DUY MA KINH LƯỢC SỚ

Thiên thai, Sa-môn Trạm Nhiên lược.

PHẨM: THĂM BỆNH

Phần 1

Phẩm này đến tiếp sau phẩm Bồ-tát. Trước Phật đã sai các đệ tử Bồ-tát ai nấy đều từ chối không kham. Nay tiếp sai ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù tuân lời nên gọi là phẩm Văn-thù-sư-lợi thăm bệnh. Trước nói ngài Tịnh Danh giả bệnh để hưng giáo. Đại lược có hai phần: hai phẩm rưỡi trước là nói pháp ở ngoài thất, còn sáu phẩm này là nói pháp ở trong thất. Ở ngoài thất chê trách chiết phục phần nhiều dùng để đối trị. Còn trong thất tiếp dẫn nhiếp thọ phần nhiều dùng vì người, đều khiến cho vào Đệ nhất nghĩa. Nên kinh Thắng-man nói: Chỗ chiết phục nhiếp thọ là khiến chánh pháp được lâu bền. Được lâu bền tức là nhập vào Đệ nhất nghĩa vô lậu chân pháp dứt hẳn lui sụt. Đã chiết phục xong liền nói nhiếp thọ, nên tiếp có phẩm này. Nay lược dùng năm nghĩa để giải thích phẩm này và năm phẩm tiếp sau:

  1. Lý do có phẩm này.
  2. Văn-thù kham thăm bệnh.
  3. Giải thích hai bệnh quyền thật.
  4. Nhân bệnh mà nói sáu phẩm.
  5. Giải thích văn kinh.

Lý do có tiếp phẩm này: Ngài Tịnh Danh trụ ở quyền mưu Bất tư nghị, giúp Phật hiển bày chân tánh giải thoát bất tư nghị, giúp thành tựu giáo nhân quả Phật quốc. Trước đã dùng bốn giáo để chiết phục phàm phu Nhị thừa và các Bồ-tát thiên lệch, nay khen quả ba giải thoát của Viên giáo, để tiếp dẫn nhiếp thọ, khiến họ tu nhân ba quán, nhập vào Giải thoát bất tư nghị, được thấy cõi nước thanh tịnh, tùy nghiệp vãng sinh, thành tựu hạnh Tịnh độ, cho nên có phẩm này và năm phẩm sau.

Đây lại có năm:

  1. Khởi tâm khát ngưỡng cho thời chúng.
  2. Làm ba quán nhiếp thọ dẫn nhập.
  3. Giúp thành giáo Tịnh độ.
  4. Vì vào dòng Đại phẩm Pháp Hoa.
  5. Lại về chỗ Phật kết định.

Khởi tâm khát ngưỡng, tuy các vua quan sĩ thứ đệ tử Bồ-tát khen kể lại thắng trí thắng đức của Đại sĩ, nhưng đại chúng chỉ luống khát ngưỡng mà thôi, vì chưa được thấy nghe, nếu được người thăm bệnh tùy việc khơi mở thì liền được thấy nghe thần trí của Đại sĩ giả bệnh hưng giáo để lợi ích chúng sinh, nên vâng lệnh ứng hợp tâm của thời chúng khiến họ thấy được sự biểu thị về giả bệnh, nhà trống nghe nói hai bệnh quyền thật bất tư nghị.

Làm ba quán để nhiếp thọ dẫn nhập, ở ngoài thất chê trách các người học giáo thiên lệch, chưa nhập chánh vị và các phàm phu, tuy đã tâm phục ngưỡng mộ chánh đạo, nhưng chưa biết cách thức tu nhập. Nếu ngài Văn-thù vào thất hỏi Bồ-tát có bệnh làm sao điều phục tâm mình, thì ngài Tịnh Danh sẽ rộng hẹp trình bày ba quán điều phục, tức là nghĩa nhiếp thọ dẫn nhập vậy.

Giúp thành giáo tịnh độ, nếu nhân ngài Văn-thù thăm bệnh mà hay tu ba quán, tùy các chứng dứt được nhiều ít mà mỗi người được sinh Tịnh độ, có bao nhiêu nguyện hạnh đều thành tựu hạnh Tịnh độ.

Vào dòng Đại phẩm Pháp Hoa, nếu người đã vào chánh vị, trước tuy có nghe Đại thừa, nhưng chưa chuyển thành lạc, thì nay nhân ngài Văn-thù vào thất, lại được nghe nói thêm sáu phẩm, liền chuyển thành sinh tô. Nên ngài Ca-diếp có nói: Nay các Thanh văn đều gào khóc là việc này vậy. Nếu đến Đại phẩm mà được thục tô thì đến thời Pháp Hoa Niết-bàn liền thành đề hồ. Các Bồ-tát độn căn của Tam tạng giáo thứ lớp hưởng qua các mùi vị, phần lớn đồng với hàng Nhị thừa, còn các vị lợi căn thì bất định, như đã giải thích ở phẩm Bồ-tát.

Lại về chỗ Phật kết định, nếu không nhân ngài Văn-thù thăm bệnh vào thất biện luận qua lại suốt sáu phẩm, thì đâu được tay nâng đại chúng đem về Am-la viên, được Phật ấn định các điều nói trước sau để khởi phát việc A-nan được Phật nói rộng Tịnh độ, tiếp dẫn người cõi Diệu hỷ vào cõi nước này, khiến đại chúng đều được thấy nghe mà phát nguyện vãng sinh tu hành bất động. Ấy là tóm tắt những điều diễn bày của ngài Tịnh Danh ở ngoài thất và trong thất, đều nhằm giúp Phật thành tựu giáo nhân quả cõi Phật thanh tịnh và pháp thân giải thoát bất tư nghị.

Nói ngài Văn-thù có thể làm người thăm bệnh. Trên sai năm trăm vị và các Bồ-tát, ai nấy đều kể việc bị chê trách mà từ chối không kham.

Nay ngài Văn-thù riêng kham lãnh ý chỉ Phật, tóm tắt có năm ý:

  1. Vị cao.
  2. Thùy tích.
  3. Hiển bày viên.
  4. Thỏa tình chúng.
  5. Tùy căn cơ người.

Vị cao: Ngài Văn-thù cùng các Bồ-tát tuy cùng ở vị Đẳng giác, nhưng đều có cao thấp. Nên kinh Anh Lạc có nói: Trụ ở vị Đẳng giác vào trùng huyền môn, trải vô lượng kiếp, sửa tu việc phàm.” Ngài Vănthù tu hành đã lâu, trí đức cao tột, có ngôi vị ngang hàng với ngài Tịnh Danh, nên kham làm người thăm bệnh. Đây cùng là một loại.

Thùy tích: các Bồ-tát phần nhiều là thật vị bổ xứ, nhưng ngài Văn-thù bổn địa là long chủng Như Lai, nay hiện tích là bổ xứ, cùng với ngài Tịnh Danh có nghĩa bổn tích ngang nhau nên kham làm người thăm bệnh, cũng một loại mà nói.

Hiển bày Bồ-tát: Viên giáo với bổn tích đâu thể lượng định, chỉ vì các Bồ-tát hiện bày nhiều phương tiện, nên đều bị chê trách. Ngài Văn-thù hiện hoằng truyền Viên giáo cùng ngài Tịnh Danh đồng việc, nên kham làm người thăm bệnh.

Hỏi: Nếu thế sao bị Ương-quật chiết phục?

Đáp: Văn-thù đồng việc từ nhiều, còn Ương-quật từ ít, và Văn-thù chưa bị ngài Tịnh Danh chê trách nay lãnh chỉ Phật thì không hại gì?

Thỏa vật tình.

Hỏi: Các Bồ-tát đồng giúp Phật sao được có và không thỏa mãn tình người?

Đáp: Ngài Di-lặc tuy là bổ xứ, nhưng hầu Phật bên hữu, là các Bồ-tát làm việc ngoại đạo. Còn ngài Văn-thù tuy đồng vị bổ xứ, nhưng đứng hầu bên tả, cũng như các đại thần bên tả thì tự do quyết đoán, nên thỏa mãn vật tình.

Tùy cơ mọi người. Các Bồ-tát cùng ngài Tịnh Danh, như chày cối thành vật. Nay ngài Văn-thù cùng ngài Tịnh Danh như hai chày mà thành vật, cho nên vào thất đối đáp qua lại mà không trệ ngại, vui lòng mọi người, được ngài Tịnh Danh khen ngợi, đâu giống như các Bồ-tát khác nói ra thì bị chê trách. Do các nghĩa đó mà kham làm người thăm bệnh.

Giải thích về bệnh quyền thật. Nghĩa bệnh do nhiều nguyên do nhưng ý chánh không ngoài quyền thật. Quyền là chư Phật pháp thân Bồ-tát không bệnh mà thị hiện có bệnh. Thật là chín đạo chúng sinh thật có nhân quả bệnh hoạn. Nếu từ năng hóa mà ứng hiện trước quyền sau thật, thì kinh văn nói “ là bệnh có thể chịu được chăng?”Lại nói: Bồ-tát có bệnh, làm sao điều phục tâm ấy. Nếu từ sở hóa thì trước thật sau quyền, nên ngài Tịnh Danh nói: “Vì chúng sinh bệnh nên tôi có bệnh.” Nay dựa theo sở hóa làm thứ lớp, nên trước nói bệnh thật. Tóm dùng bốn nghĩa để phân biệt:

  1. Luận về tướng nhân quả của bệnh.
  2. Giải thích.
  3. Chung riêng.
  4. Xét theo độ có nặng nhẹ.

Về tướng bệnh. Bệnh về chướng ngại sắc tâm nên gọi là tật, cũng gọi là bệnh, cũng gọi là hoạn. Nói về nhân bệnh, tức là trong nhân có bốn phần chướng ngại về tâm thần gây ra các não loạn, tức là tâm bệnh. Phiền não làm nhân nên nói là nhân. Về quả bệnh, là cảm thân bốn đại, đồng một hộp mà tánh khác, cùng khởi lên thêm bớt trở ngại sắc thân, tức là thân bệnh, đáp lại nhân phiền não nên nói là quả bệnh.

Giải thích bốn phần trong nhân hoàn toàn phân biệt ba độc đối với ba bệnh lớn, ba chỗ cùng khởi nên gọi là đẳng phần. Thân là bệnh địa đại đối tham dục như nước. Kinh nói sông ái nổi trôi dìm chết chúng sinh, bị vô minh làm mê mờ không thoát ra được. Ái thấm đẩm nghiệp như nước thấm đẩm thân sân khuể là lửa, tâm sân một khi khởi lên thiêu đốt tất cả thiện căn. Ngu si là gió, vì ngu si có bốn điên đảo. Cho nên kinh nói: Gió dữ điên đảo đè bẹp núi gò đất đủ ba phần, như nước lửa gió đều tụ tập ở một thân, nên do cớ đối trên mà dùng bốn phần làm bốn nhân bệnh. Kẻ phàm phu ngu hèn có bốn phần này ắt có tám vạn bốn ngàn thứ, tùy duyên phát động não hại tâm thần, nên nói là nhân bệnh. Về quả bệnh tức là bốn phần cảm thân bốn đại, một đại không điều hòa thì một trăm lẻ một bệnh khởi động, bốn đại không điều hòa thì có bốn trăm lẻ bốn bệnh. Bệnh quấy não không phải một. Lại nữa do bốn phần này cảm thành Báo thân, tức có sinh, lão, bệnh, tử. Đây cũng là bệnh lớn của chúng sinh. Ở đoạn văn sau có nói: Có sinh tử tức có bệnh. Bệnh này cũng nhân ở bốn phần sinh ra. Như kinh Thụy Ứng có nói: Tham dục gây già, sân giận gây bệnh, ngu si gây chết. Suy nghĩa ra có thể nói là đẳng phần gây sinh. Có bốn đại thì có khổ bốn bệnh, tức là quả bệnh vậy. Nhưng kinh luận tùy duyên, có lúc lửa ví cho tham dục, nước ví cho sân giận, gió cũng không nhất định. Nay chỉ căn cứ theo phần đông đối ví như trước. Nếu thông suốt đâu cần phải ví dụ.

Nói về chung riêng, nhân quả hai bệnh đều có chung riêng. Về nhân bệnh, bốn phần là chung cả mười ác, còn bốn trọng tội là riêng. Về quả bệnh, thì bốn đại bốn khổ là chung. Còn bốn đại tăng giảm hoặc sinh lão… bốn khổ thêm nhiều, cho đến tam đồ khổ nặng, đều là quả tột của bệnh riêng. Do nhân chung riêng nên quả cũng có chung riêng. Như ở nhân chỉ chung thì quả lúc đó cũng chung, nếu chung mạnh riêng yếu hay chung yếu riêng mạnh thì quả lúc đó cũng thế. Nhân quả giúp thành cho nhau nghiệm ra không sai.

Xét về cõi nặng nhẹ, tức bốn cõi không đồng.

Xét về cõi đồng cư, thì bốn phần là nhân bệnh, phần đoạn là quả bệnh. Đây có hai thứ là uế và tịnh, uế thì nặng, tịnh thì nhẹ. Vì sao? Vì Đồng cư cõi uế thì có đủ năm đạo. Quả bệnh Thiên đạo chỉ có chung mà không riêng, vì nhân bệnh bất định. Như người, súc và quỷ thì nhân quả chung riêng nhiều ít tùy nghĩa. Quả bệnh địa ngục thì chỉ riêng mà không chung, vì nhân cũng bất định. Như Đồng cư tịnh, thì chỉ chung mà không riêng. Vì sao? Vì tuy có bốn phần mà không có thập ác… bốn thú và bốn khổ nặng, nên bệnh nhân quả chỉ có chung và nhẹ.

Nói về cõi Hữu dư, tức là bệnh của ngoại giới, là ba thừa Thánh nhân mê đế nhất thật, đắm trước vào lý thiên không, khởi bốn phần vô vi mà cảm quả biến dịch, cũng gọi là phương tiện sinh tử. Còn Biệt, Viên đoạn hết hoặc nội giới nhưng chưa thấy Trung và chưa đoạn hết vô minh, thì đều sinh vào cõi này, bệnh hoạn nhân quả đồng với hàng Nhị thừa. Bệnh hoạn này tức là bệnh nhân quả. Chỉ có chung riêng của Biệt giáo, không có chung riêng của Thông giáo.

Hỏi: Cõi Hữu dư sao được còn bệnh nhân bốn phần?

Đáp: Phần vô vi duyên tập là bốn phần vậy. Vì sao? Vì chấp thiên chân là tham, bỏ tục hữu là sân, mê nhất thật là si, ba phần đầu chấp lấy tức là đẳng phần. Đây tức là nhân bệnh của kiến tư biệt hoặc.

Hỏi: Cõi Hữu dư đã có bệnh nhân bốn phần, cũng được có quả bệnh của bốn đại bốn khổ nữa chăng?

Đáp: Cũng có tướng chung bốn khổ của bốn đại biến dịch.

Hỏi: Chư Thiên ở cõi trên còn không có già bệnh thì tịnh độ này sao lại có?

Đáp: Không riêng mà chỉ có chung. Văn trên có nói: Cũng sinh cũng già biến dịch, nếu bốn đại không có tướng trái nhau thì không có biến dịch. Tuy có bệnh chung bốn phần biến dịch ngoại giới nhưng đều nhẹ, đâu thể giống phần nặng của phần đoạn.

– Xét theo cõi quả báo, bậc Sơ địa và sơ trụ của Biệt, Viên thấy Đế nhất thật đồng đoạn hết vô vi nhưng tự thể chưa hết, nên dựa vào vô minh mà được có bốn phần, tức là nhân bệnh. Cảm quả biến dịch tức là quả bệnh, cũng gọi là nhân duyên sinh tử. Vì bệnh hoạn nhẹ nên với tự thể không thành bệnh thật, chỉ là tên chung biến dịch. Nếu trước phương tiện biến dịch có tướng thô thì bệnh hoạn cũng thô. Nếu luận bệnh hoạn của tự thể là nhẹ nhỏ thì cõi Hữu dư là nặng cõi quả báo là nhẹ, cho đến không có sau mới chuyển dần thành nhẹ nhỏ, tuy là nhẹ nhỏ nhưng đồng là bệnh thật, nên mới từ nhân Xiển-đề mà có quả địa ngục A-tỳ. Cho đến Kim cang Đẳng giác nguyên phẩm vô minh, tuy

44 nặng nhẹ có khác nhưng đều là bệnh thật.

Hỏi: Thật báo sao còn được có bệnh nhân bốn phần?

Đáp: Mở duyên tập tự thể coi là bốn phần. Vì sao? Vì lấy nhất thật là tham, bỏ hai biên là sân, các vô minh khác là si, ba phần đều lấy, tức là đẳng phần. Đó là ba độc căn bản. Nên thỉnh Quan Âm có nói: “Tịnh được gốc ba độc, thành Phật đạo không nghi”.

Hỏi: Thật báo nếu có nhân bệnh bốn phần thì cũng có quả bệnh bốn đại bốn khổ chăng?

Đáp: Đã có tự thể sinh tử đâu không có tự thể bốn đại. Nên Đại phẩm có nói: Tất cả địa hướng đến cho đến thú, không hướng đến ba Đại cũng như thế. Nếu tự thể bốn đại bốn khổ đã hết thì tức là thường an trú trong diệu sắc rỗng sáng như Đại kinh nói, không bị sinh tử biến đổi. Nếu các sư cho rằng vị Pháp vân Đẳng giác không còn sinh tử, thì giáo ấy như thế nào? Lại văn nói: “Từ si mà có ái thì bệnh ta sinh.” Nếu Kim cang Đẳng giác mà vô minh chưa hết thì bệnh vi tế nhân quả sinh ra.

– Xét theo cõi Tịch quang, giải thích có hai cách: Nếu cõi Tịch quang chỉ có bậc Diệu giác ở thì bệnh hoạn nhân quả tự thể đều dứt hẳn không có bệnh nào để luận. Nếu chung cho hạ địa Bồ-tát ở thì ắt phải có bệnh nhân quả vi tế. Đây là chấp hay không có sinh tử sau đó. Nếu y vào pháp vân ba đời của kinh Nhân Vương thì không có hữu hậu chung sinh và hữu hậu trụ sinh. Pháp vân mới sinh cho đến Hoan hỷ đều thuộc nhân duyên sinh tử. Đây là cách của Biệt giáo. Còn nếu dựa theo nghĩa Viên giáo mà suy, thì không có hữu hậu tức là Đẳng giác, nếu có hữu hậu hoặc từ vị Pháp vân đến ba mươi tâm thì đều là nhân duyên nặng nhẹ xoay vần. Tuy giải thích như thế nhưng chưa nhất định. Chỉ dựa vào Giải thích trước. Cõi Tịch quang là rốt ráo thanh tịnh há lại có tướng bệnh nhân quả vi tế, đối đãi nhau mà phán quyết là nặng hay nhẹ ư?

Hỏi: Học theo ngài Long Thọ sao lại dùng nghĩa của ngài Thiên Thân?

Đáp: Đây là hai Đại sĩ đâu không cùng dùng pháp môn Bất nhị. Nay là giáo chung của Phật pháp tùy chỗ liên quan mà sử dụng, sao cần phải chấp chặt. Nếu muốn phân biệt danh nghĩa các kết hoặc sinh tử nội giới và các hành thì nên xét kỷ theo ngài Thiên Thân, còn nếu quán môn để thanh đãng an tâm nhập đạo thì không ai qua ngài Long Thọ. Chỉ kinh này nói rõ về nghĩa bệnh mà chưa thấy các kinh khác nói. Nếu không chấp địa nhiếp tướng để đối nhau thì người khác sẽ cho là phi nghĩa lý, rồi theo nhiều thuyết mà cưỡng nói.

Tiếp nói về bệnh quyền , Bồ-tát trụ vào Đại Niết-bàn có năm hạnh. Cho rằng nếu được Tam đế Tam-muội thì có đủ hai mươi lăm Tam-muội, tức thành Thánh hạnh. Từ Thánh hạnh mà sinh Thiên hạnh và Phạm hạnh. Từ Phạm hạnh mà khởi Anh nhi bệnh hạnh. Anh nhi hạnh khởi từ đại Từ thiện căn, Bệnh Hạnh khởi từ đại bi thiện căn. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát thanh tịnh pháp thân, các ác đoạn dứt, các thiện khắp hội, đâu còn phương tiện thiện căn nhỏ nào để làm, đâu còn bệnh nhân quả nội ngoại giới nào để trị. Chỉ vì đại bi thiện căn mà muốn cứu dứt các bệnh hoạn nhân quả nội ngoại giới. Cho nên hiện thân khắp các pháp giới, không bệnh thị hiện có bệnh, tức là bệnh hạnh. Lại thị hiện phương tiện thiện căn ít để trừ dẹp chúng sinh duyên tập nội ngoại giới, tức là Anh nhi hạnh. Nếu bệnh nhân quả này lành thì chư Phật, Bồ-tát bỏ ứng mà về chân. Chỉ vì chúng sinh bệnh, nên có việc hưng phế nặng nhẹ, Bồ-tát lại đồng với hưng phế nặng nhẹ, nên văn nói Bồ-tát bệnh là từ đại bi mà khởi, vì chúng sinh bệnh nên Bồ-tát cũng bệnh. Nếu chúng sinh không bệnh thì Bồ-tát cũng không còn bệnh. Nay ngài Tịnh Danh mượn phương trượng trống này trong thất chỉ đặt một cái giường vì bệnh mà nằm, đó là Không bệnh mà hiện bệnh, xa là biểu hiện ở các cõi cũng có bệnh quyền vậy. Nhưng về bệnh thật nặng nhẹ thì như trên đã phân biệt. Nay nói về bệnh quyền cũng xét theo bốn cõi:

– Ở Đồng cư uế tịnh mà hiện bệnh quyền, uế tịnh đã có bệnh thật nhân quả ở mười giới, vì có bệnh đó, nên có bệnh quyền nhân quả ở mười giới, nếu bệnh nội giới lành thì ngài Tịnh Danh cũng lành.

Hỏi: Sáu đạo nhân quả có bệnh, có thể biết được, còn bốn thứ hành nhân thì nội giới nhân quả tướng nó như thế nào?

Đáp: Đây là ước bệnh hoạn nội giới nhân quả chưa hết. Nếu ở Tịnh độ đồng cư thì chỉ có bốn thứ hành nhân ở trời, người và sáu thứ bệnh thật nhân quả pháp giới, vì có bệnh ấy nên ngài Tịnh Danh cũng có sáu thứ bệnh quyền nhân quả. Nếu các bệnh này lành, thì ngài Tịnh Danh cũng lành.

– Ở cõi Hữu dư, thì Nhị thừa và ba thứ Bồ-tát đều có bệnh thật nhân quả biến dịch vô vi. Vì có bệnh này, nên ngài Tịnh Danh cũng có, nếu bệnh này lành thì ngài Tịnh Danh cũng lành.

– Nói về cõi quả báo hiện bệnh quyền. Chỉ có bốn mươi tâm của Viên giáo và Đẳng giác địa thọ thân pháp tánh mỗi người đều có bệnh thật nhân tự thể và bệnh thật quả về nhân duyên sinh tử hữu hậu và không hữu hậu. Vì có bệnh này nên ngài Tịnh Danh cũng có. Nếu những bệnh thật này lành thì ngài Tịnh Danh cũng lành.

– Cõi Tịch quang thì có bệnh và không bệnh trước đã phân biệt,

ngài Tịnh Danh cũng khởi đại bi tật hạnh, quyền đồng với bốn cõi, không bệnh hiện bệnh để đảm trách mười giới nên gọi là bệnh quyền.

Hỏi: Ngài Tịnh Danh đã là bậc Đẳng giác, nguyên phẩm vô minh không có hữu hậu sinh tử, thì quả bệnh thật nhân hay còn, đâu được ước với cõi thật báo mà nói là bệnh quyền?

Đáp: Bổn tích cao thấp nghĩa khó lường, đã ở Huyền Văn sao lại đem hỏi. Nhưng nghĩa bệnh quyền đem ước ngôi vị, thì nghĩa không đồng. Nếu bậc Diệu giác tột cao thì không có bệnh pháp giới mà hiện có bệnh pháp giới thì như ngài Tịnh Danh có bệnh quyền. Bậc Đẳng giác còn có nguyên phẩm vô minh thì không có quả bệnh thật nhân của hữu hậu sinh tử. Từ hiện có bệnh nhân quả hữu hậu cho đến phần đoạn thì đều là quyền cả. Như đây mà suy nếu ngang vị là bệnh thật, đồng với vị sau là bệnh quyền. Cho đến ở cõi Hữu dư, Đồng cư mà hiện có bệnh nhân quả, thì đều là quyền cả. Nếu ở cõi Hữu dư, hàng Nhị thừa và ba thứ Bồ-tát đồng ngôi vị mà có bệnh thật nhân vô vi và bệnh thật quả phương tiện. Dùng thần thông thệ nguyện vào cõi Đồng cư tịnh, đồng có sáu bệnh nhân quả vào cõi Đồng cư uế, đồng có bệnh nhân quả mười giới thì đều là bệnh quyền. Nếu ở cõi Đồng cư, bốn thứ hành nhân đoạn hoặc nội giới chưa hết, hoặc đã đoạn hết mà thân ở cõi Đồng cư là Không bệnh hiện có bệnh, để lợi ích chúng sinh thì đều là bệnh quyền. Cho đến tiên nhân có năm thông và các Thiên báo được thần thông, thì tùy chung việc ra làm Không bệnh hiện có bệnh, thì cũng là bệnh quyền. Nếu ước quán tâm, người khéo tu quán, hoặc tự hành hoặc hóa tha, không có bệnh nhân quả mà hiện có bệnh nhân quả, còn gọi là bệnh quyền, cho đến tất cả chúng sinh đều có nghĩa này. Như thế thì tất cả bệnh hướng đến cho đến thú hay không hướng đến, như đây mà nói bệnh, thì dọc là tận cùng nguồn cội thật tế, ngang là rộng khắp hư không pháp giới, nghĩa lý sâu kín. Nếu không phải bậc Diệu giác chủng trí Viên minh thì còn ai có thể thấu suốt vô ngại. Ngay ngài Tịnh Danh hiện có bệnh là biểu thị ý này, cho nên hàng Thanh văn Bồ-tát đều không kham không dám truyền ý Phật. Chỉ có ngài Văn-thù hiểu rõ nghĩa bệnh nên tuân lời Phật mà hỏi đáp qua lại về quyền thật không trệ ngại.

Nói về nhân bệnh nêu ra sáu phẩm. Ngài Tịnh Danh giả bệnh cốt ý hưng giáo. Nhân Văn-thù hỏi bệnh quyền thật mà ngài đáp về bệnh quyền ở nữa đầu phẩm này và đáp về bệnh thật ở nữa sau phẩm này. Lại nhân bệnh quyền mà nói phẩm Bất Tư nghị, nhân bệnh thật mà nói phẩm Quán Chúng Sinh, phẩm Phật Đạo, phẩm nhật Bất Nhị Pháp Môn

và phẩm Hương Tích. Thế nên sáu phẩm ở trong thất đều từ một chữ bệnh quyền thật mà có. Khi giải thích văn nên phù hợp như thế.

Hỏi: Có sư nói phẩm này là năm nguồn tám cội, đây là sao?

Đáp: Có giống như thế nhưng đậm nhạt không có chủ đối. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh vốn giả bệnh để hưng giáo, chỉ dựa vào một chữ bệnh mà nói sáu phẩm ở trong thất, đâu phải đợi nhà trống làm năm nguồn cội. Nay nói một bộ kinh gồm mười bốn phẩm, chỉ có phẩm Phật Quốc đầu chính là Đại Thánh pháp vương tự nói, còn mười ba phẩm kia đều nhân ngài Tịnh Danh giả bệnh mà hưng truyền. Xét kỹ một chữ bệnh mà là ba nguyên do, sáu nguồn cội, hai đầu mối, hai nguyên nhân. Ba nguyên do là do ngài Tịnh Danh giả bệnh nên có các vua quan thứ dân đến tham vấn, Phật sai đệ tử Bồ-tát đến thăm bệnh, tức do bệnh mà có ba phẩm ở ngoài thất.

Sáu nguồn cội là vì hiện có bệnh nên ngài Văn-thù vâng lệnh Phật vào thất hỏi về hai bệnh quyền thật và ngài Tịnh Danh đã rộng hẹp giải đáp, ấy là sáu phẩm trong thất từ bệnh mà có. Bệnh tức là nguồn gốc có sáu phẩm.

Hai đầu mối: Tức là hai phẩm Bồ-tát Hạnh và Kiến A-bệ Phật cũng nhân ngài Tịnh Danh giả bệnh mà có. Vì sao? Nghe nói sáu phẩm có duyên lành bệnh thì ngài Tịnh Danh cũng không còn bệnh, nên bàn tay nâng đại chúng đưa về Am-la viên, mở đầu cho việc trở về điểm chính của Như Lai để nói về nhân quả Phật quốc, hai phẩm từ bệnh lành mà có nên nói là hai đầu mối.

Hai nguyên nhân, là hai phẩm Cúng Dường và Chúc Lụy cũng nhân giả bệnh mà có. Vì sao? Vì hai phẩm này là phần Lưu thông cũng nhân ngài Tịnh Danh giả bệnh mà có chánh thuyết. Lưu thông tức là lưu thông phần chánh thuyết, ấy là nhân bệnh mà có hai phẩm lưu thông nên nói là hai nguyên nhân.

Nay nói sáu phẩm trong thất có ba phần lớn. Một phẩm này tức lược nói hai bệnh quyền thật, kế nói phẩm Bất Tư nghị là rộng giải thích về bệnh quyền, bốn phẩm sau là nói rộng về bệnh thật.

Chánh giải thích văn: “lúc bấy giờ Phật…”. Có hai phần: Phật sai ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù vâng lời.

– Phật sai Văn-thù. Ở trên, các người được Phật sai đi đều kể việc bị chê trách mà từ chối không kham, nhưng việc vào thất thăm bệnh có lợi ích rất quan trọng, nếu không phải ngài Văn-thù có đủ năm nghĩa trước, thì không ai kham được nên sai ngài đi.

– Văn-thù vâng lời “Văn-thù…”. Ngài Văn-thù không có lỗi bị chê

trách nên không thể từ chối. Lại năm lợi ích là việc hệ trọng, đâu thể trái lệnh Phật mà bỏ lợi lớn, thế nên vâng lời. Văn có năm:

1/ Vâng lời đi thăm bệnh.

2/ Đại chúng cùng đến.

3/ Chủ khách hỏi đáp qua lại.

4/ Chánh nói ý chỉ.

5/ Thời chúng được lợi ích.

– Phần một có hai:

  1. Trước tự khiêm nhường.
  2. Chánh vâng lời.

Phần (a) lại có hai: Một là Tự khiêm. Hai là, Nói việc khiêm nhường khó vấn nạn. Tự khiêm là lẽ thường của người tu mà nói vấn nạn là để đối đáp, vì bậc Thượng nhân trí sâu đức trọng đối đáp không phải dễ.

Từ “thâm đạt trở xuống là nói vấn nạn khó. Văn có bốn: Một là, Trí sâu rộng. Hai, Nhân quả đức đầy. Ba, Hóa tha công lớn. Bốn, Kết hai trí rốt ráo.

Vì đủ bốn thứ này nên có thể khiêm nhường vấn nạn.

Nói hai trí sâu rộng: Nói thấu suốt thật tướng, tức là thật trí sâu rộng. Nếu Bồ-tát của Tam tạng giáo vốn không nhập thật thì đâu thể xét cạn sâu. Bồ-tát của Thông giáo có thật tướng Thiên chân thì chưa đủ sức để vấn nạn thật trí của Đại sĩ. Còn bậc Đăng địa của Biệt giáo cho đến Đẳng giác, chỉ phá mười một phẩm vô minh, chưa thành thấu suốt, huống chi bậc có giáo không người đâu đủ sức vấn nạn. Nay bậc Sơ trụ của Viên giáo cho đến Đẳng giác, chỉ phá bốn mươi mốt phẩm vô minh, sắp cùng tận nguồn cội, trí gần bậc Diệu giác, nên nói là thấu suốt.

Khéo nói pháp yếu, tức là biết không sinh. Không sinh thì bất khả thuyết, dùng bốn Tất-đàn mà phó cơ nói pháp thật tướng. Nếu dùng quyền trí mà nói dù nhiều nhưng lợi ích không bao nhiêu, nên không phải là thiết yếu. Nay dùng thật trí nói tướng nhất thật thì lợi ích rất sâu rộng, nên nói là pháp yếu. Như kinh Pháp Hoa nói dù thí nhiều vàng bạc châu báu, nhưng không bằng mở búi tóc. Đây có bốn trường hợp:

  1. Nói ít gồm ít.
  2. Nói nhiều gồm ít. Đây không phải là pháp yếu.
  3. Nói ít gồm nhiều.
  4. Nói nhiều gồm nhiều. Đây là pháp yếu.

Biện tài không trệ ngại, là nói về quyền trí không trệ ngại, nên có

thể kính hỏi. Đây là sinh sinh, chẳng sinh sinh, sinh chẳng sinh bất khả thuyết là luận việc phó duyên ba thứ không trệ ngại.

Trí tuệ vô ngại, tức là lý ba giáo sở thuyên. Biết bệnh biết thuốc tùy bệnh cho thuốc, phương tiện tri kiến Ba-la-mật đều đầy đủ, nên nói là trí tuệ vô ngại.

Nói về đức nhân quả đầy đủ “tất cả… được nhập”, nên có thể kính hỏi.

Tất cả pháp thức của Bồ-tát, tức là pháp thức quyền thật tự hành giáo tha không phải chỉ đều biết mà cũng hay thành tựu. Nhân đức này đầy đủ nên có thể kính hỏi.

Bí tạng của chư Phật đều được nhập vào, là hai quyền một thật đều có đương giáo nói về bí tạng. Đem Thật so với quyền. Quyền là tùy người khác, không phải là chân bí tạng. Còn thật là tùy ở mình, thầm nhận yếu này không cần nói nhiều đó là chân bí tạng. Tất cả pháp môn mỗi mỗi đều là kho báu đó là nghĩa của tạng. Nên kinh Pháp Hoa nói: Tất cả các kho báu đều được tràn đầy. Đức quả sắp trọn nên nói là đều được nhập vào tức là quả thành đức sâu, nên có thể kính hỏi.

“Du hí thần thông…”. nói công đức hóa tha đã thành cho nên kính hỏi. Hàng phục các ma, tức hàng phục ma như trước đã giải thích. Nhưng ma là chúa của chúng sinh được giáo hóa, nếu chúa mà không có dân khách khâm phục, đâu thể quy tâm. Nay Đại sĩ đã hay hàng phục các ma ở mười phương cõi Phật, thì tất cả chúng sinh đều quy tín.

Du hí thần thông, chúa dân đã phục do đó thần thông biến hiện thành tựu chúng sinh, cõi Phật thanh tịnh công đức ấy rất rộng lớn. Tất cả hạ địa đều không thể sánh được nên có thể kính hỏi.

“Tuệ phương tiện ấy đều đã được độ) là kết hai trí rốt ráo nên có thể kính hỏi. Tuệ là kết thật, phương tiện là kết quyền, hai trí dắt dẫn các hạnh ra làm, đều rốt ráo nên nói là đã được độ.

Phần (b) Chánh vâng lời thăm bệnh “tuy nhiên… hỏi bệnh”. Ngài Văn-thù đầy đủ sự khiêm nhường. Tuy trí đức của ngài gần giống dáng vẻ của các đệ tử Phật, nhưng chỗ ra làm đều nương sức Phật. Dầu do Phật sai lại mong nhờ sức Phật gia hộ, để tránh được các lỗi lầm trệ ngại, nên nói tuân Thánh chỉ của Phật đến thăm bệnh.

Hỏi: Nếu nương nhờ sức Phật gia hộ thì các Bồ-tát trên cũng đều đến được.

Đáp: Gia hộ những ai có thể gia hộ. Ngài Văn-thù đã đủ năm nghĩa nên có thể gia hộ. Lại kinh Pháp Hoa có nói: Di-lặc và bốn chúng có điều nghi, chỉ nhờ ngài Văn-thù giải quyết, há các Bồ-tát sánh được.

Phần hai, Đại chúng cùng đến “do đó” trở xuống. Văn có hai: a) Chúng muốn theo đến.

b) Văn-thù và chúng cùng đến.

Chúng muốn theo đến: Sở dĩ cùng nghĩ muốn đến, vì ngài Tịnh Danh thần trí rất khó đối đáp nên hàng Thanh văn, Bồ-tát lúc xưa không dám đương đầu. Nay ngài Văn-thù trí đức cao xa, vâng Thánh chỉ Phật tất biện luận đại pháp rất sâu kín, nên đều muốn theo đến.

Cùng đại chúng đến “Do đó… đại thành”. Vì người có cơ duyên vào thất nghe pháp tất được lợi ích, nên đều cùng vào thành. Phần ba, Chủ khách đối đáp “bấy giờ…”. Văn lại có bốn: a/ Ngài Tịnh Danh hiện tướng thất trống. b/ Văn-thù thấy tướng biết có biểu thị. c/ Ngài Tịnh Danh khen ngài Văn-thù. d/ Văn-thù đáp lời.

Phần (a) lại có hai: Một là, Thần lực hiện thất trống. Hai là, Vì bệnh mà nằm.

– Thất trống là biểu thị muốn giúp thành giáo Phật quốc. Hiện có bệnh là muốn hiển bày ba giải thoát.

Liền dùng thần lực… thần lực là biểu thị dùng trí tuệ. Thất trống là biểu thị Phật quốc đều không, hiển bày cõi Chân tịch quang. Dẹp bỏ các thứ là biểu thị dẹp bỏ y báo. Và các thị giả là biểu thị dẹp ngoại ma, đầy đủ như ngài Tịnh Danh đáp ngài Văn-thù. Thất trống là biểu thị cho Phật quốc, có hai ý:

  1. Thành việc trước.
  2. Sinh cái sau.

Thành cái trước: Ở trên Phật nói Tịnh độ vì chúng sinh tội nên không thấy cõi Phật thanh tịnh, không sinh được cõi Phật, không thể thành hạnh Tịnh độ, nên nói rộng phẩm Phật Quốc để phá cho chúng sinh các tội cấu trói buộc các nghiệp bất tịnh, khiến họ thành tựu nhân Tịnh độ. Ngài Tịnh Danh vì giúp thành giáo Phật, nên làm phương tiện trái ngược, là chê trách chiết phục. Lại nhân giả bệnh vì phàm phu nói pháp. Lại muốn nhắc lại việc chê trách xưa đều vì muốn giúp thành thuyết Tịnh độ. Nay ngài Văn-thù đã đến do đó hiện ra thất trống để biểu thị cõi Phật đều không, muốn cùng ngài Văn-thù rộng luận về Phật quốc, tức là thành cái trước.

Sinh cái sau, nếu hiện thất trống là biểu thị Phật quốc đều không, ngài Văn-thù biết việc biểu thị đó bèn đến đối đáp luận nghĩa Phật quốc. Nên phẩm này được nói là Phật quốc. Lại nhân thất trống, ngài Thân Tử vì chúng cần giường ngồi, nghĩ đến giờ ăn, chúng sẽ được thấy cõi Phật Đăng Vương, tịnh sát Hương Tích. Trong lúc đối đáp biện luận, các phẩm đều nói về nhân quả Phật quốc. Nghĩa này đã xong dùng bàn tay đưa đại chúng đến chỗ Như Lai là phát khởi việc trở về điểm chính của Như Lai mà nói rộng phẩm Bồ-tát Hạnh nói nhân quả Phật quốc và phẩm Kiến A-súc Phật, vô lượng đại chúng thấy cõi Phật ấy, nhân đây mà phát tâm tu hạnh Tịnh độ A-súc Phật, sinh vào cõi ấy đều do hiện tướng thất trống mà lập, tức là sinh cái sau.

Nay dựa theo bốn cõi mà giải thích sự biểu thị này:

– Ở cõi Đồng cư uế tịnh. Nếu biểu thị cho cõi uế, thì có tạp uế y báo và ngoại ma chánh báo. Ngài Tịnh Danh hiện uế liền biết uế tức không, muốn dùng sức trí phá trừ uế nghiệp. Nếu uế chẳng không, thì không thể phá hoại. Vì uế nghiệp là Không, nên y báo có thể dẹp bỏ, tức là dẹp trừ các thứ, phá các ngoại ma ái kiến chánh báo, tức là và các thị giả.

– Kế là biểu thị cho Đồng cư tịnh độ. Tuy không có tạp uế y báo và ngoại ma chánh báo, nhưng lại có phần đoạn thanh tịnh y báo và phần đoạn ái kiến chánh báo. Ngài Tịnh Danh hiện đời biết tịnh tức không, dùng sức trí tuệ đoạn trừ nghiệp phần đoạn Y chánh báo, nên nói là dẹp hết các thứ và các thị giả.

Sau là biểu thị cõi Hữu dư, tuy không có phần đoạn uế tịnh y Chánh, nhưng có biến dịch y báo và vô vi Chánh báo, tức là ái kiến ngoại ma kia. Nên ngài Tịnh Danh chê trách ngài Tu-bồ-đề rằng: “Đồng ở phiền não nhập vào các tà kiến.” Ngài Tịnh Danh hiện đời biết nước ấy là Không, liền dùng trí lực mà dẹp bỏ y Chánh báo, tức là dẹp bỏ các thứ và các thị giả.

Kế là căn cứ cõi Thật báo, cõi nước này tuy không có phương tiện y Chánh, nhưng lại có tự thể tinh diệu y báo và tự thể ái kiến chánh báo. Ngài Tịnh Danh ứng hiện, biết cõi nước tức không, dùng sức trí tuệ dẹp bỏ y chánh ấy, nên nói là dẹp bỏ các thứ và các thị giả.

Sau nữa là cõi Thường tịch quang rốt ráo thanh tịnh. Không cả các thứ, tức là ở chỗ cao tột nhất, không còn gì để dẹp bỏ. Nên trong Đại kinh nói: Không còn chỗ đoạn trừ, gọi là Vô thượng sĩ. Nay ngài Tịnh Danh dùng thần lực làm trong thất trống không, dẹp bỏ các thứ và các thị giả, là biểu thị quả báo rốt ráo sau, sắp vào Tịch quang. Nên kinh Trì Địa có nói: “Khi đoạn hai chướng, lìa tất cả các kiến, được thanh tịnh tịnh thiền”, đây là nghĩa ấy. Nếu biểu thị cho quyền ở ba thứ trước để phương tiện lợi vật, thì đủ như trước đã giải thích. Lại nữa, có nước có người có thị giả thì là phương tiện, nay tất cả đều dẹp bỏ, là hiển bày cái thật. Hiện tướng thất trống lược giải thích như thế. Chỉ đặt một cái giường để người bệnh nằm là hai, nói muốn hiển bày ba đức giải thoát. Giường là biểu thị cho chân tánh, bệnh là biểu thị cho phương tiện, nằm là biểu thị thật tuệ. Đây cũng có hai: Thành cái trước và sinh cái sau. Một là thành cái trước là giúp thành việc Phật nói pháp thân ba giải thoát. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh giúp thành Như Lai nói giải thoát bất tư nghị. Cho nên trước chê trách các đệ tử Bồ-tát, sau giả bệnh vì các phàm phu, muốn nhắc lại cái chê trách xưa để thành tựu giáo giải thoát bất tư nghị, nên không bệnh hiện có bệnh. Nay ngài Văn-thù nhận lệnh Phật vào thất thăm bệnh, việc cần phải hiện bệnh biểu tướng, để mở đầu cho việc đối đáp qua lại, nhân đây mà luận hai bệnh quyền thật của Như Lai đã nói và ngài Tịnh Danh chê trách, để giúp các điều nói trên được sáng tỏ. Hai, sinh cái sau tức là sinh sáu phẩm trong thất và hai phẩm ngoài thất. Vì sao? Vì hiện bệnh có biểu thị, khiến ngài Văn-thù hỏi bệnh quyền thật mà có phẩm này. Ngài Tịnh Danh nói rộng nên có năm phẩm sau, trở về rừng Am-la để thành giáo giải thoát bất tư nghị, tức có thêm hai phẩm Bồ-tát Hạnh và Kiến A-súc Phật, nên nói là sinh cái sau. Đến các văn sau thì nghĩa này tự sáng tỏ.

Sở dĩ chỉ đặt một cái giường để biểu thị chân tánh, kinh Pháp Hoa nói: Các pháp Không là tòa ngồi, không tức là chân tánh giải thoát. Bệnh biểu thị cho đại bi phương tiện. Đồng bệnh tức là phương tiện giải thoát. Nằm biểu thị cho thật tuệ, tức là bệnh chân báo. Nằm là tướng thân yên dừng nghỉ. Nếu thật tuệ cùng tương ưng với chân tánh, thì các hạnh lặng dừng, tâm an không động. Trí đoạn đã viên mãn, tức là thật tuệ giải thoát. Nên Đại kinh nói: Ai được ngủ an ổn đó gọi là từ bi, thường tu không phóng dật, xem chúng sinh như con một, dùng Vô duyên từ bi của chư Phật mà cứu tất cả khổ. Không làm hạnh phóng dật nói là được giấc ngủ an ổn. Như nam châm hút sắt, không duyên không niệm, tức là giấc ngủ an ổn. Như giấc ngủ của người không bệnh có bệnh. Thật tuệ cũng thế. Nếu chúng sinh không bệnh tức là pháp thân Phật tuệ không có bệnh nhân duyên, nếu chúng sinh có duyên có bệnh tức thật tuệ pháp thân đại bi ứng hiện. Như ngài Tịnh Danh ở Đồng cư cõi uế hiện có bệnh này. Tịnh độ cũng thế, cho đến cõi Hữu dư và quả báo cũng thế.

Hỏi: Bệnh là pháp duyên tập chướng ngại, sao được biểu thị cho đức giải thoát?

Đáp: Đây khác với Tạng Thông, họ cho không có phiền não sinh tử là giải thoát. Nay bất tư nghị phương tiện giải thoát chấp nhận phiền não sinh tử, mà tự không trói buộc lại giải thoát các trói buộc. Nên Đại kinh có nói: Chư Phật, Bồ-tát tùy chỗ chúng sinh được điều phục gọi là giải thoát.

Hỏi: Kinh này nói tứ thiền làm giường tòa, sao được đem giường biểu thị cho chân tánh?

Đáp: Kinh giáo tùy duyên dùng thí dụ không nhất định, đâu nên chấp chặt. Nay giải thích biểu thị của ngài Tịnh Danh là từ không mà được châu giải luận nghiên cứu cùng tột không mất báu vật. Cũng như ở văn sau nói nhà cửa trống vắng rốt ráo. Nay thấy thất trống tức là biểu thị cho các Phật quốc độ đều không.

Phần (b) “Văn-thù… một giường”, nói Văn-thù vào thất thấy tướng biết ý biểu thị. Thấy thất trống không có các thứ vật khác, tức biết biểu thị cho các cõi Phật là Không, tất muốn khai mở giúp thành giáo Phật quốc. Thấy ngài bệnh riêng nằm trên một giường liền biết biểu thị cho ba đức giải thoát, muốn hiển bày giúp thành việc Phật nói giáo giải thoát bất tư nghị. Nên Đại luận có nói: Người trí hay biết trí như rắn biết chân rắn.

Hỏi: Vì sao biết được Văn-thù thấy tướng liền biết ý biểu thị?

Đáp: Ngài Tịnh Danh khen: “Ngài mới đến; không thấy tướng mà thấy….” không thấy tướng tức là bốn bất khả thuyết. Không thấy tướng Y Chánh mà thấy là hiện tướng biểu thị cho thân, biểu thị cho cõi nước. Nếu không như thế, thì Văn-thù là bậc dưới sao được thăm bệnh liền hỏi thất trống, nhân đó mà đối đáp qua lại. Lại, ngài Văn-thù còn biết Như Lai sắp nói kinh Pháp Hoa đã hiện tướng báo hiệu, đâu thể không biết việc hiện tướng biểu thị của ngài Tịnh Danh. Nếu không biết, thì đâu được lãnh chỉ đến thăm bệnh.

Phần (c) Ngài Tịnh Danh khen ngợi “lúc đó ngài Duy-ma-cật…”. Sở dĩ khen ngợi vì ngài Tịnh Danh biết ngài Văn-thù đã đủ năm nghĩa, nay đến thăm bệnh tất hay hiển bày giáo giải thoát bất tư nghị của nhân quả Phật quốc để giúp thành việc Pháp vương nói rộng lợi ích cho những kẻ có duyên, nên khen ngợi là khéo đến. Văn có hai: Chánh khen và Giải thích khen.

Chánh khen, đối việc không phải khéo đến mà khen là khéo đến. Nếu các phàm phu đệ tử Bồ-tát không đủ năm nghĩa thì không thể hiển bày giải thoát bất tư nghị của Tịnh độ nhân quả, rộng lợi ích quần sinh, nên không phải là khéo đến. Nay ngược lại ngài Văn-thù hay giúp thành Đại giáo cho Pháp vương, tạo nhiều lợi ích, nên gọi là khéo đến.

Còn các người khác không phải khéo đến lược có bảy thứ:

1. Các vua dân đều có duyên phược, tuy nhờ nói pháp mà trừ bỏ các kiết hoặc, nhưng chưa thật làm hưng thịnh đại pháp.

2. Các đệ tử Thiên chân đoạn kiết, không có tâm đại bi, không cầu quả Diệu giác, không hay dẫn dắt mọi người ra khỏi nhà lửa. Tuy từ nhân đến Hữu dư Niết-bàn, nhưng lại nhập vào hôi đoạn, không phải là chân Niết-bàn, đâu thể gọi là khéo đến.

3. Các Bồ-tát của Tam tạng giáo tuy cầu Phật quả nhưng các phục kiết chưa đoạn, tâm không thanh tịnh, lại chỉ cầu Phật quả ở đạo thọ rồi nhập Niết-bàn. Chỗ cầu không phải cần thật quán chuyển tâm, đâu gọi là khéo đến.

4. Bồ-tát của Thông giáo thiên chân đoạn kiết, tuy có từ bi, nhưng trọn cầu vô dư vô thường Phật quả, cần chuyển tâm quán, đâu gọi là khéo đến.

5. Bồ-tát của Biệt giáo, tuy cầu thường quả, nhưng không thể viên quán pháp giới, thứ lớp mà đoạn các hoặc nội ngoại giới, rồi vào Thập địa, cũng cần chuyển tâm quán, đâu gọi là khéo đến.

6. Hàng sơ tâm và trung tâm của viên giáo, tuy thấy trung Vô duyên đại từ khắp che tất cả, không trụ vào các Địa, nhưng trí đức còn cạn, không sức ngang bằng, đâu gọi là khéo đến.

7. Hàng hậu tâm Viên giáo, bổn tích tuy ngang hàng, nhưng không cùng người có duyên thăm bệnh, nên không thể cùng hiển bày, đâu gọi là khéo đến.

Sở dĩ Thanh văn, Bồ-tát đâu không kham lãnh lệnh là do có những “Không khéo đến”như thế. Nay Văn-thù là Đạo sĩ Viên giáo, Bổn tích ngang bằng biết cùng thời chúng có duyên gõ đập, nên dắt đại chúng như voi chúa kéo bầy cùng vào thất, tuyên chỉ thăm bệnh, ắt vì thời chúng khiến nhập vào bất tư nghị thấy Tịnh độ, sinh Tịnh sát, thành tịnh hạnh mà làm duyên lành, nên đến thăm bệnh là thật khéo đến. Ngài Tịnh Danh nêu gương có ích, nên khen ngợi là khéo đến.

Giải thích khen: “tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy”. Có thầy nói tướng không đến là chân đế, có đến là Tục đế, nên nói Tướng không đến mà đến. Nếu thế phải khen Nhị thừa. Lại có thầy nói pháp thân không tướng đến, Ứng thân có đến, nên nói tướng không đến mà đến. Nếu thế, ngài Tịnh Danh cần khen các Bồ-tát. Lại có thầy nói: Nếu đến là đến mà đến, tức là tự tánh đến. Nếu đến là Không đến mà đến, tức là giả đến. Giả đến thì không phải đến, tức là tướng không đến mà đến. Nay nói là đến, mà đến là tự tánh, thì đến là Không đến mà đến, tức tha tánh đến, đâu thể được khen. Nay nói nếu do tướng đến mà đến, thì không phải là khéo đến. Nay Văn-thù do tướng không đến mà đến, nên khen là khéo đến. Vì sao? nếu các phàm phu đều có ái kiến, nay chấp tướng này mà đến. Nếu các Thánh nghe nói phá Giả vào chân mà đến, thì đây là con đường quanh co chấp tướng thiên chân mà đến. Bồ-tát của Tam tạng giáo phục kết mà đến, chưa đoạn chấp tướng. Bồ-tát của Thông giáo từ thể giả thấy chân vào kiến đạo cho đến nhập vào vị Bồ-tát mà đến. Đây là chấp tướng hai đế mà đến. Đây là nương vào tướng ba đế mà đến. Đây đều là Không phải tướng không đến mà đến. Nếu người Viên giáo biết bốn bất khả thuyết, tức không thấy tất cả tướng mà hay quán Trung đạo, Vô duyên đại từ hóa độ pháp giới chúng sinh đồng đến cõi Tịch quang, ấy là Tướng không đến mà đến. Đây là hợp với chương Như Lai sai nói nghĩa Tịnh độ, cũng khen là đúng hoài bảo của ngài Tịnh Danh. Nhưng các bậc Sơ trung hậu tâm Viên giáo, cùng với thời chúng này không có duyên về thăm bệnh, đâu dám tuân lệnh Phật đến thăm bệnh. Vì thiếu nghĩa này, nên ngài Tịnh Danh không khen. Nay ngài Văn-thù từ Sơ phát tâm biết bốn bất khả thuyết, không có tướng tự hành hóa tha quyền thật mà đến, nên nói tướng không đến, song hay đạo quán song lưu mà quyền mà thật tự hành hóa tha mà đến, ngang bằng đức bổn tích của ngài Tịnh Danh, nên nói mà đến. Lại biết thời chúng là bốn bất khả thuyết, nay có nhân duyên nên thấy cơ duyên có thể nói mà đến, nên sắp lành bệnh mà vào, để nghe nói về cõi Phật thanh tịnh giải thoát bất tư nghị đều được lợi ích lớn, nên giải thích nói tướng không đến mà đến.

Về tướng không thấy mà thấy, cũng là giải thích khen khéo đến. Vì ngài Văn-thù với tướng không đến mà đến vào thất, vì tướng không thấy mà thấy thất trống và do bệnh mà nằm đều biết là có ý biểu thị thì theo tướng xứng hợp do đó mà khen. Nói tướng không thấy mà thấy, vì đối với tướng thấy mà thấy, thì không phải là khéo đến. Vì sao? Vì nếu các phàm phu dùng nhục nhãn, Thiên nhãn để thấy các tướng thô tế, hàng Thanh văn chỉ có ba thứ nhãn, nhục nhãn, Thiên nhãn việc thấy giống như trước, còn tuệ nhãn là thấy chân, tức là thấy tướng hai đế. Bồ-tát của Tam tạng giáo vì chưa đoạn kiết nên không thấy chân đế, chỉ có nhục nhãn và Thiên nhãn dùng để thấy tướng thô tế của Thế đế. Bồtát của Thông giáo cũng chỉ có ba loại nhãn chỉ thấy tướng huyễn hóa của hai đế. Bồ-tát của Biệt giáo có bốn loại nhãn, ba thứ nhãn trước, riêng pháp nhãn thì thấy lý hằng sa Phật pháp vô lượng Tứ đế của nội ngoại giới thì đều là tướng thấy mà thấy. Nếu Bồ-tát ở Viên giáo, trụ ở vị thập tín, tuy có nhục nhãn gọi là Phật nhãn, tương tợ viên thấy pháp giới, tướng hoặc pháp giới chưa trừ hết, còn gọi là kiến. Nếu nhập vào sơ phát tâm trụ mà phát chân vô lậu, tức là năm nhãn đều mở cả. Tuy được năm nhãn biết bốn bất khả thuyết, không thấy có ba nhóm chúng sinh, tức là tướng không thấy mà thấy cả pháp giới, đây là tướng không thấy mà thấy. Cho đến diệu giác cũng như thế. Nay ngài Văn-thù có bổn tích năm nhãn ngang hàng ngài Tịnh Danh. Ngài Tịnh Danh không phải tướng mà hiện tướng để biểu thị, ngài Văn-thù do tướng không thấy mà thấy chỗ biểu thị. Ý này cùng với ngài Tịnh Danh ngầm hợp nên khen ngợi.

Hỏi: Đến và thấy có gì khác?

Đáp: Đến là ba trí, thấy là năm nhãn. Pháp Hoa nói: Vì khiến chúng sinh khai Phật tri kiến. Lại nói: tri kiến của Như Lai rộng lớn vô lượng, tức là nghĩa này. Lại nữa, Bồ-tát của Viên giáo từ Phát tâm trụ biết bốn bất khả thuyết, được một tâm ba quán, ba trí năm nhãn, từ quả nhìn nhân, tâm luôn vắng lặng tự nhiên lưu nhập vào biển lớn diệu giác. Nên nói tướng không đến mà đến. Năm nhãn chuyển sáng, khi đến quả vị thì thấy cả pháp giới, nên nói tướng không thấy mà thấy.

Phần (d) Ngài Văn-thù ấn khả kể thành “Văn-thù…” . Như thế Cư sĩ, trước Cư sĩ đã khen là khéo đến, nay Văn-thù cũng ấn khả như thế.

Đây có hai:

  1. Văn-thù hiểu ý đáp đúng.
  2. Giải thích kể thành.

Văn-thù nói nhưng thế cư sĩ, đây là chánh ấn khả. Nếu đến rồi lại không đến tức là nói thành. Câu đầu, đây là nói thành việc khéo đến đối với không phải khéo đến. Vì sao? Vì năm người trước do tướng mà đến, cho nên đến rồi có thể lại đến. Như phàm phu ngoại đạo tu thiền đến Phi tưởng rồi trở lại đọa vào tam đồ luân hồi lên xuống. Như Nhị thừa ra khỏi ba cõi hơn ba trăm do-tuần, tức ở tại hóa thành, nếu dẹp mất hóa thành lại về bảo sở. Bồ-tát của Tam tạng giáo, muốn cầu Phật quả hành lục độ mà đến không tới quả diệu giác, nếu nghe quán của Thông giáo, từ quán vô sinh mà đến. Bồ-tát Thông giáo đến cầu Phật địa, nếu nghe quán cải tâm của Biệt giáo, từ biệt quán mà đến. Nếu Bồ-tát Biệt giáo tu ba quán Biệt Tướng đến cầu quả Diệu giác, thì cũng còn là đường quanh co. Nếu nghe cải tâm cải quán của Viên giáo rồi từ Viên giáo mà đến. Đây đều là đến rồi lại đến. Nay Bồ-tát Viên giáo ngồi xe không hẹp hòi trọn không ở giữa đường mà đổi tâm quán, tức là kim sa đại hà đi thẳng vào Tây hải, nên là đến rồi không đến nữa.

Lại còn, sơ tâm và trung tâm Viên giáo tuy từ đường thẳng mà đến, không cần thay đổi tâm quán. Nhưng chưa tới quả, cũng có nghĩa đến. Các ngài Văn-thù và Tịnh Danh đều đã đến cực địa, tất không lại đến nữa, nên nói nếu đến rồi lại không đến nữa. Đây là kể thành việc giải thích khen khéo đến, là tướng không đến mà đến. Nếu đi rồi lại không đi nữa. Đây là nhắc lại để thành nghĩa đến. Cũng ước vào năm người, tuy đi dùng tướng mà đi chẳng phải là khéo đi. Đây là đi rồi cũng còn lại đi. Nếu nương vào Viên giáo phát tâm chánh quán Trung đạo, một đi thì không có lý đổi tâm thay quán lại đi, nên nói nếu đi rồi lại không đi. Đây là cách nói thứ hai, là nghĩa khác của nhất thể đổi tên mà thôi. Nếu ở quả trông vào nhân tức là từ nhân mà đến, cho nên nói Phật từ đường lớn trí độ mà đến. Đem nhân nhìn thấy quả tức là nghĩa đi, nên Đại phẩm có nói: Thừa này từ trong ba cõi thoát ra, đến ở trong Tát-bànhã. Lại Đại luận nói: Các Thánh đến như thế, Phật cũng đến như thế. Các Thánh đi như thế Phật cũng đi như thế. Như ngài Văn-thù vào thất trống của ngài Tịnh Danh thì gọi là đến, lãnh lệnh Phật thăm bệnh gọi là đi. Văn-thù vì ngài Tịnh Danh nói mà đến, nên lại dùng nghĩa đi mà kể thành. Văn-thù nói chỗ có thể thấy lại không thể thấy. Đây là nói tướng không thấy mà thấy. Không thể thấy mà thấy, là thất trống hiện có binh để biểu thị cho quả của y chánh. Nếu biểu thị ngoài hạng người này thì lại không có Tịnh độ và pháp thân có thể thấy. Lời này thành nghĩa cõi Phật. Nếu dẫn việc chúng sinh đến vào thấy Tịnh độ và pháp thân thì ngoài hạng người này ra lại không thể thấy. Cho nên nói cái có thể thấy lại không thể thấy. Lại nữa, như người đời dùng nhục nhãn thấy sắc thô mà không thấy sắc tế thì không phải thấy rốt ráo. Nếu lại tu Thiên nhãn khiến thấy được sắc tế. Tuy thấy sắc tế mà không thể thấy chân. Nếu hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo tu được Tuệ nhãn thì liền thấy chân. Tuy lại thấy chân nhưng không thấy được bệnh và thuốc. Bồ-tát Biệt giáo tiến tu pháp nhãn, thì thấy được pháp sai biệt. Tuy thấy sai biệt, nhưng không thể thấy trọn được ba đế. Tất cả pháp nhập vào một pháp, một pháp đầy đủ tất cả pháp. Bồ-tát Viên giáo nếu được Phật nhãn thì thấy cả pháp giới cùng tận cội nguồn cũng như hư không. Nếu ngoài Phật nhãn lại không thể thấy. Nên nói chỗ có thể thấy lại không thể thấy.

– Nói Văn-thù giải thích kể thành “Sở dĩ giả hà… Cánh bất khả kiến”. Sở dĩ nói: “Đến không từ đâu đến.” Đây là giải thích: Nếu đến rồi lại không đến, bốn bất khả thuyết tức là bình đẳng pháp giới. Chư Phật không làm gì cả, đây là tướng không đến. Ước đây nói đến tức là Không từ đâu đến. Nói thành việc không đến mà đến. Đi không chỗ đến, là bốn bất khả thuyết tức bình đẳng chân pháp giới. Chư Phật không đến đâu cả, nên nói là đi không chỗ đến. Lập lại thành tướng không đến mà đến, đến không chỗ đến. Chỗ có thể thấy lại không thể thấy, là bốn bất khả thuyết, trong bình đẳng chân pháp giới không có chỗ có thể thấy mà nói là thấy. Phật nhãn thấy cùng tột lại không thể thấy, tức là giải thích việc trên, nói thành tướng không thể thấy mà thấy.

 

Phần 2

Phần bốn, Chánh nói thăm bệnh: “Thả trí…” . Từ trên đã luận về cách tương kiến giữa chủ khách, không phải là ý chánh. Thần trí ngang sức biện luận vô cùng bày tỏ ý Phật, nên nói “gá lại việc này”. Văn có hai:

1) Trình bày ý Phật.

Vốn rất tôn trọng ý chỉ Phật nên cần nói trước, kế thăm hỏi cặn kẻ việc Đại sĩ thâm ý giả bệnh để mở bày lợi ích cho mọi người, nên tự kể ý mình, nếu chỉ nói ý chỉ Phật thì các Thanh văn Bồ-tát không cần phải từ chối, nhưng đây là nghĩa đối với người giỏi thăm hỏi bệnh, đối đáp qua lại là việc khó, người khác không kham được, ý là ở đây. Nên ngài Văn-thù tiếp đó nói ý mình.

Nói lệnh Phật có hai: a) Chánh tuyên chỉ. b) Chung nói ý Phật.

Phần tuyên chỉ có ba câu là ba phần: -Câu đầu nói: Bệnh ấy có thể chịu được chăng? Ngài Tịnh Danh vốn pháp thân không bệnh, không nhẫn nào chẳng chịu, đã là chúng sinh lại căn cứ ở chúng sinh mà luận về nhẫn và không nhẫn. Nhưng Phật ở đời tích đồng thế gian, nên có việc thăm hỏi.

Như trong Tỳ-ni, Phật cũng thăm hỏi an ủi các Tỳ-kheo rằng: “Đi đường có mệt nhọc chăng, khất thực có dễ dàng chăng?”

Lại như trong Đại phẩm chư Phật cũng thăm hỏi nhau: “Có ít bệnh não chăng… Trí Độ luận giải thích đây đều có thâm ý. Nay Phật hỏi ngài Tịnh Danh: Có thể chịu được chăng, là ngài Tịnh Danh vì chúng sinh mà bệnh, chúng sinh không đồng, vậy chịu được hay không chịu được? Như người tuy bệnh mà còn bước đi được, ấy là chịu được, hoặc có bệnh khổ mà đi đứng không được, ấy là Không chịu được. Nay cũng căn cứ vào bốn cõi nước:

1. Nói về Đồng cư uế tịnh: bệnh của cõi uế là các nghiệp trong sáu đường, mười ác, bốn trọng tội… là nhân bệnh ba ác, còn quả khổ tam đồ là quả bệnh. Đây là bệnh nặng, là tướng không thể chịu được. Nếu mười thiện là bệnh nhân của trời, người, A-tu-la, thì tám khổ, năm suy… là quả bệnh. Khổ này nhỏ, là tướng chịu được. Lại còn, quả bệnh ở cõi Đồng cư uế có một mà nhân bệnh có chín thứ không đồng, đó là sáu đạo và ba thừa. Nếu có nhân bệnh sáu đạo, mà không có căn tánh ba thừa, là tướng không chịu được. Nếu có căn tánh ba thừa, tức là chịu được. Lại nữa, phàm phu tu hạnh ba thừa, căn có lợi độn, nên ngăn cản có nhẹ nặng. Căn lợi ngăn cản nhẹ là bệnh chịu được, còn độn căn ngăn cản nặng là bệnh không chịu được. Lại còn, ba thừa tiến hành đoạn kết. Nếu đoạn kết là nhẹ thì chịu được, nếu chưa đoạn là nặng, là Không chịu được. Ngài Tịnh Danh bệnh quyền nên đều đồng. Nói về Đồng cư thanh tịnh là trừ bốn ác thú, chỉ xét về trời, người còn ba thừa giống như trên.

2. Nói về cõi Hữu dư, không có khổ phần đoạn, thì nói chung là chịu được, chỉ có hình tướng thô tế thôi. Hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo sinh về cõi ấy, là độn căn là Không chịu được. Còn Bồ-tát Biệt, Viên sinh vào cõi ấy là lợi căn, là chịu được. Quyền đồng cũng thế.

3. Nói về cõi quả báo, các Bồ-tát ấy đều là pháp thân không khác ba thừa, tuy có vô minh tự thể, nhưng bệnh nhân quả đều chịu được, quyền đồng cũng thế. Như địa vị và hình tướng không phải là Không chịu được, chỉ không như cõi Hữu dư trước đồng có tướng ấy.

4. Nói về cõi Thường tịch quang là cõi cao tột, các ác dứt hẳn, các thiện khắp cùng, không bệnh, không não, không có bệnh quyền hay thật, chịu được hay không chịu được khác nhau. Phật chỉ một câu thăm hỏi ngài Tịnh Danh mà rộng lớn sâu xa khó nói hết.

Hỏi: Trên nói cõi Tịch quang có bệnh, nay sao nói là Không?

Đáp: Không nhất định, chỉ theo Thánh giáo. Giáo nói có là có, nói không là Không. Nay căn cứ vào cõi cao tột thì không có bệnh thật.

– Câu hai: trị bệnh có bớt chăng? Trị bệnh có bớt chăng là thế gian có bệnh ắt phải dùng thuốc để trị. Đã vì chúng sinh khổ, nếu trị chúng sinh tức là trị ngài Tịnh Danh. Nhưng bệnh của chúng sinh có ba thứ không đồng, tức là kiến, tư và vô minh vô tri. Ba bệnh này gốc của tất cả bệnh nhân quả nội ngoại giới. Dùng ba quán mà trị thì ba bệnh đều hết, điều này đã nói trong ba quán, đầy đủ trong huyền nghĩa. Khi giải thích văn sau sẽ thấy rõ. Cũng nói về bốn cõi:

1. Cõi Đồng cư: Từ Giả vào Không chính là trị bệnh kiến tư ở Đồng cư.

2. Từ không vào Giả chính là trị bệnh hằng sa Hữu dư, phụ trị vô tri ở Đồng cư.

3. Trung đạo chánh quán, chính là trị vô minh hữu dư, quả báo. Bồ-tát lợi căn phụ trị kiến tư vô tri ở Đồng cư, cũng phụ trị vô tri ở Hữu dư. Cõi Tịch quang thì không có bệnh để trị, nay nói trị ở cõi Đồng cư.

Trong Đại Luận có nêu bốn trường hợp: Một là căn độn chướng nặng, tức là phàm phu căn độn , cấu phiền não nặng không thể trị. Hai là độn căn chướng nhẹ, như ngài Châu-bàn-đặc trong suốt mùa hạ chỉ tụng một bài kệ mà phát chân, thành Đại A-la-hán. Ba là căn lợi chướng nặng, như Ương-quật-ma-la, một ngày giết chín trăm chín mươi chín người, nhưng vì căn lợi, chướng không thể ngăn cản, nên thấy Phật liền ngộ. Bốn là căn lợi chướng nhẹ, như Xá-lợi-phất nghe A-thấp nói một bài kệ về ba đế liền chứng được sơ quả. Ngài Tịnh Danh đồng với những bệnh này khó trị và dễ trị. Như trong bốn trường hợp thì Châubàn-đặc và Thân Tử là bệnh dễ trị giảm bớt. Nếu đến cõi Hữu dư thì không có việc trị giảm bệnh. Nếu hình tướng ba thừa cũng phân biệt ba thứ có giảm bớt. Bệnh quyền cũng thế, nếu vào cõi quả báo bình đẳng pháp giới thì đây là lợi căn có một chướng vô minh. Xét quyền vị mà luận nhẹ nặng không có chướng ngăn riêng thì chỉ có một trường hợp giảm bệnh. Nếu xét về Sơ tâm nghiệp đời trước hoặc có hai trường hợp phân biệt không có độn căn. Bệnh quyền cũng thế.

4. Cõi Thường tịch quang là địa cao tột tịch nhiên không có những phân biệt này.

Kế đến câu thứ ba. Phật hỏi rằng: Bệnh trệ đều giảm không tăng chứ? Đây là ý hỏi như người đời bệnh đủ bốn thứ:

  1. Từ lúc đầu uống thuốc, nhưng bệnh chỉ tăng mà không giảm, trọn không chữa được bệnh đó, gọi là tăng tăng.
  2. Tuy lúc nguy khốn mà dốc lòng tìm thuốc chữa trị và bệnh lành, đó gọi là có tăng giảm.
  3. Tuy lúc đầu có uống thuốc bệnh có tạm giảm, nhưng sau lại tăng, gọi là giảm tăng.
  4. Từ đầu bệnh tạm giảm cho đến bình phục, đó gọi là giảm giảm.

Ngài Tịnh Danh ứng hiện sinh vào cõi Đồng cư, nói mười hai bộ kinh, trị bệnh cho chúng sinh, cũng có bốn can duyên.

1. Tăng tăng tức là hạng phàm phu thấp kém nhất. Nếu vì họ thuyết pháp thì họ liền khởi tội bài báng không tin, như Thiện Tinh, Điều-đạt…

2. Tăng giảm như Thi-lợi-cúc-đa, Ương-quật…

3. Giảm tăng. Như Đại Luận nói: Bốn thiền của Tỳ-kheo đó là bốn quả. Khi lâm chung thấy chỗ sinh chê không phải là Niết-bàn, liền đọa vào địa ngục. Lại Tỳ-đàm, Thành Thật nói người thoái pháp đều có tướng này.

4. Giảm giảm, tức là các người được đạo như Thân Tử…

Ngài Tịnh Danh ở Đồng cư bệnh quyền cũng thế. Về cõi Hữu dư, có ba thứ, không có tăng tăng. Đã được vị bất thoái, thì không sinh vào ba cõi, nhưng ba thừa sinh vào cõi ấy có lợi có độn. Căn cứ ở hạnh thoái niệm thoái cũng có ba thứ, về bệnh quyền cũng thế. Nếu xét theo cõi quả báo đều là niệm bất thoái, tâm luôn vắng lặng, tự nhiên lưu nhập, thì đều là giảm giảm. Nếu căn cứ nghĩa xuất nhập quán, thì có ba trường hợp, bệnh quyền cũng thế. Về cõi Thường tịch quang tột cao rỗng rang, không có bệnh tật. Ngài Tịnh Danh đồng bệnh quyền với ba cõi trước. Về trị bệnh thật có giảm mà không tăng. Ngài Tịnh Danh cũng thế, nên khi thăm hỏi nói “bệnh không tăng chứ?”

Từ câu “Đức Thế Tôn ân cần thăm hỏi vô lượng”… trở xuống là Văn-thù tuyên chung ý Phật thăm hỏi. Nói thăm hỏi vô lượng là bệnh thật ở ba cõi, khắp mười phương pháp giới nhiều vô lượng. Ngài Tịnh Danh từ bi nghĩ nhớ hiện vô lượng bệnh quyền, nên khiến Như Lai thăm hỏi vô lượng. Chỉ kể có ba câu, đây là biểu thị các câu hỏi đầu, có thể có nhiều câu, nhưng dịch giả đã lược bỏ hoặc kinh không nêu, giống như năm trăm và tám ngàn người ai cũng kể việc chê trách, nhưng lược bỏ không nêu, hoặc chỉ nói chung là vô lượng, đủ biểu thị ý Phật, không cần phải nói nhiều.

2) Văn-thù tự nói ý mình Từ câu “Cư sĩ…” là. Việc vâng lời Phật thăm bệnh để hỏi là ý ở đây. Văn có hai: Một là, Hỏi bệnh quyền trong quả.

Hai là, Hỏi bệnh thật trong nhân.

Do hỏi quyền, nên ngài Tịnh Danh nói ra phẩm Bất Tư nghị. Do hỏi thật, nên ngài Tịnh Danh nói bốn phẩm Quán Chúng Sinh… Đến văn sẽ thấy rõ.

Văn Hỏi bệnh quyền trong quả có ba phần:

  1. Từ Cư sĩ bệnh này nhân đâu mà khởi trở đi, là hỏi nhân khởi bệnh quả. Đại sĩ quả địa pháp thân thanh tịnh nhất định, không có mọi bệnh hoạn, mà nay hiện có bệnh, do đâu mà khởi.
  2. Từ “thất này vì sao trống không và không có thị giả…”, là hỏi Đại sĩ pháp thân y báo quyến thuộc nay ở đâu, mà chỉ thấy thất trống.
  3. Từ “bệnh này có những tướng gì …”, là hỏi bệnh đồng ứng thân lấy gì làm tướng, là đồng pháp thân hay đồng với phàm phu, nên hỏi tướng mạo nó.

Phần a, có hai: Một là Văn Thù hỏi, hai là Tịnh danh đáp.

Phần Văn thù hỏi có ba: Hỏi bệnh do đâu khởi. Hỏi bệnh mới hay đã lâu. Hỏi cách làm hết bệnh.

– Hỏi bệnh do đâu khởi, là nếu quả địa pháp thân thì có bệnh não gì mà nay bỗng nói có bệnh là do đâu mà khởi. Kế hỏi bệnh đã lâu chưa. Pháp thân vốn không bệnh, đã có bệnh quyền thì có từ lúc nào? Sau là hỏi làm sao hết bệnh. Nếu vì chúng sinh, nay chúng sinh trong các cõi nước mười phương vô tận. Quyền thì không thể diệt, bệnh này làm sao diệt được? Văn-thù có ba câu hỏi đại ý là thế.

Phần Tịnh Danh đáp “Duy-ma…” trở xuống có hai phần trước và sau: Trước trả lời hai câu hỏi sau, sau trả lời một câu hỏi trước:

Sở dĩ hỏi đáp có trước sau là có ý. Ngài Văn-thù hỏi, có ý muốn khiến chúng sinh biết từ bổn khởi tích. Ngài Tịnh Danh đáp, có ý muốn khiến chúng sinh tìm tích vào bổn. Cũng là hiển bày thành nghĩa tướng sinh diệt.

Phần đáp trước lại có ba ý:

– Đáp chung hai câu hỏi sau.

– Giải thích.

– Thí dụ để chỉ rõ.

Ý một Đáp chung gồm hai: Trước đáp câu hỏi: Bệnh mới hai đã lâu. Sau đáp câu hỏi. Làm sao dứt bệnh.

Đáp câu hỏi bệnh sinh đã lâu mau? Từ si hữu ái thì bệnh tôi sinh, bệnh ấy lâu mau đều do chúng sinh mười hai nhân duyên mà sinh. Ngài Tịnh Danh bệnh quyền đồng với sự lâu mau ấy. Sở dĩ biết căn cứ nhân duyên mà đáp, là kinh Niết-bàn nói: Bờ mé gốc của sinh tử gồm hai thứ là vô minh và ái, ở khoảng giữa hai thứ ấy liền có sinh, lão, bệnh, tử. Vô minh là si ở quá khứ ái , là si ở hiện tại, hai đời cách nhau nên lập làm hai tên. Vô minh thấm đẩm hành khiến có thức… năm quả ở hiện tại. Ái thủ ở hiện tại thấm đẩm hữu, nên có sinh tử ở vị lai, nên có mười hai nhân duyên luân chuyển ở ba cõi, hai mươi lăm hữu có trải qua sinh tử nên có nhân bệnh và quả bệnh. Ngài Tịnh Danh, vì chúng sinh có si ái mà sinh ra pháp thân Đại sĩ, tức sinh bệnh quyền. Si ái của chúng sinh từ sinh ra đến nay, không phải mới, thì bệnh quyền cũng thế. Đáp bệnh đã lâu mau, là ý ở đó. Lại nữa, ngài Tịnh Danh vì chúng sinh bệnh, đâu chỉ ở Đồng cư. Nếu bệnh hữu vi si ái sinh, thì bệnh quyền ắt sinh, vô vi ở hữu dư cũng thế. Vì sao? Vì si ái ở Đồng cư hết, thì si ái ở hữu dư ắt sinh. Vì mê Trung đạo, nhiễm Niết-bàn, nên si ái sinh. Ở khoảng giữa hai thứ đó, thì có nhân bệnh quả bệnh mười hai nhân duyên. Chỉ có biến dịch nhân duyên và phần đoạn là khác nhau. Phần đoạn thì lên xuống qua lại sáu nẽo, còn biến dịch thì không thế. Nhưng ước vào ái có mà sinh tử. Ái diệt rồi liền sinh lên Thượng địa, trọn không thoái lui mà sinh vào Hạ địa. Vì sao? Vì ở tam giới nhận thô. Suy ra như Nahàm, thân cõi Dục tu được Sơ thiền, ở Sơ thiền chết rồi liền sinh lên Nhị thiền, trọn không sinh vào cõi Dục mà lui sụt vào Sơ thiền. Thánh nhân nội giới cũng thế, huống là ngoại giới mà lại sinh vào phần đoạn và nhận thô biến dịch. Nếu chúng sinh biến dịch có thứ si ái này, thì ngài Tịnh Danh đại bi liền sinh bệnh si ái. Đó là đáp lời việc bệnh sinh đã lâu mau. Nếu ở cõi quả báo thì vô minh chưa hết là si, nhiễm y chánh báo là ái, ở giữa hai thứ đó mà có bệnh nhân quả của tự thể sinh tử mười hai nhân duyên sinh ra. Nên kinh Thắng-man nói: Vô minh trụ địa sức rất lớn mạnh chỉ trí Bồ-đề của Phật mới đoạn đứt được. Nếu bệnh si ái ở cõi Hữu dư hết, thì bệnh si ái ở cõi quả báo sinh. Ngài Tịnh Danh pháp thân đại bi cũng đồng sinh bệnh. Đây cũng đáp lời về bệnh sinh lâu mau. Cõi Tịch quang cao tột không thật có bệnh si ái nên không có bệnh quyền sinh ra lâu mau.

Hỏi: Nếu xét theo chúng sinh để nói ngài Tịnh Danh bệnh sinh lâu mau, mà si ái thì vô thỉ nên không lâu không mau, sao được lấy đây mà đáp lời hỏi ngài Văn-thù?

Đáp: Si ái của chúng sinh thì vô thỉ, không lâu không mau nên Vô duyên đại bi của ngài Tịnh Danh cũng thế. Luận về lâu mau, là dựa theo sự mà có, bởi vì quả địa đại bi tận nguồn cội vẫn không có, nhưng tùy bệnh chúng sinh mà đồng thể, ấy là nhân đại bi mà có tên, có lâu mau. Văn nói: Từ vô trụ mà lập ra tất cả pháp, vô minh từ vô thỉ khởi hằng hà sa vô tri bốn điên đảo ngoại giới và bốn điên đảo nội giới. Ngài Tịnh Danh cùng duyên khởi cũng thế. Nếu theo lý thì bệnh sinh ở cõi quả báo là lâu, còn bệnh sinh ở cõi Đồng cư, Hữu dư là tạm mới. Nếu theo sự thì bệnh sinh ở cõi Đồng cư là lâu, ở cõi quả báo, Hữu dư là mới, như đoạn dứt hết các si ái ở Đồng cư thì ở cõi Hữu dư si ái mới sinh.

– Đáp câu hỏi làm sao hết bệnh? Từ “Nêu tất cả chúng sinh… bệnh ta hết”, nếu dùng ba quán bốn giáo, đoạn dứt si ái của chúng sinh ở ba cõi, bệnh thật hết thì bệnh quyền của ngài Tịnh Danh cũng hết, nên nói bệnh ta hết. Vì sao? Vì ở cõi Đồng cư khởi bệnh nhân quả thì ngài Tịnh Danh cũng đồng ở cõi ấy mà nói bốn giáo, khiến tu ba quán. Nếu chúng sinh ở cõi ấy bệnh hết thì bệnh quyền của ngài Tịnh Danh cũng theo đó mà hết. Nếu chúng sinh ở cõi Hữu dư có bệnh nhân quả, thì ngài Tịnh Danh cũng bệnh quyền mà nói Biệt, Viên, khiến họ tu giả, trung. Nếu bệnh của chúng sinh ấy hết thì bệnh quyền của ngài Tịnh Danh cũng theo đó mà hết. Nếu chúng sinh ở cõi quả báo có bệnh nhân quả, thì ngài Tịnh Danh liền bệnh quyền, chỉ nói Viên, khiến họ tu trung quán, nếu bệnh của chúng sinh ấy các phần bốn mươi mốt phẩm đều hết, thì ngài Tịnh Danh cũng thế. Cõi Tịch quang cao tột trí đoạn viên cực, thì không còn gì để hết nữa. Lược đáp câu hỏi thứ ba đã xong. Nếu các sư không căn cứ hai cõi ngoại giới, để nói về quyền thật thì hai cõi ấy lẽ ra cũng không có vô minh. Nếu cõi ấy có vô minh thì ngài Tịnh Danh sao lại không quyền được?

Hỏi: Chúng sinh ở ba cõi, si ái không hết thì bệnh quyền của ngài Tịnh Danh sao hết được?

Đáp: Luận chung về bệnh quyền thì chúng sinh không hết, bệnh cũng không hết. Vả nay căn cứ vào một thời hạn về số chúng sinh có duyên được hóa độ ở ba cõi, nếu bệnh hóa duyên hết, thì bệnh quyền cũng hết.

Ý hai, giải thích việc đáp hai câu hỏi sau “sở dĩ… vô phục bệnh”. Có hai ý: Trước nói vì chúng sinh mà vào sinh tử, có sinh tử liền có ba bệnh sinh ra. Đây là giải thích việc đáp có bệnh quyền sinh ra lâu mau. Kế nói: Nếu chúng sinh lìa bệnh thì Bồ-tát không còn bệnh nữa, đây là giải thích đáp câu hỏi sau về lý do bệnh quyền được hết.

Ý ba Thí dụ làm sáng tỏ Từ “Thí như …”. Văn có hai: Khai dụ và hợp dụ.

Khai dụ có hai: Khai dụ có bệnh. Khai dụ hết bệnh.

– Khai dụ có bệnh, lấy cha mẹ làm dụ, là Bồ-tát từ hai trí sinh đại bi trụ ở địa con một, tức là cha mẹ của chúng sinh. Tất cả chúng sinh đồng có tánh lý nên nói chỉ có một con. Nếu chúng sinh ở ba cõi có bệnh thật si ái thì pháp thân hai trí đại bi liền ứng sinh ở ba cõi, nên có bệnh quyền.

– Khai dụ hết bệnh, có thể tự hiểu.

Hợp dụ Từ “Bồ-tát… cũng hết”. Cũng có hai: Hợp dụ có bệnh quyền. Hợp dụ bệnh quyền hết. Như văn.

Phần đáp sau Từ “Lại nói… Bi khởi” là trả lời câu hỏi đầu: bệnh

áo đâu khởi. Trên đây đã luận về sinh và hết của bệnh quyền, nay đáp về nguyên do có bệnh quyền. Nguyên do là do đại bi, tức do sức thiện căn Vô duyên từ bi của giải thoát bất tư nghị, nên thường hiện thân có bệnh để lợi ích chúng sinh ở ba cõi. Đây là vô tâm đối với vật. Đại kinh nói: Từ năm đầu ngón tay phóng ra năm con sư tử, Như Lai không khởi niệm mà voi thấy sư tử. Phải biết đều là do sức Từ thiện căn. Nay ngài Tịnh Danh do đại bi hun đúc tâm, hiện bệnh ở ba cõi cũng thế. Chúng sinh duyên và Pháp duyên thì không thể như thế. Nay ngài Tịnh Danh do Vô duyên đại bi, nên có thể hiện thân có bệnh ở ba cõi mà nói bốn giáo ba quán, như bỏ chất độc vào sữa cho đến đề hồ cũng có khả năng giết chết người. Bồ-tát đại bi cũng lại như thế. Tùy chỗ hiện thân mà đồng sự, lợi ích, các công năng đó không luống uổng. Nên Đại kinh nói: Từ tức Như Lai, Từ tức giải thoát. từ bi này đầy đủ tất cả Phật pháp, như nam châm hút sắt. Bi cũng như Từ.

Hỏi: Đá khác với hút hay hút khác với đá?

Đáp: Nếu đá khác với hút, thì đá không hút, còn hút khác với đá thì hút ở ngoài đá. Nay không thế, vì không một cũng không khác, tức là đá hút. Vô duyên từ bi tức là pháp thân, pháp thân tức là Vô duyên đại bi, luôn vắng lặng thanh tịnh, không nghĩ nhớ, không hút. Như gương vốn không có hình ảnh, tùy các duyên đối với gương mà hình ảnh hiện ra. Chúng sinh vốn tánh thanh tịnh, không có si ái. Bồ-tát pháp thân xưa nay vốn không bệnh, vì chúng sinh ở ba cõi có bệnh si ái khởi lên, nên Bồ-tát đại bi ở ba cõi liền có bệnh quyền, nên nói từ si có ái thì bệnh ta sinh.

Phần b) Ngài Văn-thù hỏi thất trống và không có thị giả từ câu “Văn-thù …”. Văn có hai: Hỏi và đáp.

– Ngài Văn-thù hỏi. Ngài Văn-thù vào thấy thất trống liền biết có biểu thị việc thời chúng chưa ngộ, nay muốn hiển bày nghĩa Phật quốc nên hỏi tiếp. Đây là hỏi về cõi nước y báo là nơi chánh báo nương tựa, để khiến thời chúng biết Tịnh độ rốt ráo là nơi pháp thân Đại sĩ nương tựa không có y báo quyến thuộc. Nếu ứng với vật, thì có y báo quyến thuộc, nên hỏi tiếp thất này vì sao trống không và không có thị giả. Câu hỏi này chính là khởi phát việc giúp thành Phật quốc đã nói ở phẩm Phật Quốc.

– Ngài Tịnh Danh đáp từ câu “Duy-ma…”. Văn có hai: Trước đáp thất trống. Kế đáp không có thị giả. Phần đáp thất trống có bảy lần đối đáp qua lại.

Lần một, đáp thất trống. Nói quốc độ chư Phật cũng đều không.

Đại sĩ khéo léo có nhiều cách biểu thị không phải một. Từ khi đến thất này việc bày biện, người hầu, đều nhằm biểu thị việc muốn nói các giáo Phương tiện về duyên tập chưa trừ thì chưa được hiển bày cõi nước thanh tịnh. Nay muốn chỉ rõ chân Tịnh độ không có các phiền lụy về phần đoạn, biến dịch y chánh, để dẫn nhập vào bổn quốc thường tịch, bổn tánh lý không rốt ráo. Nên dẹp bỏ các thứ, biểu thị cho giáo xả phương tiện mà nói có. Nay muốn mở bày Tịnh độ Chân không Tịch quang rốt ráo, nên đáp nói các quốc độ của chư Phật cũng đều không. Vì cái không đó đâu chỉ biểu thị cho tánh tịnh thường tịch trống không chẳng có chi vì tất cả các quốc độ cũng đều không. Nếu các quốc độ chẳng phải là Không, thì Tịch quang không khắp, mà đã khắp tất cả, thì ba cõi cũng đều không.

Hỏi: Có cõi Tịch quang riêng chăng?

Đáp: Không phải thế, chỉ có phần đoạn biến dịch tức là Thường tịch quang. Như ngài Loa Kế đã thấy uế tức là tịnh nên lại không riêng cầu. Nên nói thí như chư Thiên cùng có bát báu, nhưng cơm có sắc khác. Nói chư Thiên là biểu thị cho ba cõi, đều có y chánh. Chánh báo tức là thân, y báo tức là chỗ ở và các thứ tịnh diệu ngũ dục. Nói đều “không” tức biểu thị cho Thường tịch quang. Đây không có sự khác nhau của giới hạn cảnh vật y báo, cũng không có các loại chánh báo khác nhau, mà đồng nhập vào lý Chân không rốt ráo. Như thất trống này không có các vật cũng không có thị giả. Từ trước nay đối với phương tiện khách khứa mà bày trí mọi vật, nay các khách đã thành cơ rốt ráo không, giả sử ai chưa vào thì khiến vào, không bao lâu liền được chất cơm thơm, như nghe trống độc. Đến khi nghe Pháp Hoa thì tất cả đều vào. Thế nên thất trống chính là biểu thị việc này.

Lần hai, hỏi đáp “Lại hỏi… không không”. Hỏi lấy gì làm Không. Phần đoạn, biến dịch đều có y, chánh, sao lại khiến chúng cùng quy về một không? Lại kinh Thanh Văn nói: Có không Tam-muội, mười tám không của Đại thừa thì có không không, chưa biết lấy gì làm Không nên gọi là Không. Đáp rằng lấy không làm Không, nếu dựa theo cảnh trí, chung nói pháp Không. Như Đại kinh nói: Vì không không nên là Không. Cũng vì Bồ-tát tu không, nên là Không. Như muối có tánh mặn, khiến khác các vật mặn, nên nói lấy không làm Không. Nay nói nếu mê ý giáo, chỉ chạy theo lời nói, mà nói không không, thì không là vô cùng không khỏi rơi vào hý luận. Việc Tạng Thông nói chỉ là Không không của nội giới. Nay ở Trung đạo mà chánh quán thì hay không sinh tử, mà cũng rỗng không cả Niết-bàn, nên nói là Không Không. Nếu rỗng không sinh tử tức là Đồng cư không, nếu không Niết-bàn tức là Biến dịch Không, nên nói lấy Không làm Không. Vì sao? Vì nội giới đóng khối cũng còn là Không, huống là quả báo ngoại giới rất tế diệu, mà chẳng không ư? Lấy đây mà suy, thì thất trống là biểu thị cho các Phật quốc đều không, tức biểu thị các cõi nước là Tịch quang vậy.

Lần ba, hỏi đáp “Lại hỏi… nên là Không”. Sở dĩ lại hỏi thêm “Đã Không, cần gì phải Không?”, là nếu pháp vốn xưa nay tự không, thì cần gì đợi tu mới Không. Nếu cho tu mới không, thì bổn tánh của Không chẳng là Không. Lại nếu quán phần đoạn, từ Giả vào Không, không tức chân đế, đâu cần lại không. Nếu cần lại không, thì phải biết là có, nên hỏi đã không cần gì phải Không? Đáp rằng: Vì không phân biệt không nên không. Nếu ở bản tánh, thì lý không là một, nhưng học phương tiện Nhị thừa Bồ-tát còn phân biệt chấp Không, chưa hiểu được Chân không. Nếu bỏ trí chướng phân biệt hai đế, liền hiểu lý Trung đạo Chân không. Nên nói vì không phân biệt không nên không. Lại nữa, nếu phân biệt tục là có thật không, phá tục vào chân, thì sinh tử Niết-bàn là hai, gọi là phân biệt. Chỉ được cái đản không mà không được cái “Không chẳng thể được.” Nếu thể nó không phải tục không phải chân, tức không có sinh tử Niết-bàn khác nhau, há là có trí chướng để bỏ ư? Không có sinh tử tức là đản không, không có Niết-bàn tức là cái “Không chẳng thể được”, đó gọi là vì Không nên Không. Nếu biết vô phân biệt là Không, thì không có nội ngoại giới để phân biệt, tức là Thường tịch quang chân cực Tịnh độ.

Lần bốn hỏi đáp “Lại hỏi… cũng không”. Ngài Văn-thù hỏi ý này là ngầm vấn nạn rằng: Nếu phân biệt chẳng phải là Không thì vô phân biệt là Không, sao được nói không. Nếu nói là Không, thì đâu không phải là phân biệt. Nếu dùng phương tiện Nhị thừa phân biệt Bồ-tát chấp Không thì đều chẳng phải Không, nay sao được bỏ phân biệt không, mà chấp chẳng phân biệt mới là Không. Nếu có lấy bỏ không phân biệt, lại thành phân biệt. Đã thành phân biệt thì không phải Không nữa. Nếu là Không thì không cần phân biệt, nên hỏi nói là Không mà có thể phân biệt ư? Ngài Tịnh Danh đáp nói phân biệt cũng không. Lý Không này, bản tánh tự không mà dối sinh phân biệt, chỉ phân biệt này chưa từng có. Tuy lại có các thứ nhớ tưởng phân biệt mà phân biệt tức không, nếu tánh tự không tại sao tu không mới thấy Không. Nếu cảnh sở quán phân biệt tức không, không phân biệt thì năng quán cũng thế. Nếu trí năng quán phân biệt chẳng không mà không phân biệt, thì sở quán cũng thế. Vì cảnh sở quán phân biệt không, tức là Không phân biệt thì năng quán cũng thế. Các phương tiện giáo sự lý không dung nhau, vì phân biệt có thể làm chướng lý không phân biệt. Viên giáo thì không thế, tất cả phân biệt tức là Không phân biệt, không phân biệt tức là phân biệt. Phân biệt tức không. Do đó văn trên có nói: Luôn khéo phân biệt các pháp tướng ở Đệ nhất nghĩa mà không động, tuy lại phân biệt nhưng chưa từng lìa không, do đó nói phân biệt cũng không. Lại nữa, ba cõi đều là vọng tưởng phân biệt nên có. Nếu đều tức là Trung đạo pháp tánh nhất như không hai. Thì đây là phân biệt tức không, tức là Tịch quang vô phân biệt vậy.

Lần năm hỏi đáp “Lại hỏi… Trung cầu”. Hỏi: Không tìm ở đâu? Nói lý Không chẳng phân biệt này vi diệu huyền tuyệt, người tu phải tìm nó ở đâu? Ngài Tịnh Danh liền đáp phải tìm trong sáu mươi hai kiến. Ví Như có người mê, cho Nam là Bắc, không thể bỏ phương Bắc, mà cần phải trở về chỗ lầm là Bắc, để tìm phương Nam. Khi ngộ, thì trở về chỗ mê cho là Bắc, thì thấy phương Nam. Nay chúng sinh chưa ngộ tức Bồ-đề là phiền não, cho nên có sáu mươi hai kiến phiền não. Nếu ngộ tức phiền não là Bồ-đề, thì sáu mươi hai kiến chấp cho là chỗ phiền não, tức là Tịnh độ Thường tịch Bồ-đề Chân không vậy. Nay nói sáu mươi hai kiến, tuy có rất nhiều nguồn, nhưng gốc rễ của nó không ngoài hai kiến. Từ hai sinh ra bốn và trải ấm ba đời tức là sáu mươi hai vậy. Nên kinh Pháp Hoa có nói: “Hoặc hữu hoặc vô nương vào các kiến đầy đủ sáu mươi hai thứ.”

Phàm phu bốn giáo có năm thứ bốn kiến có, không:

1. Bốn kiến của phàm phu sinh ra sáu mươi hai thứ như vừa mới nói.

2. Bốn môn Tam tạng giáo chưa ngộ chấp trước tức là bốn kiến, như Đại luận nói: Nếu vào Tỳ-đàm tức đọa vào hữu, không môn, Côn lặc môn… đều đọa vào kiến.

3. Bốn môn của Thông giáo, nếu chưa được chân, chấp bốn trường hợp này (bốn cú) tức là bốn kiến. Như Đại luận nói: “Bát-nhã như lửa lớn, đốt nóng bốn bề không thể lấy.” Xem phẩm pháp ở Trung luận cũng có lời nói đó.

4. Bốn môn của Biệt giáo, như Đại kinh có nói: Sữa ví như Phật tánh bốn trường hợp. Nếu chưa thấy Phật tánh chấp bốn trường hợp này tức là bốn kiến.

5. Bốn môn Viên giáo, nếu chưa thấy tánh, chấp bốn trường hợp này cũng thành bốn kiến. Nên kinh Tư Ích nói rằng: Thật ngữ là hư ngữ, sinh ra ngữ kiến.

Cho nên trong Đại kinh nói: Từ đây trở về trước đều gọi là tà kiến. Lấy bốn giáo này trải qua ấm ba đời và hai vô ngã, mỗi thứ cũng đều sinh sáu mươi hai kiến. Có người nói: Đại Tập có loại phân biệt này chưa được viết thành văn. Sở dĩ nêu năm thứ sáu mươi hai kiến này, là để thành lời đáp của ngài Tịnh Danh, cho nên nói phải tìm ở sáu mươi hai kiến. Nếu từ sáu mươi hai kiến của phàm phu và bốn kiến của Tạng, Thông mà tìm, thì được cái “đản không”, tức là kiến ở Đồng cư và hữu dư. Nếu từ bốn kiến của Biệt, Viên mà tìm, thì được kiến của cõi quả báo. Nếu ở bốn kiến của Viên giáo… mà tìm cho đến lìa tất cả kiến thanh tịnh Tịnh thiền, tức là kiến Tịch quang. Như mê Nam cho là Bắc, thì từ chỗ mê mà tìm, liền được thấy gốc. Nay muốn tìm lý, chỉ căn cứ vào kiến mà tìm liền được chẳng phân biệt Không, nhập vào Thường tịch quang. Nên đáp nói ở sáu mươi hai kiến mà tìm.

Lần sáu, hỏi đáp “Lại hỏi… trung cầu”. Hỏi sáu mươi hai kiến phải tìm ở đâu? Đây là nói các kiến điên đảo xưa nay vốn không thật, nương vào đâu để khởi mà tìm thấy các kiến. Ngài Tịnh Danh liền đáp: Phải tìm ở giải thoát của chư Phật. Vì sao? Vì các giải thoát của chư Phật tức là tâm Thanh tịnh, Trung đạo tự tánh, không bị phiền não vấy nhiễm, vốn không phải trói buộc hay giải thoát, không nhiễm hay nhiễm, khó thể biết rõ. Tức là chúng sinh mê chân tánh giải thoát, nên khởi sáu mươi hai kiến mà có trói buộc, có giải thoát. Kiến này, không phải ở chỗ khác khởi lên, tức do mê chân tánh giải thoát mà khởi. Nay muốn tìm thấy các kiến mê tình này, thì phải tìm ở chân tánh giải thoát của chư Phật, thì biết nguồn gốc chỗ khởi sáu mươi hai kiến. Như muốn tìm băng giá thì không được lìa nước.

Lần bảy, hỏi đáp “Lại hỏi… trung cầu”. Nếu muốn tìm sáu mươi hai kiến thì phải từ chân tánh giải thoát của chư Phật mà tìm, thì quả địa ba đức giải thoát của chư Phật phải tìm từ đâu? Ngài Tịnh Danh liền đáp: Phải tìm ở tâm hạnh chúng sinh. Văn trên có nói: “Tùy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh.” Nay quán tâm của chúng sinh nhập vào trí bổn tánh thanh tịnh, tột cùng nguồn cội chúng sinh, tức là hiển bày quả giải thoát của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phá một vi trần sinh ra Đại thiên kinh quyển.” Nên Ban Chu Tam-muội có nói: Chư Phật từ tâm mà được giải thoát. Tâm là thanh tịnh gọi là vô cấu. Năm đạo tươi sạch không nhận màu sắc, hiểu được nghĩa này là thành đại đạo. Nên ngài Tịnh Danh khuyên tìm ở tâm hạnh chúng sinh. Như khuyên tìm băng thì không được lìa nước.

Hỏi: Tìm chân tánh giải thoát cũng được thật tuệ và phương tiện chăng?

Đáp: Tâm tánh chúng sinh tức là chân tánh, si ái tức là thật tuệ, các hạnh bất thiện tức là phương tiện, đầy đủ như trong huyền nghĩa nói về mười hai nhân duyên, ba thứ phi đạo thông suốt bất tư nghị, ba thứ Phật đạo giải thoát. Nếu thấy tâm chúng sinh tịnh tức cõi Phật tịnh, tức là ở tâm hạnh chúng sinh mà thấy ba thứ pháp thân giải thoát của Phật, không dọc không ngang, như chữ nhất ở đời. Do đó mà pháp thân cao tột, lìa thân không có cõi, lìa cõi không có thân. Thân cõi lý đồng, mà tên có khác. Như trời Đế Thích có nhiều tên, giải thoát cũng thế. Hoặc gọi là Tỳ-lô-giá-na, hoặc gọi là Thường tịch quang độ, nên thất trống của ngài Tịnh Danh biểu thị cho các Phật quốc là Không, chỉ đặt một giường để bệnh nằm, là biểu thị cho ba đức giải thoát. Nếu thấy thất trống, tức là thấy giường bệnh nằm. Nếu thấy giường bệnh nằm, tức là thấy thất trống. Nếu thấy tâm chúng sinh không, tức là thấy các Phật quốc không, tức là trong tâm hạnh mà tìm được ba giải thoát. Nên ngài Tịnh Danh nhân đáp Phật quốc tức không, vẫn đáp là giải thoát của chư Phật, thì lại giúp thành việc Phật nói chỉ thú giải thoát bất tư nghị, hiển bày tông chỉ Phật quốc, giúp Phật rộng hóa độ, chính ý là đây. Đến năm phẩm nói trong thất, tuy nói nhiều thứ, nhưng tóm tắt đường lối thì chỉ do đây mà ra.

Tiếp là phần đáp không có thị giả “Hựu nhân sở vấn…”, tức biểu thị cho tánh tịnh, không có các ái kiến, nên nói là Không có thị giả. Như người đời luôn hầu hạ ở hai biên, luôn chạy nhảy sai khiến, hầu hạ các thứ, chính là biểu thị việc này. Văn có hai: Chánh đáp và Giải thích.

– Chánh đáp: Tất cả các ma ngoại đạo đều là thị giả của tôi. Ý đáp này, là Đại sĩ lấy ma và ngoại đạo làm thị giả. Nay thất trống không có thị giả, là biểu thị cho Thường tịch quang không có ái kiến, tức không có ma ngoại, nên không có thị giả. Nhưng có nghĩa hầu hạ là, nếu ở ba cõi có chúng sinh ái kiến, tức là ma ngoại, thì ngài Tịnh Danh chuyển dùng họ để làm Phật sự, lợi ích chúng sinh, tức là nghĩa hầu hạ. Nếu chúng sinh ái kiến ở ba cõi tức không, chẳng có gì cả, là Không có nghĩa hầu hạ. Nhưng ngài Tịnh Danh vì chúng sinh ở ba cõi đều có ái kiến nên thị hiện ở các cõi, tức là có hầu hạ. Nếu ở Đồng cư cõi uế tức có Ba-tuần quyến thuộc và thuộc ái chúng sinh đứng hầu bên hữu, chín mươi sáu thứ Lục Sư và thuộc kiến chúng sinh đứng hầu bên tả. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh ở Đồng cư cõi uế hiện các thứ thân, không buông bỏ các ái, hoặc làm ma vương điều phục quyến thuộc để làm Phật sự, mà ở kiến không động, hoặc làm ngoại đạo hồi tà quy chánh, điều phục quyến thuộc của họ để cùng làm Phật sự. Đây tức là dùng ái kiến tạo chúng sinh làm người hầu. Thị hiện ở Đồng cư tịnh cũng thế, chỉ không có bọn ác ma ngoại. Nếu kiến ái ở cõi Hữu dư, thì hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo, sinh vào cõi ấy có thiền định trí tuệ. Thiền định là tánh ái, trí tuệ là tánh kiến, cũng là ái kiến tội cấu nghiệp đời trước, nên không thấy cõi thanh tịnh của Như Lai. Ngài Tịnh Danh cũng ứng hiện sinh, đồng có ái kiến với họ mà điều phục giáo hóa, khiến làm Phật sự tức là kẻ hầu vậy. Nếu Bồ-tát Biệt, Viên, tuy có phước tuệ, nhưng chưa thấy Phật tánh, chưa đoạn hết vô minh, tức là do ái kiến tạo nên, thì cũng là ma ngoại. Cõi biến dịch ấy, tuy không có Thiên ma, nhưng có ma ưa sinh tử, làm nhiễm Niết-bàn, tức là ái, vì ái nên có biến dịch quả báo tức là ma vậy. Tuy không có ngoại đạo ngoài lý chân đế, mà có ngoại đạo ngoài lý Trung đạo. Đại sĩ đối với ái không bỏ, đối với kiến không động, mà hóa độ, tức lấy chúng làm thị giả. Nếu ở cõi quả báo bắt đầu từ sơ trụ, tuy thấy thật đế, viên đoạn các kiến tư pháp giới, nhưng chưa đoạn hết, cho đến vị pháp vân cũng còn có ái kiến vi tế, bị các hoặc vô ngã trói buộc, nên còn ở một phẩm Tử Ma. Ngài Tịnh Danh vì họ hiện sinh cõi ấy, điều phục Bồ-tát do ái kiến tạo nên này để làm quyến thuộc, tức đều là thị giả của tôi vậy. Nếu ở cõi Tịch quang rốt ráo, các nghiệp chiêu cảm y báo đều hết nên nói không, chẳng có gì, dứt hẳn chẳng có ái kiến chiêu cảm Chánh báo, nên nói là Không có thị giả, ấy là thất trống không có thị giả, biểu thị xa vậy.

– Giải thích “Sở dĩ… bất động”, như đồng Cư sĩ lấy ái kiến ma ngoại làm thị giả, thì chúng sinh do ái kiến tạo nên ở ba cõi, cũng đều gọi là thị giả. Nếu ái kiến tức không, không bỏ không động, tức là Không có thị giả, tức không mà có ái kiến chúng sinh. Ngài Tịnh Danh không vướng vào Không buông không động mà điều phục, khiến đầy đủ tất cả các Phật pháp, tức có nghĩa thị giả. Cõi Tịch quang dứt hẳn không có ái kiến, tức không có ma ngoại, nên không có thị giả.

Phần c) Ngài Văn-thù hỏi tướng bệnh “Văn-thù…”. Có ba lần hỏi đáp:

Lần một, Hỏi thể tướng bệnh.

Lần hai, Hỏi dụng của bệnh.

Lần ba, Hỏi việc gây bệnh.

– Hỏi bệnh có những tướng gì, tức là hỏi thể tướng của bệnh. Sở dĩ hỏi, đã nói pháp thân thì các bệnh dứt hẳn, nhân đại bi mà hiện ra bệnh này. Bi tức là thể của bệnh. Có những tướng gì. Nếu có tướng nhất định thì luôn làm lợi ích, nếu không có tướng nhất định thì há có chỗ dùng.

Ngài Tịnh Danh đáp nói “Bệnh tôi không có hình tướng không thấy được.” Đây là nói pháp thân xưa nay không bệnh, vì đại bi thiện căn mà hiện ra bệnh này. Vô duyên đại bi không có nơi chốn, há lại có hình tướng. Nếu chúng sinh duyên với pháp duyên, có chỗ nương nhờ, thì có thể luận về hình tướng của nó. Nó đồng thể với đại bi không duyên không niệm, há lại thấy được. Như nam châm hút sắt, như bệnh hoạn của thân phàm phu còn không hình tướng, huống là pháp thân vô duyên mà thấy được ư? Cho nên đáp nói: Bệnh ta không hình tướng, không thể thấy, tức là đáp thể bệnh vậy.

– Hỏi về dụng của bệnh “Lại hỏi… như huyễn”. Sở dĩ hỏi dụng của bệnh, ứng thân có bệnh quyền tức là dụng của bệnh. Tiến thoái hai thứ cùng hợp với pháp nào? Cùng hợp với thân Kim cang hay hợp với tâm trí tuệ. Nếu cùng hợp với thân, thì pháp thân phải có bệnh ấy. Nếu cùng hợp với tâm, thì tâm lực vô úy… phải có khổ. Đây là dựa theo nghĩa tấn hợp mà hỏi. Sở dĩ ước Kim cang làm sắc, trí tuệ làm tâm là trích từ Đại kinh. Phật đáp ngài Sư tử hống. Nếu cùng thân chúng sinh hợp mà thân chúng sinh thật có bệnh, thì ứng thân phải thật có bệnh. Nếu cùng tâm chúng sinh hợp, mà tâm chúng sinh có thật khổ, nên ứng tâm cũng có thật khổ. Đây là ước nghĩa thối hợp mà hỏi. Nếu không cùng thân Kim cang và tâm trí tuệ hợp, thì vì sao lại gọi: Pháp thân khởi ứng từ đại bi sinh. Nếu không hợp với thân tâm của chúng sinh, thì sao lại nói ứng đồng bệnh ấy. Ngài Tịnh Danh đáp nói: Không phải hợp với thân, vì thân tướng vốn lìa. Như phàm phu bệnh hiện thấy không hợp cùng thân tâm, suy thân giả danh không thấy bệnh thật, chỉ có danh tự, mà danh tự thì không luận hợp hay không hợp. thân tướng vốn lìa nên tìm thật không được. Cho nên bệnh không hợp với thân cũng không hợp với tâm vì tâm như huyễn, niệm niệm không dừng trụ, huống là ứng thân bệnh quyền mà hợp với thân Kim cang ư. Vì thân tướng vốn lìa, mà cùng hợp với tâm trí tuệ. Vì tâm như huyễn, nên chỉ có danh tự. Ví như gương sáng, tất cả hình ảnh màu sắc đều hiện trong gương các hình ảnh này không hợp với gương. Vì sao? Nếu gương tròn đầy thì hình tượng cũng tùy tròn theo, nếu không tròn đầy thì phải biết hình ảnh không hợp cùng gương, cũng không hợp với hình. Vì sao? Vì ngoại đạo là hình thật còn hình ảnh này không thật. Hình không thật thì đâu thể thật hợp. Tuy không cùng gương hợp, nhưng nhân gương hiện ra ảnh, tuy không hợp cùng hình nhưng hình đối với gương thì ảnh sinh. Bệnh này cũng thế. Không hợp cùng thân Kim cang và tâm trí tuệ. Vì sao? Vì thân Kim cang vốn tướng lìa, tâm trí tuệ như huyễn, vì tánh vốn không bệnh cũng không cùng thân tâm phàm phu hợp nhau. Vì sao? Vì thân phàm phu vốn lìa, tướng bệnh không dừng, tâm thì như huyễn hóa bệnh ở vào đâu. Phàm phu thì bệnh thật, mà bệnh này lại quyền hiện tuy không cùng pháp thân và phàm phu hợp nhau, nhưng nhân đại bi khởi, mà có bệnh thật. Nên từ vô trụ vốn lập tất cả pháp mà hiện có bệnh ở ba cõi, nên lấy gương làm dụ.

– Hỏi việc gây bệnh “Lại hỏi… bệnh của ta”. Sở dĩ hỏi, là hễ có bệnh thì ước vào thân. Thân có bốn đại như bốn rắn độc lại tranh hại nhau. Đại Luận nói: Bốn rắn đuổi nhau luôn tàn hại nhau, một đại không điều hòa thì có một trăm lẻ một bệnh não. Nên văn nói Bồ-tát vì chúng sinh có sinh tử, có sinh tử thì có bệnh. Vì sao? Vì ứng hiện chịu thân rắn độc này tức có bốn đại. Nay hiện thân có bệnh, thì đại nào bệnh. Ngài Tịnh Danh đáp nói: Không phải Địa đại. Nếu Địa đại là bệnh thì đất đá rừng cây cũng phải là bệnh. Nếu các thứ này… Không phải bệnh, sao được nói Địa đại là bệnh. Thủy, hỏa, phong cũng lại như thế. Bốn đại ngoại đạo không phải, thì bốn đại bên trong cũng thế. Lại nữa, nếu bốn đại là bệnh, thì những gì có bốn đại này đều phải là bệnh, đâu được nói hoặc có hoặc không. Nếu khi không bệnh thì phải Không có bốn đại. Tuy có bốn đại, nhưng có lúc không bệnh. Nên biết bệnh không phải bốn đại, cũng không lìa bốn đại, chỉ ước thân này được luận là có bệnh. Ví như nhân đích mà có tên trúng há lìa bốn đại mà riêng luận bệnh, nên nói không lìa địa đại. Ngài Tịnh Danh cũng thế. Tuy đồng bệnh thật hà tất phải đồng ngay bệnh khổ ư? Nên nói không phải bốn đại vậy. Không lìa, vì ngài Tịnh Danh là bệnh thật thế nên phải đồng lý do của ứng bệnh thành bệnh thật. Nên nói là Không lìa, tức là Không lìa để luận bệnh quyền vậy. Lại không phải địa đại, là như Thỉnh Quan Âm nói: Địa không có tánh bền chắc, tánh thủy không dừng, lửa từ duyên sinh, tánh gió không ngăn ngại mỗi mỗi đều nhập vào bờ mé như thật. Thật tế của bốn đại tức không phải bệnh, nên nói không phải bốn đại. Không lìa là chúng sinh không hiểu rõ bốn đại như thật, nên khởi các bệnh. Do đó mà ứng thân đồng bệnh bốn đại, nên nói không lìa. Cho nên ngài Tịnh Danh nói: Vì bệnh chúng sinh từ bốn đại khởi lên mà có bệnh. Thế nên tôi bệnh, là chúng sinh do bốn đại tạo nên, cũng hiện thân do bốn đại tạo nên. Vậy bốn đại tức là việc gây bệnh. Nay khắp ước ba cõi, nếu ba cõi có bệnh thì ngài Tịnh Danh có đại bi này. Thể của bệnh không hình tướng cũng như hư không, tuy lại hiện đồng nhưng không hợp nhau với thân tâm ba cõi. Việc tạo nên bệnh vốn do đại bi, nào có liên quan chi đến bốn đại, cũng không lìa bốn đại, nên sinh ở ba cõi mà hiện bệnh quyền. Nên nói “thế nên tôi bệnh.” Cho đến tâm Kim cang ở vị pháp vân cũng thế.

Tiếp hỏi bệnh thật trong nhân “Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi…”. Sở dĩ hỏi tiếp, vì từ trước đến đây là bệnh quyền nhân đâu lại đồng bệnh thật, vì có bệnh thật nên bèn phương tiện hiện đồng sự để trị bệnh. Thế nào là vì chúng sinh bệnh thật mà nói pháp, thế nào là an ủi ủy dụ bệnh thật Bồ-tát. Văn có hai:

  1. Hỏi về người tín hành.
  2. Hỏi về người pháp hành. Vì sao?

Hỏi an ủi như thế nào? Ngài Tịnh Danh đáp dùng ba giáo để ủy dụ, tức là người tín hành. Từ đó lại hỏi làm sao điều phục. Ngài Tịnh Danh đáp: Dùng ba quán để điều phục, tức là người pháp hành. tín hành, tất phải nhờ ngoại duyên, luôn vì nói pháp, chỉ bày rõ ràng mới được ngộ, tức là hàng độn căn? Còn pháp hành thì không chuyên nhờ ngoại duyên, ít việc học hỏi nghe pháp, mà luôn quán hạnh để nhập đạo, tức là hàng lợi căn. Cũng chưa hẳn nhất định như thế, chỉ vì tín pháp hai hạnh xen nhau các Căn lợi độn, tánh chất không đồng. Ngài Văn-thù nhân đây đặt hai câu hỏi. Lại nữa, chúng sinh nhiều kiếp có lúc nghe pháp, có lúc tự tu, nên hỏi về ủy dụ và điều phục để xin nói ra ba giáo, ba quán. Nếu đem ba giáo mà thành kinh trên ở ngoài thất, tức là dùng Thông giáo để ủy dụ và từ Giả vào Không quán để điều phục, để thành việc nói pháp cho quốc vương, trưởng giả, chê trách hữu vi duyên tập. Nếu dùng Biệt giáo để ủy dụ, thì từ không vào Giả, quán để điều phục, mà thành việc chê trách vô vi duyên tập của mười đệ tử Phật. Nếu dùng Viên giáo mà ủy dụ, thì không giả một tâm ba quán, để điều phục là thành việc chê trách tự thể duyên tập của Bồ-tát. Nếu đem thành đoạn văn sau này, thì từ trên đã hỏi về bệnh quyền, lấy phẩm Bất Tư nghị làm gốc. Nay hỏi bệnh thật, nếu dùng Thông giáo mà ủy dụ và từ Giả vào Không để điều phục, thì lấy phẩm Quán Chúng Sinh làm gốc. Nếu dùng Biệt giáo để ủy dụ, từ không vào Giả để điều phục, thì lấy phẩm Phật Đạo làm gốc. Nếu dùng Viên giáo để ủy dụ, Trung đạo chánh quán để điều phục, thì lấy hai phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn và Hương Tích làm gốc. Nhưng chẳng dùng Tam tạng giáo, vì đây là nghĩa Ma-ha-diễn.

Khi chưa vào thất nói bốn giáo là để chiết phục chê trách việc mê đắm dục lạc của phàm phu Tiểu thừa. Nay vào thất nói ba giáo ba quán, chính vì muốn nhiếp thọ, phân biệt như trước. Nên biết một bộ kinh này nói ba quán bốn giáo, lời văn rất rõ ràng sáng tỏ, so trước nhìn

sau các nghĩa tương đương. Cùng một nhà dùng bốn giáo ba quán hơi giống. Cho nên trước ở huyền nghĩa đã nói đủ bốn giáo ba quán, ý là ở đây vậy. Lược xét đã xong.

* Nay ngài Văn-thù trước hỏi nói Bồ-tát ủy dụ Bồ-tát có bệnh như thế nào? Tức là mời nói giáo môn an ủi.

Ngài Tịnh Danh đáp “Duy-ma…”. Văn có bốn: Ba tức là ủy dụ của ba giáo và bốn là kết thành. Nay nói ba giáo là chỉ an ủi ủy dụ Bồ-tát không lấy hàng Nhị thừa, vì không từ bi mà nhập hẳn vào Niết-bàn. Nên nay dùng Tạng Thông cùng thành một giáo để ủy dụ, các bệnh hữu vi kiến tư nội giới chưa đoạn hết, Bồ-tát có bệnh thật nhân quả phần đoạn, cho nên cần Tam tạng giáo giúp Thông giáo Đại thừa mà ủy dụ. Cũng được gồm dùng Biệt, Viên mà ủy dụ. Nếu nói Biệt giáo chính là ủy dụ Bồ-tát có hữu vi, vô vi duyên tập, vì họ có bệnh thật nhân quả Vô tri biến dịch, nên phải dùng Biệt giáo mà ủy dụ. Nếu nói Viên giáo, chính là để ủy dụ Bồ-tát có tự thể duyên tập, vì họ có bệnh thật nhân quả tự thể, nên dùng Viên giáo mà ủy dụ.

Dùng Tạng, để giúp thông mà ủy dụ, là khuyên họ từ Giả vào Không quán tu tất cả trí tuệ nhãn. Văn có hai:

  1. Từ quả Giả vào Không.
  2. Từ nhân Giả vào Không.

Quả là thân năm ấm vọng hoặc do ba thứ giả có nên gọi là quả giả, tức là bốn hành trong khổ đế, vô thường đứng đầu.

Nói thân vô thường nhưng không nói chán lìa thân, là như Thanh văn quán thân vô thường, khởi chán lìa, mà bỏ xa sinh tử. Bồ-tát thì không thế. Họ quán thân vô thường hoặc tích hoặc thể để phá thường điên đảo, mà không nói chán lìa để phá tâm Nhị thừa Bồ-tát. Tuy biết vô thường niệm niệm tiêu mất nhưng chưa độ chúng sinh, chưa đủ Phật pháp thì trọn không buông bỏ.

Nói thân có khổ mà không nói ham thích Niết-bàn, là Thanh văn quán khổ thì ham cầu Niết-bàn. Bồ-tát thì không thế. Họ hoặc tích hoặc thể hiểu khổ là Không khổ, để phá chấp lạc điên đảo, nhưng chưa độ chúng sinh, chưa đủ Phật pháp, thì trọn không thể nhập Vô dư Niếtbàn.

Nói thân vô ngã mà nói giáo dẫn dắt chúng sinh, là Thanh văn quán thân vô ngã mà chứng diệt, không từ bi cứu độ chúng sinh. Bồ-tát thì không thế. Họ hoặc tích hoặc thể mà quán ngã giả nhập vào vô ngã, là phá mười sáu tri kiến chấp ngã điên đảo, không chấp nhận chúng sinh có tướng rốt ráo không, nên hay vì chúng sinh mà nói pháp vô ngã, như thế mà truyền dạy.

Nói thân không tịch mà không nói tịch diệt rốt ráo. Vì pháp Thanh văn nhập chân thì rơi vào tịch diệt, Bồ-tát thì không thế. Họ hoặc tích hoặc thể nhập giả thật hai không, mà biết lý Trung đạo, không lấy thiên chân làm rốt ráo. Ấy là tuy còn từ Giả vào Không mà muốn vào Trung đạo làm dòng dõi không bỏ quần sinh. Cho nên vì Thanh văn quán khổ có khác, ý là ở đây vậy.

– Nói ủy dụ “Thuyết hối… quá khứ) khiến quán nhân Giả vào Không. Nhân tức Tập đế, các kết nghiệp đều là nhân của khổ. Hàng Nhị thừa vì Niết-bàn chỉ đoạn gấp các kiết mà không sám hối các tội đời trước. Vì ngài Thân Tử có tội nên không thấy Tịnh độ là ý ở đây vậy. Bồ-tát biết rõ tánh phiền não nên không vội vã đoạn kiết, mà vào ngay Niết-bàn, chỉ lấy sám hối làm đầu được tịnh các công đức nên ngài Loa Kế thấy tịnh, là ý ở đây vậy. Đây chính nói quán nhân Giả vào Không, nếu chỉ quán quả Giả vào Không thì không phải lìa hoặc bốn trụ, mà tội xưa không trừ thì nói làm chướng pháp môn công đức hóa tha. Bồ-tát vì độ chúng sinh ắt cần phải trừ tội, nếu không còn oán đối tức có thể được giáo hóa. Nên Bồ-tát giới cấm sát làm đầu, còn Thanh văn giới thì cấm không trái phạm hạnh làm đầu, là ý ở đây. Nay nói Bồtát tu từ Giả vào Không mà sám hối tội quá khứ, cho nên nói sám hối tội trước. Như Tỳ-đàm nói ba đời có tội từ vị lai đến hiện tại nhập vào quá khứ thành dây nhợ trói cột người tu. Hoặc Thành luận nói hai đời không tội chỉ tùy tâm ở hiện tại. Nay Bồ-tát quán vô sinh sám còn không có ba đời, huống là tội nhập vào quá khứ và ở hiện tại. Chỉ vì ở quá khứ điên đảo vọng tạo ra các tội. Nếu biết tâm ta tự không, tội phước không chủ, như đây mà sám hối thì các tội như sương mốc bị mặt trời tuệ diệt trừ. Thể Giả vào Không phá các vọng tội tạo ra từ xưa, nên nói sám hối tội trước ba đời trống không, nên không nhập vào quá khứ.

Nói về dụng “Dĩ dĩ…”, nói dùng Biệt giáo mà ủy dụ vô vi duyên tập. Bồ-tát tự có bệnh thật nhân quả, hằng sa biệt hoặc, khiến từ không vào Giả quán phá vô tri, được pháp nhãn đạo chủng trí, thấy cơ nhập giả mà hóa vật. Văn có năm:

  1. Ủy dụ khuyên khởi Bi tâm.
  2. Khuyên pháp nguyện nhiêu ích chúng sinh.
  3. Khuyên tu phước tuệ.
  4. Khuyên sinh tâm mạnh mẽ.
  5. Khuyên tinh tấn không lui sụt.

Nếu đủ năm điều này tức việc nhập giả quán đã thành, có thể lợi ích cho tất cả.

Do biết bệnh mình mà thương xót bệnh người, nên trước khuyên khởi tâm bi. Vì sao? Vì hàng Nhị thừa không có tâm Bi chỉ chìm đắm trong không mà hưởng vui. Bồ-tát ra khỏi giả nên cần khởi đại bi.

Hỏi: Bồ-tát tự mình có bệnh thì có thể thương người khác, mình đã không bệnh sao được thương người khác bệnh. Lại Biệt giáo tuy có vô minh trần sa cùng phần đoạn khác nhau, sao được lấy mình mà thương người khác?

Đáp: Đây có hai cách giải:

1. Bồ-tát khi đoạn bốn trụ chỉ có vô minh và tập liền nghĩ rằng: Ta nay bị bệnh vô minh còn thế huống chúng sinh cụ phược, sao có thể chịu được khổ nặng ở nội giới. Ấy là so mình nhẹ mà thương người nặng nên cần ra khỏi giả.

2. Giả bệnh vô minh thì nhẹ, bệnh bốn trụ là nặng, sao được lấy nhẹ mà thương nặng. Phải biết đời trước đã trải vô số kiếp khổ, vì việc khổ xưa mà thương xót tất cả. Như kẻ nghèo hèn được làm vua do biết rõ mọi khổ vui của người mà nghĩ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

b) Nói ủy dụ khuyên phát nguyện lớn, tức từ bi mà khởi thệ nghĩ muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tức là nhập giả thắng duyên, nhớ nghĩ việc tu phước, luôn nghĩ đến tịnh mạng.

Nói ủy dụ khiến tu phước trí, khi đã vào Không thì không phước không mạng sống. Đây là nhập giả tu muôn hạnh, như trồng cây trên không trung. Tu phước, tức phước đức trang nghiêm, tịnh mạng tức trí tuệ trang nghiêm. Như Đại luận nói bốn thứ, năm thứ chánh mạng đều là việc này. Nếu không có chánh kiến thì tuệ mạng đều là, sao có thể thương người khác khiến không sinh ưu não.

Nói ủy dụ khuyên sinh tâm mạnh mẽ. Nghe sinh tử vô lượng kiếp mà ý mạnh mẽ. Tâm Thủ-lăng-nghiêm mới có thể vào Giả hóa độ chúng sinh. Nếu sợ sệt buồn khổ hoặc lui sụt thì rơi vào Nhị thừa. Nên nói chớ sinh ưu não phải khởi tinh tấn.

Ủy dụ khuyên tu tinh tấn: Bồ-tát có bệnh nếu muốn vào Giả, ắt cần tinh tấn không được nghỉ ngơi, chưa đủ Phật pháp Không được thủ chứng. Lại mới muốn gánh vác không nên biếng nhác. Đây tức là từ không vào Giả, lợi ích cho tất cả. Nếu nói không là chẳng có gì, không tu tinh tấn liền lui sụt rơi vào Nhị thừa, há có thể từ không vào Giả mà lợi ích cho tất cả. Nên làm vua thuốc trị lành các bệnh.

Nói dùng Viên giáo để ủy dụ. Bồ-tát có bệnh thật tự thể duyên tập thì khiến tu không giả, một tâm ba quán mà được pháp nhãn Nhất thiết chủng trí. Nếu các phương tiện giáo thì đây không phải là thầy thuốc lớn, nên không gọi là vua. Viên giáo phát tâm làm ba đế Viên quán của Phật, nếu được khai Phật tri kiến là Đại y vương, hay viên tập các pháp dược mà trị bệnh cho cả pháp giới. Nên nói làm vua thầy thuốc trị lành các bệnh, bệnh mình bệnh người đều lành rốt ráo. Văn ủy dụ này nói đủ ý bốn giáo ba quán, vì lược bỏ mà văn chưa sáng tỏ. Đến đoạn giải thích về ba quán sau này, thì văn mới sáng tỏ đầy đủ.

Kết thành “Bồ-tát… hoan hỷ”, tức là khuyên ba giáo để ủy dụ ba thứ Bồ-tát bệnh thật. Nếu nương vào giáo mà đoạn trừ ba thứ duyên trói buộc giải thoát về bệnh hoạn nhân quả ở ba cõi tức ai nấy đều vui mừng.

Phần 3

* Tiếp, vì Bồ-tát bệnh thật hỏi quán pháp để điều phục “Văn-thùsư-lợi nói…”. Lại có hai: Một là, Văn-thù-sư-lợi hỏi. Hai là Tịnh Danh đáp.

Về hỏi, ý cũng như trước nói về pháp hành, đối chung hai hành giúp nhau phát triển nên hỏi.

Ngài Tịnh Danh đáp “Duy-ma…”, chính căn cứ ba quán để điều phục. Vì sao? Vì ba quán phá ba hoặc, tức là tu ba trí ba nhãn để điều phục ba thứ bệnh thật nội giới của Thông biệt viên, cũng là điều phục bệnh thật nhân quả ba cõi. Văn có ba phần:

  1. Căn cứ từ Giả vào Không để điều phục bệnh kiến tu nội giới.
  2. “Vì không có chỗ thọ nhận…) là nói từ không vào Giả để điều phục bệnh vô tri.
  3. “Bồ-tát có bệnh tự nghĩa…) là nói chánh quán Trung đạo để điều phục bệnh thật vô minh, nghĩa của ba quán nói đầy đủ như ở huyền văn.

Phần (a) lại lược nói về tướng của ba quán. Tam tạng giáo đã không thấy Chân không cần phải luận. Về Thông giáo thì ba quán chỉ dựa vào hai đế nên chỉ thành hai quán mà không có quán thứ ba, không phải là ý đáp hiện nay. Nay chỉ dựa vào Biệt, Viên giáo chọn lấy ba quán, thì có ba thứ: Biệt tướng. Thông tướng. Nhất tâm.

– Biệt tướng, (tướng riêng) lần lượt quán riêng ba đế, từ Giả vào Không chỉ được quán chân, còn không quán tục há được quán trung. Từ không vào Giả chỉ được quán tục cũng chưa quán Trung. Nếu nhập Trung đạo mới được song chiếu. Huyền nghĩa đã nói đủ.

– Thông tướng, (tướng chung) có khác với đây. Từ Giả vào Không không phải chỉ Tục không, mà chân Trung cũng không. Từ không vào Giả không phải chỉ tục giả, chân Trung cũng giả. Nếu vào Trung đạo không phải chỉ biết Trung là Trung, tục chân cũng trung. Ấy là một không thì tất cả không, chẳng có giả trung nào chẳng không. Một giả thì tất cả giả, chẳng có không trung nào chẳng giả. Một trung thì tất cả trung, chẳng có không giả nào chẳng trung. Chỉ dùng một quán mà giải tâm đều thông. Tuy nhiên đây là tín giải giả thông, đến quán trừ bệnh đều có trước sau.

– Nhất tâm, biết tâm một niệm bất khả đắc bất khả thuyết mà luôn quán trọn cả ba đế. Tức kinh này nói: Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, thành tựu tất cả trí. Huyền nghĩa đã nói đủ.

Ba thứ tam quán này, ban đầu là tướng riêng chính ở Biệt giáo, tướng chung và nhất tâm là thuộc Viên giáo. Nay sáu phẩm trong thất chính là thuộc tướng chúng hoặc dùng nhất tâm. Sao biết được? Trước hết từ Giả vào Không, quán rằng: Chỉ có bệnh không, bệnh không cũng không. Đây giống như không ở Trung đạo. Lại phẩm Quán Chúng Sinh là từ Giả vào Không quán suốt ba đế. Xem văn mới thấy.

Hỏi: Hai thứ ba quán này đều là Viên, sao lại là hai?

Đáp: Thông tướng căn cứ chung. Luận Viên e là Phương đẳng kèm phương tiện của Viên, không đồng với Pháp hoa.

Nay nói từ Giả vào Không quán, cũng gọi là quán hai đế, tức là tu tất cả trí tuệ nhãn. Văn có ba: Một là Quán chúng sinh Giả Không. Hai là, Quán thật pháp Giả Không. Ba là, Quán bình đẳng Giả Không.

Quán chúng sanh giả không: Văn kinh hoàn toàn giống như phân tích giả. Vì sao? Trước phá ngã tưởng và chúng sinh tưởng là chúng sinh Không. Kế đến phải khởi pháp tưởng, là riêng tu pháp Không. Đây trái với dụ hình ảnh ngón tay và nắm tay trong gương. Nay nói không phải thế. Đây có ý riêng. Nếu người Thanh văn chỉ cầu tự độ thì tướng chung phá người tức là phá pháp Không. Bồ-tát vì hóa độ chúng sinh mà có tướng chung tướng riêng. Nếu tướng chung chỉ thể nhập ba giả đều như huyễn hóa. Về tướng riêng mà quán vào Không, trước cần phân biệt chúng sinh, Thật pháp, bình đẳng Không nhầm lẫn, sau đó mới quán Không. Vì sao? Vì Bồ-tát tập họp pháp dược cần phải phân biệt kỷ, vì phải phân biệt thuốc và bệnh để làm phương tiện. Do đó Đại luận giải thích việc Bồ-tát dùng đạo chủng tuệ để vào Không, là khắp phân biệt các đạo mới vào Không vậy. Cho nên kinh này nói tuy trước quán chúng sinh vào Không mà lại cần phải khởi pháp tưởng.

Đoạn văn sau nói: Lấy gì làm Không? Chỉ lấy danh tự nên không. Nếu nói chỉ lấy danh tự, tức là như huyễn như hóa là ý thể Giả nhập không.

Trước nói chúng sinh Không, văn có ba:

  1. Chính nói phá chúng sinh Giả vào Không tức là căn cứ nhân mà phá quả.
  2. Giải thích là ước quả phá nhân.
  3. Kết thành.

– Đời trước vọng tưởng tức là vô minh và hành thường chiêu cảm năm quả thức… đời này, nếu có quả này tức là có bệnh. Do nhân hư vọng, quả báo không thật, lý đúng là hư giả trong ấy không có ngã, nên nói ai thọ nhận. Văn này cũng không phán xét tích thể. Nay so nghĩa văn dưới, suy ra phần nhiều là dùng thể giả.

– Giải thích “Sở dĩ… sinh đắm trước”, tức là dùng quả phá nhân, quả tức là thân này là bốn đại không chủ. Vì không chủ nên vô ngã. Phá bốn đại, như trước đã dựa theo thỉnh Quan Âm nói. Nói dùng quả phá nhân là kinh nhắc lại mà giải thích rằng: Lại bệnh này đều do đắm trước ngã. Do mê quả này mà chấp ngã tức là si, thuận theo ngã tức là tham, trái ngã liền sinh sân, tức ái, thủ, hữu cho nên có sinh tử ở vị lai, các khổ không dứt. Nếu biết vô chủ thì không chấp ngã và khởi ái, thủ, hữu, nên nói là dùng quả phá nhân.

– Kết thành “Đã biết… sinh tưởng”, nếu biết vọng chấp là gốc bệnh, tức là trừ ngã tưởng và chúng sinh tưởng. Nếu tưởng ngã nhân diệt thì mười sáu tri kiến và sáu mươi hai kiến, tất cả thuộc kiến phiền não đều diệt, tức là quả Tu-đà-hoàn trí đoạn, là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn.

Tiếp nói về pháp Không “Đương khởi…”. Văn có ba:

  1. Phân biệt pháp.
  2. Phá trừ.
  3. Giải thích.

– Phân biệt pháp. Bồ-tát vì lợi ích chúng sinh, trước phân biệt pháp tướng rồi mới nhập không. Nên Đại luận nói: “Trước dùng pháp trí phân biệt các pháp, sau đó mới dùng trí Niết-bàn.” Do đó nhập quán chúng sinh Không rồi lại khởi pháp tưởng phân biệt các pháp, sau đó mới có thể nhập pháp mà vào Không. Như ngài Thân Tử lợi căn nhập kiến đạo xong liền mới có thể đoạn kiết mà thành quả A-la-hán. Dừng lại bảy ngày để theo Phật làm tướng chuyển pháp luân. Nên cần ở bậc Hữu học khắp biết các pháp người học phải làm, rồi mới chứng La-hán. Nay Bồ-tát muốn quán pháp từ Giả vào Không, trước phải khởi pháp tưởng. Chỉ vì các pháp họp thành thân này, tức trước phân biệt các pháp nhân duyên, đó là hai nhân ở quá khứ mà thành năm quả ngày nay, do các pháp ấm, nhập, giới tạo thành thân giả danh, cũng là pháp mười pháp giới. Sao biết được? Vì thân chúng sinh đầy đủ sáu đạo, sau phá Niết-bàn tức phá bốn thứ người tu chấp Niết-bàn.

Khởi chỉ là pháp khởi, là ấm, nhập, giới chỉ là pháp sinh trong ấy không có ngã kiến khởi khiến diệt. Lại hiểu khởi là chỉ là pháp khởi, là pháp khởi nhân quả sáu đường. Diệt chỉ là pháp diệt là bốn thứ Thánh nhân được hai thứ Niết-bàn, tức là pháp diệt nhân quả tam giới. Lại pháp này, là mỗi thứ đều không biết nhau, là sắc không biết tâm, tâm không biết sắc. Nhập, giới đều như thế mỗi thứ không biết nhau. Vì sao? Vì các pháp vô tánh, vô tri giả kiến giả. Do đâu mà biết, lúc khởi không nói ngã Khởi. Trước nói “Không biết” là đều không biết nhau. Nay nói các pháp vô tánh không biết nhau khởi lên, tuy có pháp khởi nhưng không có tánh mình và người, hư giả không thật, khi diệt không nói là ngã. Nghĩa diệt cũng thế.

– Nói phá trừ pháp tưởng “Bỉ hữu bệnh… Niết-bàn…” , là diệt pháp tưởng, là biết pháp tưởng điên đảo, là tai họa lớn. Không có pháp mà sinh pháp tưởng tức là điên đảo. Đây tức là thể nhập như huyễn hóa. Không đồng với người số luận pháp tưởng tức là si, trái và thuận tức là tham và sân. Nhân đó có mười sử, chín mươi tám sử, các nghiệp thiện ác khởi lên tức có bệnh thật nhân quả phần đoạn, nên nói tức là “tai họa lớn.” Cho đến chấp có bốn hạng người Niết-bàn, đều là tai họa lớn. Ta phải nên lìa bỏ, là lìa các pháp tưởng hai biên điên đảo. Đây có hai nghĩa:

  1. Biết pháp được phân biệt đều như huyễn hóa mà được lìa pháp tưởng.
  2. Biết do tâm thì có phân biệt.

Nếu thể nhập nội tâm tùy lý ba giả tạo thành không có mình người… Huyền nghĩa đã nói từ Giả vào Không, bốn mươi tám lần phá kiến tức không có có, không… bốn kiến pháp tưởng. Lại dùng chín trăm bảy mươi hai lần phá tư, tức là tư duy pháp tưởng trong tam giới hoàn toàn hết. Đó là quả Tư-đà-hàm cho đến A-la-hán trí đoạn, đều là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn. Tức là thể pháp giả nhập không. Thế nào là lìa, lìa ngã, ngã sở, nội tâm pháp tưởng là ngã, chấp mười pháp giới là sở. Nếu thể nhập nội tâm hay khởi pháp tưởng điên đảo huyễn hóa không có mình người… Như trước phá, tức là lìa ngã. Nếu hiểu mười giới huyễn hóa hư giả không mình người… tức là lìa sở. Thế nào là lìa ngã, ngã sở…, trước ước lìa năng quán ngã là nội, lìa sở quán ngã là ngoại, gọi là Không nghĩ hai pháp. Trong đây tức sinh tử nội giới là nội, Niếtbàn ngoại giới là ngoại, gọi là Không nghĩ hai pháp. Nếu hai biên đều không, thì gọi là bình đẳng, tức là thể giả nhập pháp Không, nghĩa là ngã bình đẳng Niết-bàn bình đẳng như trước đã nói. Tâm hay khởi pháp tưởng là ngã. Ngã này tức không, Niết-bàn là sở, sở cũng tức không, lý không chẳng hai, tức là bình đẳng vậy. Cũng nên nói rằng sinh tử là sở. Niết-bàn còn không huống là pháp sinh tử.

– Giải thích “Sở dĩ… định tánh”, ngã và Niết-bàn là hai thứ đều không, tức là từ thể nhập pháp hai biên là giả để vào Không. Lại nhắc lại giải thích nói chỉ vì danh tự nên là Không. Hai pháp Không có tánh nhất định. Đây chính là hiển bày thể nhập pháp giả không, chính ý là ở đây. Nên trước phán xét cái quán đầu này là thể nhập cái không của Đại thừa. Vì danh tự rỗng không, nên tánh không quyết định, tức là sinh tử và Niết-bàn đối đãi nhau mà có danh tự, không có pháp nhất định là sinh tử hay Niết-bàn. Tìm xét bốn trường hợp. Nếu bất khả đắc mà nói hai pháp là chỉ có danh tự không có tánh quyết định.

Cuối cùng nói bình đẳng Không “đắc thị… diệt không”. Tức là thể nhập bình đẳng giả để vào Không. Nói bình đẳng là sinh tử hữu vi, Niếtbàn vô vi, e pháp khác nhau nên không bằng nhau, nay hai pháp đều không, chẳng có hai tướng khác nhau tức gọi bình đẳng. Nếu còn bình đẳng thì không phải là Bình đẳng Không. Như còn sinh pháp thì không phải sinh pháp Không. Đắc là bình đẳng chỉ có không bệnh là đẳng tức là thể nhập bình đẳng giả để vào Không. Sở dĩ bình đẳng là giả là đối đãi với bất bình đẳng mà có bình đẳng, tức là giả đối nhau. Tìm xét bốn trường hợp. Nếu bất khả đắc chỉ có danh tự, mà danh tự tức Không, tức là thể nhập bình đẳng Giả Không, bệnh không cũng không.

Hỏi: Đây là trái với kinh Anh Lạc nói: Từ Không vào Giả mới là bình đẳng. Vì sao lại lấy quán đầu nói là bình đẳng Không.

Đáp: Bồ-tát lợi căn nếu không được sinh tử biết Niết-bàn cũng không, có thể xa phá bệnh trệ không, gọi là bình đẳng Không. Đây có hai thứ: Thông giáo vào Không, chưa phát khởi chân trí, vọng chấp Niết-bàn sinh ra hý luận. Đây như Đại luận phá Đệ nhất nghĩa không, dẫn Tỳ-đàm hữu duyên vô vi sinh sử. Biết bệnh không cũng không tức là chẳng có bệnh không. Thấy Đệ nhất nghĩa là ý của Thông giáo. Biệt và Viên giáo không thế. Nếu thấy thiên chân mà khởi nhiễm trước là Không thể vào Giả, như trụ ở hóa thành nên gọi là bệnh không. Biết không cũng không tức là Trung đạo. Lại nữa, nếu nói ngã đẳng… tức sinh tử không, Niết-bàn đẳng… tức chân đế không, bệnh không cũng không, tức là vọng chấp, Trung đạo bệnh không cũng hết. Xem ý văn tức như thế. Quán này tức tướng chung vào Không, chẳng phải chỉ giả không mà Trung chân cũng không. Quán đầu tuy như thế nhưng vị và hạnh sau cùng từ Giả vào Không, há biết không của Trung như vô minh tức đoạn giống như Thanh văn ở đạo phương tiện chưa vào chánh vị. Tuy hư tâm phá không nhưng thật chưa thấy Đế. Xét kỷ ý này cùng với ủy dụ lần đầu ý đồng.

Phần (b) từ Không vào Giả “ là có bệnh…”, từ không vào Giả để điều phục bệnh vô tri. Quán này chính là điều phục bệnh thật vô tri nội ngoại giới, cũng gọi là bình đẳng quán, tức là tuy pháp nhãn đạo chủng trí. Đây chính là Phật đạo phẩm làm gốc. Vì không chỗ thọ nhận tức vẫn là Không quán nói trên đã đoạn các thọ nội giới. Sở dĩ nhận các thọ này vì hóa độ các chúng sinh ái kiến. Xuất giả có ba thứ:

1. Từ Niệm xứ tương tợ Không mà xuất. Vì sao? Vì Bồ-tát có tâm hóa vật thì nặng mà tự lợi thì nhẹ. Vì từ bi nặng nên không lo việc đoạn kiết. Từ tương tợ không, liền khiến xuất giả, kiến tư chưa đoạn nên nói có bệnh.

2. Từ kiến Đế trọn không lui sụt bèn xuất giả. Tư hoặc chưa hết, tức là có bệnh.

3. Đoạn kiến tư hết rồi mới xuất giả. Thông giáo ngang đây. Đây mới là Không có chính bệnh ở tam giới, cũng còn tập khí vô tri cũng là có bệnh. Như Biệt giáo nhập vào vô lượng Tứ đế, Giả của trần sa nên gọi là nhập giả. Chỉ Biệt, Viên đều có quán nhập giả. Nay lấy Thông giáo mà đoạn hết phần đoạn, chính là ở Biệt giáo xuất giả. Nên nhờ thông mà hiển bày, không phải là dùng Thông. Nhưng Thông giáo thì Biệt hoặc, kiến tư, vô minh cũng chưa hết, nên Biệt, Viên cũng còn đầy đủ có bệnh ngoại giới. Trước nói nhập không đã thể nhập ba Giả. Nay nói vào Giả lại nhập ba Giả. Phần nhập giả ủy dụ thứ hai của Biệt giáo trên thì văn kinh có đủ năm phần, nay phần quán điều phục thứ hai thì văn cũng đủ năm. Tuy không có thứ lớp Đại ý vẫn gần đồng. Văn đủ năm phần là:

  1. Vì không chỗ thọ mà thọ các thọ, đây là người có Thần căn lợi nên có thể xuất Giả.
  2. Chưa đủ Phật pháp Không nên diệt thọ mà thủ chứng, ấy là người đại tinh tấn, thường vì chúng sinh rèn tập Phật pháp.
  3. Giả sử thân có khổ, phải khởi Bi tâm tức là đại bi.
  4. Mình đã điều phục, vậy nên điều phục người khác, tức là nguyện lớn.
  5. Thường điều phục được tuệ lợi ích, tức tâm mạnh mẽ.

– Nay giải thích vì không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ. Nếu Niệm xứ, Noãn, Đảnh, phương tiện phục kiến thì gọi là Không chỗ thọ. Nếu kiến Đế thì một khi thọ nhận không lui sụt mà thường vắng lặng. Không thọ sáu mươi hai kiến gọi là Không chỗ thọ. Đoạn kết kiến tư rồi vị bằng A-la-hán. Nên Pháp Hoa có nói: Đối các pháp Không thọ nhận đều thành A-la-hán. Trí đoạn là Bồ-tát vô sinh, tức là thật không chỗ thọ. Như đối với ngoại giới cũng còn gọi là thọ, không hại chi đến kiến tư tam giới, đã đoạn tùy phần thì gọi là thật không chỗ thọ. Đại Phẩm

nói: Không thọ có năm, đó là thọ, không thọ, không thọ cũng không thọ cho đến không phải thọ, không phải Không thọ, cũng không thọ, không thọ cũng không thọ. Bốn thứ trước là phá ngã tức không thọ sinh tử mà được nhập Niết-bàn, một thứ sau là Không thọ Niết-bàn tức hay nhập giả. Bồ-tát từ bi nên cần phải cứu độ. Thế nào là Không thọ mà thọ Niết-bàn, vì cần phải nhập giả thọ các thọ ấy, nên nói chúng sinh bệnh thì ta bệnh. Chúng sinh nếu lìa các thọ kiến tư thì ta cũng lìa. Nên nói chúng sinh bệnh lành thì bệnh ta lành. Là nghĩa ấy, nên dùng không thọ mà thọ các thọ. Thọ gồm có ba: Một là Thọ của phàm phu. Hai là, Thọ của Nhị thừa. Ba là, Thọ của Bồ-tát.

– Thọ phàm phu, là thuộc ái thuộc kiến, ái kiến đều có thiện ác.

Nếu thọ thuộc ái ác, tức là Ma-la ưa sinh tử, khởi ba độc, mười sử, phỉ báng phương đẳng, ngũ nghịch, tứ trọng tội, thập ác, ba đường dữ… các thọ này, là Bồ-tát dùng không chỗ thọ mà thọ nhận các ác này. Như Điều-đạt, Bà-tẩu chịu nghiệp trọng tội bị khổ ở địa ngục cho đến nhận các khổ ngạ quỷ súc sinh.

Nếu thọ thuộc ái thiện, từ ái phiền não mà khởi thập thiện, mười hai môn thiền có quả báo Tu-la, nhân, Thiên phương tiện gần gũi mà dạy dỗ dẫn dắt. Thọ thuộc kiến cũng có hai thứ:

+ Nhân kiến mà tạo ác như Ni-kiền kiến.

+ Nhân kiến mà tạo thiện tức là Phạm chí thấy Bồ-tát.

Thật ra không phải chín mươi sáu thứ ngoại đạo mà do thương các chúng sinh thuộc kiến, nên nhận lấy các kiến thiện ác, hòa quang nhưng không đồng trần mà hóa độ.

– Thọ Nhị thừa. Tức là thọ thuộc hai thừa, Tạng, Thông một là thọ bốn môn của Tam tạng giáo. Thấy hữu mà được đạo như Tỳ-đàm. Bồtát nhập không biết sinh sinh bất khả thuyết, há có sinh diệt để thọ nhận vì đáng dùng môn này mà được độ mà thọ các thọ ấy để rồi nói pháp, làm luận Tất-đàn lợi sinh. Thọ Không môn như Thành luận nói: Thấy không mà được đạo. Bồ-tát từ lâu biết sinh sinh bất khả thuyết, há có tích sinh và pháp hai không cho đến diệt ba tâm Niết-bàn có thể thọ. Vì tiếp môn này mà vào đạo thọ lấy để làm luận và Tất-đàn lợi sinh. Thọ “cũng có cũng không” như Côn Lặc luận. Còn môn thọ chẳng phải có chẳng phải Không thì như vì Xa-nặc mà nói lìa có không. Hai là thọ Nhị thừa của Thông giáo. Đây là ước mười dụ để nói về bốn môn, như phẩm Quán Pháp của Trung luận đã nói. Nên Đại luận khen Bát-nhã rằng: Bát-nhã như lửa nóng bốn bề không thể lấy. Bồ-tát từ Giả vào Không từ lâu mà biết bất sinh sinh bất khả thọ bất khả thuyết, chỉ vì chúng sinh căn tánh có bốn môn này, mà nhập giả thọ lấy để làm luận thuyết pháp, dùng bốn Tất-đàn mà giáo hóa hàng Nhị thừa.

– Thọ của Bồ-tát, Bồ-tát từ Giả vào Không biết bốn bất thọ bất khả thuyết bốn giáo Đại thừa. Vì có bốn thứ căn tánh Đại thừa từ không vào Giả mà thọ mười sáu môn của bốn giáo, hóa độ bốn căn tánh, dùng bốn Tất-đàn nói pháp làm luận mà độ thoát.

Hỏi: Nếu vào Giả thọ bốn môn của Viên giáo thì cần gì quán thứ ba?

Đáp: Quán kinh này ý cần dùng Thông tướng nhập giả mà giải thích.

Nói tinh tấn thường đủ Phật pháp: “Chưa đủ… thủ chứng”. Bồ-tát lợi căn từ không nhập giả, tuy luôn dùng không chỗ thọ mà nhận các thọ, như trồng cây trên không trung, nhưng nếu không có sức đại tinh tấn thì không thể ở trong các thọ mà thành tựu tất cả Phật pháp. Như người lười biếng dẫu có đồ đạc mà chẳng làm gì nên. Nếu đại tinh tấn thì như Thái tử Đại thí “không” như biển lớn. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Bậc Thất địa muốn chìm đắm không, chư Phật không chấp nhận điều đó, mà khuyên phát khởi sức đại tinh tấn, nên Bồ-tát nhập giả. Chưa đủ Phật pháp nên khuyên tinh tấn không nên thọ diệt thủ chứng. Nay nói đầy đủ Phật pháp, là lại căn cứ vào ba thứ thọ của tất cả pháp. Một, nói về thọ phàm phu đủ tất cả pháp là ước thọ thuộc ái kiến. Thọ thuộc ái ác như trước đã nói, thọ các thọ này là tu đủ tất cả pháp. Bồ-tát đối với các thọ bất thiện mà biết bệnh biết thuốc. Biết bệnh tức là biết khổ tập, biết thuốc tức là biết đạo diệt. Biết bốn điều chẳng thể nêu bày mà thông suốt Tứ đế, tức là hành phi đạo mà thấu suốt Phật đạo. Đạo bất thiện này tức giống Như Lai dùng bốn Tất-đàn tự hành hóa tha, đầy đủ như ở Phật đạo phẩm… Kế nói về thọ ái thiện, đầy đủ Phật pháp thì cũng như trước đã giải thích. Đối với thiện thọ này hay biết thiên văn địa lý, sách sử phê-đà, ngũ minh, lục nghệ luận về thập thiện của Luân vương, Thần tiên có ngũ thông, luận về các thiện của Thích Đề-hoàn Nhân, luận nói các Phạm thiên vương ra khỏi cõi Dục, không thứ nào không biết. Lại đối pháp này mà biết bốn điều chẳng thể nêu bày như nói trong ác trước. Sau lại nói thọ thuộc kiến về thọ ác thọ thiện. Đem tà tướng vào chánh pháp mà tu tất cả Phật pháp cũng như thế.

Thọ của Nhị thừa đủ tất cả Phật pháp, tức bốn môn của Tạng Thông đều biết bốn điều chẳng thể nêu bày như đã nêu trong ác trước.

Thọ của Bồ-tát đủ tất cả Phật pháp. Bồ-tát bốn giáo như trước nói. Bồ-tát biết bốn điều chẳng thể nêu bày, nhập giả lợi ích quần sinh.

Bồ-tát của Tam tạng giáo có môn sinh diệt Tứ đế, khởi bốn hoằng thệ nguyện, suốt a-tăng-kỳ kiếp hành hạnh lục độ, đủ tất cả pháp mà ở sinh diệt Tứ đế, thấu suốt ba thứ Tứ đế tự lợi lợi tha. Ba môn kia cũng thế. Mười hai môn của Thông Biệt, Viên cũng như thế. Nếu thọ cái thọ phàm phu mà chưa đủ Phật pháp thì không được diệt để thủ chứng. Cho đến thọ của Bồ-tát cũng thế. Kinh Hoa Nghiêm chê bậc Thất địa chìm đắm trong không, là ý ở đây vậy. Kinh Anh Lạc nói: Bậc Đẳng giác trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp nhập Trùng huyền môn, tu việc phàm phu, tức là chưa diệt thọ phàm phu mà thủ chứng. Thọ phàm phu còn thế. Còn thọ Nhị thừa Bồ-tát chưa đủ Phật pháp sao được diệt mà thủ chứng.

Nói nhập giả khởi bi: “Thiết thân… đại bi tâm”, nhập giả tinh tấn, học Phật pháp đầy đủ, vốn vì hóa tha. Nếu tâm đại bi ít, thì tâm tinh tấn yếu, nên cần phải tu nhiều tâm Bi. Giả sử thân có khổ. Nếu là niệm xứ… xuất giả, phục hoặc chưa đoạn, nếu vào sinh tử bị khổ ép bức thân mà sinh hối hận. Nếu đoạn kiết thấy chân hoặc tự ích kỷ ham muốn vào Niết-bàn mà buông bỏ tinh tấn. Nên khuyên thương các ác thú, từ vô lượng kiếp đến nay không biết chân, chính vì chìm đắm trong biển khổ. Nay được niệm xứ noãn đảnh mà biết không, khổ còn khó chịu nổi, huống là đám người ấy. Cho đến thấy Đế mà xuất giả. Nay có tư duy, khổ còn khó chịu huống là đủ các phược trong ác thú. Cho đến đoạn hết kiến tư mà xuất giả. Nay chỉ có rèn tập, khổ còn khó chịu nổi, huống là phàm phu tam giới… Khi nghĩ như thế thì đại bi lần lượt tăng trưởng, nên cam tâm mà chịu khổ, gánh vác chúng sinh, tinh tấn xuất giả, đủ như trước đã giải thích. Lấy bệnh mình mà thương bệnh người, ý này đồng.

Nói về nguyện lớn: “Ta đã…”. Văn có bốn:

  1. Đáp lại bổn nguyện hóa vật.
  2. Lấy bỏ.
  3. Chánh hóa vật.
  4. Truyền giải thích.

– Nói đáp lại bản nguyện “Ta đã… chúng sinh”. Vì sao? Vì lời nguyền từ bi độ sinh, chỉ vì trị bệnh bên trong còn nặng, chưa hoàn thành xong pháp hóa tha. Nay cần tu hai quán, để điều phục chấp tướng phá trừ vô minh, làm cho giảm bớt hoặc dứt hẳn, nên nói ta đã điều phục. Vì bổn nguyện độ vật, nay cần điều phục tất cả chúng sinh, chỉ trừ bệnh mà không bỏ pháp.

– Nói về lấy bỏ. Có thầy nói: Như mắt bệnh thì thấy hoa đóm. Khi bệnh lành thì hoa đóm không còn. Chúng sinh cũng thế, vọng thấy các pháp, khi vọng hoặc đã diệt thì không còn pháp nào để dẹp trừ. Đây là vốn không pháp sao cho là trừ pháp. Nay nói tất cả chúng sinh đủ các pháp ở mười giới, vì vô minh không hiểu tùy chỗ gặp mà bệnh sinh. Nếu có trí tuệ vô ngại tự tại thì tất cả đều là Phật sự. Ví như lửa là pháp đốt cháy, nếu gặp liền đốt, cũng như bệnh, cẩn thận không chạm đến tức là trừ bệnh, đâu thể trừ lửa. Trừ lửa tức là mất công năng làm ấm thân, chiếu sáng và tạo thức ăn. Về mười hai nhân duyên ở ba đường cũng thế. Đây có pháp lấy bỏ không đồng với việc dẹp trừ. Lại lửa có công năng đốt cháy, người có pháp thuật thì ra vào tự do không cần phải trừ lửa. Cho nên tám vạn bốn ngàn phiền não đối với phàm phu là bệnh nặng, còn đối với chư Phật, Bồ-tát thì xem đó đều là Phật sự. Cũng như trị mắt là bỏ bệnh mà để nguyên tròng mắt, vì trị gốc bệnh mà dạy dỗ dẫn dắt.

– Chính nói về hóa vật: gốc bệnh tức là một niệm vô minh chấp tướng. Nên kinh Hoa Nghiêm nói: Trong tam giới không riêng có một pháp nào, chỉ là một tâm tạo ra. Nay nói chỉ là một niệm vô minh chấp tướng do tâm tạo ra, đây tức là gốc bệnh của tam giới. Nếu biết vô minh không khởi, thì chấp có liền hết, nên không tạo thứ mới, tức là đoạn được gốc bệnh.

– Truyền giải thích “Sao gọi gốc bệnh…”. Văn đây lại có hai phần: Một là, Giải thích nêu ra gốc bệnh. Hai là, Giải thích giáo hóa đoạn trừ.

Giải thích thế nào gọi là gốc bệnh. Phan duyên chỉ là vọng niệm chấp tướng vô minh. Hành ở quá khứ hợp với ái, thủ, hữu ở hiện tại, họp với phan duyên ở quá khứ làm gốc bệnh ở hiện tại; phan duyên ở hiện tại làm gốc bệnh ở vị lai. Phan duyên với cái gì, đó là phan duyên với tam giới. Phan duyên ở quá khứ hiện tại đều duyên với tam giới. Nếu lìa tam giới thì không có duyên nào khác.

Giải thích giáo hóa đoạn trừ “Hà… vô sở đắc”, tức tâm không thể được là Không tuệ vô tướng, không được một niệm vô minh chấp tướng tam giới, tức tâm không chỗ được, các phan duyên đều dứt, như kinh nói không có chỗ phan duyên, gọi hai kiến là ngã và Niết-bàn hai thứ này đều không tức là tâm nội ngoại kiến đều không chỗ được. Nếu tâm không chỗ được thì mọi vô minh chấp tướng, phan duyên đều dứt, thì nước tâm thanh tịnh, tướng châu tự hiện ra. Nếu được tâm thanh tịnh luôn nhất như thì có thể thấy được Bát-nhã. Đó là yếu đạo của việc hóa vật.

Nói về tâm mạnh mẽ: “Văn-thù…”. Kết giải thích bốn thứ trước. Văn có hai: Một là Chánh kết giải thích. Hai là, Thí dụ làm sáng tỏ.

– Chánh kết: Ấy là Bồ-tát có bệnh điều phục tâm mình, là kết từ không vào Giả để điều phục tâm, tu tất cả Phật pháp, là kết hay lợi ích tất cả chúng sinh. Như kinh Kim Cang Bát-nhã có nói Bồ-tát điều phục tâm mình diệt độ vô lượng chúng sinh mà thật không có chúng sinh được diệt độ, tức là nghĩa này. Vì đoạn khổ, lão, bệnh, tử là Bồ-đề của Bồ-tát. Bồ-đề nói là đạo. Nếu không lợi vật tức là đạo của Nhị thừa Bồ-đề, gọi là đạo, Tát-đỏa gọi là thành chúng sinh. Nếu không thế là Không có tuệ lợi, chúng sinh không được pháp thí tuệ lợi, đối với vật không có lợi ích lớn để ra khỏi sinh tử.

– Nói thí dụ để hiển bày “Thí như thắng giặc dữ”, Bồ-tát tâm lợi vật rất mạnh mẽ. Tâm ái kiến hay dạy chúng sinh vào ma ngoại, tức là chúng sinh vào oán đạo, Bồ-tát hay đoạn kiến tư là thắng giặc dữ. Gồm trừ là gồm nói chưa chánh thức, Bồ-tát chưa hết các kết hoặc pháp giới, do đó cần tự hành phụ thêm gồm lợi vật, nên nói gồm trừ. Lại gồm trừ là ở nhân mà gồm trừ các chúng sinh sinh tử, khi thành Phật thì đoạn trừ rốt ráo.

Phần (c) Nói Bồ-tát có bệnh “Người ấy có bệnh…”, Bồ-tát có bệnh thì dùng Trung quán để điều phục, hai quán trước làm phương tiện quán này tức là trí Bồ-đề của Phật, để đoạn bệnh thật vô minh tự thể. Nên kinh Thắng-man nói “Vô minh trụ địa công lực lớn nhất, chỉ có trí Bồ-đề của Phật mới đoạn được. Nhân đó mà phát chân, khai phát tri kiến, cũng gọi là Nhất thiết chủng trí, cũng gọi là Phật nhãn. Ấy là dùng phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn làm gốc, đầy đủ như ở huyền nghĩa. Tu vị quán này ước giáo có ba. Về Thông giáo thì bậc lục địa đoạn được bốn trụ, thất địa đoạn các trần sa, bát địa đạo quán song lưu. Nếu Biệt giáo tiếp theo Bát địa của Thông giáo thì tu Trung đạo để trị bệnh vô minh, bậc Địa thứ chín thì tương tợ giải thoát gọi là Văn kiến, bậc Thập địa thì phát chân gọi là nhãn kiến. Về Biệt giáo, thì bậc Thập trụ đã đoạn bốn trụ, thập hạnh trừ hết trần sa, nhân giải hạnh trước mà được tu quán này. Thập phẩm thì tương tợ giải thoát tức là hồi hướng. Bát địa Phát chân phần phá vô minh, đạo quán song lưu, vào biển Tát-bà-nhã. Về Viên giáo, bậc năm phẩm tức tu quán này, nếu sinh tương tợ giải thoát thì được sáu căn tịnh, nếu luôn phát chân thì liền nhập sơ trụ, đoạn bệnh thật vô minh, đạo quán song lưu, tự nhiên lưu nhập. Cho đến bậc Đẳng giác, vô minh chưa hết, đều gọi là có bệnh. Lấy Biệt tiếp thông và đoạn phục Biệt giáo đều là phương tiện. Nay hạnh sơ phát tâm sinh tu cho đến ngồi dưới cội Bồ-đề, cho nên hàng sơ tâm của Viên giáo liền học Trung quán. Văn có hai: Một là, Chính nói về Trung quán. Hai là, Đạo quán song lưu.

Phần một có hai: Nói về quán thể và Chọn phi.

Phần nói về quán thể lại có hai:

– Nói về tự quán.

– Nói về quán chúng sinh.

Nói về tự quán: Như bệnh ta đây không phải thật không phải có, là nói về tự quán pháp thân có bệnh vô minh tự thể. Không phải chân, không phải Không, không phải hữu, không phải giả. Lại không phải chân, là Không phải từ Giả vào Không để trị bệnh. Không phải có là Không phải trị bệnh từ Không vào Giả. Cho nên hai phương tiện trước không phải là chánh quán. Nhân hai thứ không ấy nay nhập Trung đạo. Bốn trường hợp xét kiểm vô minh rốt ráo không thể được, tức biết tánh vô minh tức là minh. Minh cũng không thể được. Ấy là nhập pháp môn bất nhị, tức là thấy thật đế Phật tánh như hư không, gọi là quán Trung đạo. Huyền nghĩa có nói đủ. Quán như thế là phá bệnh vô minh mê thật đế. Bệnh chúng sinh không phải chân, cũng không phải có.

Nói về quán chúng sinh. Khi tu quán này không phải chỉ tự biết bệnh không phải Chân không phải hữu, mà biết chúng sinh cũng thế. Đó là quán bệnh căn bản chúng sinh. Vì sao? Vì chúng sinh xưa nay cùng Bồ-tát không phải chân, không phải hữu, nhất như bất nhị, không sai khác nhau. Chúng sinh vì mê nên đọa vào hai thứ sinh tử, Bồ-tát quán chiếu thấu suốt mười giới đều có bệnh vô minh Trung đạo, cho nên mình người bệnh đồng, là chân thể một vô minh. Lấy đây mà nghiệm biết kinh này Quán trung, thì chẳng giả không nào chẳng trung

Nói về chọn phi, có ba:. Một là, căn cứ ái kiến đại bi. Hai là căn cứ thiền định. Ba là căn cứ hai trí.

Ba phi này chính là chọn trong hai thứ trang nghiêm pháp thân.

Một căn cứ ái kiến đại bi: Nếu quán Trung đạo mà sinh ái kiến thì không thể song chiếu hai đế, nếu chiếu hai đế thì cũng không thể chiếu được Trung. Nay quán Trung đạo mà không sinh ái kiến, nếu chiếu Trung đạo liền có thể song chiếu mà không mất Trung đạo, tức là một tâm ba quán, tức là chánh thể của quán chân trung. Đây là ái kiến chánh ước với Trung đạo. Như căn cứ hai đế thì thuộc hai quán trước. Nếu nói theo ba đế quyền thật, thì đây là tự hành quyền thật. Vì sao? Vì tự hành chiếu thật đế là thật, chiếu hai đế là quyền. Nếu ước chánh đạo mà sinh ái kiến Bi, tức là pháp thân có bệnh. Đây có bốn: Chính nói khởi ái kiến. Giải thích thị phi. Dẫn lời Phật làm chứng. Kết khuyên buông bỏ.

1. Nói khởi ái kiến đại bi, tức phải lìa bỏ. Nếu đối với Trung đạo pháp thân mà khởi ái, tức là thuận đạo ái sinh, gọi là đảnh đọa. Bồ-tát tuy vậy không đọa vào Nhị địa, vì nó chướng nhập ngôi vị Bồ-tát. Nếu dùng Bi tâm muốn cứu khổ sinh tử hai biên, gọi là ái kiến Bi, thì không phải chỉ tự thể thành bệnh cũng do hai định tuệ đại bi song chiếu không rõ ràng, tổn sức phương tiện, ngăn ngại đại dụng. Như thân có bệnh thì chân tay cũng yếu ớt không thể làm việc, chính biết thể có bệnh ái kiến, định tuệ đại bi đều có chướng vậy. Lại chân tay có bệnh thì hay liên lụy đến thân. Nếu định tuệ có chướng thì hay chướng quán thể. Chướng quán thể này nếu có ái kiến duyên với chúng sinh, tức là ái kiến Bi, không phải chỉ tự thể có chướng. Cũng chướng phước tuệ trang nghiêm, hai đế cùng song quán khắp lợi ích chúng sinh.

2. Giải thích thị phi: “Sở dĩ… giải phược” trừ thất hiển bày đắc. Văn có hai: Trừ thất và hiển đắc.

– Trừ thất. Bồ-tát đoạn trừ khách trần, ái kiến tức vô minh, không có mà có nên gọi là khách trần hay che tâm tự tánh. Nếu dùng Bi tâm muốn cứu khổ nhị biên của chúng sinh, tức đối với sinh tử có tâm lười chán. Vì sao? Vì quán thể nếu có ái kiến thì dụng chiếu hai đế không rõ ràng. Nên từ bi hóa người ngoài, liền có lười mỏi, như thân có bệnh chẳng muốn bước đi. Đây là trừ thất.

– Hiển đắc, nếu hay lìa đây không có lười mỏi. Nếu hay lìa ái kiến này, thì nội quán thấu suốt song chiếu không trệ ngại, dùng Vô duyên đại từ hóa vật không mệt mỏi. Như thân không bệnh, việc làm đều thành, các thứ sinh ra đều không bị ái kiến ngăn cản. Nếu đoạn vô minh ái kiến, thì không có phiền não ngoại giới. từ bi thệ nguyện, tùy chỗ chúng sinh có bệnh duyên mà thọ thân hóa vật. Mình đã không có các ràng buộc của phần đoạn, biến dịch, thì có thể mở các buộc ràng của chúng sinh ấy. Cho nên nói rằng: Ứng sinh không có triền phược, nên hay vì chúng sinh mà thuyết pháp cởi mở triền phược cho họ. Đây là hiển đắc.

1. Dẫn chứng lời Phật nói để giải thích nghĩa chánh quán “Như Phật… thị xứ”. Nghĩa rất sâu xa nhưng hạnh cạn thấu suốt mà sinh nghi ngờ, nên cần phải dẫn chứng.

2. Kết khuyến giải thích. Thế nên Bồ-tát không nên khởi phược phân bày chứng cứ rõ ràng có thật, đủ để đoạn nghi sinh tin tưởng. Nên kết khuyên rằng “Không nên khởi phược”.

Hai, căn cứ thiền bỏ phi bày thị “Sao gọi là…”. Văn có hai: Bỏ phi. Bày thị.

1. Bỏ phi: Tham đắm thiền vị là triền phược của Bồ-tát, phược tức là phi. Nếu tham đắm hữu lậu căn bản thiền mười hai môn thì liền đọa sinh vào đồng cư. Nếu tham đắm vô lậu quán luyện huân tu, liền đọa sinh vào hữu dư. Nếu tham đắm chín thứ Đại thiền Thủ-lăng-nghiêm… một trăm lẻ tám Tam-muội, thì đọa sinh vào quả báo, đều không tránh khỏi triền phược.

2. Căn cứ thiền bày thị “nếu Phương tiện sinh là Bồ-tát giải thoát”. Nếu quán Trung đạo mà không nhiễm ba thứ trước, thệ sinh vào ba cõi là dùng phương tiện mà sinh, tuy sinh vào ba cõi mà ba thứ phược kia không có lại hay cởi mở các phược cho chúng sinh nên nói phương tiện sinh là Bồ-tát giải thoát.

Ba, căn cứ hai trí nói phi “Lại không phương tiện…”. Văn có hai:

Xét về tu hành hai trí. Xét về chân ứng hai trí.

Tu hành là dụng nhân chân ứng là xét quả.

Xét về tu hành có ba: Một là Lược dùng bốn trường hợp nêu chương. Hai là Bốn lần giải thích. Ba là Tổng kết.

– Nêu chương, hai trường hợp đầu là nêu phược thoát chương môn của thật trí. Hai trường hợp sau là nêu phược thoát chương môn của quyền trí, như văn nói.

– Giải thích bốn chương môn trước “Hà vị… phương tiện giải”. Một, là giải thích không có phương tiện tuệ thì buộc nghĩa là dùng tâm ái kiến khi tu chánh quán thì không thể thấu suốt bất sinh, bất sinh bất khả thuyết. Lại không có trợ đạo nhờ phát thật tuệ. Thật tuệ không phát, đến nỗi sinh ái kiến. Nếu dùng tâm này mà tu hành sáu Độ, trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sinh. Tu ba thoát môn mà điều phục, thì không thể phát chân, phá vô minh chướng mà hiển hiện pháp thân, tự lợi lợi tha, tức là Không có phương tiện tuệ phược. Như thân có bệnh không thể vận động. Hai, là giải thích có phương tiện tuệ thì mở, nghĩa là Không dùng tâm ái kiến. Chỉ không dùng tâm ái kiến trái với trước là khác, còn nghĩa khác đều đồng với trước nói. Ba, là giải thích không có tuệ phương tiện thì buộc, nghĩa là trụ ở ba cõi, đây là tu quán hạnh, không gia công tu chân tuệ để phá ba độc thông biệt. Dùng tâm bất tịnh mà vào phương tiện muôn hạnh không dẫn dắt, tức là Không có tuệ phương tiện thì buộc. Như người tay chân có bệnh không an vui. Bốn, là giải thích có tuệ phương tiện thì mở, nghĩa là lìa ba độc, vì lìa ba độc trái với trước là khác, còn các thứ khác thì đồng trước nói.

Hỏi: Ái kiến cùng ba độc có gì khác?

Đáp: Ái kiến là thuận đạo mà khởi, còn ba độc phần nhiều là đắm trước ở y chánh báo mà sinh.

Hỏi: Thành tựu chúng sinh cùng gieo trồng gốc các đức có gì khác?

Đáp: Lợi vật Vô duyên đại bi gọi là thành tựu chúng sinh tức là trí tập dung thức thông, như thế mà nhận lấy Tịnh độ, tự hành nhất tâm mà đầy đủ muôn hạnh, hồi hướng quả Bồ-đề, gọi là gieo trồng gốc các đức. Tức là Không phải hình dùng mà đệ nhất thể, không phải trang nghiêm mà trang nghiêm.

– Tổng kết khuyên “Văn-thù… Quán chư pháp”, Bồ-tát có bệnh thật vô minh, nên như thế mà khéo dùng hai trí để quán các pháp, tức là dùng trợ giúp chánh, dùng chánh dẫn trợ. Đây tức là khéo dùng hai trí để tự lợi lợi tha.

Xét về chân ứng luận hai trí “Lại còn quán thân…”. Văn có hai: Một là, Quán thân có bệnh thật bệnh quyền mà nói hai trí. Hai là, Quán thân bệnh không lìa bất diệt mà nói hai trí.

Phần một, lại có hai: Quán pháp thân bệnh thật, tức là thật trí , và quán ứng thân bệnh quyền tức là quyền trí. Vì sao? Vì chiếu cảnh quyền thật tùy cảnh mà được tên.

– Quán thân bệnh thật: Lại còn quán thân vô thường, khổ, không vô ngã. Đó gọi là lấy tuệ làm quán này, trước nói về thật tuệ. Quán pháp thân lý thật cảnh sâu xa rỗng sáng gọi là thật tuệ. Nay Bồ-tát pháp thân có bệnh, cũng còn bệnh nhân, bệnh quả ấy là vô thường… tức việc không thật, tức là pháp tánh là thật tuệ. Bồ-tát chưa chứng cực quả, nhân địa pháp thân có thường và vô thường như hai chim cùng dạo chơi là ý ở đây.

– Nói chiếu cảnh ứng thân bệnh quyền “Tuy thân… phương tiện) tức là trí phương tiện vậy. Vì sao? Vì tuy thân có bệnh tức là pháp thân Bồ-tát có, hoặc lụy chưa hết, cũng có bệnh thật vô minh biến dịch. Thường ở trong sinh tử, tức là ứng thân thường ở sinh tử nội ngoại giới. Sở dĩ thường ở, tức vì nhiêu ích tất cả mà không lười mỏi. Đó gọi là phương tiện, tức là chiếu quyền cảnh làm quyền trí.

Phần hai, quán thân không lìa bất diệt “Lại còn…) nói hai trí. Văn có hai: Căn cứ không lìa mà nói thật trí và căn cứ bất diệt mà nói quyền trí.

– Căn cứ không lìa: Lại còn quán thân, thân không lìa bệnh, là Bồ-tát có bệnh quán thân thật tướng, tức là tự tánh thanh tịnh, tâm không nhiễm mà nhiễm, khó thể biết rõ, nếu đoạn chưa dứt tức là thân không lìa bệnh. Lại pháp thân đại bi đồng bệnh chúng sinh. Pháp thân hiện bệnh nên nói thân không lìa bệnh. Bệnh không lìa thân, là bệnh thật bệnh quyền không lìa pháp thân, mà có bệnh ấy. Thân ấy không phải là mới không phải cũ, tức là vô minh bệnh thật cùng bổn pháp thân không có trước sau, chỉ không phải đầu hay cuối. Chúng sinh bệnh từ vô thỉ không mới không cũ. Bồ-tát đồng bệnh cũng không phải mới cũ. Ấy gọi là tuệ, tức là thật trí.

– Căn cứ bất diệt để nói quyền trí “giả sử thân có bệnh mà không mất hẳn”. Bồ-tát có bệnh đã trụ vào chánh quán không ứng hiện thân bốn đại tăng động do túc nghiệp gây ra. Giả sử có bệnh nặng, liền quán nhập pháp môn. Nên nói là Không mất hẳn. Giả sử là giả lập, hai trí quyền thật đều là giả lập. Bệnh thật tức là vô minh giả lập. Nên kinh Kim Quang Minh có nói: “Không có các thứ nên giả gọi là vô minh.” bệnh quyền do chúng sinh mà khởi, cũng là giả lập. Mà không mất hẳn, là cũng không có thật và quyền. Thật là tuy có bệnh này nhưng thể nhập bệnh là Không bệnh, không đoạn, không phá. Vì bệnh mình mà thương xót bệnh người. Nếu quán bệnh này mà nhập thật tướng, thì được Vô duyên đại bi, lại dùng đó mà lợi sinh nên nói là Không mất hẳn. Quyền là, nếu có một chúng sinh hết bệnh thì vì các chúng sinh khác cũng phải hiện bệnh, nên không mất hẳn.

Phần hai, Đạo quán song lưu, Nhân quán thành hạnh “Văn-thùsư-lợi…”. Đây là phẩm Hương Tích làm gốc. Phẩm đó nói hạnh Bồ-tát ở cõi uế tịnh. Để thành nghĩa này, văn có hai:

  1. Kết quán trước để làm gốc hạnh.
  2. Chính nói hạnh song lưu.

Phần a, lại có ba: 1/ Nói điều phục quán thành. 2/ Giải thích. 3/ Kết thành gốc hạnh.

Nói điều phục quán thành: Bồ-tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm mình. Cũng lại không trụ ở tâm chẳng điều phục. Ở trên phần nhiều nói không đoạn phiền não, nếu bất đắc ý thì buông lung với phiền não, tâm theo vọng pháp lại đồng với phàm phu.

Giải thích kết lỗi “Sở dĩ… Thanh văn pháp”. Nếu trụ ở tâm không điều phục là pháp người ngu, hoàn toàn đồng ngu, không phải tức ngu thông thường. Cũng như mắng người là lừa thì không phải là lừa. Nếu trụ ở tâm điều phục là pháp Thanh văn, cũng chỉ là tương tợ không phải đồng.

Kết thành gốc hạnh “Thị cố… Bồ-tát Hạnh”. Nếu lìa hai pháp mà được chấp nhận thì gốc của Bồ-tát lập hạnh, nên nói là hạnh Bồ-tát.

Phần b Chính nói hạnh song lưu. Văn có năm: 1/ Cùng nói hạnh song lưu căn cứ . 2/ Riêng nói hạnh song lưu căn cứ .3/ Ước đạo phẩm chánh quán nói hạnh song lưu căn cứ . 4/ Ước hiện tướng tự nói hạnh song lưu căn cứ . 5/ Ước y chánh báo nói hạnh song lưu căn cứ .

Cùng nói hạnh song lưu: Có ba hàng: Ở trong sinh tử mà không có hạnh nhiễm ô. Nếu Trung quán tương ưng vào tục không nhiễm, trụ ở Niết-bàn mà không diệt độ hẳn, lưu nhập thiên chân mà không thủ chứng. Không phải hạnh phàm phu, là lưu nhập chân vậy. Không phải hạnh Hiền Thánh, là nhập tục tự tại, không đồng với Nhị thừa. Không phải hạnh nhỏ, là lưu nhập vào chân. Không phải hạnh sạch là lưu nhập vào tục.

Riêng nói hạnh song lưu “Tuy quá… là Hạnh Bồ-tát”, có mười lăm hạnh. Tuy ngoài ma hạnh mà hàng phục các ma, vì chánh quán tương ưng nên hay vào tục mà hàng ma. Cầu Nhất thiết trí là lưu nhập vào Chân không. Không cầu phi thời, chứng Nhất thiết trí mà không rơi vào Nhị địa. Tuy quán các pháp Bất sinh, lưu nhập Chân không. Tuy hóa độ Nhị thừa mà không rơi vào Nhị địa. Tuy quán mười hai duyên khởi vốn tự bất sinh mà lưu nhập tục đế duyên khởi. Khởi sáu mươi hai kiến hóa độ các ngoại đạo. Tuy nhiếp tất cả chúng sinh, tuy vào tục đế dùng bốn nhiếp pháp nhiếp phục tất cả chúng sinh vào Nhất thật đế, hòa quang mà không đồng trần nên không đắm trước. Tuy ưa xa lìa, lưu nhập vào Chân không, hay xa lìa phiền não sinh tử mà không hôi đoạn. Tuy hành ở ba cõi. Tuy vào tục đế hành ở ba cõi, tức chiếu thế đế mà không hư hoại pháp tánh, tức là chiếu chân đế. Tuy hành ở không, lưu nhập thiên chân mà tu đủ muôn hạnh, như trồng cây trên không trung. Tuy hành vô tướng, lưu nhập thiên chân mà vô tướng không hại độ sinh. Tuy hành vô tác lưu nhập thiên chân, mà vô tác không hại việc thọ thân lục đạo. Tuy hành vô khởi lưu nhập thiên chân, không khởi mà khởi muôn thiện. Tuy hành Lục độ, tuy nhập tục đế mà đồng sáu Độ của Bồ-tát, mặc tình chiếu khắp tâm chúng sinh. Tuy hành lục thông tự nhiên vào tục, nên được ngũ thông nhập chân mà không lậu tận, không đồng với Nhị thừa. Tuy hành bốn Vô lượng tâm, lưu nhập Phạm thiên, hành ở tục đế mà không chịu tập sinh tử của Phạm thế. Làm thân Phạm vương. Tuy hành thiền định giải thoát Tam-muội, tuy nhập các thiền tục đế mà không tùy thiền sinh sắc giới. Không tùy định sinh cõi Vô sắc, không tùy giải thoát mà sinh Tịnh cư. Cũng không tùy giải thoát Tam-muội mà sinh cõi Hữu dư.

Căn cứ Ước ba mươi bảy phẩm chánh quán mà nói hạnh song lưu “Tuy hành… là Bồ-tát hạnh”. Tuy hành bốn Niệm xứ, chánh quán tương ưng, tự nhiên lưu nhập tích thể niệm xứ thấy chân mà không bỏ, thân thọ tâm pháp của tục đế. Tuy hành bốn Chánh cần, lưu nhập tích thể chánh cần, thấy chân mà không bỏ thân tâm tinh tấn tục đế. Tuy hành bốn Như ý túc, lưu nhập tích thể như ý, thấy chân mà luôn được thần thông tự tại tục đế. Tuy hành ngũ căn, lưu nhập tích thể ngũ căn, thấy chân mà thường vào tục, phân biệt các căn lợi độn chúng sinh. Tuy hành ngũ lực, lưu nhập tích thể ngũ lực, thấy chân mà luôn cầu mười lực của Phật chiếu tục. Tuy hành bảy Giác phần, lưu nhập tích thể thất giác, thấy chân mà phân biệt Nhất thiết chủng trí của Phật. Tuy hành tám Chánh đạo, lưu nhập tích thể bát chánh thấy chân mà ham thích Phật đạo. Tuy hành pháp chỉ quán trợ đạo lưu nhập sự chỉ quán trợ tích thể, thấy chân mà không nhập vào khôi đoạn. Ở thế tục mà hóa độ, đây là Nhị đế song lưu đều khác với Nhị thừa, nên đều kết thành hạnh Bồ-tát.

Căn cứ hiện tướng “Tuy hành… là hạnh Bồ-tát” nói hạnh song lưu. Vẫn có ba hàng. Tuy hành bất sinh bất diệt, là chánh quán tương ưug lưu nhập chân đế bất sinh bất diệt mà hiện tướng hảo trang nghiêm tục đế. Tuy hiện oai nghi Thanh văn và Bích-chi-Phật lưu nhập hiện ngoại oai nghi, nhập chân mà hay nhập tục, không buông bỏ tất cả Phật pháp. Đây tức là hạnh nội bí của Bồ-tát ngoại đạo hiện làm Thanh văn, tuy tùy các pháp tịnh tướng rốt ráo, lưu nhập bốn bất khả thuyết bình đẳng pháp giới, mà hay hiện thân lợi ích ngoại giới.

Căn cứ y chánh báo toát yếu giúp thành thể tông này. Văn có hai hàng. Tuy quán bình đẳng, nếu chánh quán tương ưng biết Thường tịch quang mà hay khởi tịnh độ Đồng cư nội giới, tịnh độ Hữu dư và tịnh độ quả báo ngoại giới. Đây là kết thành nhân quả Phật quốc làm tông. Tuy được bình đẳng, là nếu chánh quán tương ưng về Biệt thì nhập Sơ địa, về Viên thì nhập sơ trụ. Với chúng sinh đáng dùng thân Phật để độ thì hay hiện ra tám tướng, mà chân ứng chưa rốt ráo cần phải tu các trụ hạnh cho đến Đẳng giác các đạo hạnh Bồ-tát, nên nói không buông bỏ đạo Bồ-tát đó là hạnh Bồ-tát. Đây là kết thành thể dụng trụ ở giải thoát bất tư nghị. Nếu các sư không tin kinh này nói pháp thân Tịnh độ quả ngoại làm sao hiểu được văn này?

Phần năm nói về thời chúng được lợi ích Từ “Thuyết thị đến Tam Bồ-đề tâm” : Tám ngàn Thiên tử phát tâm Bồ-đề. Nghĩa tâm Bồ-đề thì trước đã giải thích đầy đủ.