DUY MA KINH LƯỢC SỚ

Thiên thai, Sa-môn Trạm Nhiên lược.

PHẨM: BỒ-TÁT

Phần 1

Phẩm này tiếp sau phẩm Đệ Tử là phần thứ ba phá về tự thể duyên tập, hiển bày pháp thân giải thoát bất tư nghị, thành giáo Tịnh độ của Như Lai. Ý nghĩa của phẩm rất nhiều, hàng phàm tình không lường biết được. Nay lược dùng ba ý để giải thích chung:

  1. Chính nói ý có tiếp phẩm này.
  2. Lược giải thích nghĩa phẩm Bồ-tát.
  3. Giải thích văn kinh.

1. Nói có tiếp phẩm này: Đấng Đại Thánh Pháp vương muốn khiến chúng sinh y báo, chánh báo bất tư nghị. Trước sai các đại đệ tử kể việc không kham của mình, vì các Thanh văn lấy cái chứng thiên chân đều trệ ngại vô vi, nên ai nấy đều bị chê trách mà không kham lãnh truyền ý chỉ Phật. Bồ-tát không thế nên sai tiếp theo. Nhưng Bồ-tát tuy không trệ vào vô vi mà lại có bệnh về tự thể, nên thuở xưa đều bị chê trách. Đây là nói về ba giáo đều là phương tiện bất tư nghị pháp thân chánh báo chưa hiển bày, Y báo Phật quốc chân tịnh chưa thành, nên các Bồ-tát ai nấy đều từ chối không kham. Nay nói có phẩm này tóm tắt có năm lý do:

  1. Hiển bày thắng trí của ngài Tịnh Danh.
  2. Chuyển giáo môn phương tiện.
  3. Giúp thành giáo Phật quốc.
  4. Bác bỏ phương tiện Bồ-tát để tiếp nối vị sau.
  5. Ấn định thành kinh. Năm danh số này giống phẩm Đệ Tử trước nhưng nghĩa có khác nhau.

Thắng trí của ngài Tịnh Danh, các đệ tử ở phẩm trước tuy đều kể việc bị chê trách không đáp được, nhưng hàng Thanh văn trí đoạn dù vượt ngoài ba cõi, mà phước trí cạn hẹp Tiểu thừa, làm sao hiển bày hết Thần trí của ngài Tịnh Danh. Như đấu sức với kẻ yếu kém đâu có gì lạ.

Do đó tiếp sai bốn vị Đại Bồ-tát và các Đại sĩ, nếu tất cả đều kể việc không kham thì vì nghe ngài Tịnh Danh trí đức siêu quần không ai không kính ngưỡng và quy phục. Nếu ngài Văn-thù được sai vào thất luận đạo thì tất cả đều được lợi ích lớn. Ý này giống như lấy ở trong thất làm phần tựa, nhưng bốn nghĩa kia đều là chính thuyết. Vì nhiều người mà luận cho nên không thuộc phần tựa. Trước đã liệu giản rõ ràng.

Chuyển giáo cũng là chuyển quán. Vì sao? Vì độn căn chuyển giáo thì gọi người là tín hành, còn lợi căn chuyển quán thì gọi là người pháp hành, tức có hai là chuyển giáo và chuyển quán.

Về chuyển giáo: Bồ-tát độn căn không kham nghe Viên giáo, nên phương tiện tiếp dẫn điều phục họ thuần thục. Tu hạnh phương tiện đã được thuần thục kham nghe Viên giáo vào đạo, nên các Bồ-tát quyền thuở xưa thị hiện việc bị chê trách. Nay muốn chuyển quyền, dùng sự thật cần kể lại cho mọi người cùng nghe biết. Tiếp sai đến các Bồ-tát có ba việc bất đồng:

  1. Chuyển giáo phương tiện của Tam tạng giáo.
  2. Chuyển giáo phương tiện Bát-nhã trong đêm đắc đạo.
  3. Chuyển giáo phương tiện trong Hoa Nghiêm.

– Chuyển giáo phương tiện, có hai nghĩa tiệm và đốn. Về tiệm chuyển thì Bồ-tát độn căn một lần chuyển giáo, cùng Thanh văn đồng năm vị. Nhưng căn cứ người thì có khác chút ít. Vì sao? Vì Tam thừa đồng học, Nhị thừa đoạn các kiết thành lạc, thì giáo và người đều là lạc, còn Bồ-tát phục kiết, giáo là lạc, người còn là sữa. Về đốn chuyển, Thanh văn đối với Phương đẳng Không được đốn chuyển, còn Bồ-tát lợi căn đối thời Phương đẳng thì được ngộ, tức là Đốn chuyển. Đây là ý bất định giáo tức độc trong sinh tô phát ra giết người.

– Chuyển giáo phương tiện Bát-nhã. Tức là Phật từ đêm đắc đạo luôn nói Bát-nhã. Giáo này như ở Tam tạng giáo vì lợi ích người mà nói, tức là bí mật giáo. Nếu các Bồ-tát riêng nghe tức là bất định giáo. Nhưng đây đã từ vườn Lộc giả đến mà nói Bát-nhã, nói đủ ba trí, tức có ba thứ Bồ-tát, hai loại người trước là học từ phương tiện giáo môn của Bát-nhã, nên bị ngài Tịnh Danh dùng Viên giáo bắt bẻ. Nếu chê trách về Thông giáo, ở Nhất thiết trí mà thấy Trung đạo, tức là độc trong sinh tô phát ra giết người. Nếu chê trách về Biệt giáo, ở đạo Chủng trí mà khai Phật tri kiến, là độc trong thục tô phát ra giết người. Về tu Viên giáo thì có chê trách và không chê trách. Không chê trách tức là hiểu sâu được ý của giáo không chấp sinh kiến, không thuận đạo ái thì không còn chê trách. Hoặc sinh ngữ kiến hoặc thuận đạo ái nên bị chê trách. Nếu tâm khai ngộ vào pháp môn Bất nhị tức là độc trong đề hồ phát ra giết người.

Nói học Biệt giáo trong Hoa Nghiêm mà thiên lệch chấp trệ nên bị chê trách. Nếu khai ngộ thì cũng là độc trong thục tô phát ra giết người. Nếu học Viên giáo thì có chê trách và không chê trách, căn cứ trong thời Bát-nhã mà được mất khá biết.

Lại nữa trong bốn vị mà phương tiện được ý và không được ý cả hai đều bị chê trách. Vì sao? Vì người đóng kín giáo hạnh sinh kiến, ắt phải chê trách. Tuy ngang bằng giáo hạnh nhưng giáo hạnh chưa chân thật, nên chê trách khiến cho vào thật. Nếu học thật giáo thì căn cứ vào Bát-nhã có thể thấy.

Hỏi: Vì sao phải thế?

Đáp: Do giáo phương tiện dạy người đều bỏ. Viên giáo thì được ý không bỏ nên như thế.

Giải thích phẩm này, Bồ-tát của Thông và Biệt giáo hoàn toàn bị chê trách. Viên giáo thì bất định, căn cứ theo trên mà suy ra. Khi vào văn thì chuyên dùng ý này, từ đây trở đi cần nhớ chớ nghi. Lại ba giáo thì pháp và bệnh đều bị chê trách. Viên giáo trách bệnh không trách pháp.

Hỏi: Từ đêm được đạo Bát-nhã, nếu có Thông giáo, thì phải có hàng Nhị thừa được đạo?

Đáp: Đúng như lời hỏi.

Hỏi: Phương tiện Bồ-tát có nhất định là một mực bị chê trách chăng?

Đáp: Đã chưa bằng trong thời Pháp Hoa e là chưa được bỏ hết. Hiển bày chánh ý của Phật nên cứ theo trước mà phán quyết. Căn cứ theo phương tiện giáo thì phương tiện Bồ-tát cũng chỉ trách bệnh mà không trách pháp. Đây cần nên phân biệt. Nếu dựa theo người tu thì bệnh và pháp đều trách. Pháp muốn tiếp độ người sau chưa cần phải bỏ.

Hỏi: Hoa Nghiêm Viên Đốn sao được ở người Hữu học mà chê trách khiến chuyển giáo?

Đáp: Người lợi căn được ngộ sao lại chê trách, chỉ vì thần căn thấp kém cần phân biệt để tiếp dẫn. Nếu đóng kín giáo không dời thì mất chánh ý của Hoa Nghiêm, nên phải chê trách để lại nhập vào pháp giới hải của Hoa Nghiêm Viên Đốn. Hoặc tuy có học Viên Đốn vẫn phải chê trách như trước nói. Ấy là chê trách lỗi làm trệ ngại chánh ý của Hoa Nghiêm, không phải chê trách giáo pháp Đốn giáo.

Hỏi: Cũng nói đêm thứ hai luôn nói Niết-bàn, nên trong kinh Niếtbàn Phật đáp lời Ca-diếp rằng: “Khi ta mới thành đạo, ta đã có mười phương Bồ-tát đến hỏi nghĩa này.” Vậy trong đó cũng có Bồ-tát chưa liễu ngộ, sao không nêu ý này?

Đáp: Tuy có ý này, nhưng chưa thấy văn rõ ràng. Nếu muốn thấy, căn cứ vào Bát-nhã sẽ biết. Đây dựa theo bộ nên có khác. Nếu có khác tên Hoa Nghiêm Bát-nhã thì trước đã nói bị chê trách, tức là nghĩa này.

Hỏi: Đêm được đạo thì Bát-nhã là khác tên với Hoa Nghiêm hay là có nói riêng?

Đáp: Đại Luận nói: Bát-nhã có hai thứ là chung nói với hàng Nhị thừa và không chung nói. Không chung nói, là như kinh Bất tư nghị, nếu xét theo văn đây thì chỉ là tên khác. Lại nữa, Đại Luận khen Bát-nhã có kệ rằng:

Nếu đúng pháp quán Phật

Bát-nhã và Niết-bàn

Là tướng ba tức một

Kỳ thật không khác nhau.

Nếu thế, thì Niết-bàn cũng là tên khác của Hoa Nghiêm, sao chỉ có Bát-nhã?

Đáp: Hoa Nghiêm từ Đại Phương Quảng Phật mà được tên, Bátnhã do từ trí tuệ mà gọi, Niết-bàn thì từ giải thoát mà nêu tên. Nếu xét theo luận thì văn khác, bộ khác nhưng danh và lý cũng không mất. Song chưa thấy văn nói rõ ràng nên chưa thể phán quyết.

Hỏi: Từ trước khi ngài Tịnh Danh chê trách tất cũng có người trệ ở phương tiện, nhân chê trách mới chuyển giáo, sao không nói ra?

Đáp: Chưa thể quyết định nên chưa nêu riêng ra.

– Về chuyển quán, là Bồ-tát pháp hành lợi căn tùy trụ phương tiện Quán môn mà nghe chê trách, tức chuyển quán. Vì những Bồ-tát lợi căn này nghe giáo Tam tạng giáo, hoặc nghe Như Lai đêm đắc đạo nói giáo Bát-nhã, hoặc nghe giáo Hoa Nghiêm có ba chỗ phương tiện mà tin hiểu khai ngộ, nhưng chưa thấy Chánh đạo, nay nghe chê trách các Bồ-tát liền hoát nhiên khai giải mà nhập vào pháp môn Bất nhị. Lại nữa, nếu có Bồ-tát ở ba chỗ trước nghe được ít nhiều liền có thể phát tâm, nhưng còn là phàm phu như chất sữa. Nếu vào Không mà thấy lý, tức là như chất lạc. Nếu vào Giả thấy tục, tức là chất sinh tô. Nếu phát Trung đạo giống như giải thoát tức là chất thục tô. Nếu phát chân giải thoát tức là chất đề hồ. Nếu Bồ-tát nghe chê trách, tùy chất vị mà được ngộ, nhập vào pháp môn Bất nhị, tức gọi là ở đương vị có chất độc phát ra giết người. Ấy là Đại sĩ thuở xưa đã chê trách, gột rửa các Bồ-tát để tạo nên Bồ-tát khí. Khi xưa, ai nấy đều được lợi ích. Nay trong đại chúng này ắt có người đủ căn cơ kham nghe, nên sai tiếp thăm bệnh. Nếu ai nấy đều kể việc xưa bị chê trách, thì lúc đó cả tòa đều được lợi về chuyển giáo, chuyển quán. Như việc chê trách trước đều được lợi ích, nên tiếp sai các Bồ-tát là ý ở đây vậy.

Lại nữa, khi xưa tùy chỗ nghe khác nhau, nên lợi ích không nhiều. Nay ở Am viên số người tập họp quanh Đức Thế Tôn đông đúc, cùng nghe kể lại, lợi ích vô lượng, đích thân mình được Phật ấn chứng, nên nghĩa chuyển giáo mới được quyết định.

Hỏi: Chê trách các Bồ-tát chỉ dùng một giáo sao được lợi ích khắp?

Đáp: Khổng tử còn nói Thi ba trăm thiên một lời mà át tất cả. Đại sĩ dùng một Viên giáo mà chê trách người học giáo quyền thật, có trệ ngại đều được lợi ích Nhất đạo sao còn quá nghi ngờ?

Hỏi: Chê trách các Bồ-tát nhất định đều được lợi ích Nhất viên cả chăng?

Đáp: Kiếm bốn Bồ-tát để chê trách, thì lời văn đều như được ích lợi Viên dung, còn văn kể việc chê trách của các Bồ-tát khác đều lược bỏ, nên không thể phán định được. Vả lại kinh Phương đẳng còn mang thêm phương tiện chưa hoàn toàn đồng với Pháp Hoa đâu cho không được lợi ích phương tiện.

Giúp thành giáo Phật quốc: Khi chê trách, các Bồ-tát học giáo phương tiện tùy duyên tập đoạn xứ thì tội trừ chướng chuyển, phước tuệ thêm sáng kham thấy được Tịnh độ. Nên khi vào thất thì đồng thấy thất trống. Lại thấy được nước Phật Đăng Vương Hương Tích nên tùy tạp đoạn xứ mà được sinh vào ba cõi. Lại tùy phước tuệ thêm sáng, tùy số chúng sinh được điều phục, sau khi thành Phật, số chúng sinh ấy đều sinh đến nước mình. Đây là giúp thành giáo Như Lai nói cõi Phật thanh tịnh ở trên.

Bác bỏ phương tiện Bồ tát để tiếp nối vị sau: như luận Pháp Giới Tánh nói: Như người lợi căn thì ở thời Ma-ha Bát-nhã vào pháp giới. Nếu người trung căn thì ở thời Pháp Hoa vào pháp giới. Người hạ căn thì ở thời Niết-bàn vào pháp giới. Vì chê trách nên sinh tô thành thục tô. Cho nên đến thời Bát-nhã thì thành đề hồ được nhập pháp giới. Vì chê trách, lạc là sinh tô, nên ở thời Bát-nhã là thục tô, đối với Pháp Hoa thành đề hồ, được nhập vào pháp giới. Vì chê trách sữa thành lạc đến thời Đại Phẩm thì thành sinh tô, đến thời Pháp Hoa thì thành thục tô, đến thời Niết-bàn thì thành đề hồ mà nhập pháp giới. Nếu không như thế thì không thể khiến các căn thượng trung hạ đều nhập pháp giới. Ấy là nhập vào tiếp nối của ba kinh.

Hỏi: Kinh này đã nói nhập giải thoát bất tư nghị sao được không nói nhập pháp giới?

Đáp: Trên là chuyển giáo quán, nhập vào pháp môn Bất nhị, cùng với Hoa Nghiêm pháp giới không khác. Chỉ người chưa được chứng nhập Chí hậu Tam-muội.

Hỏi: Nếu thế sao luận Pháp Giới Tánh không nói?

Đáp: Phương đẳng và Đại phẩm thì đại đồng mà tiểu dị. Vì đại đồng nên cả hai chỗ không khác, vì tiểu dị nên hai tô có khác.

Hỏi: Từ trước nay, nói Pháp Hoa thuộc thượng căn, sao nay Pháp Giới Tánh luận lại nói Đại phẩm là thượng căn?

Đáp: Vì trên là căn cứ theo người Tam thừa mà phán quyết, còn Pháp Giới Tánh luận thì căn cứ theo người nhất Phật thừa.

Hỏi: Huyền nghĩa phán giáo đều nói Niết-bàn và Pháp Hoa đồng vị, nay sao đến thời Pháp Hoa lại như thục tô?

Đáp: Huyền nghĩa căn cứ theo giáo mà phán quyết vị, thì hai kinh đồng vị. Nay ở đây căn cứ theo người, nên đến thời Pháp Hoa thì có như thục tô.

Hỏi: Nếu căn cứ theo người mà phán quyết vị, thì Pháp Hoa cũng có người Như sinh tô chăng?

Đáp: Đúng như câu hỏi.

Nói lúc xưa chê trách đối cơ liền khởi, tuy có lợi ích lúc đó, nhưng chưa được Phật chứng khả, nên không được gọi là kinh. Nếu không nhân việc sai đi thăm bệnh thì không duyên cớ đâu thuật lại các diệu chê trách xưa. Nhân sai đi thăm bệnh mà mỗi người kể lại việc đã nói lúc xưa, để đại chúng cùng nghe và đều được Như Lai ấn định thành kinh mà lợi ích cho đời sau.

Vì năm ý này nên phải sai tiếp bốn đại Bồ-tát và các Đại sĩ.

2. Lược giải thích nghĩa phẩm: phiên dịch danh nghĩa đầy đủ như ở huyền văn. Nay chỉ nói về giáo không đồng:

1- Bồ-tát của Tam tạng giáo tức duyên với sinh diệt Tứ đế mà khởi từ bi thệ nguyện, phát tâm Bồ-đề, suốt ba a-tăng-kỳ tu lục độ để trừ phục hoặc, được thuần thục mà nhập vào địa A-bệ-bạt-trí.

2- Bồ-tát của Thông giáo duyên với vô sinh Tứ đế mà khởi từ bi thệ nguyện, phát Bồ-đề tâm, tu vô sinh Lục độ, đoạn hết các hoặc nội giới, mà nhập vào địa A-bệ-bạt-trí.

3- Đại thừa của Biệt giáo duyên với vô lượng Tứ đế mà khởi từ bi thệ nguyện phát Bồ-đề tâm, tu vô lượng Lục độ, cho đến mười độ, đoạn trần sa vô minh, mà nhập địa A-bệ-bạt-trí.

4- Bồ-tát của Viên giáo duyên với vô tác Tứ đế mà khởi từ bi thệ nguyện, phát Bồ-đề tâm, tu vô tác lục độ cho đến mười độ, đoạn trừ pháp giới vô minh, nhập vào vị A-bệ-bạt-trí. Phát tâm hạnh vị ngang dọc không đồng đầy đủ như ở huyền nghĩa. Chỉ có đại Thánh đối bốn bất khả thuyết, dùng bốn Tất-đàn, phó cầu Phật tuệ, ở bốn thứ căn duyên chúng sinh mà nói bốn giáo. Nói nghĩa Bồ-tát ba quyền một thật, không phải quyền không phải thật mà quyền mà thật.

Nay nói phẩm Bồ-tát, thì bốn Đại Bồ-tát và các Bồ-tát đều là quyến thuộc của Thích-ca pháp thân. Như Lai hiện sinh ứng duyên lợi vật, thị hiện bốn thân Phật, nói bốn giáo Đại thừa. Bồ-tát pháp thân, mỗi người cũng tùy cơ cảm mà thị hiện làm bốn thứ Bồ-tát, phò tá giúp đỡ Pháp vương, tiếp dẫn bốn duyên chúng sinh đều cùng tin nhận ba thứ phương tiện. Đạo quán mới thành chút ít, mà muốn chuyển quán, liền khiến học đạo Viên giáo rốt ráo. Nếu trước không phá bỏ thầy thì khó chuyển được đệ tử. Không chấp nhận giáo do Phật tự nói, người bỗng tự xoay gót chuyển đổi là việc khó thể có. Ngài Tịnh Danh đã nhiều phen thị hiện ở thượng địa Viên giáo, nên được quyền chê trách các thượng địa phương tiện. Thượng địa phương tiện ai cũng chịu khuất phục. Còn quyến thuộc của họ còn ở phương tiện tức chiết phục nội tâm, tự coi hạnh mình là hèn kém chưa được tột chân và đều ngưỡng mộ đại đạo viên chân hoặc tức phát viên tâm, hoặc mở sáng thông suốt được vô sinh chân thật. Như thế đều do bốn Đại Bồ-tát và các Đại sĩ phương tiện khéo dẫn dụ. Nay sai thăm bệnh, tức mỗi người đều thuật lại việc bị chê trách, lại giúp thêm cho thời chúng thành năm thứ lợi ích, nên nói phẩm Bồ-tát.

Hỏi: Ba vạn hai ngàn người đều là Luân quả thán vị cùng ngài Tịnh Danh không khác, sao lại dùng Đốn này mà chê phá?

Đáp: Tuy đã lược nói nhưng có rất nhiều ý, nay cần nói lại. Có người nói các Bồ-tát này là thật lân quả, còn Tịnh Danh là quyền lân quả, nên vượt trội hơn. Có người nói đồng là thật lân quả. Như kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: Thập địa có ba đời, các Bồ-tát là đời đầu, đời giữa, còn ngài Tịnh Danh là đời cuối nên hơn các Bồ-tát. Nay phải thật xác định rằng các Bồ-tát và ngài Tịnh Danh đều có bổn tích đồng quyền đồng thật, chỉ là cùng đến giúp Phật thành tựu chúng sinh. Còn bốn Đại sĩ… đều ẩn thật, dùng quyền giúp thành quyền giáo. Ngài Tịnh Danh và Ương-quật ẩn quyền dùng thật, giúp thật thành giáo.

Quyền là như cái cối, thật thì như cái chày mà thành đồ đựng chúng sinh. Nếu luận về ích vật thì quyền thật đều lợi ích. Nếu luận về giả đập chày chê trách vào cối thọ nhận thì đều có lợi chung, bất tư nghị cho chúng sinh. Không phải là hàng Nhị thừa và các tiểu Bồ-tát biết được, há là Bác địa phàm phu biết được bổn tích cao thấp.

Hỏi: Mười vị đại đệ tử trên đối với mười tâm số cùng giúp Pháp vương hiển thành bán mãn năm trăm người, ai nấy đều kể việc chính mình bị ngài Tịnh Danh chê trách, đều có nguyên do. Nay bốn vị Đại Bồ-tát tiêu biểu cho những gì?

Đáp: Bốn vị này e như trong kinh Pháp Hoa nói trời mưa bốn hoa tiêu biểu cho khai, thị, ngộ, nhập. Lại ở phương dưới xuất hiện bốn đại Đạo sư tiêu biểu cũng thế. Ba vạn hai ngàn người chỉ sai có bốn người e chỉ là cho bốn môn này. Lại kinh Hoa Nghiêm có thêm bốn Đại Bồ-tát nói bốn mươi vị, nếu tìm xét phẩm này thì cũng giống ý đó. Vì sao? Vì như chê trách ngài Di-lặc một câu ở chân như tịnh lý để hiển bày Bồđề, e là chỉ cho khai Phật tri kiến. Nên nói tất cả chúng sinh tức là tướng Bồ-đề, đây e là tướng thập trụ. Kế đến chê trách ngài Quang Nghiêm, ở mỗi điểm, đều chỉ bày tất cả hạnh đều là đạo tràng. Đây e là chỉ cho tướng thập hạnh. Tiếp theo là chê trách ngài Trì Thế, khiến biết ma giới Phật giới đều nhất như không hai, các quyến thuộc ma tu Vô tận đăng tức là sự lý vô ngại, ma sự Phật sự, thiện ác đều dung thông, đây e là chỉ cho tướng ngộ hồi hướng. Sau đó chê trách ngài Thiện đắc làm việc bố thí cao thấp không hai, trong tài có pháp, trên dâng lên đức Nan Thắng, dưới giúp người ăn xin, bi kính đều không sai khác, gọi là hội pháp thí, đây e là chỉ cho tướng nhập Thập địa. Việc chê trách bao hàm nhiều ý, một tiếng khó giải thích, hà tất cứ một mực đều đổi Viên vị, chỉ tìm nơi văn thôi e là như thế.

Hỏi: Nếu thế, Di-lặc chính là Bổ xứ Bồ-tát, cần phải hiển bày sâu xa, đâu được cạn cợt như thế?

Đáp: Người lớn là hơn, nên cần sai trước, còn pháp phải từ cạn đến sâu, nên đối với ngài Di-lặc mà khai Phật tri kiến. Lại nữa, tuy đối với người hiển bày ngôi vị, ý không cần cạn sâu, bởi vì Viên giáo từ một Địa đầu đã đầy đủ tất cả công đức của các địa, thế thời mới khai liền thị ngộ nhập. Bốn người có ngôi vị cao cũng thế, chỉ là nói bốn vị viên tột mà thôi.

Hỏi: Phá ngài Di-lặc thì tất cả được lợi ích chuyển giáo quán như trên chăng?

Đáp: Ngài Di-lặc là bậc Bổ xứ dùng quyền thật hóa độ, chỗ giáo hóa bất định, nếu thấy Di-lặc bị chê trách mà người học quyền thì đều bỏ giáo quán, người học Viên giáo không được ý thì chấp lời mà quên tâm, pháp ái tự mất, còn người được ý thì biết là cối chày cùng lợi vật mà thôi.

Hỏi: Trên nói các Bồ-tát ẩn thật dùng quyền, nay sao được nói Di-lặc cùng hàng đệ tử học thật giáo.

Đáp: Chỉ là nói thôi, bậc Bổ xứ tùy cơ, há chỉ một mực ôm cây đợi thỏ ư? Song việc có chánh phụ cũng là theo số nhiều.

Hỏi: Nếu thế thì kinh này cùng Hoa Nghiêm, Pháp Hoa có gì khác?

Đáp: Kinh này riêng đối với hàng lợi căn Bồ-tát mà có nghĩa này. Còn hàng Nhị thừa và độn căn Bồ-tát chỉ là chuyển làm sinh tô. Như Hoa Nghiêm thì chỉ là Bồ-tát học Viên mới được vào, còn hàng Nhị thừa và Tiểu Bồ-tát đều không nghe được. Còn Pháp Hoa thì tất cả đều vào.

Giải thích văn: Từ “ư thị …”. đến phẩm này có hai:

1/ Trước sai bốn Đại Bồ-tát.

2/ Kế sai các Bồ-tát.

Sai bốn đại Bồ tár:

Một là Sai ngài Di-lặc. Có hai phần: Sai thăm bệnh và đáp không kham.

– Sai thăm bệnh, sở dĩ sai trước, vì ngài Di-lặc đối bốn giáo đều là bậc Bổ xứ. Nay ẩn Viên còn ba thứ kia, thì người học phương tiện giáo của Phật đều tôn kính ngài Di-lặc. Ngài Di-lặc là bậc Đương lai Đạo sư kế tiếp sau Phật. Nói Di-lặc, có chỗ nói là lấy họ làm tên. Nay bảo không phải họ, e đó là tên. Bởi Di-lặc, Hán dịch là Từ thị. Thuở quá khứ làm vua tên là Đàm-ma-lưu-chi, thương yêu nuôi dạy dân nên họ gọi ngài là Từ Thị. Từ đó đến nay thường gọi là Từ Thị. Họ là A-dật-đa, Hán dịch là Vô Thắng. Có nơi nói A-dật-đa là tên. Chưa thấy được văn chính thức nên chưa thể quyết định. Nói Từ Thị, thì kinh và luận nói Từ có ba thứ bất đồng:

  1. Chúng sinh duyên từ.
  2. Pháp duyên từ.
  3. Vô duyên từ.

Đại Luận nói: Chúng sinh duyên từ, chấp tướng chúng sinh là pháp hữu lậu. Pháp duyên từ hoặc hữu lậu hoặc vô lậu. Vô duyên đại từ hoàn toàn vô lậu. Lại nữa, bốn giáo tức có bốn thứ Từ thị, ba giáo trước là tùy duyên, giáo này là đạo diệt khởi từ ban vui tức là giáo này. Từ thị cùng vui với giáo này. Chỉ có Viên giáo hay cùng vui với ba thứ đạo diệt trước. Như nam châm hút sắt tức là Từ Thị của Viên giáo. Vì Phật có bốn nên bổ xứ cũng có bốn. Bốn thứ Từ Thị này là ba quyền một thật. Ngài Di-lặc là người xưa ở Ta-bà giúp Phật, thường làm giáo ba quyền. Ngài Tịnh Danh là Đại sĩ ở phương khác dạo đến cõi này giúp Phật, nhiều lần thị hiện làm giáo một thật. Chê trách ngài Di-lặc, để thành tựu chúng sinh khiến họ vào thật mà thôi. Lại quyền thật tùy nghi ẩn hiện không nhất định. Pháp thân thường tịch cũng như hư không còn chẳng là thật, sao lại luận có quyền. Chỉ vì tùy duyên lợi vật mà cùng giả đập, quyền thật đâu nhất định được. Nay Phật kế sai ngài là ý sau đây.

– Đáp lời không kham: “Di-lặc…”. Văn có bốn:

1/ Từ chối không kham.

2/ Kể lý do không kham.

3/ Chính kể việc bị chê trách.

4/ Kết thành không kham.

– Từ chối không kham: Vì lúc xưa nói cho Thiên vương Đâu-suất về hạnh Bất thoái chuyển nhưng không lợi ích cho họ nên bị chê trách, đâu dám truyền ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

– Nói lý do không kham “sở dĩ… chi hạnh”. Sở dĩ Thiên vương Đâu-suất đến chỗ ngài Di-lặc, là các trời Đâu-suất từng nghe Đức Thích-ca thọ ký cho ngài Di-lặc sẽ sinh ở cõi Đâu-suất làm thầy các trời nên đến quy y hỏi đạo. Ngài Di-lặc nói cho nghe hạnh bất thoái, là các Thiên tử từng nghe quyền giáo Đại thừa mà phát tâm. Trời rất ưa thích, lại nhạc trời rất mạnh. Sợ các trời thoái chuyển nên nói cho hạnh bất thoái. Nói bất thoái là thấy lý thì mới là vị bất thoái. Ở lý bất động thường sinh các thiện là dụ như đất. Trong nhân được lý, có nghĩa hướng quả nên nói là hạnh. Nhưng bốn giáo mỗi thứ có ba tức vị, hạnh, niệm. Nếu Bồ-tát của Tam tạng giáo có ba thứ bất thoái suốt a-tăng-kỳ làm các hạnh được vào Noãn, Đảnh, Nhẫn, tức là địa Bất thoái chuyển. Nếu căn cứ theo số luận thì đem ba phẩm Nhẫn pháp phân làm ba bất thoái. Nếu Phụ thành luận căn cứ bốn Niệm xứ là vị bất thoái, Noãn, Đảnh là hạnh bất thoái, Nhẫn pháp là niệm bất thoái. Nếu theo Thông giáo thì từ Thánh địa cho đến La-hán, sáu địa công hạnh ngang nhau đều là vị bất thoái. Ở địa Bích-chi-Phật thì bảy địa công hạnh ngang nhau và Bồ-tát tu phương tiện tức là hạnh bất thoái. Bát địa Bồ-tát, đạo và quán song lưu gọi là niệm bất thoái. Nếu Bát địa cùng Bích-chi-Phật bằng Địa thứ chín mới là niệm bất thoái.

Nếu Biệt giáo, thì Thập trụ là vị bất thoái, thập hạnh thập hồi hướng là hạnh bất thoái. Đăng địa ba quán hiện tiền là niệm bất thoái.

Nếu Viên giáo, thì Thập tín sơ tâm là vị bất thoái. Trung tâm trở đi là hạnh bất thoái, sơ phát tâm trụ là niệm bất thoái.

Lại nữa, Thập tín tương tợ ba bất thoái, bậc Sơ trụ được một phần chân có ba bất thoái, ba thứ trước là quyền, một thứ sau là thật. Di-lặc nói biết giáo quyền thật của Phật, ẩn thật dùng quyền, vì chư Thiên mà nói, nên bị chê trách.

Hỏi: Ngài Di-lặc biết căn cơ, sao lại ẩn thật dùng quyền, nhân đó mà bị chê trách?

Đáp: Vì các Thiên tử trước mà phải nghe quyền giáo, nên ngài Di-lặc dùng quyền làm cối, muốn hiển bày cái chày thật giáo của Tịnh Danh để cùng thành tựu các đạo khí Thiên tử. Nên thị hiện việc bị chê trách. Trong đó hoặc nghe ngài Di-lặc nói Viên mà không được ý chánh, nhân nghe chê trách ngài Di-lặc, liền được nhập.

* Chính kể việc bị chê trách “Thời Duy-ma..” . Văn có năm: a/ Tổng định trước. b/ Chính chê phá. c/ Kết lỗi, khuyên bỏ. d/ Nói rộng về tướng chân Bồ-đề. e/ Các Thiên tử được lợi ích.

Tổng định trước: Đức Thế Tôn đã thọ ký cho nhân giả một đời nữa sẽ được quả Bồ-đề. Sở dĩ phải định, vì sắp muốn chê phá nên trước phải định. Một đời là nói sẽ sinh vào cõi Diêm-phù này một đời. Đại luận có nói ba đời, là đời này ở cõi Đâu-suất và đời sau sẽ sinh cõi Diêm-phù. Về nghĩa ba Bồ-đề thì huyền văn đã nói: Chỉ bốn giáo thì nói được thọ ký không đồng. Như theo Tam tạng giáo thì nói Di-lặc đến sinh dưới cội Bồ-đề, các tập khí đều dứt, gọi là Bồ-đề ký, rút ở Tiểu Di-lặc kinh.

Về Thông giáo, thì các chánh sử nội giới đã trừ, nhưng dư tập chưa hết. Thân sau sinh dưới cội Bồ-đề, một niệm tương ưng Tuệ đoạn, tất cả tập đều hết, nên gọi là Bồ-đề ký. Rút ở Đại Di-lặc thành Phật kinh và ở Đại Phẩm.

Về Biệt giáo, thì Di-lặc pháp thân, mười phẩm vô minh hoặc đã hết, trụ vào Vô cấu địa, chỉ còn một phẩm vô minh và tập khí, sau sinh vào tịch diệt đạo tràng ở cõi Diêm-phù, thị hiện đoạn một phẩm vô minh và các tập dứt hết, Báo thân quả mãn mà ngưng nhiên thường trụ. Như ở kinh Hoa Nghiêm nói ngài Thiện Tài vào Lâu quán thấy ngài Di-lặc ở vị lai có tướng thành Phật, tức là việc này.

Về Viên giáo, thì nói Di-lặc pháp thân, bốn mươi mốt phẩm vô minh đã đoạn hết, trụ vào địa Đẳng giác, chỉ còn sót một phẩm vô minh và tập khí, đời sau sinh vào cõi Diêm-phù ở tịch diệt đạo tràng mà đại ngộ sáng suốt.

Một phẩm vô minh và các tập đều hết tức là dùng tích biểu thị bổn được ba thân Bồ-đề Diệu giác rốt ráo; không dọc không ngang như chữ Y ở đời. Cũng như kinh Hoa Nghiêm nói Thiện Tài vào Lâu quán thấy Di-lặc có tướng thành Phật ở vị lai, ba quyền một thật, chỉ có Dilặc pháp thân thường tịch dứt mất đâu thể duy lường cao thấp chỉ tùy cơ lợi vật, giúp đỡ Đức Thích-ca tiếp nối hóa độ nên cần phải thọ ký riêng. Tùy vật cơ cảm có bốn căn duyên mà trao cho bốn thứ ký, tùy mỗi người nghe biết. Nay ngài Tịnh Danh tùy chỗ nghe biết dùng một âm diễn nói tùy loại đều hiểu. Nếu định ngài Di-lặc được thọ ký còn một đời tức là tổng định bốn thứ một đời.

Chê trách để phá: “vi dụng…”. Văn đây lại có hai phần nhỏ: Sinh môn. Vô sinh môn.

Về sinh môn, nay giải thích chung và riêng.

Giải thích riêng, căn cứ theo Sinh môn chánh chê trách Bồ-tát của Tam tạng giáo. Vì Tam tạng giáo là chữ bán, còn sinh diệt. Nên Trung Luận nói: Vì hàng đệ tử Thanh văn độn căn mà nói tướng nhân duyên sinh diệt. Căn cứ vô sinh môn, tức là chê trách Bồ-tát Đại thừa, Đại thừa dùng không sinh diệt làm giáo môn chữ mãn. Nên Trung luận nói: Phật vì Bồ-tát lợi căn nói tướng nhân duyên không sinh diệt. Sở dĩ căn cứ vô sinh mà chê trách, là trách Bồ-tát Đại thừa của Thông và Biệt giáo và trách Bồ-tát Viên giáo sinh ngữ kiến thuận đạo ái… các lỗi.

Giải thích theo Thông giáo, là chê trách chung Bồ-tát bốn giáo và đều có sinh và vô sinh. Về Tam tạng giáo sinh, tức là sinh. Về thông giáo sinh, là hội nhập vào thiên chân, tức là các pháp Không sinh, Bátnhã sinh, cũng là Không sinh mà sinh. Về Biệt giáo, là duyên tu Trung đạo trí tuệ, cũng là Không sinh mà sinh. Viên giáo chân tu sinh cũng là Không sinh mà sinh hoặc có thất ý cũng cần phải phá.

Về bốn giáo đều vô sinh, ở Tam tạng giáo dù chưa đoạn hoặc, đâu chẳng biết là có lý chân đế. Trông vào quả mà tạo nhân, nhân là sinh, quả là vô sinh. Về Thông giáo thì nhân là lý vô sinh nội giới, quả là sự lý vô sinh nội giới. Về Biệt giáo thì nhân là lý vô sinh giới nôi ngoại, quả là lý vô sinh ngoại giới. Về Viên giáo thì vô sinh một mực đồng với Biệt giáo, nhưng chân duyên với trí đoạn chế lập ra có khác. Bồ-tát bốn giáo đều trông vào quả mà tạo nhân. Muốn được thọ ký riêng thì đương phần sinh và vô sinh đều bị chê trách. Tuy làm hai thứ giải thích nhưng ý phẩm này thì giải thích riêng làm chánh. Nay trong phần giải thích riêng mà căn cứ Tam tạng giáo sinh môn mà riêng chê phá, có ba thứ:

  1. Xét theo ba đời mà định.
  2. Hỏi phá.
  3. Dẫn chứng.

Phán định căn cứ ở ba đời: như Tỳ-đàm nói ba đời là có. Quá khứ tuy đã qua, nhưng thiện pháp Không mất, như bị dây buộc chặt. Vị lai tuy chưa có, thời đến liền khởi. Ở hiện tại, các thiện pháp thành tựu ở tâm nên đều là cơ.

Đàm-vô-đức thì căn cứ hai đời là Không. Ở quá khứ thật pháp khó diệt, nên là Không, chỉ có giả danh được báo không mất. Ở vị lai vì chưa có nên không. Ở hiện tại thiện pháp thành tựu ở tâm, nên là có. Cả hai nhà tuy nói hai đời, ba đời có không mà đều có ba tướng. Người Số luận nói một thời có ba tướng. Thành luận thì nói dị thời ba tướng.

Một thời là sinh tức có trụ và diệt, còn dị thời tức là sinh thời không phải là trụ thời, trụ thời không phải là diệt thời. Do nghĩa này nên trước phải định ba đời.

Chánh phá ba đời được thọ ký: Từ “nhược quá… vô trụ”, nếu sinh ở quá khứ, mà đời quá khứ đã mất, vậy thân và thiện pháp đều mất. Pháp đã mất thì không có thân không có thiện, sao được có được thọ ký. Nếu dựa theo hiện tại, lấy thiện ở quá khứ mà được thọ ký ở vị lai, thì sao không ở quá khứ mà ký lại ký ở hiện tại. Nếu sinh ở vị lai mà đời vị lai chưa đến, thiện ở vị lai chưa có. Nếu vị lai đã có thì phải gọi là dĩ lai không gọi là vị lai, nếu chưa có thì không thân không thiện, sao được ước vị lai mà thọ ký. Nếu ước vị lai chưa đến chưa có mà được ký ở hiện tại thì chúng sinh cũng thế, phải được thọ ký. Nếu sinh ở hiện tại, đời hiện tại không trụ, vì ở hiện tại các ý thiện tùy tâm mà sinh, tâm niệm diệt thì thiện cũng tùy diệt, thức mất không đến được vị lai, sao được dùng thiện hiện tại mà được nhận ký ở vị lai. Đây là phá ba đời có. Nếu không có quá khứ vị lai sao được dùng thiện ở đời quá khứ mà được nhận ký. Nếu nói hiện tại là có, thì được ước vào hiện tại mà được nhận ký, là đời hiện tại không dừng trụ, sinh mà tức diệt còn không thể tự trụ, sao có được thiện đến vị lai mà ước hiện tại để được thọ ký cho vị lai. Lại nữa ba đời đều không. Không có ba đời, sao được ước vào ba đời mà được nhận ký. Không là Không có thọ ký mà chấp là có, tức là điên đảo. Điên đảo mà được thọ ký thì tất cả chúng sinh đều điên đảo cũng phải được ký. Đây là phá ba đời không.

Dẫn lời Phật làm chứng: Từ “như Phật đến cũng diệt) chính là chứng minh hiện tại không dừng trụ mà không được thọ ký một đời ở vị lai. Vì sao? Vì ngài Di-lặc chưa đạt đến. Nếu quá khứ và vị lai đều không thì không được căn cứ vào thân quá khứ vị lai mà được thọ ký quả Bồ-đề. Nay Phật căn cứ thân hiện tại mà thọ ký ở vị lai, sao được

nói hiện tại không dừng trụ mà không được nhận ký ở vị lai. Do đó dẫn lời Phật nói cũng sinh cũng già cũng mất là để làm chứng, là phá cái chấp “một lúc”của ngài Di-lặc về hiện tại có dừng trụ, nên căn cứ hân này mà phá cái được thọ ký ở vị lai.

“Cũng sinh…” là nếu y vào ba tướng Tát-bà-đa đồng thời sinh tức có diệt, tuy có lý một lúc nhưng tìm xét thì không có lúc nào tạm dừng, sao được ước hiện tại mà được thọ ký ở vị lai.

Hỏi: Ba tướng, bốn tướng không nghe nói có già, nay sao được nói Phật nói cũng có già?

Đáp: Bốn tướng có dị “khác”, vậy già là dị. Sở dĩ dẫn già mà không dẫn trụ, là vì ngài Di-lặc chấp Phật nói ba tướng, bốn tướng trong đó có tướng trụ, ước tướng trụ này ở hiện tại mà được ký. Ngài Tịnh Danh lại dẫn lời Phật, trong ba tướng chỉ có già mà không có trụ để chứng minh hiện tại không trụ, không được ước hiện tại mà được thọ ký ở vị lai. Nhân giả không nhận tức là trái lời Phật, nhưng hiện tại tuy có dị thời ba tướng nhanh chóng. Tuy nói có trụ nhưng Phật nói cũng có già. Nếu trụ tức già, tức là tướng biến đổi, không có tướng định trụ sao được dựa theo đó mà được thọ ký vị lai. Có Sư cho rằng ngài Tịnh Danh dùng không để phá việc được thọ ký. Nghĩa này trái tông. Tìm xét văn kinh này lại dùng giáo sinh diệt của Tam tạng giáo phá đâu cần phải dùng không.

Về Vô sinh môn “Nếu dùng vô sinh…”. Sở dĩ căn cứ môn này là chê trách Thông, Biệt và Viên của Đại thừa mất ý mến quả tạo nhân cầu ký vô sinh, nay tâm vọng động ngăn việc nhập vào chánh đạo. Vì ba giáo đều thấy vô sinh mới được thọ ký. Như kinh Thủ-lăng-nghiêm nói có bốn ký:

  1. Ký lúc chưa phát tâm.
  2. Mật ký.
  3. Ký ở hiện tiền.
  4. Ký thấy vô sinh.

Theo Tam tạng giáo thì phục chế các kiết không có ký vô sinh, chỉ được ba thứ ký trước. Về ký chưa phát tâm, dầu là hàng cụ phược hoặc Nhị thừa phương tiện. Về căn tánh Đại thừa của ba giáo kia chưa phát nhưng vẫn cho ký. Như khi Phật ở bên rừng Kỳ-hoàn đã thọ ký cho chim câu và chim sẻ. Nếu mật ký “ngầm thọ ký) thì những giả danh Bồ-tát và phục nhận Càn tuệ địa Bồ-tát phần nhiều đều dùng mật ký. Nếu thuận nhẫn tánh địa Bồ-tát thì đều hiện tiền thọ ký cả.

Hỏi: Vì sao phải mật ký?

Đáp: Có Bồ-tát tâm hạnh chưa thuần thục, nếu nghe thọ ký thì tâm liền phóng dật nên không được hiện tiền thọ ký. Về ba giáo Đại thừa đều dứt các kiết nên ký vào ngôi vị có, không sinh, ba thứ trước không phải thọ ký thật, cái sau thấy vô sinh là chân thọ ký. Vì sao? Vì cái thứ ba, nếu chưa thấy lý chưa được tự tại, tự lợi lợi tha chưa được thành lập. Còn nếu thấy được vô sinh dầu ở trong sinh tử vẫn mặc tình tự tại, tự lợi lợi tha công đức không thoái chuyển, nên ba ký này là chân thọ ký. Bồ-tát của ba giáo tâm cầu ký này nên mượn ngài Di-lặc để trách phá ba thứ này. Văn có hai: một là căn cứ lý vô sinh mà phá. Hai là căn cứ hạnh vô sinh mà phá.

Căn cứ lý vô sinh mà phá: Vô sinh của ba giáo không giống nhau. Thông giáo thì chỉ nói về thiên chân vô sinh, Biệt, Viên giáo thì nói về trung. Hai lý vô sinh trên, huyền nghĩa đều nói đủ. Nhưng ký ngôi vị của ba giáo thường giống nhau mà nghĩa có khác không thể lẫn lộn. Bốn thứ ký ngôi vị của ba giáo, là ký chưa phát tâm của ba giáo, tuy là hàng cụ phược nhưng không có căn tánh của Đại thừa của đương giáo, hoặc là hàng Nhị thừa phương tiện, tuy chưa phát tâm mà vẫn thọ ký cho. Còn hàng giả danh Bồ-tát, ngoại phàm phục nhẫn phần nhiều đều là mật ký, hoặc hiện tiền ký. Về nội phàm Bồ-tát của ba giáo, đều được hiện tiền ký, ba loại ký này đều không phải là nhất định. Về Thông giáo nếu nhập vào Bát nhân giác kiến địa là ký vô sinh. Đại phẩm có nói: Tu-đà-hoàn hoặc trí hoặc đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn, tức là thấy ký ngôi vị thấy thiên chân vô sinh. Vì sao? Vì kiến đế đã đoạn, tám mươi tám thứ phiền não dứt hết, nhập vào đạo lưu vô lậu tức là kiến địa, gọi là Hoan hỷ địa. Nếu tiến lên quán vô sinh, đoạn hoặc tư duy, tu sâu các thiền định, thần thông du hí, tự hành hóa tha, thành tựu chúng sinh, cõi Phật thanh tịnh. Nếu chúng sinh Tam thừa, căn đã thuần thục liền có tám tướng thành đạo, nên Phật đối với Đại thừa của Thông giáo mà trao cho ký Bồ-đề.

Sơ hoan hỷ địa của Biệt giáo tức là thấy chân vô sinh mà thọ ký. Vì sao? Vì Đăng địa phát chân mới thấy Chánh đạo, tức là thấy lý viên chân vô sinh, liền đoạn một phẩm vô minh ngoại giới, các biệt kiến hoặc đều dứt. Đây là trí đoạn là vô sinh ký vị. Nếu trao cho tám tướng ứng Phật, mới xem qua giống đồng với Thông giáo, chỉ có đem tích tiêu biểu cho bổn để ký cho được thường trụ Phật quả là khác. Nay suy theo Thông giáo mà nói Tu-đà-hoàn thấy lý thiên chân, đoạn kiến nội giới, hoặc trí hoặc đoạn gọi là Bồ-tát vô sinh. Nay Biệt giáo thấy Viên chân, đoạn kiến nội ngoại giới, hoặc trí hoặc đoạn, gọi là Biệt giáo vô sinh, ấy thì thâm tâm đều vắng lặng, tự nhiên lưu nhập vào Tát-bà khổ hải, pháp thân tự hành, ứng thân hóa tha ắt thành thường trụ Phật quả. Thế nên Đăng địa được chân vô sinh, Phật liền thọ ký cho, ấy là ký nhất định.

Viên giáo vô sinh ký, ở Sơ phát tâm trụ được thọ ký, tức là viên chân vô sinh được thọ ký. Vì sao? Vì sơ phát tâm trụ tức là ngang với Hoan hỷ địa của Biệt giáo. Chỉ có giáo môn nói đoạn hoặc thì như lột, hành xắt hành là khác nhau. Các sư không hiểu được ý này phần nhiều đều nghi lời nói ấy, nhưng tìm xem các kinh luận thì phần nhiều đều có nghĩa này. Được ý liền dùng huyền nghĩa nói đầy đủ. Ấy là Sơ phát tâm trụ, hoặc trí hoặc đoạn là Viên giáo Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn, tức là Viên giáo vô sinh ký. Chỉ học ba giáo chưa được vô sinh, trong nội tâm trông mong nhầm lẫn phan duyên mà cầu thì đều mất Viên giáo tuy không khởi tâm tưởng nhầm lẫn, như động nước thì làm đục bẩn châu, vì những lỗi này nên mượn ngài Di-lặc mà chê trách. Sở dĩ mượn để chê trách, vì ngài Di-lặc ở ngôi vị bổ xứ của ba giáo, sắp thông suốt tận nguồn gốc vô sinh của ba giáo. Các người cầu Sơ tâm của ba giáo, tuy biết ngôi vị này đều chưa được vào. Nếu nghe chê trách ngài Di-lặc về ký Bổ xứ Bồ-đề của ba giáo tức là Đại sĩ dựa theo lý ba giáo mà vấn nạn hạch sách. Ngài Di-lặc còn không nhận ký, huống các người mới học Bồ-tát tâm của ba giáo mà cầu vô sinh, mong được chân thọ ký, há không giác ngộ. Ai nấy đều dứt trông mong. Nếu Bồ-tát của Thông và Biệt giáo dứt cầu vô sinh tức có thể chuyển nhập vào ký vị viên vô sinh. Nếu Bồ-tát của Viên giáo biết vị vô sinh mà không nhận ký, cũng không khởi tâm mong cầu ký vô sinh, thì nước tâm lắng trong, ngọc châu hiện rõ. Lại nữa, Thông giáo trụ ở kiến địa. Ngài Di-lặc hậu tâm bị chê trách, thì nội tâm phá bỏ, bèn chuyển nhập vào ký vị vô sinh của viên . Về Sơ địa của Biệt giáo đồng với Sơ trụ của Viên giáo không bị chê trách. Như ba mươi tâm kiến của ngài Di-lặc ước lý bị chê trách, nếu bỏ tâm này thì có thể chuyển nhập nhận ký sơ trụ của Viên giáo. Nếu hàng sơ phát tâm và năm phẩm đệ tử của Viên giáo khởi tâm trông cầu vào ngôi vị được thọ ký về chân vô sinh, thì nước tâm dấy đục không thể vào được sáu căn thanh tịnh. Nay nghe Đại sĩ chê trách ngài Di-lặc vô sinh sắp cùng tận, còn ước lý bị chê trách không có nghĩa được thọ ký, huống lại là hàng sơ tâm, ngũ phẩm mà mong được vô sinh, tâm nhớ tưởng diệt. Nếu tâm thanh tịnh thường nhất liền phát tương tợ, nhập vào vị Thập tín. Nếu được ý căn thanh tịnh như kinh Pháp Hoa nói: Tuy chưa được trí tuệ vô lậu, mà ý căn thanh tịnh như đây, thì là tướng trăm phước trang nghiêm của mười phương vô số Phật, vì chúng sinh thuyết pháp, đều nghe và hay thọ trì, đã không quên sót nhầm lẫn, đâu còn nhớ tưởng mong cầu thô chướng nổi lên. Thập tín còn thế, huống là phát tâm trụ mà cần chê trách ngài Di-lặc là có ý mượn nhờ. Nếu vì vô sinh mà được thọ ký, tức vô sinh là chánh vị. Đây chính là ở lý vô sinh mà phá ngài Di-lặc. Trong lý không có ký. Vì sao? Vì thọ ký vốn được ước với trí đoạn đầy đủ. Nên Trí Luận có nói: Bồ-đề nói sự đầy đủ hoàn hảo, lý không phải sinh diệt, tức không có trí đoạn. Sao lại luận trí đoạn đầy đủ, ấy là thiên vô sinh, đều không phải trí đoạn, còn không có trí đoạn huống là quả Bồ-đề.

Vô sinh tức chánh vị, là Thiên Viên vô sinh đều là chánh vị, tức là lý tột cùng. Nếu ước lý nói tột cùng. Cực lý không phải ngôi vị, mà gốc của các ngôi vị. Như vua là ngôi vị tột cùng nhân đó mà có các ngôi vị quan văn võ. Nay có ngôi vị Bồ-tát của ba giáo đều do lý vô sinh. Nên kinh Kim Cang Bát-nhã có nói: “Tất cả Hiền Thánh đều dùng pháp vô vi mà có sai khác.” Vô sinh chánh vị tức là bình đẳng chân pháp giới. Phật không độ chúng sinh, sao được có nghĩa thọ ký một đời sẽ được quả Bồ-đề của ba giáo. Cho nên ở trong chánh vị cũng không có thọ ký, cũng không được quả Bồ-đề. Vì sao? Vì hai thứ vô sinh không phải nhân không phải quả thì đâu được ở trong nhân của ba giáo mà được thọ ký trí đoạn đầy đủ ở vị lai. Hai thứ vô sinh chánh vị không phải quả, sao luận được ba giáo nói về quả Bồ-đề. Cho nên nói rằng: Sao Di-lặc lại nhận ký một đời ư? Nếu Di-lặc sắp gần cực quả chánh vị còn không được thọ ký, huống là hàng sơ phát tâm của ba giáo, mà muốn trông cầu vào chính vị vô sinh, mà được thọ ký Bồ-đề. Đó là để chê trách Dilặc được thọ ký lân quả. Mượn ý phá học ba giáo trông mong ký vị vô sinh. Đó là sự mong cầu lầm lẫn của Thông và Biệt giáo, đều chuyển về Viên giáo, các mong cầu cũng đều dứt hết.

Hỏi: Ngài Tịnh Danh chỉ chê trách ngài Di-lặc, do đâu được biết mượn ý để bác bỏ ba thứ?

Đáp: Văn trên nói: Vì Thiên vương Đâu-suất nói hạnh bất thoái chuyển. Sau đó lại nói thật không có phát ba tâm Bồ-đề. Cũng không có thoái chuyển, tức không có ngôi vị bất thoái chuyển, tức là nhập vô sinh chánh vị, là ngôi vị chân thọ ký.

 

Phần 2

Căn cứ hạnh vô sinh mà phá thọ ký một đời: Từ “vi tùng…”.

Sở dĩ căn cứ hạnh mà phá, chính do Di-lặc đã dùng hữu để hỏi rằng: lý không thọ ký đã thế thì đâu có trở ngại duyên với hạnh vô sinh. Hạnh thành trí đoạn được thọ ký quả Bồ-đề. Văn có bốn:

  1. Song định.
  2. Song phá.
  3. Song cùng.
  4. Song kết.

– Song định (Quyết định song song), từ đâu sinh ra thì từ đó diệt mất. Vì sao? Vì ngài Di-lặc tình chưa đạt đến, nếu vô sinh là lý, mà lý là như, thì không ký nào không ký. Chỉ vì chúng sinh từ vô thỉ mê lý liền có sinh tử. Chư Phật, Bồ-tát quán vô sinh, chân trí sáng thì sinh ra, mê hoặc tối thì tạm mất. Nếu trí sinh ra chiếu cùng cực thì vọng hoặc này dứt mất, trí đoạn đầy đủ gọi là quả Bồ-đề, há sự như lý mà chê trách có thọ ký, cho nên trước song định là Như sinh, Như diệt, trí đoạn quả mãn mà được thọ ký chăng. Về Thông và Biệt giáo mới xem qua thì sự đồng mà lý có khác. Về Thông và Viên hai giáo thì sự và lý đều khác, cùng với Biệt giáo thì lý đồng mà sự khác.

Hỏi: Biệt và Viên giáo sao được lý đồng mà sự khác?

Đáp: Đồng là Trung đạo nên đồng, còn tu có hai cách riêng nên khác.

– Song nạn “nhược dĩ… hữu diệt”. Đã im lặng chịu quyết định tức căn cứ ở hạnh mà vấn nạn song song cũng là ngầm căn cứ ba giáo về trí đoạn mà thọ ký một đời được quả Bồ-đề tức là dựa theo Thiên, Viên hai chân để vấn nạn song song. Một là dựa theo Thông giáo, Thiên chân của Thông giáo tức là lý chân như. Lý không phải trí đoạn, nếu quán chân như tức là trí sinh và hoặc diệt. Như dù là vô sinh nhưng thường phát trí. Trí từ Như sinh, sinh không lìa như, tức là trí đức của Như sinh. Như tuy không phải diệt mà thấy như thì hoặc diệt. Diệt không lìa như, tức là đoạn đức của Như diệt. Nay ngài Tịnh Danh gạn hỏi nếu vì Như sinh Như diệt mà được thọ ký thì từ Như có sinh, mà như không có sinh, từ Như có diệt mà Như không có diệt. Ý vấn nạn chính nói rằng: Thể của Như không phải sinh không phải diệt, ước như nói sinh nói diệt là có đức của trí đoạn. Nếu Như có sinh diệt thì không gọi là như, tức là Thế đế, nếu không phải sinh không phải diệt không phải Thế đế, tức là Chân không sinh diệt, tức là như không phải sinh diệt, không được nói từ như mà có trí đoạn sinh diệt. Do đó, ngài Tịnh Danh nói: Từ Như có sinh mà như không có sinh, từ Như có diệt mà như không có diệt. Nếu như không sinh diệt không thành trí đoạn, thì đâu được lìa như mà riêng có trí đoạn sinh diệt. Tức là Không có căn cứ ở hạnh vô sinh có thể nhận được thọ ký trí đoạn của một đời . Lại nữa, do tâm năng duyên vô sinh thành trí đoạn, ấy tức là tự sinh. Nếu do lý sở duyên tức là tha sinh, nếu năng sở hợp lại tức là cộng sinh. Nếu lìa năng sở tức là vô nhân sinh trí đoạn. Nên ngài Long Thọ có kệ rằng: “Các pháp Không tự sinh” cho nên, đâu thể được tâm năng duyên Chân như.

Sinh trí đoạn mà được thọ ký? Cho đến tất cả không thể vô nhân sinh và như ở câu đầu, đều là dẫn kệ ở Trung luận để thành bốn câu, chính là phá tha sinh. Vì sao? Vì ngài Di-lặc cho rằng nhân như phát trí thành trí đoạn mà hành giả được thọ ký.

Hai là song nạn về Biệt, Viên hai giáo, mỗi mỗi đều suy Thông giáo hạch sách không mất một câu. Nhưng Thông, Biệt hai giáo thì Thông giáo duyên với thiên chân, còn Biệt giáo duyên với tu. Lại Biệt giáo duyên tu là tự, còn Viên giáo chân tu cũng là tự, cẩn thận chớ lộn.

Hỏi: Vì sao Thông và Biệt dùng duyên tu làm tự, còn Viên giáo dùng chân tu làm tự?

Đáp: Thông và Biệt dùng trí để thành Phật, như chỉ là cảnh, nên duyên là tự. Còn Viên giáo dùng chân để thành Phật, duyên tu chỉ là phước tuệ trang nghiêm, nên chân như là tự.

Hỏi: Thông giáo chỉ là cái chân đoạn không phát trí mà thôi, trí là người tu nói là tự, lý chỉ là cảnh có thể được là tha. Biệt giáo nói lý trung sao không đồng với Viên mà lại đồng với Thông giáo?

Đáp: Lý tuy đồng Viên cơ, nhưng giáo không đồng. Biệt giáo nói duyên chân, chân tuy thường nhưng lý không phải trí. Dùng trí quán lý mà chưa phát chân trí. Trí duyên tu thì không gọi là thường, nên không đồng với Viên.

Hỏi: Biệt đồng với Thông giáo cùng duyên làm tự, mạch suy chung bốn trường hợp có thể biết, còn Viên dùng chân làm tự thì bốn trường hợp là thế nào?

Đáp: Trí đoạn không phải tự sinh, không phải chân tu mà thành, cũng không phải tha sinh, không phải duyên tu mà thành, cũng không phải cộng sinh, không phải chân duyên hợp thành, cũng không phải Không nhân sinh, không phải lìa chân và duyên mà thành, mà có trí đoạn của Viên giáo. Nếu bốn trường hợp kiểm tra trí đoạn không được thì không nhận thọ ký một đời của Viên giáo. Chỉ ý vấn nạn của ngài Tịnh Danh là vấn nạn về tự sinh chân tu trí đoạn của Viên giáo, trong đó sát hạch tột cùng không phải là sở năng của hai lần mười phen. Hễ không thấy sâu ý này thì nghĩa Viên giáo chân tu cũng khó tồn tại. Viên chân còn thế, thì Biệt Thông duyên tu đâu dễ còn. Nhân ngài Tịnh Danh gạn hỏi một mà thành ba, ý rất rõ ràng không quá mức.

Hỏi: Chỉ dùng một lần đâu khiến đóng kín cả ba giáo, mỗi người nghe tất bỏ chấp riêng của mình?

Đáp: Như xưa ta về Thiểm tây thấy ở chùa đạo nhân, Trương Công vì Lương Tuyên đế vẽ trên vách Bắc đại điện hình Phật Lô-xá-na và một con rùa. Tượng có hai mắt, tùy người động tĩnh đều thấy mắt nhìn mình, mắt rùa cũng thế. đó là Sắc pháp ở đời mà còn tuyệt diệu như thế, huống ngài Tịnh Danh đã trụ vào diệu trí Bất tư nghị. Một phen vấn nạn khiến cả ba cùng phá cái bệnh chấp tâm tự bỏ thay.

– Song cùng “nhất thiết chúng sinh…”. Văn có hai phần:

1/ Do bốn Như là nguyên do “cùng”.

2/ Chánh kết nghĩa cung”

Phần một gồm có bốn: căn cứ tất cả chúng sinh như, căn cứ tất cả pháp như. Căn cứ chúng Hiền Thánh Như. Căn cứ Di-lặc như. Cả bốn thứ này cùng tìm xét kỹ ý ấy cũng ngầm dựa theo nghĩa của ba giáo:

Căn cứ Thông giáo làm bốn cùng có ba là cùng thuận. Từ đầu đến một câu cuối là cùng nghịch, từ cuối đến một câu đầu là căn cứ chúng sinh Như.

Căn cứ chúng sinh Như mà cùng thuận tức là giả nhân (người giả). Giả nhân như và Di-lặc như là một như không phải hai như. Nếu chúng sinh như không sinh không diệt, thì không được thọ ký. Di-lặc cũng thế, sao được thọ ký riêng. Di-lặc như không sinh không diệt được thọ ký, thì hai Như là khác, mà khác là Không phải Như. Nếu là Như mà không thọ ký riêng ký thì phải đồng mà không thọ ký cũng đồng. Hoặc chung hoặc cùng không phải là số của ba phen.

Căn cứ tất cả pháp Như cùng thuận, tất cả pháp như chung cả tình và vô tình. Tình tức là năm ấm thật pháp, vô tình tức là ở ngoài cõi nước, tất cả đều là Như. Cùng Di-lặc Như là một Như không hai. Đây chỉ lấy vô tình thế cho chúng sinh, câu câu đều đồng, cần suy ra mà nói. Vì sao? Bởi pháp vô tình Phật không thọ ký. Nên Đại kinh nói: Nếu cây Ni-câu-đà hay tu giới định và trí tuệ thì ta cũng thọ ký cho quả Bồ-đề, vì nó vô tâm nên không thọ ký. Nên cho đó là cùng, vì khác loài hữu tình vậy.

Căn cứ chúng Thánh hiền như, cùng thuận, tức ba thừa Thánh hiền của Tạng Thông tất cả đều như, cùng Di-lặc như thì nhất như không hai. Đây cũng theo như trước. “Nếu chúng sinh trở xuống câu câu đều đồng thì chuẩn theo trước mà nói. Từ Pháp Hoa trở về trước thì Hiền Thánh Nhị thừa đều không có thọ ký, nên cho đó là cùng.

Căn cứ Di-lặc như ba ngược lại ba thứ cùng ở trước nên gọi là phản. Đây có ba lớp, tức là cùng ba phen trước. Mỗi mỗi đều nói rằng một Như không hai, ký và không ký đều như nhau, ý rất rõ ràng.

Căn cứ Biệt giáo, Viên giáo đều làm bốn cùng, thì suy theo Thông giáo sẽ biết.

Phần hai, chánh kết nghĩa cùng Từ “Nhược Di-lặc… bất nhị bất dị” cũng có bốn ý: căn cứ theo chúng sinh, căn cứ theo tất cả pháp, căn cứ theo các Thánh hiền, căn cứ theo Di-lặc.

Cả bốn ý này cũng ngầm dựa theo ba giáo

Căn cứ đều cùng của Thông giáo, cũng có ba thuận một nghịch.

Căn cứ chúng sinh mà kết luận đều cùng thuận. Nói rằng nếu ngài Di-lặc được thọ ký thì tất cả chúng sinh cũng phải được thọ ký, vì hai Như đã đồng nhất tất phải đều được thọ ký. Ngài Tịnh Danh tự giải thích rằng phàm là Như thì không hai không khác, nếu có hai có khác thì mới được một bên thọ ký, một bên không thọ ký. Đã là Không hai không khác thì cả hai đều phải được thọ ký.

Hỏi: Hai và khác có gì khác nhau?

Đáp: Hai là chỉ luận thể nó riêng biệt, còn khác là nói tướng nó không đồng.

Căn cứ theo tất cả pháp mà kết đều cùng và Căn cứ chúng Thánh hiền mà kết đều cùng. Văn lược bỏ không nói ra, nên suy từ phần chúng sinh trên mà biết.

Căn cứ Di-lặc đều cùng nghịch, thì văn cũng lược bỏ không nêu ra, cần chuẩn theo trước. Về cùng nghịch là nếu các Hiền Thánh không được thọ ký thì Di-lặc cũng không được thọ ký. Vì sao? Vì phàm là Như thì không hai không khác. Nếu tất cả chúng sinh không được thọ ký thì tất cả các pháp cũng đều như thế.

Căn cứ Biệt và Viên giáo cũng làm bốn thứ kết luận nghĩa đều cùng, y theo phần Thông giáo trên mà biết. Nếu Di-lặc không thể thông thì nghĩa thọ ký của ba giáo đều hỏng nên bị chê bỏ.

Song kết giải thích “Nhược Di-lặc trở xuống. Văn có hai:

1/ Căn cứ phá Trí đức mà giải thích.

2/ Căn cứ phá Đoạn đức mà giải thích.

– Căn cứ ở phá Trí đức, cũng ngầm dựa theo trí đức của ba giáo mà giải thích.

Giải thích theo Thông giáo : Bồ-đề đối với chúng sinh phiền não. Chúng sinh phiền não như thì Bồ-đề như, không hai không khác. Nếu Di-lặc được quả Bồ-đề thì tất cả chúng sinh cũng đều phải được. Trong đây ngài Tịnh Danh giải thích rằng tất cả chúng sinh tức là tướng Bồ-đề. Chúng sinh đã là tướng Bồ-đề mà như không tự sinh, lại không được có quả thượng trí đầy đủ Bồ-đề có thể thọ ký cho.

Giải thích theo Biệt giáo , cũng đồng với Thông giáo, chỉ thấy Trung đạo là khác.

Giải thích theo Viên giáo , chúng sinh phiền não có tướng trí tuệ như mặt người có tướng phước đức. Tướng Bồ-đề này tức Tướng Như như, tức tướng trí tuệ. Chúng sinh và Di-lặc đều có tướng này. Phật quán thấy hai như đều được thọ ký. Tuy gồm cả hai giáo trước, nhưng ý kinh là ở Viên giáo.

Hỏi: Vì sao dùng ba giáo để phá, mà giải thích chỉ dùng Viên?

Đáp: Phá là phá chấp, giải thích là thành cái thật nghĩa. Ở giáo trước không người không hạnh, giáo phá đều không. Viên giáo chấp phá tức giáo, chân, hạnh đều rõ ràng, nên chánh ước ở Viên. Đây kết giải thích chân tu như không sinh, tức không có trí đức nên không được thọ ký.

Căn cứ ở phá Đoạn đức mà giải thích “Nhược Di-lặc đến bất phục cánh diệt”. Cũng ngầm dựa theo ba giáo.

Phá Thông giáo: Niết-bàn và chúng sinh đã Như nên không khác, cả hai đều diệt độ, nên ngài Tịnh Danh tự giải thích rằng: Chư Phật biết tất cả chúng sinh tức tướng Niết-bàn không còn diệt nữa. Chúng sinh là tướng Niết-bàn sẵn có Như đã không diệt mất thì không có Đoạn đức diệt trên quả có thể thọ ký.

Ước phá Biệt giáo, nếu chúng sinh Như, tức tướng Niết-bàn không thể diệt, là Không có Thập địa hậu tâm không nói diệt rốt ráo đoạn đức Niết-bàn . Phá Viên giáo suy theo Thông giáo mà biết. Trên đây là phá giáo, còn nhân, hành cũng suy theo trên mà biết. Đây là giải thích chân như bất diệt tức không có đoạn đức nên không được thọ ký Đại Niết-bàn.

Chánh kết lỗi mà khuyên bỏ: “Thị cố Di-lặc trở xuống có ba phần: Kết lỗi. Khuyên bỏ kiến chấp và giải thích.

Kết lỗi: Nếu không phương tiện dạy quả Bồ-đề nói quả Bồ-đề này khuyến dụ tâm người khởi sinh kiến Bồ-đề, tức có lỗi dối lừa người, nên ngài Tịnh Danh tự nói: Thật không có phát tâm Bồ-đề cũng không có ngôi vị bất thoái, như Bồ-đề tâm Viên giáo còn không thể được, tức không có người thoái chuyển há lại có phương tiện dạy phát tâm và vị bất thoái. Đã không có nhân tức là Không có quả có thể được. Không có quả kiến cầu mà thọ ký cho tức là dối khuyến dụ tâm người.

Hỏi: Quả là Phật nói và thọ ký cho Di-lặc, vậy Phật khuyến dụ lừa dối nào có liên hệ gì đến Di-lặc?

Đáp: Đại Luận có nói: Khi Phật ngồi đạo tràng thật không được một pháp nào, tay không mà dối dụ trẻ con để độ tất cả. Lúc đầu Phật tuy có khuyến dụ nhưng đến Thật thì cần phải bỏ nên dùng kết lỗi để chê trách Di-lặc.

Khuyên bỏ kiến chấp “Di-lặc đến chi kiến”, phương tiện Bồ-đề không người có giáo, nếu chấp Không bỏ thì chướng nhập vào nhất thật. Nên trong Đại kinh nói: Từ đây trở về trước đều gọi là tà kiến, nên cần phải bỏ.

Hỏi: Do đâu Di-lặc khuyên Thiên tử bỏ kiến chấp?

Đáp: Ngài Di-lặc dạy ông ta phát tâm tu vị bất thoái, không tin vào lời người khác, nên lại khiến Di-lặc khuyên bỏ.

Giải thích ý khuyên bỏ “sở dĩ đến tâm đắc”. Phá về thân tâm được thì bốn giáo không đồng.

Phá Tam tạng giáo kinh Thanh Văn nói ví như người nghèo muốn cưới con gái nhà giàu. Gia đình cô gái nói: Muốn được con ta thì phải làm sạch nhà ngươi. Quả Bồ-đề cũng nói với Hậu Tâm Bồ-tát rằng: Muốn được Bồ-đề phải tu tướng hảo, nếu các tướng đầy đủ mới được Bồ-đề. Đây tức là Thân được. Điều phục kiết thuần thục, ở đạo tràng hàng ma, tại gốc Bồ-đề mà được diệt cam lộ tức là Tâm được. Đại luận nói hủy phá tức là Không thể dùng thân tâm mà được.

Phá Thông giáo, nếu dùng “không” tâm mà tu các tướng hảo, cõi

Phật thanh tịnh, trang nghiêm y chánh báo, gọi là thân được. Khi ngồi đạo tràng, một niệm tương ưng với tuệ, đoạn dứt chánh tập tức là tâm được. Phá như Kim Cang Bát-nhã nói: Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy làm tà đạo, không thấy được Như Lai. Đây tức là Không thể dùng thân tâm mà được.

Phá Biệt giáo. Nếu nói nhân diệt là sắc nhận được thường sắc, tức là thân được, thọ, tưởng, hành, thức cũng thế, tức là tâm được. Nay kiểm lại lời này là vô thường sắc ấy diệt thì nhận được thường sắc. Vô thường sắc không diệt thì nhận được thường sắc. Như thế bốn trường hợp kiểm không thể được, tức là Không thể dùng thân tâm mà được.

Phá Viên giáo, chân tu diệu sắc tâm hiển sáng, không cần duyên tu công đức trí tuệ mà hiển sáng, tức là Không thể dùng thân tâm mà được. Lại nữa, nếu chân tu thì thể sắc tâm hiển sáng đầy đủ được Bồđề, cũng là nghĩa thân Tâm được. Nên trước phá Như sinh Như không có sinh tức là sắc pháp tánh, pháp, tánh, thọ, tưởng, hành, thức không sinh. Không sinh tức là vô lậu đầy đủ, nên không thể dùng thân tâm mà được.

Nói rộng về chân Bồ-đề “Tịch diệt…”: Sở dĩ nói rộng , là trên đã vấn nạn để phá, lại khuyên bỏ kiến chấp. Ấy là tin giáo thiên lệch nên quy tâm chớ theo. Nhận Viên giáo mà chưa nhập, thì cũng không biết chánh nghĩa, nên cần phải rộng bày hai mươi lăm phen Chánh nghĩa

Bồ-đề. Văn có ba phần

  1. Một phen nói tóm lược thật tướng của biểu tượng Bồ-đề.
  2. Hai mươi hai phen căn cứ chân trí đoạn, mà nói Bồ-đề.
  3. Hai phen lại căn cứ thật tướng diệu lý mà kết thành chân trí đoạn Bồ-đề.

Một phen nói tóm lược: Vì sao? Vì trên đã phá không có trí đoạn, không được thọ ký. Học theo bốn giáo, là bệnh chấp đã bỏ, nay lại nói cho họ nghĩa chân trí đoạn đều là Bồ-đề. Đó là ba đức Bồ-đề như chữ y ở đời, tức là chân Bồ-đề của Viên giáo. Giải thích hai mươi lăm trường hợp hoàn toàn dùng Viên. Tịch diệt là Bồ-đề, tức tất cả pháp đến tâm, tâm tức Trung đạo. Lý chân như xưa không sinh thì nay không diệt. Không sinh tức không phải trí, không diệt tức không phải đoạn, tức là nghĩa chân tịch diệt, cũng là Đại Niết-bàn bất sinh, bất sinh bất khả thuyết. Nói Bồ-đề tức là thật tướng Bồ-đề của Viên giáo. Nói diệt các tướng, nếu không biết thật tướng Bồ-đề thì không thể nói chấp tướng bốn giáo mà khởi phiền não sinh tử. Bốn thứ tướng này có mười sáu tướng sinh ra tất cả tướng, cho nên có tất cả phiền não sinh tử rối rấm.

Nếu thật tướng Bồ-đề tức là bất sinh, bất sinh không thể nói, tức là bốn môn đều diệt huống là sinh hay bất sinh… Ba tướng bốn môn và tất cả tướng hoặc mà không diệt mất ư? Ý ngài Tịnh Danh nói là thật tướng không có tướng, hay diệt các tướng nên nói là diệt.

Chính thức căn cứ Trí Đoạn chân thật tức Bồ-đề “Bất quán…”. Lại có hai, là nói lược và nói rộng . Về lược nói có hai:

  1. Hai phen chính nói trí đức chân thật tức là chân Bồ-đề, tức là Ma-ha Bát-nhã.
  2. Bốn phen nói đoạn đức chân thật.

Chẳng quán là Bồ-đề, tức là dứt phương tiện quán, tức là chẳng quán.

Lìa các duyên, tức lìa các duyên tu và tất cả duyên cớ.

Không làm là Bồ-đề, nếu biết Chân không thì không làm lụng tạo tác, vì tất cả muôn hạnh tức là Bồ-đề. Nên Đại Phẩm nói: Nếu tâm và tâm số pháp Không làm là làm Bát-nhã.

Không nghĩ nhớ, là Không nghĩ nhớ bốn thứ thọ ký Bồ-đề và tất cả pháp. Đây là chân quán hạnh tức là Bồ-đề trí đức chân thật.

Bốn phen nói đoạn đức chân thật tức Bồ-đề “Đoạn thị Bồ-đề… Vô tham trước cố”, tức là đức giải thoát.

Đoạn là Bồ-đề, tức là chân như hiển hiện, kiến tư hoặc đều dứt, tức là đoạn đức Bồ-đề. Bỏ chấp bốn giáo, khởi kiến Bồ-đề và tất cả kiến, tức là bỏ các kiến.

Lìa là Bồ-đề, là lìa bốn giáo nói về quán hạnh và tất cả pháp, tức là Bồ-đề đoạn đức chân thật.

Lìa các vọng tưởng, là lìa duyên tu của bốn môn và tất cả vọng tưởng.

Chướng là Bồ-đề, là nếu biết bình đẳng chân pháp giới Phật không độ chúng sinh, tức là Phật không hay làm, tức là ngăn chướng các phương tiện giáo môn thệ nguyện, đây là đoạn đức chân thật.

Không nhập là Bồ-đề, nếu biết chân như rốt ráo không hình tướng, tức là Không nhập vào quyền giáo Niết-bàn và tất cả pháp, vì không nhập nên không tham trước, tức là Bồ-đề Đoạn đức chân thật .

Về nói rộng “Thuận là Bồ-đề…”. Chân trí đoạn tức là Bồ-đề. Trong đây phần nhiều nói rộng về trí đức, ít nói về Đoạn đức. Vì sao?

Vì Bồ-đề là trí, còn đoạn là thuộc Niết-bàn nên là phụ. Có hai phần:

a) Chín phen nói theo trí đức.

b) Bảy phen nói không thể dùng thân tâm mà được.

Thuận là Bồ-đề, chín phen nói theo trí đức là nếu : quá vượt chẳng thấy Bồ-đề của bốn giáo tức là thuận Trung đạo chân như của Viên giáo.

Trụ là Bồ-đề, là trí chẳng trụ ở bốn giáo và tất cả pháp, tức là trụ ở pháp tánh của Viên giáo.

Đến là Bồ-đề. Nếu quán các pháp và Bồ-đề của bốn giáo thì rốt ráo không thể được, tức là thường đến thật tế chân như.

Không hai là Bồ-đề, nếu có phương tiện Bồ-đề Thiên giáo và tất cả pháp, thì tức là pháp trần đối với nội ý căn tức là hai. Quán hai pháp này đều không thể được mà nhập vào môn không hai (Bất nhị) mà thấy Trung đạo liền lìa bỏ hai chết, đây là một phen nói thuộc đoạn đức.

Bình đẳng là Bồ-đề. Nếu quán Niết-bàn cùng sinh tử bình đẳng, tức là bình đẳng đối với Phật tánh hư không, là Bồ-đề trí đức chân thật.

Vô vi là Bồ-đề, nếu quán pháp tánh rỗng sáng Thường tịch tức là chân vô vi, không bị sinh tử bệnh tử biến dời.

Trí là Bồ-đề, là các phương tiện giáo duyên tu mà vào chân chẳng thấy có tâm hành chúng sinh, chân trí của Viên giáo tịch mà thường chiếu. Tâm hành chúng sinh tự quán trí Trung đạo sáng rỡ rõ ràng.

Bất hội là Bồ-đề, các phương tiện giáo nói trí duyên tu hội nhập ở lý mới gọi là trí. Chân tu trí thể của Viên giáo tức là lý tịch diệt không phải là trí đến hội.

Bất họp là Bồ-đề, là phương tiện chân trí về lý mà nói cùng vô minh hợp nhau, chưa thể lìa các tập. Chân tu trí thể mà không cùng họp, tức là thường lìa ở nguyên phẩm tập. Đây nói thuộc đoạn đức, bỏ lấy rất khó, cần suy nghĩ chín chắn.

Bảy phen không thể dùng thân tâm mà được “Vô xứ thị Bồ-đề trở xuống. Vô xứ là Bồ-đề, đây à không thể dùng thân tâm mà được. Bồ-đề Thiên giáo trí nương vào sắc thân, sắc thân là xứ, đây không thể dùng thân mà được. Bồ-đề của Viên giáo thì sắc tâm không hai, đã không có năng sở tức là vô xứ. Đây tức là Không thể dùng thân mà được.

Từ”giả danh” đến “đẳng cố” đây là sáu phen nói nghĩa chân trí, Bồ-đề không thể dùng tâm mà được.

Giả danh là Bồ-đề, tâm là giả danh, bốn thứ Bồ-đề chỉ có danh tự, nếu quán tức không mà thấy ở Phật tánh tức chân trí Bồ-đề không thể dùng tâm mà được.

Như Hóa là Bồ-đề: các pháp như hóa, bốn thứ Bồ-đề đều như hóa. Nếu biết như hóa đều không thể được, tức là Không chấp tướng Bồ-đề, không bỏ phiền não tức là chân trí Bồ-đề.

Không loạn động là Bồ-đề: phiền não vọng tưởng và duyên tu động niệm đều là loạn tưởng. Biết các loạn tưởng này đều không thể được, thì dứt tâm thấu suốt cội nguồn, nội tâm thường tịch, lặng lẽ, thì không có cảnh trí loạn động.

Thiện tịch là Bồ-đề, phương tiện duyên tu chưa thể thuận lý, không gọi là chân thiện. Có duyên có niệm tức là loạn tưởng, không gọi là tịch. Sơ tâm của Viên giáo, trí tức chân như, gọi là thiện. Chiếu mà không động niệm, gọi đó là tịch. Trí tức pháp tánh, pháp tánh không nhiễm tức là tánh tịnh.

Không chấp lấy là Bồ-đề, nếu biết Bồ-đề của bốn giáo và tất cả pháp đều không có, tâm không đắm trước, tức là Bồ-đề của Viên giáo, lìa bỏ tâm phan duyên Bồ-đề và tất cả các pháp.

Không khác là Bồ-đề: các giáo phương tiện nói Bồ-đề khác phiền não. Nếu biết Bồ-đề không khác phiền não tức là bình đẳng trí đức Bồđề của Viên giáo.

Hai phen căn cứ diệu lý thật tướng mà kết luận: Nói ba đức Bồ-đề bất tư nghị kết thành Từ “vô tỉ đến nan tri cố”.

Không sánh được là Bồ-đề bất tư nghị, chân như Trí, Đoạn tức là tất cả pháp, không thể dùng pháp lại sánh với pháp, nên không thể dụ.

Vi diệu là Bồ-đề, lý quyền không phải là diệu. Các pháp của Viên giáo tức là chân như, chân như tức là Trí, Đoạn. Các pháp đều là ba đức Bồ-đề bất tư nghị mới là cực diệu, không phải các phàm tiểu và phương tiện Bồ-đề biết được.

Chư Thiên được lợi ích “Thế Tôn… pháp nhẫn”, mong cầu đã dứt, nước trong châu hiện, được bậc Sơ trụ Vô sinh pháp nhẫn của Viên giáo. Hoặc một thứ tiếng mà hiểu khác, thì được vô sinh của Thông và Biệt giáo. Đã chưa bằng Pháp Hoa đâu thể phán định.

* Kết lời không kham “nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy”. Ngài Di-lặc tự nghĩ lúc xưa vì trời Đâu-suất nói bất thoái chuyển không lợi ích cho họ mà bị chê trách, không trả lời được. Nay đâu dám lãnh ý Phật đến thăm bệnh nên từ chối không kham.

Chánh văn: Đức Phật bảo Quang Nghiêm Đồng tử: Ông đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Hai là: Sai Quang Nghiêm Đồng tử. Văn có hai phần: Sai thăm bệnh, từ chối không kham.

– Sai thăm bệnh. Kế tiếp sai ngài Quang Nghiêm, ngài là Bồ-tát tại gia, pháp hữu của ngài Tịnh Danh và Bảo Tích. Cũng là pháp thân Đại sĩ ngôi vị ở bậc Bổ xứ. Sở dĩ gọi Quang Nghiêm Đồng tử, vì Quang có ba ý nghĩa:

  1. Sắc.
  2. Tâm.
  3. Phi sắc phi tâm.

Sắc quang như bối xả, quán xương, phát ra tám thứ ánh sáng chuyển làm Thắng xứ và tất cả chỗ phóng ra các thứ ánh sáng.

Tâm quang, tức là ánh sáng trí tuệ thường chiếu soi các Hoặc mờ tối.

Phi sắc phi tâm quang tức ánh sáng Đệ nhất nghĩa, như kinh Phạm Võng phóng ra ánh sáng, Đệ nhất nghĩa. Đại kinh nói: Lưu Ly Quang Bồ-tát phóng ra ánh sáng tức là việc này. Kinh ấy nói: Ánh sáng, tức là Đệ nhất nghĩa đế, không phải sắc không phải tâm mà hiện ra sắc tâm. Vì sao? Vì kinh nói: Ánh sáng không phải sắc xanh mà thấy xanh…, tức là sắc không phải sắc. Ánh sáng đó là trí tuệ, tức không phải tâm mà nói tâm. Tam tạng giáo, Thông, Biệt giáo chỉ có hai thứ ánh sáng sắc và tâm. Chỉ có Viên giáo mới có ánh sáng Đệ nhất nghĩa, đó là ánh sáng bất tư nghị.

Nghiêm, tức là phước, trí hai nghiêm, đầy đủ như trong Đại kinh nói. Cũng là sức định tuệ trang nghiêm đầy đủ như trong kinh Pháp Hoa. Sắc quang tức là phước nghiêm, tâm quang tức là trí nghiêm, Đệ nhất nghĩa quang tức là pháp thân. Hai thứ ánh sáng trang nghiêm hiển phát pháp thân, nên gọi là Quang nghiêm.

Hỏi: Nếu Đệ nhất nghĩa là ánh sáng thì đâu cần ánh sáng sắc và tâm?

Đáp: Như mặt trời và gương làm hiển lộ mắt. Mắt được mặt trời thì thấy, tức mặt trời trí và Gương phước cùng làm hiển lộ mắt Đệ nhất nghĩa. Tức được khai Phật tri kiến mà thấy mình và người.

Đồng tử, là Bồ-tát trụ ở địa Cưu-ma-la-ca gọi là Đồng chân. Như trẻ thơ ở đời, tâm không ái nhiễm, nghĩa là Không yêu đắm vợ mình vợ người. Không yêu vợ mình là như ngài Kim Sắc Ca-diếp. Không yêu vợ người, tức là Không yêu tất cả phụ nữ và vợ người. Bồ-tát cũng thế. Tuy quán ba đế chứng các pháp hỷ, nhưng ở hai đế pháp hỷ không yêu thích, tức là Không yêu tất cả phụ nữ và vợ người. Không yêu thích Trung đạo pháp hỷ, tức là Không yêu vợ mình. Đầy đủ hai nghĩa này như trẻ con ở đời, nên gọi là Quang Nghiêm Đồng tử.

Trước sai ngài Di-lặc để hiển bày Bồ-đề của Viên giáo, khai Phật tri kiến không nhằm ở thân sau. Nay sai ngài Quang Nghiêm là muốn nói về đạo tràng Viên giáo, bày Phật tri kiến, cũng không ở tại gốc Bồđề ở vị lai. Khai kiến là tướng chung, như lúc đầu thấy châu Như ý chỉ là một tướng tròn. Hiện bày là tướng riêng. Như thấy châu Như ý mưa ra các ngọc báu, rồi dựa vào tâm đầu tiên mà không cầu xa xôi. Nên trong Đại Phẩm có nói: Mỗi mỗi pháp môn đều là Ma-ha Diễn. Kinh này nói đó là đạo tràng. Ngài Tịnh Danh thuở xưa phá ngài Quang Nghiêm là mượn ngài để phá Bồ-đề của ba giáo không phải là chân đạo tràng. Quang Nghiêm hiện bày việc bị chiết phục chính là hiển bày chân thật đạo tràng của Viên giáo. Nay Phật sai tiếp ngài, là nếu ngài kể việc bị chê trách xưa thì cả đại chúng cùng nghe được nghĩa chân đạo tràng của Viên giáo, thành tựu được năm ích lợi trước.

– Từ chối không kham “Quang Nghiêm…”. Văn có bốn:

  1. Đáp lời không kham.
  2. Nói lý do không kham.
  3. Chính kể việc bị chê trách.
  4. Kết thành không kham.

– Đáp lời không kham: Vì thuở xưa hỏi nghĩa đạo tràng mà không đáp được, nên không kham truyền ý Phật đến thăm bệnh.

– Nói lý do không kham: Do không biết nghĩa chân đạo tràng.

Văn có năm:

  1. Ra vào gặp nhau.
  2. Quang Nghiêm chí kính.
  3. Hỏi từ đâu đến.
  4. Đáp ở đạo tràng đến.
  5. Quang Nghiêm lại hỏi.

Ra vào gặp nhau, mà có sự chê trách là lý do không kham. Hoặc trên biểu: Thành là gốc vắng lặng. Ra là trái lý, vào là thuận chân. Quang Nghiêm là biểu thị: Học phương tiện vốn yên lặng chưa sáng, tâm mê lý xa, nên gọi là ra. Ngài Tịnh Danh nương vào Viên từ lâu ngộ một thật vào dòng nước pháp, gọi đó là vào. Do Quang Nghiêm trái lý nên mê đạo tràng, cơ cảm gặp nhau mà có bị gạn hỏi chê trách.

Hỏi: Từ trước các đệ tử Bồ-tát đều bị chê trách, nay Quang Nghiêm được nói thẳng nghĩa đạo tràng chưa thấy bị khuất phục, sao lại từ chối không kham?

Đáp: Nghe đạo tràng của Viên giáo mịt mờ không hiểu, tức là khuất phục. Tâm đã chịu phục bèn thỉnh hỏi đạo tràng và liền nói mà không đợi hỏi, nên không kham thăm bệnh.

– Quang Nghiêm chí kính. Sở dĩ lạy, là Quang Nghiêm cúi đầu mọp dưới chân vì biết rõ Đại sĩ cao đức lợi vật vô cùng nên rất chí kính.

– Hỏi từ đâu đến “mà hỏi rằng Cư sĩ từ đâu đến” vì không biết từ đâu nên hỏi.

– Đại sĩ đáp: Ta nói ta từ đạo tràng đến. Thật không phải từ chỗ Phật thành Đạo đến, vì muốn nói nghĩa sơ tâm chân đạo tràng của Viên giáo để phá các giáo thiên lệch về sự tích Viên giáo để nói về đạo tràng. Nên đáp rằng từ đạo tràng đến.

– Quang nghiêm lại hỏi “con hỏi đạo tràng là gì”. Sở dĩ Quang Nghiêm mê lời đáp này vì đạo tràng vốn là nơi Phật thành đạo. Như ở đời, sân lúa là nơi loại bỏ trấu cám để được gạo. Bồ-tát cũng thế, loại bỏ tâm mê hoặc để hiển bày thật tướng, nên nơi thành đạo gọi là đạo tràng.

Nói theo Tam tạng giáo, thì dưới cội Bồ-đề dùng cỏ làm tòa chánh tập đều dứt, nơi thành Phật gọi là đạo tràng. Theo Thông giáo thì dưới cội Bồ-đề, dùng Thiên y làm tòa, chánh tập đều hết, nơi ấy thành Phật gọi là đạo tràng. Theo Biệt giáo thì dưới cội Bồ-đề bảy báu làm tòa, Phật Lô-xá-na hoặc ngoại giới đều hết, nơi đầu tiên thành chánh giác tức là tịch diệt đạo tràng. Theo Viên giáo thì ở trên hư không hoa sen làm tòa vô minh pháp giới dứt hẳn, nơi đầu tiên thành Phật cũng là tịch diệt đạo tràng. Ngồi tòa cỏ thành Phật, nói kinh Thanh Văn và thiên y, bảy báu, hư không hoa sen hơn cả vua trời… đều là tùy cơ cảm mà thấy bốn thứ đạo tràng này, tiểu cơ thì thấy nhỏ, Đại thừa thì thấy Bồ-tát của ba giáo, nên có ba tướng đạo tràng thành Phật khác nhau. Ngài Quang Nghiêm không thấy Đại sĩ từ các nơi này đến, sao bỗng đáp từ đạo tràng đến, cho nên hỏi lại.

Chính kể việc bị chê trách: “Đáp rằng…”. Quang Nghiêm chỉ biết nghĩa quả đạo tràng đầu tiên của phương tiện giáo mà chưa biết phát tâm cũng là đạo tràng của Viên giáo. Giống như ngài Di-lặc nói pháp đều trông vào quả quyềnmà dẫn thành hạnh bất thoái. Nay ngài Tịnh Danh nói Viên để phá ngài Quang Nghiêm chấp có đạo tràng trên quả phương tiện giống như Đại phẩm nói đốt cháy không phải trước không phải sau mà không lìa trước sau. Nếu không lìa trước sau, lấy sau làm đạo tràng, thì sao không lấy trước làm đạo tràng. Nếu trước không thể, thì sau cũng không thể. Do đó ngài Tịnh Danh căn cứ sơ tâm của Viên giáo mà nói rộng nghĩa đạo tràng chân thật.

Hỏi: Ba giáo đã có hậu tâm là đạo tràng, thì sơ tâm cũng được là đạo tràng chăng?

Đáp: Các giáo phương tiện hoàn toàn dựa theo quán sao lại không được nhưng xét về đạo lý thì nghĩa không thành. Vì sao? bởi phương tiện hậu tâm mới đủ Phật pháp, còn sơ tâm thì không thể, đâu được liệt vào. Nhưng ngài Tịnh Danh đáp chung mà chưa nói rõ hình tướng, do đó ngài Quang Nghiêm lại hỏi. Nay chấp quyền là biết một trong vô lượng bất tư nghị. Như ngọc báu trong túi mà không chỉ cho người thì người không thấy. Do đó ngài Tịnh Danh khắp trải các hạnh nói nghĩa đạo tràng, ấy là hiện bày Phật tri kiến ý ở đây vậy. Nhưng hiện bày có hai là dọc và ngang, dọc ngang chính là đó. Xe ấy cao rộng. Cao thì suốt đến đời sau, rộng thì pháp giới không bờ bến. Tướng cao rộng đầy đủ như nghĩa Tịnh độ ngang dọc ở trước nói phân tán ở các hạnh. Nếu theo văn mà bỏ biệt thì chỉ thành Thông giáo mất đi ý chánh của Biệt giáo. Nay đều ước vào sơ tâm của Viên giáo để nói về đạo tràng. Nên ở đoạn văn sau có nói: Nếu Bồ-tát hành trì Ba-la-mật thì đi đứng đều là đạo tràng, đầy đủ Phật pháp vậy.

Văn đây có bốn phần:

  1. Bốn phen một lượt nói theo chiều dọc.
  2. Hai mươi lăm phen một lượt nói theo ngang.
  3. Một phen tóm kết giải thích.
  4. Nói thời chúng được lợi.

Căn cứ bốn tâm: nếu y vào Biệt giáo đối bốn mươi tâm mà giải thích thì trực tâm tức là Thập trụ, phát hành tức là Thập hạnh, thâm tâm tức là Thập hướng, Bồ-đề tâm tức là Thập địa cũng không hoàn toàn như thế. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh nói sơ tâm đạo tràng của Viên giáo đâu có thể dọc đối với ngôi vị bốn mươi tâm. Nay nói sơ trụ tức có bốn tâm cho đến Phật quả. Trực tâm tức là nhập vào Nhất thật đế, phát hành tức là thật đế của muôn hạnh, thâm tâm tức là tiến sâu niệm niệm lưu nhập, Bồ-đề tâm tức có đủ ba tâm ấy, như nam châm hút sắt. Các câu sau đây nếu bậc Sơ tu đều căn cứ ở năm phẩm, mà nhập vào vị tương tợ, đến phát tâm trụ thì đều đủ tất cả hạnh, là chân đạo tràng. Trực tâm đạo tràng vốn không hư dối, là như kinh Hoa Nghiêm nói: Khi mới phát tâm liền thành chánh giác, thấu suốt tánh chân thật của các pháp. Lại nói: Rốt ráo lìa bỏ hư vọng không nhiễm như hư không, thanh tịnh diệu pháp thân, rỗng sáng ứng với tất cả, tức là nghĩa đạo tràng. Được tám trực vô tác, không có khổ tập hư giả nội ngoại giới. Nếu có hóa vật thì đủ bốn dụng như đã giải thích trong phần Tịnh độ. Nên Pháp Hoa khen năm phẩm rằng: “Phải biết người ấy đã đến đạo tràng gần với quả Bồđề ngồi dưới đạo thọ.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trụ ở sơ phát tâm có thể ngồi đạo tràng mới thành chánh giác.” Cũng như Đại Phẩm nói: “Có Bồ-tát từ sơ phát tâm liền ngồi đạo tràng chuyển pháp luân”.

Phát hành là đạo tràng: Là thập hạnh của Biệt giáo được mười Bala-mật. Nay sơ trụ của Viên giáo thấy Nhất thật đế phát đủ muôn hạnh, phá các ác nghiệp, hiển bày các pháp môn, tức là đạo tràng. Tự lợi lợi tha gọi là hay làm xong mọi việc.

Thâm tâm là đạo tràng, là thập hướng của Biệt giáo, giải hạnh đều thâm nhập. Nay sơ tâm của Viên giáo thấy Đệ nhất nghĩa hay thấy không cùng chẳng không. Vì chẳng không tức là thâm nhập, không phải là hàng Nhị thừa và Bồ-tát của Thông giáo riêng có ba mươi tâm. Lại nữa, hàng sơ trụ được vào Trung đạo, song chiếu hai đế, tự nhiên lưu nhập vào biển Tát-bà-nhã tức là sâu dần. Vì thâm tâm nên võ vô minh bị tróc rồi, thì chân pháp hiển bày tức nghĩa đạo tràng. Dọc tiến thâm nhập rộng khắp, các công đức cũng tùy theo đó mà tăng trưởng.

Bồ-đề tâm là đạo tràng, là Sơ địa của Biệt giáo gọi là chân phát tâm. Nay sơ tâm của Viên giáo thấy chân gọi là chân phát hành là rộng lưu nhập, là rộng mà sâu nên gọi là thâm quảng tâm. Bồ-tát được tâm này nên Vô duyên từ bi và vô tác hoằng thệ như nam châm hút sắt, tức là tâm chân Bồ-đề, hay tự dẹp bỏ pháp giới phiền não, hiển bày pháp thân, tức là đạo tràng. Thấy Nhất thật đế không phải nhân không phải quả, phân biệt pháp giới Tứ đế vô tác, nhân quả không rối loạn, tức là Không nhầm lẫn. Lại còn, chung cả ba tâm trước tức ba đức Bồ-đề, nên gọi tâm Bồ-đề là đạo tràng.

Từ “bố thí…” là hai mươi lăm phen nói các hành xét theo chiều ngang mà nói nghĩa đạo tràng. Về Biệt giáo, lục độ đối dọc các pháp môn là từ địa thứ sáu trở xuống, và địa thứ bảy đến địa thứ mười là sơ tâm của Viên giáo tức là ngang nói, lấy ngang đối dọc, tức là nói sự cao rộng của xe ấy. Văn có năm:

  1. Xét theo lục độ tự hành.
  2. Xét theo bốn đẳng hóa tha.
  3. Xét theo đa văn tiến tu quán đế.
  4. Xét theo hàng ma nói pháp.
  5. Xét theo quả đức lục vô úy.

Xét theo lục độ: tức là hạnh gốc. Lục độ đều đủ năm thứ bốn quyền một thật, đầy đủ như giải thích trước.

Bố thí là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ Đàn Ba-la-mật bỏ tâm san tham tất cả hiển bày pháp thân bố thí, tức là đạo tràng không trông mong quả báo là trụ vào chân tu mà bố thí không mong cầu báo thế gian và duyên tu.

Trì giới là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào Thi Ba-la-mật này mà phá tất cả ác nghiệp, hiển bày pháp thân chân giới, tức là đạo tràng. Trong giới có đầy đủ tất cả Phật pháp, tức là được nguyện đầy đủ.

Nhẫn nhục là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào Sằn-đề Ba-la-mật này, luôn dẹp trừ được sân khuể pháp giới, hiển bày pháp thân chân nhẫn nhục, tức là đạo tràng. Đã đầy đủ sức Từ nhẫn quyền thật đối với chúng sinh pháp giới, tâm không trở ngại.

Tinh tấn là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào tinh tấn này, luôn lìa bỏ sự lý giải đãi pháp giới mà được pháp thân chân tinh tấn tức ở đạo tràng này, tự nhiên lưu nhập, tức là Không giải đãi.

Thiền định là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào thiền định này, luôn dẹp trừ tất cả tán loạn pháp giới, hiển bày pháp thân chân thiền định, tức là đạo tràng. Đối với sự lý các thiền định mà xuất nhập tự tại, tức là tâm điều nhu vậy.

Trí tuệ là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào trí tuệ này mà đoạn trừ tất cả vô minh pháp giới, hiển bày pháp thân chân trí tuệ, tức là đạo tràng. Thấy lý bốn bất khả thuyết niệm niệm hiện tiền, tức là hiện thấy các pháp.

Xét theo bốn vô lượng tâm: Từ… là đến với chúng sanh bình đẳng. Bốn đẳng tức là tâm lợi vật đứng đầu các hạnh.

Từ là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát được Vô duyên từ chân thật , lìa bỏ các hoặc pháp giới hiển bày pháp thân từ chân thật, tức là đạo tràng. Khắp che pháp giới tức đẳng chúng sinh.

Bi là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát trụ vào vô duyên Bi tùy phá khổ lười mỏi, chân pháp thân hiển bày tức là đạo tràng. Tuy ở ba cõi mà cứu giúp chúng sinh tâm không lười chán.

Hỷ là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát được vô lượng tâm chân vô duyên, phá tâm không vui hoạn nạn khắp pháp giới, hiển bày pháp thân chân hoan hỷ vẻ.

Xả là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát trụ vào địa không bình đẳng tức phá yêu ghét, hiển bày pháp thân chân hư không tức là đạo tràng. Tuy lợi ích chúng sinh nhưng tâm không lấy bỏ, tức là dứt hẳn yêu ghét.

Thần thông là đạo tràng, là pháp thường biến hóa. Sơ tâm liền được sáu căn thanh tịnh và chân Như ý thông, phá các căn chướng, làm thông suốt vô minh cấu, hiển bày sáu căn pháp tánh chân tịnh, tức là đạo tràng. Đây tức thành tựu sáu thông như ứng hóa vật.

Giải thoát là đạo tràng, do giải thoát mà thành thông, nên nay tiếp nói về minh. Kinh Địa Trì nói Bồ-tát được tất cả thiền, bèn ra khỏi biên hạn giải thoát của hàng Nhị thừa. Nếu sơ tâm nhập vào ba đế Tammuội, tức là hai mươi lăm Tam-muội, dẹp trừ tội cấu phiền não của hai mươi lăm hữu, hiển bày ngã chân tánh của hai mươi lăm hữu, tức là đạo tràng. Vì từ nhân ấy mà bội xã được ba cõi, nên được thành tựu tám giải thoát và hai mươi lăm Tam-muội.

Phương tiện là đạo tràng tức là khéo léo hóa tha. sơ tâm trong hữu, tức có phương tiện song chiếu hai đế, phá hằng sa vô minh, hiển bày các pháp môn phương tiện, tức là đạo tràng. Thường dùng ba luân hóa tam vật bất tư nghị, thị hiện quyền xảo giáo hóa tất cả chúng sinh.

Tứ nhiếp là đạo tràng, bốn nhiếp là pháp phương tiện hóa vật, như phẩm Phương Tiện đã giải thích là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để nhiếp giữ chúng sinh khiến họ giải thoát.

Xét theo đa văn tiến hành “Đa văn… không cố”, tuy là đầy đủ trí tự tha, nhưng Sự cần phải tiến tu, khiến thành Viên rốt ráo.

Đa văn là đạo tràng: sơ tâm Bồ-tát được nghe chân thật, giữ gìn các điều nghe biết Phật pháp mười phương, phá các vọng ám, đa văn hiển phát, tánh lìa văn tự, tức là đạo tràng. Vì hay tùy thuận làm đúng như nghe thấy.

Điều phục tâm là đạo tràng, kinh Anh Lạc nói: Từ sơ phát tâm đến kim cang đảnh đều gọi là phục nhẫn. Hàng sơ tâm viên phục vô minh, tiến đến hiển bày chân thật tức là đạo tràng. Một tâm ba quán tức là chánh quán các pháp.

Ba mươi bảy phẩm là đạo tràng, Bồ-tát sơ tâm được vô tác đạo phẩm, luôn dẹp trừ tám thứ điên đảo tất cả vọng hoặc, hiển bày pháp thân năm ấm pháp tánh, tiến tu giải thoát cho đến được Đại Niết-bàn tức là đạo tràng. Tứ đế nội giới, ba đế ngoại giới đều gọi là hữu vi mà bội xả vậy. Vô lượng diệt đế, vô tác đạo diệt tức là chân vô vi.

Đế là đạo tràng. Từ đây trở đi năm phen là cảnh sở quán của đạo phẩm. sơ tâm Bồ-tát luôn dùng đạo phẩm để thấy bốn thứ Tứ đế, đoạn dứt mê lý phiền não nội ngoại giới, hiển bày lý quyền thật tức là đạo tràng. Nói bốn thứ Tứ đế tức là Không lừa dối thế gian.

Duyên khởi là đạo tràng, quán mười hai nhân duyên có bốn thứ tướng. sơ tâm Bồ-tát luôn dùng vô tác đạo phẩm mà quán nhân duyên ở ba đạo, được ba thứ Bồ-đề, tức là đạo tràng. Nếu quán nhân duyên thấy ba Phật tánh tức vô tận.

Các phiền não là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát luôn dùng đạo phẩm quán ba cõi, không nhiễm hư ngụy, hiển bày Phật chân thật pháp, tức là đạo tràng. Cũng nên biết phiền não cho đến Phật pháp đều rốt ráo không.

Chúng sinh là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát luôn dùng đạo phẩm quán chín đạo chúng sinh đều không, không thấy có tướng chúng sinh thì vọng hoặc không khởi. Thấy chân tánh chúng sinh tức là Phật tánh, tức là đạo tràng. Nếu không thấy chúng sinh có tánh nhất định thì đối với ngã và vô ngã là Không hai, đó là nghĩa chân vô ngã.

Tất cả pháp là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát luôn dùng đạo phẩm quán tất cả ấm nhập… đều không, phá các điên đảo vọng hoặc trong các pháp, hiển bày năm ấm Phật tánh, được năm thứ Niết-bàn, tức là đạo tràng. Cũng nên biết các pháp và Niết-bàn đều không.

Xét theo hàng ma thuyết pháp mà nói nghĩa đạo tràng “Hàng ma… úy cố)

Bồ-tát quán hạnh thành tựu, nên thường chế phục các ma oán.

Hàng ma là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát hay hàng phục bốn ma cho đến tám ma, thấy ma giới như, tức Phật giới như, tức là đạo tràng. Luôn ở ma giới mà tâm không lay động.

Tam giới là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát không lìa tam giới, không đắm trước tam giới. Thấy ba đế ở tam giới thành Vương Tam-muội và hai mươi lăm Tam-muội, hiển bày tất cả Phật pháp, tức là đạo tràng.

Biết tam giới là Không, vốn không chỗ đến.

Sư tử hống là đạo tràng, sư tử hống gọi là nói quyết định. sơ tâm Bồ-tát luôn phá nghi hoặc, thấy các chúng sinh đều có Phật tánh, tức là đạo tràng. Bốn thứ bất khả thuyết, nói bốn thứ nhân quả, phó cơ lợi vật quyết định không sợ sệt.

Xét theo quả đức mà nói đạo tràng “lực Vô úy… trí cố”.

Lực vô úy Bất cộng pháp là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát thành tựu mười thứ trí lực như kinh Hoa Nghiêm nói, tức là quán Nhất thật đế, thường phá vô minh được lực vô úy bất cộng chân pháp tức là đạo tràng. Lực vô úy bất cộng tự hành không lầm lỗi, hóa tha được thích hợp tức không có các lỗi.

Tam minh là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát liền được ba minh thấu suốt sự lý ba đời không trở ngại.

Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát thấy lý Trung đạo tức luôn song chiếu hai đế, phá vô minh pháp giới, chân trí hiển bày, tức là đạo tràng. Tướng chung của sơ tâm khi tất cả trí thành thì cũng là Phật.

Một phen tóm kết nghĩa đạo tràng “Như thị … Phật pháp hỷ”. Nếu căn cứ theo ngài Tịnh Danh, như trên đã thành tựu các Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh, tùy việc đi đứng đều là trừ ngụy hiển chân, tức là từ đạo tràng mà đến, đâu có thể từ nơi Phật đắc đạo mà đến. Nếu theo sơ phát tâm trụ mà giải thích thì sơ tâm Bồ-tát dùng các Ba-la-mật để giáo hóa chúng sinh, trừ ngụy hiển chân, khi đi đứng đều quán thường ở hiện tiền, tức là từ trong đạo tràng đến. Cho đến Thập địa cũng như thế. Nếu căn cứ theo thập tín năm phẩm đệ tử mà giải thích thì: Nếu thường tu quán này, giáo hóa chúng sinh không mất chánh niệm, thì đi đứng đều là từ đạo tràng đến, đầy đủ tất cả Phật pháp. Như kinh Pháp Hoa nói: Nên biết người ấy đã đến đạo tràng.

Thời chúng được lợi ích “thuyết thị… Bồ-đề tâm”. Cả năm trăm Trời, người đều phát tâm Vô thượng đạo tức là trụ phát tâm.

* Kết lời không kham: Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Ngài Quang Nghiêm tự nghĩ lúc xưa đã mê chân đạo tràng, nhân ngài Tịnh Danh giải thích mà thần trí yếu kém đâu dám lãnh chỉ Phật đến thăm bệnh.

Phần 3

Chánh văn: “Phật bảo ngài Trì Thế Bồ-tát: Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật”,

Ba là: Phật sai Bồ tát Trí Thế. Văn có hai phần: Sai thăm bệnh và từ chối không kham.

– Sai thăm bệnh. Sở dĩ sai tiếp Bồ tát Trí Thế vì ngài là Bồ-tát xuất gia, cũng là pháp thân Đại sĩ nối ngôi tôn quý. Nói Trì Thế là hiểu nhớ không quên nên gọi là trì. Thế là nghĩa ngăn cách. Chân tâm thật tướng hiểu nhớ các pháp Không quên mất, nên gọi là Trì Thế. Trì có nhiều nghĩa tóm lược, có năm nghĩa:

  1. Giá trì.
  2. Tổng trì.
  3. Văn trì.
  4. Trụ trì.
  5. Nhậm trì.

Bốn giáo đều có năm thứ trì này nhưng ba quyền một thật. Nay căn cứ ở Viên giáo mà nói năm thứ trì:

– Giá trì: Bồ-tát được thật tướng chân minh thường ngăn chặn các phiền não pháp giới và các khổ báo sinh tử.

– Tổng trì, tất cả công đức muôn hạnh tự lợi lợi tha, như chén nước đầy không nứt nẻ rò rỉ.

– Văn trì, cả mười phương chư Phật nói pháp cho đến các ngôn từ của mười giới một lần nghe qua đều nhớ rõ, như mây giữ mưa không quên mất.

– Trụ trì, giữ gìn các pháp môn của mười phương chư Phật nối tiếp mãi không mất.

– Nhậm trì: Vô duyên đại từ gánh vác tất cả giữ gìn không buông bỏ.

Bồ-tát từ mới phát tâm, tâm như hư không không phải Thiên không phải Viên, mà luôn giữ được quyền thật, cho đến vị Pháp vân Đẳng giác. Ngài Trì Thế ở vị Bổ xứ, cả năm trì quyền thật đều rốt ráo, lẽ nào không biết ma Ba-tuần hóa thân làm Đế Thích, nhưng vì muốn khiến chúng sinh biết ma giới như và Phật giới như, nhất như không hai, cho nên lúc xưa đã thị hiện việc không biết ma, thị hiện việc chịu chê trách để khiến chúng sinh ngộ Phật tri kiến. Khai tức là chung, thị tức là riêng, chung riêng không hai tức là ngộ. Đây lại dựa vào sơ tâm mà không tìm cầu xa xôi, cho đến bậc Diệu giác cũng như thế. Trước chê trách các ngài Di-lặc, Quang Nghiêm đều phá cái báo hẹp trên quả, nên căn cứ Bồ-đề đạo tràng để chê trách tiếp các ngài Trì Thế và Thiện Đức thì đều là phá việc nhầm chấp về nhân. Cho nên căn cứ việc ma đến hội thí để chê trách.

Nay Phật sai tiếp ngài Trì Thế là nếu có kể việc chê trách xưa, sẽ khiến các Bồ-tát biết việc ma mà ngộ Phật tri kiến. Đại chúng đồng nghe liền thành năm lợi ích trước.

– Đáp lời không kham “Trì Thế…”. Văn có bốn:

  1. Đáp lời không kham.
  2. Nói lý do không kham.
  3. Kể việc không kham.
  4. Kết thành không kham.

– Đáp lời không kham: vì lúc xưa không biết ma biến làm Đế Thích, bị ngài Tịnh Danh chê trách, đâu dám truyền chỉ thăm bệnh.

– Nói lý do không kham: do không biết ma làm Đế Thích hiện đến. Văn có năm:

  1. Ở trong tịnh thất.
  2. Ma làm Đế Thích mà đến.
  3. Ma đến không biết.
  4. Ma lại cho ma nữ.
  5. Sợ kỳ lạ không nhận.

Ở trong tịnh that: ngài Trì Thế đang ở trong tịnh thất tránh ồn ào mà nhập định. Đó là pháp thân Đại sĩ đâu cần sinh thân vào đạo, hiện tích đồng phương tiện làm phép tắc cho mọi người để dẫn dắt mọi người tiến tu, nên ở trong tịnh thất thị hiện tu thiền định, lúc đó ma đến đứng một bên.

b. Ma hiện làm Đế Thích đến, sở dĩ hiện làm Đế Thích đến, vì Đế Thích là đệ tử Phật đã được Thánh đạo, lại là đàn-việt của Phật thường đến gần gũi. Ngài Trì Thế là Bồ-tát xuất gia thấy đàn-việt đến theo lý ắt phải thăm hỏi liền bị quấy loạn. Nay nói theo bốn giáo về biết ma không đồng:

– Bồ-tát của Tam tạng giáo do chưa lìa phiền não ma và ấm ma, chỉ quán hạnh hiểu biết chiết phục mà thôi. Bèn nhờ đây mà tu đạo. Nếu được thần thông, khi tác ý thì biết Thiên ma, không tác ý thì không biết. Nếu biết rồi dùng thần thông hàng phục, thì chưa thể phá hẳn được. Khi đến cội Bồ-đề trước liền hàng ma, sai khi ma rút lui thì ba mươi bốn tâm đoạn dứt các kiết, bốn ma và nội giới đều hết.

– Bồ-tát của Thông giáo kiến địa, đoạn từng phần kiến phiền não ma được năm phần pháp thân, từng phần đoạn trừ ấm ma. Đến địa thứ sáu thì không có các chánh sử thấm đẩm nghiệp, trừ hết ấm ma và tử ma giới nôi. Lại còn thệ nguyên giữ lại tập khí để, thọ sinh vào nội giới có ấm có tử, tuy có ấm tử nhưng không mất đạo. Đến địa thứ bảy thì dù có thần thông nhưng tác ý thì mới biết và phá được Thiên ma, không tác ý thì không biết và không phá được. Khi đến dưới cội Bồ-đề thì mới phá rốt ráo, một niệm tập hết, không phát thệ lưu tập khí thọ sinh, tức là bốn ma đã hết hẳn.

– Bồ tát Biệt giáo là Thập trụ nhập lý thiên Chân mà phá phiền não ma, ấm ma và tử ma. Bậc Thập hạnh được thần thông cũng phải tác ý mới biết Thiên ma, không tác ý thì không biết và không hàng phục được. Đến bậc Sơ địa thì được một thân và vô lượng thân, làm Phật trăm cõi, các tập ở nội giới đều dứt, các ấm tử thiên ma đều phá hết.

– Bồ tát Viên giáo thì năm phẩm đều phục trọn cả bốn ma, nếu vào Thập tín thì liền Viên đoạn tất cả, không cần tác ý tự biết ma đến. Đây là tóm tắt phân biệt việc phá các ma ấm… Nếu phá tám ma thường, vô thường… thì Bồ-tát của Tam tạng giáo chỉ chế phục bốn ma, khi đến đạo thọ mới phá hết. Nếu bậc kiến địa của Thông giáo và thập trụ của Biệt giáo thì dẹp trừ Thường, Lạc… bốn thứ. Thập hạnh, Thập hướng đã phục được vô thường… bốn thứ, Đăng Địa thì phần phá được vô thường… bốn thứ. Nhân tuy vô thường nhưng quả là thường, đầy đủ như trong Đại kinh Phật trả lời Phạm chí. Đến Thập địa ở Biệt giáo thì tám ma đều dứt. Bậc Sơ trụ của Viên giáo thì phá trọn cả tám ma, nội giới dứt hẳn. Nếu bốn thứ vô thường… ngoại giới, thì cho đến hậu tâm thì mới rốt ráo phá hết.

Hỏi: Ngài Trì Thế vì sao bị ma quấy nhiễu?

Đáp: Nếu luận về hiện tích phương tiện ở Bổ xứ thì lẽ nào lại không biết ma, có giáo không người không cần phải sát hạch. Chỉ vì nhờ các phương tiện giáo để làm phép tắc gương mẫu nên thị hiện là Không biết. Giải điều này có ba ý:

Một là, Phương tiện Bồ-tát chưa thể thấy ma và Phật nhất như. Phật giới thuộc lý còn ma giới thuộc sự. Các phương tiện giáo tuy đã vào chân lý nhưng không thể vô ngại ở sự lý. Đoạn kiết nhập chân bỏ sự vào lý. Như lúc người sợ thì hàng phi nhân được dịp, không thể thể nhập cùng Phật giới nhất như, do đó mà bị quấy nhiễu. Còn Đại sĩ Tịnh Danh thì hai giới không hai, thấu suốt vô ngại, không có lấy bỏ, nên biết được và hàng phục được.

Hai là, Các phương tiện giáo duyên tu chiếu tịch, có nhập và xuất quán, tác ý thì biết ma không tác ý thì không biết. Về Viên giáo chân tu thì không xuất nhập quán, luôn ở trong Tam-muội Tịch mà thường chiếu. Ngài Trì Thế dù ở trong tịnh thất nhưng vẫn chưa nhập quán không tác ý để soi chiếu, thế nên không biết, còn Đại sĩ Tịch Chiếu, nên luôn hay biết. Ví như người tu thiền không biết tà mị, phải nhờ gương sáng, nên dù quỷ mị mê hoặc mắt người, nhưng không thể biến nguyên hình ở gương được, ma Ba-tuần cũng thế. Chỉ có thể lừa dối duyên tu chưa nhập quán, mà không thể lừa dối chân tu tịch chiếu.

Ba là, Các người học phương tiện giáo nếu nhập quán thì biết ma, hoặc tạm thời hàng phục nhưng không thể ở cảnh giới mà vô ngại. Như người không thể điều phục được đệ tử hung ác thì bỏ đi không nhận. Cũng có người không bỏ lại dùng phương tiện điều phục cho thuần thục, theo đuổi khiến họ thành kẻ thuận thiện. Bồ-tát điều ma cũng thế. Không phải chỉ điều phục tâm ác khiến thành thiện mà cũng hay khiến họ phát tâm Bồ-đề, chứng Vô tận đăng, rộng hóa độ tất cả. Đối với Phật pháp chưa từng có tổn giảm, mà lại rộng nhiêu ích khắp chúng ma. Quyền giáo Bồ-tát thiếu ba nghĩa này nên bị ma nhiễu loạn. Nay ngài Trì Thế đang tịnh, bị ma hiện hình trời muốn quấy nhiễu. Ngài Trì Thế không biết nhân chướng mà nhập định. Còn Phật biết cơ hóa độ người thành đạo, ma biết người được đạo nên cũng đến phá hoại.

Ma đến không biết mà nói pháp cho nghe “ngã ý… kiên pháp”.

Nói “Thiện lai”, vì không biết là ma, cho đó là Đế Thích đến cầu thiện pháp nên khen là “Thiện lai.” Kiều-thi-ca vốn là họ người, lấy họ làm tên. Tuy phước đáng có, là phước cảm được quả báo vui giàu của Thiên vương nhưng không nên phóng túng không tu.

Phải quán năm dục vô thường để cầu gốc thiện. Nếu Tiểu thừa chỉ dùng vô thường làm gốc thiện xuất thế. Đại Luận nói Thiên vương luôn mê đắm năm dục, Phật nói cho nghe vô thường… Mười lăm thứ quán, để phá hết dục, liền khiến chuyển giáo. Ngài Trì Thế cho đó là Thiên vương nên khuyên quán vô thường để lìa dục, đối với thân mạng tài mà tu pháp kiên cốcó pháp. Tam kiên cố có năm thứ:

Một là, Ba kiên cố của thế gian: không đánh đập mà ban ân tuệ nên được thân kiên cố ở vị lai; do phóng sinh cấm sát nên được mạng kiên cố ở vị lai, do trực tâm bố thí nên được tài kiên cố ở vị lai. Nên khiến Thiên đế quán vô thường. Quả báo trời không lâu dài, nên phải gieo trồng nghiệp kiên cố ở vị lai.

Hai là, Kinh Thanh Văn nói tu ba kiên cố, là nếu quán vô thường thì được năm phần pháp thân, vô lậu tuệ mạng và thất Thánh tài. Không thể bị tổn hại nên gọi là kiên. Bồ-tát vì chúng sinh vì Phật pháp mà hy sinh thân mạng không chút luyến tiếc, thì báo đẹp được ba kiên cố thế gian, sau khi thành Phật mới được ba kiên cố, đại thể đồng với Thanh văn.

Ba là, Theo Thông giáo thì quán ba kiên cố không sinh không diệt, phiền não sinh tử Thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại.

Bốn là, Biệt giáo thì bậc Đăng địa lìa sinh tử nội ngoại giới, pháp thân hiển bày gọi là thân kiên cố; Bát-nhã tuệ mạng trọn không đoạn mất tức là mạng kiên; muôn thiện pháp tài không bị cướp đoạt tức là tiền của kiên cố.

Năm là Viên giáo nói bỏ thân mạng tài đều suốt cùng sinh tử kiếp sau, lìa bỏ lão bệnh tử được thường trụ bất hoại. Tất cả pháp đến thân mạng tài cũng là ba đức kiên cố .

Ngài Trì Thế lầm vì Thiên vương nói pháp năm thứ ba kiên cố chưa biết nói như thế nào.

Nói ma thí ma nữ “tức ngữ… tảo sái”, ma biến hình làm Đế Thích đã bỏ thiền tâm lại hiến dâng ma nữ để lại quấy nhiễu. Trước hiện thân Đế Thích là giặc yếu nhập vào, nay đem ma nữ dâng hiến để trái tình là giặc mạnh lại nhập, hai loại giặc cướp này quấy hại tâm. Trì Thế không biết là đã bị ma nhiễu hại.

Nói Trì Thế thấy quái lạ không nhận ““Ta nói”… “trái phép ta”“. Nữ là cảnh phi pháp đâu được cưỡng dâng cho nên nói: Chớ đem vật phi pháp này dâng cho ta. Sa-môn là bậc phạm hạnh thanh khiết, không được nhận vật ô nhiễm phi pháp cúng dường, nên nói không hợp với ta.

* Kể việc bị chê trách nên không kham “Sở ngôn…”. Văn có tám:

  1. Ngài Tịnh Danh cảnh tỉnh ngài Trì Thế.
  2. Tịnh Danh đến ma đòi ma nữ.
  3. Ma sợ hãi muốn đi.
  4. Tiếng trên không khuyên bỏ.
  5. Ma bỏ ma nữ.
  6. Đại sĩ nói pháp cho ma nữ.
  7. Ma xin lại ma nữ.
  8. Đại sĩ trả lại ma nữ.

Ngài Tịnh Danh cảnh tỉnh: Vì ngài Trì Thế không thể tự tỉnh giác bởi duyên tu không tới nơi, nên bị ma huyễn hoặc mà không biết. Đại sĩ ngộ Phật tri kiến, tự ngộ ngộ tha, soi chiếu cùng tột, nên có thể phát giác được ma huyễn hoặc, chỉ rõ phải quấy. Trước chỉ rõ ma muốn phá chánh đạo nên nói: “Ma vây chặt quấy nhiễu ông”.

Ngài Tịnh Danh đòi ma nữ “tức ngữ… ưng thọ): Như ta đáng thọ nhận. Đây có hai ý:

  1. Ta là người thế tục nhận thì không hại gì.
  2. Viên hạnh Đại sĩ thấu suốt cội nguồn của sắc, trái hay thuận, mạnh hay yếu đều là Chánh đạo, không hại gì nên nói: “Như ta đáng thọ nhận”.

Ma sợ muốn đi “ma tức… đắc khứ”. Vốn khinh ngài Trì Thế việc phá hoại sắp thành bỗng gặp ngài Tịnh Danh phát hiện sự giả trá, lại biết không thể đối địch, đành phải chịu nhục, thế nên kinh sợ. Muốn ẩn hình biến đi nhưng cố hết thần lực cũng không đi được. Vì ma tuy có thần lực nhưng không bằng pháp thân Đại sĩ có năng dụng không cần mưu cầu, nên cố hết sức vẫn không đi được.

Tiếng trên không trung khuyên bỏ: “Tức văn… đắc khứ”, tiếng trên không trung. Quan Hà xưa có giải rằng: Bồ-tát hóa độ ma này, nhân căn cơ mà trợ giúp: Trước đây ngươi muốn hiến dâng cho ngài Trì Thế, nay ngài Tịnh Danh xin sao lại không cho. Cho thời không trái với bổn tâm thì mới có thể đi được. Hoặc là ngài Tịnh Danh phát tiếng nói trên không trung để điều phục ma, hoặc là tiếng nói của Pháp thân Tỳlô-giá-na Đức Thích-ca, như Phổ Hiền Quán đã nói. Ma vì sợ nên gắng gượng kính cho.

Ma đã bỏ ma nữ, nhưng không thể tự ẩn đi. Tiếng trên không lại khuyên ma nên tự niệm nhớ, nếu không dâng nạp các ma nữ e càng bị nhục. Sợ không nhận nên lại xin dâng nạp.

Nhận ma nữ và nói pháp để điều phục tâm ma “Bấy giờ trở đi”. Thế nên nhận các ma nữ, để lợi ích cho họ nên cần nói pháp. Văn có hai: Một là Khuyên phát tâm. Hai là Khuyên tu hành.

Phát tâm là mắt, tu hành là chân. Mắt chân đầy đủ nên vào được ao Thanh lương. Do đó trước khuyên phát tâm, sau khuyên tu hành. Như ứng hiện nói pháp, là tùy bốn căn duyên khiến đều phát tâm.

Từ “các ngươi…) là khuyên tu hành, tuy đã phát tâm cần phải tu hành thay cho nguyện suông, nên khuyên tu hành Bồ-tát pháp lạc.

Vì để phá dục lạc, nên nói pháp lạc, khiến ma tu tập. Văn đây lại có ba phần nhỏ: Khuyên tu pháp lạc. Thiên nữ thỉnh hỏi. Tịnh Danh đáp.

Khuyên tu, như văn.

Thiên nữ liền hỏi: Sao gọi là pháp lạc là Thiên nữ hỏi. Thiên nữ ở cung ma nhận được dục lạc thế tục, không nghe nói pháp lạc thanh tịnh xuất thế. Nay nghe chưa hiểu nên hỏi.

Tịnh Danh đáp “đáp rằng…”: Pháp lạc là tất cả ham muốn thiện pháp là gốc của nó, nếu có ham thích thì là vui. Như người yêu kính nghĩ đến cha mẹ thân thích thì lấy đó làm vui. Nếu là đệ tử Phật thì lấy Phật thay cha, lấy Pháp thay mẹ, lấy Tăng thay cho thân thuộc, lấy hạnh thay cho tài sản, cái vui sâu sắc đó là pháp lạc xuất thế. Văn có năm: Một là, Vui quy y Tam bảo. Hai là, Vui lìa bỏ Tập đế. Ba là, Vui quán Khổ đế. Bốn là, Vui tu Đạo đế. Năm là Kết thành pháp lạc.

Nếu hay như thế chẳng những trong nhân liền được pháp lạc mà sau này lại được cứu cánh thường, lạc của Diệt đế Niết-bàn.

Vui quy y Tam bảo, Tam bảo của bốn giáo, tùy chỗ tin vui tức là pháp lạc, vui lìa ngũ dục.

Vui lìa bỏ Tập đế. Tập cần nên là đoạn, nên nói vui lìa ngũ dục. Kinh Pháp Hoa nói: Các khổ đều do tham dục làm gốc, nên biết ngũ dục tức là tập vậy. Như người bệnh hết liền được an lạc. Nếu lìa ngũ dục tức được pháp lạc. Việc lìa tập tùy cơ của bốn giáo không đồng. Chỉ lúc đầu chê trách Thiên nữ mê đắm năm dục lạc là dùng nhiều về Tam tạng giáo.

Ba, Vui quán Khổ đế “Lạc quán… không tụ”, nếu không có lạc quán thì là bị khổ làm khổ, đâu có pháp lạc. Nếu hay quán thì liền được quán trí chân pháp lạc. Quán khổ của bốn giáo tùy căn đem dùng.

Khuyên tu Đạo đế: “lạc tùy hộ…”. Văn có ba:

  1. Tu hạnh gốc.
  2. Chánh hạnh.
  3. Biến hạnh.

Tu hạnh gốc là vui tùy ý hộ đạo, đây là khuyên tự làm thiện, khéo hộ trì đạo tâm thì đạo tâm không hư hoại. Lấy đạo tự vui tức là pháp lạc. Thích làm lợi ích chúng sinh, tức là khuyên hóa tha. Như cha mẹ thấy con lìa khổ được vui thì cha mẹ cũng vui. Ưa thích kính dưỡng thầy, là bỏ cha theo thầy, thầy giúp thành đức tốt. Kính thầy và đạo pháp thấm vui, với Thần vi tức là pháp lạc. Biết ân kính dưỡng, báo đức thỏa lòng cũng là pháp lạc. Ấy là trong tu tự hành hóa tha, ngoài có Minh sư dắt dẫn, nhân duyên đầy đủ, không hạnh nào không thành, chỗ mong cầu đều xứng ý, tức là pháp lạc.

Nói chánh hạnh của Bồ-tát “Lạc quảng… Minh Tuệ”, Lục độ là tông chỉ chung của các hạnh, bốn giáo đều tu để cầu Bồ-đề nhưng giáo

môn không đồng, nên có sinh diệt… Tứ đế, như trong Phẩm Phật Quốc khen đức của Bồ-tát và hạnh Tịnh độ đã giải thích đầy đủ. Chỉ ngài Tịnh Danh tùy ứng mà nói, cốt mong các Thiên nữ chỗ ra làm đều tùy được vui, đạo vị thấm trí, xứng tâm thỏa ý đều gọi là pháp lạc.

Nói về biến hạnh “Lạc quảng chi pháp”. Hạnh có hai thứ là chung và riêng. Chung là sáu pháp Ba-la-mật. Riêng là trải khắp muôn hạnh. Nay khuyên các thiên nữ làm khắp muôn hạnh mà tóm tắt nêu ra vài điều để làm tướng pháp lạc. Lại còn, nếu làm một hạnh thì hạnh nào không thuộc. Vui thích mở rộng tâm Bồ-đề tức là hoằng thệ, ắt khiến biến khắp nên gọi là rộng. Từ lúc đầu phát hoằng thệ cho đến vô tác, tức là nghĩa thêm rộng. Đạo cao quý tăng trưởng, pháp vị đổi mới tức là pháp lạc.

Vui hàng phục các ma, như tâm bình thắng oán thù thì tất vui sướng. Vui đoạn các phiền não. Bệnh phiền não hành tức là Niết-bàn.

Vui cõi Phật thanh tịnh, nghĩa cõi Phật thanh tịnh như trước đã nói. Như nhà cửa ở đời cần nên sửa sang cho sạch đẹp, chủ khách nhìn vào tất vui vẻ.

Vui thành tựu tướng hảo, nên tu các công đức. Như người tự tại thoải mái tất hình nghi đoan chánh, trong có đức tốt liền vui sướng.

Vui nghiêm đạo tràng. Về đạo tràng của bốn giáo đã giải thích rõ trong phần ngài Quang Nghiêm. Đây là trừ ngụy hiển chân, chân hiển thị thì ngụy diệt, tất sẽ vui mừng.

Vui nghe pháp sâu không sợ, tuy mỗi thứ đều có pháp sâu nhưng thiên chân của Tạng Thông thì chưa lấy làm sâu. Biệt viên thì viên trực mới là pháp sâu khó đạt đến đáy. Nếu người sợ sệt tâm sẽ kinh nghi, nên khổ mà không vui. Nếu nghe mà không sợ thì ham thích cầu mong được vui chân thường. Nhưng vui ở ba môn giải thoát, không vui phi thời. Về ba giải thoát môn của bốn giáo, hai thứ trước có thời và phi thời. Phi thời tức là Nhị thừa, còn thời là Bồ-tát. Lại còn, hai thứ Bồ-tát trước cũng là phi thời. Biệt và Viên giáo quán Trung đạo, tu ba giải thoát môn tức là thời. Biệt so với Viên lại là phi thời. Riêng Viên giáo mới chính là chân thời. Vì sao? Vì các giáo hạnh phương tiện không phải chứng thời, nếu muốn lấy chứng thì đều là phi thời. Nếu thời mà cầu thì liền được chân rốt ráo ba giải thoát môn, tức là chân pháp lạc.

Vui gần và đẳng, thì bốn giáo mỗi thứ đều có đồng học thân cận, đồng tu hòa đồng được khen thưởng tức là pháp lạc. Nếu ở phàm phu Tiểu thừa thì không phải đồng hành. Nếu tâm có sân khuể chướng ngại thì phá hư chân pháp lạc. Nếu tâm không có sân khuể chướng ngại lại hay tùy hỷ những việc cao hơn thì lại được pháp lạc tùy hỷ.

Vui hộ trì ác tri thức, nếu không hộ trì ý người ấy tất họ phá hoại pháp lạc, nếu hay đem điều thiện hộ trì thì ác tâm họ không sinh, không đến nổi phá hư các nội thiện pháp lạc, luôn được an ổn tồn tại.

Vui gần Thiện tri thức. Thiện tri thức là người hay chỉ bày giáo pháp tạo niềm vui, tạo nên pháp lạc cho người.

Vui tâm hỷ thanh tịnh, Đại tập có nói như biết đúng thật, biết nhiều tâm động hoàn toàn là hỷ. Biết đúng thật, biết nhiều tức là chân pháp lạc. Tâm động hoàn toàn gọi là tịnh pháp lạc.

Vui tu vô lượng pháp đạo phẩm. Đạo phẩm của bốn giáo, nếu ở tâm Bồ-tát để hóa độ chúng sinh đều gọi là vô lượng. Sở dĩ nói đạo phẩm gọi là pháp lạc, là như kinh Pháp Hoa nói: “Có căn, lực, giác, đạo vô lậu liền được vô lượng an ổn vui vẻ”, hàng Nhị thừa còn được thế, huống là Bồ-tát. Nhưng chỉ phân biệt vô lượng đạo phẩm, mở nghĩa bốn giáo lấy bỏ khó hiểu. Đó là căn cứ pháp lạc của Bồ-tát.

Năm, Kết thành pháp lạc. Nếu Bồ-tát có tâm ham thích tu các pháp này thì đều là pháp lạc. Chỉ lược nêu ra một thứ, các thứ khác đều là pháp lạc. Như người tự hành nghe kinh, học tập thiền tọa… tâm vui liền vui, nếu tâm không vui liền sinh khổ thọ.

Ma khuyên Thiên nữ về cung: “Do đó…”. Văn có ba: Một là Ma khuyên Thiên nữ. Hai là, Thiên nữ thích pháp lạc không trở về. Ba là, Ma đến xin Thiên nữ. Đều như văn nói.

Ngài Tịnh Danh trả lại Thiên nữ: “Duy-ma-cật…”. Đây có bốn: Một là Tịnh Danh trả các Thiên nữ. Hai là, Các Thiên nữ thỉnh pháp muốn trở về. Ba là, Ngài Tịnh Danh nói Vô tận pháp môn. Bốn là,Các Thiên nữ chí kính ra đi.

Ngài Tịnh Danh trả Thiên nữ: Đại sĩ vốn thường tu xả hạnh, chính để điều phục ma, nên nói “như ta đáng nhận lãnh.” Điều phục ma xong thì các Thiên nữ phát tâm nên thả trở về ma cung lại hay rộng giáo hóa nên trả lại cho ma. Khiến tất cả chúng sinh đều được pháp nguyện đầy đủ. Trả về liền mãn nguyện, nhân đó mà lập nguyện khiến cầu pháp, là đều được pháp nguyện đầy đủ.

Các Thiên nữ thỉnh pháp muốn trở về “Ư thị… ma cung”. Đệ tử riêng thờ thầy là cần thưa hỏi và xin được dạy bảo những điều cần làm.

Nói cho pháp môn Vô tận đăng “Duy-ma… chúng sinh”. Bồ-tát của bốn giáo đều có pháp môn này, chỉ có rốt ráo hay không rốt ráo mà thôi. Về Tạng Thông do hôi đoạn thì quả có dứt hết mà trong nhân được truyền hóa đến quả, tuy đã nhập Niết-bàn, nhưng vẫn lần lượt thọ ký, nên giáo pháp Phật không dứt mất. Đây là làm vô tận Hữu tận đăng. Trong Biệt viên thì thấy biết tất cả pháp như không vô tận, trí cũng vô tận. Tự mình bất khả tận mà hóa tha cũng thế. Ví Như có hai cái đèn, một cái dầu ít ngọn lửa nhỏ, một cái dầu nhiều ngọn lửa to. Dầu nhiều ngọn lửa to vốn là Bất tận đăng, đốt mồi các đèn khác cũng không thể dứt. Ngài Tịnh Danh dùng pháp môn này để chuyển độ người khác. Lại khiến cho cả trăm ngàn người khác đều phát tâm mà không tổn hại chi ngọn đèn gốc, nên lấy đó làm dụ. Ấy thời ngầm biết, là tất cả đều sáng mãi trọn không dứt mất. Khiến các chúng sinh nối giòng Pháp vương, tức là hay báo đền ân pháp làm lợi ích cho tất cả.

Bốn, “Nhĩ thời… bất hiện” Thiên nữ thọ giáo chí kính rồi trở về cung, như văn.

* Kết thành không kham “Thế Tôn…”. Ngài Tịnh Danh có thần lực này, là tịch chiếu tri kiến đều phục ma tự tại. Trí tuệ biện tài, là nói pháp lạc và Vô Tận Đăng. Ngài Trì Thế tự nghĩ lúc xưa không bằng ngài, đâu dám lãnh ý đến thăm bệnh.

Chánh văn: Phật bảo Trưởng giả tử Thiện đắc.

Bốn là sai Thiện đắc. Văn có hai phần: Phật sai thăm bệnh và Từ chối không kham.

Sai thăm bệnh, sở dĩ sai tiếp ngài Thiện đắc, vì ngài là Bồ-tát tại gia, là một trong số năm trăm người, cũng là pháp thân thị hiện ở vị bổ xứ. Sở dĩ gọi là Thiện đắc, thiện là khéo léo, đắc là được lý, khéo léo được lý nên gọi là Thiện đắc. Nhưng xét theo giáo thì không đồng.

Theo Tam tạng giáo thì Nhị thừa tự khéo léo được lý, nhưng không có thể đoạn tập, còn Duyên giác đoạn tập không hết nên không phải nghĩa Thiện đắc. Bồ-tát thì không thế. Ý luôn cứu giúp tất cả để đạt quả được lý, các chánh tập đều hết nên gọi Thiện đắc.

Theo Thông giáo, thì giáo trước tích không đạt được lý, ba thừa đều không phải Thiện đắc, giáo này thể chân tức là khéo độ, ba thừa thảy đều là lý Thiện đắc Đệ nhất nghĩa. Chỉ Nhị thừa không có Bi, liền nhập Niết-bàn nên không gọi là Thiện đắc. Bồ-tát được lý thì rộng lợi ích quần sinh đạt đến tận cùng, đạt đến quả Phật, tập khí đều dứt, nên gọi là Thiện đắc.

Theo Biệt giáo, thì Thông giáo thiên chân đâu thể gọi là Thiện đắc. Giáo này được chân, không trụ ở tu hằng hà sa Phật pháp, đoạn hết biệt hoặc, thấy lý Trung đạo, bèn gọi là Thiện đắc.

Theo Viên giáo thì Biệt giáo duyên tu đâu thể gọi là Thiện đắc.

Một tâm ba quán năm nhãn đầy đủ, viên chiếu pháp giới, viên thành ba đức, rốt ráo Niết-bàn, đó là chân Thiện đắc. Thế thì không đắc mà đắc. Đắc vô sở đắc nên gọi là Thiện đắc là ba quyền một thật. Nay Trưởng giả tử khéo biết không phải quyền không phải thật mà luôn thành tựu được quyền thật Thiện đắc. Do đây mà hóa vật, tự lợi lợi tha, nhập Phật tri kiến, nên gọi là Thiện đắc. Nghĩa này đã thế, đâu lại đáp là Không biết hội pháp thí nên bị ngài Tịnh Danh chê trách. Nhưng chỉ là dùng chày cối để thành vật mà hiển bày nhập Phật tri kiến. Vì sao biết được? Nay sai thăm bệnh là lấy bốn nghĩa này. Ba nghĩa trước là hiển bày ba nghĩa khai, thị ngộ ở sơ tâm. Nay sai ngài Thiện đắc là muốn chỉ bày đạo nhập Phật tri kiến. Trước ngài Trì Thế, là chỉ cho biết chính nói ma như không khác Phật như. Nay là hiển bày việc vào hội pháp thí không có trước sau, cùng một lúc bình đẳng thí, tức là Không hai mà hai. Đạo quán song lưu, nên nhận chuỗi anh lạc phân làm hai phần, một phần dâng ngài Nan-thắng, một phần cho người ăn xin, tức là hội bình đẳng pháp thí. Lại căn cứ theo sơ tâm chớ cầu xa xôi. Thuở xưa phá hội tài thí bảy ngày, tức là mượn ý để phá người học Ba giáo chưa vào Trung đạo, bao nhiêu đàn thí không phải là hội pháp thí. Nay sai thăm bệnh, nếu thuật lại việc bị chê trách xưa, thì đại chúng đều được khắp nghe về học phương tiện, và đều hỗ thẹn mà cầu chân pháp thí, tức là thành tựu được năm thứ lợi ích trước.

– Từ chối không kham “Thiện đắc…”. Văn có bốn:

  1. Từ chối không kham.
  2. Kể lý do không kham.
  3. Chính kể việc bị chê trách.
  4. Kết không kham.

– Từ chối không kham, vì thuở xưa lập hội thí bảy ngày, nhưng không phải là hội pháp thí không lợi ích vật, đến nỗi bị chê trách, nên không kham truyền chỉ Phật đến thăm bệnh.

– Nói lý do không kham “Sở dĩ… bảy ngày”. Do ở tại nhà cha lập hội đại thí cúng dường tất cả, thời hạn bảy ngày, nhưng không biết pháp thí. Nói nhà cha là chỗ ở của tổ phụ. Lập hội đại thí, thì Quan Hà cựu giải nói rằng: Nhà Tổ phụ có tà kiến nhiều đời luôn tu theo cúng tế tà. Tế nhỏ thì dùng dê, tế vừa dùng trâu, tế lớn thì dùng người. Thiện đắc giáo hóa dẹp bỏ được thờ cúng tà này, khuyên tu chánh đạo là chân đàn thí. Nhà ông rất giàu tứ sự đều dư giả, nên lập đại hội thí này, cúng dường cho tất cả hàng xuất gia, tại gia, nội đạo hay ngoại đạo và cho kẻ ăn xin hèn kém nhất, cung cấp đầy đủ không phân biệt các thứ cần dùng suốt cả bảy ngày. Nhưng hội thí là đàn. Xét theo bốn giáo là:

Theo Tam tạng giáo là thường bỏ tài vật cho đến thân mạng, mới thành Đàn độ (Bố thí độ). Như vua Thi-tỳ chết thay cho chim câu không hề hối hận.

Theo Thông giáo, nếu chỉ buông bỏ tất cả thì chỉ là đàn mà không phải độ. Hiểu rõ ba việc đều không “người thí, của thí, người nhận) có gì thí nấy mới là đàn là độ.

Theo Biệt giáo, tuy ba việc đều không, thì vẫn là Đàn mà không phải độ. Hay độ Biệt hoặc, đến được Đại Niết-bàn, luôn phân biệt thí có vô lượng tướng, phó cơ độ vật thì mới là Đàn là độ.

Theo Viên giáo, trước tuy đã phá Biệt hoặc, tùy cơ mà thí, nhưng vẫn là Đàn chưa phải độ, vì không phải rốt ráo. Nếu biết tất cả hướng đến, đàn không ngoài thú, mà đàn còn không thể được, sao còn có hướng đến không hướng đến, tức là Đàn độ vậy. Vì sao? Vì là đàn rốt ráo thấu suốt các pháp vậy. Ba quyền một thật, thật là hội pháp thí. Ngài Thiện đắc thị hiện phương tiện làm ba thứ trước, không hiểu đàn độ rốt ráo của Viên giáo là hội pháp thí, cho nên bị chê trách. Nguyên do không kham là do đây.

* Kể việc bị chê trách “Thời Duy-ma…”. Văn có sáu: a) Chánh chê trách.

  1. Thiện đắc thưa hỏi.
  2. Tịnh Danh lược nói.
  3. Thiện đắc lại hỏi.
  4. Tịnh Danh lại nói rộng.
  5. Thời chúng được lợi ích.

Chánh chê trách. Thiện đắc tuy có đại hội tài thí nhưng không biết trong tài có pháp thí, nên không phải pháp thí. Do đó trước chê trách sau khuyên. Trước chê trách là Không thấy trong tài có tất cả Phật pháp, đâu gọi là đại thí. Sau khuyên là khuyên tu đại hội pháp thí.

Hỏi: Hội pháp thí là nói pháp làm hội thí hay trong tài có đủ tất cả pháp, vì khi tài thí tức là hội pháp thí?

Đáp: Đầy đủ cả hai nghĩa. Kinh luận đã nói nhiều, cho tiền của là tài thí, nói pháp là pháp thí, đây là cách chung về hai thí của bốn giáo. Nay đạo Viên thông bất tư nghị không phải chỉ nói pháp mới là pháp thí. Trong tài thí đã đầy đủ tất cả Phật pháp để thí cho chúng sinh. Khi làm tài thí này tức là pháp thí, như ngài Vô Tận Ý cởi chuỗi anh lạc ở cổ để thí cho ngài Quán Thế Âm và bảo rằng: “Nên nhận chuổi ngọc trân bảo pháp thí này.” Chỉ thí chuỗi anh lạc mà nói là pháp thí, tức trong chuỗi anh lạc có đầy đủ Phật pháp, khi thí chuỗi anh lạc tức là pháp thí. Nay ngài Tịnh Danh nói: “Không trước không sau cùng lúc cúng dường tất cả chúng sinh gọi là hội pháp thí.” Đây như trên đã chê trách ngài Ca-diếp: “Dùng một bữa ăn mà bố thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và chúng Thánh hiền.” Nay nhận chuỗi anh lạc phân làm hai phần, một phần dâng lên Đức Như Lai Nan Thắng, một phần thí cho kẻ ăn xin thấp hèn nhất, mà nói rằng nếu thí chủ tâm bình đẳng thí cho một người ăn xin thấp hèn kém nhất cũng xem như tướng phước điền của Như Lai không thể phân biệt, đồng với đại bi không cầu quả báo, ấy là cũng đầy đủ pháp thí. Do đây mà nói đâu cần phải nói pháp. Nay văn chính là ước tài thí có đầy đủ Phật pháp tức là hội pháp thí. Vì sao? Vì tài thí tức là năm trần. Đại Phẩm nói: Tất cả hướng đến sắc cho đến thú phi thú thinh… cũng thế. Nếu hay thấu suốt trong tài thí có pháp thí, thì từ bi thệ nguyện phước trí huân tu, dùng thứ tài thí này tùy như trước mà được. Như bỏ chất độc vào sữa nghe tiếng trống độc gần xa đều chết. Như đây mà thí thì không phải chỉ người thọ nhận trong bảy ngày được lợi, mà tất cả đều có ích. Thiện đắc không hiểu, nên bị chê trách rằng:

Đáng làm hội pháp thí sao lại làm hội tài thí.

Hỏi: Chỉ có Viên giáo là có pháp thí, ba thứ kia cũng có vậy?

Đáp: Đối với Đàn mà ước quán thì cũng có nghĩa này, nhưng không phải Viên khắp. Lại phương tiện giáo môn ẩn hiện, chưa ắt là nói nghĩa này. Nên ngài Tịnh Danh dùng thí Viên giáo để hiển bày nhập Phật tri kiến, thấu suốt vô ngại mà mượn việc chê trách ngài Thiện đắc, khiến thời chúng vốn theo phương tiện giáo hiểu rõ tài thí này mà thành tựu pháp thí.

Thiện đắc xin nói: “ngã ngôn… chi hội”. Sở dĩ xin nói, Thiện đắc đâu không biết nói pháp mà là pháp thí, chỉ sợ ý ngài Tịnh Danh có gì sâu sắc hơn nên xin nói.

Ngài Tịnh Danh lược đáp: “pháp thí… chi hội”. hội pháp thí là Không trước không sau. Đây tức là quán thí sắc… tất cả sắc hướng đến tức là trong sắc có đủ pháp của mười giới gọi là pháp, dùng thứ này mà cúng thí Phật tức là pháp thí. Như châu Như ý đầy đủ tất cả báu. Không phân biệt, là chỉ có người thí bà người nhận là khác. Đây như viên giáo, nếu người thí và người nhận đều biết đủ các báu thì đây như Ba giáo. Nên Đại kinh nói: Có hai loại người được phước lợi lớn: Một là, đúng pháp mà thí, hai là, đúng pháp mà nhận. Đây tức là hội pháp thí. Không trước không sau, là bờ mé trước tức sinh tử, lục đạo chúng sinh. Bờ mé sau tức Niết-bàn, bốn thứ Thánh nhân. Nếu quán ba việc “người thí của thí người nhận) là nhất như không hai đều là Trung đạo, là Không có bờ mé trước sau, cùng lúc cúng dường tất cả chúng sinh, đó gọi là hội pháp thí. Ở giữa không phải hai biên mà hay song chiếu sáu đạo bốn Thánh. Mười thứ này khắp nhiếp tất cả chúng sinh. Bồ-tát nhân thí một sắc thì khiến tất cả chúng sinh đều thấy được Trung đạo. Tức là đại sự nhân duyên vì khiến tất cả chúng sinh khai thị ngộ nhập, nên nói thí tất cả. Lại còn, nếu chúng sinh nào chưa được lợi lớn thì do căn duyên mình đều được pháp lợi, nên gọi là thí tất cả. Ấy là Không phải quyền không phải thật, mà hay quyền hay thật song chiếu cả hai thí, tâm tâm vắng lặng, nhập Phật tri kiến, đó gọi là hội pháp thí.

Thiện đắc lại hỏi, sở dĩ lại hỏi, là ngài Tịnh Danh lược đáp tóm nói nghĩa sâu sắc, tuy chỉ bày việc pháp thí ý rất rõ ràng, nhưng vẫn chưa hiểu. Lại hiện tích chưa ngộ để khiến thời chúng khắp nghe mà được hiểu rõ lợi ích của pháp thí.

Ngài Tịnh Danh lại đáp “vị dĩ…”. Nói rộng pháp thí có ba mươi hai việc, không thứ nào không ước trong tài có pháp. Nếu lìa tài thì trong tài không có pháp, gồm nhiếp pháp bất tận. Tất cả hướng đến đàn sao chỉ có ba mươi hai thứ, đây chỉ là lược nói mà thôi. Do đó trong tài có đủ muôn hạnh, đem thứ này mà thí thì người nhận tài liền nhận được tất cả pháp. Năm trần cũng đều thế, như tên độc tẩm thuốc, bất cứ vào đâu, chất thuốc độc sẽ phát tán giết chết người. Quán pháp vào tài, tùy thí cho mọi người, sáu căn nhận thí thì pháp liền vào. Như Đại kinh nói: Cho chất độc vào sữa biến khắp năm vị đều hay giết chết người. Chúng sinh thọ nhận tài, quán pháp thấm đượm, để làm thiện căn. Sau nếu gặp Phật khai phát thiện đời trước, thì liền được ngộ. Như chất độc phát tán giết người. Nếu tài thì không đủ pháp tài cùng thí, thì lợi ích bé nhỏ không nhập đạo duyên. Văn có năm:

  1. Căn cứ bốn đẳng.
  2. Căn cứ lục độ.
  3. Căn cứ ba thoát.
  4. Căn cứ các hạnh.
  5. Kết thành pháp thí.

Căn cứ bốn đẳng, đây là hoài bão lợi vật của Bồ-tát, nghĩa là vì Bồ-đề mà khởi từ tâm. Đoạn văn trên có nói: tịch diệt là Bồ-đề. Nếu quán tài hướng đến rốt ráo tịch diệt, tức là chân Bồ-đề mà khởi Vô duyên đại từ như nam châm hút sắt, cho vui Đại Niết-bàn. Vì cứu chúng sinh mà khởi tâm đại bi. Tất cả chúng sinh đều vì hai biên mà chìm đắm trong biển khổ. Nếu quán tài này lìa bỏ hai biên, tức là Vô duyên đại bi cứu khổ hai biên.

Vì giữ gìn chánh pháp mà khởi tâm hỷ. Chánh pháp là lý nhất thật, nếu thấy lý này, tức là đầy đủ chánh pháp. Pháp này hay khiến lìa khổ hai biên, được Đại Niết-bàn, thành tựu vô duyên đại hỷ.

Vì nhiếp giữ trí tuệ mà khởi tâm xả. Nếu quán ba việc thấy lý ba đế Phật tánh hư không, tức là nhiếp ba trí, không thí không thọ nhận. Biết bốn bất khả thuyết, bình đẳng chân pháp giới Phật không độ chúng sinh, tuy lại cứu khổ ban vui, tâm không phân biệt, không chấp giữ ân nghĩa với vật, tức là vô duyên đại xả.

Căn cứ lục Độ “dĩ nhiếp… Ba-la-mật”. Vì nhiếp giữ xan tham mà khởi Đàn Ba-la-mật. Quán ba việc thấy Trung đạo, lìa bỏ hai biên, không xan tham, cũng không bố thí, gọi là chân đàn. Vì nhiếp năm thứ xan tham mà khởi năm thứ đàn. Bốn quyền một thật, nhiếp chúng sinh như phần khen đức của ngài Tịnh Danh trước đã tóm tắt phân biệt.

Vì hóa độ việc phạm cấm mà khởi Thi-la. Bồ-tát ra làm thấy Đế Nhất thật liền quên trì phạm, đó là chân Thi-la. Vì hóa độ chúng sinh mà nói về đàn.

Vì pháp vô ngã mà khởi Sằng-đề. Quán thí thật đế, tức đối với ngã và vô ngã không hai, ấy là chân vô ngã. Nếu thấy chân vô ngã thì không giận cũng không nhẫn. Đó là chân Sằng-đề, vì hóa độ chúng sinh cũng giống như trước.

Vì lìa tướng thân tâm mà khởi Tỳ-lê-gia, là quán ba việc Thí thất đế Nhất thật, tức là Không thấy thân tâm có tướng cũng không tướng, không tinh tấn cũng không giải đãi, là chân Tỳ-lê-gia. Vì hóa sinh cũng giống như thế.

Vì Bồ-đề tướng mà thiền định là quán thật đế của thí tức là tịch diệt. Diệt là Bồ-đề không có tướng định và loạn, đó là chân đế của định. Hóa sinh giống như trước.

Vì Nhất thiết trí mà khởi Bát-nhã, tức quán thí Trung đạo, không thấy có ngu hay trí, ấy là chân chủng trí, vì hóa sinh cũng giống như trước.

Hỏi: Căn cứ bốn đẳng mà giải thích pháp thí, sao chỉ lấy thật, còn giải thích sáu độ để nói pháp thí sao lại song thích?

Đáp: Bốn đẳng là căn cứ vào hoài bảo bên trong, ở ngoài không biết được. Còn Lục độ nhiếp vật, mà vật có tình không phải một, nên cần phải song khởi. Vả lại, bốn đẳng thật tức là nhiếp quyền trong nội tâm ẩn kín trọn không thể biết, nên không cần giải thích đầy đủ.

Căn cứ ba giải thoát môn “giáo hóa… vô tác”. Vì giáo hóa chúng sinh mà khởi không. Quán thí thật đế tức Chân không Tam-muội. Vì hóa độ chúng sinh mà đoạn dứt các duyên tập nội ngoại, khởi bốn thứ Tam-muội ở bốn giáo, ba quyền một thật. Chẳng bỏ pháp hữu vi mà khởi vô tướng. Quán thí hai biên, tức thấy chánh đạo, là chân Vô tướng Tam-muội, vì hóa độ chúng sinh như ở không môn trước.

Thị hiện thọ sinh mà khởi vô tác, hàng Nhị thừa không nghiệp nên không còn thọ sinh, gọi là vô tác giải thoát. Bồ-tát quán thí thấy một đạo thanh tịnh, lìa nghiệp hai biên, tức là chân vô tác Tam-muội. Do căn lực từ thiện vì vật mà thọ sinh, quyền thật như trước nói.

Căn cứ các hạnh “Hộ trì… đạo pháp”. Hộ trì chánh pháp mà khởi sức phương tiện. Quán thí chánh đạo tức là bảo thành chánh pháp. Hộ trì chánh pháp này mà khởi ba nghiệp phương tiện, ba luân hóa độ bất tư nghị. Đối bốn bất khả thuyết dùng bốn Tất-đàn khéo nói bốn giáo, tức là khởi sức phương tiện. Vì độ chúng sinh mà khởi bốn nhiếp pháp. Quán thí thấy lý, muốn đem lý này độ thoát chúng sinh. Nhân đàn mà khởi bốn nhiếp quyền thật khá biết.

Vì kính thờ tất cả mà khởi pháp trừ kiêu mạn. Quán ở người thọ nhận đều như cúng Phật, khởi tâm yêu kính, không sinh khinh mạn, tức là khởi pháp trừ mạn. Từ đây trở đi các câu đều nói ba quyền một thật. Đối với thân mạng tài mà khởi ba kiên cố. Nếu thấy thí thật đế hay khởi ba kiên cố thì như trước đã nói. Đối với sáu niệm mà khởi pháp tư niệm, biết đàn thật đế tức là niệm Phật. Niệm đàn pháp tánh tức là niệm pháp. Niệm trí cùng đàn hợp nhau, tức là niệm Tăng, niệm đàn mà hay đoạn ác tức là niệm giới. Niệm đàn mà hay buông bỏ tất cả pháp, tức là niệm xả. Niệm nhân đàn mà sinh Tịnh thiên đệ nhất nghĩa thiên, tức là niệm Thiên… Nhưng pháp ngữ không thông suốt tràn đầy. Sáu niệm duyên với bốn giáo, phân biệt quyền thật các pháp, tư niệm không quá mức, đó gọi là khởi pháp tư niệm. Đối với sáu pháp hòa kính mà khởi tâm chất trực. Nếu khi bố thí, tức bốn giáo đã nói bốn thứ lục hòa, đó là thân từ, khẩu từ, ý từ, đồng thí, đồng kiến, đồng giới. Đã biết bốn bất khả thuyết thì hay khởi tâm chất trực. Chính khi làm pháp lành mà khởi tịnh mạng hành thí. Trụ vào bốn chánh thiện mà khởi bốn thứ tịnh mạng, đều là vì lợi vật mà không sinh tà mạng. Tâm tịnh hoan hỷ mà khởi gần gũi Hiền Thánh. Thấy thí thật đế, bổn tánh thanh tịnh, được chân pháp hỷ, mà gần gũi các phương tiện nói về Hiền Thánh, đồng với các Hiền Thánh, làm lợi ích cho chúng sinh. Không ghét người ác, mà khởi tâm điều phục. Khi bố thí, người ác đến xin thì không sinh chướng ngại, mà điều phục tâm người ấy, để nhập vào tất cả Bố thí bình đẳng pháp giới. Vì pháp xuất gia mà khởi thâm tâm. Khi bố thí thấy Đế nhất thật, ra khỏi hai biên sinh tử, quán phương tiện giáo, nói pháp xuất gia. Biết rằng tất cả đều quy về nhất Đại thừa mà xuất gia, nên khởi thâm tâm. Vì làm đúng như nói mà khởi đa văn, quán thí thật đế, tức tâm điều khuyến hay làm đúng như lời nói. Khởi đa văn khắp muốn nghe bốn giáo nói về quyền thật. Vì pháp vô tránh mà khởi chỗ trống vắng. Biết bốn bất khả thuyết thì không tranh giành, phương tiện mà khởi các chỗ trống vắng, để nhiếp giữ các chúng sinh ồn ào. Hướng về Phật tuệ mà khởi ngồi yên, thấy Đế nhất thật tức là hướng đến Phật tuệ, mà khởi ngồi yên, là như đã giải thích ở chương ngài Thân Tử. Vì mở trói buộc cho chúng sinh mà khởi địa tu hành. Quán đế nhất thật luôn dùng phương tiện mở các phược nội ngoại giới cho chúng sinh. Ước các giáo môn khởi địa tu hành thì xét các ngôi vị Hiền Thánh đoạn phục không đồng, đã như huyền nghĩa phân biệt. Vì đủ tướng hảo và tịnh cõi Phật mà khởi nghiệp phước đức. Khởi nghiệp ba mươi hai tướng như Đại luận đã nói. Nhân thí mà khởi nghiệp Tịnh độ, như đã giải thích ở phẩm Phật Quốc. Biết tất cả chúng sinh bình đẳng là thấy Đế nhất thật, tức là biết tất cả tâm niệm chúng sinh. Hay phó cơ nói pháp mà khởi hai thứ trí nghiệp quyền thật tùy tình. Biết tất cả pháp bình đẳng, là biết tất cả hướng đến đàn, thấy Đế nhất thật, tức là Không lấy bỏ mà nhập vào nhất tướng môn. Nói khởi tuệ nghiệp, tức là quên hai trí quyền thật ở trước. Đoạn tất cả phiền não…, tức là thấy thật đế chân tu, hiển bày thì hay như thế. Nhưng muốn tiến sâu về tự hành hóa tha, thì cần phải khởi duyên tu để giúp đạo pháp.

Kết thành hội pháp thí: “Như thị… phước điền”, tức ở trong đàn có đủ tất cả Phật pháp, tùy chỗ tài thí, như tên độc tẩm thuốc. Nếu có người đắm trước xứ ở, diệt các phiền não, thành tựu tất cả thiện căn, đó là hội pháp thí, là đại thí chủ, cũng là phước điền của tất cả chúng sinh. Nếu nội tâm thành tựu tất cả Phật pháp, nếu có bố thí, tất hay nuôi lớn tất cả thiện căn, đó là chân phước điền.

Thời chúng được lợi ích: “Thế Tôn…”. Văn có hai: a) Bà-la-môn phát tâm. b) Thiện đắc thanh tịnh.

Nghe nói Đàn độ có đầy đủ Phật pháp, thành tựu hội pháp thí, thì tâm ý khai mở liền phát tâm vô thượng.

Thiện đắc tâm được thanh tịnh “ngã thời…”. Văn có bốn:

  1. Thiện đắc tâm được thanh tịnh chí kính cúng dường.
  2. Tịnh Danh khiêm nhường không nhận.
  3. Thiện đắc lại xin nhận cho.
  4. Tịnh Danh nhận rồi thí lại.

Thiện đắc tâm thanh tịnh: Thiện đắc nghe nói pháp thí liền thấy trong thí có tất cả Phật pháp, suốt chiếu không nhiễm tức là tâm được thanh tịnh. Xưa học phương tiện chưa từng nghe được điều này, nên khen ngợi chưa từng có. Vì việc lớn lợi ích chúng sinh, nên cảm Đức chí kính, liền cởi chuỗi anh lạc cúng dường đền ân.

Tịnh Danh khiêm nhường: “không chịu nhận”, vốn vì pháp làm lợi ích không có ý tài vật, bỗng nhận lấy tất gây chê bai cũng là biểu thị rằng Bồ-tát bên trong không nhận tất cả pháp.

Thiện đắc lại xin nhận lấy: “ngã ngôn… sở dữ”. Kính trọng báo ân rất muốn cúng dường, nhưng không có dịp bày tỏ, nên lại xin nhận lấy. Nếu không cần dùng thì nhận rồi cho lại, cũng nói lên lòng chân thành thân thiết, nên lại xin nhận lấy.

Tịnh Danh nhận rồi cho lại: “Duy-ma-cật…”. Thiện đắc quyết lòng khó thể làm ngược lại. Cũng biểu thị cho Bồ-tát vì hóa độ chúng sinh, dùng không thọ nhận mà thọ nhận các thọ. Nhận rồi thí lại là đủ cả Bi và kính điền. Văn có bốn:

  1. Thí lại bi kính hai điền.
  2. Chúng thấy chuỗi anh lạc bên Phật Nan Thắng.
  3. Tịnh Danh lược nói hội pháp thí.
  4. Trong thành người ăn xin phát tâm Bồ-đề.

Biểu thị phước điền không hai tức là hội pháp thí.

“Tất cả… chướng tệ”, chúng thấy Đức Như Lai Nan Thắng nhận. Ngài Tịnh Danh hiến cúng biến thành đài báu, tức biểu thị ngài Tịnh Danh, nhân bố thí mà ở vị lai sẽ được thượng quả, bốn đức không chướng ngại Đại Niết-bàn.

“Thời Duy-ma… pháp thí”, ngài Tịnh Danh nhân thí chuỗi anh lạc nói hội pháp thí, nếu thí cho người ăn xin cũng xem như tướng phước điền của Như Lai, không có phân biệt. Đây tức là quán điền thí nhập vào bình đẳng pháp giới, không có hai tướng, mà thành tựu Vô duyên đại từ, đầy đủ tất cả Phật pháp, không mong cầu báo duyên tu, tức là đầy đủ hội pháp thí, văn nói như thế. Các sư sao được chỉ ước vào nói pháp để nói pháp thí.

“Thành trung… Bồ-đề”. Trong thành người ăn xin phát tâm Bồđề. Người ăn xin nhân nhìn thấy thần lực, lại nghe nói hội pháp thí, tâm ý khai mở liền phát đạo tâm vô thượng.

* Kết thành không kham “cho nên con không kham đến thăm

bệnh ông ta”. Thiện đắc tự nghĩ thuở xưa ở nhà cha đã lập hội pháp thí bất nhàn, liền bị chê trách, tâm liền thanh tịnh, đâu lại dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh.

Từ “như thị… vấn tật” là phần lớn kế tiếp. Người dịch kinh còn lược bỏ hoặc kinh chưa nói hết. Các Bồ-tát được sai thăm bệnh đều từ chối không lãnh việc. Nếu dựa vào khen đức thì có ba vạn hai ngàn người. Nếu dựa theo văn nói số người vào thất thì chỉ có tám ngàn chưa thể phán định. Chỉ có bốn Bồ-tát kể lại việc bị chê trách mà văn đã mấy tờ. Nếu kinh thuật đủ các Bồ-tát đều trình bày cả, thì văn sẽ đến mấy ngàn tờ. Như thế đại chúng đồng nghe Như Lai ấn định, đều thành nghĩa năm thứ lợi ích, đâu thể chỉ riêng phần tựa.