SỐ 202
KINH HIỀN NGU
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, xứ Kinh châu, quận Cao xương,
Sa-môn Tuệ Giác và các vị khác cùng dịch.

Việt dịch:  Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 10

Phẩm 48: ÔNG TU-ĐẠT LÀM TINH XÁ

Tôi nghe như thế này:

Thuở nọ, Đức Phật ở trong khu vườn Trúc, tại thành Vương xá. Bấy giờ nước Xá-vệ của vua Ba-tư-nặc có một vị đại thần tên Tu-đạt, nhà rất giàu có, của cải nhiều vô hạn, ham làm việc bố thí giúp đỡ người nghèo thiếu và người già cả cô đơn. Do nhân hạnh đó, người thời bấy giờ gọi ông là Cấp Cô Độc. Trưởng giả Cấp Cô Độc sinh được bảy người con trai đều đã lớn cả và đã cưới vợ cho sáu cậu, chỉ còn cậu thứ bảy, tướng mạo đoan chánh lạ thường nên ông yêu mến nghiêng nặng cậu út nhiều hơn, muốn tìm một cô gái dung nhan xinh đẹp, đức hạnh chu toàn để cưới cho con trai út. Ông nói với các Bà-la-môn:

–Ai có con gái tướng mạo xinh đẹp, tôi sẽ hỏi làm vợ cho con trai út của tôi.

Các vị Bà-la-môn bèn tìm kiếm, họ lần lần đi hành khất đế trong thành Vương xá. Trong thành này có một vị đại thần tên Hộ Di giàu có vô cùng lại có lòng tin kính Tam bảo. Những Bà-la-môn này đi đến từng nhà khất thực, theo quốc pháp nước này, người bố thí phải sai người đồng nữ cầm đồ vật ra để bố thí. Trưởng giả Hộ Di có một cô con gái dung mạo đoan chánh, nhan sắc xinh đẹp lạ thường, cô gái này cầm thức ăn ra bố thí cho Bà-la-môn. Ông vừa trông thấy, tâm rất vui mừng, tự nghĩ: “Người mà ta tìm kiếm hôm nay đã gặp được rồi”, liền hỏi cô gái:

– Có người nào đã cầu hôn với cô chưa?

Cô gái đáp:

– Dạ chưa!

Ông lại hỏi cô gái:

– Cha cô còn sống không?

Cô gái đáp:

– Thưa, còn sống!

Vị Bà-la-môn nói:

– Xin được mời ông ra đây, tôi muốn gặp và có việc cần bàn.

Khi đó người con gái đi vào trong nhà thưa với cha:

– Bên ngoài có một người ăn xin muốn xin gặp cha.

Người cha bèn đi ra. Bấy giờ vị Bà-la-môn hỏi thăm về sinh hoạt, ăn ở… và nói:

– Ở nước Xá-vệ có một vị đại thần tên là Tu-đạt làm quan, ông có biết không?

Đáp:

– Tôi chưa thấy chỉ có nghe tên ông ta.

Vị Bà-la-môn nói:

– Ông là một người rất giàu có ở nước Xá-vệ. Ông ta có một cậu con trai út, tướng mạo đoan chánh, thông minh mưu lược hơn người, ông ta muốn cầu hôn con gái ông cho con trai út, ông có vui lòng không?

Đáp:

– Vui lòng.

Bấy giờ gặp được một người lái buôn muốn đi đến nước Xá-vệ, vị Bà-la-môn bèn viết thư nhờ gửi cho ông Tu-đạt, trình bày đầy đủ mọi việc cho ông nghe. Ông Tu-đạt rất vui mừng liền đi vào cung tâu vua xin nghỉ chầu vài hôm để cưới vợ cho con trai. Vua liền đồng ý. Ông chở nhiều châu báu đến thành Vương xá, trong lúc đi đường, ông ban phát cho người nghèo thiếu, mãi cho đến thành Vương xá, nhà của ông Hộ Di, để cho con trai cưới vợ. Trưởng giả Hộ Di vui mừng ra nghênh đón, ông sắp xếp trang trí nhà cửa, bày biện thức ăn để đãi họ đàng trai. Ông Tu-đạt nghĩ: “Nay vị trưởng giả này bày biện các đồ  cúng dường muốn làm việc gì thế? Có lẽ sắp thỉnh quốc vương, thái tử, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, thân thích đến làm lễ hôn nhân sao mà bày tiệc lớn dữ vậy?” Suy nghĩ mãi mà không thể tự biết, bèn hỏi:

– Thưa trưởng giả, hôm nay có việc gì mà ở đây bày tiệc chuẩn bị các thứ nhiều như thế? Có lẽ ngài muốn thỉnh quốc vương, thái tử, đại thần chăng?

Đáp:

– Không phải.

Tu-đạt lại hỏi:

– Ngài muốn mời thân thuộc đến dự lễ cưới chăng?

Đáp:

– Cũng không phải.

Tu-đạt lại hỏi:

– Vậy ngài định làm gì thế?

Đáp:

– Tôi chuẩn bị thỉnh Phật và chư Tỳ-kheo Tăng.

Khi đó ông Tu-đạt nghe nói danh hiệu Phật và Tăng, bỗng cảm thấy lông tóc dựng ngược như có được một điềm lạ gì vậy, tâm tình vui vẻ, ông hỏi thêm:

– Thế nào gọi là Phật? Xin hãy giải thích nghĩa ấy cho tôi rõ.

Trưởng giả Hộ Di nói:

– Ông chưa nghe sao? Đó là thái tử Tất-đạt-đa, con của vua Tịnh Phạn, ngày thái tử sinh ra, trời giáng xuống điềm lành, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, có vạn vị thần thị vệ, vừa sinh ra đã đi bảy bước, một tay chỉ trời một tay chỉ đất mà nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn”. Thầy tướng xem, nói rằng nếu ở tại gia thì làm Chuyển luân vương cai trị bốn châu thiên hạ. Khi lớn lên, thái tử thấy chúng sinh có bốn tướng sinh già bệnh chết. Không thích ở tại gia mà đi xuất gia tìm đạo, trải qua sáu năm khổ hạnh, đạt được Nhất thiết trí, dứt hết kết sử thành Phật, hàng phục tám mươi ức vạn ma quân, hiệu là Năng Nhân, có mười lực vô úy, mười tám pháp bất cộng, quang minh chói sáng, soi thấu ba cõi nên gọi là Phật. Ông Tu-đạt hỏi:

– Thế nào gọi là Tăng?

Trưởng giả Hộ Di đáp:

– Sau khi thành Phật rồi, Phạm thiên cung thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân. Đức Phật nhận lời đến nước Ba-la-nại tại khu Lộc uyển thuyết pháp Tứ diệu đế cho năm anh em Câu-lân (Kiều-trần-như) dứt sạch lậu tận, thành vị Sa-môn đầy đủ Lục thông, Tứ như ý túc, Thất giác chi, Bát chánh đạo. Trên hư không có tám vạn chư Thiên đắc quả Tu-đà-hoàn. Vô lượng trời người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Kế tiếp độ cho anh em ông Uất-bệ Ca-diếp một ngàn người, dứt được lậu tận ý giải thoát như năm anh em Kiều-trần-như. Kế đến tiếp độ đồ chúng của Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên năm trăm người được chứng quả A-lahán. Những vị ấy thần túc tự tại, hay vì chúng sinh làm ruộng phước điền, nên gọi là Tăng. Ông Tu-đạt nghe nói việc hay như vậy rất vui mừng cảm niệm kính tin, mong cho trời mau sáng để đi đến gặp Phật. Vì lòng thành nên có thần ứng thấy mặt đất tỏ sáng như ban ngày, bèn đi đến thành La-duyệt-kỳ. Cổng thành có ba giờ mở cửa; đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm gọi là ba thời. Giữa đêm đi ra khỏi cửa thấy có Thiên tự Tu- đạt liền lễ bái, bỗng quên nhớ đến Phật, tâm tự tối tăm, bèn nghĩ: “Bây giờ đêm tối, nếu ta đi đêm sợ gặp phải ác quỷ, thú dữ làm hại”, định trở vào thành chờ sáng mai mới đi. Trước đó ông có một người bạn thân mạng chung sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương, thấy ông hối hận muốn trở về liền xuống nói rằng:

– Cư sĩ chớ có hối hận, ông hãy đi đến gặp Phật sẽ được lợi ích vô lượng, nay ông được trăm xe châu báu cũng không bằng ông cất một bước chân đến gặp Đức Thế Tôn, được lợi ích còn hơn thế nữa. Cư sĩ ông chớ nên hối hận! Cư sĩ, ông hãy đi đi đừng có hối hận! Chính như nay ông có được châu Diêm-phù-đề đầy cả châu báu cũng không bằng cất bước chân đi đến gặp Đức Thế Tôn, được lợi ích rất lớn. Cư sĩ, ông hãy đi đừng có hối nữa! Chính như nay ông được bốn thiên hạ đầy cả châu báu, cũng không bằng cất bước đến gặp Thế Tôn, được lợi ích còn hơn đó nữa, còn được lợi ích gấp trăm ngàn vạn lần. Ông Tu-đạt nghe vị trời nói lời đó rồi càng thêm vui mừng, cảm kính Đức Thế Tôn, bóng tối liền tiêu, ánh sáng trở lại, tìm đường đi đến chỗ Thế Tôn. Bấy giờ Đức Thế Tôn biết ông Tu-đạt đến nên đi ra ngoài kinh hành. Lúc đó ông Tu-đạt trông thấy Thế Tôn sáng chói  cũng như núi vàng, tướng hảo dung mạo uy nghiêm còn hơn ông Hộ Di nói gấp vạn lần, trông thấy trong lòng vui vẻ, ông chưa biết lễ pháp, nên hỏi thẳng Thế Tôn:

– Thưa Cù-đàm, chỗ ở như thế nào?

Đức Thế Tôn liền mời ông ngồi. Khi ấy trời Thủ-đà-hội trông thấy ông Tu-đạt, tuy gặp Thế Tôn nhưng không biết pháp lễ bái cúng dường nên mới hóa làm bốn người sắp hàng đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, quỳ hỏi thăm về chỗ ở, rồi đi quanh bên phải ba vòng, đứng lại một bên. Lúc đó ông Tu-đạt thấy họ làm như vậy rất đỗi ngạc nhiên, tự nghĩ: “Phép cung kính phải làm như thế”, liền rời chỗ ngồi đứng dậy, kính lễ như những người kia, hỏi thăm về sinh hoạt của Thế Tôn, rồi đi nhiễu bên phải ba vòng đứng qua một bên.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì họ thuyết pháp Tứ diệu đế, khổ, không, vô thường. Nghe xong, ông rất vui mừng, thấm nhuần Thánh pháp đắc quả Tu-đà-hoàn, thí như tấm vải trắng sạch nhuộm màu sắc vậy. Ông quỳ xuống chắp tay hỏi Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn, trong thành Xá-vệ, những người nghe pháp mau thấm nhuần như con có nhiều không?

Đức Phật bảo Tu-đạt:

– Người nghe pháp mau hiểu như ông không có người thứ hai.

Trong thành Xá-vệ này, phần nhiều người tà kiến khó thấm nhuần Thánh giáo.

Ông Tu-đạt bạch Phật:

– Cúi mong Như Lai từ bi đến thành Xá-vệ, khiến cho chúng sinh trừ tà quy chánh.

Đức Thế Tôn nói:

– Người xuất gia có khác kẻ thế tục, nơi ở cũng phải khác, nơi đó không có tinh xá làm sao đến đó được.

Ông Tu-đạt bạch Phật:

– Đệ tử có thể xây dựng, xin ngài hứa khả cho!

Đức Thế Tôn lặng thinh. Ông Tu-đạt từ tạ ra về. Sau đó ông lo việc cưới vợ cho con trai xong rồi đến từ tạ Phật trở về nhà. Nhân đó ông bạch Phật:

– Con về đến nước nhà sẽ xây dựng tinh xá, không biết mô hình thế nào, cúi mong Như Lai cho một vị đệ tử sang để chỉ bày cách thức.  Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Trong thành Xá-vệ, các Bà-la-môn tin theo tà giáo, sai người khác chắc không thể làm nổi, chỉ có Xá-lợiphất là thuộc dòng Bà-la-môn cũng có chút ít thông minh và có cả thần túc, cho đi ắt có lẽ đắc lực”, liền sai ngài Xá-lợi-phất đi cùng ông Tu-đạt. Ông Tu-đạt hỏi ngài Xá-lợi-phất:

– Đức Thế Tôn đi bộ một ngày được mấy dặm?

Ngài Xá-lợi-phất nói:

– Một ngày đi được nửa do-tuần, cũng bằng vua Chuyển luân thánh vương vậy.

Lúc đó ông Tu-đạt bèn làm theo dọc đường nhà nghỉ chân, cứ hai mươi dặm làm một cái, xuất tiền của bố thí người lo ăn uống đầy đủ từ thành Vương xá đến nước Xá-vệ. Về đến nhà cùng Xá-lợi-phất tìm nơi nào đất rộng rãi bằng thẳng để khởi công xây dựng tinh xá. Đi khắp nơi mà chưa thấy có mảnh đất nào vừa ý, chỉ có khu vườn của thái tử Kỳ-đà là bằng phẳng rộng rãi, cây cối sum suê, tươi tốt, không gần cũng không xa thành, chỗ này có thể được. Khi ấy ngài Xá-lợi-phất nói với ông Tu-đạt:

– Khu vườn này có thể làm tinh xá được. Vì sao? Nếu làm tinh xá quá xa sợ rằng chư Tăng đi khất thực khó khăn, còn ở quá gần thành thị thì ồn ào náo nhiệt, phế bỏ sự hành đạo. Ông Tu-đạt vui mừng đến gặp thái tử thưa:

– Tôi muốn làm cho Như Lai một tinh xá, khu vườn thái tử rất tốt, tôi muốn mua nó để xây dựng, thái tử đồng ý không?

Thái tử Kỳ-đà cười nói:

– Tôi có thiếu thốn gì đâu, khu vườn này tươi tốt, tôi dùng nó để dạo chơi, tiêu dao ý chí. Ông Tu-đạt nài nỉ đến ba lần, thái tử tham tiếc bèn tăng lên giá gấp bội, nói một giá rất đắt để không thể mua được, bảo ông Tu-đạt:

– Nếu ông đem vàng trải khắp mặt đất không để hở chỗ nào thì ta sẽ bán cho.

Tu-đạt nói:

– Vâng! Tùy theo giá của thái tử.

Thái tử Kỳ-đà nói:

– Ta nói đùa thôi.

Ông Tu-đạt nói:

– Ngài làm thái tử không nên nói dối được, vọng ngữ dối gạt thì làm sao nối ngôi vua trị vì nhân dân.

Ông liền muốn cùng thái tử đi kiện. Bấy giờ trời Thủ-đà-hội vì muốn làm tinh xá cho Phật, ông sợ rằng các quan đại thần thiên lệch vì thái tử, liền hóa làm một người nói với thái tử:

– Luận về phép làm thái tử, không nên nói dối, đã quyết định giá cả thì không nên hối hận. Thái tử bèn cho ông Tu-đạt mua vườn. Ông Tu-đạt vui mừng sai người về nhà dùng voi chở vàng chỉ trong tám mươi khoảnh đất, chốc lát đã trải vàng khắp mặt đất, chỉ còn thiếu chút ít đất trống chưa lát xong. Ông Tu-đạt suy nghĩ xem coi kho vàng nào để lót cho vừa đủ, không bị nhiều cũng không lo ít, để sai người đi lấy cho đầy đủ. Thái tử Kỳ-đà thấy thế hỏi:

– Ngài chê mắc quá chăng?

Đáp:

– Không phải thế! Tôi đang nghĩ coi vàng trong kho nào để lấy cho vừa đủ.

Thái tử Kỳ-đà nghĩ: “Đức Phật chắc là Bậc Đại Đức nên ông này mới coi thường vàng bạc đến như thế.” Nghĩ xong, thái tử ngăn lại nói:

– Thôi chớ có xuất vàng ra nữa, coi như khu vườn này là của ông, còn cây cối thuộc của tôi, chúng ta cùng dâng cúng cho Đức Phật để xây dựng tinh xá. Ông Tu-đạt vui mừng nhận lời, liền trở về nhà chuẩn bị khởi công xây dựng. Bọn Lục sư nghe việc ấy đến tâu với quốc vương:

– Tâu bệ hạ, trưởng giả Tu-đạt đã mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà để cho Sa-môn Cù-đàm làm tinh xá rồi. Hãy cho đồ đệ của chúng tôi thi tài pháp thuật với Sa-môn, ai thắng thì được xây dựng, nếu không làm thế thì không được xây dựng. Đồ chúng của Cù-đàm ở thành Vương xá, đồ chúng của tôi ở tại đây. Nhà vua triệu ông Tu-đạt vào cung hỏi:

– Nay bọn Lục sư nói khanh mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà, định xây tinh xá cho Sa-môn Cù-đàm. Vậy đệ tử của Sa-môn cùng đệ tử họ đấu pháp thuật với nhau, nếu ai thắng thì được lập tinh xá, còn như thua thì không được làm.  Ông Tu-đạt trở về nhà buồn rầu không vui, mặc quần áo bẩn rách. Khi đó ngài Xá-lợi-phất sáng sớm mặc y cầm bát đến nhà ông Tu-đạt, thấy ông không vui, liền hỏi:

– Vì sao ông không vui?

Tu-đạt nói:

– Về việc xây dựng tinh xá sợ e không thành, cho nên tôi buồn rầu. Ngài Xá-lợi-phất hỏi:

– Có việc gì mà sợ không thành?

Đáp:

– Nay có nhóm Lục sư đến xin vua cho đấu phép, ai thắng thì mới cho làm tinh xá, nếu không thắng được họ thì không cho xây dựng. Nhóm Lục sư này xuất gia đã lâu, vốn tinh thông pháp thuật cao cường, không ai có thể bì kịp. Tôi nay không biết tài nghệ của ngài có địch nổi với họ hay không? Ngài Xá-lợi-phất nói:

– Cho dù nhóm Lục sư này nhiều như tre trúc đầy khắp cõi Diêm-phù-đề cũng không thể làm động nổi sợi lông chân của tôi, muốn đấu thì đấu, hãy nhận lời đi. Ông Tu-đạt vui mừng, bèn mặc y phục mới, tắm gội nước hoa, rồi đi đến tâu vua:

– Thần đã hỏi đệ tử của Sa-môn, Lục sư muốn đấu thì cứ tùy ý chọn ngày thi đấu.

Lúc đó quốc vương bảo các Lục sư:

– Nay trẫm nhận lời cho phép các ông cùng với đệ tử của Samôn đấu phép.

Khi ấy bọn Lục sư tuyên bố cho nhân dân khắp cả nước hay biết, bảy ngày nữa ở một nơi rộng rãi ngoài thành cùng với Sa-môn đấu phép. Trong nước Xá-vệ có mười tám ức người đến xem. Theo quốc pháp thời bấy giờ đánh trống hội chúng như đánh trống đồng thì tám ức người vân tập, như đánh trống bạc thì có mười bốn ức người vân tập, nếu đánh trống vàng thì tất cả mọi người vân tập. Đã mãn bảy ngày, họ đến một nơi rộng rãi bằng thẳng đánh trống vàng để cho tất cả mọi người tụ hội. Nhóm đệ tử của Lục sư có ba ức người. Quốc vương và nhóm Lục sư sắp xếp ngồi trên tòa cao. Bấy giờ ông Tu-đạt làm cái tòa cao cho ngài Xá-lợi-phất. Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất đang ngồi dưới gốc cây yên lặng nhập định, các căn yên tịnh, dạo chơi các  thiền định, thông đạt vô ngại, thầm nghĩ như vầy: “Đại chúng ở hội này, tập theo thói tà đã lâu, ngạo mạn tự cao, nhiều như cỏ rác, ta nên dùng đức gì để hàng phục họ?” Suy nghĩ rồi định dùng hai đức mà lập thệ nói rằng: “Nếu tôi trong vô số kiếp từ hiếu đối với cha mẹ, kính lễ đối với Hòa thượng, Sa-môn, Bà-la-môn xin cho tôi mới tới đại hội thì tất cả mọi người đều đứng dậy làm lễ.” Lúc đó, Lục sư thấy mọi người đã vân tập, chỉ còn một mình Xá-lợi-phất chưa đến, bèn tâu vua:

– Đệ tử Cù-đàm tự biết không có phép thuật, nói dối nên không đến đâu. Mọi người đã vân tập rồi, e hắn sợ nên không đến.

Vua bảo Tu-đạt:

– Đệ tử của Thầy khanh nhận lời, giờ đấu đã đến, xin hãy nên đến để bàn luận chứ.

Lúc đó ông Tu-đạt đi đến chỗ ngài Xá-lợi-phất quỳ bạch:

– Bạch Đại đức, đại chúng đã vân tập, xin ngài đến dự hội.

Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất từ thiền định dậy, chỉnh y phục, vắt tấm tọa cụ bên vai trái, đi bộ ung dung đĩnh đạc như một Sư tử vương, đến chỗ đại chúng. Lúc đó mọi người trông thấy hình dung pháp phục có khác, cho đến các Lục sư bỗng nhiên đứng dậy, giống như là gió thổi lướt qua mặt cỏ, bất giác họ đều làm lễ đối với ngài. Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất lên tòa nơi ông Tu-đạt đã bày sẵn. Trong nhóm Lục sư có một đệ tử tên Lao-độ-sai giỏi về huyễn thuật, ra trước đại chúng đọc chú hóa làm một cây đại thọ to lớn, tàng lá che mát cả chúng hội, cành lá sum suê tươi tốt, hoa quả trĩu cành, mọi người đều reo hò nói:

– Đây là phép biến hóa của Lao-độ-sai.

Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất bèn dùng thần lực làm một cơn gió xoáy thổi trốc gốc cây, ngã xuống mặt đất nát nhỏ như vi trần. Mọi người đều hô nói:

– Thần biến của Xá-lợi-phất hơn rồi.Lao-độ-sai đọc chú hóa ra một cái ao, bốn bề đều bằng bảy báu, trong ao có mọc các loại hoa. Mọi người đều khen:

– Đấy là do Lao-độ-sai làm ra.

Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất hóa làm một con voi trắng sáu ngà, trên mỗi ngà có bảy hoa sen, trên mỗi hoa sen có bảy ngọc nữ. Voi trắng từ từ đi đến bên bờ ao hút hết nước trong ao. Mọi người đều nói:

– Ngài Xá-lợi-phất thắng rồi, Lao-độ-sai không bằng. Lao-độ-sai lại hóa ra một ngọn núi bằng bảy báu trang nghiêm, có suối ao, cây cối, hoa quả tươi tốt. Mọi người đều hô nói:

– Đây là do Lao-độ-sai làm ra đó. Khi đó ngài Xá-lợi-phất hóa làm Kim cang Lực sĩ dùng chùy Kim cang đứng xa chỉ thì quả núi liền tan nát không còn chút gì dấu vết. Mọi người đều hô to:

– Ngài Xá-lợi-phất thắng rồi, Lao-độ-sai không bằng. Lao-độ-sai lại hóa ra con rồng có mười đầu ở trong hư không mưa ra các thứ châu báu, sấm chớp chấn động kinh sợ đại chúng. Mọi người đều nói:

– Đấy là do Lao-độ-sai hóa ra đó. Khi ấy ngài Xá-lợi-phất hóa làm một con Kim sí điểu vương bay đến vồ lấy bắt lấy rồng xé ăn. Mọi người đều hô:

– Ngài Xá-lợi-phất thắng rồi, ông Lao-độ-sai kém hơn, không bằng rồi. Lao-độ-sai tiếp tục hóa làm một con trâu, thân thể cao lớn mập mạp mạnh khỏe, chân to, móng bén nhọn, quỳ dưới đất rống lớn rồi chạy thẳng tới trước ngài Xá-lợi-phất. Lúc đó ngài Xá-lợi-phất hóa làm Sư tử vương vồ bắt trâu xé nát ra ăn. Mọi người đều reo hò:

– Xá-lợi-phất thắng rồi, Lao-độ-sai không bằng. Lao-độ-sai lại tiếp tục hóa làm quỷ Dạ-xoa, thân thể cao lớn, trên đầu lửa cháy, mắt đỏ như máu, bốn nanh dài bén nhọn, miệng phun ra lửa, chồm nhảy rất ghê sợ. Khi đó ngài Xá-lợi-phất hóa thân làm Tỳ-sa-môn vương. Dạ-xoa sợ hãi liền thoái chạy bị bốn bên lửa nổi dậy không có lối đi, chỉ có chỗ bên Xá-lợi-phất là không có lửa cháy. Ông Lao-độ-sai liền khuất phục năm vóc sát đất cầu thương xót cứu mạng, tâm hổ thẹn khởi lên thì lửa tiêu diệt hết. Mọi người đều hô to:

– Ngài Xá-lợi-phất đã thắng, Lao-độ-sai không bằng.

Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất thân bay lên hư không, hiện bốn oai nghi, đi đứng ngồi nằm, trên thân phun ra nước, dưới thân phun ra lửa, ẩn bên Đông hiện bên Tây, hoặc ẩn bên Tây hiện bên Đông, ẩn bên Bắc hiện bên Nam, ẩn bên Nam hiện bên Bắc; hoặc hiện thân to lớn, đầy khắp trong hư không rồi lại hiện lại thật nhỏ. Hoặc phân thân ra trăm ngàn vạn ức thân, rồi hợp lại thành một thân, đang ở trên hư  không, bỗng nhiên lại hiện trên mặt đất, đi trên mặt nước như đi trên đất, biến hiện rồi lại thu nhiếp thần túc, ngồi lại vị trí cũ. Bấy giờ đại chúng dự hội thấy thần lực của ngài Xá-lợi-phất đều rất vui mừng và đem lòng kính phục. Khi đó ngài Xá-lợi-phất thuyết pháp nói về nhân duyên phước báo đời trước. Nghe xong, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, đồ chúng của Lục sư có ba ức người theo ngài Xá-lợi-phất xuất gia học đạo. Hai bên thi thố thần thông xong rồi, bốn chúng bèn giải tán ra về. Bấy giờ trưởng giả Tu-đạt cùng ngài Xá-lợi-phất đi đo lại đất và vẽ sơ đồ tinh xá. Ông Tu-đạt tự tay cầm một đầu dây thừng, còn ngài Xá-lợi-phất nắm một đầu, đo giáp vòng khu tinh xá. Khi ấy ngài Xá-lợi-phất bỗng nhiên mỉm cười. Ông Tu-đạt hỏi:

– Vì sao Tôn giả cười?

Đáp:

– Ông và tôi bắt đầu đo đất hết khu vườn này thì ở trên trời Lục dục đã làm xong một cung điện.

Ngài Xá-lợi-phất liền cho ông Tu-đạt mượn đạo nhãn. Ông thấy cõi trời Lục dục, cung điện trang nghiêm, mới hỏi ngài Xá-lợi-phất:

– Cõi trời Lục dục, nơi nào là vui nhất?

Ngài Xá-lợi-phất nói:

– Trong ba tầng dưới sắc dục sâu dày, còn hai tầng trời trên tính kiêu mạn phóng dật buông lung, tầng trời thứ tư ít dục biết đủ, thường có Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đến sinh trong cõi đấy, thuyết pháp không dứt.

Ông Tu-đạt nói:

– Tôi nguyện sinh lên cõi trời thứ tư.

Vừa nói xong thì các cung điện đều biến mất hết, chỉ còn có cõi trời thứ tư, các cung điện lặng yên không biến động. Rồi lại bắt đầu cầm dây thừng đo nữa, khi ấy ông trông thấy ngài Xá-lợi-phất có sắc hơi buồn, liền hỏi:

– Thưa Tôn giả, vì sao ngài có sắc mặt hơi buồn?

Đáp:

– Ông có nhìn thấy đàn kiến này không?

Đáp:

– Thưa thấy.

Khi đó ngài Xá-lợi-phất nói với ông Tu-đạt:

– Ông ở thời quá khứ Phật Tỳ-bà-thi, cũng ở tại khu đất này vì Đức Phật Tỳ-bà-thi xây dựng ngôi tinh xá mà đàn kiến này nó cũng sinh ở đây. Đến thời Phật Thi-khí, ông làm tinh xá cho Phật ấy cũng tại khu đất này tạo lập tinh xá, mà đàn kiến này cũng sinh sống nơi đây. Cho đến thời Phật Tỳ-xá-phù, ông vì Đức Thế Tôn ấy, ở tại khu đất này xây dựng tinh xá mà đàn kiến này cũng còn sinh sản nơi đây. Đến đời Phật Câu-lưu-tôn, ông cũng làm tinh xá ở khu đất này cúng Phật thì đàn kiến này cũng còn sinh ra ở đây. Đến thời Đức Phật Cana-hàm Mâu-ni, ông cũng làm tinh xá ở khu đất này cúng Phật mà đàn kiến này cũng còn sinh ra ở đây. Đến thời Phật Ca-diếp ông cũng làm tinh xá ngay khu đất này cúng Phật mà đàn kiến này cũng còn sinh ra ở đây. Cho đến ngày ngay, chín mươi mốt kiếp, nó còn thọ một thứ thân kiến không được giải thoát, sinh tử lâu dài như thế, duy có phước làm thiết yếu, không thể không gieo trồng. Khi ấy ông Tu-đạt nghe xong đau buồn thương xót cho đàn kiến. Đo đất xong bắt đầu xây dựng tinh xá, làm riêng một gian bằng gỗ chiên-đàn cho Đức Phật, làm phòng ốc cho chúng Tăng bằng hương nê, hai mươi khu có một ngàn hai trăm gian phòng. Làm xong ông muốn đi thỉnh Phật, nhưng rồi lại suy nghĩ: ‘Trên có quốc vương, nên tâu cho vua biết, nếu không tấu trình e rằng bị vua trách”, liền đi đến tâu vua:

– Thưa bệ hạ, hạ thần đã vì Thế Tôn xây dựng một ngôi tinh xá, cúi mong đại vương cho sứ đi thỉnh Đức Phật. Khi ấy vua nghe xong liền cho sứ giả đi đến thành Vương xá để thỉnh Đức Phật và chúng Tăng. Sứ giả sang Vương xá vào yết kiến Đức Phật, thưa:

– Bạch Thế Tôn, công trình xây dựng tinh xá đã hoàn thành, nay kính thỉnh Thế Tôn quang lâm Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng bốn chúng trước sau vây quanh phóng đại quang minh chấn động đại địa, đến nước Xá-vệ, đi trải qua các khách xá đều dừng nghỉ, gặp người hóa độ không thể tính kể, dần dần đến bên thành Xá-vệ. Tất cả đại chúng cầm các dụng cụ cúng dường, nghênh đón Đức Thế Tôn. Thế Tôn đến nước Xá-vệ, đi đến một nơi rộng rãi, phóng đại quang minh, chiếu khắp Tam thiên đại  thiên thế giới, ngón chân ấn xuống đất, đất đều chấn động, trong thành các kỹ nhạc không khảy mà tự kêu, người mù được sáng mắt, người điếc được nghe rõ; người câm được nói năng, kẻ còng lưng được ngay thẳng, tất cả nhân dân trai gái già trẻ lớn nhỏ thấy điềm lành như vậy đều rất vui mừng hớn hở, đi đến chỗ Phật, mười tám ức người vân tập. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì họ thuyết Diệu pháp như thầy thuốc giỏi tùy bệnh cho thuốc, những người có túc duyên đều được lợi ích, có người nghe xong đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán. Có người gieo trồng nhân duyên Bích-chi-phật, có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Mọi người đều rất vui mừng, vâng theo lời Phật dạy.

Khi đó Đức Phật bảo ngài A-nan:

– Khu vườn này do ông Tu-đạt mua, còn cây trái hoa quả của thái tử Kỳ-đà, hai người đồng tâm, cùng lập nên tinh xá, vậy nên lấy hiệu là khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, để lưu truyền khắp nơi và người đời sau hiểu biết.

Bấy giờ A-nan và bốn bộ chúng nghe Đức Phật nói xong đều đảnh lễ phụng hành.