thuật lời của ngài Vô Cấu Xưng. Phần nêu việc của mình, gồm có hai:

  1. Nói vì có bệnh nên cần sữa.
  2. Xin sữa.

Đây là phần tự hỏi và Phật bệnh cần dùng sữa. Hiện ít bệnh tức là Phật đau lưng, lúc bấy giờ cũng có, sữa hòa-tất-bát có thể chữa lành bệnh này.

Kinh: Sáng sớm tôi… xin sữa bò.

Tán: Thức ăn của tôi vừa xin chẳng phải là phi thời. Sáng sớm sắp vào tụ lạc, chỉnh trang y phục đầy đủ, đắp y ôm bát, ắt có chỗ nương, theo phép tắc vào trong thành để được cúng dường, theo đó mà xin sữa bò.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng.

Tán: Thuật lại lời của ngài Tịnh Danh, gồm có hai:

  1. Nêu phép tắc đến han hỏi.
  2. Nêu lời của Vô Cấu Xưng.

Đây là văn thứ nhất.

Kinh: Thưa ngài A-nan… ôm bát đứng nơi đây?

Tán: Thuật lời của ngài Vô Cấu Xưng, gồm năm ý:

  1. Hỏi.
  2. Đáp.
  3. Theo lý để cật vấn.
  4. Sinh hổ thẹn.
  5. Trên hư không có tiếng nói.

Đây là ý thứ nhất. Mới trình bày lý để cật vấn, lúc đầu hiển thị chẳng biết, cho nên có câu hỏi này.

Kinh: Con nói rằng… cho nên mới đến đây.

Tán: Đây là lời ngài A-nan đáp.

Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… phỉ báng Như Lai.

Tán: Theo lý cật vấn, gồm có hai:

  1. Trách A-nan cho rằng Phật có bệnh.
  2. Nêu Phật không có bệnh não.

Hoặc đầu tiên hiển thị báo thân không bệnh, sau hiển thị pháp thân không bệnh.

Trong phần đầu lại có hai:

  1. Trách chung.
  2. Trách riêng.

Đây là văn thứ nhất. Chê nói chẳng đúng cho nên mới bảo: Thôi, thôi! Bài hủy tức là chê khinh, nghĩa là Đức Phật không có bệnh mà cho là Phật có bệnh, cho nên gọi là dối chê.

Kinh: Vì sao?… có bệnh gì, có não gì?

Tán: Trách riêng, gồm có bốn:

  1. Pháp ác trừ đã lâu.
  2. Chê trách lời lẽ thô thiển.
  3. Căn lành đã đủ.. Chịu xấu hổ.

Bốn ý này gồm có hai đôi:

  1. Pháp ác đã trừ sạch, nói có bệnh là lời thô thiển.
  2. Pháp thiện đã đầy đủ, nói có bệnh là điều xấu hổ, cho nên phân làm bốn.

Đây là đoạn đầu. Thân Phật vô lậu, do kim cang hợp thành, nhân quả sinh tử, hiện hành chủng tử của pháp ác và các tập khí vi tế đều đã tận trừ; các thiện căn đã đầy đủ, như thế thì có bệnh gì? Bệnh vốn do nhân ác sinh. Bốn đại chống trái nhau gọi là bệnh, do có bệnh nên khổ não sinh. Đối với Phật, pháp thiện đã tròn đủ, thì có khổ não gì nữa?

Nhân thiện chẳng bao giờ chiêu cảm quả khổ não?

Kinh: Thưa ngài A-nan-đà… nghe được những lời này.

Tán: Thứ hai, trách nói lời thô thiển, bảo đừng nói nữa mà trở về trụ xứ, nên gọi là im lặng trở về trụ xứ. Nói Đức Phật có bệnh thật là quá sai trái, cho nên gọi là lời thô. Chớ để cho hàng dị nhân nghe được lời thô này, đây là chỉ chung. Sau đây là chỉ riêng. Dị nhân là những ai? Trời Đại oai đức, tức là các vị trời ở cõi Dục và cõi Sắc có thần thông và đạo đức lớn; Bồ-tát các cõi khác, đều thấy báo thân Phật nhưng chưa thấy bệnh, nay nghe nói Phật có bệnh, họ liền sinh kinh sợ nghi ngờ, cho nên gọi là lời thô.

Kinh: Thưa ngài A-nan-đà… không có việc ấy.

Tán: Thứ ba, nói thiện căn đã đủ. Chuyển luân Thánh vương có ít thiện căn, do tu nhân mười thiện cảm được, gọi là thành tựu một ít thiện mà còn không bị bệnh, huống gì Như Lai từ nhiều kiếp nay đã trồng vô lượng nhân thiện, phước trí đều đủ mà lại có bệnh, thật chẳng có lý ấy.

Kinh: Thưa ngài A-nan-đà… chịu sự sỉ nhục này.

Tán: Thứ tư sợ bị xấu hổ, gồm có ba:

  1. Trách chung.
  2. Trách riêng.
  3. Xua đuổi.

Đây là văn thứ nhất. Hãy nhanh chóng trở về, chớ để cho chúng tôi chịu những lời thô lậu đáng xấu hổ này.

Kinh: Nếu các ngoại đạo… các người có bệnh.

Tán: Đây là trách riêng. Ngoại đạo tà kiến, phần nhiều đã sinh phỉ báng, nếu nghe lời thô thiển này niệm ác liền khởi, cho rằng bệnh mình chẳng cứu được làm sao cứu bệnh người?

Kinh: Hãy lén đi nhanh chớ để người nghe biết!

Tán: Đây là lời xua đuổi. Im lặng đi gấp, chớ để người ngoài nghe được.

Kinh: Vả lại, ngài A-nan-đà… Thế pháp chẳng nhiễm.

Tán: Từ đây trở xuống là hiển thị Đức Phật thật chẳng có bệnh, cũng là hiển thị pháp thân không bệnh, gồm có mười câu, năm đôi:

1. Pháp thân, chẳng phải là thân tạp uế. Đây là thân do pháp công đức tạo thành, cho nên gọi là pháp thân, chẳng phải là thân chân như, vì đó là sự thân; chẳng phải là thân phiền não có các khổ.

2. Thân xuất thế gian, chẳng phải thân thế gian. Xuất thế gian thì chẳng thể hủy hoại, chẳng phải đạo có thể tu. Tức chẳng phải thế gian có thể hủy hoại, chẳng phải đạo có thể tu. Cho nên các việc thế gian như bệnh não… chẳng thể nhiễm.

Kinh: Là thân vô lậu… thì có bệnh gì?

Tán:

3. Vô lậu, chẳng phải là sở duyên của tương ưng, sở tùy tăng của hai phược, lìa các lậu.

4. Thân vô vi, vô vi có hai: Một là, chân như, chẳng phải do nhân duyên sinh, cho nên gọi là vô vi; hai là, vô lậu uẩn, chẳng phải là pháp tạo tác của nghiệp phiền não, nên cũng gọi là vô vi. Thân năm uẩn của Phật cũng gọi là vô vi, vì chẳng phải do nghiệp phiền não tạo ra.

5. Ngoài các số, tức chẳng rơi vào sinh số, các số vĩnh viễn tịch diệt; nhưng rơi vào pháp số, chúng sinh ắt là thuộc về thú giới sinh, thể tức là thức thứ tám dị thục vô ký. Thân Phật chỉ là vô lậu chỉ có pháp thiện chẳng thuộc vào sinh số. Thân như thế thì có bệnh gì? A-nan thấy nhỏ hẹp cho rằng hóa thân tức thân chân Phật là thân tạp uế, cho đến nói đó là thân rơi vào cõi người ở dục giới, cho rằng thật có bệnh. Cho nên nay nêu lên chánh lý hiển thị Đức Phật không có bệnh.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, con… nghe lầm chăng?

Tán: Thứ tư, sinh hổ thẹn. Mậu tức là lầm. Vô tức là chẳng phải. Chẳng phải gần Phật mà ta nghe lầm. Lại có lời giải rằng: Không gần tức xa, ta tuy là thị giả, nhưng tâm trí cách xa Phật, chẳng thể biết Phật, chẳng được gần Phật nên nghe lầm sao?

Kinh: Liền nghe trên hư không… thật chẳng có bệnh.

Tán: Thứ năm, trên hư không có tiếng bảo, có ba ý:

  1. Nói chân Phật không có bệnh.
  2. Hiển bày lý do hóa Phật có bệnh.
  3. Khuyên nên lấy sữa.

Đây là văn thứ nhất. Chân thân tức báo thân, là thân thật công đức, do nhân tu mà đạt được, cho nên gọi là chân thân. Hoặc pháp báo Phật gọi là chân thân, chẳng phải thân quyền tích. Bản dịch xưa không có đoạn này: “Như lời cư sĩ nói chân thân của Thế Tôn, thật không có các bệnh”

Kinh: Nhưng vì Như Lai… thị hiện việc này.

Tán: Thứ hai, hiển bày nguyên do hóa Phật có bệnh. Thế gian năm trược. Trược tức căn dơ, như căn bả dơ uế của thức ăn, gọi đó là trược.

  1. Phiền não trược vì nhiều phiền não.
  2. Kiến trược, năm kiến tranh nhau khởi.
  3. Mạng trược, thọ mạng ngắn ngủi.
  4. Hữu tình trược, nhiều chúng sinh ác.
  5. Kiếp trược, vì toàn là kiếp đói khát, dịch bệnh đao binh.

Theo thứ tự thì khi con người thọ mạng còn ba mươi, hai mươi, mười tuổi thì phát khởi. Hôm nay đã có tướng dự báo trước rồi. Như Pháp Hoa Kinh Sớ ba nói: “Đức Thích-ca Từ bi, sinh vào đời ác này, vì muốn dẫn dắt, giáo hóa những chúng sinh hiện đời bị nghiệp ác chịu nghèo cùng khổ não, những hữu tình hành các nhân ác hạnh ác, nên đồng thị hiện có bệnh, chứ chẳng phải Đức Phật thật có bệnh. Thế Tôn tùy loại mà giáo hóa chúng sinh, hiển thị tất cả ác nghiệp ắt có ác quả, Thế Tôn hiện thọ còn chẳng tránh khỏi, muốn khiến cho người có đức sau này bị bệnh thì tự dứt trừ, Đức Phật cũng hiện có, thì ta là người nào? Vì chúng sinh bệnh nên Đức Phật bệnh. Do đó mà hiện bệnh, chẳng phải Phật thật có bệnh.

Hỏi:

– Vì sao Vô Cấu chẳng trình bày nguyên do Phật hiện bệnh, mà khiến trên hư không phải nói?

Đáp:

– Muốn hiển thị một lời khế lý sâu xa, tự tha thầm hợp, nghĩa đều đồng nhau.

Hỏi:

– Tiếng trong hư không là thế nào?

Đáp:

– Đó là do ngài Vô Cấu Xưng dùng thần lực phát ra, hoặc các Đại Bồ-tát thầm hiển thị việc này. Lý chẳng trái nhau.

Kinh: Thôi! A-nan-đà hãy nhận sữa đi, chớ có hổ thẹn.

Tán: Đây là khuyên nhận sữa dâng Phật, chớ tự sinh hổ thẹn.

Hỏi:

– Vì sao Vô Cấu Xưng bảo hãy lén đi, không bảo lấy sữa?

Đáp:

– Nói Phật có thật bệnh cần sữa, điều này không đúng cho nên bảo đi. Nói hóa Phật có bệnh cần sữa, lý là đúng, cho nên bảo nhận sữa. Trách về pháp, trước quở trách bảo hãy đi, vì nêu lên pháp, nên sau bảo lấy sữa, cả hai ý không trái nhau.

Kinh: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ con… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân thua kém xin thoái lui. Lúc bấy giờ con chẳng biết ông ấy nói gì, cho nên im lặng không đáp được.

Kinh: Cứ như vậy, Đức Thế Tôn… đến thăm bệnh ông ấy.

Tán: Cuối phẩm, kết luận hàng Thanh văn đều từ chối không nhận đến thăm bệnh, có hai: Đầu tiên là hỏi chung, sau là đáp chung. Đây là trả lời chung.

Kinh: Các Thanh văn… Không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là phần trả lời chung.