SỐ 190
KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Xà-na-quật-đa, người Ấn độ
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 32-33

Phẩm 36: PHẠM THIÊN KHUYẾN THỈNH

Khi ấy Đức Thế Tôn rời khỏi rừng Sai-lê-ni-ca, chậm rãi trở lại dưới cội cây Bồ-đề. Lúc ấy trong nước có kẻ nam, người nữ bị bệnh nặng, gầy ốm, vàng võ, khốn khổ nằm trên giường, không thể chữa trị, khó qua khỏi. Những người này chẳng bao lâu nữa lâm chung, hơi thở chỉ còn thoi thóp, nên bị đưa vào thi lâm, coi như mai táng. Khi Bồ-tát còn tu khổ hạnh nơi rừng kia, cách cây Bồ-đề chẳng bao xa có một phụ nữ tên là La-sa-da vẫn chưa tắt thở mà gia quyến đem bỏ nằm trên đất. Người phụ nữ này trông thấy Bồ-tát ngồi dưới cây Bồ-đề tu khổ hạnh, nên sinh tâm rất tín kính, vì kính tín nên lấy áo trên mình để một bên, bạch Bồ-tát:

-Thưa Đại thánh Tôn giả, nếu Tôn giả tu khổ hạnh xong, vượt khỏi bờ biển phiền não đến bờ kia, tự nguyện đã đầy đủ, lúc ấy e thân Ngài không còn y phục. Xin Bồ-tát thương xót con, có thể thu nhận chiếc áo phấn tảo của con, tùy ý Ngài sử dụng.

Người phụ nữ ấy sau một thời gian ngắn thì qua đời, do đối với Bồ-tát sinh tâm chánh tín nên sau khi tắt thở, nhờ thiện căn này, thần thức sinh lên cõi trời Đao-lợi làm ngọc nữ có nhiều oai đức, mang thân chư Thiên, hào quang sáng rực, thần thông tự tại.

Sau khi sinh lên cõi trời, tự nghĩ: “Ta do nghiệp nhân gì mà ngày nay thành tựu báo thân này?” Vị ấy tư duy, biết đời trước của mình: Thuở xưa, khi ta còn ở nhân gian làm người phụ nữ, đem áo phấn tảo cúng dường Đức Thế Tôn, tùy ý Ngài sử dụng. Nhờ thiện nghiệp đó mà ngày nay ta được quả báo này. Vị ấy lại nghĩ: “Ngày nay Đức Thế Tôn chưa dùng áo phấn tảo ấy mà mình còn được phước báo, có sức thần thông như vậy, huống chi nếu Thế Tôn nhận dùng áo của ta thì chắc rằng sẽ vượt hơn quả báo này?”

Ngọc nữ thân phóng hào quang sáng rực, vào khoảng nửa đêm đi đến chỗ Đức Phật, hào quang chiếu sáng cả khu rừng, khi đến nơi, đảnh lễ sát chân Phật rồi lui về đứng một bên. Ngọc nữ bạch Phật:

-Lành thay! Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài thương xót con lấy chiếc áo phấn tảo, tùy ý sử dụng.

Đức Thế Tôn vì thương ngọc nữ nên nhận lấy chiếc áo phấn tảo. Như Lai nhận rồi, bảo ngọc nữ:

-Này ngọc nữ, người lại đây thọ ba pháp quy y: Phật, Pháp, Tăng và thọ năm giới cấm. Người sẽ ở thọ hưởng nhiều điều lợi ích an lạc lâu dài.

Thiên nữ nghe Đức Phật nói như vậy, bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn, con y lời Ngài dạy, không dám trái.

Ngọc nữ thọ Tam quy và Ngũ giới. Ngọc nữ thấy Đức Thế Tôn nhận dùng chiếc áo phân tảo của mình, nên rất vui mừng hớn hở, tràn ngập châu thân không thể tự chế. Sau đó, ngọc nữ đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, ngay nơi đây ẩn thân biến mất.

Thuở ấy Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Ta nay đem chiếc áo phấn tảo này giặt ở đâu?” Vừa nghĩ như vậy, vua trời Đế Thích vì Đức Như Lai liền đi đến một khu rừng cách Như Lai không xa, biến ra một dòng sông nước trong trẻo không vẩn đục. Vua trời Đế Thích biến ra ba tảng đá lớn bên bờ sông: Tảng đá thứ nhất để Đức Như Lai ngồi, tảng đá thứ hai để giặt chiếc áo phấn tảo, tự tay Đế Thích tạt nước và tảng thứ ba để phơi khô chiếc áo sau khi đã giặt xong. Tảng đá phơi áo phấn táo này do oai thần của Đức Phật, sau đó bay lên hư không, hướng về xứ Bắc Ấn độ, hạ xuống chỗ ở của các thương chủ Đế-lê-phú-sa… để họ xây tháp cùng nhau cúng dường.

Sư Ma-ha Tăng-kỳ nói: “Cứ như vậy trải qua bốn mươi chín ngày”; hoặc lại có sư cho rằng việc này trải qua mười bốn ngày, hoặc có sư cho rằng việc này trải qua hai mươi mốt ngày, hoặc có sư cho rằng việc này trải qua hai mươi tám ngày, bảy ngày thứ nhất lắng tâm dưới gốc Bồ-đề, bảy ngày thứ hai lần lần đi đến tháp Mắt không nháy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn từ tháp Mắt không nháy đứng dậy, rồi Ngài đi đến dưới cây La-xà-na. Đến dưới cây này, Đức Phật ngồi kiết già bảy ngày ở trong thiền định để thọ hưởng an lạc giải thoát.

Bấy giờ Đức Thế Tôn qua bảy ngày, ra khỏi Tam-muội, chánh niệm chánh tri. Khi ấy hai thương chủ Đế-lê-phú-sa và Bạt-lê-ca từ thành Ca-phu-tra lần lần đi đến chỗ Đức Phật. Đến chỗ Phật rồi, cho đến đi nhiễu ba vòng, từ biệt Đức Phật ra đi.

Bấy giờ Đức Thế Tôn từ dưới cây La-xà-na đứng dậy, chậm rãi đi dần về ngồi dưới cây Mục-chân-lân-đà. Cho đến nói kệ.

Bấy giờ trải qua bảy ngày, vào một buổi sớm mai Đức Thế Tôn đắp y, mang bình bát đi thẳng đến nhà chủ thôn Nan-đề-ca, khi đến nơi, Ngài đứng một bên, yên lặng để cầu vật thực. Cô gái, con vị chủ thôn khi thấy Đức Thế Tôn đứng yên lặng khất thực bên ngõ, thấy rồi nàng liền đến thỉnh bình bát từ trong tay Ngài, quay vào trong nhà đem đủ thức ăn trăm vị đựng trong bình bát rồi trở ra dâng cúng Đức Thế Tôn và bạch:

-Cúi xin Đức Thế Tôn thương xót con, nhận thức ăn này.

Đức Thế Tôn nhận thức ăn của nàng Thiện Sinh con chủ thôn, rồi bảo Thiện Sinh:

-Thiện Sinh, hãy lại đây thọ pháp Tam quy và Ngũ giới, người sẽ được nhiều sự an lạc lợi ích lâu dài.

Nàng Thiện Sinh nghe Đức Phật nói như vậy, bạch Phật:

-Thưa Đức Thế Tôn, con sẽ làm đúng như lời Thế Tôn dạy, không dám trái.

Nàng liền thọ Tam quy và Ngũ giới. Như vậy, nàng Thiện Sinh là người thọ Tam quy và Ngũ giới, làm vị Ưu-bà-di đầu tiên trong nhân loại. Đức Thế Tôn nhận vật thực từ nàng Thiện Sinh, con gái người chủ thôn, thọ thực xong, Ngài ngồi dưới cây Bồ-đề lại trải qua bảy ngày để thọ an lạc giải thoát.

Bấy giờ Đức Thế Tôn trải qua bảy ngày, ra khỏi Tam-muội, chánh niệm, chánh tri, rồi vào một buổi sáng Ngài đắp y, mang bình bát ung dung đi về hướng nhà Bà-la-môn Tư-da-na-đa. Đến nơi, Ngài đứng yên lặng một bên ngõ để khất thực. Thấy vậy, Tư-da-na-đa liền ra thỉnh bình bát từ nơi tay Thế Tôn, rồi trở vào trong nhà lấy đủ thứ canh thịt, thức ăn trăm vị đựng đầy trong bát, đem dâng cung cho Đức Phật, lại bạch:

-Cúi xin Đức Thế Tôn vì thương xót con nhận món ăn này.

Đức Thế Tôn nhận thức ăn từ nhà Tư-da-na-đa rồi bảo:

-Này Bà-la-môn, hãy đến đây thọ pháp Tam quy và Ngũ giới.

Vị Bà-la-môn nghe lời Đức Phật nói như vậy, y theo lời Đức Phật dạy mà thọ Tam quy và Ngũ giới.

Khi ấy Đức Thế Tôn nhận thức ăn từ nhà Bà-la-môn Tư-da-na- đa rồi ung dung trở về tháp Mạn-tha-na (nhà Tùy dịch là Giảo Lạc Mộc). Ăn xong, y như pháp, Ngài thâu cất y bát rồi trở lại dưới cây Bồ-đề ngồi kiết già trải qua bảy ngày… cho đến thọ an lạc giải thoát.

Bấy giờ Đức Thế Tôn trải qua bảy ngày, ra khỏi Tam-muội, chánh niệm, chánh tri, rồi vào một buổi sáng Ngài đắp y, mang bình bát dần dần đi hướng về bốn chị em thân quyến của Tư-da-na-đa. Bốn chị em này là: người thứ nhất tên là Bà-la (nhà Tùy dịch là Lực). Người thứ hai là Ma-để-bà-la (nhà Tùy dịch là Cực Lực). Người thứ ba tên Tung-đà-lê (nhà Tùy dịch là Đoan chánh nữ) và người thứ tư tên là Kiềm-bà-ca-lê (nhà Tùy dịch là Ngõa Sư). Khi Ngài đến nhà những người này rồi, đứng về một bên, im lặng khất thực. Bốn chị em thấy Đức Thế Tôn đứng yên lặng, liền ra thỉnh chiếc bát nơi Đức Thế Tôn rồi vào nhà lấy đủ các thứ canh thịt, thức ăn trăm vị, màu sắc tuyệt hảo đựng đầy trong bát, đem dâng lên Đức Phật, bạch:

-Cúi xin Đức Thế Tôn thương chúng con, nhận món ăn này.

Đức Thế Tôn vì lòng thương, nhận thức ăn trăm vị của bốn chị em. Nhận rồi, Ngài bảo bốn chị em:

-Chị em các ngươi lại đây, nhận nơi ta pháp Tam quy và Ngũ giới, các ngươi sẽ ở được an ổn, lợi ích lâu dài.

Bốn chị em nghe lời Phật dạy rồi liền bạch Phật:

-Y như lời Thế Tôn dạy, chúng con không dám trái ý.

Họ cùng nhau thọ pháp Tam quy và Ngũ giới.

Đức Thế Tôn đã thọ thức ăn của bốn chị em kia rồi, Ngài ung dung trở lại tháp Mạn-tha-na. Đến nơi, Ngài y như pháp thọ trai, rồi quay trở về ngồi dưới cây Bồ-đề trải qua bảy ngày thọ an lạc giải thoát.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn trải qua bảy ngày, ra khỏi Tam-muội, chánh niệm, chánh tri, rồi vào một buổi sáng Ngài đắp y, mang bình bát ung dung đi về phía cây Ni-câu-đà của người chăn dê trồng. Trên khoảng giữa đường đi từ cây Bồ-đề đến cây Ni-câu-đà, Ngài thấy có một người phụ nữ chăn trâu đang khuây lạc thành tô. Bấy giờ Thế Tôn từ từ đi đến bên người phụ nữ này. Khi đến cách người phụ nữ chẳng xa, Ngài đứng yên lặng khất thực. Người phụ nữ thấy Ngài đứng yên lặng chẳng xa, thấy rồi liền đến thỉnh bình bát, đem đựng đầy lạc dâng cúng Thế Tôn, bạch:

-Thưa Đại thánh Tôn giả, xin Ngài thương con, nhận món lạc này.

Đức Thế Tôn thọ nhận món lạc này nơi mục nữ và bảo:

-Này chị mục nữ, hãy đến đây thọ pháp Tam quy và Ngũ giới, người sẽ ở được nhiều lợi ích an lạc lớn lâu dài.

Lúc ấy mục nữ vâng lời dạy của Phật, thọ pháp Tam quy và Ngũ giới. Đức Thế Tôn tùy ý thọ thực, ăn xong, rửa bát rồi đi đến ngồi dưới gốc cây Ni-câu-đà của người chăn dê trồng, trải qua bảy ngày thọ hưởng an lạc giải thoát.

Bấy giờ Đức Thế Tôn sau khi trải qua bảy ngày, ra khỏi Tam-muội, chánh niệm, chánh định, lúc ấy bỗng có một Bà-la-môn dối nịnh tìm lỗi đi đến bên Đức Phật. Đến nơi, nói những lời hỏi thăm, rồi lui về đứng một bên, bạch Phật:

-Thưa Sa-môn Cù-đàm, tại sao gọi là Bà-la-môn? Bà-la-môn tu những pháp gì có bao nhiêu pháp?

Đức Như Lai biết rồi, liền phát ra tiếng Sư tử nói kệ:

Diệt trừ tất cả các nghiệp tội
Do vậy gọi là Bà-la-môn.
Tâm ý thanh tịnh, không dua nịnh
Trong ngoài chánh định, thường an trụ
Như pháp tu hành các phạm hạnh
Lời nói, ý nghĩ cũng như vậy
Đối với các nơi, đều không tham
Hiệu Bà-la-môn mới thành tựu.

Trong thời gian tám tuần, trong ba tuần đầu Ngài đều không ăn, năm tuần sau mới khất thực.

Thuở ấy Đức Thế Tôn an tọa trong Tam-muội tên là Biến quán thế gian. Khi đó Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn Vô thượng quán sát thấy nơi thế gian: Hoặc có chúng sinh ra khỏi địa ngục rồi đọa vào địa ngực, hoặc có chúng sinh ra khỏi địa ngục rồi đọa làm thân súc sinh, hoặc có chúng sinh ra khỏi địa ngục đọa làm thân ngạ quỷ, hoặc có chúng sinh ra khỏi địa ngục sinh làm thân người, hoặc có chúng sinh ra khỏi địa ngục sinh làm thân chư Thiên.

Hoặc có chúng sinh ra khỏi súc sinh đọa làm thân địa ngục, hoặc có chúng sinh ra khỏi súc sinh lại sinh vào súc sinh, hoặc có chúng sinh ra khỏi súc sinh đọa làm thân ngạ quỷ, hoặc có chúng sinh ra khỏi súc sinh được sinh vào nhân gian, hoặc có chúng sinh ra khỏi súc sinh được sinh lên cõi trời.

Hoặc có chúng sinh ra khỏi ngạ quỷ đọa vào địa ngục, hoặc có chúng sinh ra khỏi ngạ quỷ lại đọa vào ngạ quỷ, hoặc có chúng sinh ra khỏi ngạ quỷ đọa vào súc sinh, hoặc có chúng sinh ra khỏi ngạ quỷ được sinh vào nhân gian, hoặc có chúng sinh ra khỏi ngạ quỷ được sinh lên các cõi trời.

Hoặc có chúng sinh ở nhân gian chết rồi đọa vào địa ngục, hoặc có chúng sinh ở nhân gian chết rồi đọa vào súc sinh, hoặc có chúng sinh ở nhân gian chết rồi đọa vào ngạ quỷ, hoặc có chúng sinh ở nhân gian chết rồi lại sinh vào nhân gian, hoặc có chúng sinh ở trong nhân gian chết rồi được sinh lên các cõi trời.

Hoặc có chúng sinh từ trên cõi trời đọa vào địa ngục, hoặc có chúng sinh từ trên cõi trời đọa vào súc sinh, hoặc có chúng sinh từ trên cõi trời đọa làm thân ngạ quỷ, hoặc có chúng sinh từ trên cõi trời sinh xuống trần gian, hoặc có chúng sinh chết ở cõi trời rồi sinh trở lại cõi trời.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thấy các chúng sinh bị các kiến chấp trói buộc. Hoặc có chúng sinh bị lửa dục thiêu đốt thân thể, hoặc có chúng sinh bị lửa sân hận, hoặc lửa ngu si, thiêu đốt thân thể; hoặc có chúng sinh lệ thuộc ái dục, bị ái dục não hại lại sinh khoái lạc. Đối với tất cả phiền não khác như sân hận, ngu si cũng như vậy.

Đức Thế Tôn thấy các chúng sinh bị lửa ba độc thiêu đốt liền phát ra tiếng Sư tử rống:

-Các loại chúng sinh trong thế gian này bị cảnh giới nó ràng buộc, hăng say tạo các nghiệp nên có quả báo hình thể như vậy, thân chịu khổ não lớn, đắm trước các cánh nên phát sinh các tà ý. Tà ý luôn luôn tăng trưởng, do sự tăng trưởng đó tức thành cõi này là do chấp trước về hữu. Ở trong thế gian có các chúng sinh chấp trước về hữu, nên nghĩ đến cánh giới, liền sinh đến cảnh giới đó. Tất cả chúng sinh ở trong bao nhiêu cảnh giới, tức liền thọ khổ trong cảnh giới đó. Nếu chúng sinh nào diệt được các khổ đó, là nhờ tu học phạm hạnh trong pháp này. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn biết cái khổ đắm trước cảnh giới rồi biết cách ra khỏi cảnh giới.

Những hạng người này gọi là không đắm các cõi. Biết như vậy rồi có thể ra khỏi các cõi.

Ta nói như thế này: Nếu có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào cảnh giới mà nói muốn thoát các cõi, tất cả hạng người này không được gọi là thoát khỏi các cõi.

Ta nói những người như vậy như đọa vào tà đạo gọi là chịu cảnh khổ lớn. Ta nói thế này: Xả bỏ tất cả tà đạo ở thế gian thì diệt hết tất cả nghiệp báo khổ quả, đã diệt hết các khổ rồi thì gọi là không có cảnh giới. Tất cả ngã kiến của chúng sinh ở thế gian đều do vô minh lừa dối, nên ưa đắm các cảnh giới. Đắm các cảnh giới rồi thì không thoát khỏi các khổ của cảnh giới ấy. Nếu có người đối với tất cả chỗ quán sát các cõi, đối với tất cả chỗ vẫn chưa xa lìa được cảnh giới, phải ở trong cảnh giới. Đã còn ở trong cảnh giới rồi thì gọi là vô thường, là khổ, là không thật. Đối với pháp không thật biết đúng như vậy, chánh trí như thật, cần phải quán biết.

Nếu ai chánh trí quán biết như vậy thì diệt sạch các các cảnh giới và lòng tham ái cũng diệt sạch, đối với chỗ không có cảnh giới, cũng không sinh tâm niệm, như vậy được gọi là tịch diệt. Tỳ-kheo đã tịch diệt rồi, không còn sinh vào các cõi, không thọ thân đời sau, thì có thể đối với tất cả các trận chiến với ma, đều được đánh thắng và thu phục được ma quân, đối với tất cả mọi nơi đều được lợi ích lớn, đối với các cảnh giới không còn nghĩ tưởng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn suy nghĩ: ‘Tháp mà Ta chứng được rất cao siêu, khó thấy, khó biết, giống như vi trần khó trông thấy, là nơi không thể nghĩ bàn, là đạo không thể suy nghĩ. Ta không có thầy, không phải người có trí tinh xảo dạy Ta chứng pháp ấy. Nhưng các chúng sinh vướng mắc trong dục ý A-la-da nghĩa là dục lạc của ý (nhà Tùy dịch trước xứ), thích sống trong dục ý này, họ ở trong dục ý ưa thích lệ thuộc. Do tâm tham đắm này, họ khó thấy được pháp của Ta. Pháp ấy gọi là mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên là pháp tương sinh, tất cả chúng sinh không thể hiểu pháp này được, chỉ có Phật mới biết. Lại đối với nhiều nghi khó trừ và tất cả tà kiến Ta đều diệt sạch không còn. Đối với chỗ ái nhiễm, Ta đều lìa ham muốn, được tịch diệt Niết-bàn. Ta tuy đem những pháp như vậy nói với họ thì những chúng sinh ấy cũng chưa có khả năng chứng pháp này. Ta có nói ra cũng uổng công vô ích!”

Lúc ấy Đức Thế Tôn suy nghĩ như vậy là vì những pháp này xưa chưa từng nghe, chưa từng đạt được từ người khác, chưa có người nói ra mà chỉ tự mình biết rõ.

Ngài liền nói kệ:

Ta đã cực nhọc chứng pháp này.
Không thể vội vàng tuyên dương được
Ái dục, sân si nó buộc ràng
Tất cả chúng sinh bị nạn ấy.
Tâm trí tinh tế, lại ngược dòng
Vì điều thấy được như vi trần
Kẻ tham dục lạc khó thấy biết
Vì bị vô minh phủ tối tăm.

Do Như Lai thấy pháp rất cao siêu như vậy nên Ngài muốn vui cảnh vắng lặng, không muốn nói cho chúng sinh nghe. Có kệ:
Thấy các chúng sinh phiền não nặng
Tà kiến, tà đạo, nhiều lỗi lầm
Các pháp giải thoát sâu xa, khó
Biết vậy, muốn ở nơi thanh vắng.

Bấy giờ chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương đang ở cung Phạm thiên, từ xa biết được Thế Tôn có tâm niệm như vậy. Biết rồi, Phạm thiên liền nghĩ: “Tất cả chúng sinh trong thế giới này mất nhiều lợi ích, vì ngày nay Đức Như Lai Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã chứng được pháp bảo như vậy, thành tựu hoàn hảo như vậy mà thế gian chưa hay biết, nhưng ý Ngài lại muốn vui cảnh thanh vắng, không muốn thuyết pháp!”

Khi ấy Phạm thiên vương trong thời gian ngắn như lực sĩ duỗi cánh tay, liền ẩn thân nơi cung trời Đại phạm, giáng xuống trước mặt Đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng về một bên, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch:

-Lành thay! Đức Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở nơi thế gian đều mất hết điều lợi ích lớn, không có chỗ nương tựa. Hiện nay, Thế Tôn đã thật chứng Pháp bảo Vô thượng. Đã chứng rồi, bỗng nhiên Ngài muốn vui cảnh thanh vắng, không thích thuyết pháp. Con xin khuyến thỉnh Thế Tôn vì các chúng sinh chớ trụ trong cảnh tịch tĩnh. Cúi xin Đức Thiện Thệ từ bi thuyết pháp. Hiện nay có nhiều chúng sinh ít trần cấu, thiện căn thuần thục, kết sử yếu kém, lợi căn, dễ giáo hóa, không được nghe pháp, tất nhiên bị tổn giảm. Nếu bây giờ được Đức Như Lai thuyết giáo pháp thì để họ chứng được pháp tướng của thế gian.

Bấy giờ Đại phạm Thiên vương, chủ thế giới Ta-bà, nói lời như vậy rồi, lại dùng kệ thỉnh Phật:

Thế Tôn đang ở nước Ma-già
Nói pháp nguyên nhân của chúng sinh
Trước mở cửa pháp diệu cam lộ
Sau theo thứ lớp nói tịnh pháp.
Như người không lên đảnh Tu-di
Làm sao thấy được toàn thế giới?
Đại Thánh đã thành đạo Bồ-đề
Mau lên pháp đường dùng mắt trí
Hướng dẫn đám mù lìa các khổ
Thương xót tất cả các chúng sinh,
Thế nên mau rời cội Bồ-đề
Du hành nhân gian tế độ khắp
Đã dược tự lợi hơn người, trời
Các khổ diệt sạch dược an lạc
Thiện căn chư Phật không tăng giảm
Chứng pháp thanh tịnh đến bờ kia
Thế gian không ai sánh bằng Phật
Huống chỉ muốn hơn làm gì có.
Ba cõi độc nhất xưng Thế Tôn
Tu-la chẳng phải là núi chúa
Thế gian đau khổ khởi từ bi
Nay Ngài không nên bỏ chúng sinh.
Đầy đủ năng lực không sợ hãi
Chỉ có Thế Tôn độ hàm linh
Chúng sinh từ lâu bị tên độc
Nghĩa là người, trời khắp thế gian
Gặp được Thế Tôn được nhổ khỏi
Nguyện vì họ làm chỗ quy y
Chư Thiên, nhân loại ở thế gian
Phát tâm muốn nghe pháp bí mật.
Nay Ngài thành tựu, họ cầu mong
Xin thuyết đừng để họ bị đọa.
Thế Tôn, theo như con biết được
Nếu nay chúng sinh biết pháp này
Nghe do người khác hay tự nghe
Liền đến Thế Tôn lễ sát chân.
Giả sử cha mẹ cùng nam nữ
Chết rồi xương rã, tóc phân tán
Mà chẳng sầu thấy mình qua đời
Và không khóc cho các người kia,
Họ chưa biết được Ngài thanh tịnh
Từ trời Đâu-suất giáng trần gian
Do vậy con nay thỉnh Thế Tôn.
Từ lâu lạc đường nay được hướng
Chẳng nghe chánh pháp vô lượng kiếp
Như người gầy ốm có được thịt
Như đất khô ran được tưới nước
Cúi xin Thế Tôn tuôn mưa pháp.
Pháp bảo, chư Phật đâu có tiếc
Chư Thánh ba đời ưa thí pháp
Chư Phật quá khứ nhập Niết-bàn
Không phải là không thuyết chánh pháp.
Tôn giả nay cũng dòng tối thượng
Độ khắp chúng sinh vô số lượng
Cùng Phật quá khứ không khác nhau
Ngày nay đứng lúc thuyết pháp lành
Mở mắt trong sáng cho nhân loại
Để cho họ thấy đường chân chánh
Rừng gai tà kiến Ngài xông pha
Chỉ bày đường thẳng lìa nguy hiểm
Đi trên đường này được cam lộ.
Thế Tôn, người mù sắp xa hố
Người khác cứu vớt đều không được
Chỉ Phật dẫn dắt mới an toàn
Lại dùng phương tiện dạy phát tâm
Nay đã đến lức nguyện chớ từ.
Nhiều kiếp mới gặp xin đừng hẹn
Như hoa Ưu-đàm lâu mới nở
Chư Phật xuất thế thật khó gặp
Bỗng nhiên nay gặp Đại Đạo Sư
Ngài có sức tinh tấn vô biên
Thân thể trang nghiêm đủ tướng tốt
Chưa dạy vì chưa người phát tâm.
Kim khẩu không nói lời sai khác
Pháp ấy ba đời Phật thành tựu
Do vậy hôm nay Ngài đã ngộ
Phát tâm tinh tấn để độ người
Phát nguyện đúng thời lời chân thật
Thế Tôn soi sáng diệt vô minh
Nguyện Phật sớm dựng cờ đại pháp
Tuyên dương chánh pháp thật hợp thời
Rống tiếng Sư tử như trống trời
Con nguyện Như Lai ngồi thuyền pháp
Vào đời hướng dẫn vô lượng chúng.
Thế Tôn qua khỏi biển phiền não
Chúng sinh chìm đắm cần ra khỏi
Như người gặp được kho của báu
Làm giàu kẻ khác mình không dùng
Thế Tôn đắc pháp kho vô tận
Nguyện vì chúng sinh thuyết rõ ràng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nghe bài kệ khuyến thỉnh của Đại Phạm vương, vì chúng sinh khởi lòng từ bi, quán sát trong thế gian, dùng Phật nhãn quán sát rồi, thấy có chúng sinh sinh ra và lớn lên trong thế gian: Có kẻ thông minh, có kẻ đần độn. Những chúng sinh như vậy, có người dễ thành tựu đạo quả, có người thấy tất cả tội khổ đời vị lai, nên sợ sệt không dám phóng dật, thì ở đời vị lai cũng có thể thành đạo.

Ví như có ao sen xanh, ao sen hồng, ao sen trắng và ao sen trắng lớn, trong đó có các loại hoa: hoặc xanh, hoặc hồng, hoặc trắng, hoặc hoa trắng lớn, từ dưới đất mọc lên chưa ra khỏi nước còn chìm trong nước chưa xuất hiện, cần bốn đại hòa hợp nuôi dưỡng, rồi sau đó mới ngoi lên khỏi mặt nước. Hoặc có những hoa sen xanh, hoa sen trắng… lên ngang mặt nước. Hoặc có những hoa sen xanh, hoa sen trắng… nở vượt lên trên mặt nước, không còn dính nước.

Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán sát tất cả chúng sinh trong thế gian cũng như vậy. Hoặc có chúng sinh sinh trong thế gian, lớn lên nơi thế gian: Hoặc có kẻ thông minh, hoặc có người đần độn, hoặc có kẻ dễ giáo hóa, hoặc có kẻ dễ đắc đạo… Ngài biết như vậy rồi, nói kệ với Phạm thiên vương:

Vua trời Đại phạm lắng nghe rõ
Ta đang sắp mở cửa cam lộ
Nếu có thính giả hoan hỷ đến
Chí tâm nghe Ta nói pháp mầu.

Khi Phạm vương nghe kệ rồi, suy nghĩ: “Đức Như Lai Thế Tôn sẽ thuyết pháp, muốn thuyết pháp! Đức Thế Tôn thương ta mà nhận lời thuyết pháp.” Vì việc này mà Phạm vương rất vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân không thể tự chế, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi biến mất.

Thuở ấy Đức Thế Tôn nghĩ: “Ta nên bắt đầu thuyết pháp ở đâu? Ai là người như ý của Ta? Biết được pháp thể của Ta để khi chứng rồi không làm phiền Ta?”

Khi ấy, Đức Thế Tôn nghĩ: “Người ấy là Ưu-đà-la Ca-la-ma tử, có tâm trí khôn lanh, biện giải thông minh, từ lâu đã thành tựu. Tâm tuy còn có ít trần cấu, các phiền não kết sử đã yếu kém, căn tánh thuần thục, trí tuệ mẫn tiệp. Ta nên đến gặp ưu-đà-la Ca-la-ma-tử, vì người này mà nói pháp đầu tiên. Giáo pháp Ta nói ra, người ấy có thể mau chứng ngộ.”

Đức Thế Tôn suy nghĩ như vậy rồi, khi ấy có một Thiên tử ở trên hư không, ẩn thân hướng đến nơi Đức Phật mà thưa:

-Bạch Thế Tôn, Ca-la-ma tử đã chết cách đây bảy ngày.

Trong tâm Thế Tôn thấy Ưu-đà-ma tử thật sự qua đời cách đây bảy ngày. Đức Thế Tôn lại nghĩ: “ưu-đà-ma-tử sau khi qua đời sẽ sinh vào cõi nào? Sẽ sinh lên cõi trời Phi phi tưởng.”

Khi ấy Đức Thế Tôn lại nghĩ: “Tuổi thọ chúng sinh cõi trời Phi phi tưởng được bao nhiêu?”, thì tâm Thế Tôn liền biết tuổi thọ chúng sinh cõi trời Phi phi tưởng là tám vạn bốn ngàn đại kiếp.

Khi ấy tâm Thế Tôn suy nghĩ: “Ưu-đà-la Ca-la-ma tử nay đang ở cõi trời Phi phi tưởng. Sau khi xả tuổi thọ này lại sinh cõi nào?” Đức Thế Tôn dùng tâm biết được ông ta sau khi mạng chung đọa vào cõi Ta-bà làm loài chồn bay, mà sau khi thọ thân chồn bay rồi, hoặc sống trên nước, hoặc sống trên đất liền, hoặc bay trên hư không, thường ở trong đó sát hại các loài chúng sinh, hoặc cùng với các loài chúng sinh ấy hành dâm dục, sau khi báo thân hết, đói khát mà chết.

Khi ấy Đức Thế Tôn lại suy nghĩ: “Không biết ưu-đà-la Ca-la-ma-tử sau khi bỏ báo thân loài chồn bay sẽ thọ sinh vào cảnh giới nào?.” Lúc ấy tâm Thế Tôn liền biết ưu-đà-la Ca-la-ma tử sau khi mạng chung, bỏ thân chồn bay sẽ sinh vào trong địa ngục.

Rồi trong tâm Đức Thế Tôn lại suy nghĩ: “Ôi thôi, ôi thôi! ưu-đà-la Ca-la-ma tử, người nay không còn thọ sắc thân, mất lợi ích lớn, không được thọ báo thân tốt đẹp tuyệt hảo ở thế gian nên người không nghe diệu pháp này. Nếu nghe được diệu pháp của Ta, ngươi sẽ mau chứng pháp ấy.”

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại nghĩ: “Lần đầu tiên Ta nên vì ai thuyết pháp? Khi Ta thuyết pháp, họ không chống lại pháp của Ta, chẳng làm Ta phiền não mà mau chứng pháp Ta nói?”

Lúc ấy trong tâm Đức Thế Tôn tư duy biết thế này: “A-la-la Ca-la-ma từ lâu đã thành tựu trí tuệ hết sức khôn ngoan, tâm vi tế thông minh, ít cầu nhiễm, kết sử yếu kém, căn tánh lanh lợi. Ta nay đến nơi A-la-la Ca-la-ma thuyết pháp đầu tiên, nếu ông ta nghe được pháp này, quyết định sẽ mau chứng biết.”

Đức Thế Tôn suy nghĩ như vậy rồi, liền khi ấy có một Thiên tử ẩn thân đến nơi Thế Tôn bạch:

-Thưa Đức Thế Tôn, A-la-la Ca-la-ma vừa chết ngày hôm qua. Lúc ấy Đức Thế Tôn lại suy nghĩ: “Người dòng A-la-la sau khi từ bỏ xác thân cõi này, không biết sẽ sinh về nơi nào?”

Ngay Lúc ấy trong tâm Thế Tôn liền biết: “A-la-la sau khi mạng chung ở cõi này sẽ sinh về cõi Bất dụng xứ.”

Đức Thế Tôn lại thầm nghĩ: “Không biết chư Thiên cõi trời Bất dụng xứ thọ mạng dài ngắn thế nào?.” Lúc bấy giờ trong tâm Thế Tôn liền biết chư Thiên cõi trời Bất dụng xứ thọ mạng có giới hạn, thọ mạng ấy là sáu muôn ba ngàn đại kiếp.

Đức Thế Tôn lại nghĩ: “A-la-la sau khi ở cõi trời Bất dụng xứ mạng chung, lại sinh vào cõi nào?.” Lúc ấy Đức Thế Tôn lại biết: “A-la-la sau khi ở cõi trời Bất dụng xứ mạng chung sẽ sinh trở lại cõi Ta-bà này, làm vua tại vùng biên địa không biết chánh pháp.”

Đức Thế Tôn lại nghĩ thế này: “A-la-la sau khi làm vua cõi biên địa không biết chánh pháp mạng chung lại thọ sinh vào cõi nào?” Lúc ấy trong tâm Thế Tôn lại biết: “A-la-la làm vua cõi biên địa, sau khi mạng chung sẽ sinh vào đại địa ngục.”

Đức Thế Tôn lại suy nghĩ thế này: “Ôi thôi, ôi thôi! Người dòng họ Ca-la-ma không thọ thân người là một sự mất mát lớn, không được điều thiện lợi, vì không được nghe diệu pháp của Ta. Nếu người nghe được pháp này, liền sẽ mau chứng pháp ấy.