KIM QUANG MINH TỐI THẮNG

VƯƠNG KINH SỚ

Tam Tạng, Pháp sư Nghĩa Tịnh đời Đường vâng chiếu dịch.
Sa-môn dịch kinh Tuệ Chiểu soạn.

Phẩm 3: PHÂN BIỆT TAM THÂN

Phẩm Phân Biệt Tam Thân có chia ra ba phần:

  1. Nói về lý do có phẩm này.
  2. Giải thích tên phẩm.
  3. Nói rõ về chướng nạn.

Trong phần nói về lý do phẩm này có ba mục.

Thứ nhất phẩm Thọ lượng ở trước nói chung về hai quả Bồ-đề, Niết-bàn không thể phân biệt biết được. Trong phẩm Thọ lượng đã nói riêng về Niết-bàn đoạn quả, chưa phân biệt về Bồ-đề trí quả. Nay vì phân biệt ba thân khác nhau khiến cho khác nhau giải chướng, trị hữu biệt tu nhân mà chứng đắc.

Hư Không Tạng bạch Thế tôn: “Vì sao Bồ-tát đối với sự sâu xa bí mật của các Đức Như lai đúng như pháp tu hành?”.

Sâu xa bí mật tức là quả ba thân, đúng như pháp tu hành tức hỏi chướng trị nhân cho nên từ phẩm này mà có. Thứ hai nói rõ lý do đến, ở phẩm trước nói về viên tịch thì cho dứt chướng mà chứng, đoạn sở đoạn đã hoàn tất nên trí tuệ trọn vẹn.

Trong Bỉ Quả Trí Phần trong Nhiếp Luận của Vô Tánh chép: “Từ dứt sở đoạn được trí vô cấu vô quái ngại cho nên đoạn thù thắng không đứt quãng, tiếp đó nói về quả trí thù thắng”, vì thế sau phẩm trước có phẩm này sinh ra. Thứ ba nói rõ lý do đến là cơ nên nghe, từ bi vì đó mà nói khiến cho có được lợi lạc. Cuối phẩm này nói: “Trong bốn oai nghi, các Đức Phật Như lai thảy đều thuộc về trí, tất cả các pháp không có pháp nào không thuộc về từ bi”.

Không có pháp nào không vì lợi ích an vui cho các chúng sinh, tức là dứt bỏ các khổ tám nạn, do đó văn dưới nói: “Lắng nghe tin hiểu không đi theo các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, đây là lìa xa nạn bốn đường ác, thường ở nơi trời, người, lìa xa nạn biên địa; không sinh nơi hạ tiện, lìa xa nạn sinh ra đui điếc, luôn luôn được gần gũi, các Đức Phật Như lai, lìa xa nạn sinh trước Phật, sau Phật, lắng nghe thọ nhận chánh pháp, lìa xa nạn thế trí biện thông, thường sinh về cõi nước thanh tịnh của các Đức Phật, lìa xa nạn sinh về tầng trời Sống lâu, cho đến cõi nước có bốn thứ lợi ích v.v… đều là lợi ích an vui”, cho nên có phẩm này.

Kế là giải thích tên gọi, phân là chia đoạn, Biệt nghĩa là đặt biệt, tức là chia đoạn khác nhau về ba thân. Hoặc phân nghĩa là phân tích, biệt nghĩa là ký biệt. Ba là số thân nghĩa là y vào nghĩa thể và chứa nhóm, như luận Thành Duy Thức mười giải thích. Còn nghĩa chân thật trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Thân gọi là thật, không tổn hoại gọi là thật”. Hoặc nối nhau gọi là thân, trong Lương Luận chép: “Các Đức Phật ba đời nối nhau không khác, tùy theo ba nghĩa sở ứng của tự tánh là Pháp thân, thông thể và y thật gọi là thân”. Ứng Hóa có cả năm, khác với biến kế cho nên cũng được gọi là thật.

Lại chẳng phải thành tựu do máu thịt cho nên cũng gọi là thật. Nếu nói theo tự tánh Pháp thân thì không được gọi là thật. Nếu chỉ nói ba thân thì giải thích theo số hiện có. Đã nói phân biệt ba thân, thì phân biệt là năng phân biệt, ba thân là sở phân biệt. Nên nói về sự phân biệt ba thân gọi là phẩm Tam Thân Phân Biệt, là y Chủ thích. Nay thuận theo phương này nói là phẩm phân biệt Tam Thân. Phẩm này nói rộng về ba thân của các Đức Phật cho nên gọi là phẩm Phân Biệt Tam Thân.

Ba là nói về chướng nạn.

Thứ nhất hỏi: Ba thân này đều vốn có hay mới sinh ra?

Đáp: Y cứ theo nhân thì đều là vốn có, nói về quả thì đều là mới thành. Bởi vì tự tánh của thân chẳng sinh diệt, do đó nói chung là mới thành tựu. Thể tự tánh Pháp thân tức là chân như, ở trong ràng buộc gọi là Tạng, không gọi là Pháp thân, hằng sa muôn đức tướng chưa hiện rõ cho nên chẳng phải là nơi y chỉ công đức của pháp. Thoát ra khỏi sự ràng buộc thì gọi là Pháp thân, hằng sa muôn đức tướng đã hiển hiện. Nói về công đức y theo tên gọi là Pháp thân, trong kinh Thắng-man chép: “Ở trong ràng buộc gọi là Như lai tạng, ra khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân”. Luận Thành Duy Thức chép: “Ở Đại Mâu-ni gọi là Pháp thân”. Đã nói ở Đại Mâu-ni gọi là Pháp thân thì rõ ràng chẳng phải là tên gọi vốn có, cho nên là mới đạt được. Hai thân Ứng và Hóa về nhân tuy là vốn có nhưng quả thì mới phát sinh. Lý đó rất thành tựu, không dẫn chứng rườm rà.

Thứ hai hỏi: Ba thân này là đồng nhất thể, nghĩa dụng chia làm ba làm nhân và thể khác nhau?

Đáp: Nhân và thể đều khác. Tự tánh Pháp thân tức là ứng được nhân đắc, ứng được nhân thể tức là chân như. Hai thân Ứng và Hóa nhờ gia hạnh nhân, tròn đầy nhân mà được. Phát tâm gọi là gia hạnh, tu tập đầy đủ gọi là tròn đầy, tức là sáu độ.

Thứ ba hỏi: Nếu ba nhân có thể riêng thì cũng khác nhau, vì sao văn dưới nói: Tuy có ba số nhưng không có ba thể?

Đáp: Nói theo tánh tướng thì chân như là tánh, ngoài ra là tướng, không có một pháp nào ra khỏi thế giới chân như mà có Thể tánh riêng nên nói là không có ba thể, thảy đều lìa Như, thể tánh không khác.

Lại y cứ theo nhiếp tướng quy về tánh thì Như, Thể tức là một, hoặc tướng dụng luận riêng về ba thể khác nhau, như luận Thành Duy Thức, Đại Trang Nghiêm, Nhiếp Đại Thừa v.v… đều có nói về điều đó.

Thứ tư hỏi: Nếu ba thể khác nhau thì ở dưới nói thí dụ quặng vàng không thành?

Đáp: Không hề trái nhau, vì lý chân như và vô lậu vốn có kết hợp dụ cho quặng vàng, được vàng ròng là hợp dụ cho quả đức, tùy ý chuyển đổi làm các vật dụng trang nghiêm, dụ cho tánh tướng công đức đều y như lý, căn lực giác chỉ y theo bốn trí mà khởi. Dưới đây phân biệt qua ba dụ vàng, nước, hư không đối với thể Pháp thân là có trước, mộng vượt sông dụ cho mới bắt đầu, biệt dụ cho bốn trí tâm phẩm, vì vậy ở dưới kinh nói: “Chẳng phải là vô tâm, vọng tưởng đã dứt bỏ là giác thanh tịnh; chẳng phải là vô giác, vàng, nước và hư không là vốn có không thay đổi, cho nên dụ cho tự tánh. Mộng không phải là chân giác, mộng biết rõ là không thật thì chân giác mới khởi, vì thế biết là Thể khác nhau”. Các vị tôn đức xưa nay nói về thể ba thân, khác nhau không đồng nghĩa đến sau này sẽ phân biệt rõ.

Văn kinh: Bấy giờ, Hư Không Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải sát đất chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Phật.

Tán rằng: Ngay trong phẩm này toàn văn chia làm bốn phần:

  1. Bồ-tát thưa hỏi.
  2. Như lai trả lời.
  3. Này người thiện nam! Tri kiến như thế trở xuống là kết thúc khuyến khích tu hành.
  4. Bấy giờ, Hư Không Tạng trở xuống là lãnh ngộ thọ trì tu học.

– Trong phần đầu lại có hai:

  1. Cúng dường.
  2. Thân thỉnh.

– Cúng dường có hai thứ:

  1. Nội cúng dường, tức là nghi thức thỉnh pháp.
  2. Ngoại cúng dường, tức là biểu hiện thành tựu đương quả.Đây tức là văn mở đầu.

Nội cúng dường này là nghi thức thỉnh pháp, trong luận Đại Trang Nghiêm quyển một có nói. Thứ nhất trong nghĩa phát tâm có sáu thứ thù thắng, nguyện thù thắng thứ hai tức là mười nguyện lớn.

Nguyện thứ nhất cung kính cúng dường tất cả các Đức Phật, trong đó có ba:

  1. Tất cả Phật vô dư.
  2. Cúng dường vô dư.

– Trong cúng dường vô dư có ba:

  1. Lợi cúng dường, đó là các thứ y phục v.v…
  2. Kính cùng dường, đó là các thứ hương hoa v.v…
  3. Hành cúng dường đó là tu tập tín giới v.v…

– Cung kính vô dư, cũng có ba:

  1. Chu cấp hầu hạ cung kính.
  2. Đón đưa cung kính.
  3. Tu hành cung kính.

Nay ở đây chính là tu hành cung kính, trong đó có hai: Đầu tiên nói về người thưa hỏi, sau đó nói về cúng dường.

Hỏi: Vì sao Bồ-tát này tên là Hư Không Tạng?

Đáp: Nhất định các vị Bồ-tát đều có công năng phước trí địa vị tương tự đều phải như nhau, nhưng tùy theo nguyện tăng thêm nên có tên đều khác nhau.

Nay vị Bồ-tát này lập danh có hai cách:

  1. Theo Sự.
  2. Theo Lý.

Theo Sự lập danh, như kinh Đại Tập quyển mười lăm, cũng nói: “Bồ-tát Hư Không Tạng được năng lực thần thông của Như lai, ở trong hư không tùy theo sự cần thiết của chúng sinh, hoặc pháp, hoặc tài, tất cả thường ban cho đều khiến trở nên vui mừng, vì trí phương tiện này nên gọi là Hư Không Tạng”.

Còn trong phẩm Hư Không Tạng chép: “Thời quá khứ, có Luân vương tên là Sư Tử Biên, xuất gia không bao lâu đạt được năm thứ thần thông, kế thừa giáo pháp của Phật làm cho tà tâm của vua cha thay đổi, muốn giúp cha vào trong chánh kiến nên nhâp định hiện hiện bày thần thông. Các tướng như thế làm cho tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ở giữa hư không tuôn xuống các vật tốt đẹp quý giá như mưa, đều từ hư không lần lượt rơi xuống, đầy khắp cõi tam thiên.

Lúc bấy giờ, Địa Thần cho đến tầng trời Ca-ni-tra, vui mừng phấn khởi nói lời như vậy: Vị Đại Bồ-tát này tên là Hư Không Tạng. Lúc ấy Phật ấn khả tên là Hư Không Tạng”. Theo Lý lập danh ấy, trong kinh Hư Không Tạng Bồ-tát chép: “Hư Không Tạng nói với A-nan rằng: Thân ta tức là hư không, dùng hư không chứng biết tất cả, là hư không ấn chứng hư không”. Đây là theo Lý mà gọi tên, tức là lý thân. Mười địa chứng đắc mười thứ Pháp thân như trong Thắng Thiên Vương Bát-nhã chép: Còn nghĩa về ba thân trong Pháp Uyển có trích dẫn đầy đủ. Cũng như kinh Hoa Nghiêm, thân tướng Phổ Hiền giống như hư không, nương vào Như như, không dựa vào cõi Phật.

Hỏi: Bồ-tát này giai vị ở địa nào?

Đáp: Theo kinh Đại Tập nói là ở Địa thứ mười. Đứng dậy khỏi chỗ ngồi v.v… đều có sự biểu thị, suy theo đó có thể biết.

Văn kinh: Dùng hoa, cờ báu, phướn lọng vi diệu quý báu để cúng dường Đức Phật.

Tán rằng: Ngoại cúng dường tức trong ba loại cúng dường đây là kính cúng dường. Dùng vàng báu nhiệm mầu bậc thượng vi diệu kim bảo là biểu thị cho sự tu hành lâu xa, là dụ cho việc luyện vàng dưới đây. Nói hoa báu là biểu thị hãy còn ở nhân sẽ đạt được quả. Cờ báu biểu thị cho trí Bồ-đề cao vượt khỏi hàng Nhị thừa. Lọng báu biểu thị cho bốn tâm vô lượng che mát chúng sinh, cũng biểu thị cho nghe kinh này có thể làm nhân thù thắng đạt đến quả thù thắng.

Văn kinh: Bạch Đức Phật: Bạch Thế tôn! Vì sao nói Bồ-tát Maha-tát đối với chỗ sâu xa bí mật của các Đức Như lai đúng như pháp tu hành?.

Tán rằng: Đích thân thưa hỏi, sâu xa bí mật là hỏi về quả, như pháp tu hành là hỏi về nhân. Khó có thể chứng đến tận cùng gọi là sâu xa, hoặc hàng Nhị thừa không biết nên gọi là sâu xa. Bồ-tát Địa tiền không thể hiểu rõ gọi là bí mật. Theo kinh Pháp Hoa nói về sâu xa có năm loại:

  1. Nghĩa.
  2. Thể.
  3. Nội chứng.
  4. Y chỉ.
  5. Vô thượng.

Lại bí mật đó tức là tướng, và khiến hội nhập trong bốn bí mật. Ba tánh là tướng ba thân khiến hội nhập.

Văn kinh: Đức Phật nói: Này người thiện nam! Hãy lắng nghe và khéo nghĩ nhớ, ta sẽ phân biệt giải thích rõ cho ông nghe.

Tán rằng: Đoạn lớn thứ hai, Như lai trả lời. Văn chia làm bốn: Đầu tiên bảo lắng nghe và hứa nói; tiếp đến trả lời về quả; tiếp theo “Lại nữa, này người thiện nam” trở xuống là trả lời về vấn đề tu hành; sau cùng “Lại nữa, Thiện nam! Pháp thân” trở xuống là tổng kết nhân quả ở trước, nói rõ khiến cho biết.

Đây là mở đầu.

Nói hãy lắng nghe và khéo nghĩ nhớ, trong Công Đức Thí Bồ-tát Kim cương Bát-nhã Luận giải thích rằng: “Đế-thích là tâm chuyên chú vào một cảnh, Thiện là đối với nghĩa như lý phát sinh tin tưởng, không có nghi ngờ, Tư niệm là kính trọng giữ gìn không quên”. Ngài Chân-đế giải thích rằng: “Đế-thích tức là phát sinh văn tuệ, văn tuệ lìa xa lỗi tán loạn, như kính mến tài năng, khó nghĩ là phát sinh tư tuệ, tư tuệ thường tôn trọng, lìa xa buông lung, như toàn vẹn đức độ. Niệm là phát sinh tu tuệ, tu tuệ thường nhiếp niệm, xa lìa điên đảo, như tài năng đức độ thanh tịnh.

Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả Như lai đều có ba thứ thân.

Tán rằng: Tiếp theo trả lời về quả đã hỏi. Văn chia làm bốn:

  1. Nêu lên số đó.
  2. Tùy số đưa ra.
  3. Y theo số đưa ra.
  4. Tùy số nêu ra giải thích.

Đây là nêu ra.

Văn kinh: Vì sao nói là ba?

Tán rằng: Trưng dẫn.

Văn kinh: Một là Hóa thân, hai là Ứng thân, ba là Pháp thân.

Tán rằng: Sắp xếp theo trưng dẫn. Trước tiên nêu ra tên gọi ba thân, sau đó hiển bày thâu nhiếp khuyến khích nên biết. Đây là nêu ra tên gọi ba thân.

Văn kinh: Ba thân như vậy nhiếp thọ đầy đủ, được A-nậu-đa-la

Tam-miệu Tam-bồ-đề, nếu đích thực hiểu rõ thì mau chóng thoát khỏi sinh tử.

Tán rằng: Hiển bày thâu nhiếp khuyến khích nên biết. Như vậy là chỉ cho ba thân nêu ra ở trước. Nhiếp thọ đầy đủ là hiển bày thâu nhiếp thân Phật, là đức vô vi, tự lợi lợi tha tất cả đều trọn vẹn. Nhiếp nghĩa là ôm lấy tất cả, Thọ là dung nạp. Nghĩa là ba thân này thâu tóm tất cả, dung nạp công đức thân Phật thảy đều trọn vẹn. Vì sao ba thân này chính là A-nậu Bồ-đề? Nói A nghĩa là Vô, Nậu-đa-la là Thượng, Tam là chánh, Miệu là Đẳng, Tam còn dịch là Chánh, Bồ-đề là Giác.

Theo đó nên nói Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đây là thâu nhiếp năm pháp chân như và bốn trí. Như tức là Đoạn đức Niết-bàn, bốn trí tức là Trí Đức, dựa theo đây mà hóa sinh tức là ân đức, thâu nhiếp trọn vẹn Bồ-đề. Luận Bát-nhã của Bồ-tát Vô Trước chép: “Anậu-đa-la hiển bày Bồ-đề Bồ-đề đoạn, là tướng giải thoát; Tam-miệu Tam-bồ-đề hiển bày riêng biệt về đạo Bồ-đề.

Bởi vì người bình đẳng, bởi vì Bồ-đề phần pháp. Đây là ý về tướng giải thoát, tức là ly cấu chân như. Đạo Bồ-đề là bốn trí tâm phẩm, bởi vì người bình đẳng, bởi vì người vô ngã lý ấy bình đẳng. Bởi vì có Bồ-đề phần pháp nên gọi là Phật, đối với vô thượng giác mà sinh chánh giác thì khác với phàm phu, đẳng giác khác với Nhị thừa”.

Lại nói: “Chánh giác khác với Bồ-tát, bởi vì chữ Giác xuyên suốt tất cả bốn nơi”. Đầu tiên là vô thượng giác, tức là lý chân như, giác tánh gọi là giác, cho nên kinh nói rằng: “Bồ-đề Bồ-đề đoạn gọi là Bồ-đề”. Đầu tiên gọi là Vô thượng, trong kinh Bát-nhã chép: “Không có chút pháp nào có thể đắc cho nên gọi là A-nậu v.v…”. Luận Thích chép: “Không một vi trần pháp nào có thể đắc”. Đây là ý nói Nhị thừa chỉ dứt bỏ phiền não không dứt được sở tri, Bồ-tát thì dứt bỏ cả hai chướng, chủng trí không có chút nhiễm nào cho nên nói là Vô thượng Tam-miệu Bồ-đề v.v… Nói Vô thượng tức là vì hơn hẳn hạng phàm phu, Nhị thừa và Bồ-tát kia cho nên giác gọi là Vô thượng. Kinh Bát-nhã chép: “Pháp này bình đẳng không có cao thấp cho nên gọi là A-nậu Bồ-đề”. Đây là ý nói do Phật và Phật ngang nhau, chứng đạt vô ngã ngang nhau cho nên gọi là Vô thượng, nếu có hơn kém thì không gọi là Vô thượng. Như trong luận Biện Trung Biên, phẩm Vô Thượng Thừa chép: “Tóm lại từ ba vô thượng nói là Vô Thượng thừa, đó là Chánh hạnh, Sở duyên và tu chứng Vô Thượng”. Ý này tức là các hạnh đều tu, các cảnh đều thông, các quả đều chứng, cho nên gọi là Vô Thượng, rộng như luận ấy nói. Kinh Bát-nhã nói rằng: “Tu tất cả pháp lành tức đạt được hạnh Bồ-đề vô thượng, đối với tất cả các pháp nên biết như vậy tức là cảnh vô thượng, tu chứng vô thượng tức là Bồ-đề, Niết-bàn”. Luận ấy chép: “Chín là Phật địa tu chứng không còn hai chướng, do đó mười là thị hiện Bồ-đề, tu chứng không ngừng nghỉ”. Nay ở đây cũng nói như vậy. Nếu đích thực hiểu rõ mau chóng thoát khỏi sinh tử ấy là khuyến khích đại chúng khiến cho hiểu rõ. Nghĩa về ba thân này phân biệt sơ lược có năm loại:

  1. Giải giải thích.
  2. Đưa ra Thể.
  3. Khai hợp phế bỏ vị.
  4. Nhân khởi tướng quả.
  5. Các môn phân biệt.

– Thứ nhất giải giải thích, có hai:

Đầu tiên đưa ra danh, sau đó giải giải thích. Đưa ra danh, kinh luận đều khác nhau, ba thân đều có nhiều tên gọi. Hóa thân Phật lược có năm tên gọi:

1. Gọi là Hóa thân, trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Do năng lực tự tại bổn nguyện của Phật, giống như chúng sinh kia đổi thay hiển hiện gọi là Biến Hóa thân”.

2. Là cha mẹ sinh thân, trong luận Trí Độ chép: “Phật có hai thân: Một là pháp tánh sinh thân; hai là cha mẹ sinh thân”.

3. Tùy thế gian thân, nói rõ bi nguyện của Phật thị hiện giống như thế gian, vào ở trong thai thoát ra khỏi thai gọi là tùy thế gian, vì vậy trong luận Trí Độ chép: “Phật có hai thân: Một là Tùy thế gian thân, hai là Pháp tánh sinh thân”.

4. Chỉ gọi là sinh thân, cũng thuộc về cha mẹ sinh ra, kinh Niếtbàn chép: “Phật có hai thứ thân: Một là Pháp thân; hai là Sinh thân”.

5. Là giả danh thân, trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Giả danh thân tức là hóa thân, thị hiện thân này phân biệt, việc làm không chân thật gọi là giả danh thân” các tên gọi này tùy theo nghĩa nên biết.

– Thứ hai là Ứng thân, lược có sáu tên gọi:

1. Ứng thân, hằng sa đức thành tựu tương ưng với lý gọi là Ứng thân, trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Nếu lìa Pháp thân thì Ứng thân không thành tựu, hoặc đến cơ Bồ-tát thích hợp nên nói pháp, cho nên gọi là Ứng thân; hoặc vì thích ứng với nhân xưa kia”.

2. Thọ dụng thân, là Thọ dụng tịnh độ Đại thừa pháp lạc, trong luận Thành Duy Thức chia ra Tự thọ dụng và Tha thọ dụng, Tự thọ dụng là luôn luôn tự mình thọ dụng pháp lạc rộng lớn, Tha thọ dụng là giúp cho người khác thọ dụng pháp lạc Đại thừa.

3. Báo thân, dùng quả báo đền nhân gọi là Báo thân, trong luận Thập Địa gọi là Báo thân Phật, trong luận Bát-nhã gọi là Thọ lạc báo Phật.

4. Trí tuệ Phật, nói trong kinh Lăng-già.

5. Công đức Phật, cũng nói trong kinh Lăng-già.

6. Là pháp tánh sinh thân, trong luận Trí Độ chép: “Phật có hai thứ thân, một là pháp tánh sinh thân, hai là cha mẹ sinh thân”. Đã nói pháp tánh sinh, rõ ràng không phải tự tánh Pháp thân, bởi vì hằng sa công đức tương ưng với pháp tánh, dựa vào pháp tánh mà khởi gọi là pháp tánh sinh.

– Thứ ba là Pháp thân, lược có năm tên gọi:

1/ Pháp thân, thân mà công đức chân như vô cấu nương vào gọi là Pháp thân, trong Nhiếp Đại Thừa chép: “Thân này tương ưng cùng với pháp công đức cho nên gọi là Pháp thân”. Luận Thành Duy Thức chép: “Chính tự tánh này cũng gọi là Pháp thân, là nơi y chỉ của các pháp đại công đức”. Kinh này cũng giống như vậy.

2/ Tự tánh thân: trong Nhiếp Đại Thừa dịch vào đời Lương chép: “Hoặc Phật xuất thế, hoặc Phật không xuất thế đều tự nhiên, gọi là tự tánh thân”. Thành Duy Thức chép: “Đó là chân tịnh pháp giới thọ dụng biến hóa bình đẳng sở y của các Đức Như lai nên gọi là tự tánh thân”.

3/ Chân thật thân, Nhiếp Đại Thừa dịch vào đời Lương chép: “Thân có hai thứ: Một là chân thật thân; Hai là giả danh thân”, trong luận Bảo Tánh gọi là thật Phật, kinh này cũng nói pháp thân là Phật.

4/ Như như Phật, kinh Lăng-già nói Như như Phật.

5/ Chỉ gọi là Pháp Phật: Chân như tự thể được gọi là Phật, như là Phật thể cho nên gọi là Pháp Phật. Trên đây đã nêu ra tên gọi. Giải thích tên gọi là giải rõ tên gọi chung trong đầu đề như phẩm trước. Giải thích tên riêng là dựa theo kinh này nói Hóa thân là hiện bày các thứ thân, đó gọi là Hóa thân. Bởi vì có thể dẫn dắt từ không mà chợt có, hiện rõ đó là Hóa, Hóa tức là thân, là trì nghiệp thích.

Hoặc riêng để phân biệt với chung là thân của Hóa, tức là y Chủ thích. Bởi vì thân xuyên suốt cho nên có chỗ gọi là Biến Hóa thân, Biến nghĩa là chuyển đổi hình dạng vốn có, Hóa tức là từ không mà chợt có, vừa biến vừa hóa, biến và hóa khác nhau, là tương vi thích. Biến Hóa tức thân là trì nghiệp thích. Ở đây bỏ chữ Biến, hoặc Hóa dụng thù thắng cho nên gọi là Hóa thân. Y theo đây thì Ứng là Ứng với phàm phu, Nhị thừa, ứng là ứng thân, để phân biệt với Báo thân nên chỉ nói Hóa thân. Không đồng Báo thân, vì ứng với Bồ-tát nên được gọi là

Ứng. Theo luận Thập Địa và kinh luận thì Báo thân gọi là Báo Phật, Hóa thân, Pháp thân, Ứng thân đều gọi là Phật. Theo các kinh luận phần nhiều trước đây nêu là Phật có bao nhiêu thân, trong nêu danh phần nhiều không có chữ Phật. Không như vậy thì nếu chỉ nói ba thân là tên gọi cho tất cả người khác, cũng gọi là thân. Lại y cứ theo mười hiệu, ba thân đều được tên gọi đó. Nhiều tên gọi của Phật tạm thời nêu ra một, cho nên ở đây cũng nói: Tất cả Như lai đều có ba thân. Nói về Ứng thân, theo văn kinh này có hai nghĩa gọi là Ứng:

1. Khế Ứng chân lý nên phát khởi thân này. Kinh chép: “Như thật tương ưng như như, trí như như bổn nguyện lực, thì thân được hiện bày”. Đã nói như thật tương ưng như như đẳng trí bổn nguyện lực cho nên thân đó được hiện bày, do khế ứng với chân lý mới phát khởi gọi là Ứng thân. Trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Nếu lìa Pháp thân thì ứng thân không thành tựu, nên biết rằng hai thân này do năng y và sở y nên được tương ứng”. Lại vì ứng đến căn tánh của Bồ-tát mà hiện bày thân này gọi là Ứng thân. Vì vậy kinh này chép: “Vì các Bồ-tát có khả năng thấu suốt cho nên nói về Chân-đế”, cho đến chép: “Đó gọi là Ứng thân”. Phú cơ gọi là Ứng, nhưng là tha thọ dụng, không phải là tự thọ dụng. Nghĩa trước có cả hai. Nói về Pháp thân là y theo luận Thành Duy Thức chép: “Là nơi y chỉ của pháp đại công đức”. Luận Phật Địa chép: “Là nơi y chỉ của các pháp công đức và các năng lực vô úy”. Công đức là năng y, thân là sở y, tức thể chân như là sở y của pháp công đức, cho nên gọi là Pháp thân, là y chủ thích.

Nhiếp Luận Đại Thừa của ngài Vô Tánh cũng giải thích đồng với ở đây. Lại chân như là công đức pháp thể, thể tức là thân, do đó pháp chính là thân. Luận Vô Tánh giải thích rằng: “Pháp tánh tức là thân, cho nên gọi là Pháp thân, là trì nghiệp thích”. Nay văn kinh này có đủ cả hai nghĩa. Sau kinh này chép: “Vì sao nói Bồ-tát hiểu rõ Pháp thân? Vì dứt trừ các phiền não các chướng, vì đầy đủ các pháp công đức cho nên chỉ có như như, trí như như, đó gọi là Pháp thân”. Vì dứt trừ các phiền não các chướng gọi là Pháp thân, tức là đã hiển hiện Báo thân, là trì nghiệp thích. Đầy đủ các pháp công đức gọi là Pháp thân, tức chính là năng y, là y Chủ thích. Ngoài ra như Pháp Uyển Tam Thân Nghĩa Lâm phân biệt rõ. Lại y theo kinh này phân biệt có ba thứ:

  1. Liệt danh hiển thắng.
  2. Xuất tam thân thể.
  3. Chư môn phân biệt.

Phần đầu xong.

Văn kinh: Vì sao nói Bồ-tát hiểu rõ Hóa thân?.

Tán rằng: Đưa ra thể của ba thân. Tức chia ra ba đoạn. Đây là Thể Hóa thân:

  1. Mượn để hỏi.
  2. Phật trả lời.
  3. Cả hai kết thúc.

Đây là mở đầu. Nói Bồ-tát là đối với cơ đã đầy đủ, Nhị thừa định tánh không thể vui mừng mong cầu, do đó hỏi Bồ-tát. Tuy ba thừa đều được gọi là Bồ-tát nhưng không phải đều là hỏi ý.

Hỏi Bồ-tát Đại thừa vì sao nói hiểu rõ vì muốn khiến cho ưa thích tu hành mà mong cầu, tức là hai lần hỏi:

  1. Thế nào là Bồ-tát.
  2. Thế nào là hiểu rõ.

Văn kinh: Này người thiện nam! Xưa kia Như lai còn ở giai vị tu hành vì tất cả chúng sinh tu các thứ pháp.

Tán rằng: Đây là Phật trả lời, lại có hai: Nhân và Quả.

Đây là nhân. Văn chia làm năm phần:

  1. Gọi người thưa hỏi.
  2. Tự nêu đức hiệu.
  3. Nói rõ hạnh vị.
  4. Nói ý tu tập.
  5. Chính thức tu tập.

Xưa kia ở trong địa vị tu hành là nói về hạnh vị, tức là trừ chủng tánh địa trong bảy địa, vì chưa tu hành cho nên trong lời nói cũng phân biệt với trì nghĩa, vì tất cả chúng sinh là thứ tư nói về ý tu tập, tức là đồng với kinh Bát-nhã. Thế nào là trụ tâm? Vì tất cả chúng sinh đều muốn diệt độ, đây là sự rộng lớn bậc nhất. Tâm đó thường không điên đảo, bốn thứ tâm ích lợi tu các thứ pháp môn, tức là nhân của sự tu hành và dứt bỏ chướng. Văn kinh-thù Sở Vấn chép: “Bồ-tát đầu tiên quán pháp gì thực hành hạnh Bồ-tát, tức là việc làm, dựa vào pháp nào mà thực hành hạnh Bồ-tát, tức là tu đoạn. Văn-thù đáp rằng: Các Bồ-tát thực hành đại bi là vốn vì các chúng sinh”. Đây là mở đầu.

Tuy cũng tự lợi nhưng Bồ-tát lấy đại bi lợi tha làm trước tiên, lý thật cũng có tự lợi, hoặc ngay nơi lợi tha trở lại làm tự lợi. Vì thế kinh luận ấy chéo:

Lại hỏi: Đại bi lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy trực tâm làm gốc, đây là ý khiến xa lìa sợ hãi cho người khác.

Lại hỏi: Trực tâm lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh làm gốc; đây là ý đối với tất cả các loài hữu tình oán thân tâm đều thương xót bình đẳng.

Lại hỏi: Đối với tất cả mọi nơi tâm bình đẳng lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy không hề khác nhau, xa lìa (Dị hạnh) làm gốc, đây là ý khiến cho lìa xa tâm Năng độ, Sở độ.

Lại hỏi: Không khác nhau, lìa khác nhau lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy tâm rất thanh tịnh làm gốc; đây là ý tuy là nhiếp tha nhưng đồng kỷ, khiến cho xa lìa tâm ái nhiễm và hoàn toàn vắng lặng.

Lại hỏi: Tâm rất thanh tịnh lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy tâm A-nậu Bồ-đề làm gốc; đây là ý tự lợi, bởi vì tự mình không cứu thì không thể lợi tha. Hoặc là cầu Bồ-đề tức là ba thứ tâm gọi là tâm Bồ-đề.

Lại hỏi: Tâm Bồ-đề lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy sáu pháp Ba-la-mật làm gốc, đây chính là vì đầy đủ sáu chủng tánh dùng làm gốc, hoặc do tu hành sáu độ làm gốc”.

Hỏi đáp trong kinh đó đồng với ý kinh này. Vì tất cả chúng sinh tức là thương xót chúng sinh. Phát tâm Bồ-đề thương xót chúng sinh lại có năm việc:

  1. Thấy các chúng sinh bị vô minh trói buộc.
  2. Thấy các chúng sinh không tin nhân quả gây ra các nghiệp ác.
  3. Thấy các chúng sinh rời bỏ chánh lý.
  4. Thấy các chúng sinh gây ra nghiệp ác sâu nặng.
  5. Thấy các chúng sinh không tu tập chánh pháp.

Năm việc đều có bốn thứ, rộng như kinh kia đã nói. Tu các pháp môn tức là mười độ sau và dứt bỏ các chướng.

Văn kinh: Tu tập như thế đến khi tu hành đầy đủ.

Tán rằng: Đắc quả. Đầu tiên là nói về nhân sở tu tròn đầy, kế là nêu lên quả sở đắc tròn đầy, sau đó tổng kết thân danh.

Đây là mở đầu.

Văn kinh: Nhờ năng lực tu hành nên đạt được đại tự tại.

Tán rằng: Nói về quả sở đắc trọn vẹn, có hai: Đầu tiên nói về quả đắc trọn vẹn, sau đó nói về khả năng lợi ích chúng sinh. Đắc quả chia hai:

  1. Đắc quả.
  2. Liễu cảnh.

– Đây là đắc quả. Mười đại tự tại gồm:

  1. Nêu danh.
  2. Xuất thể.
  3. Biện nhân.
  4. Phế lập.

– Nêu danh đó trong Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh chép: “

  1. Tuổi thọ tự tại.
  2. Tâm tự tại.
  3. Chúng cụ tự tại.
  4. Nghiệp tự tại.
  5. Sinh tự tại.
  6. Thắng giải tự tại.
  7. Nguyện tự tại.
  8. Lực tự tại.
  9. Trí tự tại.
  10. Pháp tự tại”.

Về xuất thể thì mạng tức là mạng căn, như phẩm Thọ lượng ở trước đã nói.

Kinh Thập Địa chép: “Không thể nói, không thể nói, kiếp mạng trụ trì”.

Nhưng kinh Tát-già-ni-kiền Tử quyển bảy và kinh Pháp Tập 3 chép: “Đạt được cam lộ tối thượng gọi là mạng tự tại. Cam lộ tức Niếtbàn, Niết-bàn chính là tuổi thọ của Pháp thân. Hoặc do chứng vô trú cam lộ này nên mạng của Ứng thân, Hóa thân hiện bày mạng tùy tâm kéo dài hay rút ngắn đều vô tận”. Tâm tự tại, theo kinh Thập Địa thì “Tâm tức là trí định, do năng sở dắt dẫn”, đồng với luận Tạp Tập đưa ra các pháp thể thông suốt trí định.

Kinh đó chép: “Đạt được tâm tự tại thì vô lượng tăng-kỳ hội nhập trí Tam-muội”.

Hoặc chép: “Định này thường dẫn dắt trí, không nhất thiết giữ lấy trí tâm tự tại”.

Theo kinh Pháp Tập chép: “Tất cả các pháp đều hiện khởi do tâm, gọi là tâm tự tại, tức là thông suốt thức thứ tám. Thức đó có công năng biết tất cả, đó là nhất tâm gọi là tâm tự tại, là thâu nhiếp tâm sở, quy về tâm vương”.

Còn Nhiếp luận chép: “Ở trong tự tại chuyển vận tâm đó gọi là tâm tự tại. Sự chuyển vận này tức là thông suốt thức thứ tám, có khả năng chuyển vận là định, hoặc cũng chung cho trí. Hoặc tâm tự tại chuyển vận tức là có cả tâm vương, tâm sở”. Chúng cụ tức là bốn trần làm thể, ăn mặc tài vật tất cả mọi thứ gọi là chúng cụ.

Luận chép: “Đối với các thứ uống ăn, các điều kiện sinh sống đều đầy đủ, tùy ý ưa thích thường được chứa nhóm”. Nghiệp tức là tư, cho nên chỉ tạo các nghiệp lành. Sinh tự tại, sinh chung cho năm uẩn, hễ sinh ra nơi nào đều được như ý muốn mà được thọ sinh. Thắng giải tự tại, trong kinh Tát-già-ni-kiền Tử gọi là như ý tự tại, tức là dùng thắng giải số làm thể.

Luận Vô Tánh chép: “Nghĩa là từ nơi đất cát phát khởi thắng giải khiến cho trở thành vật báu”. Nguyện tức là lấy giải dục tín làm thể, kinh Tát-già-ni-kiền Tử chép: “Là tín tự tại hoặc trí hậu đắc làm thể của nguyện tự tại”. Thần lực tự tại tức là sáu thứ thần thông, trong kinh Tát-già-ni-kiền Tử gọi là nguyện tự tại, tức là hiển bày thần thông biến hiện mọi vật khiến cho tùy nguyện thành tựu. Vì vậy kinh ấy chép: “Ngay lúc tâm sinh hiện tiền thành tựu tất cả các việc gọi là nguyện tự tại”.

Luận Vô Tánh chép: “Nghĩa là tùy ý thích dẫn dắt phát khởi các thứ thần thông tối thắng”. Trí tự tại là duyên trí âm thanh, lấy từ vô ngại giải làm thể, trong Vô Tánh chép: “Nghĩa là tùy tất cả các thứ ngôn ngữ âm thanh nên trí cảnh hiện bày”. Pháp tự tại lấy pháp vô ngại giải làm thể.

Luận Vô Tánh chép: “Tùy ý ưa thích mà giảng nói hợp với kinh, ứng với tụng v.v…” Hoặc mười tự tại đều lấy trí làm thể, đều là trí dụng, bởi từ sáu độ thành tựu thắng trí này. Ba là biện nhân, theo luận Vô Tánh: “Do pháp thí, vô úy thí và tài thí trọn vẹn, như sở ứng đó nên đạt được quả này”. Chính xác tức là như dưới đây thường cùng với Thọ, Tâm, Chúng cụ tự tại làm nhân. Như trong kinh Tát-già-ni-kiền Tử chép: “Mau lìa bỏ sát sinh, không còn tâm nóng giận độc hại, đó là nhân của mạng tự tại”.

Nhiếp Luận y theo Pháp thân mạng, Tát Già y theo Ứng hóa mạng. Lại lìa bỏ các sự giết hại v.v… cũng là pháp thí. Từ bi là nhân của tâm tự tại, ý này chép: “Bởi vì từ bi nên thường thí vô úy”. Giới là nhân của nghiệp sinh tự tại.

Kinh Tát-già-ni-kiền Tử chép: “Đem tâm Bồ-đề thâu nhiếp các gốc lành, đó là nhân của sinh tự tại”. Nhẫn là nhân của thắng giải tự tại, kinh Tát-già-ni-kiền Tử cho rằng cúng dường bố thí làm nhân của thắng giải, ý nói yên lòng chịu khổ nhẫn nại có thể giải thoát, ý trong Nhiếp Luận nói là Nhân xưa kia luôn thích tu nhẫn, tùy theo tâm ưa thích của các hữu tình mà chuyển, nay gặt hái được tùy thắng giải chuyển nơi các kim địa. Tinh tấn là nhân của nguyện tự tại, ý này là do siêng năng thành tựu đầy đủ sở nguyện.

Kinh Tát-già chép: “Thường nói về Tam Bảo giáo hóa chúng sinh, đó là nhân của tín tự tại”. Đã nói là Thường Nói, cũng chính là siêng năng, khiến cho người khác sinh khởi niềm tin, không còn phỉ báng giáo pháp. Vô úy tĩnh lự tức là nhân của lực tự tại.

Kinh Tát-già chép: “Vừa sinh ra mong cầu tức thời liền ban cho, đó là nhân của nguyện tự tại”. Bát-nhã là nhân của trí và pháp tự tại.

Luận Vô Tánh chép: “Do nhân xưa kia thường ưa thích tu hạnh tuệ, tùy theo âm thanh của loài đó mà nói pháp cho nghe, nay chứng được Bát-nhã thù thắng, khéo biểu đạt ngôn ngữ thanh âm tài tình giảng nói chánh pháp”.

Hoặc kinh Tát-già chép: “Thường thực hành pháp thí không vì lợi dưỡng gọi là văn cung kính, là nhân của trí tự tại, thường nói cho chúng sinh nghe về pháp chân như bình đẳng của các Đức Như lai và các chúng sinh, tự thể Pháp thân không phải là thân ăn uống, đó là nhân của pháp tự tại”. Ý đồng với Nhiếp Luận.

Về phế lập, trong kinh Pháp Tập quyển ba, kinh Tát-già quyển sáu đều chép: “Vì dứt trừ mười sợ hãi”. Theo đây chính là vì có thể đối trị mười sợ hãi cho nên mong cầu mười tự tại.

Kinh Tát-già chép: “Đại Vương nên biết rằng đạt được mạng tự tại do đó đối trị tất cả mọi nỗi sợ hãi sinh tử, đạt được tâm tự tại do đó đối trị tất cả mọi nỗi sợ hãi phiền não, đạt được vật tự tại do đó đối trị tất cả mọi nỗi sợ hãi nghèo nàn, đạt được nghiệp tự tại do đó đối trị tất cả mọi nỗi sợ hãi đường ác”.

Trong kinh Pháp Tập nói trừ nỗi sợ hãi ác hạnh, kinh đó y theo trừ Nhân, kinh này nói theo trừ Quả. Trong kinh Pháp Tập nói trừ nỗi sợ đường ác, kinh đó là nói theo Quả, kinh này nói theo sự trói buộc. Không được sinh trong tự tại, là vì sinh trong ràng buộc, đạt được sinh tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi sinh trong ràng buộc; đạt được như ý tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi tiến cầu, đạt được tín tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi phỉ báng báng chánh pháp, đạt được nguyện tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi tâm niệm trói buộc, đạt được trí tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi nghi ngờ, đạt được pháp tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi đại chúng.

Lại giải thích: Nói về pháp tự tại đó là nói pháp tự tại. Đã nói “tùy

theo ý chúng sinh” cho đến nói “Nói pháp tương ứng hiện các thứ thân”, do đó biết rằng hiện thân nói pháp cho chúng sinh nghe khiến đạt được lợi ích, tức trong kinh Pháp Hoa chép: “Chỉ vì một việc lớn”. Nói pháp tự tại có mười bốn thứ:

  1. Nói pháp tự tại.
  2. Thanh tịnh.
  3. Lạc thuyết.
  4. Trí.
  5. Sinh.
  6. Tam-muội.
  7. Trú trì.
  8. Quyến thuộc.
  9. Kiến.
  10. Văn.
  11. Tỷ.
  12. Thiệt.
  13. Thân.
  14. Tâm.

Kinh Pháp Tập quyển bảy chép: “Vì sao nói là nói pháp tự tại? Vì đối với tất cả ngôn ngữ không mê đắm, đây là không hòa vào pháp sở thuyết.

Thế nào là thanh tịnh tự tại? Vì đối với tất cả nơi chốn không nhiễm, không chỉ đối với pháp sở thuyết mà đối với tất cả đều không mê đắm.

Thế nào là Lạc thuyết tự tại? Nghĩa là y theo câu chữ của một pháp không hề ngưng nghỉ, trong trăm ngàn muôn kiếp nói không thể hết được, phân tích không hề hết được.

Thế nào là Trí tự tại? Đối với câu chữ của mỗi pháp năng thuyết, là trăm ngàn muôn pháp môn cho nên phân tích ý nghĩa rất dồi dào.

Thế nào là Sinh tự tại? Vì tùy theo lợi ích chúng sinh mà đối với nơi sinh ra tất cả mọi loài, tùy theo nơi chốn hiện bày thân. Hai lần nói Tùy theo nơi chốn là nói chẳng phải một, ngoài ra theo đây có thể biết.

Thế nào là Tam-muội tự tại? Vì ở trong từng niệm nếu muốn nhập Tam-muội liền có thể nhập Tam-muội.

Thế nào là Trụ tự tại? Vì tùy theo từng chỗ, từng chỗ trụ trì, đó là hoặc hươu nai hoặc chim thú hoặc cỏ cây, hoặc tường vách, có thể nói diệu pháp của các Đức Phật, tức là trụ trì ở đó khiến có thể nói pháp.

Thế nào là quyến thuộc tự tại? Nghĩa là vô lượng quyến thuộc không thể phá hoại quyến thuộc.

Thế nào là Kiến tự tại? Nghĩa là vì thấy được sắc màu vi diệu.

Thế nào là Văn tự tại? Nghĩa là vì nghe được âm thanh vi diệu.

Thế nào là Tỷ tự tại? Vì ngửi được tất cả hương chỉ là hương pháp vi diệu.

Thế nào là Thiệt tự tại? Nghĩa là vì ăn vị pháp không ăn vị của thức ăn.

Thế nào là Thân tự tại? Nghĩa là thành tựu Pháp thân, chẳng phải thân nuôi bằng thức ăn.

Thế nào là Tâm tự tại? Vì cho đến muỗi mòng, sâu kiến đều biết hạnh biết tâm của chúng. Vì vậy thấy sáu căn có dụng thù thắng.

Trong đây, hai thứ lớp tại đầu là Sở thuyết bất nhiễm, tiếp theo hai thứ là năng thuyết, tiếp theo một thứ là hiện thân, tiếp theo một thứ là nhập định, tiếp theo một thứ là thêm vào đầy đủ các điều khác, tiếp theo thứ một là tùy thọ Hóa thân, tiếp theo sáu là hiển bày các căn. Sinh ở trước là tổng tướng giả thân, sáu thứ sau này là biệt tướng thật thân. “Tùy ý chúng sinh, tùy hạnh chúng sinh” trong kinh này tức là tâm tự tại, tùy tiểu phần giới chúng sinh bởi vì giới có cả hai nghĩa, khiến cho giữ lấy cảnh nên nói là tiểu phần, tức là tùy nơi những lợi ích của chúng sinh mà hiện bày các thứ thân, tức là tùy theo nơi đó mà vì đó hiện thân.

Cùng xứ tương ứng, không đợi thời tương ưng, thuộc về Tam-muội tự tại, hành tương ứng tức thuộc về tâm tự tại.

Trong luận Nhiếp Đại Thừa quyển chín chép: “Lại nữa, Pháp thân do mấy thứ lớp tại mà được tự tại, sơ lược do năm thứ:

  1. Do cõi Phật, tướng tốt tự thân, vô biên âm thanh, vô kiến đảnh tướng tự tại, bởi vì chuyển đổi theo Sắc uẩn.
  2. Do không tội lỗi, rộng lớn vô lượng, lạc trú tự tại, bởi vì chuyển đổi theo Thọ uẩn.
  3. Do biện thuyết tất cả danh thân, cú thân, văn thân tự tại, bởi vì chuyển đổi theo Tưởng uẩn.
  4. Do hiện hóa, biến đổi dẫn nhiếp đại chúng, dẫn nhiếp tự pháp tự tại, do chuyển đổi theo Hành uẩn.
  5. Do viên cảnh, bình đẳng, quán sát, thành sở tác trí tự tại, do chuyển đổi theo Thức uẩn”. Giải thích rộng như trong luận ấy.

Văn kinh: Năng lực tự tại nên tùy ý chúng sinh, tùy hạnh chúng sinh, tùy cõi chúng sinh thảy đều biết rõ.

Tán rằng: Rõ cảnh biết ý, biết tâm thể. Hoặc là thắng giải biết hạnh chúng sinh, biết hạnh khác nhau, hoặc nghiệp, hoặc chúng sinh thú hướng cùng khắp. Hành chúng sinh giới tức là các loại tánh, đều có khả năng biết rõ.

Văn kinh: Không đợi thời, không quá thời, xứ tương ứng, thời tương ứng, hành tương ứng, nói pháp tương ứng, hiện bày các thứ thân.

Tán rằng: Giáo hóa chúng sinh. Không đợi thời là căn tánh chúng sinh thành thục nên lập tức hiện thân nói pháp không chọn lựa thời tiết. Không quá thời nghĩa là không vượt qua thời gian Ứng Hóa này. Xứ tương ứng v.v… là Như lai nói pháp lìa tứ phi, xứ tương ứng là lìa phi xứ, thời tương ứng là lìa phi thời, hành tương ứng là lìa phi cơ, nói pháp tương ứng là lìa phi pháp, nghĩa là ứng với xứ này, thời này, các căn tánh này, nên dùng pháp này chắc chắn tương ứng. Hiện các thứ thân tức là tám tướng, hoặc hiện bày thân Phật hiện tại và sau khi Niết-bàn. Không nói: Bởi vì biết bao ý của đệ tử nên hiện bày các thứ tướng. Trong bốn câu này nên nói: Hiện tại và sau khi Niết-bàn, dùng nguyện tự tại tùy duyên lợi ích, đó gọi là Hóa cho nên gọi chung là các thứ thân.

Văn kinh: Đó gọi là Hóa thân. Đó gọi là Hóa thân là kết thúc cả hai.

Văn kinh: Này người thiện nam! Vì sao nói Bồ-tát hiểu rõ Ứng thân?

Tán rằng: Nói về Ứng Phật trong toàn văn cũng có ba phần. Đây là bắt đầu hỏi.

Văn kinh: Nghĩa là các Đức Như lai muốn cho các Bồ-tát được thông suốt nên nói về Chân-đế.

Tán rằng: Trả lời dưới đây. Trong trả lời lẽ ra phải có Tu Nhân. Vì trong Hóa thân nói về Tu nhân cho nên ở đây lượt bỏ không nói, phỏng theo mà hiển bày, là vì câu chung cho nên cần phải phân ra giữ lấy văn đó. Nay chỉ nói về quả, trong quả chia làm hai:

Đầu tiên là nói pháp, sau đó hiện thân. Đây là nói pháp. Trong nói pháp có hai phần:

  1. Lợi sinh.
  2. Lợi pháp.

– Trong phần một có ba mục:

  1. Nói về cảnh Chân-đế.
  2. Nói về quả Niết-bàn.
  3. Nói về nhân sở hành.

Bởi vì trước tiên nói về cảnh khiến cho thông suốt cảnh đó, thông chân đạt chân tục.

Tiếp theo nêu rõ quả đó khiến cho người đó ưa thích mong cầu, sau cùng khiến cho dứt trừ chướng ngại, tu nhân khắc chứng. Đây là nói về cảnh. Cảnh là các Đức Như lai nói về người năng thuyết, các Bồ-tát rõ ràng là sở bị cơ, được thông suốt cho nên hiểu rõ ý nói. Nói Chân-đế là nói về sở thuyên, là khiến cho Bồ-tát phát khởi trí căn bản, chung khởi trí hậu đắc. Nói về Chân-đế là nói theo tối thắng, lý thật cũng là nói về tục đế, bởi vì chân, tục nương nhau mà kiến lập. Hoặc ở đây lại nói theo hai thứ nhân, pháp, ngoài ra đối với cái biết của Bồ-tát gọi là chân, đối với các ngã, pháp gọi là chân.

Văn kinh: Vì giúp cho hiểu rõ sinh tử, Niết-bàn là đồng một vị.

Tán rằng: Nói về quả. Quả chia làm hai thứ: Hữu vi và Vô Vi. Vô vi là gốc nên chỉ nói về nó. Quả chia làm bốn thứ, tức là bốn Niết-bàn. Tự tánh thanh tịnh không do đoạn chứng cho nên không nói, hoặc tức là thuộc về Chân-đế, hữu dư vô dư có cả ba thừa, chẳng phải tối thắng vì thế cũng lược bỏ không nói. Chỉ có vô trụ xứ là riêng Đại thừa đạt được, có lợi ích chúng sinh tốt đẹp, cho nên trong quả chỉ nói về loại này, nghĩa như trước đã giải thích.

Văn kinh: Vì dứt bỏ thân kiến, chúng sinh sợ hãi vui mừng.

Tán rằng: Nói về trừ chướng tu nhân. Bởi vì từ vô thỉ bị ngã kiến trói buộc do đó không thể hiểu rõ. Nếu như có thể hiểu rõ về sinh tử thì lại sinh sợ hãi, đối với Niết-bàn sinh ra ưa thích không thể lợi ích tất cả, lại vì ngã chấp là gốc của các chướng. Nhưng ngã kiến này tuy có cả hai thức sáu và bảy mà ý là trừ thức thứ quyển bảy, vì chướng ngại cho vô trụ thắng, lại là gốc của đắm nhiễm. Cho nên trong luận Thành Duy Thức giải thích về bình đẳng trí rằng: “Trí diệu quán sát kiến lập từ bất cộng, sở ý, vô trú, Niết-bàn, một vị nối nhau, cùng tận mé vị lai”.

Văn kinh: Vì vô biên Phật pháp mà làm cội gốc.

Tán rằng: Đây là lợi pháp. Ý lợi sinh là làm cho pháp tồn tại lâu dài cho nên nói: Làm cội gốc.

Văn kinh: Như thật tương ứng, Như như, Trí như như, bổn nguyện lực cho nên thân đó được hiện bày.

Tán rằng: Dưới đây là hiện thân có hai: Đầu tiên là hiện thân, sau đó nói về trang nghiêm. Đây là hiện thân. Nói Như thật tức là chân như. Tương ứng là năng chứng sở chứng, đều không còn hai. Thủ là tương ứng, tương ứng nghĩa là tương tự. Đây là câu nêu chung, như như, trí như như là câu nêu riêng. Chân tánh hai không gọi lặp là Như như, trí thấu đạt hai Không gọi là Trí như như. Vì năng lực Bổn nguyện là nói về lý do hiện thân. Trí như và cảnh Như đều không còn phân biệt, nhân đâu mà hiện thân? Nhân nơi năng lực bổn nguyện.

Thành Duy Thức chép: “Do ngày xưa tương ứng hạnh lợi tha, thành tựu nhân duyên cõi Phật thanh tịnh vô lậu v.v…”. Cõi đã do ngày xưa, hiện thân cũng giống như vậy.

Hỏi: Ứng thân này trong hai thân thọ dụng là thuộc về thân nào?

Đáp: Tha thọ dụng thân.

Hỏi: Làm sao biết được?

Đáp: Sơ lược có bốn điều chứng minh:

1. Văn này nói “Do như như, trí như như bổn nguyện lực, cho nên thân này có thể hiện rõ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vì như tự thọ dụng công đức tướng tốt thảy đều vô biên”.

2. Ở dưới nói: “Hai thân giả danh không thật, niệm niệm sinh diệt, bất định trú nên lần lượt xuất hiện, vì thế Tự thọ dụng không lần lượt xuất hiện”.

3. Dưới lại nói: “Thân Phật thứ hai vì ứng theo một ý của đệ tử cho nên hiện bày một tướng; Tự thọ dụng thân không đối với đệ tử”.

4. Dưới chép: “Ứng thân, chẳng phải Hóa thân là thân Địa tiền”.

Hỏi: Nếu là Tha thọ dụng vì sao nói “Dưới nói Ứng thân”, từ vô thỉ đến nay nối nhau không đứt quãng, tất cả các pháp bất cộng của các Đức Phật có thể nhiếp trì, chúng sinh vô tận, dụng cũng vô tận, thân tha thọ dụng đã thị hiện diệt độ, làm sao có thể nói vô thỉ nối nhau có thể nhiếp trì các pháp bất cộng?

Đáp: Nói nối nhau là nói theo phần nhiều, không giống như Hóa thân qua trăm ngàn kiếp mới xuất hiện một lần. Các Hóa thân trong văn cũng nói là “thường xoay bánh xe pháp”, há thường còn không diệt độ hay sao?

Hỏi: Nếu vậy thì Tự Thọ dụng há không phải là ba bất nhiếp ư?

Đáp: Không phải ba bất nhiếp, vì đó là Pháp thân.

Hỏi: Làm cho biết được?

Đáp: Đến trong phần Pháp thân sẽ dẫn chứng nói rộng hơn.

Văn kinh: Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vầng ánh sáng tròn sau lưng.

Tán rằng: Nói về trang nghiêm.

Hỏi: Nếu là Tha thọ dụng thì tướng tốt phải nhiều, vì sao chỉ nói ba mươi hai tướng v.v…?

Đáp: Tha thọ dụng thân có hai thứ:

  1. Thân ở địa vị bốn gốc lành nhìn thấy.
  2. Thân do Bồ-tát Địa thượng nhìn thấy.

Nay ở đây chỉ nói đến thân ở địa vị bốn gốc lành nhìn thấy.

Hỏi: Nơi khác thường nói: “Vì Địa tiền hiện bày gọi là Hóa thân”, đâu gọi là thọ dụng?

Đáp: Vì Địa tiền hiện bày gọi là Hóa thân là nói về thân mà người trong ba thừa cùng thấy, không phải cái thấy của người bốn gốc lành và Bồ-tát. Nếu không phải là Địa tiền vì sao ở dưới chép: “Ứng thân chẳng phải Hóa thân là thân Địa tiền”.

Hỏi: Do đâu biết được thân Phật thấy được ở địa vị bốn gốc lành không phải là thân mà ba thừa cùng thấy?

Đáp: Theo kinh Phạm Võng Bồ-tát Giới chép: “Nay ta là Lô-xána, đang ngồi đài hoa sen, ngàn cánh hoa xung quanh, lại hiện ngàn Thích-ca, một hoa trăm ức nước, mỗi nước một Thích-ca, đều ngồi cây Bồ-đề, cùng lúc thành Phật đạo”. Đã nói trên ngàn hoa lại hiện rõ ngàn vị Thích-ca, một hoa có trăm ức cõi nước, mỗi cõi nước có một Đức Thích-ca; nếu không phải cái thấy của hàng bốn gốc lành và Bồ-tát, thì có thân nào nói là ngàn vị Thích-ca?

Hỏi: Lô-xá-na này là Địa nào thấy?

Đáp: Có chỗ nói: Thân của Bồ-tát Sơ Địa nhìn thấy. Nay giải thích: Đây là thân của Bồ-tát Nhị Địa nhìn thấy:

  1. Nói là Giới Ba-la-mật.
  2. Nói là ngàn trăm ức cõi. Hoặc Bồ-tát Sơ Địa thấy “trăm ức” mà không thấy “thiên”.

Hỏi: Thập Địa, Du-già chép: “Nếu lúc tác ý thì thấy vô biên cõi nước” sao không thể nói “ngàn trăm ức cõi nước”. Nếu vậy vì sao nói “Bồ-tát Sơ Địa được thập bách môn?”?

Đáp: Nếu nói y theo tác ý thì ứng vô lượng cõi, đâu chỉ là ngàn trăm ức, huống gì lại là Bồ-tát Nhị Địa được trăm ngàn môn? Nay nói trăm ngàn ức, chính là tương đương với nhau, đâu nhọc gì phải hiểu khác.

Văn kinh: Đó gọi là Ứng Thân.

Tán rằng: Kết thúc.

Văn kinh: Này người thiện nam! Vì sao Bồ-tát Ma-ha-tát hiểu rõ Pháp thân?.

Tán rằng: Nói về Pháp thân. Văn có ba phần như trước. Đây là mở đầu, hỏi.

Văn kinh: Vì dứt các phiền não, các chướng, vì đầy đủ các pháp lành.

Tán rằng: Chính thức giải thích có hai phần: trước nói về những việc làm, sau nói về thân đạt được.

Đây là mở đầu.

Cần phải nói đến Tu nhân, văn lược bỏ không nói, như trước đã giải thích. Pháp thân này có hai thứ:

  1. Tự Tánh Pháp thân.
  2. Công đức Pháp thân.

Nay bao gồm cả hai. Vì dứt các phiền não, các chướng, rõ ràng là đạt được tự tánh Pháp thân. Vì đầy đủ các pháp lành cho nên nói là đạt được công đức tự tánh Pháp thân. Tức là tịnh pháp giới bốn trí tâm phẩm gọi chung là Pháp thân. Năng chứng, sở chứng hợp lại gọi là Pháp thân. Phật Giả, Phật Thật hai loại có khác nhau, chia ra Ứng Hóa. Không như thế thì nhóm hợp Ứng, Hóa cũng gọi là Pháp thân, vì vậy Thành Duy Thức chép: “Pháp thân như vậy có ba tướng khác nhau”.

Văn kinh: Chỉ có Như như, Trí như như đó gọi là Pháp thân.

Tán rằng: Nói về đạt được Pháp thân. Như như tức là tự tánh Pháp thân. Trí như như tức là bốn trí tâm phẩm. Tuy về sự thì trí phẩm không duyên theo chân như, bởi vì lìa năng sở thủ, do trí như như khởi nên gọi chung là trí như như. Do đó tiếp theo ở dưới nói rằng “cho nên pháp như như, trí như như gồm nhiếp tất cả Phật pháp”, nếu chỉ là Như thì không thâu nhiếp tất cả. Lại giải thích: Hóa thân như trước, Ứng thân xuyên suốt thâu nhiếp hai thân Tự thọ dụng và Tha thọ dụng; Pháp thân chỉ là Tự Tánh chân như. Nói Như như tức là Như thật tướng Bát-nhã.

Còn luận Đại Trang Nghiêm và Tam tạng Chân-đế nói có bốn giác: “

  1. Ứng giác, tức là chân như.
  2. Chánh giác, tức là trí tuệ.
  3. Giác phần tức là nhân Bồ-đề.
  4. Linh giác tức là Giáo năng thuyên”.

Giới hạn (biên) các pháp thể gọi là Như như, giới hạn trí tánh gọi là trí Như như. Cho nên văn dưới nói “Ứng thân từ vô thỉ đến nay nối nhau không đứt quãng, thường nhiếp trì tất cả pháp bất cộng của các Đức Phật, chúng sinh vô tận, dụng cũng vô tận, vì thế nói Thường v.v…”. Rõ ràng cũng chung với thân Tự thọ dụng.

Ở dưới nói: “Pháp thân chẳng phải hành pháp, không có tướng khác nhau, vì đó là căn bản giống như hư không, cho nên nói là Thường”. Đã nói chẳng phải là hành pháp thì rõ ràng chẳng phải bốn trí, vì bốn trí sinh diệt là hành pháp. Lại giải thích: Theo văn trên dưới và Nhiếp Đại Thừa v.v… thì nói chugn tức như trước đã giải thích, nay trong kinh này giải thích chung cả hai nghĩa. Nếu trong bốn câu v.v… tức là phần khác của Tự thọ dụng và Tha thọ dụng mà rõ ràng bốn câu không như thế, Ứng thân không phải Hóa thân đó là thân Địa tiền, Hóa thân cũng Ứng thân nghĩa là thân trụ nơi Niết-bàn hữu dư. Hoặc Tự thọ dụng không gọi là Hóa thân, cho nên Tự thọ dụng đồng gọi là Pháp thân. Vì chỗ này văn dưới chép: “cho nên Pháp thân là do tuệ thanh tịnh, là do diệt thanh tịnh, đó là hai thanh tịnh, vì thế cho nên Pháp thân đầy đủ thanh tịnh”. Hoặc cả hai Trí, Lý hợp lại gọi là Pháp thân tức là Tánh Tướng hợp luận môn. Hoặc chỉ lấy Như gọi là Pháp thân tức là Tánh Tướng luận riêng môn. Hoặc Tự thọ dụng thuộc về Ứng thân, tức là Giả Thật Tự Tha thọ dụng nhị hợp luận môn. Hoặc Ứng thân chỉ là thân Tha thọ dụng, tức Giả Thật luận riêng môn. Vì vậy biết rằng nghĩa của các thuyết không trái nhau.

Văn kinh: Hai loại thân trước là giả danh mà có, thân thứ ba này là chân thật mà có, làm cội gốc cho hai thân trước.

Tán rằng: Dưới đây là các môn phân biệt, có chín môn: Thứ nhất Giả: Thật phân biệt môn, Nhị lợi phân biệt môn, Hữu dư vô dư đẳng phân biệt môn, Trị chướng phế lập môn, Tam thủ đồng biệt môn, Nhất đa phân biệt môn, Năng sở tương y môn, Thường vô thường môn, và Tứ cú phân biệt môn. Ngay nơi giả thật này văn chia làm năm:

  1. Tiêu.
  2. Thích.
  3. Trưng.
  4. Giải.
  5. Kết.

Đây là văn hai phần đầu. Vì làm cội gốc hai thân trước, y theo trước giải thích về ba thân, Pháp thân đồng thời thuộc về trí, tức là phân biết rõ Biến Hóa thân về Tha thọ dụng, là giả danh Phật do Biến hóa khởi lên. Lấy Như làm gốc, từ trí biến khởi, cho nên làm cội gốc cho hai thân trước. Hoặc dựa vào Pháp thân chỉ thâu nhiếp như như, trí như như, là gốc không từ nơi khác khởi, cho nên được gọi là Thật. Ứng thân nương vào pháp mà khởi, Hóa thân nương vào ứng thân mà khởi, vì vậy hai thân trước đều là giả có.

Văn kinh: Vì sao như vậy?.

Tán rằng: Nêu câu hỏi. Vì lý do gì mà Pháp thân nương vào hai thân đó?

Văn kinh: Bởi lìa pháp như như, lìa trí vô phân biệt thì tất cả các

Đức Phật không có pháp khác.

Tán rằng: Giải thích. Trước trở lại giải thích, tiếp theo lần lượt thành tựu.

Đây là mở đầu.

Văn kinh: Tất cả các Đức Phật đầy đủ trí tuệ, tất cả phiền não diệt sạch tận cùng, đạt đến Phật địa thanh tịnh.

Tán rằng: Lần lượt thành tựu. Kinh Thắng-man chép: “Ở trong ràng buộc gọi là Như lai tạng, ra khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân”. Nay ở đây nói trí tuệ đầy đủ, tức là Trí như như, diệt sạch tất cả tức là Pháp như như; vì vậy có đủ hai thứ.

Văn kinh: Cho nên pháp như như, trí như như, thâu nhiếp tất cả Phật pháp.

Tán rằng: Kết thúc thành tựu. Có thể biết Pháp thân tịnh diệu của Như lai lại tức là chân như, là chỗ nương của ngộ, mê, cho nên là hai gốc.

Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Tất cả các Đức Phật lợi ích Tự, Tha đến chỗ rốt ráo.

Tán rằng: Thứ hai – Nhị lợi phân biệt môn. Trong đó có hai phần:

  1. Phân biệt rõ hai lợi ích.
  2. Này người thiện nam! Vì sao nói pháp như như trở xuống là giải thích tình ý nghi ngờ.

Trong phần một lại có hai: Đầu là pháp, sau là dụ.

Trong pháp có ba: trước tiên nêu ra, kế đến giải thích, sau cùng kết thúc. Đây là nêu ra. Nói lợi ích Tự, Tha đến chỗ rốt ráo ấy tức là từ Tự lợi cho đến Phật vị gọi là rốt ráo. Có hàng ba thừa khiến cho đạt được quả rốt ráo, người vô tánh thì đồng với cùng tận, không nhập Niếtbàn mà mà vì đó lợi ích cũng gọi là rốt ráo.

Văn kinh: Tự lợi ích là pháp như như, Tha lợi ích là trí như như.

Tán rằng: Giải thích. Đầu tiên giải thích về hai lợi ích, sau đó giải thích lý do.

Đây là mở đầu.

Như như ngưng tụ vắng lặng phần nhiều là tự lợi, như trí khởi động tác dụng phần nhiều là lợi tha. Trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Nếu lấy Pháp thân làm Ứng thân Phật, thì có nghĩa chúng sinh không có lợi ích; nếu đem Ứng thân làm Pháp thân Phật, thì có nghĩa hiện đời không có an vui”.

Hỏi: Các thuyết về hại lợi có ba điểm khác nhau:

1. Luận Tạp Tập chép: “Hai lợi Tự Tha là sở y chỉ”, Duy Thức cũng thế: “Tự Tánh Pháp thân chính là chỉ có Tự lợi cũng bao gồm lợi tha, có cả hai lợi. Tự thọ dụng biến hóa là Sở y chỉ, Tự thọ dụng thân là Tự lợi, Tha thọ dụng biến hóa là Lợi tha, là vì người khác hiện bày”.

2. Kinh Vô Thượng Y và luận Bảo Tánh chép: “Pháp thân là Tự Lợi; Ứng, Hóa thân là lợi tha”.

3. Kinh này vì sao như thế?

Đáp: Tạp tập và Duy Thức chép: Tự Tánh Pháp thân chung cho hai lợi là dựa vào tất cả lý mà luận. Vô Thượng Y và Bảo Tánh là y theo Tự Tánh Pháp thân chính dụng, nên nói rằng Tự lợi, Ứng, Hóa lợi tha là dựa vào Tha thọ dụng gọi là Ứng Phật, vì vậy đều là Lợi tha. Như như trong kinh này đồng với kinh Vô Thượng Y. Trí như như lợi tha dựa theo Bình đẳng tánh và thành sự trí khởi lên hai thân Phật Tha thọ dụng và Biến hóa, nên nói là lợi tha. Luận Tạp Tập chép: “Ứng thân là tự lợi” đó là nói theo Tự thọ dụng gọi là Ứng thân. Luận Thành Duy Thức y theo Ứng thân có cả hai thọ dụng, do đó trở thành hai lợi, y theo một nghĩa đều không trái phạm nhau.

Hỏi: Lợi ích người khác là trí như như sao không nói là Ứng, Hóa?

Đáp: Có hai cách giải thích:

1. Nói rằng: Đưa ra Thể năng biến là hai trí, là thể lợi tha; thân sở khởi chỉ là sắc, vì cái dụng lợi tha do đó không bàn đến. Các luận như Duy Thức v.v… nói Tha dụng, Biến hóa gọi là Lợi tha, là y theo dụng mà nói về sở biến. Kinh Đại phẩm Bát-nhã chép: “Hóa Phật là vô tâm vì sao nói nghĩa phân biệt phá hoại các pháp, phá hoại sự mở bày”. Hoặc hai thân này là quả trí ấy nói về danh trí ấy, thật là Ứng, Hóa, nếu không như vậy thì ở phần dụ sau có đôi chút không giống nhau.

2. Nói rằng: Đây là y theo bốn trí cũng là Pháp thân, chân như nội tịch nói là tự lợi, trí có ngoại dụng, nói là lợi tha. Không nói về Ứng, Hóa nghĩa giống như thuyết trước.

Văn kinh: Có thể ở nơi sự lợi tha của tự tha mà đạt được tự tại, thành tựu các thứ công dụng vô biên.

Tán rằng: Giải thích lý do. Do ba thân này đối với lợi ích tự tha đều được tự tại, đều thành tựu các thứ công dụng vô biên. Vì vậy, trong luận Thành Duy Thức chép: “Như thế ba thân tuy đều đầy đủ công đức vô biên nhưng đều có sự khác nhau”. Nói “Mà đạt được tự tại”, tự tại có ba thứ, như luận Tạp Tập mười hai chép: “Y chỉ tự tại tu tập cũng có ba thứ:

  1. Thân tự tại, tức là tự tánh thân và thọ dụng thân.
  2. Hành tự tại, tức là Biến Hóa thân.
  3. Thuyết tự tại, nghĩa là thường nói về sáu Ba-la-mật v.v…”.

Đã duyên đây, mong cầu đây, y chỉ đây, mong cầu đây, cho nên biết thân Phật có ba tự tại, vì thành tựu vô biên công dụng của hai lợi tự- tha.

Văn kinh: Vì thế cho nên phân biệt tất cả Phật pháp có vô lượng, vô biên các thứ khác nhau.

Tán rằng: Kết thúc. Tất cả Phật pháp tức là ba thân Phật. Kinh Đại Phẩm chép: “Ra khỏi ba cõi cho nên vô lượng, vượt quá mười phương do đó vô biên”. Nghĩa của dụng rất nhiều gọi là các thứ khác nhau.

Văn kinh: Này người thiện nam! Giống như y chỉ vào vọng tưởng suy nghĩ nói về các thứ phiền não, nói về các thứ nghiệp dụng, các thứ quả báo.

Tán rằng: Dưới đây nương vào thí dụ mà hiển bày có hai: Đầu tiên hai dụ là dụ cho hai lợi, tiếp đó một hiển bày sự trang nghiêm. Phần đầu lại chia hai: Trước một dụ hợp hiển bày công dụng lợi tha, như Kinh Pháp Hoa chép: “Trong hai mươi mốt ngày suy nghĩ việc như vậy”. Nói vọng tưởng là dụ cho Thật không suy nghĩ mà giả khởi suy nghĩ. Nói các thứ phiền não dụ cho Hóa thân, vì Nhị thừa nói về các thứ phiền não. Các thứ nghiệp là dụ cho khởi lên Ứng thân vì hàng Bồ-tát nói về các thứ nghiệp. Các thứ quả báo là dụ cho khiến người khác đã nghe pháp rồi đạt được quả thế gian và xuất thế. Hoặc dụ này nói về dứt trừ ba chướng, do đó thành tựu ba thân. Nói về các thứ phiền não khiến đạt được Ứng thân, nói về các thứ nghiệp khiến đạt được Hóa thân, nói về các báo khiến đạt được Pháp thân. Vì vậy văn dưới chép: “Hoặc chướng thanh tịnh thường hiện bày Ứng thân, nghiệp chướng thanh tịnh thường hiện bày Hóa thân, trí chướng thanh tịnh thường hiện bày Pháp thân”. Quả báo thuộc về trí chướng. Tuy trong luận Phật Địa nói hai chướng đều có nghiệp sở phát và quả sở đắc, nay nói quả báo là dựa vào thói quen, hoặc là quả báo không còn thói quen mới hết.

Lại giải thích: Theo toàn văn ở dưới, nói về các thứ phiền não là dụ cho Đại thừa, vì Đại thừa là dư nghiệp sẵn có, dường như có nghi ngờ, có nghiệp quả. Nghiệp quả như kế sau dụ cho hàng Độc giác, Thanh văn, trên có thể thay đổi dưới, như Duyên giác thừa hóa độ Thanh văn. Quả báo dụ cho Thanh văn thừa. Nhưng lúc Độc giác thừa sắp đạt được quả thì không cần ngôn giáo. Sơ giải của Phát tâm trong tu hành vị chắc chắn nhờ đến ngôn giáo, vì thế trong kinh Pháp Hoa đều nói rằng “Từ Phật nghe pháp”. Sơ giải dụ cho hiện thân, thứ giải dụ cho khiến đạt được thân, hậu giải dụ cho nói pháp cho người khác nghe. Đã quyết định là dụ cho lợi tha, ở đây giải thích tất cả lý lẽ. Trình bày rộng về lợi, dụng tức là có cả ba cách giải thích. Lại giải thích: Dụ hai lợi, dụng là chung, và dụ cho lợi tha tức là riêng, do đó có cả ba cách giải. Nhưng trong toàn văn chỉ hợp với lợi tha nói pháp, còn lại lượt bỏ mà không hợp.

Văn kinh: Như thế, dựa vào pháp như như, dựa vào trí như như nói về các thứ Phật pháp, nói về các thứ Độc giác, nói về pháp Thanh văn.

Tán rằng: Pháp hợp. Người trong ba thừa căn tánh ý thích tất cả mọi thứ thảy đều khác nhau. Trong phương tiện vị thì chủng tánh, hành giải, thú nhập đều khác nhau, vì vậy nói rằng “các thứ Phật pháp”.

Văn kinh: Nương vào pháp như như, nương vào trí như như, tất cả Phật pháp tự tại thành tựu đó là bậc nhất không thể suy nghĩ bàn luận.

Tán rằng: Dưới là dụ hợp. Hiển bày dụng về tự lợi chia làm ba:

đầu là pháp, tiếp đó là dụ, sau cuối là hợp.

Đây là mở đầu.

Hỏi: Trong dụ về lợi tha sao không nêu pháp trước, tiếp đến dụ, sau cuối mới là hợp?

Đáp: Vì pháp ở trước bỏ nên nói gần hơn, đồng thời lại giản lược. Nay ở đây là vì xa rộng hơn, cho nên trước tiên phải là pháp, tiếp theo dụ sau cùng là hợp.

Hỏi: Trong tự lợi ở trước chỉ nói tự lợi, đó là pháp như như, vì sao ở đây dụ về dụng của tự lợi đều là trí như như?

Đáp: Trước đây y theo ngưng tịch, pháp như như tự lợi thêm chỉ nói như như, nay nói bao gồm cả lợi tha, trí như như cũng vậy. Lại nữa, trước đây y theo trí như như vì dụng người khác hiện thân nói pháp cho nên thuộc về lợi tha, ở đây y theo đoạn chướng nội chứng như như, tức là tự lợi, do đó không trái nhau, có giải thích ở phần kết trước, nghĩa cũng không trái.

Văn kinh: Giống như vẽ hư không để làm vật trang nghiêm thật khó mà nghĩ bàn.

Tán rằng: Dưới đây là dụ về trang nghiêm nêu ra dụ. Vẽ hư không để làm vật trang nghiêm như hư không không có tướng, vật trang nghiêm cũng không có tướng cho nên thật khó nghĩ bàn. Như như dụ cho hư không, trí như như dụ cho vẽ, hoặc như như là tánh, trí như như nghĩa là công đức, công đức trang nghiêm hư không đều là vô tướng, thật khó nghĩ bàn.

Văn kinh: Như thế nương vào pháp như như, nương vào trí như như thành tựu Phật pháp cũng khó nghĩ bàn.

Tán rằng: Đưa ra pháp hợp. Như thế nương vào như như và nương vào trí như như thành tựu Pháp thân Phật pháp. Hoặc như như là tánh, trí như như nghĩa là công đức nghĩa. Công đức nghĩa chính là Pháp thân, nương vào Như mới có cho nên hợp cả hai để trình bày. Hoặc như Tam tạng Chân-đế giải thích: Dụ vẽ hư Không ở trước và nêu ra pháp ở trước đều là ngoại nghi, nghi rằng: Như như và trí đều không phân biệt, vì sao đạt được Ứng, Hóa nói lợi, giống như vẽ hư không trở thành vật trang nghiêm, rất là khó hiểu khó tin. Nghĩa cũng không trái.

Văn kinh: Này người thiện nam! Vì sao nói Pháp như như, trí như như cả hai không có phân biệt mà được tự tại thành tựu sự nghiệp?.

Tán rằng: Dưới đây giải thích tình ý nghi ngờ, có hai: Đầu tiếp tục nghi ngờ, sau thí dụ giải thích. Đây là tiếp tục nghi ngờ. Nghi ngờ có hai người:

  1. Người xuất thế nghi.
  2. Người thế gian nghi.

Lại là người học và người không học, cả hai người đều nghi ngờ.

Văn kinh: Này người thiện nam! Giống như Như lai nhập Niếtbàn, vì nguyện tự tại cho nên tất cả sự nghiệp đều đạt được thành tựu.

Tán rằng: Dưới đây thí dụ để giải thích, có bốn thí dụ: hai dụ đầu là người xuất thế, hai dụ sau là người thế gian. Vì người xuất thế đầu tiên đưa ra thí dụ Phật diệt độ, không có phân biệt mà thường lợi tha; sau đó đưa ra thí dụ “Liệt huống gì là thắng”. Văn phần đầu có hai: Trước dụ, sau hợp. Đây là nêu ra thí dụ. Đưa ra hàng Nhị thừa ý là giải thích về Niết-bàn, nghĩa là Phật nhập diệt thì thân, trí không còn, cho nên đồng với Như như vô tướng, tin sau khi diệt độ thì sự nghiệp hóa độ được thành tựu. Giống như sau khi Niết-bàn lại khởi kim quan là hiện bày có đủ hai loại. Xá-lợi biến hóa các loại sự nghiệp nên đều được hiện bày, vì thế nêu ra làm thí dụ.

Văn kinh: Pháp như như, trí như như tự tại, thành tựu sự nghiệp cũng giống như thế.

Tán rằng: Pháp hợp có thể biết.

Văn kinh: Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát vào định vô tâm nương theo nguyện lực trước đây, từ thiện sinh ra thực hiện nhiều sự nghiệp.

Tán rằng: Thứ hai nêu ra thí dụ “Liệt huống gì là thắng”. Văn cũng có hai, đó là dụ và hợp.

Đây là mở đầu.

Bồ-tát diệt định, sáu thức không còn hiện hành nên không có phân biệt, cũng có các thứ sự nghiệp biến hóa.

Hỏi: Vì sao không nêu thí dụ về hàng Nhị thừa kém cỏi?

Đáp: Nhị thừa vào diệt định không thể sinh ra sự nghiệp. Kinh Vô Cấu Xưng hai chép: Vô Cấu trách Xá-lợi-phất rằng: “Người ngồi an nhàn kia, không khởi diệt định mà hiện bày các oai nghi, đó là hạng ngồi an nhàn”. Nghĩa của định diệt tận rộng như các kinh luận khác có phân biệt rõ. Diệt định dụ cho như như, tiền nguyện dụ cho bổn nguyện, tạo tác sự nghiệp dụ cho nghiệp dụng của Ứng, Hóa.

Văn kinh: Hai pháp như thế không còn phân biệt, tự tại thành tựu sự nghiệp.

Tán rằng: Hợp. Diệt định và sự nghiệp sinh ra, cả hai không còn phân biệt, sự nghiệp Hóa tha được tự tại thành tựu. Lại giải thích: Như vào diệt định tuy không còn phân biệt, nhưng được thành tựu hai sự nghiệp Ứng, Hóa. Lại giải thích: Hợp với pháp trước, trí như như không có phân biệt, tự tại thành tựu sự nghiệp. Theo ý vặn hỏi trước đây, ở đây giải thích là thắng, vì trước đây nghi rằng: Vì sao pháp như như, trí như như cả hai không còn phân biệt, sự nghiệp thành tựu, nay lại hợp như vậy?

Văn kinh: Này người thiện nam! Giống như mặt trăng, mặt trời không có phân biệt, cũng như nước, gương không có phân biệt, ánh sáng cũng không phân biệt, ba thứ hòa hợp có được hình ảnh sinh động.

Tán rằng: Dưới đây là dứt nghi ngờ của người thế gian không học, cũng có hai thí dụ: Đầu tiên nêu dụ về hữu thể, tuy không còn phân biệt nhưng có hình ảnh phát sinh, sau đó nêu dụ về vô thể, cho dù không còn phân biệt, cũng có hình ảnh phát sinh. Hai dụ trước cũng giống như vậy. Đã nhập Niết-bàn là nêu ra vô thể, nhập diệt định rồi là nêu ra hữu thể. Ở đây trong hữu thể có đầu dụ sau hợp, đây là dụ. Tam tạng Chânđế chép: “Mặt trời, mặt trăng dụ cho như như, nước, gương dụ cho bổn nguyện từ bi, ánh sáng dụ cho trí như như, hình ảnh dụ cho Ứng, Hóa thân”. Ở đây lại giải thích rằng: Theo văn hợp ở dưới, đã nói vì nguyện tự tại nên chúng sinh có cảm mà hiện bày thân Ứng, Hóa, dùng nước hiện bày ảnh, dụ cho pháp như như, tương ưng với định nguyện lực, dùng gương sinh ra ảnh dụ cho căn cơ chúng sinh, mặt trời, mặt trăng dụ cho pháp như như, ánh sáng dụ cho trí như như.

Theo luận Nhiếp Đại Thừa: Nước dụ cho chúng sinh có tánh nhuận hoạt Tam-ma-địa, do đó hiện bày những hình ảnh mặt trời, mặt trăng, tức là nước, gương cả hai đều dụ cho căn cơ chúng sinh, tức là mặt trời, mặt trăng dụ cho pháp như như, trí như như, ánh sáng dụ cho bổn nguyện. Tuy không còn phân biệt nhưng do bổn nguyện và lực cảm ứng của chúng sinh, cho nên có Ứng, Hóa”. Như vậy theo kinh nói: “Cũng như nước, gương không có phân biệt”. Tức giải thích về Thắng trước đó. Theo văn Hợp ở dưới nói: “Vì nguyện lực tự tại nên chúng sinh có cảm ứng”, tức giải thích về Thắng sau này, tùy ý lấy bỏ.

Văn kinh: Pháp như như, trí như như như thế cũng không có phân biệt, vì nguyện tự tại cho nên chúng sinh có cảm thân Ứng, Hóa hiện bày, như hình ảnh mặt trời, mặt trăng hòa hợp mà xuất hiện.

Tán rằng: Hợp.

Kinh Lại nữa, này người thiện nam! Giống như vô lượng, vô biên nước, gương, dựa vào ánh sáng cho nên hình ảnh hư không hiện bày các tướng khác nhau.

Tán rằng: Nêu thí dụ hư không vô thể. Đầu tiên nêu dụ trình bày, sau đó giải thích theo nạn. Nước, gương dụ cho căn cơ hữu tình, dựa vào ánh sáng dụ cho bổn nguyện lực, hư không dụ cho pháp như như, trí như như, hình ảnh hiện bày là thân Ứng, Hóa từ bổn nguyện lực, ánh sáng hợp với hư không là các pháp như như v.v… Ứng, Hóa hiện bày là vì các sự nghiệp lợi tha. Hoặc nói: “Hình ảnh hư không hiện bày giống như không có mây mù che lấp hư không, nhờ vào nước, gương mà được hiện bày hình ảnh. Nói hình ảnh hư không là hư không thế tục, cái thấy về bầu trời trong xanh; bầu trời trong xanh hiện rõ hình ảnh trong nước, gương. Hư không không có màu xanh, cái thấy về màu xanh đó như, là pháp như như và trí như như trước đây hiện bày nơi Ứng, Hóa. Hoặc chỉ thí dụ cho cơ duyên cảm ứng thì liền hiện bày, không phải như như lý hiện bày Ứng, Hóa thân. Đây là giải thích theo Duy Thức và sư An Huệ Vô Kiến Tướng.

Văn kinh: Hư không tức là vô tướng.

Tán rằng: Giải thích theo nạn, vì hư không không có hình ảnh màu sắc do đó dụ cho Pháp thân.

Văn kinh: Này người thiện nam! Như vậy các hàng đệ tử được giáo hóa đều là hình ảnh của Pháp thân.

Tán rằng: Hợp. Trước là nói về thân sở kiến, sau nói về lý do có thân, hợp thành không khác nhau. Nếu theo kinh do Chân-đế phiên dịch thì lẽ ra phải nói rằng: “Chúng được giáo hóa này là cơ năng cảm, các đệ tử v.v… tức là Bồ-tát, cũng thường hiện bày hai thân Ứng, Hóa. Hiện bày hai thân Ứng, Hóa là hình ảnh của Pháp thân”. Như trước đây đầu 802 tiên nêu thí dụ Phật nhập Niết-bàn, sau đó nêu thí dụ Bồ-tát diệt định. Lại giải thích: Văn này như vậy, các đệ tử được giáo hóa là cơ năng cảm, là hình ảnh Pháp thân, trong văn này nói giản lược, lẽ ra phải nói rằng: “Ứng, Hóa mà các đệ tử nhìn thấy là hình ảnh của Pháp thân, vốn nghi ngờ Pháp thân Như lai không còn phân biệt, vì sao có thể sinh khởi hai thân Ứng, Hóa, đệ tử không nghi ngờ có thể sinh khởi”. Nhưng pháp như như v.v… tuy không phân biệt, nhưng vì nguyện lực cho nên khiến trong tâm đệ tử thấy có, tức là Ứng, Hóa sự nghiệp mà sinh khởi.

Văn kinh: Vì nguyện lực cho nên đối với hai thứ thân hiện bày các thứ tướng, đối với Pháp thân không hề có tướng khác nhau.

Tán rằng: Nói về nguyên nhân vì sao có thân Ứng, Hóa thì hợp thành không khác. Không khác tức là phù hợp với tướng vô phân biệt của Pháp thân. Nói “đối với hai loại thân” đó là hai thân Ứng, Hóa. Hoặc do Phật hiện bày, hoặc do Bồ-tát hiện bày, gọi là hai thứ thân. Tuy hiện bày tướng khác nhau nhưng đối với Pháp thân không có tướng khác nhau phân chia khác nhau.

Văn kinh: Này người thiện nam! Dựa vào hai thân này tất cả các Đức Phật nói về Niết-bàn hữu dư y.

Tán rằng: Thứ ba-Hữu dư vô dư phân biệt môn, nói về ba thứ Niết-bàn, tức là ba đoạn. Đây là đoạn đầu nói về Niết-bàn Hữu dư. Trong bốn Niết-bàn, ngoại trừ tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, không do đoạn chứng, tất cả cùng có cho nên không nói theo đây. Niết-bàn Hữu dư lẽ ra nên nói là Niết-bàn hiện bày từ hữu dư y, Niết-bàn hiện bày từ vô dư y, nay lược bỏ chữ y. Theo Du-già quyển năm mươi bảy chép:

Hữu dư y địa có ba thứ thi thiết:

  1. Địa thi thiết.
  2. Tịch tĩnh thi thiết.
  3. Y thi thiết.

Địa y cứ theo mười bảy địa. Tịch tĩnh có bốn thứ. Y thi thiết có tám thứ y:

  1. Thi thiết y.
  2. Nhiếp thọ y.
  3. Trụ trì y.
  4. Lưu chuyển y, tức là trú ở bốn thức.
  5. Chướng ngại y, đó là thiên ma.
  6. Khổ não y, là tất cả cõi Dục.
  7. Thích duyệt y, đó là nương vào tĩnh lự.
  8. Hậu biên y.

Y nghĩa là nơi nương vào. Thứ nhất là thi thiết y: ngã pháp là thi thiết thế gian, Thánh giáo mượn làm nơi thi thiết, nương vào thủ uẩn này tức là thủ uẩn làm sở y, nghĩa Dư theo đó thì biết.

Hỏi: Nói về Niết-bàn Hữu dư y có mấy dư y?

Đáp: Theo Du-già năm mươi trả lời rằng: Phải nói cùng một loại y, một bề tương ưng, nghĩa là hậu biên y. Nói theo ý hữu dư tức là hậu biên y. Hậu biên y nghĩa là A-la-hán nối nhau với các uẩn, rằng hậu biên y này tương ưng với sáu nhiếp thọ sự bất cộng. Những thứ còn lại chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vì trong nhiếp thọ y có bảy thứ nhiếp thọ:

  1. Cha mẹ mình.
  2. Vợ con.
  3. Tôi tớ.
  4. Người sai việc.
  5. Kẻ hầu.
  6. Bạn bè.
  7. Quyến thuộc.

Nghĩa là quả A-la-hán vẫn thuộc về cha mẹ (được nhờ). Giống như Như lai tự tay mình nâng quan tài của cha, lên tầng trời Đao-lợi đền đáp nỗi suy tư của mẹ v.v… Vì nhờ vào Phật thân có năng lực nhiếp thọ, ngoài ra không thể nhiếp thọ. Vì có thể trở lại dứt trừ lưu chuyển, vì có khả năng hàng phục các ma, cho nên không nương vào hai y này. Thi thiết y, trú trì y v.v… không phải luôn luôn nương vào thủ uẩn, Thánh giáo cũng là thi thiết dự lưu v.v… Ngã gọi là tương ưng, tâm vô chấp, chấp ngã, hữu tình v.v… gọi là không tương ưng, còn lại theo đây thì biết. Có các y hậu biên v.v… gọi là Hữu dư y. Niết-bàn đạt được nhờ các y còn lại gọi là Hữu dư y Niết-bàn. Nói Niết-bàn nghĩa là viên tịch, bởi vì Tịch là nhiều công năng đều đầy đủ nên gọi là viên tịch. Tịch tĩnh có bốn loại:

  1. Khổ tịch tĩnh.
  2. Phiền não tịch tĩnh.
  3. Không não hại hữu tình tịch tĩnh, không gậy ra các việc ác, tu tập các pháp lành.

4. Xả tịch tĩnh, nghĩa là trú trong sáu hằng xả. Có đủ bốn tịch tĩnh này gọi là viên tịch. Nhưng thân Ứng, Hóa hạn chế thị hiện nói các hậu biên y v.v… chẳng phải Phật thật có uẩn hậu biên. Hoặc Ứng thân Phật cũng thị hiện sinh diệt, do đây liền chứng, đều nói về Ứng thân, chẳng phải là tự thọ dụng, bởi vì thân tự thọ dụng không có hậu biên. Lại nếu bốn trí cũng thuộc về Ứng thân thì nương vào đâu mà Pháp thân đạt được vô dư y. Nay Ứng, Hóa khác với Nhị thừa, chỉ là hiện hữu, dường như khổ y thân, hoặc vô lậu y gọi là hữu dư, như luận Thành Duy Thức chép: Tuy không thật nương vào nhưng hiện dường như có”. Hoặc khổ y hết nên nói vô dư y, chẳng phải khổ y nên nói là hữu dư y. Nương vào hai thân đạt được Niết-bàn gọi là hữu dư y.

Văn kinh: Nương vào Pháp thân này nói về Niết-bàn vô dư. Vì sao? Vì tất cả các pháp khác rốt ráo đều hết.

Tán rằng: Dưới đây nói về Vô dư y, có ba: Đầu tiên nêu ra, tiếp đó gạn hỏi, sau cùng giải thích. Nói “Nương vào Pháp thân này nói về Vô dư” có hai cách giải thích:

1. Nói rằng: Dựa vào Pháp thân Như như không còn tất cả các y, gọi là Niết-bàn Vô dư y. Nếu như vậy thì Niết-bàn và Pháp thân đâu có khác nhau?

Đáp: Gần với nghĩa công đức sở y gọi là Pháp thân, gần với nghĩa các y tịch tĩnh gọi là Niết-bàn. Lại giải thích: Bốn trí tâm, phẩm là trí như như, tức là tự thọ dụng cũng gọi là Pháp thân. Nương vào tự thọ dụng này không thị hiện thác sinh, Song lâm tuyên bố diệt độ không còn tất cả các y gọi là Vô dư y, nương vào đây mà hiển bày gọi là Niếtbàn Vô dư y.

Hỏi: Niết-bàn Vô dư do bao nhiêu tịch diệt gọi là Niết-bàn?

Đáp: Do hai thứ tịch diệt, Du-già quyển năm mươi chép:

  1. “Do tịch tĩnh tịch diệt.
  2. Do vô tổn não tịch diệt”.

Tịch tĩnh tịch diệt, nghĩa là trước tiên đối với hữu dư y đạt được xúc chứng bốn thứ tịch tĩnh, nay trong cõi Niết-bàn Vô dư y cũng có tịch thắng bốn thứ tịch tĩnh. Ý này là vì lại đạt được tịch tĩnh; nói do tịch tĩnh diệt vì:

  1. Sác giáo tịch tĩnh.
  2. Nhất thiết y tịch tĩnh.
  3. Y y khổ tịch tĩnh.
  4. Y y sinh nghi lự tịch tĩnh.

Nói Sác giáo tịch tĩnh, Sác là trí tuệ, nhân sác khởi giáo, giáo sinh ra từ sác gọi là sác giáo. Trong Vô dư y gọi là Ngôn tuyệt cho nên gọi là sác giáo tịch tĩnh. Nhất thiết y tịch tĩnh, như tám y trước không còn (Vô dư), đều vắng lặng gọi là nhất thiết y tịch tĩnh. Y y khổ tịch tĩnh, do tám y trước sinh ra các khổ cũng được dứt hẳn gọi là y y khổ tịch tĩnh, giống như nương vào y kia sinh ra y này gọi là Y y. Y y sinh nghi lự tịch tĩnh: Nương vào tám khổ sinh ra hoài nghi lo lắng, không còn lại gì đều là vắng lặng, gọi là y y sinh nghi lự tịch tĩnh.

Hỏi: Niết-bàn Hữu dư y có bao nhiêu hữu dư mà nói là vô dư y?

Đáp: Có bảy loại:

1. Nhân quả dư, nhân nghi ngờ đã hết, quả khổ đau chưa mất, còn lại khổ y. Thành Duy Thức chép: “Niết-bàn Vô dư y chính là chân như, ra khỏi khổ sinh tử, phiền não đã sạch, dư y cũng diệt hết”.

2. Bất thiện nghiệp dư, người Vô học đã sạch nghiệp không lành, còn lại nghiệp lành vô ký.

3. Khổ đế dư.

4. Tập đế dư.

5. Diệt thức dư.

6.Đạo đế dư.

Cho nên kinh Thắng-man chép: “Hữu dư sinh không hết nên hữu sinh có, phạm hạnh còn lại không thành tựu nên sự không thuần nhất, sự không rốt ráo nên sẽ có sở tác, không độ người khác cho nên sẽ có sở đoạn. Khổ diệt đạo tập tức là Vô tác tứ đế, nhằm đến bất định tánh hữu dư không hiểu rõ sẽ có thể tu đoạn v.v… chẳng phải hướng về định tánh”.

7. Giả thật dư, bởi vì Ứng, Hóa là giả.

Văn kinh: Nương vào ba thân này nên tất cả các Đức Phật nói về Niết-bàn Vô trụ xứ.

Tán rằng: Dưới đây nói về Niết-bàn Vô trụ xứ. Văn chia làm năm:

  1. Nêu ra.
  2. Giải thích.
  3. Hỏi.
  4. Giải.
  5. Kết.

Ở đây là Nêu ra.

Văn kinh: Vì hai thân cho nên không trụ Niết-bàn, lìa Pháp thân không có Phật riêng.

Tán rằng: Giải thích. Vì sao ba thân gọi là Niết-bàn Vô Trụ xứ? Vì hai thân cho nên không trụ, do đại bi cho nên vì chúng sinh hiện thân, không trụ Niết-bàn. Cũng nên nói là không trụ sinh tử. Trước nói về vô dư, đã nói không trụ sinh tử. Lại vì Phật xa lìa các lậu còn lại nên nói là Niết-bàn, vì vậy ở đây chỉ nói về bất trụ Niết-bàn, không nói trụ sinh tử. Sở dĩ không nói “Lìa Pháp thân không có Phật riêng” là vì Pháp thân là nói theo Ứng, Hóa, tánh tướng hợp lại là không có Phật riêng. Hai thân kia không trụ cho nên Pháp thân cũng gọi là không trụ, vì vậy ba thân gọi chung là Vô trụ. Lại giải thích: Pháp thân và Niết-bàn đồng một thể nhưng nghĩa khác nhau, nếu lìa Pháp thân mà có Phật biệt thể đến trụ Niết-bàn thì có thể nói là trụ Niết-bàn. Đã lìa Pháp thân không có Phật riêng, tức là đồng một thể, tự không trụ nơi tự cho nên không trụ Niếtbàn. Trước đây giải thích là Thắng. Nói rằng “lìa Pháp thân không có Phật riêng”, không nói “lìa Niết-bàn không có Phật riêng”.

Văn kinh: Vì sao hai thân không trụ Niết-bàn?

Tán rằng: Hỏi. Hai thân vô lậu tức là lìa sinh tử, vì sao không trụ Niết-bàn?

Văn kinh: Hai thân giả danh không thật, niệm niệm sinh diệt, không trú nhất định, cho nên thường xuất hiện, không nhất định.

Tán rằng: Giải thích về lý do Ứng, Hóa thân không trụ. Đầu tiên thuận theo giải thích, tiếp đến là cùng thành tựu.

  1. Giả danh chẳng phải thật.
  2. Niệm niệm sinh diệt.
  3. Thường xuất hiện.

Xuất hiện là vì chúng sinh, hoặc lúc thị hiện nhập diệt, hoặc lúc thọ sinh, do đó thường xuất hiện. Do không nhất định nên nói không trụ Niết-bàn.

Văn kinh: Pháp thân không phải như vậy, vì thế cho nên hai thân không trụ Niết-bàn.

Tán rằng: Trở lại thành tựu.

Văn kinh: Pháp thân không hai, vì thế cho nên không trụ Niếtbàn.

Tán rằng: Nói về lý do Pháp thân không trụ Niết-bàn. Pháp thân và Ứng hiện không hai cho nên cũng không trụ.

Văn kinh: Vì vậy nương vào ba thân nói Vô trụ Niết-bàn.

Tán rằng: Kết thúc.

Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả phàm phu vì ba tướng cho nên có ràng buộc, có chướng ngại, lìa ba thân không được ba thân.

Tán rằng: Thứ tư là Trị chướng phế lập môn, có hai phần: Đầu tiên y cứ theo cảnh, tiếp đó y cứ theo tâm. Đây là theo cảnh: Văn chia làm hai mục: Trước nói về có chướng ngại không đạt được ba thân; sau nói về dứt trừ đạt được. Văn trước chia làm bốn:

  1. Nêu ra.
  2. Gạn hỏi.
  3. Liệt bày.
  4. Giải thích.

Đây là nêu ra. Ba tướng tức là ba tánh là sở ưng tri cảnh tướng. Luận Nhiếp Đại Thừa chép: “Ba tánh này gọi là sở ưng tri thắng tướng”. Có ràng buộc dựa vào hiện tại, có chướng ngại y theo chủng tử. Đồng thời có ràng buộc tức là tướng ràng buộc, hoặc tương ưng với sở duyên; ở đây nói theo ba tánh, không hiểu rõ cho nên có ràng buộc, có chướng ngại. Chướng tức là ba chướng, do đó xa lìa không được ba thân.

Văn kinh: Những gì là ba?.

Tán rằng: Gạn hỏi.

Văn kinh: Một là Biến kế sở chấp tướng; Hai là Y tha khởi tướng; Ba là thành tựu tướng.

Tán rằng: Nêu ra ba tướng. Ba tướng chính là ba tánh, như các kinh luận khác có phân tích rộng rãi, nay giải thích sơ lược tên gọi, phân biệt rõ về thể. Nói Biến kế sở chấp tướng: Biến nghĩa là cùng khắp, kế là kế độ so lường, so lường khắp tất cả các cảnh cho nên gọi là Biến kế. Biến kế tức là năng biến kế, sở biến kế, đều gọi là Biến kế. Sở chấp là tánh câu chấp của Biến kế, trở thành tướng tức là tánh, cũng chính là tướng của cảnh. Nương vào các duyên khác nên có thể phát khởi nên gọi là y tha khởi, nghĩa của tướng như trước. Thành tựu trọn vẹn gọi là tướng thành tựu. Sở chấp: ngã là tánh biến kế, tâm, tâm sở, sắc, bất tương ưng là y tha khởi, chân như là thể thành tựu. Hoặc lậu, vô lậu môn, năm uẩn vô lậu cũng là viên thành thật, tánh hữu lậu đó cũng là y tha.

Văn kinh: Các tướng như thế vì không thể hiểu, vì không thể diệt, vì không thể thanh tịnh.

Tán rằng: Giải thích. Biến kế vô tướng nên không thể nói là đoạn, chỉ nói là không thể hiểu. Nhiễm nương vào nơi khác mà có nên nói là không thể diệt. Như nói bất tịnh, năng tịnh là trí, sở tịnh là như, lưu ý rằng thể của Như không nhơ không sạch. Hiện tại những điều đó chưa thể hiểu biến kế, diệt nhiễm y tha, tịnh viên thành thật.

Văn kinh: Vì thế cho nên các Đức Phật đầy đủ ba thân. Từ “thị cố v.v…” về sau là kết thúc: có ràng buộc có chướng ngại như vậy, cho nên không thể đạt đến ba thân.

Văn kinh: Bởi vì thường hiểu rõ, thường dứt trừ, thường thanh tịnh ba tướng như thế, cho nên các Đức Phật đầy đủ ba thân.

Tán rằng: Sau nói về dứt trừ đạt được, chia làm ba: Đầu lặp lại năng chướng; tiếp theo phân tích năng đoạn, sau cùng kết thúc. “Ba

tướng như thế” là lặp lại. “Năng giải, diệt, tịnh” là phân tích về năng đoạn. Do hiểu rõ tánh biến kế nên nói là có khả năng hiểu rõ (năng giải), tu tập trí vô phân biệt cho nên có khả năng dứt trừ (năng diệt), nhiễm y tha trí trước thường dứt trừ chướng ngại, do đó thường thanh tịnh (năng tịnh). Bởi vì hiểu rõ tướng biến kế sở chấp nên đạt được Hóa thân; do có sở chấp ngã tướng nên tình không đạt đến cảnh giới rốt ráo, không thể đạt được hiện thân Biến hóa. Tu tịnh y tha khởi trí dứt trừ nhiễm, cho nên đạt được Ứng thân, do lúc trí phát sinh có thể dứt trừ chướng ngại sót lại, nên thường thanh tịnh, chứng được tánh viên thành thật, hiển bày được Pháp thân, cho nên được ba thân.

Văn kinh: Này người thiện nam! Các phàm phu không thể dứt bỏ ba tâm này, vì thế lìa ba thân không thể đạt được.

Tán rằng: Nói về Trị chướng, trong này nói theo tâm, văn chia làm hai phần: Đầu tiên phân tích về chướng; từ “Nương các phục đạo v.v…” về sau là phân tích rõ về đoạn. Văn phần đầu chia làm ba:

  1. Nêu ra.
  2. Gạn hỏi.
  3. Liệt kê.

Đây là nêu ra. Nói về Tâm có bốn nghĩa:

  1. Trinh thật gọi là tâm, như Bát-nhã-đa tâm, tức là lý chân như cũng gọi là tâm, kinh Thắng-man nói tự tánh thanh tịnh tâm; nơi khác gọi là Kiền-lật tâm.
  2. Duyên lự tâm, tức là thông suốt tám thức, nơi khác gọi là chấtđa.
  3. Tích tập nghĩa gọi là tâm, cũng có cả tám thức, bởi vì chứa nhóm toàn bộ năng sở.

. Tích tụ tối thắng nghĩa, gọi là tâm, tức là chỉ có một mình thức thứ tám.

Hiện tại hỏi ở đây chính là hai nghĩa duyên lự, tích tập gọi là tâm. Ba tâm là năng chướng, nếu dứt bỏ được thì đạt được ba thân, nếu không dứt bỏ thì lìa ba thân không thể được, không thể được Ứng, Hóa thân, không thể được Pháp thân.

Văn kinh: Những gì là ba?.

Tán rằng: Tùy nêu ra.

Văn kinh: Một là khởi sự tâm; hai là y căn bổn tâm; ba là căn bổn tâm.

Tán rằng: Tùy câu hỏi mà trình bày giải thích. Đây tức là liệt kê.

Nói về ba tâm, Tam tạng Chân-đế giải thích rằng:

  1. Khởi sự tâm: là sáu thức bên ngoài.
  2. Y căn bổn tâm: là thức thứ bảy bên trong.
  3. Căn bổn tâm: là thức A-lại-da chính yếu nhất.

Pháp Sư Duy Thức Từ Ân nói: Khởi sự tâm nghĩa là thấy tâm tương ưng với phiền não, do phiền não này gây ra các nghiệp, cảm đến quả dị thục gọi là tâm khởi sự. Vì là gốc rễ sinh tử nên chướng ngại cho tùy loại thân. Tâm khởi sự nương tựa thuộc về y chủ thích. Hoặc do tâm và phiền não cùng tương ưng đồng một sự nghiệp cũng gọi là khởi sự, tức là trì nghiệp thích. Hoặc tâm khởi sự tương ưng, nhưng chính khởi sự là phiền não, từ tâm vương tương ưng mà đặt tên, thuộc về lân cận thích.

Như vậy cách giải thích đầu tiên thích đáng hơn. Tâm tương ưng của nghiệp lành và không lành gọi là y căn bổn tâm. Nghiệp là cội gốc sở y sinh ra, vì thế tâm tương ưng, nương theo căn bổn. Cũng theo trước giải thích về tâm căn bổn, tâm tương ưng với quả khổ ba cõi gọi là tâm căn bổn, bởi vì cội gốc sinh tử là từ thể Tánh, quả dị thục chung riêng này có cả bảy thức, chỉ trừ thức thức bảy. Nếu là có quả thì phát nhân sinh khởi đền đáp gọi là quả khổ. Thông suốt đẳng lưu, dị thục tức là có cả tám thức. Nếu thật sự khác nhau thì gọi là quả khổ, là gốc sinh tử, tức là chỉ riêng thức thứ tám. Trong này ý nói đến các quả hữu lậu, cho nên kinh Niết-bàn chép: “Xả bỏ sắc tướng vô thường, đạt được sắc tướng thường hằng, thọ tưởng hành thức cũng giống như vậy”. Lại giải thích: Phiền não chướng và nghiệp sở phát gọi là tâm khởi sự, sở tri chướng và nghiệp sở phát gọi là y căn bổn, là gốc sở y của phiền não; tâm căn bổn tức là quả đạt được từ hai chướng, hơn hẳn chỉ có thức thứ tám, các nghiệp sở y có khả năng giữ gìn chủng tử cho nên gọi là căn bổn. Kém hơn thì có cả bảy thức, nếu theo quả đẳng lưu thì có cả tám thức.

Văn kinh: Nương vào các phục đạo, tâm khởi sự hết, nương pháp đoạn đạo, nương tâm căn bổn hết, nương vào tối thắng đạo, tâm căn bổn hết.

Tán rằng: Dưới đây là phân biết rõ về đoạn, có ba phần: Đầu tiên nói về đoạn chướng, tiếp theo nói về đắc thân, sau cùng là kết thúc.

Đây là mở đầu: Nương vào các phục đạo thì tâm khởi sự hết, nghĩa là ba mươi tâm vị ở Địa tiền, trong kinh Nhân Vương Bát-nhã gọi là Phục Nhẫn, cho nên ở bốn gốc lành, phân biệt hai chướng, có khả năng hàng phục, không hiện hành gọi là y phục đạo, khởi sự mất hết, cho nên nhập thấy đạo mà không gây ra nghiệp mới, cảm quả sinh tử hiển bày, được tùy loại Hóa thân. Lại giải thích: Chung cho với Thập địa Kim cương dụ định, trước đây tuy đã hàng phục phiền não, nhưng chưa dứt trừ chủng tử cho nên gọi là các phục đạo. Cuối cùng hàng phục, địa vị ở Kim cương dụ định ở địa vị không xen hở, mới vĩnh viễn khiến cho các hiện hành kia không thể khởi lên. Kinh Giải Thâm Mật chép: “Từ Địa thứ tám trở lên còn có Sở y, Sở tri chướng, đến quả vị Phật đạt được tùy loại thân”. Cách giải thích này là hơn. Nương vào pháp đoạn đạo thì tâm căn bổn hết, nghĩa là tu tập Thánh đạo lần lượt sẽ dứt trừ các nghiệp, cho nên Sơ địa lìa xa đường ác, tạp nhiễm ngu tối, trong Nhị Địa lìa sự sai phạm ba nghiệp ngu tối. Hoặc có cả Thập địa dứt trừ sở trước chướng gọi là pháp đoạn đạo, bởi vì nương vào pháp không quán mới có thể dứt trừ, sở tri chướng đã dứt do đó có thể đạt được Ứng thân. Nương vào tối thắng đạo thì tâm căn bổn hết. Đang xả bỏ gọi là đoạn ở giải thoát đạo, hoặc sắp xả bỏ gọi là đoạn ở Kim cương định. Hai thuyết trong đây như luận Thành Duy Thức mười có nói. Do dứt trừ quả khổ, tất cả thói quen đều xả bỏ hẳn cho nên thường hiển bày Pháp thân.

Văn kinh: Tâm khởi sự dứt trừ cho nên được hiện bày Hóa thân, y tâm căn bổn dứt trừ cho nên được hiển hiện Ứng thân, căn bổn tâm dứt trừ cho nên đến được Pháp thân.

Tán rằng: Nói về Đắc thân. Hai thân trước là mới khởi cho nên gọi là được, Pháp thân vốn có nên nói đến được Pháp thân, y theo trước có thể biết.

Hỏi: Ba thân này đạt được lúc nào?

Đáp: Theo các luận như Đại Trang Nghiêm, Thành Duy Thức v.v… thì đều từ Kim cương về sau, Phật Địa mới khởi lên. Luận đó chép: “Ba thân Biến, Hóa nghĩa là các Đức Như lai nhờ trí thành sự nên biến hiện vô lượng tùy loại hóa thân”. Luận Phật Địa chép: “Trí thành sở tác khởi lên ba nghiệp, thay đổi nương vào nghĩa bất chánh. Từ Sở Địa trở lên thì đạt được trí này. Nghĩa chính chỉ riêng chỗ Phật Địa được khởi lên, bởi vì ở Thập Địa nương vào căn hữu lậu mà phát khởi thức vô lậu, sáng suốt và mê mờ khác nhau cho nên không thể nào khởi lên Ứng thân; thân đã do bình đẳng cảnh trí mà khởi nên hợp lại gọi là Ứng thân, do đó Phật Địa khởi lên, không phải ở Thập Địa hữu cảnh trí”. Pháp thân cũng giống như vậy, bởi vì ra khỏi nơi ràng buộc gọi là Pháp thân. Luận Thành Duy Thức chép: “Ở Đại Mâu Ni gọi là Pháp thân”, đây là theo Tròn đầy đắc. Nếu y theo Phần đắc và Tương tự đắc thì địa vị có trước sau, ở địa vị Thập Tín là phần đắc Hóa thân, một số Bồ-tát đó thành tựu tám tướng cho nên từ Sơ địa trở lên được Ứng thân, Pháp

thân. Kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã nói có mười thứ Pháp thân, trong Thập Địa mỗi địa đạt được một, Bồ-tát địa vị trên giáo hóa Bồ-tát địa vị dưới cho nên chia ra được hai thân.

Văn kinh: Vì thế cho nên tất cả Như lai có đủ ba thân.

Tán rằng: Đây là kết luận.

Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả các Đức Phật ở thân thứ nhất đồng sự với các Đức Phật, ở thân thứ hai đồng ý với các Đức Phật, ở thân thứ ba đồng thể với các Đức Phật.

Tán rằng: Thứ năm là đồng dị phân biệt môn. Văn chia làm ba phần. Ba Phật khác nhau do đó Hóa Thân hóa độ Nhị thừa và phàm phu Địa tiền phần nhiều khởi dụng sáu thông, thành tựu sự nghiệp hóa độ. Do đó, các luận đều chép: “Chuyển năm thức thành sự trí. Phần nhiều dùng tám tướng hiện bày các sự nghiệp cho nên gọi là Đồng sự”. Ứng thân là giáo hóa cho Bồ-tát Địa thượng khiến được pháp lạc, ý lạc giống nhau nên nói là Đồng ý; lại giống với ý giáo hóa Bồ-tát. Thể sở y của Pháp thân như như thì không khác với các Đức Phật cho nên nói là Đồng Thể. Vì vậy trong Nhiếp luận, chín của ngài Vô Tánh chép: “Pháp thân các Đức Phật nói là có khác nhau, nói là không khác nhau. Nương vào ý lạc thực hiện công việc không có sự khác nhau, cho nên nói là không khác nhau; vô lượng y thân hiện bày đẳng giác cho nên nói là có khác nhau. Như nói Pháp thân, thọ dụng thân cũng giống như thế. Ý lạc và nghiệp không khác nhau cho nên nói là không khác, không do y chỉ, không có khác nhau nên nói là không khác nhau, không do y chỉ vô khác nhau, vô lượng y chỉ khác nhau chuyển thành. Nên biết rằng Hóa thân như thọ dụng đã nói, tức là Pháp thân do cả ba không khác nhau, thọ dụng, biến hóa chỉ là ý lạc tác nghiệp”. Ý phần này giúp cho biết rõ tâm hóa đồng, dị. Phối hợp ngược lại với ba thân này, văn đó tuy thông suốt mà nay trong kinh này đều y theo sự tăng thắng mà phối hợp riêng ba thân, lý cũng không lỗi. Năm thức khi ở trong nhân vị, sự nghiệp đều khác nhau; ý thức thứ bảy thường chấp Ngã khiến cho tự tha khác nhau. Nay ở quả vị chứng lý bình đẳng, cho nên năm thức khởi phát Hóa thân đồng sự, thức thứ bảy phát khởi tha thọ dụng đồng ý.

Văn kinh: Này người thiện nam! Thân Phật thứ nhất này tùy theo ý chúng sinh có nhiều loại cho nên hiện bày loại tướng, do đó nói là nhiều.

Tán rằng: Thứ sáu là Nhất đa phân biệt môn. Văn cũng chia làm ba phần, phần trước nói về Thể, phần này nói về Dụng. Vì các chúng sinh thú hướng khác nhau, ý thú khác nhau, cách nhìn khác nhau nên nói là ý có nhiều. Tùy theo ý có nhiều cho nên hiện bày Hóa thân có nhiều loại tướng, hoặc nói tám tướng, hoặc tùy các thứ mà vì đó hiện bày hình tướng. Ví như hàng Nhị thừa đã đạt được quả Thánh cũng là một phần trong nhiều chúng sinh khác nhau. Sở tri chướng đang còn cho nên nói là tùy theo nơi chốn hóa độ, thuận ý chúng sinh.

Văn kinh: Thân Phật thứ hai vì đệ tử nhất ý cho nên hiện bày một tướng, do đó nói một.

Tán rằng: Bồ-tát Địa thượng do Ứng thân hóa độ được gọi là đệ tử. Chứng lý bình đẳng nên gọi là một ý. Hiện bày một tướng là chỉ hiện bày Phật tướng, không hiện ra tướng của sáu loài chúng sinh. Thân Phật hiện bày không phải không có đại tiểu, hơn kém khác nhau, bởi lẽ ở địa vị Thập Địa thấy có hơn kém khác nhau.

Văn kinh: Thân Phật thứ ba vượt hơn tất cả các loại tướng, không hề chấp tướng-cảnh giới, cho nên nói là chẳng phải một, chẳng phải hai.

Tán rằng: Bởi vì chân như diệu thể vượt lên trên tất cả các thứ tướng, nghĩa là không đi đến, không xanh vàng đỏ trắng, cùng tất cả các loại tướng. Không hề chấp tướng, cảnh giới là không có cảnh sở duyên của tâm chấp kia. Trong Duy Thức chép: “Viên thành thật thường xa lìa tánh trước, cho nên nói là chẳng phải một, chẳng phải hai. Một, hai giống nhau, trong chân bặt dứt đối đãi cho nên chẳng phải một, hai”. Vì vậy, ý này khiến cho rõ thêm nghĩa hiện thân đồng khác.

Kinh: Này người thiện nam! Thân thứ nhất nương vào Ứng thân mà được hiển hiện, thân thứ hai nương vào Pháp thân mà được hiển hiện, Pháp thân là chân thật có, không hề nương vào nơi nào.

Tán rằng: Thứ bảy là Hữu y phi y môn. Văn cũng chia làm ba phần. Đây là ý khiến cho biết rõ đầu đuôi khác nhau, nghĩa là Biến hóa thân từ Ứng thân mà khởi, Ứng thân nương vào Như mà khởi, đồng thời tha thọ dụng từ nơi khác mà khởi Hóa thân. Kinh Hoa Nghiêm chép:

“Thị ma thố ma hóa”, nghĩa là từ nơi khác mà phát khởi hóa hiện. Pháp thân vốn có, không nương vào nơi khác mà hiện bày, cho nên hoàn toàn chân thật. Nếu tự thọ dụng cũng gọi là Pháp thân thì không phải từ nơi khác biến hóa, do đó không có y xứ, lại cùng khắp pháp giới, cho nên không có nơi nào khác làm chỗ sở y, hoặc có thể nói môn này y cứ theo tánh tướng mà phân biệt, tự thọ dụng thân cũng thuộc về Ứng thân, như vì y trì nên ban đầu từ đó mà phát khởi. Duyên sinh không thật cho nên trong luận Đại Trang Nghiêm quyển ba chép: “Bình đẳng gọi là tự tánh thân bởi lẽ tất cả các Đức Phật đều không khác nhau. Thọ dụng thân gọi là thực thân. Thực thân do nương tựa mà phát khởi. Nên biết rằng thọ dụng thân lại là nhân của Hóa thân”. Lại nói: “Thực thân lấy tự lợi làm tướng, Hóa thân lấy lợi tha làm tướng”. Do đó có cả hai thuyết, luận chép: “Nói thực thân là bởi vì ở trong đại chúng thực hành pháp thực”.

Văn kinh: Này người thiện nam! Ba thân như thế tùy theo ý nghĩa mà nói về thường; tùy theo ý nghĩa mà nói về vô thường.

Tán rằng: Thứ tám là Thường vô thường môn. Văn chia làm hai phần: Trước tiên nêu chung; tiếp đó giải thích riêng. Đây là nêu chung. Do có ý nghĩa mà nói là Thường có cả ba thân; nói Vô thường là bất biến pháp thân. Ở dưới nói: “Vì chẳng phải hành pháp, đó là cội gốc cho nên chỉ nói là Thường”. Hoặc có thể, Trí như như hợp lại gọi là Pháp thân, bốn trí vô thường do đó nêu chung mà nói, hoặc nói là Vô thường. Ở dưới y theo Như như chỉ nói là Thường, chẳng phải là hành pháp; hoặc đại khái không phải phiền não là hành pháp nên nói rằng chẳng phải hành pháp.

Văn kinh: Hóa thân, thường xoay bánh xe pháp, khắp nơi tùy duyên phương tiện nối nhau không hề đứt quãng, vì thế cho nên nói là Thường.

Tán rằng: Dưới đây giải thích riêng. Ba thân chia làm ba: Đầu tiên nói về Hóa thân, tiếp đến phân tích về Thường, sau cùng là Vô thường. Đây là phân tích về Thường: Hóa thân có tám tướng chỉ nêu ra một tướng, gọi là xoay bánh xe pháp. Hoặc chỗ này là hướng về sinh; khiến đạt được lợi ích là xoay bánh xe pháp, các tướng hiện bày đều gọi là xoay bánh xe pháp, đều khiến cho càng nhiều hữu tình được giáo hóa. Tùy nơi sinh trú và tùy nơi Ứng hóa tất cả đều có nhiều gọi là chỗ chỗ tùy duyên. Tùy sở hóa duyên phương tiện, tùy năng hóa duyên phương tiện, mười hai thứ phương tiện đều nối nhau không ngừng, cho nên nói là Thường, tức là liên tục thường, như thường được an vui, thường cho ăn uống v.v…

Văn kinh: Chẳng phải là vốn có nên đầy đủ đại dụng, không hề hiển hiện nên nói là Vô thường.

Tán rằng: Nói về Vô thường, chẳng phải các pháp vốn có như tự tánh thân; đầy đủ đại dụng không hề hiển hiện, đó là công đức đã thành tựu, chẳng phải đột nhiên hiện khởi, tùy duyên lợi ích chúng sinh mới bắt đầu phát khởi. Như Tát-bà-đa chép: “Đức Thế tôn có pháp thọ dụng, đến lúc ban đầu mới thành Phật lập tức phát khởi được”. Dụng không đột nhiên phát khởi ở đây cũng giống như vậy. Hoặc y cứ theo Hiện Niết-bàn cho rằng: “Dụng không hiển hiện, đó là dụng của Ứng thân”.

Văn kinh: Ứng thân từ vô thỉ đến nay nối nhau không đứt quãng.

Tán rằng: Dưới đây nói về Ứng thân. Đầu tiên nói về Thường, sau đó nói về Vô thường. Đây là phần đầu nói về Thường. Trước hết nhắc lại tên gọi của thân, tiếp theo hiển rõ Ứng thể. Ứng thân nương vào Pháp thân mà khởi, Pháp thân là Ứng với bổn tánh do đó thuận theo bổn tánh gọi là Vô Thỉ. Vì vậy trong luận Nhiếp Đại Thừa chép: “Sở y thường hằng cho nên Ứng, Hóa cũng thường hằng”. Do đó nay sở y vô thỉ thì Ứng thân cũng vô thỉ, nếu như vậy thì Hóa thân cũng nên nói là vô thỉ?

Đáp: Nên nói hay không nói ảnh hiện lẫn nhau, như tự thọ dụng nối nhau trong sát-na, như tha thọ dụng nơi này diệt đi, nơi khác lại nối tiếp.

Văn kinh: Cho nên tất cả pháp bất cộng của các Đức Phật thường thâu nhiếp thọ trì.

Tán rằng: Nói về pháp bất cộng như dụng, lực, úy v.v… của Pháp thân. Ứng thân thường thâu nhiếp làm y trì.

Văn kinh: Chúng sinh vô tận thì dụng cũng vô tận, cho nên nói là Thường.

Tán rằng: Nói về Thường. Cõi chúng sinh vô tận cho nên hiện bày mạng vô tận. Do đó nói là Thường. Đây là theo duyên, thường có tùy duyên, nên nói là Thường. Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh chép: “Thọ dụng thân và Biến hóa thân của Phật đã là vô thường, vì sao kinh nói thân Như lai thường”. Đây là câu hỏi. Hai thân này nương vào Pháp thân nên thường, còn thân Đẳng lưu và thân Biến hóa vì thường thọ dụng, không dừng nghỉ dứt bỏ nên không dứt hẳn. Trong Vô Tánh giải thích rằng: “Nghĩa là hai thân này tuy vô thường nhưng nương vào Pháp thân thường trú, mà Pháp thân vốn thường cho nên cũng nói là

Thường. Nói thân thường, hoặc Thể là Thường, hoặc nương vào thường thân nên gọi là thân thường, đó là Dị môn thường, chẳng phải Tự tánh thường”. Cho đến chép: “Giống như thế gian nói thường thọ vui, cho dù không phải là luôn luôn thọ vui không hề đứt quãng, nhưng có thể nói rằng đây là thường thọ vui. Nên biết rằng Thân thọ dụng của Phật cũng giống như thế”. Theo luận Đại Trang Nghiêm quyển ba chép: “Tất cả các Đức Phật thảy đều thường trụ. Do tự tánh thường nên tự tánh thân của tất cả các Đức Phật thường trụ. Do vô gián thường nên thực thân của tất cả các Đức Phật là thường trụ. Do nối tiếp thường nên Hóa thân của tất cả các Đức Phật thường trụ. Thực thân ở đây thâu nhiếp hai thân tự thọ dụng và tha thọ dụng mà nói, vì tự lợi tức là tự thọ dụng, vì người khác nói pháp gọi là thực thân, tức là tha thọ dụng, nên Nhiếp luận cũng giống.

Văn kinh: Chẳng phải vốn có nhưng bởi vì đầy đủ dụng không hề hiển hiện cho nên nói là Vô thường.

Tán rằng: Phân tích về Vô thường. Không hiển hiện nói đầy đủ như trước đã giải thích.

Văn kinh: Pháp thân chẳng phải là hành pháp, không có tướng khác nhau.

Tán rằng: Phân tích về Pháp thân thường. Đầu tiên phân tích về Thường, sau đó giải thích lời vặn hỏi. Trong phần đầu, trước hết nêu không có tướng khác; tiếp theo chính thức giải thích về Thường.

Đây là mở đầu. Chỉ theo Như như gọi là Pháp thân, nói chẳng phải hành pháp, không có tướng sinh diệt khác nhau. Lại giải thích như sau: “Dưới nói Pháp thân là do cả hai đều vô hiển bày. Hai vô ấy là hai tướng của bốn thứ phi hữu phi vô, lại chẳng phải hành pháp là chẳng phải phiền não, Hữu vi, hữu lậu hành pháp, năng chứng, vì trí vô phân biệt cũng là Pháp thân.

Văn kinh: Đó là cội gốc, vì giống như hư không cho nên là Thường.

Tán rằng: Chính thức phân tích về thường trụ. Như như là chân tánh của các pháp nên nói là cội gốc, không có hình tướng vì như hư không nên gọi là Thường, vì vậy nói là Thường. Tổng kết.

Văn kinh: Này người thiện nam! Lìa trí vô phân biệt thì không có một thắng trí nào hơn cả, lìa pháp như như thì không có một thắng cảnh giới nào hơn.

Tán rằng: Giải thích hàng phục lời vặn hỏi. Văn chia làm ba phần: Đầu tiên là giải thích câu hỏi; tiếp theo lần lượt giải thích; sau cuối là tổng kết thành tựu.

Đây là mở đầu. Vặn hỏi có hai: Trước hết là vì sao không dùng trí khác, pháp khác gọi là Pháp thân, mà dùng trí vô phân biệt và pháp như như kết hợp gọi là Pháp thân?

Đáp: Ý muốn nói rằng, lìa trí vô phân biệt thì không có ý một thắng trí nào hơn, lìa pháp như như cũng không có một thắng cảnh nào hơn, vì thế cho nên kết hợp cả hai gọi là Pháp thân.

Lại nói: Nếu như vậy thì năng duyên, sở duyên khác nhau, làm sao mà kết hợp gọi là Pháp thân? Tiếp theo lần lượt giải thích.

Văn kinh: Là pháp như như, là tuệ như như, là hai thứ như như, như như không phải một, không phải khác.

Tán rằng: Lần lượt giải thích. Trí và như là hai thứ không phải một, cũng không phải khác. Vì sao? Vì như là trí cảnh, trí là hữu vi do đó Trí và Như không phải một. Nhưng trí nhờ cảnh mà sinh, Như là tánh của trí, vì thế Trí không khác như. Nếu khác thì trí không phải là tánh đó. Như luận Phá Thắng chép: “Tánh của đất lẽ ra chẳng phải tánh nào khác, bởi vì khác với đất; như nước, lửa v.v… vì thế ở đây cũng giống như vậy. Cho nên luận Thành Duy Thức quyển tám chép: “Vì thế tánh này cùng với y tha chẳng phải khác, chẳng phải không khác, như tánh vô thường v.v…”.

Văn kinh: Thế nên Pháp thân là tuệ thanh tịnh, là diệt thanh tịnh, là hai thứ thanh tịnh.

Tán rằng: Kết thúc thành tựu, trước là thành tựu; sau đó kết thúc. Thành tựu là nói: Do có năng chứng tịnh cho nên đạt được tuệ thanh tịnh, do có sở chứng thanh tịnh vì vậy đạt được diệt thanh tịnh. Thế nên Pháp thân là hai thứ thanh tịnh. Trong này, trước tiên chọn lấy hai thứ thanh tịnh, và chính nơi sự chọn lựa ấy mà Pháp thân là hai thứ thanh tịnh; nói cách khác, hai thứ thanh tịnh hợp lại gọi là Pháp thân.

Văn kinh: Vì thế cho nên Pháp thân đầy đủ thanh tịnh.

Tán rằng: Kết thúc. Nói đầy đủ nghĩa là tròn đầy, do trí và cảnh này cao hơn, không có thứ tịnh nào hơn, cho nên Pháp thân đầy đủ thanh tịnh.

Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Phân biệt về ba thân có bốn thứ khác nhau.

Tán rằng: Thứ chín là Tứ cú phân biệt môn, có hai:

  1. Nêu tổng số.
  2. Giải thích riêng.

Đây là mở đầu.

Văn kinh: Có Hóa thân không có Ứng thân, có Ứng thân không có

Hóa thân, vừa có Hóa thân vừa có Ứng thân, không có Hóa thân cũng không có Ứng thân.

Tán rằng: Mở ra bốn câu.

Văn kinh: Thế nào là có Hóa thân không có Ứng thân?.

Tán rằng: Giải thích riêng về bốn câu, chia làm bốn đoạn. Câu thứ nhất có ba phần:

  1. Gạn hỏi.
  2. Giải thích.
  3. Kết thúc.

Đây là gạn hỏi.

Văn kinh: Đó là sau khi các Đức Như lai nhập Niết-bàn, theo nguyện tự tại nên tùy duyên lợi ích.

Tán rằng: Giải thích bốn câu. Đây là giải thích câu thứ nhất. Vị các Như lai là nói đến tất cả các Đức Phật, sau khi nhập Niết-bàn nghĩa là trong tám tướng, hiện bày tướng sau cùng là Niết-bàn. Theo nguyện tự tại, là năng lực tự tại của Đại bi nguyện vốn có từ trước, tùy duyên cơ cảm hoặc là giữ lại hình ảnh, hoặc hiện thân các loài khác mà không hiện thân Phật, hiển hiện thân hình không cố định mà làm lợi ích, là Hóa thân không có Ứng thân. Y theo thật chứng sau khi đạt được Niếtbàn, khởi lên tám tướng thành đạo của Hóa thân cũng là câu này; nhưng vì phân biệt với tha thọ dụng, trí bình đẳng phát khởi, chỉ căn cứ trên sắc tướng, Phật an trụ hữu dư y cũng là Ứng, Hóa thân, do đó nói là hiện bày các thứ tướng. Sau khi nhập diệt để lại những hình ảnh v.v… và để lại hình hài, xương cốt là Hóa thân, không phải Ứng thân. Vì vậy kinh chép: “Vì nguyện tự tại nên để lại thân cốt”. Không như thế thì hai câu giữa nên nói rằng: “Sau khi nhập Niết-bàn chỉ là sự phát khởi sau khi chứng được quả vô thượng”.

Văn kinh: Đó gọi là Hóa thân.

Tán rằng: Kết thúc.

Văn kinh: Thế nào là có Ứng thân không có Hóa thân? Đó là thân Địa tiền.

Tán rằng: Dưới đây giải thích sơ lược câu thứ hai. Đây là thân của hàng Địa tiền nhìn thấy, nghĩa là hiện hình tướng Phật ở Địa tiền. Bồtát ở địa vị bốn gốc lành nhìn thấy gọi là Ứng thân, không thị hiện hình tướng khác cho nên chẳng phải Hóa thân. Tức là trong kinh Phạm Võng chép: “Ngàn đài hoa xung quanh, một nước một Thích-ca, một đài có ngàn cánh”. Trăm ngàn ức Thích-ca tức là một ngàn thế giới tam thiên đại thiên, một đại thiên thế giới có một Đại Hóa thân. Do đó kinh chép:

“Tam thiên đại thiên là cảnh giới hóa độ của Phật”. Nếu hàng Nhị thừa nhìn thấy một vị Phật thì chỉ hóa độ một tứ thiên hạ, không phải là một đại thiên. Y theo thân tha thọ dụng của Địa thượng nhìn thấy đó cũng gọi là Ứng thân, chẳng phải Hóa thân. Nay lược bỏ không nói đến.

Văn kinh: Thế nào là vừa có Hóa thân vừa có Ứng thân? Nghĩa là thân trụ ở Niết-bàn hữu dư y.

Tán rằng: Giải thích câu thứ ba. Nghĩa là thân hiện bày vì hàng Nhị thừa làm trời, người cho nên là Hóa thân, thị hiện thành tựu chánh giác do đó gọi là Ứng thân, thân ở vương cung thị hiện thành Phật cho nên gọi là thân trụ ở Niết-bàn Hữu dư. Từ Sơ địa đến Thất địa được thân phần đoạn, thân Tha thọ dụng mà Bồ-tát nhìn thấy cũng thuộc trong câu này, nghĩa cũng không trái. Y theo đây thì nhiếp thâu gần hết các Đức Phật. Trừ Bát Địa trở lên, thân Tha thọ dụng được nhìn thấy không gọi là Hóa thân.

Văn kinh: Thế nào là chẳng phải Hóa thân cũng chẳng phải Ứng thân? Đó là Pháp thân.

Tán rằng: Giải thích câu thứ tư. Đầu tiên giải thích thẳng; sau đó giải thích lời vặn hỏi.

Đây là mở đầu: Chính là thân tự thọ dụng và tự tánh Pháp thân hợp lại gọi là Pháp thân. Nhưng ba thân Phật, các thuyết không nhất định. Như luận Phật Địa và luận Thành Duy Thức chép: “Bốn thân Phật có giới hạn không lẫn lộn”. Số còn lại thì nói giống nhau. Như luận Nhiếp Đại Thừa chép: “Tự thọ dụng và tự tánh Pháp thân hợp lại gọi là Tự tánh Pháp thân, tha thọ dụng thân gọi là Ứng thân”. Nói có trời, người, Bồ-tát, Thanh văn nhìn thấy lẫn lộn. Hoặc thân tự thọ dụng v.v… hàng Bồ-tát Đẳng giác còn không thể biết huống gì chúng sinh khác, giả như thân tha thọ dụng vì hàng Địa thượng mà thị hiện thì cũng không có hàng Thanh văn. Nói có điều đó như trong luận Phật Địa có ba cách giải thích về điều đó, cách giải thích thứ ba hợp hơn: Đó là hàng Nhị thừa hồi tâm hướng đại nên gọi bằng tên gọi đó. kinh Lăng-già cũng giống như vậy. Còn trong luận Nhiếp Đại Thừa: “Thân Phật mà ở địa vị bốn gốc lành nhìn thấy cũng thuộc về tha thọ dụng”.

Hỏi: Vì sao có thể biết thân Tự thọ dụng cũng thuộc về Tự tánh Pháp thân?

Đáp: Trong luận đó quyển chín chép: “Nên biết Pháp thân tương ưng với mấy đức, đó là tối thanh tịnh, bốn vô lượng, giải thoát, thắng xứ v.v…” Quyển mười luận đó lại chép: “Pháp giới các Đức Phật chính là Pháp thân, nên biết rằng luôn luôn có thể thực hiện năm nghiệp v.v…”.

Lại luận đó chép: “Nếu thân thọ dụng mà hàng Bồ-tát, Thanh văn và các chư Thiên, bao nhiêu chúng hội lẫn lộn có thể nhìn thấy đó, rõ ràng chẳng phải là tự tánh thân, bởi vì sắc thân có thể nhìn thấy”, lẽ nào Tự thọ dụng là thân vô sắc hay sao?

Đáp: Thân Tha thọ dụng chỉ có sắc gọi là hữu sắc. Không thể như vậy, phải nói rằng bởi vì năm uẩn cho nên chẳng phải là thân tự tánh, đâu chỉ nói là sắc. Chỉ có ba thân đó nghĩa đồng với kinh này.

Lại giải thích: Luận đó nói: “Tự thọ dụng và Tha thọ dụng hợp lại gọi là Thọ dụng, tự tánh Pháp thân chỉ có lý chân như nên nói pháp giới các Đức Phật chính là Pháp thân”.

Nói đầy đủ công đức là luận kia tự giải thích rằng: “Pháp thân của Phật do thành thật thắng nghĩa chân như hiện ra”. Đây chính là ý nói Pháp thân tương ưng với công đức tự tánh, nói thân khác nhau tương ưng không lỗi, theo ý này giống như kinh Thắng-man đã chép: “Ra khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân”, cùng tương ưng với hằng sa tánh công đức, chẳng phải là tướng công đức. Nhân sáu đường nói về thọ dụng chẳng phải là tự tánh thân, và y theo tha thọ dụng, chẳng nói là tự thọ chẳng phải thuộc về thọ dụng. Theo điểm này tức là đồng với luận Đại Trang Nghiêm, luận Kinh Pháp hoa, luận Bát-nhã Kinh nói về ba thân, và khác với kinh này, vì thế đều thuận theo nhau.

Vả lại, luận Kinh Pháp hoa chép: “Hóa thân tức ở đây là vừa Ứng vừa Hóa, đồng với Ứng thân. Cũng có thể, tự thọ dụng và tha thọ dụng đều gọi là Ứng thân”, bởi vì nói tuổi thọ vô biên là ứng thân, Pháp thân chỉ là như, kinh đó nói “Chẳng phải thật, cũng chẳng phải hư v.v…” Nhưng các văn trên đều y theo phần nhiều, trong đó hoặc có nơi thuộc về thân tha thọ dụng thì nói là Tự thọ dụng, ở vào Tự thọ dụng thì nói là Tha thọ dụng; hoặc ở nơi pháp thân lại nói Ứng, Hóa thân, hoặc ở nơi Ứng, Hóa thân lại nói là Pháp thân. Do đó cùng ở nơi tánh tướng mà nói, văn có xen tạp lẫn nhau, theo đây nên biết.

Văn kinh: Này người thiện nam! Pháp thân đó từ “hai vô sở hữu” hiển hiện ra.

Tán rằng: Giả định để giải thích lời hỏi vặn. Ý vặn hỏi: Đã nói rằng chẳng phải Ứng thân chẳng phải Hóa thân đó là Pháp thân, như thế sao trước đây nói ở thân thứ nhất với đồng sự các Đức Phật, ở thân thứ hai với đồng ý các Đức Phật, ở thân thứ ba đồng thể với các Đức Phật?

Lại nói: Thân thứ nhất này nương vào Ứng thân mà được hiển hiện, thân thứ hai này nương vào Pháp thân mà được hiển hiện, Pháp

thân đã chẳng phải là hai thân Ứng, Hóa, như thế làm sao thành tựu? Như người thế gian thân mỗi người đều có khác nhau, cho nên sự nghiệp, ý thể mỗi người đều không giống nhau. Lại như trước đã nói: Mặt trời, mặt trăng, nước gương, nhờ ánh sáng mà hiện rõ hình ảnh, cũng không thành tựu được. Nay lại giải thích, văn chia làm bốn phần:

  1. Nêu ra.
  2. Gạn hỏi.
  3. Giải thích.
  4. Thành tựu.

Đây chính là phần nêu ra. Nêu ra Ý pháp thân tức là lìa không hai, lại do Như, Trí như như mà chứng mới hiển bày được, do đó thường làm nơi nương vào để phát khởi các sự nghiệp. Trước đây nói là khác nhau ấy là Tướng, Dụng luận riêng môn, nói giống như mặt trời, mặt trăng nhờ ánh sáng, nước, gương mà hiện rõ các hình ảnh là Tướng, Tánh hợp luận môn; hoặc nói Tự tánh Pháp thân hiển bày Ứng thân tức là Nhiếp tướng quy tánh môn. Vì vậy trong Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh chép: “Pháp giới các Đức Phật chính là Pháp thân. Nên biết rằng thường có thể thực hành năm sự nghiệp, một là nghiệp cứu giúp tai họa bất ngờ, khiến cho người thấy Phật, nếu là người mù lòa liền được nhìn thấy, người điếc được nghe thấy, người điên được trí nhớ, tất cả các nghiệp như vậy v.v…”.

Luận tự hỏi rằng: “Nếu nói Pháp thân chẳng phải là cảnh của sáu căn, vì sao nay nói mù lòa được nhìn thấy v.v… có thể thấy Pháp thân là Pháp thân nghiệp?”?

Đáp: Thấy Pháp thân là nhờ nguyện lớn xưa kia dẫn dắt phát ra thế lực, thành tựu hoàn toàn pháp thân lần lượt phát khởi công dụng của Biến hóa thân, từ đó giúp cho người mù lòa được nhìn thấy v.v… Do tư lương xưa kia dẫn dắt phát sinh thế lực, chứng được Pháp thân tùy ý khởi các công dụng, như bộ phận khởi động máy, đem ngọn quay về gốc. Nói thấy Pháp thân thật ra chỉ thấy Hóa thân, cho nên ở sau kết thúc thành tựu nói: “Vì thế cho nên biết rằng cảnh giới thanh tịnh, trí tuệ thanh tịnh không thể phân biệt, không có trong đó, là cội gốc của diệt, đạo cho nên đối với Pháp thân này có thể hiển bày các thứ sự nghiệp của Như lai”. Nói về “Nhị vô sở hữu”, Tam tạng Chân-đế nói: “Như năm loại nhị vô sở hữu dưới đây; sở hiển hiện cố là vượt ra ngoài hai cảnh của năm loại, gọi là hiển hiện, đối với năm thứ hai này là không vốn có. Trong phần nêu ra có cả hai:

  1. Cảnh nhị vô sở hữu.
  2. Trí nhị vô sở hữu.

Do Như cảnh thù thắng vượt trội năm thứ hai không này, do trí vô phân biệt lần lượt chứng năm thứ hai hai không cảnh này, cho nên Pháp thân hiển bày. Lược bỏ không nói về phương tiện hạnh, nguyện đại bi v.v… và những thứ còn lại. Như vậy, hai Không này tức là Sinh không và Pháp không, Trí tức là Sinh không, Cảnh tức là Pháp không, nhân nơi hai Không hiển hiện Pháp thân.

Văn kinh: Thế nào gọi là hai vô sở hữu?.

Tán rằng: Gạn hỏi.

Văn kinh: Đối với pháp thân, tướng và tướng xứ cả hai đều không có.

Tán rằng: Giải thích, chia làm hai: Đầu tiên là cảnh không có hai, sau đó nói về trí không có hai. Đây là cảnh không có hai: Trước là chung, sau là riêng.

Đây là chung. Tướng tức là nhân ngã, tướng xứ tức là pháp ngã. Do Nhân ngã kia nương vào Pháp ngã mà phát khởi nên gọi là tướng xứ. Vì thế trong luận Thành Duy Thức chép: “Như từ nơi cái ghế vân vân rồi bảo đó là người v.v…”. Do đó, ngã thể của con người không có, chỉ do vọng tưởng mà thấy, giống như con mắt bị màng che nhìn thấy có vầng sáng tròn” . Do đó các kinh luận gọi Tướng là không có tánh. Bởi vì Pháp như như lìa “Nhị vô” nên nói rằng cả hai đều không có; luận Thành Duy Thức chép: “Viên thành thật từ nơi Y tha khởi kia, thường lìa tánh biến kế chấp trước đó”.

Văn kinh: Chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải số, chẳng phải không số, chẳng rõ ràng chẳng tối tăm.

Tán rằng: Hiển bày riêng Nhị vô. Phi hữu phi vô (chẳng phải có, chẳng phải không) là bốn câu lìa bỏ có không:

  1. Có.
  2. Không.
  3. Vừa có vừa không.
  4. Chẳng phải Có, chẳng phải Không.

Chỉ nêu ra câu thứ tư để hiển rõ lìa ba câu trước. Chẳng phải một, chẳng phải khác là lìa bỏ bốn câu “một, khác” này:

  1. Một.
  2. Khác.
  3. Vừa một vừa khác.
  4. Chẳng phải một chẳng phải khác.

Cũng nêu ra câu thứ tư hiển rõ lìa ba câu trước. Chẳng phải số, chẳng phải không phải số là vượt quá tình số phân biệt gọi là chẳng phải số, là cảnh vô phân biệt gọi là chẳng phải không phải số, lại siêu vượt số lượng gọi là chẳng phải số, là thuộc về pháp nên là chẳng phải không phải số. Nói chẳng rõ ràng chẳng tối tăm tức là chẳng nhơ chẳng sạch trong các kinh thường nói, từ đầu thường lìa nhiễm không phải đến nay mới tịnh gọi là chẳng rõ ràng, giả như lúc ở trong nhiễm mà chẳng nhiễm gọi là chẳng phải tối tăm. Do tâm thắng diệu này nên dứt bặt ngôn từ.

Theo luận Nhiếp Đại Thừa thì không có ba thứ hai tướng:

1. Vô hữu không phải là hai tướng, chẳng phải hữu tướng là vì tất cả pháp biến kế sở chấp đều không có, do đó cũng chẳng phải vô tướng, từ không để hiển rõ cái có của tự tánh.

2. Hữu vi vô vi không có hai tướng là vì nghiệp phiền não chẳng phải là việc làm cho nên chẳng phải là tướng hữu vi, bởi có thể thị hiện như pháp hữu vi đạt được tự tại do đó chẳng phải là tướng vô vi.

3. Dị tánh Nhất tánh không có hai tướng là vì thể của Phật thân là đồng nhất cho nên chẳng phải là tướng khác nhau, vô lượng y chỉ thảy đều chứng đắc khác nhau do đó chẳng phải là tướng đồng nhất. Tất cả đều không có cho nên gọi là không có hai tướng.

Văn kinh: Trí như như ấy, không thấy tướng và tướng xứ, không thấy chẳng phải có, chẳng phải không, không thấy chẳng phải một, chẳng phải khác, không thấy chẳng phải số, chẳng phải không phải số, không thấy chẳng rõ ràng, chẳng tối tăm.

Tán rằng: Nói về Như lai như trí tức là trí vô phân biệt như cảnh mà chứng, do đó không thấy sự chung, riêng của năm điều không có này, tu tập đầy đủ đạo quả trọn vẹn.

Văn kinh: Cho nên biết rằng cảnh giới thanh tịnh, trí tuệ thanh tịnh, không thể phân biệt, không có trung gian.

Tán rằng: Dưới đây là kết thúc thành tựu. Đây là thành tựu bình đẳng hai thứ cảnh, trí cho nên hợp lại thành Pháp thân. Hai thứ cảnh, trí chẳng phải một, chẳng phải khác, không thể phân biệt, không có trung gian, kia đây khác nhau do đó cùng gọi là Pháp thân.

Văn kinh: Là cội gốc của Diệt đạo, cho nên đối với Pháp thân này thường hiển bày các thứ sự nghiệp của Như lai.

Tán rằng: Đây là kết thúc thành tựu Pháp thân là nơi Ứng, Hóa thân nương vào để có thể phát khởi các thứ sự nghiệp lợi ích. Cảnh thanh tịnh cho nên là cội gốc của Diệt đế, trí thanh tịnh do đó là cội gốc của đạo đế. Do pháp Như như, Trí như như là cội gốc của diệt, đạo cho nên Ứng, Hóa thân nương vào nơi này phát khởi các thứ sự nghiệp. Như luận Nhiếp Đại Thừa nói lược về năm nghiệp cho nên gọi là chủng chủng, năm nghiệp ấy là:

1. Cứu giúp tai họa là sự nghiệp, vì thường giúp cho những người mù lòa được mắt sáng v.v….

2. Cứu giúp đường ác là sự nghiệp, vì phá sạch nơi chẳng lành, thiết lập nơi toàn thiện.

3. Cứu giúp chẳng phải phương tiện là sự nghiệp, vì giúp cho các hàng ngoại đạo dứt bỏ phương tiện sai lầm, cầu hạnh giải thoát, vào trong thánh giáo của Như lai.

4. Cứu giúp Tát-ca-da là sự nghiệp vì giảng dạy cho người kia có thể vượt thoát ba cõi; trong luận Vô Tánh giải thích rằng: nghĩa là ở trong đó thân luống dối bị chuyển đổi, tức là các pháp hữu lậu trong ba cõi. Đối với những người như thế, giảng giải chỉ dạy các pháp ra khỏi.

5. Cứu giúp Nhị thừa là sự nghiệp, cứu giúp các thừa Bồ-tát cõi Dục và các hàng Thanh văn bất định chủng tánh v.v… Ở nơi yên ổn, giúp tu tập hạnh Đại thừa.

Hỏi: Khiến cho đạt được Nhị thừa há chẳng phải nghiệp sao?

Đáp: Đây chính là nghiệp thứ ba và thứ tư.

Văn kinh: Này người thiện nam! với thân này, nhân duyên, cảnh giới, xứ sở, quả vị nương vào Gốc thật khó nghĩ bàn.

Tán rằng: Toàn bộ đoạn thứ ba trả lời về nhân, tức là hiển bày nương vào nhân mà đạt được quả. Trả lời về vấn đề tu hành, trong này còn phân biệt rõ thứ lớp đạt được quả, không nói về thứ lớp tu hành. Ý này khiến cho người tu nhân phải biết rõ thứ lớp. Thứ lớp nhân là do nương vào thứ lớp quả. Luận Biện Trung Biên ba chép: “Khí là dị thục, lực là sự tăng thượng của nó, ái lạc thêm lớn thanh tịnh như dưới đây tức là năm quả”. Luận giải thích rằng: “Khí gọi là thuận theo pháp lành, dị thục gọi là đạt được thân thù thắng để làm đạo khí, lực nghĩa là do lực tăng thượng của khí kia khiến cho các pháp lành thành tựu thượng phẩm tánh”.

Ý này là do nương vào thân thù thắng và năng lực lành ngày xưa hợp lại mà nay pháp lành thành tựu tăng thượng phẩm. Ái lạc nghĩa là khả năng tu lành của nhiều đời trước, đời nay đối với pháp lành phát sinh ưa thích sâu sắc. Thêm lớn nghĩa là những khả năng tu lành ở đời hiện tại, khiến cho gốc lành tu tập mau chóng được trọn vẹn. Tịnh nghĩa là dứt trừ chướng ngại, lìa hẳn sự ràng buộc.

Đây là năm thứ lớp tức là năm quả vị:

  1. Dị thục (Tức là khí trước đây).
  2. Tăng thượng quả tức là pháp lành thành tựu thượng phẩm, do năng lực tăng thượng của thiện dị thục cho nên pháp lành thành tựu thượng phẩm là quả tăng thượng.
  3. Quả Đẳng lưu tức là do năng lực tu lành của nhiều đời trước, khiến cho đời này đối với pháp lành phát sinh ưa thích sâu sắc là quả đẳng lưu ở trước.
  4. Quả Sĩ dụng, do năng lực tu tập ở đời hiện tại khiến cho gốc lành mau chóng được trọn vẹn, là quả sĩ dụng, đây là nói theo pháp sĩ dụng.
  5. “Quả Ly hệ, do dứt trừ chướng ngại trước đây nên lìa hẳn ràng buộc, là quả ly hệ”.

Nay ở đoạn này ý nói về nghĩa này, thứ lớp văn phân tích về quả khác nhau so với luận kia có mười thứ quả:

1. Quả Hậu hậu, đó là nhờ vào chủng tánh mà đạt được quả phát tâm, như vậy các quả lần lượt thay đổi, nên biết rằng ý này nói đến tiền tiền là nhân, hậu hậu là quả, bởi vì hậu hậu vị nhân nơi trước mà đạt được, do đó hậu hậu vị tính là tiền quả, đây là nói chung.

2. Quả Tối sơ, đó là đầu tiên chứng được pháp xuất thế gian, tức là Sơ địa.

3. Quả Sổ tập, đó là các địa vị hữu học từ đây về sau (tức là địa vị Thập Địa).

4. Quả Cứu cánh, đó là pháp vô học (tức là Phật Địa).

5. Quả Thuận theo, đó là dựa theo từng bước nên biết rõ tức là thuộc về hậu hậu quả.

6. Quả Chướng diệt, đó là có thể đoạn đạo, tức là quả tối sơ có thể diệt trừ chướng ngại, vì thế nói là diệt chướng (đây là ý nêu ra ban đầu để hiển rõ hậu trí cũng giống như thế).

7. Quả Ly hệ, đó chính là quả sổ tập và cứu cánh, cho nên địa vị hữu học và vô học như dưới đây lìa sự ràng buộc của phiền não.

8. Quả Thù thắng, đó là công đức thù thắng của các thần thông v.v…

9. Quả Hữu thượng, đó là Bồ-tát Địa vượt ra khỏi các thừa khác, nhưng chưa thành Phật.

10. Quả Vô thượng đó là Như lai địa, bởi vì bậc Thượng này trải qua tất cả các pháp thù thắng không còn sót lại pháp nào.

Ở đây, sáu quả sau là nói theo nghĩa khác nhau của bốn quả trước, toàn văn chia là ba phần:

  1. Nêu tổng quát.
  2. Giải thích riêng.
  3. Khuyến khích tu tập.

Đây là phần một, nêu ra có năm nghĩa:

  1. Thân, tức là khí quả dị thục.
  2. Nhân duyên, tức là nương vào sự tu điều lành trước đây của khí đó, là nhân duyên chính là quả tăng thượng do thiện thân khí làm năng lực tăng thượng giúp cho pháp lành thêm lớn.
  3. Cảnh giới tức là nêu ra cảnh sở duyên của quả đẳng lưu, tức là Bồ-đề, Niết-bàn và các pháp lành đều là cảnh của nó, duyên theo pháp thù thắng này phát khởi ưa thích.
  4. Xứ sở: tức là quả sĩ dụng, do luôn luôn tu thiện Bồ-đề mau chóng trọn vẹn là nơi mong cầu, đó là ý muốn đến đại Bồ-đề của Đại thừa.
  5. Quả nương vào căn bổn là quả Ly hệ, “Quả Y Bổn”: là quả ly hệ (lìa ràng buộc) này không lìa pháp như như. Vì khó nghĩ bàn: Tóm lại là khen ngợi khó nghĩ bàn được, chẳng phải là cảnh giới của hàng Nhị thừa.

Văn kinh: Nếu hiểu rõ nghĩa này thì thân này chính là Đại thừa, là Như lai tánh, là Như lai tạng.

Tán rằng: Dưới đây là giải thích:

  1. Giải thích về khí quả dị thục.
  2. Nương vào thân này giải thích nhân duyên, tức là quả tăng thượng.
  3. Từ “Không lui sụt địa tâm v.v…” trở xuống là nói về sĩ dụng quả.
  4. Từ “Này người thiện nam! Pháp thân ấy v.v…” Về sau là nói đến quả ly hệ. Cảnh giới đó là tất cả các pháp khác nhau trong mười quả này, là nghĩa khác nhau của năm quả này.

Đây là mở đầu. Nếu hiểu rõ nghĩa này, là đầu tiên đầu tiên nói chung về khuyến tín. Thân này chính là Đại thừa, là năng lực tăng thượng đạt được quả Đại thừa, do đó gọi là Đại thừa. Là Như lai tánh, tức nương vào thân này tu tập các pháp lành dần dần thêm lớn là Như lai tánh. Lại chưa hiện khởi các chủng tử vô lậu và thể chân như là Như lai tánh, sự tánh và lý tánh đều gọi là Phật tánh, là Như lai tạng, tức là quả thức dị thục, trong kinh Lăng-già chép: “Thức A-lại-da gọi là không Như lai tạng, huân tập đầy đủ các pháp vô lậu cho nên gọi là bất không Như lai tạng, thức thứ tám hữu lậu luống dối vì thế gọi là không; thể của các chủng tử vô lậu trong thức gọi là bất không Như lai tạng, bởi vì lìa xa luống dối. Nói đầy đủ tức là có đầy đủ hai thứ chủng tử hữu lậu, vô lậu”.

Văn kinh: Nương vào thân này có thể phát khởi sơ tâm, tu hành địa tâm mà được hiển hiện.

Tán rằng: Sau là giải thích về nhân duyên, tức là quả tăng thượng. Do quả dị thục nên năng lực của thân tăng thêm, liền phát khởi sơ tâm, tu hành địa tâm.

Văn kinh: Không lui sụt địa tâm cũng hiện bày tâm Kim cương, tâm của hàng Nhất sinh bổ xứ.

Tán rằng: Nói về quả sĩ dụng. Có sự khác nhau trong quả sĩ dụng.

Trong quả có tám quả:

  1. Quả Hậu hậu.
  2. Quả Tối sơ.
  3. Quả Sác tập.
  4. Quả Rốt ráo.
  5. Quả Chướng diệt.
  6. Quả Hữu thượng.
  7. Quả Vô thượng.
  8. Quả Thù thắng.

Không lui sụt địa này là quả tối sơ đạt được sơ địa chứng đến không lui sụt, do đó tập hợp làm quả sác tập và quả hữu thượng, quả hậu hậu chung cho Phật địa.

Văn kinh: Tâm Như lai thảy đều hiển hiện, vô lượng, vô biên diệu pháp của Như lai thảy đều hiển hiện.

Tán rằng: Quả cứu cánh thứ tư và quả vô thượng thứ bảy, trong đó trước tiên là nói chung, sau là nói riêng. Đây là nói chung.

Văn kinh: Nương vào Pháp thân không thể suy nghĩ bàn luận này mà đại Tam-muội được hiển hiện, nương vào Pháp thân này mà hiển bày tất cả đại trí.

Tán rằng: Nói riêng về quả cứu cánh và quả vô thượng. Trong đó lại có ba:

  1. Đạt được định trí.
  2. Hiện bày Ứng, Hóa.
  3. Hiển rõ bốn đức.

Đây là đạt được định trí, cũng là đạt được quả chướng diệt, nên đạt được định trí.

Văn kinh: Vì thế cho nên hai thân nương vào Tam-muội, nương vào trí tuệ mà được hiển hiện.

Tán rằng: Hiện bày Ứng thân, Hóa thân.

Văn kinh: Pháp thân ấy nương vào tự thể nói thường, nói ngã, nương vào đại Tam-muội nên nói về lạc, nương vào đại trí nên nói thanh tịnh.

Tán rằng: Ba là Hiển rõ bốn đức: đầu tiên nói về riêng; sau đó kết thúc chung. Đây là nói về riêng. Tự thể như như cho nên nói là thường, vì thường nên nói là ngã. Nhờ Tam-muội nên được đại lạc. Kén chọn nhân và Nhị thừa gọi là đại Tam-muội. Từ trí đoạn chướng cho nên đạt được tịnh đức.

Hỏi: Trong luận Bảo Tánh và luận Nhiếp Đại Thừa đều nói Tín là nhân của tịnh đức, ở đây sao nói là trí?

Đáp: Bởi vì các luận đó loại trừ sự vẩn đục của bất tín và biệt nhân nên tín là nhân của tịnh đức. Đây là y cứ theo đoạn nhiễm, và thông thường trí là nhân của tịnh đức. Còn thường, ngã là nói theo thể, lạc, tịnh là nói theo nhân và thể mô phỏng nói lẫn nhau.

Văn kinh: Vì thế cho nên Như lai thường trụ tự tại, an vui thanh tịnh.

Tán rằng: Tổng kết. Tự tại tức là ngã đức.

Văn kinh: Nương vào đại Tam-muội, tất cả thiền định Thủ-lăngnghiêm v.v… tất cả niệm xứ đại pháp niệm v.v… đại từ đại bi.

Tán rằng: Dưới đây nói về quả thù thắng: Văn chia làm ba: Đầu tiên là pháp, tiếp theo là dụ, sau cuối là hợp. Trong pháp có hai: trước hết nói về công đức thù thắng của định phẩm, sau đó nói về công đức thù thắng của trí phẩm. Nương theo định mà phát tuệ; vì thế trước tiên nói về định phẩm. Định phẩm chia làm ba: Đầu tiên nêu ra, tiếp đến liệt kê, sau cuối kết thúc; hoặc đầu tiên phân tích sở y, tiếp theo phân tích năng y, sau cuối kết thúc. Đại Tam-muội là tánh đạt được Tam-muội.

Tuy nhiều nhưng chỉ có tám thứ:

  1. Thiền.
  2. Định.
  3. Niệm xứ.
  4. Đại từ bi.
  5. Đà-la-ni.
  6. Sáu Thần thông.
  7. Tám Tự tại.
  8. Tất cả pháp bình dẳng nhiếp thọ.

Đây là bốn thứ đầu tiên. Thiền tức là bốn tĩnh lự, Định gọi là bốn định vô sắc, vì thế kinh Tát-già-ni chép: “Như lai thiền định là gì? Đáp: Có thứ đệ định, và Thủ-lăng-nghiêm v.v… hoặc chính là Đại thừa Quang định, Tập Phước đức vương định, Hiện thủ định, Kiện hành định”. Truyện nói: “Thủ-lăng-nghiêm tức là kiện hành định, chính âm là Tô-lăng-già-ma, Hán dịch là kiện hành, là nêu lên tính thượng thủ của nó. Định thực sự vô biên, cho nên nói là đẳng”. Về chung riêng, sơ lược nêu ra thiền định là chung, Thủ-lăng-nghiêm là riêng.

Tất cả niệm xứ nghĩa là ba niệm xứ, bốn niệm xứ và sáu niệm v.v… nói đại pháp niệm tức là niệm pháp trong sáu niệm, vì pháp là thầy của Phật cho nên trước tiên nói về pháp niệm, có lẽ đây chính là hoại duyên pháp niệm trụ. Kinh Tát-già-ni quyển bảy chép: “Pháp niệm xứ nghĩa là quán sát nội pháp và ngoại pháp, nội pháp, ngoại pháp thực thi hai thứ ý tưởng, đó là thường và vô thường. Thường dùng Phật nhãn thấy tất cả đến ngồi nơi đạo tràng không hề bị thay đổi”. Đây là nói theo quả, cho đến chép: “Không dùng nhục nhãn, Thiên nhãn, tuệ nhãn để quán sát. Vì sao? Vì ba thứ nhãn không có tướng mạo cho nên dùng pháp nhãn mà quán sát”. Đây là nói theo thông nhân nêu ra một loại khác. Đại từ đại bi tức là bốn vô lượng, bởi vì ban vui bạt khổ thù thắng cho nên nêu ra để nói. Kinh Tát-già-ni quyển sáu có ba mươi hai loại đại bi quán. Kinh Tư Ích quyển hai có ba mươi sáu loại đại bi, rộng như các kinh đó đã nói.

Văn kinh: Tất cả Đà-la-ni, tất cả thần thông, tất cả tự tại, tất cả pháp bình đẳng nhiếp thọ.

Tán rằng: Thứ năm là đức Tổng trì. Tất cả thần thông là sáu thông đức. Như kinh Tát-già-ni quyển bảy chép: “Thiên nhãn thông là công đức tạo thành từ trí tuệ, thấy rõ hình sắc vốn có khắp mười phương, cho đến cũng nhìn thấy mọi hạnh nghiệp tu tập của Bồ-tát, Thanh văn, chúng sinh trong năm đường tất cả không sót loại nào”. Cho đến năm loại còn lại đều như kinh đã nói. Tất cả tự tại tức là mười thứ lớp tại, như trên đã nói còn kinh Tát-già-ni quyển bảy chép: “Đạt được bốn như ý thành tựu bốn tự tại:

  1. Mạng tự tại.
  2. Thân tự tại.
  3. Pháp tự tại.
  4. Thần lực tự tại.

Mạng như trước đã giải thích. Thân tự tại là vì chúng sinh nên tùy tâm thực hiện thân, tùy tâm thực hiện sắc cũng hiện bày oai nghi; hoặc muốn cùng với chúng sinh đồng thân tướng đó, thảy đều có thể thực hiện gọi là thân tự tại. Pháp tức là biết rõ các pháp thế và xuất thế, đạt được biện tài vô ngại, tùy theo ý chúng sinh mà nói giúp cho họ trụ trong chánh tín. Đó gọi là pháp tự tại. Thần lực tự tại là hiện bày đầy đủ các thứ thần thông”. Tất cả pháp bình đẳng nhiếp thọ là vì đạt được pháp bình đẳng, chúng sinh bình đẳng, thường nhiếp thọ tất cả hữu tình. Trong luận Du-già quyển bốn mươi sáu chép: “Do năm thứ tướng rộng khắp đối với hữu tình, tâm đó bình đẳng:

  1. Bồ-tát lúc đầu phát tâm nguyện đại Bồ-đề như thế cũng vì lợi ích cho tất cả mọi loài hữu tình cho nên khởi tâm bình đẳng.
  2. Đối với các loài hữu tình tâm trụ trong thương xót, hoàn toàn bình đẳng.
  3. Đối với các loài hữu tình thâm tâm phát khởi đều bình đẳng yêu thương như con đẻ.
  4. Biết mỗi hữu tình vốn có pháp tánh, tức là pháp tánh của tất cả hữu tình, bởi vì pháp tánh bình đẳng nên tâm đều thực hành, đối với các loài hữu tình tâm trụ trong bình đẳng.
  5. Như đối với một hữu tình thực hành hạnh lợi ích, đối với tất cả hữu tình thực hành hạnh lợi ích cũng giống như vậy, đem tâm lợi ích cùng đối với các loài hữu tình, tâm trụ trong bình đẳng”.

Luận Đại Trang Nghiêm quyển bảy nói có năm thứ bình đẳng, luận Pháp Hoa và luận Nhiếp Đại Thừa đều có ba thứ bình đẳng. Hoặc có thể, tất cả pháp bình đẳng chỉ cho các định phẩm nhiếp thọ tất cả công đức pháp bình đẳng, hoặc nhiếp thọ này thuộc về văn kết thúc ở sau nói: “Nhiếp thọ Phật pháp như vậy thảy đều xuất hiện, từ sự bình đẳng này mà thường bình đẳng nhiếp thọ.

Văn kinh: Phật pháp như vậy thảy đều xuất hiện.

Tán rằng: Kết thúc.

Văn kinh: Nương vào đại trí, mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại biện này.

Tán rằng: sau đây nói về công đức thù thắng của trí phẩm. Văn chia làm ba như định, đây chính là nêu ra chung và nói về riêng. Đại trí tức là Nhất thiết trí làm cội gốc, mười lực v.v… tức là Nhất-thiết-chủngtrí; hoặc là đại trí, tức là chân như trí tánh, mười lực v.v… cả ba loại rộng như các nơi khác phân tích.

Văn kinh: Một trăm tám mươi pháp bất cộng, tất cả pháp hy hữu không thể suy nghĩ bàn luận thảy đều hiển hiện.

Tán rằng: Một trăm lẻ tám pháp Bất cộng y theo kinh Vô thượng

Y chép: “Đức Phật bảo A-nan: có một trăm lẻ tám pháp Bất cộng, đây là công đức thù thắng của Như lai, một là ba mươi hai tướng, hai là tám mươi vẻ đẹp”. Hai phần này rộng như các kinh luận khác đã phân tích, nay chỉ nói sơ lược về ba mươi hai tướng, kinh Đại Bát-nhã ba trăm tám mươi mốt chép”:

  1. Tướng dưới chân Thế tôn có bằng phẳng.
  2. Tướng dưới chân Thế tôn hình bánh xe ngàn căm.
  3. Tướng tay chân mềm mại.
  4. Tướng trong các kẽ ngón tay có da mỏng như màng lưới.
  5. Tướng Các ngón tay chân tròn đầy dài và nhọn.
  6. Tướng Gót chân đầy đặn tương xứng với mu bàn chân.
  7. Tướng Mu bàn chân đầy đặn tương xứng với gót chân (Du-già không có tướng này).
  8. Tướng Hai bắp vế Thế tôn như bắp chuối tròn.
  9. Tướng Hai cánh tay dài duỗi thẳng, khi đứng dài quá gối.
  10. Tướng nam căn ẩn kín.
  11. Tướng Mỗi lỗ chân lông đều mọc một sợi lông.
  12. Tướng Đầu lông tóc đều hướng lên trên.
  13. Tướng Da thân láng mịn.
  14. Tướng Da thân màu vàng thắm.
  15. Tướng Bảy chỗ đầy đặn (hai tay, hai chân, hai vai và đỉnh đầu).
  16. Vai và cổ tròn đầy.
  17. Tướng hai nách đầy đặn.
  18. Tướng Dung nghi của Thế tôn rạng rỡ trang nghiêm.
  19. Thân tướng của Thế tôn cao lớn oai nghiêm.
  20. Tướng Thể tướng của Thế tôn dọc ngang cân phân.
  21. Tướng Ngực cằm và nửa thân trên của Thế tôn như sư tử đầu đàn.
  22. Tướng Thân thường phát ra ánh sáng một tầm.
  23. Tướng Răng trắng trong đều nhau dày khít và có bốn mươi chiếc.
  24. Tướng bốn chiếc răng cửa sáng trắng.
  25. Tướng Thường có được năm mùi vị.
  26. Tướng lưỡi rộng dài mềm mỏng phủ le ra kín chân tóc.
  27. Tướng Phạm âm hòa nhã mọi người đều thích nghe.
  28. Tướng Lông mi xanh biếc ngay ngắn không tán loạn.
  29. Tướng Mắt xanh biếc tươi sáng đỏ hồng, trong điểm thêm ánh sáng trắng.
  30. Tướng Mặt như trăng tròn, mày như chiếc cung.
  31. Tướng Sợi lông giữa hai đầu chân mày sáng ngời, hơn xa ngọc báu.
  32. Tướng Ô-sắc-nị-sa (nhục kế) giống như lọng trời”.

Nhưng khai hợp có khác nhau so với Du-già, trong Du-già tánh tướng rạng rỡ trang nghiêm thứ mười tám làm thân không cong vạy, lại tánh tướng thứ hai mươi ba làm răng không hở, răng sáng trong, tánh tướng cằm ngực thứ hai mươi mốt làm hai tướng. Kết hợp tướng mu bàn chân tương xứng với gót chân thứ bảy, kết hợp tướng bốn răng cửa vào tướng răng, kết hợp tướng cao lớn oai nghiêm thứ mười chín vào tướng đồng thanh đồng thủ thứ hai mươi, không có tướng mặt như trăng tròn thứ ba mươi. Đây là thuận theo thế tục nên nói về tướng không giống nhau, vì vậy nói có khác nhau.

Y theo các tướng nêu ra ở trước có bài tụng rằng:

Các tướng hiện bày mềm lưới nhọn

Gót mu chân vế cánh tay dài

Lông mọc một phía da bóng mịn S

ắc vàng bảy nơi vai tròn trịa.

Thể nghi cao lớn thật trang nghiêm

Sư tử ánh sáng răng bốn chục

Răng cửa vị lưỡi và âm thanh.

Mi mắt xoáy tròn mày lọng trời”.

Trong Du-già quyển bốn mươi chín chép: “Hóa thân khiến cho hữu tình phát sinh niềm hỷ lạc sâu sắc đối với các thứ nghiệp ác hiện hành của họ, như vậy các thứ nghiệp ác hiện hành là sở đối trị, cảm nhận tướng tốt tùy theo ý thích các thứ nghiệp lành là năng đối trị”. Lại chép: “Như vậy tất cả ba mươi hai loại trượng phu tướng không hề có sự khác nhau. Nên biết rằng đều sử dụng tịnh giới làm nhân mà cảm ứng được. Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát hủy phạm tịnh giới, thân người thấp hèn còn không được, huống là có thể cảm đến tướng đại trượng phu sao?”

Kinh Đại Bát-nhã lại chép: “Như vậy Thiện hiện Bồ-tát Ma-hatát thực hành Bát-nhã sâu sắc, thường đem hai thứ Tài, Pháp bố thí thâu nhiếp các loài hữu tình, thật là pháp hy hữu vô cùng đặc biệt”.

“Lại do thực hành năm sự tu tập:

  1. Phát tâm.
  2. Lâu dài.
  3. Không đứt quãng.
  4. Thiết tha tôn trọng.
  5. Sự cảm ứng được đầy đủ”.

Kinh Y Bảo Nữ quyển bốn chép: “Tu nhân và tướng có chút khác nhau”.

Kinh Vô Thượng Y quyển hai nói về sự tu nhân đồng với luận Du-già quyển bốn mươi chín: “Nói là tướng hơi khác nhau là do người phiên dịch mà thôi”.

Lại nói tu hành bốn chánh nghiệp đạt được ba mươi hai tướng:

  1. Quyết định không tạp, trong luận Du-già gọi là quyết định tu tác.
  2. Quán xét tường tận tinh tế, trong luận Du-già gọi là Ủy tất tu tác
  3. Thường xuyên tu tập không xen hở, Trong luận Du-già gọi là hằng thường tu tác
  4. Tâm không điên đảo, trong luận Du-già gọi là vô tội tu tác.

Nghiệp thứ nhất đạt được tướng dưới chân bằng phẳng.

– Nghiệp thứ hai đạt được chín tướng:

  1. Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe.
  2. Gót chân đầy đặn.
  3. Mười ngón tay chân có màng lưới.
  4. Da láng và mịn.
  5. Bảy chỗ đầy đặn.
  6. Hai vai bằng thẳng, hai nách đầy đặn.
  7. Cánh tay tròn lẳn.
  8. Lưỡi rộng dài.
  9. Ngực như ngực sư tử.

– Nghiệp thứ ba đạt được năm tướng:

  1. Ngón tay thon dài.
  2. Gót chân dài.
  3. Thân thẳng không khom.
  4. Ngang dọc xứng nhau.
  5. Dung mạo hoàn toàn thanh tịnh.

Nghiệp thứ tư đạt được các tướng còn lại, đồng với Du-già.

Trong luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa quyển sáu cũng nói về nhân của ba mươi hai tướng, kinh Tát-già Ni-kiền Tử quyển sáu cũng nói về ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp, phổ biến như các kinh luận khác đã giải thích. Tướng tốt đều sử dụng bốn căn y xứ mắt, lưỡi, thân, nam và thiệt căn làm thể, nếu trong chủng tánh của các Bồ-tát chỉ có chủng tử thì nương vào thân mà an trụ, thắng giải hạnh địa mới có thể tu tập pháp khác, có thể đạt được phương tiện, tịnh thắng ý lạc địa mới gọi là Đắc (đạt được). Nếu ở ngoài các địa trên thì như vậy tướng tốt chuyển thành thắng thanh tịnh. Nếu ở Như lai địa thì nên biết rằng tướng tốt sẽ là thiện tịnh vô thượng.

Hỏi: Tại vì sao chỉ lập ba mươi hai loại này làm tướng đại trượng phu?

Đáp: Quyển bốn mươi chín chép: “Các tướng như vậy là có sắc cho nên chỉ là phẩm thắng trong liệt, vì thế các loài hữu tình dễ dàng nhận biết. Tuy có tất cả các thứ Phật pháp bất cộng đều được gọi là tướng đại trượng phu, nhưng chỉ lập các tướng này làm tướng đại trượng phu”. Kinh Đại Bát-nhã quyển ba trăm tám mươi mốt chép: “Thế nào là tám mươi tùy hảo của Như lai? Này thiện hiện! Đó là:

  1. Móng tay thon và dài.
  2. Ngón tay ngón chân tròn thon và mềm mại.
  3. Tất cả các ngón tay chân đều đầy đặn như nhau.
  4. Tay chân tròn trịa sạch mềm như ý.
  5. Gân máu chằng chịt ẩn kín không hiện.
  6. Hai mắt cá đều ẩn kín.
  7. Bước đi tiến thẳng như rồng chúa, voi đầu đàn.
  8. Bước đi oai hùng thong dong như sư tử đầu đàn.
  9. Bước đi an bình giống như trâu đầu đàn.
  10. Bước nhẹ nhàng lại giống như ngỗng đầu đàn.
  11. Quay cổ về bên phải như rồng đầu đàn, voi đầu đàn.
  12. Chi tiết theo thứ lớp tròn trịa đẹp đẽ.
  13. Khớp xương giao nhau giống như rồng cuộn.
  14. Đầu gối tròn vạnh vững chắc đầy đặn.
  15. Chỗ kín đẹp đẽ đầy đặn thanh tịnh.
  16. Da trên thân trơn láng bụi bặm không dính.
  17. Thân thể dung mạo chân thành nghiêm trang thường không yếu hèn.
  18. Thân thể vững chắc gắn bó với nhau.
  19. Thân thể an định, chân thành tôn trọng, không hề nghiên lệch.
  20. Thân tướng giống như tiên vương thanh tịnh uy nghiêm.
  21. Vầng ánh sáng tròn quanh thân, thường tự chiếu sáng.
  22. Bụng hình vuông không hề thiếu sự mềm mại.
  23. Rốn sâu hướng về phía phải tròn trịa sạch sẽ.
  24. Rốn dày không lồi không lõm rất đẹp đẽ.
  25. Da dẻ không ghẻ lở, ung nhọt.
  26. Lòng bàn tay đầy đặn, dưới bàn chân bằng phẳng.
  27. Đường chỉ tay sâu dài thẳng láng không tán loạn.
  28. Màu môi đỏ thắm như quả Tần-bà.
  29. Khuôn mặt không dài không ngắn, lớn nhỏ như nhau.
  30. Lưỡi mềm mại mịn màng, rộng đài đỏ thắm.
  31. Tiếng nói uy nghiêm, rõ ràng trong suốt.
  32. Âm vận dịu ngọt lanh lảnh như tiếng vọng trong hang sâu.
  33. Mũi cao dài thẳng không lộ hai lỗ.
  34. Các răng của Thế tôn vuông vức thẳng tắp và sáng trong.
  35. Các răng cửa tròn sáng trắng trong và sắc bén.
  36. Mắt Thế tôn trong xanh sáng ngời.
  37. Tướng mắt dài rộng như hoa sen xanh.
  38. Mi mắt bằng thẳng dày dặn không thưa.
  39. Mày dài không trắng, dày khít kín nhưng mềm mại.
  40. Hai mày đẹp rạp xuống dài thon xanh biết.
  41. Hai mày cao vút tươi sáng như trăng đầu tháng.
  42. Lỗ tai dài rộng lớn như chiếc vòng rũ xuống.
  43. Hai tai sáng đẹp bằng phẳng cân đối.
  44. Người nhìn thấy dung nghi ngài không sinh tâm nhiễm ái.
  45. Vầng trán rộng đầy đặn, hình tướng tuyệt đẹp.
  46. Nửa phần thân trên như sư tử đầu đàn.
  47. Đầu tóc dài, dày dặn xanh biết
  48. Đầu tóc thơm tho, tươi sáng xoay tròn.
  49. Đầu tóc bằng thẳng không rối, không lẫn lộn.
  50. Đầu tóc vững chắc không đứt, không rụng.
  51. Đầu tóc láng bóng, bụi bặm không dính.
  52. Thân thể khỏe mạnh hơn thần Na-la-diên.
  53. Thân thể của Thế tôn cao lớn nghiêm trang.
  54. Các lỗ nơi thân thể Thế tôn thanh tịnh tuyệt diệu.
  55. Thân thể thế lực thù thắng không có ai bằng.
  56. Thân tướng Thế tôn thích nhìn không chán.
  57. Mặt tròn dài rộng như trăng tròn mùa thu.
  58. Nhan sắc dung mạo thanh thản mỉm cười trước khi nói.
  59. Nét mặt sáng ngời, không hề buồn bực.
  60. Thân thể thanh tịnh không bẩn, không hôi.
  61. Trong các lỗ chân lông thường phát ra mùi thơm đặc biệt.
  62. Khuôn mặt thường phát ra mùi thơm thắng diệu.
  63. Tướng đầu tròn đẹp giống như lọng trời.
  64. Thân có màu sắc xanh biếc như cổ chim khổng tước.
  65. Phát âm tùy theo mọi loài, hợp lý, không sai.
  66. Tướng đỉnh đầu của Thế tôn không ai nhìn thấy được.
  67. Ngón tay ngón chân đều đặn xinh đẹp.
  68. Chân đi cách mặt đất bốn ngón tay mà dấu chân vẫn hiện rõ.
  69. Tự giữ gìn, thân không hề dao động.
  70. Uy đức vang xa, người thấy vui mừng xua tan sợ hãi.
  71. Tiếng nói không cao thấp phát ra lời nói hòa nhã dịu dàng.
  72. Tùy loại, mà nói tiếng, tùy ý thích mà nói pháp.
  73. Giảng nói một loại âm thanh tùy mỗi loài đều hiểu được.
  74. Nói thảy đều theo thứ lớp chắc chắn có nhân duyên.
  75. Bình đẳng quán sát hữu tình, khen ngợi, chê bai đều hiện.
  76. Làm việc gì trước tiên quán xét oai nghi, khéo léo thanh tịnh.
  77. Tướng tốt của Thế tôn không thể nào quán sát hết được.
  78. Xương đỉnh đầu của Thế tôn vững chắc trọn vẹn.
  79. Nét mặt thường ít vui khi đi qua những nơi xa xưa.
  80. Tay chân ngực bụng đều là đức tướng mừng vui”.

Trong Du-già bốn mươi chín chép: “Đó là hai tay chân đầy đủ hai mươi ngón, cho đến đốt, móng thảy đều rất đẹp tức là hai mươi vẻ đẹp; hai tay hai chân trong ngoài tám chỗ thảy đều thù thắng, tức là tám thứ, hai mắt cá, đầu gối, đùi vế, sáu chỗ rất đẹp tức là sáu thứ, hai cánh tay, khuỷu tay, cổ tay tức là sáu thứ, eo, mông cùng có một thứ, hai hạch là hai thứ, âm tàng là một loại, hai mông là hai loại, ba chỗ ngực, bụng, rốn tức là ba vẻ đẹp, hai sườn, nách, vú là sáu vẻ đẹp, bụng, ngực, cổ, xương sống đều là một vẻ đẹp. Ngoài sáu mươi vẻ đẹp từ cổ trở xuống, răng, tóc trên dưới là hai vẻ đẹp, gò má là một, hai môi là hai, khóe miệng khéo đầy đặn là một vẻ đẹp, hai má là hai, hai mắt là hai, hai mi là hai, mũi hai lỗ là hai, trán đẹp là một, hai mai hai tai là bốn vẻ đẹp, đầu tóc là một, đầu có hai mươi kết hợp với trước là tám mươi, lược làm bài tụng rằng:

“Tay chân gồm hăm tám

Mắt cá gối đùi khuỷu

Cùng cổ tay mười hai

Eo mông hạt âm trôn.

Ngực bụng rốn có mười

Sườn nách vú là sáu

bụng ngực cổ xương bốn

Sáu mươi cổ trở xuống.

Tóc gò má môi sáu

Má mắt mi mũi tám

Trán tóc mai tai năm

Đầu tóc thắng diệu một”.

Kinh Vô Thượng Y lại có sáu mươi tám pháp, đầy đủ thành một trăm tám mươi. Nói sáu mươi tám pháp ấy tức là như Đại thừa đã chép:

“Phật có mười tám pháp Bất cộng:

  1. Không có sai lầm.
  2. Không có âm thanh hung bạo.
  3. Không có niệm sai trái.
  4. Không có tâm bất định.
  5. Không có các thứ tướng.
  6. Không có bất trạch xả.
  7. Dục không lui sụt.
  8. Tinh tấn không lui sụt.
  9. Niệm không lui sụt.
  10. Định không lui sụt.
  11. Trí tuệ không lui sụt.
  12. Thắng giải không lui sụt.
  13. Tất cả thân nghiệp trí làm tiền đạo tùy theo trí mà chuyển.
  14. Ngữ nghiệp trí làm tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển.
  15. Tất cả ý nghiệp trí làm tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển.
  16. Biết rõ đời quá khứ không chấp trước, không trở ngại.
  17. Biết rõ đời vị lai không chấp trước, không trở ngại.
  18. Biết rõ đời hiện tại không chấp trước, không trở ngại”.

Như Bổn Sư Vô Cấu Xưng kinh sớ có giải thích rõ, đồng thời như luận Câu-xá chép: “Mười lực, bốn Vô úy, đại bi, ba Niệm xứ cộng lại là mười tám pháp”. Lại có kinh nói chỉ đạt được pháp là như kinh kia nói.

Chỉ có Như lai đạt được Như ý tự tại thần thông mau chóng, là một.

Chỉ có Như lai đạt được Thần thông biến hóa không có hạn lượng là hai.

Chỉ có Như lai đạt được Thần thông vô lượng vô tận là ba.

Chỉ có Như lai đạt được tâm pháp tự tại là bốn.

Tự tại vô biên, biết hóa tha tâm thông là năm.

Tự tại vô ngại Thiên nhĩ thần thông là sáu.

Biết chủng tử của chúng sinh ở cõi Vô sắc là bảy.

Thông đạt Thánh chúng sau khi nhập Niết-bàn là tám.

Trí tuệ rõ ràng không có trả lời điều gì bất định là chín.

Đại Ba-la-mật khéo léo thường trả lời câu hỏi là mười.

Phân biệt nói pháp không có sai trái là mười một.

Khai hóa chúng sinh không có sai lầm trống không là mười hai.

Chỉ có Như lai đạt được đệ nhất đạo thủ là mười ba.

Chỉ có Như lai đạt được bất khả hại diệt là mười bốn.

Chỉ có Như lai đạt được Kim cương Tam-muội là mười lăm.

Như lai hiểu rõ tất cả các pháp chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, tâm bất tướng ứng là mười sáu.

Vô ngại giải thoát là mười bảy.

Ba pháp bất nhiễm là mười tám.

Dứt bỏ thói quen là mười chín.

Nhất-thiết-chủng-trí là hai mươi.

Chỉ có Như lai đạt được Kim cương tụ thân là hai mươi mốt.

Không hề tác ý về tất cả sự nghiệp thành tựu là hai mươi hai.

Tất cả các tướng và xứ tương ứng rõ ràng thanh tịnh đầy đủ là hai mươi ba.

Sự thọ ký riêng biệt không có bất định là hai mươi bốn.

Đối với tâm hơn thua Phật không hứa không được thấy Phật là hai mươi lăm.

Chuyển Nhất thiết chủng thắng diệu pháp luân là hai mươi sáu.

Gánh vác chúng sinh có thể xả bỏ gánh nặng là hai mươi bảy.

Sau khi nhập Niết-bàn lại phát khởi tâm là hai mươi tám.

Chỉ có Như lai đạt được tu nhân tròn đầy không sót là hai mươi chín.

Chỉ có Như lai đạt đến quả tròn đầy vô dư là ba mươi.

Chỉ có Như lai đạt được lợi ích tha sự tròn đầy vô dư là ba mươi mốt.

Chỉ có Như lai đạt được biện tài vô tận là ba mươi hai.

Chỉ có Như lai đạt được việc nói tất cả pháp đều đúng như lý là ba mươi ba”.

Giải thích rằng: Trong này tuy có ba mươi ba số, nhưng Bát-nhã chỉ lấy kết quả có ba mươi hai số, bởi vì tu nhân đầy đủ chẳng phải là quả đức, do đó chỉ có một trăm tám mươi pháp. Tất cả pháp hy hữu không thể suy nghĩ bàn luận đều hiển hiện đó là kết thúc phần thứ ba. Nói là các công đức thù thắng hơn hẳn tất cả là hy hữu, siêu vượt các tình chấp biến kế gọi là không thể suy nghĩ bàn luận, nhưng theo Du-già quyển ba mươi sáu chép: “Vô thượng Bồ-đề có năm điều ít thấy:

  1. Đối với các loài hữu tình chẳng có nhân duyên mà lại sinh ra thân ái.
  2. Chỉ vì làm lợi ích cho các loài hữu tình nên thường ở nơi sinh tử chịu đựng vô lượng khổ đau.
  3. Đối với nhiều phiền não khó điều phục của chúng sinh, khéo léo thường hiểu rõ cách điều phục.
  4. đối với nghĩa lý chân thật rất khó lãnh hội thường tùy theo đó mà ngộ nhập.
  5. Đầy đủ năng lực oai thần rộng lớn, không thể suy nghĩ bàn luận”.

Những điều hy hữu không thể suy nghĩ bàn luận này đều nương theo đại trí mà được hiển hiện.

Văn kinh: Thí như nhờ vào hạt châu như ý mà vô lượng, vô biên các loại châu báu thảy đều được hiện bày.

Tán rằng: Nêu thí dụ. Theo kinh Quán Phật Tam-muội Hải: “Hạt châu Như ý là trái tim của chim cánh vàng đầu đàn, Luân vương xuất thế lấy làm châu báu, nếu không có Luân vương xuống biển, thì Hải long vương lấy làm ngọc trấn giữ biển”. Luận Đại Trí Độ chép: “Là xálợi của Phật vào thời mạt kiếp, biến thành hạt châu như ý để làm lợi ích chúng sinh, nhờ vào hạt châu có thể sinh ra tất cả mọi thứ cần thiết”. Đại Trí định này cũng giống như thế.

Văn kinh: Như vậy nương vào hạt châu báu đại Tam-muội, nương vào hạt châu báu đại trí tuệ có thể công năng phát sinh nhiều thứ vô lượng, vô biên diệu pháp của các Đức Phật.

Tán rằng: Pháp kết hợp có thể biết.

Văn kinh: Này người thiện nam! Pháp thân, Tam-muội, trí tuệ như vậy.

Tán rằng: Dưới đây nói về ly hệ quả: Đầu là nêu ra, tiếp theo là giải thích, sau cùng là thành tựu. Đây là phần nêu ra. Pháp thân, Tammuội, trí tuệ do định trí là năng chứng pháp thân sở chứng cho nên được giải thoát, tức là ba việc Niết-bàn, hoặc là thể, hoặc là nghĩa. Nhưng ở dưới nói tuy có ba số mà không có ba thể, hoặc nói theo nghĩa, hoặc pháp thân định tuệ và cùng với giải thoát chẳng phải nhất định là một hay khác, vì vậy không có ba thể, chẳng phải cho là chỉ có pháp thân.

Văn kinh: Vượt qua tất cả tướng, không chấp trước nơi tướng, không thể phân biệt, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, đó gọi là Trung đạo.

Tán rằng: Sau đây là giải thích. Vượt qua tất cả tướng thù thắng của tự thể cho nên lìa mười tướng, đó là sáu trần, nam, nữ, sinh, diệt. Không chấp trước nơi tướng vì vậy lìa các tình chấp, không thể phân biệt vì chẳng phải là tâm có thể nói, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, nên lìa hai bên. Trong này có bốn thứ:

  1. Lìa bỏ các tướng.
  2. Không hề chấp trước.
  3. Chẳng phải cảnh tâm có thể nói.
  4. Lìa hai bên.

Do bốn nghĩa ấy nên gọi là Trung đạo, cảnh phù hợp với chánh trí. Chánh trí gọi là trung đạo, cảnh của trung đạo cũng gọi là trung đạo.

Văn kinh: Tuy có phân biệt nhưng thể không có phân biệt, tuy có ba số mà lại không có ba thể, không tăng thêm, không giảm bớt.

Tán rằng: Tiếp tục giải thích về thành tựu. Tuy có phân biệt nhưng thể không có phân biệt là giải thích về vô phân biệt ở trước, tuy có Pháp thân, Tam-muội, Trí tuệ nhưng chẳng phải là phân biệt tâm duyên, chẳng phải là ngữ cảnh cho nên nói thể không có phân biệt. Tuy có ba số mà lại không có ba thể là giải thích về vượt qua tất cả các tướng, tuy có ba số Pháp thân, Tam-muội, Trí tuệ ba số mà không có thể riêng biệt rõ ràng. Không tăng thêm, không giảm bớt, là giải thích về chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, không tăng thêm vì chẳng phải thường còn, không giảm bớt vì chẳng phải đoạn diệt.

Văn kinh: Giống như huyễn mộng, cũng không có sở chấp cũng không có năng chấp.

Tán rằng: Giải thích không chấp tướng ở trước. Tam-muội, trí tuệ không có năng chấp, pháp thân không có sở chấp. Giống như huyễn mộng là thí dụ chẳng phải mộng không thể phân biệt, ý là chọn lấy cảnh giới nhìn thấy trong mộng.

Kinh: Pháp thể như như là nơi giải thoát, vượt qua cảnh giới sinh tử, vượt qua bóng đêm sinh tử.

Tán rằng: Thành tựu Trung đạo ở trước. Pháp thể như như là pháp thân, là nơi giải thoát sinh tử, tức là giải thoát. Vượt qua cảnh giới sinh tử, thoát khỏi quả hữu lậu, là xa lìa khổ đế, vượt qua bóng đêm sinh tử là lìa xa nhân của khổ đế, dứt bỏ tập đế cho nên thật là Trung đạo.

Văn kinh: Tất cả chúng sinh không thể tu hành nên không thể đến được nơi trú xứ của tất cả các Đức Phật, Bồ-tát.

Tán rằng: Đây tức là phần khuyến tu, nói về không tu không đạt được, trái lại hiển rõ tu thì liền đạt được; đầu là pháp, sau là dụ. Đây là pháp, nói về chúng sinh không tu không đạt được đại Niết-bàn là nơi thường an trú của các Đức Phật, Bồ-tát.

Hỏi: Ở đây nói về thứ lớp đắc quả, không chia rõ thứ lớp tu hành, do đâu mà khuyến tu?

Đáp: Quả phát khởi nhờ vào ý muốn tu tập sinh ra sau thứ lớp tu hành, cho nên nói. Vì thế ý của thí dụ sau là kết hợp nói về nhân quả.

Văn kinh: Này người thiện nam! Thí như có người mong ước có được vàng nên cầu tìm khắp nơi cuối cùng tìm được quặng vàng.

Tán rằng: Dưới đây nói về thí dụ. Trước nói về năm quả, dụ cũng có năm. Thí như có người tức là giống như trước nhờ vào quả dị thục ở thân này, mong ước có được vàng dụ cho đạt được quả tăng thượng của sơ tâm phát khởi, khắp nơi tìm kiếm cuối cùng tìm được quặng vàng dụ cho quả đẳng lưu. Trước dụ cho tư lương vị trong tu hành địa tâm, nhờ vào giáo lực phát khởi tín tâm biết trong thân mình có Phật tánh. Hai tánh lý, sự của pháp thân đều đạt được giống như quặng vàng, bị chướng ngại bao phủ như tìm được quặng vàng.

Văn kinh: Đã tìm được quặng rồi tức thì đập nát để chọn lấy vàng ròng.

Tán rằng: Dụ cho gia hạnh vị trong tu hành địa tâm, tâm dần dần tu học dứt bỏ sở thủ, năng thủ, an trú trong duy thức quán, giống như chọn lấy vàng ròng.

Văn kinh: Nung luyện trong lò, được vàng thanh tịnh.

Tán rằng: Vì nung đốt kén chọn dụ cho tâm không lui sụt địa, tâm Nhất sinh bổ xứ, tâm Kim cương. Được vàng thanh tịnh dụ cho tâm Như lai địa là quả sĩ dụng.

Văn kinh: Tùy ý làm thành các thứ vòng xuyến, các loại trang sức, cho dù có nhiều công dụng nhưng tánh vàng không thay đổi.

Tán rằng: Mong muốn đạt được Niết-bàn là quả ly hệ. Đạt được thường, lạc, ngã, tịnh giống như làm thành các thứ vòng xuyến v.v…, nhưng mà không mất tánh chân như. Hoặc mong muốn Bồ-đề đều là quả sĩ dụng, các thứ vòng xuyến tức là định trí, phát sinh tất cả công đức, thường không mất định tuệ tánh, đều giống như vàng không thay đổi, toàn bộ đoạn văn trên đây giải thích về tướng mạo xem xét về hành tướng, dần dần đi sâu vào ý cầu mong xa hơn, cũng cần phải thích đáng. Nếu giải thích theo xưa thì thí dụ sau thuộc về tu hành, đầu là dụ, sau là pháp, y theo trước đây có thể biết. Văn tu hành sau đây sẽ có thí dụ, do đó không y theo xưa.

Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào cầu thắng giải thoát, tu hành điều lành thế gian.

Tán rằng: Toàn bộ đoạn văn thứ ba là trả lời về nhân, trong đó có hai phần: Đầu tiên phân tích quả; tiếp theo dưới đây là thứ lớp tu chứng. Theo các văn ví dụ nên trước tiên là tu nhân sau đó mới đắc quả, ở đây theo trước nên nói về ba thân, sau sẽ nói về lần lượt đắc quả. Tuy biết thứ lớp đắc quả nhưng nếu không tu hành thì làm sao đắc quả được, cho nên nay tiếp tục nói về thứ lớp tu chứng. Còn như Du-già quyển ba mươi tám chép: “Đã nói những nơi cần học của Bồ-tát, như vậy cần phải học, nay ta sẽ nói:”. Đây là ý của phẩm Bồ-đề trước đây nói về hai đoạn hai trí. Bồ-đề tối thắng là những gì cần phải học, ý khiến cho sinh khởi mừng vui như thế cần phải học, tức là khiến cho vui mừng cầu mong phát khởi tu tập diệu hạnh. Nay ở dưới đây nói về thứ lớp tu hành, đem ý muốn hướng về quả từ bốn thứ năng lực:

  1. Nhân lực.
  2. Thiện hữu lực.
  3. Tác ý lực.
  4. Tư lương lực.

Bốn năng lực này là nhân tư lương, đã đầy đủ thì sẽ thành tựu chánh giác. Đây đều là quả. Nay trong văn này chia ra làm hai:

Đầu là pháp thuyết, sau là dụ thuyết.

Trong pháp thuyết như trước chia làm năm; đây tức là thứ nhất, trước nói về Nhân lực. Cầu được giải thoát là những học xứ Vô thượng Bồ-đề, Đại Nhập Niết-bàn vượt lên trên Nhị thừa, gọi là thắng giải thoát. Tu điều lành thế gian gọi là thiện pháp dục, lìa nhân gia hạnh, giấu kín chủng tánh kia nương nhờ duyên hiện hành để làm nhân lực. Theo Du-già quyển ba mươi tám: “Nương vào tám thứ thắng giải đó, tịnh tín thành tựu đầy đủ thì trước chắc chắn được hỷ lạc:

  1. Nương vào nơi công đức thắng giải của Tam bảo.
  2. Đối với uy lực của Phật, Bồ-tát.
  3. Đối với nghĩa chân thật.
  4. Đối với nhân.
  5. Đối với quả.
  6. Đối với ưng đắc nghĩa.
  7. Đối với ưng đắc phương tiện.
  8. Đối với thiện ngôn, thiện ngữ, thiện thuyết mà cầu thắng giải thoát thì chắc chắn được hỷ lạc”. Luận Duy Thức sáu chép: “Đối với thật đức có thể đi sâu vào nhẫn chịu lạc dục, tâm thanh tịnh là tánh, nhẫn tức là tín nhân, lạc dục là quả, tâm thanh tịnh tin vào thể”. Ở đây nói cầu tức là nhẫn chịu lạc dục là cội gốc lành, dục là thường xuyên nương vào nhân để tu điều lành thế gian.

Văn kinh: Được thấy Như lai và chúng đệ tử được gần gũi rồi.

Tán rằng: Thiện hữu lực, văn chia làm bốn:

  1. Được gần gũi.
  2. Thỉnh cầu thắng pháp.
  3. Nghe và suy nghĩ về pháp đó.
  4. Chính thức giải thích.

Đây là mở đầu. Trong đây lẽ ra nói là tướng của bạn lành, bạn lành tác nghiệp, gần gũi bạn lành. Trước hết có hai như Du-già quyển bốn mươi bốn giải thích rộng. Gần gũi bạn lành, trong luận ấy chép: “Do bốn thứ tướng mới được gần gũi bạn lành trọn vẹn:

  1. Đối với bạn lành bị bệnh hay không bị bệnh, lúc nào cũng cung phụng hầu hạ, thường xuyên phát khởi sự thương yêu kính trọng, hoàn toàn tin tưởng.
  2. Đối với bạn lành lúc nào cũng cung kính thăm hỏi lễ bái hầu hạ đón tiếp chắp tay, ân cần tu nghiệp, hòa thuận cung kính, nên vì đó cúng dường.
  3. Đối với bạn lành thường xuyên cúng dường y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc men chữa bệnh, cùng mọi vật dụng tùy thân đúng như pháp.
  4. Đối với bạn lành nếu là chính thức y chỉ, đối với nghĩa lý chánh pháp hoặc phù hợp, hoặc xa lìa, tùy theo chuyển đổi tự tại, không có nghiêng động, như thật biểu hiện thực hành tâm phụng thờ cung kính, thường xuyên đi đến cung kính, phụng sự thưa hỏi nghe nhận.

Văn kinh: Bạch với Phật rằng: “Bạch Thế tôn! Điều gì là lành, điều gì là không lành, điều gì là chánh tu, được hạnh thanh tịnh.

Tán rằng: Thỉnh cầu thắng pháp. Trong Du-già quyển ba mươi tám chép: “Các vị Bồ-tát đó vào lúc cầu thỉnh chánh pháp nên cầu những gì, vì sao nói mà cầu, cố ý cầu nghĩa nào?”. Đầu tiên hỏi là cầu pháp nào, tiếp theo hỏi cầu nghi quỹ, sau đó hỏi cầu pháp làm gì. Cầu những gì là nên cầu năm minh. Cầu pháp quỹ nghi, nghĩa là các vị Bồtát đối với việc khéo nói pháp nên an trú hết sức mạnh mẽ và trân trọng cầu nghe chánh pháp, vì muốn lắng nghe khéo nói pháp, giả sử đường đi trải qua lửa dữ hừng hực đốt cháy mặt đất, không còn cách nào có thể lắng nghe được khéo nói pháp này, lập tức phát khởi tâm mạnh mẽ trân trọng vui mừng mà đi vào, huống là muốn nghe nhiều nghĩa lý nói về pháp lành, vượt quá tự thân và mọi tiền của, vật dụng yêu quý vốn có gấp trăm ngàn muôn lần. Đối với khéo nói pháp thường ưa thích lắng nghe không hề có sự mệt mỏi cũng không hề thỏa mãn, tịnh tín sâu dầy, tánh tình hòa nhã, tâm thẳng thắn, thấy thẳng thắn, yêu kính đức độ, cho nên yêu kính pháp. Hướng về Pháp sư tâm không hề hỏi vặn hóc búa, có tâm kính trọng, không có tâm kiêu mạn, một bề vì cầu pháp lành, không phải biểu hiện đức độ của mình mà vì muốn an lập gốc lành cho mình và người, không vì nhân duyên lợi dưỡng cung kính, tâm không hề tạp nhiễm, lìa bỏ cao ngạo, lìa bỏ khinh mạn, lìa bỏ yếu hèn, kịp thời mà nghe, thiết tha trân trọng mà nghe, cung kính mà nghe, không vì tổn hại, không vì thuận theo, không tìm lỗi lầm, tâm cầu lãnh ngộ, tâm chuyên nhất hướng về, nghe rồi nhớ mãi giữ lấy những gì cần thiết. Lắng nghe chánh pháp, đối với pháp đã nghe thực hiện bốn thứ tướng:

  1. Nghĩ là như vật quý báu tuyệt diệu, vì khó có được.
  2. Nghĩ là như thuốc tốt quý hiếm vì có nghĩa trừ bệnh.
  3. Nghĩ rằng như tài vật vì có nghĩa không phân tán.
  4. Nghĩ rằng như Niết-bàn vì có nghĩa diệt khổ.

Bởi vì pháp là nhân của tướng tốt trang nghiêm, do đó khởi lên ý tưởng quý báu tuyệt diệu, bởi vì pháp là nhân dứt trừ phiền não, do đó khởi lên ý tưởng thuốc tốt quý hiếm, bởi vì pháp là nhân của thần thông do đó khởi ý tưởng giống như tài vật, vì pháp là nhân chân chánh vô tận do đó khởi ý tưởng Niết-bàn.

Tiếp theo nói về ý cầu nghe pháp. Lúc cầu nội minh là chân chính tu hành pháp, thực hành theo pháp, là mở bày rộng rãi, lợi ích giác ngộ đối với người khác. Lúc cầu nhân minh là muốn hiểu rõ như thật ngoại đạo tạo ra nhân luận tà ác ngôn thuyết, là muốn hàng phục các luận thuyết khác, đối với giáo lý chân thật người chưa hoàn toàn tin tưởng khiến cho họ tin tưởng hoàn toàn, người đã thật sự tin tưởng lại khiến cho họ càng tin tưởng hơn. Lúc cầu thanh minh là khiến cho chúng sinh tin tưởng ưa thích vào lời nói chuẩn mực, đối với thân Bồ-tát sinh tâm cung kính tin tưởng sâu sắc, là muốn hiểu rõ ngôn từ âm tiết của người xưa chỉ dạy. Lúc cầu y minh là chấm dút các thứ bệnh tật của chúng sinh, là muốn làm lợi ích cho tất cả mọi người. Lúc cầu công xảo minh là dụng ít công sức mà chứa nhóm nhiều tài vật quý báu, là muốn lợi ích cho các loài chúng sinh, là phát khởi ý tưởng chúng sinh thật hiếm lạ, là dùng trí khéo léo bình đẳng phân bố lợi ích nhiếp thọ vô lượng chúng sinh. Vì sao mà nói, vì nghĩa gì nói? Hợp với những điều nên cầu thì nói những điều như vậy, vì cầu nghĩa này nên nói nghĩa này. Đây là ý vì cầu lợi ích tự tha, lại muốn cho chúng sinh thực hành lợi ích tự tha, do đó mà nói. Nay nói thế nào là lành và không lành, đó là hỏi về pháp sở cầu; điều gì là chánh tu tức là hỏi về nghi thức phép tắc nghe pháp, lại hỏi điều gì đạt được hạnh thanh tịnh tức là cầu những gì.

Văn kinh: Các Đức Phật, Như lai và chúng đệ tử lúc thấy người kia hỏi liền suy nghĩ như vầy.

Tán rằng: Bạn lành suy nghĩ.

Văn kinh: Thiện nam, thiện nữ này muốn cầu thanh tịnh, muốn nghe chánh pháp liền nói cho họ nghe khiến người kia khai ngộ.

Tán rằng: Sẽ giải thích cho nghe, tức là bạn lành tác nghiệp. Chưa hiểu giúp cho hiểu rõ, đã hiểu thì giúp cho biết nhiều hơn là khai.

Văn kinh: Người kia đã nghe rồi chánh niệm nghĩ nhớ giữ gìn.

Tán rằng: Thứ ba là tác ý lực. Phát khởi ý nghĩ như lý nên chánh niệm gìn giữ không bỏ.

Văn kinh: Phát tâm tu hành đạt được tinh tấn lực, dứt bỏ lười nhác chướng ngại, dứt trừ tất cả tội lỗi.

Tán rằng: Thứ tư là tư lương lực, tức là trong ba đại kiếp tu tập muôn hạnh làm tư lương cho Bồ-đề. Đầu tiên trong năm vị gọi là tư lương, đó là tên khác được gọi chung, như các sắc xứ, bởi vì bắt đầu phát tâm cầu đạo Bồ-đề nên cùng gọi là tư lương, còn lại được gọi tên khác, vì hạnh thù thắng khác nhau. Trong tư lương lực này chia ra hai:

Đầu là Địa tiền, sau là Địa thượng.

Đây là mở đầu.

Địa tiền có bốn:

  1. Phát tâm tu hành.
  2. Đạt được lực tăng thượng.
  3. Trừ chướng.
  4. Diệt tội.

Phát tâm tu hành là địa vị thập trụ, cho nên đầu tiên trong thập trụ gọi là phát tâm trụ, bởi vì bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Trước đây tuy phát nhưng chưa đi vào tăng-kỳ, nay bắt đầu đi vào tăng-kỳ cho nên được gọi là Phát. Phát tâm có nhiều thứ, pháp lành dục vị chủng tánh phát tâm trong giai vị thập trụ thì hạnh thắng giải phát tâm đi vào Sơ địa gọi là chứng đắc phát tâm. Nay ở đây thắng giải phát tâm đạt được tinh tấn lực.

Nhẫn vị thứ nhất đã đạt được năm lực tín là thường xuyên nương tựa vào, chẳng phải chính thức hàng phục các hoặc. Siêng năng có thể hàng phục các hoặc, cho nên ở đây nói. Trừ lười nhác chướng ngại đó là nêu ra hạnh tinh tấn trái nhau. Y theo thực tế thì phân biệt tất cả hai chướng ở địa vị này đều hàng phục. Đây là dứt trừ khổ nhân. Diệt tất cả tội lỗi đó là quả khổ. Đến tăng thượng nhẫn và thế đệ nhất vị, tất cả quả khổ trong đường ác tám nạn đều không sinh được. Phần nhiều nói về thấy đạo, lìa hai khổ này là nói theo đoạn chủng. Nơi đây y theo phục vị và quyết định đắc. Trong luận Thành Duy Thức chép: “Tuy thấy đạo phát sinh cũng dứt trừ các thứ nghiệp quả của đường ác. Nhưng nay lại nói có thể sinh khởi phiền não, vì đó là cội gốc”. Lại chép: “Hai khổ trong đường ác tạp nhiễm ngu muội tức là các nghiệp quả của đường ác”.

Văn kinh: Đối với các học xứ phải hết lòng tôn trọng, dứt trừ tâm trạo hối, bước lên Sơ Địa.

Tán rằng: Nói về bước lên Địa thượng. Thập địa là mười, văn mỗi địa đều có hai: Đầu tiên là trừ chứng, sau đó đạt được Địa. Do nơi Sơ Địa đạt được bốn chứng tịnh, đối với học xứ hết lòng tôn trọng, học xứ tức là giới, hoặc tất cả những điều cần phải tu gọi là học xứ, thể không lìa Tam bảo và lấy tịnh giới để chứng được tịnh, lìa tâm không tôn trọng, dứt bỏ hẳn phân biệt. Dứt trừ tâm Trạo hối vì nó là chướng ngại của dị sinh tánh, tuy chướng của dị sinh tánh thâu nhiếp tất cả hai chướng phân biệt nhưng do chướng của trạo hối mà định thêm lớn do đó ở đây dạy tu định, nhờ vào định phát khởi trí, kết hợp định trí này cho nên thành tựu pháp thân, vì vậy cố ý nói dứt trừ, lý thật sự thông suốt các thể còn lại. Còn sắp đoạn, đang đoạn đều được gọi là Đoạn. Địa vị sắp đoạn thêm lớn ở trước, địa vị đang đoạn thúc đẩy tâm đang đi vào Địa. Ở đây phần nhiều nương vào Sơ Địa mà nói đoạn chướng. Vì vậy trước tiên nói dứt trừ tâm trạo hối, sau đó nói đi vào Sơ Địa. Còn lại đều y theo đó mà biết.

Văn kinh: Nương vào tâm Sơ Địa, trừ chướng lợi ích hữu tình, đi vào Nhị Địa.

Tán rằng: Từ địa thứ hai, giữ giới Ba-la-mật. Trong giữ giới Bala-mật có ba sự khác nhau, Lợi ích cho hữu tình là thắng hạnh của Bồtát. Tâm Sơ Địa đã đầy đủ sắp đi vào Nhị địa nên lực tu giới tăng lên, sắp đoạn chướng đang hiện hành, cho nên có công năng phát sinh lợi ích. Nói trừ chướng của việc lợi sinh, tức là chướng tà hạnh, hàng phục chướng này rồi đi vào Nhị Địa.

Văn kinh: Ở trong địa này trừ chướng không ép ngặt, đi vào Tam địa.

Tán rằng: Tức là chướng ám độn. Trong luận Duy Thức v.v…chép, ngăn che tất cả văn tư thắng tuệ gọi là ám độn. Ở đây nói ngăn che nhẫn gọi là ép ngặt, hoặc nơi khác nói ngăn che vốn là ngu si cho nên gọi là ám độn chướng. Nếu y theo ngọn ngành của nó tức là các thứ tức giận v.v… gọi là ép ngặt chướng. Hoặc do ba nhẫn, bởi vì tham lam, thích thú các thứ vốn có không thể nhẫn chịu được khổ, tức là tham lam ép ngặt não loạn, thấy người khác oán hại nhưng không thể nhẫn chịu, tức là tức giận ép ngặt não loạn, nghe hai đế không thể nào hiểu biết nhẫn chịu, tức là ngu si ép ngặt não loạn. Lúc đi vào địa thứ ba đạt được ba nhẫn này, cho nên dứt trừ được chướng ép ngặt.

Văn kinh: Ở trong địa này, dứt trừ chướng tâm nhuyến tịnh, đi vào Tứ Địa.

Tán rằng: Tâm tịnh gọi là Bồ-đề phần pháp, nhuyến nghĩa là chướng phiền não nhỏ nhiệm hiện hành, tức phiền não nhỏ nhiệm chính là chướng của thanh tịnh này, hoặc phiền não này nương vào tâm vương cho nên thuận theo chủ, làm tên, gọi là tâm nhuyến tịnh chướng.

Văn kinh: Ở trong địa này, dứt trừ chướng thiện phương tiện, đi vào Ngũ địa.

Tán rằng: Địa này tu tập đạo vô khác nhau, tức là trí Vô khác nhau, sẽ chứng như vô khác nhau, cho nên đạt được chân tục không khác nhau. Sinh tử, Niết-bàn không khác nhau do đó dùng trí hậu đắc tu đại bi. Bát-nhã không trụ ở sinh tử, Niết-bàn gọi là phương tiện. Thể căn bổn của Niết-bàn và phương tiện tức là trí vô phân biệt, khởi dụng tức là bi trí. Thường chướng ngại phương tiện này tức là chướng Nhập Niết-bàn của hạ thừa. Niết-bàn chẳng phải là chướng, chán ghét sinh tử, ưa thích Niết-bàn, tâm ấy mới là chướng, chướng ngại phương tiện này. Ở đây dứt trừ chướng này được đi vào Địa thứ năm.

Văn kinh: Ở trong địa này, dứt trừ chướng thấy có chân tục, đi vào Lục địa.

Tán rằng: Nói về chân tục như thông thường đã phân biệt rõ, đều có bốn thứ. Trong các luận nói theo tướng chung, vả lại nói Ngũ địa thực hành quán sát bốn đế, nhưng có thể kết hợp hai đế chân tục mà quán sát, trừ chướng chân tục trái nhau. Nếu không như vậy thì không thể kết hợp quán sát chân tục, bởi vì thực hành quán sát bốn đế, nhưng chưa thể nào trừ hai tướng nhiễm tịnh, vì tướng nhiễm tịnh nương theo chân tục mà sinh. Nay theo căn bổn gọi là chướng chân tục, y theo thực tế tức là chướng tướng thô hiện hành. Tướng nhiễm tịnh này hướng về tướng sinh diệt, nhiễm tịnh là thô, do tướng thô này chấp vào sở tri chướng hiện hành mà phát khởi nên gọi là chướng thô tướng hiện hành. Địa thứ năm sắp trừ, đi vào Địa thứ sáu đang trừ, hoặc dựa vào phương tiện, đi vào địa thứ năm trừ chướng chân tục trái nhau, cho nên có thể kết hợp quán cả hai, đi vào Địa thứ sáu, lần lượt phỏng theo nhau, vì thế ở đây nói là phân biệt.

Văn kinh: Ở trong địa này, trừ chướng thấy có hành tướng, đi vào Thất địa.

Tán rằng: Chướng thấy có hành tướng tức là chướng tế tướng hiện hành, chấp vào tướng sinh diệt, từ trong Địa thứ sáu thực hành quán duyên sinh, tuy trừ tướng nhiễm tịnh nhưng thấy có tướng sinh diệt, chướng đạo vô tướng, không thấy sinh diệt, đạo chướng diệu vô tướng, không thấy sinh diệt. Nay thấy có hành tướng này đang hiện diện tức là chướng. Đi vào Địa thứ bảy mới dứt, hoặc trong Địa thứ sáu thực hành quán duyên sinh, thấy sinh tử lưu chuyển mà không thấy có hữu vi, vô vi. Nay trong Địa thứ bảy dứt hai chướng ấy nên thường có thể thực hành quán vô tướng. Vì vậy trong luận Duy Thức chép: “Chấp có sinh là hãy còn giữ lấy tướng lưu chuyển tế sinh, chấp có diệt là hãy còn giữ lấy tướng hoàn diệt tế diệt”. Các kinh như Bát-nhã Tâm Kinh cũng chép: “Không có vô minh cũng không có hết vô minh”. Hết tức là diệt, diệt tức là vô vi, không thấy tướng diệt tức là đạo diệu vô tướng. Đưa ra không thấy diệt, ẩn chứa không thấy sinh, gọi là chướng tế tướng hiện hành. So sánh tướng thô ở trước, đây gọi là chướng tế kiến hành tướng, tức là nói theo Sở chấp. Hành tướng tức là hành tướng sinh diệt, là chướng của việc thấy có hành tướng.

Văn kinh: Ở trong Địa này, trừ chướng tướng không thấy có diệt, đi vào Bát địa.

Tán rằng: Diệt tướng tức là vô tướng. Bởi vì trong Địa thứ bảy phần nhiều chọn lấy tướng diệt, hoàn toàn trong vô tướng tác ý chịu khó tìm cầu, không thể ở trong cái không nhậm vận, khởi hạnh thù thắng, chướng ngại vô công dụng, diệu quán vô tướng. Không thấy tướng diệt đó là quán vô tướng. Đi vào Địa thứ tám chẳng những không thấy tướng diệt, mà hai tướng Tướng, Độ cũng không thấy, cho nên đối với hai tướng này cũng được tự tại. Do đó trong Địa thứ tám dứt hai thứ ngu muội:

  1. Đối với vô tướng phát khởi công dụng ngu muội.
  2. Đối với Tướng tự tại ngu muội.

Ở đây tạm thời đưa ra cái ban đầu để phỏng theo dứt trừ ở sau này.

Văn kinh: Ở trong địa này, trừ chướng không thấy có tướng sinh, đi vào Cửu địa.

Tán rằng: Không thấy có tướng sinh là đối lại với tướng diệt ở trước, lẽ ra đó là tướng sinh của các pháp, nhưng do vì đi vào Địa thứ tám thích quán vắng lặng cho nên không thấy có tướng duyên sinh là nói theo tướng chung. Song, Địa thứ tám đối với việc lợi tha vẫn còn chưa muốn thực hiện, tức là không thấy có chúng sinh, nên bỏ hạnh lợi ích chúng sinh. Trong luận Địa thứ tám chép: “Các Đức Phật khuyên nhắc bảy lần mới ra khỏi quán vô tướng, Địa thứ tám có khả năng hàng phục chướng không thấy chúng sinh này được đi vào Địa thứ chín”. Lại giải thích: “Bởi vì không thấy có chúng sinh khác ngoài mình ra, chúng sinh kia tức là Ngã, không thấy ngoài thân có chúng sinh khác, vì thế cho nên có thể thường xuyên làm lợi ích”. Nay ở Địa thứ tám ban đầu thấy ngoài thân có chúng sinh khác. Chướng ngại việc không thấy có tướng chúng sinh này, gọi là chướng không thấy có chúng sinh. Vì vậy trong luận Biện Trung Biên chép: “Vì thường lợi ích hữu tình cho nên quán tất cả đều là không”. Luận Thành Duy Thức cũng chép: “Đối với sự nghiệp lợi tha, trong Địa thứ chín không muốn thực hành là chướng, đi vào Địa thứ chín có thể hoàn toàn dứt trừ.

Văn kinh: Ở trong địa này trừ chướng sáu thông, đi vào Thập địa.

Tán rằng: Tức là đối với các pháp, bị ngăn ngại khiến chưa được tự tại. Đối với pháp tự tại tức là sáu thần thông và đại pháp trí. Do có chướng này chướng ngại pháp tự tại kia. Hơn nữa, nêu ra sáu thần thông để nói đại pháp trí vân. Lại giải thích: Đối với các học xứ lìa bỏ không tôn trọng, ngừng dứt tâm trạo hối là nhắc đến tu nhân ở đoạn văn trước. Đi vào Sơ địa nói về quả Sở đắc, tức là quả hậu hậu do ở giai vị gốc lành xa lìa sự không tôn trọng Tam bảo và chánh pháp. Trừ chướng lười nhác, diệt tất cả tội lỗi. Lại đồng thời có thể lìa bỏ chướng tự tại cho nên ngừng dứt tâm trạo hối, tức trong luận Bát-nhã của Thiên Thân chép: “Đối với sự tu hành, trong tâm chấp ta là Bồ-tát, đây tức là chướng trong tâm, trái với đạo lý bất trụ”. Bất trụ đạo tức là Sơ địa chấp rằng mình có thể tu ngược với đạo sơ địa. Trong luận Bát-nhã của Bồ-tát Vô Trước chép: “Trừ chướng hỷ động, từ cái gọi là mình có thể tu hạnh thù thắng phần nhiều sinh ra hỷ động, hỷ động tức là trạo cử, vì đây là chướng làm chướng ngại đi vào Sơ địa, do dứt trừ chướng này, đi vào Sơ địa tức là lìa các tâm không tôn trọng v.v… đều là Địa tiền, chẳng phải là vào trong Sơ địa”. Mười chướng dưới đây đều tùy theo đó mà biết. Ở trong Sơ Địa thực hành ba thí, có thể lợi ích hữu tình, trừ chướng trái nhau, được đi vào Nhị địa. Nhị địa giữ giới trừ chướng bất não hữu tình, đi vào Tam địa. Tam địa tu định, trừ chướng tâm nhuyến tịnh, tâm tức là tâm học, trừ các chướng ngại của định, lìa tâm cứng cỏi gọi là tâm nhuyến tịnh, được đi vào Tứ địa. Vào trong Tứ địa, Tu-bồ-đề phần quán, gọi là thiện phương tiện, trừ xong chướng này được đi vào Ngũ địa. Vào trong Ngũ địa có thể khiến cho chân tục thuận theo lẫn nhau mà không trái ngược, do đó trừ chướng thấy có chân tục, đi vào Lục địa. Vào trong Lục địa, thực hành duyên sinh quán, trừ chướng thấy có hành tướng nhiễm tịnh của bốn đế, đi vào Thất địa. Lúc vào Thất địa thường thực hành vô tướng quán, trừ chướng thấy có tướng duyên sinh sinh diệt, được vào Bát địa. Vào trong Bát địa nhậm vận quán sát lý vô tướng, trừ tướng thêm bớt, lúc tịnh pháp sinh ra chân như không tăng thêm, lúc phiền não diệt đi chân như không giảm bớt, sinh tức là thêm. Đưa ra cái không tăng thêm đó y cứ theo làm sáng tỏ cái không giảm bớt, đi vào Cửu địa. Vào trong Cửu địa lẽ ra là nói chướng không muốn thực hành lợi ích hữu tình, tức là nơi mãn vị có khả năng hàng phục dứt trừ sự chướng ngại đối với sáu thần thông kia, nên nói là vào Địa thứ mười có khả năng dứt trừ chướng sáu thần thông. Bởi vì chướng thứ mười một là Địa vị thứ mười đã trọn vẹn nên có khả năng dứt trừ, nói Thập địa dứt trừ sở tri chướng, ẩn chứa chướng thứ chín do đó không bàn đến. Đây là giải thích thuận theo văn, trước đây là giải thích thuận theo lý, bao gồm y theo kinh xưa và cách giải thích sau này là hơn hẳn. Vì sao? Vì trong kinh xưa từng địa từng địa đều nói dứt trừ xong mới có thể hội nhập, rõ ràng chẳng phải là điều phục, hoặc có thể, điều phục hết sạch gọi là dứt trừ xong. Y theo hai cách giải thích tùy ý có thể lấy bỏ.

Văn kinh: Ở trong địa này, trừ sở tri chướng, trừ tâm căn bổn, đi vào Như lai địa.

Tán rằng: Sau đây nói về quả vị. Đầu tiên nói về trừ chướng đạt được Phật địa trọn vẹn, sau đó hiển rõ Phật địa vốn có ba thanh tịnh.

Đây là mở đầu.

Trừ chướng sở tri, vô gián đạo dứt trừ chủng tử nhỏ nhiệm và thói quen của hai chướng; trong Thắng Chướng Bồ-đề nói là dứt trừ sở tri chướng, trừ tâm căn bổn, tức là nơi nương tựa của chủng tử và thói quen. Trừ chủng tử nhiễm ô nơi thức thứ bảy, bởi vì hằng nhiễm cụ. Vô gián đạo dứt trừ điều lành hữu lậu và vô ký cùng tâm sở tương ưng nơi thức thứ bảy gọi là tâm căn bổn. Thức thứ tám có cả hai y, sáu thức chỉ là chỗ nương của thói quen, đoạn ở đây có hai thuyết, như Duy Thức mười có nói rõ.

Văn kinh: Như lai địa do ba thứ thanh tịnh cho nên gọi là Cực thanh tịnh. Những gì là ba? Một là phiền não tịnh; hai là khổ tịnh; ba là tướng tịnh.

Tán rằng: Hiển rõ ba thanh tịnh. Trong đoạn văn chia ba phần, đó là nêu ra, Gạn hỏi, Liệt kê. Phiền não tịnh là hai chướng và nghiệp, khổ tịnh tức là hai thứ tử, tướng tịnh tức là thói quen. Do ba tịnh ấy lại không còn có gì cao hơn nên gọi là Cực thanh tịnh.

Văn kinh: Dụ như vàng ròng nung chảy gạn lọc đã sạch rồi không còn trở lại quặng giữa.

Tán rằng: Hiển rõ thí dụ. Hiển rõ thí dụ có bốn dụ: Ba thí dụ đầu dụ cho pháp như như, pháp thân vốn thanh tịnh, một dụ sau dụ cho trí như như hiện hành bắt đầu thanh tịnh. Pháp thân vốn thanh tịnh có ba thứ, tức là ba thanh tịnh ở trước. Ba thí dụ như sau: Hai dụ đầu cùng kết hợp một pháp, bởi vì hoặc nghiệp thuận theo hai tướng nhân quả cho nên kết hợp một pháp. Đồng thời ba thanh tịnh đó tức là ba nghĩa pháp thân, Bát-nhã, giải thoát. Pháp thân vốn thường như vàng, Bát-nhã soi chiếu như nước, giải thoát không ngăn ngại như hư không, đều nói theo nghĩa tánh đạt được nhất như. Thí dụ đầu chia làm hai: Trước là dụ cho hiện tại thanh tịnh, sau là thành tựu thanh tịnh vốn có.

Đây là mở đầu. Thí dụ như vàng ròng là dụ cho Như ở đạo tiền, nung chảy gạn lọc là dụ cho đạo trung, đã sạch sẽ rồi là dụ cho đạo hậu.

Văn kinh: Vì hiện rõ tánh chất của vàng vốn thanh tịnh. Thể của vàng là thanh tịnh không thể nói là không phải vàng.

Tán rằng: Dụ cho thành tựu thanh tịnh sẵn có. Giống như những văn này người xưa có lẽ nói rằng: “Ba thân hiện thường còn, hoặc sẽ thường còn, nung chảy gạn lọc là hiển rõ tánh vàng vốn thanh tịnh, thực hành sáu độ đối với pháp là liễu thân, trừ sạch cấu nhiễm cho nên được thể vàng thanh tịnh, không thể gọi là không phải vàng”.

Văn kinh: Dụ như nước đục được gạn trong, không trở lại vẩn đục.

Tán rằng: Chia đoạn như trước đây, nghĩa có thể theo đó mà biết.

Văn kinh: Vì hiển rõ tánh của nước vốn thanh tịnh cho nên không thể nói là không phải nước.

Tán rằng: Dụ cho thành tựu thanh tịnh sẵn có.

Văn kinh: Như vậy pháp thân và phiền não xen lẫn nhau, khổ tập dứt trừ rồi, không còn trở lại những thói quen khác là hiển bày Phật tánh vốn thanh tịnh cho nên không nói là vô thể.

Tán rằng: Kết hợp theo dụ có thể biết.

Văn kinh: Dụ như hư không bị che phủ bởi khói mây, sương mù, nếu xua tan đi thì cõi hư không thanh tịnh, không gọi là không có hư không.

Tán rằng: Hư không tương tự như nhiễm ô ở đạo tiền, nếu xua tan đi thì như đạo trung, xua tan hết rồi thì cõi hư không thanh tịnh như đạo hậu, tương tự như kinh Thắng-man nói về dụ.

Văn kinh: Tất cả các khổ như vậy nơi pháp thân thảy đều không còn, cho nên nói là thanh tịnh, chẳng thể nói rằng vô thể.

Tán rằng: Pháp kết hợp với văn có thể biết.

Văn kinh: Dụ như có người ở trong giấc mộng thấy thân mình trôi nổi trên dòng sông lớn.

Tán rằng: Trên đây là dụ cho pháp như như, đang còn ràng buộc gọi là Như lai tạng, thoát khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân, cũng chính là hiển rõ tánh chất Niết-bàn vốn thanh tịnh, cho đến, quả hiển bày thanh tịnh gọi là sở hiển đắc. Hiển bày do trí chứng, lần lượt phân biệt rõ trí tánh, cũng có từ vô thỉ. Lúc ở nhân vị gọi là Bất không Như lai tạng; đến địa vị không còn cấu nhiễm là đại Bồ-đề bốn trí tâm phẩm, là sở sinh đắc, sở sinh y theo hiện hành chẳng phải là chủng tử, chủng tử mới sinh là vốn có, cho nên văn sau chép: “Đó là giác thanh tịnh chẳng nói là vô giác”, tức trong kinh Thiện Giới chép: “Tánh chủng tánh từ vô thỉ đến nay là pháp như vậy, đạt được sáu nơi thù thắng”. Nói đến sáu nơi là có ýỳ nói trong sáu nơi ấy, ý xứ chứa đựng duy trì chủng tử. Tánh chúng tánh này từ vô thỉ vốn là pháp như vậy, để đắc được tánh này, phải nương vào sự tu hành đạt đến đại quả. Văn chia làm ba: Đầu là dụ, tiếp theo là hợp, sau cùng là kết thúc. Trong phần dụ có năm:

  1. Dụ cho người có thể tu hành.
  2. Dụ cho hiện ở trong vô minh.
  3. Dụ cho chán sợ sinh tử.
  4. Dụ cho tu hành mong mỏi thoát ra.
  5. Dụ cho đạt quả biết rõ luống dối.

Trong đó có ba: Thí dụ như có người là dụ cho người có thể tu hành, ở trong giấc mộng là dụ cho hiện ở trong vô minh, vô minh đang che lấp giống như giấc mộng trong đêm, đây là nhân của sinh tử. Trong luận Duy Thức dẫn chứng kinh chép: “Cho nên Khế kinh nói: Các loài dị sinh thường ở trong đêm dài vô minh tăm tối, mê mờ say đắm, trói buộc lấy tâm không hề thức tỉnh”. Thấy thân của mình trôi nổi trên dòng sông lớn dụ cho chán sợ sinh tử, thấy quả khổ đó như trôi nổi trên sông; hoặc dụ cho bốn dòng trôi sinh vào năm đường. Thấy nghĩa là tâm hiểu biết thức tỉnh sinh ra chán ngán sợ hãi.

Văn kinh: Vận động tay chân, ngăn chặn dòng chảy mà vượt qua đến bờ bên kia.

Tán rằng: Dụ cho tu hành mong muốn thoát ra. Cử động tay dụ cho tu tập diệu hạnh, chuyển động chân dụ cho xả bỏ ba chướng, sinh tử không tiếp nối dụ cho ngăn chặn dòng chảy. Địa vị Kim cương trọn vẹn nói là vượt qua, trong vô gián đạo Bồ-đề ở vị lai, nhân trọn vẹn có thể đến gọi là đến được bờ bên kia.

Văn kinh: Bởi vì thân tâm người đó không lười nhác lui sụt cho nên từ mộng tỉnh giấc đã không còn thấy có nước, bờ kia bờ này khác nhau.

Tán rằng: Dụ cho đạt quả biết rõ luống dối. Do nghĩa là nguyên nhân. Do ba đại kiếp tu tập ba nghiệp. Đưa ra hai hình ảnh thân tâm cũng biểu hiện cho cả ngữ nghiệp, thường xuyên thực hành không lười nhác cho đến lúc thành Phật. Cho nên đó là quyết định. Sở dĩ quyết định là do tinh tấn, không lười nhác, lui sụt. Từ mộng tỉnh giấc rồi, đối với đạo giải thoát, không còn thấy bờ này của dòng sinh tử, không còn thấy bờ kia của quả Niết-bàn, bởi vì như như, trí như như không còn là hai tướng, đều hoàn toàn bình đẳng. Bờ kia có năm thứ:

  1. Cảnh.
  2. Giáo.
  3. Lý.
  4. Hạnh.
  5. Quả.

Đạt đến cùng tận năm thứ này gọi là đến bờ kia.

Văn kinh: Chẳng nói là vô tâm, sinh tử vọng tưởng đã dứt sạch không còn, đó là giác thanh tịnh, chẳng nói là vô giác.

Tán rằng: Pháp hợp. Chỉ hợp với đại ý, chẳng phải đoạn biệt hiệp. Chẳng phải là vô tâm, nhưng bởi vì vọng tưởng vô minh lớp lớp che chắn chướng ngại không thể nào làm cho sinh sôi được. Luận Thành Duy Thức năm dẫn lời kinh chép: “Tâm chân nghĩa đang sinh, thường hay bị chướng ngại, đến lúc siêng năng tu tập ba học, vọng tưởng dứt hết đạt đến địa vị Diệu Giác, đó là Giác thanh tịnh, không thể nói rằng xưa nay không có tự tánh giác”. Trước đây chép: “Chẳng phải không có tâm, tâm là nghĩa của chứa nhóm, có cả tên gọi của nhân quả”, sau đó chép: “Chẳng nói không có giác, giác nghĩa là giác liễu, chỉ gọi y theo quả, đều dựa theo một nghĩa”.

Văn kinh: Tất cả vọng tưởng như vậy trong pháp giới không phát sinh trở lại cho nên nói là thanh tịnh, chẳng phải các Đức Phật không có thật thể đó.

Tán rằng: Kết thúc. Pháp giới như vậy, pháp giới có cả lý sự cho nên trong luận Thật Tánh giải thích về kinh A-tỳ-đạt-ma rằng vô thỉ thời lai giới, tức là giải thích theo như lý. Nhiếp Đại Thừa và luận Thành Duy Thức nói bổn thức gọi là vô thỉ giới. Trong luận Thật Tánh dựa vào mê, ngộ theo đó mà nói. Các luận như Nhiếp Đại Thừa v.v… dựa vào lưu chuyển theo đó mà nói, tất cả đều nương vào một nghĩa cho nên pháp giới nói có cả hai loại. Nay ở đây nói về giới đã kết thành thứ tư, tức là chỉ cho hữu vi, vô lậu thứ tám. Nếu có cả kết thứ tư tức là có cả lý, sự, tất cả hữu lậu vọng tưởng không sinh khởi, bốn trí cùng khởi nói là thanh tịnh, chẳng phải là các Đức Phật vốn không có thật thể này, thể của vô lậu hướng đến hữu lậu đều gọi là thật.

Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Pháp giới này, hoặc chướng thanh tịnh sẽ hiện bày ứng thân, nghiệp chướng thanh tịnh sẽ hiện bày Hóa thân, trí chướng thanh tịnh sẽ hiện bày pháp thân.

Tán rằng: Toàn bộ đoạn văn thứ tư kết thúc nhân quả ở trước, nói rõ để biết. Lại chia làm ba: Đầu tiên là tiếp tục nói về nhân quả trước đây, khuyến khích khiến cho tin hiểu, tiếp theo từ “Này người thiện nam! Do nghĩa ấy” về sau là nhắc lại và nói rộng hơn, sau cùng từ “Cho nên các Đức Phật” trở xuống là kết thúc thành tựu thắng diệu.

Đây là mở đầu. Trong đó lại có hai: Đầu là nhắc lại nhân quả; sau là khuyến khích khiến cho tin hiểu. Trong mục đầu lại có ba: Trước hết nhắc lại môn xuất thể, tức là lìa bỏ chướng đạt được thân, tiếp đến nhắc lại môn thân tướng y khởi, sau cùng nhắc lại y nhân đắc quả. Trong phần đắc quả lại có đầu tiên là đắc quả, tiếp theo là bất dị. Đây là nhắc lại môn xuất thể: Thứ nhất nêu chung cho biết, thân tạo thành từ công đức của các pháp gọi chung là pháp thân; tiếp sau đó nói riêng về dứt chướng đắc thân, dứt các chướng và phiền não v.v… trọn vẹn được Pháp thân. Làm cho tâm không kiên quyết gọi là hoặc, thể của hoặc tức là chướng; hai quả đạt được từ phiền não căn bản và tùy phiền não là thể của phiền não chướng.

Nghiệp nghĩa là tạo tác, gọi là ba nghiệp hữu lậu, thể của nghiệp

tức là chướng. Trí là hai trí, căn bổn và hậu đắc vô lậu, thể của trí chẳng phải là chướng, hãy còn sở tri chướng ngăn ngại trí không sinh khởi gọi là trí chướng, chướng của trí gọi là trí chướng. Đây là thuận theo những chướng về trí để làm tên gọi. Nếu gọi là sở tri chướng mà sở tri chẳng phải là chướng, che lấp cảnh sở tri, ngăn ngại trí không thể sinh khở,i chướng của Sở tri gọi là sở tri chướng. Do hoặc chướng thanh tịnh, trí tuệ phát sinh là Ứng thân, do nghiệp chướng thanh tịnh, thần thông tự tại, đạt được Hóa thân, do sở tri chướng thanh tịnh, lý che lấp được hiển lộ nên hiện bày Pháp thân.

Văn kinh: Thí dụ như nhờ vào hư không phát ra điện, nhờ vào điện phát ra ánh sáng; như thế nương vào Pháp thân nên có thể hiện bày Ứng thân, nương vào Ứng thân cho nên có thể hiện bày hóa thân.

Tán rằng: Đây là nhắc lại y môn khởi thân: Đầu là Dụ, sau là pháp. Thể của hư không rộng khắp, thường hằng và tánh hư không vốn thanh tịnh, nên dụ cho pháp thân, Ứng Hóa không thường vì thế dụ cho điện và ánh sáng, nương vào đó mà khởi có thể biết.

Văn kinh: Do tánh thanh tịnh cho nên hiện bày Pháp thân, trí tuệ thanh tịnh hiện bày Ứng thân, Tam-muội thanh tịnh hiện bày hóa thân.

Tán rằng: Nhắc lại môn y nhân đắc quả. Đây là đắc quả.

Văn kinh: Ba thanh tịnh này là pháp như như, Bất dị như như, nhất vị như như, giải thoát như như, rốt ráo như như.

Tán rằng: Nhắc lại môn đắc quả trong đó tuy có ba số nhưng không có ba thể. Đầu tiên thâu nhiếp dụng quy về tánh, tiếp đó kết thúc bất dị.

Đây là mở đầu. Ba thanh tịnh này không lìa như như, cho nên đó là pháp như như. Thể của như như không phân biệt là bất dị như như. Cùng là vô lậu cho nên là nhất vị như như. Lìa khỏi ràng buộc cho nên là giải thoát như như. Chứng đầy đủ thực tế cho nên là rốt ráo như như.

Văn kinh: Vì thế cho nên thể của các Đức Phật không có khác nhau.

Tán rằng: Kết thúc chẳng phải khác. Do năm như như trước đây cho nên thể của các Đức Phật không khác nhau. Ý biểu hiện là giống như. Tu thì đều đạt được vì vậy nói thể của các Đức Phật không khác nhau.

Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nói rằng Như lai là bậc Đại sư của tôi, nếu người thực hành tin tưởng chắc chắn như vậy thì người này liền tùy theo thâm tâm hiểu rõ thân của Như lai không có phân biệt khác nhau.

Tán rằng: Khuyến khích khiến cho tin hiểu. Ý khiến cho tin hiểu là phương tiện tu tập. Nói này người thiện nam là gọi Bồ-tát Hư Không Tạng. Từ “Nếu có v.v…” trở xuống là tất cả nam nữ chỉ có thể nói rằng Phật là bậc thầy của tôi, đó là người tin tưởng chắc chắn, người này liền có thể hiểu rõ sâu sắc Như lai không có phân biệt. Hoặc nói: Như lai là bậc Đại sư của tôi, có thể tin tưởng chắc chắn tùy theo những gì đã nói, thâm tâm hiểu rõ. Hoặc khuyên nhắc hàng Địa Tiền, nên tin tưởng chắc chắn rằng Như lai không có khác nhau, hàng Bồ-tát Địa thượng thâm tâm hiểu rõ Như lai không có khác.

Văn kinh: Này người thiện nam! Bởi vì nghĩa này cho nên đối với các cảnh giới không thể thích hợp suy nghĩ, thảy đều dứt trừ, tức là biết rằng pháp đó không có hai tướng, cũng không phân biệt là sự tu hành của hàng Thánh.

Tán rằng: Dưới đây là nhắc lại và nói rộng hơn, có hai:

  1. Nói rộng về nhân quả không khác trước đây.
  2. Từ “Thấy biết như vậy v.v…” trở xuống là nói rộng về sự tin hiểu trước đây.

Ngay trong phần một chia làm năm:

  1. Đối với cảnh phát khởi thắng hạnh.
  2. Như như đối với cảnh đó không thể dứt trừ chướng ngại.
  3. Tất cả như như về sau được đầy đủ nhân.
  4. Pháp giới như như về sau được trọn vẹn quả.
  5. Tất cả các chướng về sau là kết thúc không khác.

Đây chính là mở đầu. Bởi do nghĩa này là lời nêu ra, cảnh biết được từ nơi các cảnh giới, do cảnh giới này không chân chánh suy nghĩ cho nên thấy tướng khác nhau, vì vậy không thể tu hành. Có thể chân chánh suy nghĩ tức là biết không có hai cảnh, không có phân biệt tà vạy. Trí không có hai tướng thì có thể khởi tu, đó là sự tu hành của hàng Thánh.

Văn kinh: Như như đối với cảnh không có hai tướng, chân chánh tu hành cho nên tất cả các chướng như thế như thế thảy đều dứt trừ.

Tán rằng: Có thể dứt trừ chướng, có thể đối với các cảnh giới kia thấy không có hai tướng, cho nên nói là như như đối với cảnh đó, dứt trừ nhiều chướng, lại nói là như thế như thế, phát khởi nối nhau cho nên lại nhắc đến như trước.

Văn kinh: Tất cả chướng Như như đã dứt bỏ, pháp như như, trí như như như thế như thế đạt được vô cùng thanh tịnh.

Tán rằng: Đạt được nhân đầy đủ ở địa vị Kim cương định vô gián

đạo. Nhắc lại dứt bỏ mười chướng nói là tất cả chướng như như đoạn diệt; chứng được như như và trí, đạt đến địa vị Thập địa khác nhau, lại nói là như thế như thế.

Văn kinh: Như như Pháp giới, chánh trí thanh tịnh, như thế như thế, tất cả tự tại đầy đủ nhiếp thọ đều được thành tựu.

Tán rằng: Đạt được quả trọn vẹn ở giai vị giải thoát đạo. Tất cả tự tại tức là ba thân, bởi vì tất cả công đức không lìa ba thân nên nói là đầy đủ nhiếp thọ đều được thành tựu.

Văn kinh: Tất cả các chướng thảy đều dứt bỏ, tất cả các chướng đã được thanh tịnh cho nên đó gọi là tướng chân thật của chân như chánh trí.

Tán rằng: Kết thúc không có khác nhau. Bởi vì tất cả các chướng đã dứt bỏ nên được thanh tịnh, tất cả các chướng do đó chứng đến như như thanh tịnh. Chính sự thanh tịnh này mới gọi là tướng chân thật của chân như chánh trí. Tướng chân thật tức là không có hai tướng.

Văn kinh: Sự thấy biết như thế, gọi là sự thấy biết của bậc Thánh, đó mới gọi là thấy Phật. Vì sao? Vì như thật thấy pháp chân như.

Tán rằng: Mở rộng sự tin hiểu trước đây. Văn chia làm ba phần:

  1. Khiến cho như thật chứng biết.
  2. Từ “Cho nên các Đức Phật v.v…” trở xuống là nói về đồng với các Đức Phật.
  3. Từ “Nhưng các Như lai v.v…” trở xuống là kết thúc thành tựu sự thấy biết chân thật.

Đây là mở đầu. Trước hết khiến cho chứng biết như thật, tiếp đó nêu hỏi nguyên nhân, sau cùng chính thức giải thích. Thánh là chân chánh, kiến là hiểu rõ. Có thể như sự chứng đắc mà biết rõ điều ấy tức là hiểu đúng. Hoặc vì phàm phu có thể tin hiểu đúng như sự chứng đắc, đồng với kiến giải chứng đắc của bậc Thánh, cho nên chân thật thấy Phật. Nêu câu hỏi và giải thích có thể biết.

Văn kinh: Thế nên tất cả các Đức Phật đều có thể thấy tất cả Như lai ở khắp nơi.

Tán rằng: Nói về đồng với các Đức Phật. Văn chia làm ba: Đầu tiên là Phật có thể biết tất cả; tiếp đó là hàng Nhị thừa không hiểu rõ; sau cùng là phàm phu không thể lường được. Đây là mở đầu. Bởi vì thấy lý như như trọn vẹn không hai, cho nên thấy tất cả các Đức Phật Như lai.

Văn kinh: Vì sao Thanh văn, Độc giác đã ra khỏi ba cõi cầu cảnh giới chân thật lại không thể thấy biết?.

Tán rằng: Hàng Nhị thừa không hiểu rõ. Đầu tiên nêu câu hỏi; sau đó giải thích. Vì sao? Vì chỉ có Phật biết rõ tất cả, hàng Thánh giả định tánh Nhị thừa tuy ra khỏi ba cõi nhưng không có chủng trí, giả sử cầu cảnh giới chân thật nhưng không thể dùng sự thấy biết của bổn trí, không thể dùng sự thấy biết của hậu đắc; hoặc không thể nào biết được hiện lượng, không thể thấy được tỷ lượng.

Văn kinh: Bậc Thánh như vậy không thể thấy biết, tất cả phàm phu đều sinh ra nghi ngờ, điên đảo phân biệt, không thể nào được độ thoát.

Tán rằng: Phàm phu không thể lường được. Đầu tiên là pháp, tiếp đó là Dụ, sau cùng là Hợp. Đây là Pháp. Phàm phu ngu muội tối tăm không thể suy lường được, hoặc trở lại nghi ngờ là chẳng có, hoặc điên đảo chấp chặt, nên cho rằng đây là ta.

Văn kinh: Như con thỏ bơi giữa biển chắc chắn không thể vượt qua. Vì sao? Vì sức lực yếu kém.

Tán rằng: Thí dụ. Đầu tiên nêu ra, tiếp theo gạn hỏi, cuối cùng giải thích. Bởi vì không có đại tánh chỉ có hữu lậu, nên trí lực yếu kém, nên không thể độ thoát. Kinh Giải Thâm Mật chép: “Ta không thể bày giảng nói đối với phàm phu ngu muội, sợ bọn họ phân biệt chấp là ngã”. Các vị như Bồ-tát Hộ Pháp giải thích: Phàm phu nghĩa là không có tánh, ngu nghĩa là hướng đến vắng vẻ”. Còn ở đây hoặc dựa vào nơi hàng phàm phu Nhị thừa, căn chưa thuần thục không thể nào hiểu rõ được, căn thành thục thì có thể biết. Hoặc như trong kinh Pháp Hoa chép: “Ba thừa không biết, dựa vào cái biết không toàn vẹn, chỉ có Phật mới biết hoàn toàn, nói người kia không biết, ông mong muốn thành tựu có thể nương theo lời mà hiểu thật là hiếm có”.

Văn kinh: Hạng phàm phu cũng giống như thế, vì không thể thông suốt được pháp như như.

Tán rằng: Pháp hợp. Không có trí căn bổn cho nên không thể thông, không có trí hậu đắc cho nên không thể đạt.

Văn kinh: Nhưng các Đức Phật Như lai không có tâm phân biệt, đối với tất cả pháp được tự tại hoàn toàn, đầy đủ thanh tịnh, trí tuệ sâu sắc, cho nên đó là cảnh giới tự chứng, không cùng như người khác.

Tán rằng: Kết thúc thành tựu cái thấy chân thật. Bởi vì Phật không còn phân biệt, không thấy hai tướng nên chứng được pháp như như, đạt đến tướng không chân thật của pháp cho nên đối với tất cả các pháp được tự tại hoàn toàn, đạt được trí như như cho nên đầy đủ trí tuệ thanh tịnh sâu sắc. Do đó đây chỉ là cảnh giới Phật, không giống như cảnh giới của người khác. Kinh Kim cương Bát-nhã chép: “Như lai nói Bát-nhã ba-la-mật-đa tức chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, đó mới là Bát-nhã ba-la-mật-đa”. Bồ-tát Thiên Thân giải thích rằng: Nói Ba-la-mật là chỉ riêng bờ bên kia của Phật, chẳng phải Ba-la-mật là chẳng phải bờ bên kia của những người khác; gọi là Ba-la-mật là cuối cùng đây là bờ bên kia của Phật”. Ở đây cũng giống như vậy.

Văn kinh: Thế nên các Đức Phật Như lai trong vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ kiếp không hề tiếc nuối thân mạng, chịu khó thực hành những hạnh khó làm mới đạt được thân tối thượng không ai sánh bằng không thể suy nghĩ bàn luận này, vượt quá cảnh giới nói năng, đó là thân nhiệm mầu vắng lặng lìa các sự sợ hãi.

Tán rằng: Kết thúc thành tựu thắng diệu. Từ “Trong vô lượng v.v… hành khổ hạnh” là nhân thực hành; không tiếc thân mạng, do bốn nhân duyên:

  1. Vì cầu pháp, như Đồng tử Tuyết Sơn.
  2. Vì báo ân, như vương tử Pháp Hộ v.v…
  3. Vì cứu nghèo, như Kim Sắc Sư Tử v.v…
  4. Vì cứu mạng, như Vương tử Tát-đỏa v.v…

Mới đạt được thân này là hiển bày đắc quả. Tối thượng không ai sánh bằng v.v… là khen ngợi quả thù thắng. Cuối cùng cho nên không gì trên, không có gì sánh ngang, nên gọi là không gì sánh bằng. Vượt quá tình hình suy nghĩ cho nên là không thể suy nghĩ bàn luận . Hơn hẳn lời nói giảng giải cho nên vượt ngoài cảnh giới nói năng. Đại Niết-bàn bởi vì đó là nhiệm mầu vắng lặng. Dứt sinh tử cho nên lìa năm sự sợ hãi, đó là sợ không có công việc, sợ chết, sợ đường ác, sợ tên ác, sợ đại chúng.

Văn kinh: Này người thiện nam! Như vậy thấy biết pháp chân như đó là không còn sinh, già, chết, tuổi thọ không giới hạn, không có ngủ nghỉ, cũng không có đói khát, tâm thường ở trong định không có loạn động.

Tán rằng: Cuối phẩm toàn bộ đoạn thứ ba kết thúc khuyến khích tu hành. Văn chia làm ba:

  1. Kết thúc tin hiểu ở trước khiến nương theo thực hành.
  2. “Nhưng các Như lai” trở xuống kết thúc đạt được quả khiến cầu chứng ở trước.
  3. “Nếu thiện nam v.v…” trở xuống là thành tựu hai nghĩa ở trước. Trong phần một có ba: Đầu tiên nêu ra lợi ích tin hiểu, tiếp đến có tổn hại vì không tin, sau cùng nói lợi ích khuyên thực hành.

Đây là mở đầu. Chỉ có thể một niệm như thế, thấy biết pháp chân như sẽ đạt được Bồ-đề, không bao giờ còn những thứ sinh, già, chết v.v… làm nhân xa xôi, cho nên chắc chắn sẽ đạt được. Vì vậy phẩm Dược Vương trong kinh Pháp Hoa chép: “Người nghe kinh này không già không chết, không bao lâu sẽ lấy đệm cỏ ngồi nơi đạo tràng”. Hoặc trước nói về đức của Như lai, đã nói xong văn sau lại nói; do đó người nói này là người tin hiểu sẽ đạt được quả. Hoặc nhiều lần nhắc lại công đức của Như lai khiến cho phát sinh tin hiểu, đạt được thân Kim cương cho nên không có sinh, già, chết. Lìa xa năm cái nên không có ngủ nghỉ, phá diệt ma quân nên không có đói khát. Văn còn lại có thể biết, tuy nhiên giải thích ở trước kết thúc tốt đẹp.

Văn kinh: Nếu đối với Như lai khởi tâm tranh luận thì sẽ không thể thấy được Như lai.

Tán rằng: Có tổn hại vì không tin. Khởi tâm tranh luận không thể tin hiểu thì trong tương lai sẽ không thấy được và chứng được ba thân của Như lai, cũng không thể nương vào giáo pháp để thấy Như lai.

Văn kinh: Lời các Đức Phật đã nói đều được lợi ích.

Tán rằng: Nói lợi ích khuyên thực hành. Đầu tiên nêu ra, sau đó giải thích. Đây là nêu ra.

Văn kinh: Có người lắng nghe thảy đều giải thoát, không gặp các loài cầm thú hung ác, người ác, quỷ ác, do nghe pháp nên quả báo vô tận.

Tán rằng: Giải thích về được lợi ích. Đầu tiên đạt được Niết-bàn; tiếp đến khỏi sự tổn hại, sau đó là quả báo vô tận. Trong luận Bát-nhã chép: “Nơi Pháp là liễu nhân cũng là sinh nhân còn lại”. Nghe kinh cho nên được giải thoát là liễu nhân; quả báo vô tận đó nghĩa là đạt được Bồ-đề là sinh nhân. Luận Biện Trung Biên chép: “Hành giả thực hành pháp này được nhóm phước vô lượng”. Thù thắng cho nên vô tận, do đó lợi tha không ngừng nghỉ. Lắng nghe Đại thừa đạt được quả báo thù thắng vì vậy vượt xa Nhị thừa. Vì đại bi lợi tha không ngừng nghỉ cho nên vô tận, do đó các ác nạn đều không gặp.

Văn kinh: Nhưng các Đức Như lai không có việc gì không ghi nhớ, tất cả cảnh giới không có tâm muốn biết.

Tán rằng: Kết thúc đạt được quả khiến cầu chứng ở trước. Trong đó chia ra hai: Đầu tiên kết thúc sở đắc ý khiến cho sinh vui mừng; sau đó nói về nghe được lợi ích khuyến khích người tu học. Trong phần kết thúc, quả sở đắc có vô lượng chủng loại, chỉ kết thúc sở đắc ở trước trong mười tám pháp Bất cộng và đại Từ bi tự lợi, lợi tha để theo đó hiển bày các công đức khác. Đầu tiên kết thúc mười tám Bất cộng, sau đó kết thúc từ bi. Trong phần đầu có năm: Một là “Không có việc gì không ghi nhớ” là thảy đều ghi nhớ rõ ràng không quên ý niệm. Ở dưới có bốn oai nghi trong đó thảy đều thuộc về trí, tức là trí làm tiền đạo. Hai là “Tất cả cảnh giới không có tâm muốn biết”, tức là ý muốn không giảm bớt; hoặc tất cả cảnh giới đều nhậm vận mà biết, không nhờ vào sự tìm cầu mới biết.

Văn kinh: Sinh tử, Niết-bàn không có ý tưởng khác nhau, lời Như lai đã nói thảy đều quyết định.

Tán rằng: Ba là không có các thứ ý tưởng. Bốn là đạt đến trí ba đời không có vướng mắc ngăn ngại. Pháp đã nói thảy đều quyết định, và Nhất thiết chủng diệu trí thường biết rõ các uẩn, các pháp môn cho nên nói là quyết định; hoặc bốn vô úy hoặc là trí ngữ nghiệp làm tiền đạo cho nên nói quyết định.

Văn kinh: Trong bốn oai nghi của các Đức Phật Như lai thảy đều thuộc về trí.

Tán rằng: Năm là trí thân nghiệp làm tiền đạo, do đó thảy đều thuộc về trí.

Văn kinh: Tất cả các pháp không có pháp nào không thuộc về từ bi, không có pháp nào không vì lợi ích an vui chúng sinh.

Tán rằng: Kết thúc đạt được công đức lợi tha, đại từ đại bi ở trước. Lợi ích bạt khổ, an lạc cho vui, đại bi cho nên cứu khổ được lợi ích, đại từ nên cho vui được an vui. Đồng thời bổn nguyện của Phật chỉ muốn lợi tha tu đại từ bi, cầu quả vô thượng cho nên thực hiện công việc hoàn toàn là công việc. Thuộc về từ bi, lại nêu ra pháp Bất cộng là tự lợi thù thắng; nêu ra từ bi là lợi tha thù thắng. Vì vậy nói chung kết thành hai phần.

Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh Kim Quang Minh này lắng nghe tin hiểu.

Tán rằng: Đây là nói về nghe được lợi ích khuyến khích người tu học. Văn chia làm bốn phần:

  1. Nói về nghe được lợi ích.
  2. Nêu ra.
  3. Giải thích.
  4. Thành tựu.

Trong phần đầu, đầu tiên là nghe kinh tin hiểu, tiếp đến nói về đạt được lợi ích. Lắng nghe là văn tuệ, tin tưởng tức là tư tuệ, hiểu rõ tức là tu tuệ. Hoặc đưa ra tiêu chuẩn kém nhất, chỉ nhờ vào văn tuệ có Nthể tin, có thể hiểu; hoặc chỉ tin hiểu không phải là chứng ngộ hãy còn được phước ấy, huống gì là hạnh thù thắng.

Văn kinh: Không đọa vào các đường địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, A-tu-la, thường sinh làm trời, người, không sinh nơi thấp kém, luôn luôn được gần gũi các Đức Phật Như lai, nghe nhận chánh pháp, thường sinh vào cõi nước thanh tịnh của các Đức Phật.

Tán rằng: Được lợi ích, lìa tám nạn. Đầu tiên là lìa ba đường ác tức là ba, A-tu-la nếu theo Tiểu thừa thì thuộc về loài quỷ súc, nếu theo Đại thừa thì thuộc về loài trời, tức là thuộc về biên địa. Sinh làm trời người, trước đây dịch là đường ác và biên địa. Không sinh nơi thấp kém tức là dứt bỏ các căn không đầy đủ, mù bẩm sinh, điếc bẩm sinh. Luôn luôn được gần gũi các Đức Phật là lìa nạn sinh trước sinh sau Phật. Lắng nghe chánh pháp là lìa nạn thế trí biện thông. Thường sinh về cõi nước các Đức Phật là lìa nạn các tầng trời Sống lâu. Theo luận Thành Thật thì bốn luận diệt hết tám nạn:

  1. Ở nơi tốt lành gọi là Trung Quốc, dứt bỏ năm nạn đó là ba đường ác, trời Sống lâu, biên địa.
  2. Nương theo người tốt lành gọi là gặp Phật, dứt bỏ nạn sinh trước và sinh sau thời Phật.
  3. Phát nguyện chân chánh gọi là chánh kiến, dứt bỏ nạn tà kiến thế trí biện thông.
  4. Gieo trồng gốc lành vốn có, dứt bỏ nạn căn không đầy đủ.

Nay nghe kinh này chỉ có thể tin hiểu đủ để từ bỏtám nạn, bởi lẽ là oai lực thù thắng; có công năng trừ chướng ngại, cho nên không những trừ chướng ngại mà còn mau chóng đạt được Bồ-đề. Được phân tích rõ trong phần giải thích thành tựu dưới đây.

Văn kinh: Vì sao?

Tán rằng: Nêu ra. Nghe kinh mà tin hiểu thì có công năng trừ bỏ tám nạn. Vì sao?

Văn kinh: Vì được nghe pháp vô cùng sâu xa này.

Tán rằng: Giải thích. Bởi vì thọ trì pháp Đại thừathì nhóm hợp mười công đức:

  1. Thành tựu tất cả chủng tử gốc lành.
  2. Lúc sắp qua đời tất cả đều vui vẻ.
  3. Hễ muốn sinh về cõi nước nào thì được tùy ý.
  4. Hễ sinh về chỗ nào đều được tự tánh niệm sinh trí.
  5. Sinh về nơi nào thường được gặp Phật.
  6. Luôn luôn ở bên Phật nghe pháp Đại thừa.
  7. Thành tựu tín căn tăng thượng
  8. Thành tựu tuệ căn tăng thượng
  9. Được xa lìa hai chướng trí, hoặc.
  10. Mau chóng thành tựu Bồ-đề vô thượng.

Vì lý do ấy cho nên xa lìa tám nạn.

Văn kinh: Thiện nam, thiện nữ đó đã được Như lai biết đến, nhớ đến, sẽ được không lui sụt trên đường tiến đến đối với quả vị A-nậu-đala Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Tán rằng: Thành tựu nguyên nhân ở trước. Người có thể nghe kinh này phát sinh tin hiểu, tức là Như lai đã biết danh thân, đã thấy sắc thân. Nói đến công đức của người này chỉ có Phật mới thấy biết, người khác không thể nào thấy biết. Nói biết thì được, còn thấy thì nhờ vào đâu mà nói là thấy? Nói là thấy cũng được, cần gì phải nói là biết?

Đáp: Theo luận Bát-nhã Kinh của ngài Thiên Thân chép: “Phật chẳng phải thấy quả mà biết, do nguyện trí mà hiện thấy”. Nhưng nói biết, nghĩa là Phật thấy quả nhờ vào biết nhân cho nên nay nói là thấy. Thấy là nguyện trí, nêu lên tâm năng liễu. Nếu như vậy chỉ là thấy cần gì phải nói là biết, nghĩa là chỉ thấy sắc, nay cũng có thể biết thân bốn uẩn. Không làm ra nhưng Phật thấy biết, liền được Phật ghi nhớ. Lại nữa, sẽ đạt được Bồ-đề không lui sụt, tuy chưa đạt được liền nhưng sẽ chứng được. Tùy theo địa vị nào đó sẽ chứng đạt bốn thứ không lui sụt, đó là bốn thứ không lui sụt: Tín, Trú, Chứng, Hạnh. Tín không lui sụt là tâm thứ sáu trong Thập Tín. Trú không lui sụt là tâm thứ bảy trong Thập Trú, chứng không lui sụt là Sơ Địa, Hành không lui sụt là vào Bát Địa.

Văn kinh: Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với pháp sâu xa vi diệu này, được một lần nghe qua tai, thì nên biết rằng người đó không bài báng Như lai, không hủy phạm chánh pháp, không khinh chê thánh chúng.

Tán rằng: Tiếp tục nói rộng hơn nữa về sự thành tựu hai lợi ích thù thắng trước đây, muốn giúp cho nghe nhận tu hành kinh này. Có ba lợi ích thù thắng:

  1. Không chê bai Tam Bảo.
  2. Thêm lớn gốc lành.
  3. Khiến cho thực hành sáu độ.

Đây là lợi ích thứ nhất. Bởi vì biết Phật thường trụ nên không bài báng Như lai, nói rằng cuối cùng cũng hoại diệt, biết nói quyết định cho nên không bài báng pháp, biết có thể đạt được thành quả cho nên không bài báng Tăng. Lại bởi vì nghe tin thường làm cho nhân kính tin không 8 hủy hoại, không chê bai khinh miệt Tam bảo.

Văn kinh: Tất cả chúng sinh chưa gieo trồng gốc lành khiến cho được gieo trồng, đã gieo trồng gốc lành thì khiến cho được thành tựu thuần thục.

Tán rằng: Làm cho gốc lành thêm lớn. Đây là chưa phát tâm cầu Bồ-đề khiến cho phát tâm cầu tức là khiến cho gieo trồng gốc lành. Đã phát tâm cầu khiến cho tăng thêm thắng giải hạnh vị ở tăng-kỳ thứ nhất, khiến cho lớn mạnh ở tăng-kỳ thứ hai, khiến cho thành tựu ở tăng-kỳ thứ ba. Nhưng hai loại trên chỉ nói người nghe kinh đạt được sáu Ba-lamật khiến cho người khác thực hành. Đây là ảnh hưởng lẫn nhau, tự và tha đều như vậy.

Văn kinh: Tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới đều khuyến khích tu hành sáu độ Ba-la-mật-đa.

Tán rằng: Sau đó có thể khiến cho thực hành sáu độ. Ý này nói về tự mình nghe và tin có thể thành tựu ba điều này. Đã lắng nghe rồi sau đó cảm hóa người khác thực hành ba việc ấy. Lại có thể tin hiểu phá bỏ bốn thứ chướng. Đầu tiên không bài báng Phật v.v… dứt trừ chướng xiển-đề, bất tín, khiến cho gieo trồng gốc lành, dứt trừ chướng ngoại đạo, chấp ngã, đều thực hành sáu độ trừ Thanh văn sợ khổ, Duyên giác bỏ tâm. Đã có nhiều lợi ích cho nên cần phải tu hành thực hành tự lợi, lợi tha.

Văn kinh: Lúc bấy giờ, Bồ-tát Hư Không Tạng, Phạm vương, Đếthích, Tứ Thiên vương, các chúng trời, người liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Phật.

Tán rằng: Toàn bộ đoạn văn thứ tư của phẩm này là lãnh hội trì học. Văn chia làm bốn phần:

  1. Chí thành cung kính lãnh giải.
  2. “Thế tôn! Chúng con v.v…” trở xuống là phát nguyện trì học.
  3. Thế tôn ngợi khen ấn chứng.
  4. Khuyến khích truyền bá rộng rãi.

Trong phần đầu: Thứ nhất chí thành cung kính; tiếp đó là lãnh giải. Đây là chí thành cung kính. Đã nghe pháp thù thắng biểu hiện tiến đến Bồ-đề, do đó đứng dậy khỏi chỗ ngồi hiển bày sẽ thành Phật. Hiện rõ hình tượng tốt lành nên vén y bày vai phải, tâm phù hợp với giáo lý cho nên chắp tay, tâm tôn trọng cho nên cung kính, cung kính càng sâu xa cho nên đảnh lễ dưới chân Phật.

Văn kinh: Bạch với Đức Phật: Bạch Thế tôn! Nếu ở nơi đó giảng nói kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này, thì cõi nước ấy được bốn lợi ích.

Tán rằng: Lãnh giải. Có bốn:

  1. Đưa ra.
  2. Nêu hỏi.
  3. Giải thích.
  4. Kết thành.

Đây là đưa ra. Bắt đầu lãnh ngộ biết thưa hỏi Thế tôn. Gọi tôn hiệu cho nên nói là Thế tôn. Chỉ ra sự lãnh ngộ rõ ràng nên nói nếu nói kinh Kim Quang Minh này. Nêu ra số lợi ích cho nên nói có bốn lợi ích.

Văn kinh: Bốn lợi ích là gì?

Tán rằng: Nêu hỏi.

Văn kinh: Một là vua chúa quân lính cường thịnh, không có kẻ thù đối địch, khỏi các tật bệnh, tuổi thọ dài lâu, tốt lành yên vui, chánh pháp hưng hiển.

Tán rằng: Giải thích. Thuận theo bốn loại đã nêu ra tức là chia làm bốn đoạn. Đây là đoạn đầu. Lợi ích của vua chúa đại thần có bốn, theo văn trong phẩm Sám Hối: “Ở cõi nước đó được bốn lợi ích tốt lành:

  1. Vua không bệnh tật, hoạn nạn, tránh được các tai ách. Tức ở đây là không bệnh tật.
  2. Tuổi thọ lâu dài, không có chướng ngại, tức ở đây là sống lâu.
  3. Không có các kẻ thù, quân lính mạnh mẽ, tức ở đây là quân lính cường thịnh không có kẻ thù đối địch.
  4. Yên ổn vui sướng, chánh pháp truyền bá, tức ở đây là tốt lành yên vui, chánh pháp hưng thịnh”. Dựa theo văn trong phẩm Sám Hối mở ra thành tám thứ. Văn ở đây có sáu thứ, như văn có thể biết.

Văn kinh: Hai là các phi tần, hoàng hậu, vương tử, quan lại hòa thuận vui vẻ không tranh chấp, không nịnh hót nhà vua để được yêu quý, trọng vọng.

Tán rằng: Thứ hai người làm bề tôi có ba lợi ích:

1. Hòa thuận vui vẻ không tranh chấp; ở dưới nói: Lại cùng nhau thân thiết, đẹp lòng kính trọng, thương yêu nhớ nghĩ. Một là Lại cùng nhau nói năng tin tưởng tôn trọng và thương yêu nhớ nghĩ.

2. Không nịnh hót vì coi thường tài vật tôn trọng pháp luật, không cầu lợi ích thế gian cho nên không có nịnh hót, do đó danh tiếng tốt đẹp vang xa khắp nơi, mọi người đều kính mến.

3. Nhà vua yêu mến quý trọng, theo văn dưới cũng là nơi tôn trọng kính ngưỡng của các vị Sa-môn, Bà-la-môn, nước lớn, nước nhỏ, nay nêu lên điều thù thắng ấy nên lược bỏ không nói những thứ khác. Đã được nhà vua yêu mến quý trọng, tất cả mọi người tôn trọng cung kính, cho nên cũng được tuổi thọ dài lâu, yên ổn vui sướng.

Văn kinh: Ba là Sa-môn, Bà-la-môn và nhân dân trong nước đều tu hành theo chánh pháp, không có bệnh tật, luôn yên vui, không có người chết oan ức, đối với các ruộng phước thảy đều xây đắp tạo dựng.

Tán rằng: Nhân dân trong nước có bốn lợi ích:

1. Tu hành theo chánh pháp, nghĩa là luôn luôn hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ, phụng sự thầy dạy, tu hành mười điều lành, Tôn kính Tam bảo.

2. Không bị bệnh tật, không gặp bảy nạn, bảy nạn này trong kinh Dược Sư chép: “Nạn nước khác xâm chiếm, nạn trong nước phản nghịch, nạn mưa gió trái mùa, nạn gặp thời hạn hán, nạn nhân dân dịch bệnh, nạn các sao quái lạ, nạn mặt trời, mặt trăng che khuất”. Do vua quan, quân lính cường thịnh nên không có nạn nước ngoài xâm chiếm, bề tôi phụ giúp hòa thuận vui vẻ lại không có nịnh hót nên không có nạn trong nước phản nghịch, tốt lành vui sướng, chánh pháp hưng thịnh nên không có nạn mưa gió trái mùa v.v…

3. Không có người chết oan ức, không gặp chín thứ chết ngang trái, chín thứ chết ngang trái ấy như kinh Dược Sư chép:

1/ “Gặp phải bệnh hoạn đến nỗi mất mạng ngang trái

2/ Bị pháp vua giết hại tan thân ngang trái

3/ Bị loài phi nhân làm hại ngang trái.

4/ Bị lửa dữ thiêu đốt ngang trái

5/ Bị nước mạnh cuốn chết ngang trái.

6/ Bị thú dữ ăn nuốt ngang trái.

7/ Bị rơi xuống vực sâu núi thẳm ngang trái.

8/ Bị các thứ thuốc độc giết hại ngang trái.

9/ Bị đói khát, khốn đốn ngang trái”.

Nay kinh Kim Quang Minh này truyền bá trong nước, nhân dân không bị chín thứ ngang trái nên không có cái chết oan ức. Nói đến ngang trái là không phải không có nhân đời trước mà thọ nhận quả ác. Nói theo đời này thì tuy không gây ra điều ác mà gặp phải có duyên như vậy, đó gọi là ngang trái. Nghe kinh thảy đều dứt trừ, Vua chúa lưu thông chánh pháp, bề tôi phò trợ, khinh tiền tài, trọng pháp luật, phi tần cung hậu hòa thuận vui vẻ không trở lại gièm siểm nịnh hót, mọi người tu hành theo chánh pháp cho nên dẫn đến phước ấy.

. Xây dựng, gieo trồng ruộng phước.

Văn kinh: Bốn là trong ba mùa đều điều hòa thích hợp, thường được chư Thiên tăng thêm sự bảo vệ, tâm từ bi bình đẳng không hề giết hại, khiến cho các chúng sinh quy kính Tam bảo đều nguyện tu tập các hạnh Bồ-đề.

Tán rằng: Tóm lại là được chư Thiên tăng thêm sự bảo vệ, không chỉ tăng thêm bảo vệ cho vua chúa, thần dân, mà còn thực hành bảo vệ người trì kinh. Nếu không như vậy thì văn dưới lẽ ra không nên nói “Chúng con cũng thường vì mở mang kinh điển cho nên theo kính người trì kinh như thế, ở các trú xứ đó thực hành lợi ích giúp họ”. Y cứ theo văn lẽ ra nên nói “Bốn là thường được chư Thiên tăng thêm sự bảo vệ, ở trong ba mùa bốn đại điều hòa thích hợp, tâm từ bi bình đẳng không hề giết hại v.v…” Theo lời văn thì sau mới nói bảo vệ, hoặc nhờ oai lực của kinh mà bốn đại điều hòa thích hợp, vì vậy chư Thiên tăng thêm sự bảo vệ chỉ thuộc về phần sau, chư Thiên lại khiến cho các loài chúng sinh cung kính Tam bảo, tu tập các hạnh Bồ-đề. Theo văn trong kinh dịch xưa “Khiến cho các chúng sinh thành tâm quy y, kính ngưỡng tam tôn”. Văn đó hơi thiếu, văn chỉ nói đến trời, trời nghĩa là các vị Bồ-tát mà tất cả Như lai tôn trọng gọi là trời, do đó là chư Thiên ở các tầng trời cõi Dục, cõi Sắc và các vị Hiền Thánh thường che chở bảo vệ.

Văn kinh: Đó là bốn việc lợi ích.

Tán rằng: Kết thúc.

Văn kinh: Bạch Thế tôn! Chúng con cũng thường vì mở mang kinh điển cho nên thuận theo người trì kinh như vậy, ở các trú xứ đó thực hành lợi ích giúp họ.

Tán rằng: Thứ hai là phát nguyện trì học. Thuận theo người này có hai ý:

  1. Vì nghe kinh.
  2. Để bảo vệ.

Văn kinh: Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này người Thiện nam! Đúng thế! Đúng thế.

Tán rằng: Thứ ba Thế tôn ngợi khen ấn chứng có thể thực hành lợi ích, vì vậy khen ngợi “lành thay”; kể rõ lợi ích của kinh đó, thuận theo chánh lý cho nên liền nói “Đúng thế”.

Văn kinh: Các người cần phải hết lòng chịu khó truyền bá rộng rãi kinh điển vi diệu tức là giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian.

Tán rằng: Thứ tư khuyến khích truyền bá rộng rãi.