LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BẢO KINH CHÚ GIẢI
Tam Tạng pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, đời Tống vâng chiếu dịch.
Tỳ-kheo Thích Tông Lặc trụ trì Thiện Thế Thiền Tự ở Thiên giới đời Đại Minh,
Thích Như Dĩ trụ trì Diễn Phước Giảng tự vâng chiếu đồng chú giải.

 

QUYỂN BA
(Phần 1)

Phẩm 3: NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

1. Nói về ba thứ thân ý sinh:

Khi ấy, Đức Thế tôn bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ rằng: Nay ta sẽ phân biệt tướng chung của thân ý sinh. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ. Đại Tuệ bạch phật: Bạch Đức Thế tôn! Lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Có ba thứ thân ý sinh. Là thân y sinh Tam-muội lạc chánh thọ thân ý sinh, giác pháp tự tánh tánh thân ý sinh và chủng loại câu sinh vô hành tác. Người tu hành biết rõ tướng Địa thứ nhất tiến lên các địa được ba thứ thân”: Ba thứ thân ý sinh là đạo tự hành hóa tha của Bồ-tát Thông giáo, là Bồ-tát chẳng thể không biết, cho nên Như lai không đợi hỏi mà Đức Phật tự nói, ban đầu nêu bày ba tên, sau giải thích.

a) Này “Đại Tuệ! Thế nào là thân ý sinh Tam-muội lạc chánh thọ? Nghĩa là Tam-muội lạc chánh thọ của Thứ ba, Thứ tư, thứ năm Địa, cho nên các thứ tự tâm vắng lặng, an trụ trong biển tâm, tướng thức dậy sóng chẳng sinh. Biết cảnh giới tự tâm hiện tánh phi tánh, đó gọi là thân ý sinh Tam-muội lạc chánh thọ”. Nói Tam-muội lạc chánh thọ thân ý sinh, Bồ-tát này từ Tam địa đến Tứ địa dứt bỏ kiến hoặc, từ Ngũ địa đến Địa thứ bảy dứt tư hoặc, được chân không Tam-muội lạc. Tam-muội, Hán dịch là Chánh thọ. Nói Tam-muội lại nói chánh thọ, Hoa Phạm gồm nêu. Thân ý sinh, nghĩa là tác ý thành thân pháp tánh chân không. Các thứ tự tâm v.v… nghĩa là Bồ-tát chứng khác với Nhị thừa tâm sinh đắm vị, bị tướng gió thổi động, cho nên nói an trụ biển tâm. Lại khác với phàm phu dậy sóng mòi sáu thức, vì hiểu rõ tất cả cảnh giới chỉ do tự tâm hiện, đều không tự tánh. Đó gọi là thân ý sinh ban đầu, đây là tự hành.

b) Này “Đại Tuệ! Thế nào là thân ý sinh giác pháp tự tánh tánh? Nghĩa là địa thứ tám quán sát hiểu rõ các pháp như huyễn v.v… thảy đều không thật có, thân tâm chuyển biến, được Tam-muội như huyễn và các môn Tam-muội khác, vô lượng tướng, lực, tự tại, minh như hoa đẹp trang nghiêm chóng được như ý. Ví như huyễn mộng, trăng đáy nước, bóng trong gương, chẳng phải năng tạo chẳng phải sở tạo. Tất cả sắc các thứ chi phần đầy đủ trang nghiêm, nhập vào bất cứ cõi Phật nào trong tất cả cõi Phật có đại chúng, thông đạt pháp tự tánh. Ấy gọi là giác pháp tự tánh tánh ý sinh nhân”. Đây nói Bồ-tát nhập Địa thứ tám, hiểu rõ các pháp như huyễn, đều không có thật tướng, thân tâm chuyển biến không ngăn ngại, trụ các môn Tam-muội như huyễn, đến khắp cõi Phật, thần thông tự tại, như hoa đẹp trang nghiêm. Nhanh chóng trở xuống là nói như ý như huyễn v.v… đều nói hóa thân nhanh chóng vô ngại. Chẳng phải năng tạo, chẳng phải sở tạo: nghĩa là hóa thân sắc tướng khác với tứ đại thật tạo. Như năng tạo sở tạo, nghĩa là sắc tướng này tương tự với tạo. Như vậy huyễn tạo sắc tướng, đầy đủ phước tuệ trang nghiêm, thân đến các cõi nước, thông đạt các pháp này chỉ có tánh của ngã tự tánh. Đó gọi là tự tánh tánh thân ý sinh. Đây thuộc về hóa tha.

c) Này “Đại Tuệ! Thế nào là Chủng loại câu sinh vô hành tác thân ý sinh? Nghĩa là giác tất cả Phật pháp duyên, tự được tướng vui. Ấy gọi là chủng loại câu sinh vô hành tác thân ý sinh. Này Đại Tuệ! Đối với tướng ba thứ thân kia quán sát giác rõ, phải nên tu học”, ban đầu thì từ sinh tử giả nhập Niết-bàn không, kế là từ Niết-bàn không nhập lập ra giả, vẫn còn hai bên. Nay nhập Trung đạo, nghĩa là giác tất cả Phật pháp, v.v… Nói Bồ-tát từ Địa thứ tám trở lên kế vào địa vị Hồi Hướng. Biết rõ tướng các pháp mà các Đức Phật tự chứng tức là tự tâm ta, cho nên nói tự được tướng vui. Nói chủng loại câu sinh, bộ Phụ Hành chép: liễu ngộ pháp Phật chứng tức nhập Trung đạo, thuộc chủng loại Phật. Có chỗ cho rằng ngàn muôn chủng loại chẳng phải cũng tự nhập vào trong; căn cơ hóa độ cũng thành chủng loại Phật, nên gọi là câu sinh. Đến địa vị này, trí chuyển hành dung thông, gọi là vô hành tác, chưa chứng nhập đạo chỉ gọi là ý sinh, đó gọi là tướng ý sinh thứ ba. Ba thứ thân tướng này, là y cứ địa vị thứ lớp mà nói riêng. Trong quyển hai nói thí như ý đi nhanh chóng, y theo hai nghĩa xứ và nguyện mà giải thích, đó là giải thích chung, khuyên răn tu học như văn rất dễ hiểu.

2. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Chẳng ta ngồi Đại thừa
Chẳng nói cũng chẳng chữ
Chẳng đế, chẳng giải thoát
Phi cảnh giới hữu vô
Song nương vào Đại thừa
Được chánh định tự tại
Được các thân ý sinh
Hoa tự tại trang nghiêm”.

Bốn câu đầu của bài kệ y theo sự tự chứng của Như lai lìa tướng đều do phi ngôn, nghĩa là dù Đại thừa do lìa tướng nên không thừa mà có thể nương. Bởi lìa các danh tướng, vô chứng vô đắc mà cũng chẳng phải không có cảnh giới để nêu bày. Nhưng nương Đại thừa này, Thừa là năng thừa, Ma-ha-diễn tức là pháp sở thừa, chính là chỉ cho ba thứ thân ý sinh, đó là pháp Đại thừa. Tam-ma-đề tức sơ thân ý sinh trên. Các thứ ý sinh vượt ngoài chủng loại câu sinh thân. Hoa trang nghiêm là thân ý sinh trong bài tụng thứ hai.

3. Nói về năm nghiệp Vô gián:

“Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn nói nếu người nam, người nữ gây ra năm nghiệp Vô gián chẳng vào địa ngục Vô gián. Bạch Đức Thế tôn! Vì sao người nam, người nữ gây ra năm nghiệp Vô gián mà không đọa vào địa ngục Vô Trạch. Phật bảo Đại Tuệ: lắng nghe! Lắng nghe! Hạy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: thế nào là năm nghiệp Vô gián? Đó là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng, tâm ác làm thân Phật chảy máu”. Năm Nghiệp Vô gián rất ác nghịch, hễ người nào gây ra nghiệp này thì phải chịu quả báo đọa vào địa ngục Vô gián. Có lúc Như lai bảo rằng: cũng có người gây ra năm nghiệp Vô gián mà chẳng đọa vào địa ngục Vô gián: Vô Trạch tức Vô gián. Đại Tuệ chưa hiểu nên hỏi Phật, trong lời đáp trước hết y theo sự để nêu danh, kế là y theo pháp để giải thích. Danh từ tuy nghịch nhưng pháp thật chỉ thuận theo, nghĩa thấy ở văn sau.

4. Nếu dứt tham ái vô minh căn bản này tức là nghĩa giết cha mẹ:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là mẹ chúng sinh? Nghĩa là ái lại thọ sinh, cùng đi chung với tham và hỷ, như duyên nơi mẹ mà sinh thành. Vô minh là cha, sinh vào xóm làng sáu nhập mười hai xứ. Dứt bỏ hai thứ căn bản này gọi là giết cha mẹ”. Tham ái là mẹ, vô minh là cha, tức trong mười hai nhân duyên. Ái hiện tại lại từ thọ sinh, đi chung với tham và hỷ đời vị lai, đều có nghĩa sinh, như mẹ nuôi nấng. Lập tức sinh, do vô minh tham ái mà sinh vào xóm làng sáu nhập, mười hai xứ… Nếu dứt bỏ tham ái vô minh cản bản này tức là nghĩa giết cha mẹ.

5. Nêu ví dụ về người bị chuột cắn dụ cho A-la-hán:

“Các sử kia chẳng hiện như chuột độc phát các pháp, rốt ráo dứt bỏ nó gọi là hại La-hán”. Các sử kia chẳng hiện, nghĩa là La-hán đã dứt bỏ chánh sử, chưa dứt bỏ thói quen, như chuột cắn người vết thương tuy đã lành, nhưng gặp sấm chớp lại phát sinh. Dụ cho La-hán thói quen tuy không hiện nhưng gặp tướng gió lại bị dao động, như ngài Ca-diếp nghe tiếng đàn liền đứng dậy nhảy múa. Các pháp là pháp vô tri bất nhiễm ô, nếu dứt bỏ rốt ráo tức là nghĩa hại La-hán.

6. Nói về phá tăng

“Thế nào là phá tăng? Nghĩa là các ấm tướng khác hòa hợp chứa nhóm, dứt bỏ nó một cách rốt ráo gọi là phá tăng”. Hòa hợp gọi là tăng. Do năm ấm hòa hợp mà nói thì tướng khác là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Chứa nhóm tức năm ấm chứa nhóm sinh tử. Nếu dứt bỏ được tức là nghĩa phá tăng.

7. Nói về năm Vô gián bên trong và tổng:

Này “Đại Tuệ! Do bất giác ngoại cảnh tự tướng, cộng tướng, từ tự tâm hiện lượng nên bảy thức thân do ba thứ giải thoát vô lậu ác tưởng, dứt bỏ rốt ráo bảy thức Phật, gọi là ác tâm làm thân Phật ra máu. Nếu người nam người nữ gây ra việc Vô gián này, gọi là năm Vô gián, cũng gọi là Vô gián đẳng”. Do không giác cảnh bên ngoài tự tướng cộng tướng, nghĩa là không biết các pháp tự tướng, cộng tướng là do tự tâm hiện lượng, chính do mê thức thứ tám, chỉ còn bảy thức. Chỉ bảy thức vọng giác mà làm nghĩa Phật, chẳng phải hạnh của ba thứ giải thoát vô lậu thì chẳng thể dứt bỏ. Vô lậu vốn là thiện mà nói ác cũng thuận theo nghĩa giết hại. Phát được tâm này dứt bỏ rốt ráo bảy thức Phật, tức là nghĩa làm thân Phật chảy máu. Kinh Nhập Lăng-già chép: Dứt bỏ Tám thức thân Phật kia, lấy chín thức làm thức Phật, tám thức làm thân Bồtát, vì thể kia thuộc vô minh. Đây là năm Vô gián. Từ “nếu người nam trở xuống là tổng kết”.

8. Nói về năm Vô gián bên ngoài:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Có ngoại Vô gián, nay ta sẽ giải thích ông và các Đại Bồ-tát khác nghe nghĩa này rồi, ở đời vị lai chẳng rơi vào ngu si. Thế nào là năm Vô gián? Nghĩa là trước đã nói Vô gián, nếu người nào gây ra pháp này thì đối ba môn giải thoát mỗi môn chẳng 0 được pháp Vô gián v.v… Trừ người này ra, còn các vị hóa thần lực hiện Vô gián đẳng, như Thanh văn hóa thần lực, Bồ-tát hóa thần lực, Như lai hóa thần lực, vì người khác gây ra tội Vô gián để dứt nghi và hối quá. Vì khuyến phát nên dùng thần thực biến hóa, hiện Vô gián đẳng, không phải một bề gây ra tội Vô gián mà chẳng mắc tội Vô gián đẳng. Trừ người giác tự tâm hiện lượng lìa thân tài vọng tưởng, lìa ngã và ngã sở nhiếp thọ, hoặc khi gặp thiện tri thức giải thoát vọng tưởng nối nhau trong các cõi”. Năm Vô gián bên ngoài: ngoại là đối với nội. Vì chỉ cho năm Vô gián trước là trong, do thật gây ra nghiệp Vô gián là ngoài. Trên nói thực hành năm Vô gián được chứng Thánh trí, sợ người cho rằng thật gây ra nhân Vô gián cũng không chịu ác báo, cho nên lại nói đây: Nếu nghe việc năm Vô gián bên ngoài nghiệp báo không khác nhau thì bất sinh nghi ngờ, cho nên nói chẳng rơi vào ngu si. Nói trước đã nói: nghĩa là đối với các giáo khác từng nói Vô gián. Nếu gây ra nghiệp Vô gián này chắc chắn rơi vào địa ngục A-tỳ, đâu được ba pháp giải thoát Vô gián v.v… ư! Dưới đây là nói quyền tạo, quyền sẽ dẫn thật, Kinh Nhập Lăng-già chép: Thấy kia có gây ra nghiệp Vô gián, vì muốn khuyến phát giúp cho kia sửa lỗi, nên dùng năng lực thần thông thị hiện đồng với việc kia. Tầm tức là sám hối trừ tội chứng được giải thoát. Có chỗ nói rằng thực hành chẳng phải đạo, thông đạt Phật đạo, như Điều-đạt và vua A-xà-thế v.v… không có trở xuống: Là nói không có thật tạo mà không chịu quả báo Vô gián. Nhưng thật tạo chưa hẳn là không bao giờ đắc pháp ba giải thoát, cho nên nói trừ giác tự tâm hiện lượng, v.v… ý nói nếu rõ được các pháp duy tâm, trong không thấy thân, ngoài không thấy tài, lìa chấp người pháp. Hoặc ở dời vị lai thọ sinh trong các đường, gặp thiện tri thức lìa lỗi phân biệt, đều được giải thoát.

9. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Tham dục gọi là mẹ
Vô minh gọi là cha
Giác cảnh thức là Phật
Các sử là La-hán
Ấm nhóm gọi là tăng
Vô gián thứ lớp dứt
Gọi là năm Vô gián
Chẳng vào ngục Vô trạch”.

Trong bài tụng này, phần trên nói về năm Vô gián bên trong.

10. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về sở tri sở giác:

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin giảng nói tri giác của Phật. Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là tri giác của Phật? Phật bảo Đại Tuệ: giác người pháp vô ngã, biết rõ hai chướng, lìa hai thứ tử, dứt hai thứ phiền não, đó gọi là tri giác của Phật. Thanh văn, Duyên giác được pháp này cũng gọi là Phật. Do nhân duyên này nên ta nói Nhất thừa.

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Khéo biết hai vô ngã
Hai chướng phiền não dứt
Lìa hẳn hai thứ tử
Đó gọi trí giác Phật”.

Vừa rồi nói đạo giác Nhất thừa, ấy nói vẫn còn tóm lược, mà chưa hề nói sở tri, sở giác là pháp gì, do đó ở đây lại thưa hỏi. Phật bèn bảo, biết rõ hai thứ vô ngã gọi là giác, biết rõ hai chướng đó gọi là tri, cứu xét luận bàn người pháp, chúng sinh và Phật bình đẳng, vốn không có hai chấp cái gọi là chân như giới nội dứt bặt giả danh chúng sinh và Phật, đây là không chấp người. Trong tánh bình đẳng không có hình tướng tự tha, đây là không chấp pháp. Chúng sinh mê muội thành hai thứ ngã chấp, Như lai giác rõ bản tánh, hai chấp đều không, cho nên nói vô ngã. Hai chướng là hoặc chướng và trí chướng, tức hai thứ chấp trên là hoặc, hai không là trí. Đã do hai không nênk có hai chấp kia, là vô hoặc chướng, trí năng không cũng mất, đó là vô trí chướng. Hai chướng là nhân sinh tử, nhân diệt nên quả diệt, cho nên nói lìa hai thứ tử. Hai thứ tử là sinh tử phần đoạn và sinh tử biến dịch. Hai phiền não là hai hoặc chung và riêng. Hai hoặc này còn mãi đến cực quả mới thể dứt hết. Liễu đạt được như vậy gọi là tri giác của Phật. Hai thừa tuy là Tiểu thừa nhưng có thể hồi tâm hướng về Đại, như Phật giác tri là Phật mà thôi! Cho nên nói cũng gọi là Phật, do đó mà nói Nhất thừa này. Văn trùng tụng rất dễ thấy.

11. Nói về bổn sanh của Phật:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Đức Thế tôn ở trong đại chúng tuyên bố rằng: “Ta là tất cả Phật thời quá khứ và các thứ thọ sinh. Lúc bấy giờ ta làm vua Thánh Chuyển luân tên Mạn-đà, voi lớn sáu ngà và chim Anh Vũ, Thích-đề-hoàn-nhân, vị tiên

Thiện Nhãn… trải qua trăm ngàn đời như thế” nói kinh. Đạo của các Đức Phật ba đời đây là đồng, giác biết được trước sau, có quá khứ, hiện tại và vị lai khác nhau. Vì sao Thế tôn nói: Ta là các Đức Phật trong quá khứ, lại nói các thứ thọ sinh thì khác hình tướng. Đại Tuệ nêu lên hai nguyên nhân này để hỏi. Kinh Bổn Sinh chép: Ở quá khứ Như lai từng thọ sinh, như làm vua Chuyển luân và làm Thích-đề-hoàn-nhân, vị tiên Thiện Nhãn, voi lớn sáu ngà và chim anh vũ, trong trăm ngàn đời.

12. Nói về bốn đẳng:

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Do Bốn đẳng nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác ở trong đại chúng tuyên bố rằng”: “Ta khi ấy làm Phật Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm Mâu-ni, Ca-diếp”. Thế nào là bốn đẳng? Nghĩa là tự đồng, ngữ đẳng, pháp đẳng và thân đẳng, đó gọi là bốn đẳng. Do bốn thứ đồng nên Như lai Ứng cúng Chánh đẳng giác ở trong chúng tuyên bố như thế”. Phật bảo do Bốn đẳng nên làm Phật Câu-lưu-tôn v.v…, là thuận theo câu hỏi trên nói ta là các Đức Phật trong quá khứ, ”Bốn đẳng” nghĩa thấy ở văn dưới.

“Thế nào là tự đẳng? Hoặc chữ xưng ta là Phật, chữ kia cũng xưng tất cả các Đức Phật, chữ ấy tự tánh không có khác nhau, đó gọi là Tự đẳng”. Thế nào là ngữ đẳng? Nghĩa là ta có sáu mươi bốn thứ phạm âm nên tướng lời nói sinh. Các Đức Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác kia cũng có sáu mươi bốn thứ phạm âm nên tướng lời nói sinh cũng như thế, không thêm không bớt, không khác nhau tánh của Phạm âm thanh như Ca-lăng-tần-già. Thế nào là thân đẳng? Nghĩa là ta và pháp thân tướng tốt sắc thân của các Đức Phật không khác nhau. Trừ vì điều phục chúng sinh khác nhau ở các đường kia nên thị hiện các sắc thân khác nhau, đó gọi là thân đẳng. Thế nào là pháp đẳng? Nghĩa là ta và các Đức Phật kia được pháp ba mươi bảy phần Bồ-đề, trí lược nói Phật pháp không chướng ngại, đó gọi là bốn đẳng. Cho nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác ở trong đại chúng tuyên bố như thế. Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Ca-diếp Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm là ta
Do bốn thứ bình đẳng
Ta vì Phật tử nói”.

Bốn đẳng là chữ nói thân pháp có bốn thứ, đều bình đẳng. Tự đẳng, nghĩa là ta gọi là Phật, tất cả Như lai cũng gọi là Phật. Danh hiệu Phật không khác nhau, đó gọi là tự đẳng. Ngữ đẳng, nghĩa là ta có sáu mươi bốn thứ Phạm âm, tất cả các Đức Phật cũng giống như vậy, đó gọi là ngữ đẳng. Kinh Mật Tích Lực Sĩ nói âm thanh Phật có tám chuyển, đó là thể, nghiệp, cụ, vi, tùng, thuộc, ư và hô, đó là tám chuyển thanh, mỗi chuyển thanh có đủ tám đức: điều hòa, êm ái, chắc thật, rõ ràng, dễ hiểu không lầm lẫn, không tiếng cái nhỏ, tiếng to lớn, tiêng sâu xa. Tám nhân tám thì thành sáu mươi bốn thứ. Tần-già là tên chim, âm thanh chim này trong trẻo êm tai, hay hơn các loài chim khác, cho nên dẫn ra để dụ. Thân đẳng, nghĩa là ta cùng pháp thân, báo thân, ứng thân, hóa thân v.v… của các Đức Phật, tuy căn cơ khác nhau, ứng tích hoặc khác nhưng chỗ quy thú cũng chỉ là một mà thôi! Pháp đẳng: nghĩa là pháp đắc đạo phẩm không khác với các Đức Phật. Nói trí vô chướng ngại, nghĩa là được bốn đẳng này thì đối với tất cả các Đức Phật không có chướng ngại, cũng không mê muội đối với dấu dấu ứng hóa đồng khác của Như lai.

13. Nói về pháp duyên tự đắc và pháp bổn trụ:

“Đại Tuệ lại bạch Phật: như Thế tôn đã nói: ta từ đêm ấy được Tối chánh giác, cho đến đêm ấy vào Niết-bàn, ở khoảng giữa kia không nói dù chỉ một lời, cũng chẳng đã nói, sẽ nói, chẳng nói chánh là Phật nói”. Thế tôn! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, do đâu nói rằng không nói là Phật nói? Phật bảo Đại Tuệ: ta do hai pháp nên nói như thế. Hai pháp ấy là pháp duyên tự đắc và pháp bổn trụ, đó gọi là hai pháp, do hai pháp này nên ta nói như vậy”. Vì bốn đẳng có liên quan đến ngôn thuyên, cho nên lại dùng nghĩa từ đầu đến cuối không nói một chữ làm câu hỏi. Phật đáp dùng hai pháp ngã nhân, nghĩa là không có pháp để nói, gọi là Phật nói. Tự đắc tức tự chứng tu đức. Bổn trụ tức là vốn đây đủ tánh đức. Tu tánh như một, đều lìa lời nói, cho nên ta nói như vậy.

a. Thế nào là pháp duyên tự đắc? “Nếu Như lai kia chứng đắc ta cũng chứng đắc, không thêm không bớt. Pháp duyên tự đắc cảnh giới rốt ráo lìa lời nói vọng tưởng, lìa văn tự hai đường”. Nói cảnh giới tự chứng rốt ráo không khác với các Đức Phật. Đây là sự nhiệm mầu tự đắc còn không thêm bớt, đâu thể đắc mà suy tư lời nói. Cho nên nói lìa lời nói… Kinh Nhập Lăng Già chép: lìa tướng lời nói, lìa tướng danh tự, lìa tướng phân biệt. Đó gọi là hai đường chưa rõ ràng.

b. “Thế nào là pháp bổn trụ? Nghĩa là đạo của bậc Tiên Thánh xưa như tánh vàng bạc v.v… là pháp giới thường trụ. Hoặc Như lai ra đời, hoặc chẳng ra đời pháp giới cũng thường trụ, như đường đến thành kia. Thí như có người đi ở chỗ hoang vắng thấy con đường bằng phẳng đi đến một ngôi thành xưa, liền theo đó vào thành được vui như ý. Này Đại Tuệ! Ý ông nghĩ sao? Có phải người kia làm ra con đường ấy và làm ra các thứ vui trong thành chăng? Đáp: chẳng phải. Phật bảo Đại Tuệ: Ta và tất cả các Đức Phật đời quá khứ, pháp giới thường trụ cũng giống như vậy. Cho nên nói rằng: ta từ đêm ấy được Tối chánh giác, cho đến đêm ấy nhập Niết-bàn, ở khoảng giữa kia không nói một chữ, cũng chẳng đã nói, sẽ nói”. Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Ta đêm ấy thành đạo
Đến đêm ấy Niết-bàn
Giữa hai thời gian này,
Ta không hề nói
Pháp duyên tự đắc trụ
Nên ta nói như thế
Phật kia cùng với ta
Đều không có khác nhau.

Nói đạo của bậc Tiên Thánh xưa tức là pháp tánh đức của Phật trước đã chứng, như vàng cứng chắc chẳng phải do đúc luyện mà có. Pháp giới thường trụ cũng giống như vậy. Có chỗ nói có Phật, hay không Phật tánh tướng cũng thường như vậy. Lại nói pháp giới thường trụ, kiết cục vốn trụ trong pháp. Lại nói như con đường đi đến thành kia… ở đây ví dụ bao gồm chỗ quy về chỉ là một của hai pháp: tự đắc và bổn trụ. Nói con đường bằng phẳng là pháp bổn trụ, Sĩ phu vào thành hưởng vui, là pháp tự đắc. Do kia vốn có con đường, được theo đó mà vào, vào rồi yên ổn, đều chẳng phải vật bên ngoài. Nói tánh của hai pháp này vốn có, chẳng phải do lời nói suy tư mà được. Cái gọi là năm mươi năm Đại tạng giáo Đức Phật không nói một chữ, chẳng phải nói là không nói, bởi dùng lời bỏ lời, các Đức Phật ba đời kia quy về một đường. Văn kệ tụng đã nêu rõ, không cần giải thích.

14. Phật đáp câu hỏi và giải thích nghĩa:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Phật: cúi xin nói cho chúng sanh nghe tất cả pháp tướng hữu và vô hữu, giúp cho con và các Đại Bồ-tát khác lìa tướng hữu vô, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽnói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Thế tôn lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: “Thế gian này y có hai thứ, là y có và y không, rơi vào tánh và phi tánh, muốn thấy chẳng lìa, lìa tướng”, cho đến lý vắng lặng bặt dứt, chẳng phải có chẳng phải không, chúng sinh mê muội điều này sẽ rơi vào hai bên, không thể trở lại gốc, cho nên Đại Tuệ vì chúng mà nêu câu hỏi. Phật trước thuận theo câu hỏi mà đáp, sau giải thích nghĩa kia. Y có hai thứ v.v… nghĩa là chúng sinh thế gian nương vào cảnh hữu vô, khởi chấp hữu vô, rơi vào tánh phi tánh, tức chấp hữu vô. Kiến chấp về dục cho rằng ưa thích chấp này, chẳng phải pháp ra khỏi vọng cho là ra khỏi, cho nên nói không lìa, lìa tướng.

15. Giải thích Hữu tướng:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là thế gian năng hữu? Nghĩa là có thế gian do nhân duyên sinh, chẳng phải bất hữu, từ hữu mà sinh, chẳng phải không có mà sinh. Này Đại Tuệ! Kia nói như thế là nói thế gian không nhân. Này Đại Tuệ! thế nào là thế gian nương không? Nghĩa là nhận tánh tham, sân, si rồi, về sau vọng tưởng chấp đắm tham sân si, tánh phi tánh. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng chấp có tánh, vì tánh tướng vắng lặng, nên cho là các Đức Như lai, Thanh văn, Duyên giác chẳng chấp tánh tham sân si là hữu, là vô. Nương hữu, v.v… trở xuống là giải thích hữu tướng, nghĩa là thật có nhân duyên thế gian mà sinh ra các pháp, chẳng phải không thật có, thật từ hữu mà sinh”. Nói chẳng phải không có sinh, nghĩa là năng sinh nhân duyên là có, vì đây chấp không là có. Lại bảo rằng: kia nói như thế là luận thuyết vô nhân của ngoại đạo. Nương vô… là giải thích vô tướng, nghĩa là trước thọ tánh ba độc rồi, sau vọng tưởng tánh, phi tánh kia. Phi tánh tức vọng tưởng là không, nếu không vọng thọ ba độc là có tánh thì vô sở chấp, vô chấp thì tánh tướng xưa nay vắng lặng, như Phật và hai thừa, không chấp tánh ba độc, là lìa kiến chấp có không.

16. Thế nào là phá hoại Phật pháp?

Này “Đại Tuệ! Trong đây những gì là hoại? Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Nếu kia chấp tánh tham sân si, sau không còn chấp. Phật bảo Đại Tuệ: lành thay! Lành thay! Ông hiểu như thế. Này Đại Tuệ! Chẳng những tham sân si tánh phi tánh là hoại, mà đối với Thanh văn, Duyên giác và Phật cũng là hoại. Vì sao? Vì trong ngoài không thật có, vì tánh phiền não khác và chẳng khác”. Như lai đã giải thích tướng hữu vô để thuận theo lời thưa hỏi của Đại Tuệ, đây là hai câu thắc mắc thưa hỏi, thế nào là phá hoại Phật pháp? Đại Tuệ là đáp chấp tánh ba độc là có, sau chấp là không, đó là nghĩa phá hoại. Đức Phật có thể nói lời ấy, là nói rằng: chẳng những chấp vô là hoại mà cũng hoại hai thừa và Phật. Vì kia nói haithừa và Phật cũng vốn chấp ba độc là có, sau dứt ba độc là vô, được thành quả Thánh, cho nên nói cũng là hoại. Vì sao trở xuống là bậc Thánh liễu đạt các pháp trong ngoài đều không thật có, cũng biết rõ tánh phiền não, vốn lìa bốn câu: một, khác v.v… đâu có hoại.

17. Giải thích nguyên nhân không hoại:

Này “Đại Tuệ! Tham, sân, si, hoặc trong hoặc ngoài không thật có, tham sân si tánh không có thân, không chấp, chẳng phải Phật, Thanh văn, Duyên giác là hoại. Phật, Thanh văn, Duyên giác, vì tự tánh giải thoát, vì trói buộc và nhân trói buộc chẳng có tánh. Này Đại Tuệ! Nếu có người bị trói buộc thì lẽ ra nên có trói buộc là nhân phược. Này Đại Tuệ! Như thế nói hoại, đó gọi là không có tướng”. Tham, sân, si trở xuống lại giải thích nguyên nhân không hoại nên nói hoặc trong hoặc ngoài, nghĩa là tánh ba độc ở trong, ngoài, khoảng giữa tìm cầu đều không thật có. Đã không thật có thì đâu có thể tánh để chấp ư! Cho nên tổng kết nói rằng: chẳng phải Phật, Thanh văn, Duyên giác là hoại, vì Phật cùng hàng Nhị thừa bản tánh giải thoát chẳng trói buộc, chẳng thoát. Lại nói nếu có trói buộc, nghĩa là trước thọ mà sau không chấp thì đã có trói buộc, trói buộc là quả quả phải có nhân, nhân tức tham v.v… Có trói buộc thì có hoại, như vậy nói hoại tức là rơi vào đoạn diệt, kiến chấp không, nên nói tướng hữu vô.

18. Thà chấp người chứ đừng chấp không:

Này “Đại Tuệ! Do đó nên ta nói thà chấp người như núi Tu-di, chứ chẳng khởi chấp không, vô sở hữu, tăng thượng mạn. Này Đại Tuệ! không thật có tăng thượng mạn, đó gọi là hoại, rơi vào kiến chấp tự tướng, cộng tướng mong mỏi, chẳng biết tự tâm hiện lượng. Thấy ngoại tánh vô thường sát-na lần lượt hoại, ấm giới nhập nối nhau trôi chảy thay đổi, lìa tướng văn tự vọng tưởng, đó gọi là hoại”. Thà chấp chấp người v.v… do Đại đưa tới tiểu, nói về lỗi của chấp không, chấp người tức ngã kiến. Nói tăng thượng mạn, nghĩa là pháp tăng thượng mạn của tự mình, thành ra kiến mạn. Kinh dạy: chưa đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng, tức là người ấy. Điều ác về Chấp người có hạn, tăng thượng mạn chấp không thì không pháp nào không bỏ, đó gọi là hoại. Cho nên nói rằng: Thà khởi chấp người bằng núi Tu-di, chứ đừng khởi chấp không. Rơi vào kiến chấp tự tướng, cộng tướng… nói do khởi chấp không, vì từ vô thỉ khởi chấp tự sinh, cộng sinh, đối với dục lạc không hiểu rõ các pháp duy tâm, chấp có pháp bên ngoài, niệm niệm sinh diệt xoay vần biến hoại. Cái gọi là ấm nhập giới nối nhau trôi chảy biến diệt, chấp thật pháp này diệt rồi trở về không, đó là chấp không. Còn như luống dối phân biệt lìa tướng văn tự cũng thành nghĩa hoại.

19. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Hữu vô là hai bên
Cho đến cảnh giới tâm
Trừ sạch cảnh giới kia
Tâm bình đẳng vắng lặng
Không chấp tánh cảnh giới
Diệt phi, vô sở hữu.
Có việc đều như như
Như cảnh giới hiền Thánh
Không chủng mà có sinh
Sinh rồi mà lại diệt
Nhân duyên có, chẳng có
Chẳng trụ giáo pháp ta
Phi ngoại đạo, phi Phật
Phi ngã, cũng phi khác
Nhân duyên nhóm họp khởi,
Làm sao mà không được
Ai họp nhân duyên có.
Mà lại nói rằng không?
Tà kiến luận sinh diệt
Vọng tưởng chấp hữu vô
Nếu biết không chỗ sinh
Cũng lại không chỗ diệt
Quán đây đều vắng lặng,
Hữu vô đều xa lìa”.

Tám câu tụng trước là nghĩa chánh của nội giáo.

Vô chủng mà có sinh trở xuống, bài tụng này chấp sinh diệt có không, chẳng phải giáo pháp của ta. Bốn câu Phi ngoại đạo v.v… Phật là pháp do ta nói sinh ra, chẳng phải Phật chẳng phải ngoại đạo tạo tác, cũng chẳng phải thần ngã và nhân khác làm ra, chính là do nhân duyên hòa hợp mà sinh khởi. Nhưng do có khởi lời nói không được nói là không. Ai nhóm họp nhân duyên v.v… ý nói pháp do nhân duyên sinh chẳng phải ta có thể được, gì là có gì là không. Nếu phàm phù tà kiến sở luận, đó là vọng chấp có bất sinh diệt. Nếu biết sinh vốn bất sinh, diệt cũng chẳng diệt, tự nhiên khế hợp vắng lặng, không rơi vào hai thứ kiến chấp hữu vô, cho nên nói hữu và vô đều lìa.

20. Muốn khéo hóa đạo thì tông và thuyết đều phải thông:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin vì con và các Bồ-tát nói tướng của tông thông. Nếu khéo phân biệt tướng của tông thông thì con và các Bồ-tát thông đạt tướng ấy, thông đạt tướng ấy rồi mau thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng theo giác tưởng và các ma ngoại đạo. Phật bảo Đại Tuệ: lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ Bạch Phật:

Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát có hai thông, là tông thông và thuyết thông”. Muốn khéo hóa đạo thì tông thuyết đều thông phải, mới hướng dẫn chúng sinh đi đến đường chánh đạo được. Vì tông là nguồn gốc của đạo, thuyết là dấu vết của giáo. Tông để nêu rõ thú, thú không rõ thì lạc mất phương hướng quay về. Giáo để giảng giải lý, lý mờ mịt thì sẽ vào chỗ mê muội, cho nên tông thông mà thuyết chẳng thông thì lý tuy tinh tế mà không hiển hiện được, còn thuyết thông mà tông chẳng thông thì nói tuy rõ ràng mà chẳng quan trọng. Nhưng thật tướng hai thứ này phải là dụng, không thể phế bỏ. Đại Tuệ thỉnh nói về tướng tông thông mà không đề cập đến thuyết thông, nêu lên điều quan trọng, tông thông thì thuyết thông ở trong đó, trong đó đáp chung cả hai, văn sau nói rõ.

21. Nói riêng về tông thông:

Này “Đại Tuệ! Tông thông nghĩa là duyên theo tướng tự đắc thắng tiến, xa lìa vọng tưởng lời nói văn tự, đến cõi vô lậu tự giác địa tự tướng, xa lìa tất cả giác tưởng luống dối, hàng phục tất cả ngoại đạo các ma, duyên tự giác thú, ánh sáng chiếu soi, đó gọi là tướng tông thông”. Tông thông, tức là tự chứng tướng tốt đẹp, nghĩa là nương giáo pháp suy nghĩ tu hành, được ý quên lời, lìa xa văn tự phân biệt, vào trụ địa đắc vô sinh nhẫn, vượt qua ba thừa Thánh trí, tự nhiên hàng phục ngoại đạo, đạt đến Phật địa, rốt ráo giác trí xán lạn chiếu soi. Đây là tướng Tông thông chí cực.

22. Nói riêng về thuyết thông:

“Thế nào là tướng Thuyết thông? Nghĩa là nói chín bộ giáo pháp, lìa tướng khác, chẳng khác, có, không… do phương tiện khéo léo thuận theo chúng sinh, như ứng theo nói pháp khiến được độ thoát, đó gọi là tướng thuyết thông”. Này Đại Tuệ! Ông và các Bồ-tát khác phải nên tu học. Tướng thuyết thông, là tướng nói pháp hợp căn cơ. Chín bộ, là chín bộ trong mười hai bộ, nhưng có Đại thừa và Tiểu thừa khác nhau. Nếu Tiểu thừa thì chín bộ, không có ba bộ Phương Quảng, Vô Vấn Tự Thuyết và Thọ Ký. Như kinh dạy: Chín bộ pháp của ta là nói theo căn cơ chúng sinh. Nếu Đại thừa chín bộ thì không có ba bộ: Nhân duyên, Thí dụ, luận nghị. Như bộ Diệu Huyền đây là từ riêng mà đáp, thông luận có mười hai bộ, cũng nói mười hai phần giáo. Trong đây nói chín bộ, đã nói dùng phương tiện khéo léo nói thuận theo chúng sinh, chính từ Tiểu thừa nhập vào Đại thừa. Nói lìa khác, chẳng khác, có, không, nghĩa là lìa bốn câu đã không ngại bốn thuyết, lại nói: Như nên nói pháp, nên tức là phải. Sẽ dùng pháp gì dể nói, nghĩa là vì chúng sinh mà nói giúp cho họ được độ. Đây là kiết quả sau khi Như lai nói tướng thuyết thông, là Bồ-tát chẳng thể không học.

23. Đức Phật nói tụng để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

a) Tông thông và thuyết thông
Duyên tự và giáo pháp
Khéo thấy khéo phân biệt
Không theo các giác tưởng”.

Ba câu đầu là nói tướng của hai thông, khéo thấy là tông thông. Phân biệt là thuyết thông. Không theo các giác tưởng, nghĩa là đắc tướng hai thông, thì không theo vọng tưởng gương giác của ngoại đạo.

b). Chẳng có tánh chân thật,
Như kẻ ngu vọng tưởng.
 Vì sao khởi vọng tưởng
Phi tánh làm giải thoát?

Nếu chưa được chân như thật tánh mà khởi phân biệt, thì như kẻ ngu vọng tưởng không khác. Vọng tưởng là gì? Tức là vọng chấp các pháp phi tánh cho là giải thoát, phi tánh tức là vô.

c). “Quán sát các hữu vi
Sinh diệt thảy nối nhau
Thêm lớn hai chấp này
Điên đảo không hiểu biết
Một đó là chân đế
Không tội là Niết-bàn
Quán sát vọng tưởng đời
Như mộng, huyễn, cây chuối”.

Đức Như lai dùng mắt trí tuệ chân chánh quán sát các pháp hữu vi thế gian, đều hư huyễn sinh diệt, vọng chấp là thật, thêm lớn hai chấp hữu vô. Phàm phu điên đảo không hiểu biết, trừ một tâm mầu nhiệm chân như Niết-bàn, ngoài ra đều là luống dối, cho nên dụ rằng: Như huyễn, mộng, cây chuối. Vô tội, nghĩa là biết rõ tội tánh vốn không, tức là Niết-bàn.

d. “Tuy có tham, sân, si
Mà thật không có người
Từ ái sinh các ấm
Hữu đều như huyễn, mộng”.

Đây là giải thích lại nghĩa như huyễn… Nói tuy có ba độc, mà không có người năng khởi, vì hai ngã vốn không thì làm gì có ba độc.

Cho nên năng sinh ái dục và năm ấm sở sinh đều như mộng huyễn.

24. Tận nguồn vọng tưởng thì chân tánh tự sáng suốt:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho chúng con nghe tướng vọng tưởng chẳng thật. Vọng tưởng chẳng thật vì sao lại sinh? Nói pháp gì gọi là vọng tưởng chẳng thật? Đối với pháp nào là vọng tưởng chẳng thật? Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Ông khéo hỏi Như lai nghĩa như thế, được nhiều lợi ích an vui, thương xót tất cả người, trời ở thế gian. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Thế tôn Lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Do các thứ nghĩa, các thứ vọng tưởng chẳng thật chấp đắm vọng tưởng sinh. Này Đại Tuệ! Chấp đắm năng nhiếp, sở nhiếp chẳng biết tự tâm hiện lượng, rơi vào kiến chấp có không, thêm lớn vọng tưởng tập thói quen kiến chấp ngoại đạo, chấp đắm các thứ nghĩa bên ngoài, tâm, tâm sở vọng tưởng chấp đắm làm ngã, ngã sở mà sinh”. Hết vọng tưởng sẽ đến chỗ cùng cực, nêu bày chân tánh sẽ cùng tận nguồn gốc, tận nguồn kia thì chân tánh tự sáng suốt, cực đến kia thì vọng tưởng đâu có. Cho nên Đại Tuệ thưa hỏi tướng vọng tưởng không thật Phàm, gồm có ba nghi vấn: 1. Vì sao vọng tưởng sinh. 2. Pháp nào gọi là vọng tưởng? 3. Do đâu mà khởi vọng tưởng? Đức Phật theo thứ lớp trả lời.

Ban đầu đáp các nghĩa: Hễ ngoài các pháp có các tướng nghĩa đều là luống dối, do vọng tưởng mà sinh mới sinh ra các thứ vọng tưởng chấp chặt không thật. Tiếp theo đáp chấp chặt năng nhiếp, sở nhiếp, nghĩa là đối với chấp đắm căn trần không biết duy tâm hiện và rơi vào kiến chấp hữu vô, chấp các thứ ngoài tâm, các kiến chấp ngoại đạo y theo đó mà thêm lớn, đều là pháp vọng tưởng, biết pháp kia thì biết nguyên nhân của vọng. Sau cùng là đáp thói quen vọng tưởng, v.v… tức là chỗ nương ở trên. Lại nói rằng: tâm, tâm sở, vọng tưởng chấp đắm ngã, ngã sở sinh, tức nhân ngã và pháp ngã là chỗ đó. Biết nơi ấy thì biết nguồn gốc của vọng tưởng. Nguồn gốc đã không thật thì vọng liền diệt.

25. Lặp lại ý trên để nêu câu hỏi sau:

“Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu các thứ nghĩa, các vọng tưởng không thật, chấp chặt vọng tưởng sinh, chấp đắm năng nhiếp, sở nhiếp không biết tự tâm hiện lượng, và rơi vào kiến chấp hữu vô, kiến chấp ngoại đạo vọng tưởng tập khí các nghĩa bên ngoài thêm lớn, vọng tưởng tâm, tâm sở chấp đắm ngã, ngã sở sinh. Thế tôn! Nếu như thế thì các thứ nghĩa tướng bên ngoài rơi vào tướng có không, lìa tánh và phi tánh, lìa kiến, tướng. Bạch Đức Thế tôn! Đệ nhất nghĩa cũng giống như vậy, lìa tướng lượng căn, phần, thí, nhân. Bạch Đức Thế tôn! Vì sao một chỗ thì nghĩa vọng tưởng chẳng thật, các tánh chấp tướng vọng tưởng sinh? Chỗ thì chẳng chấp đắm tướng Đệ nhất nghĩa vọng tưởng sinh? Chẳng lẽ Thế tôn nói về tà nhân luận sao! Nên nói một sinh một chẳng sinh”. Đại Tuệ bạch Phật rằng trở xuống là lặp lại ý trên để sinh khởi câu hỏi sau, ý nói Phật nói như thế, thì đối với các nghĩa bên ngoài chấp đắm, rơi vào tướng có không, cũng là tánh lìa có không, lìa các kiến tướng. Nhưng Đệ nhất nghĩa cũng là lìa tướng các căn, lượng, tông, nhân, dụ, ý cho các nghĩa bên ngoài không khác với Đệ nhất nghĩa, vì sao nói các nghĩa sinh phân biệt, Đệ nhất nghĩa bất sinh phân biệt, đâu chẳng phải Thế tôn nói trái ý có khi sinh có khi bất sinh hay sao!

26. Phật nêu lên để giải thích:

“Phật bảo Đại Tuệ: chẳng phải vọng tưởng một sinh một chẳng sinh. Vì sao? Vì vọng tưởng hữu vô đều chẳng sinh, bên ngài hiện tánh, phi tánh. Giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Ta nói những kẻ ngu vì tự tâm các tướng vọng tưởng, sự nghiệp ở trước các thứ tánh tướng vọng tưởng chấp đắm sinh. Làm sao kẻ ngu lìa được chấp đắm ngã, ngã sở, lìa lỗi nhân duyên năng tác sở tác, giác tự vọng tưởng tâm lượng, thân tâm chuyển biến, rốt ráo hiểu rõ tất cả địa, cảnh giới Như lai tự giác, lìa năm pháp, tự tánh, sự kiến vọng tưởng! Do nhân duyên này nên ta nói vọng tưởng từ các thứ chấp đắm nghĩa không thật sinh ra. Biết nghĩa như thật được giải thoát các thứ vọng tưởng trong tự tâm”. Phật đáp do ngã chẳng phải luống dối phân biệt thế đế có khi sinh có khi bất sinh Đệ nhất nghĩa. Sở dĩ trở xuống là nêu giải thích, sở dĩ sinh, bất sinh, nghĩa là hiểu biết vọng tưởng có không, thấy ngoài pháp lìa tánh, hiểu rõ duy tâm hiện, nên vọng tưởng bất sinh, chẳng phải có Đệ nhất nghĩa đế riêng. Nhưng vì phàm phu không hiểu tự tâm hiện, chấp năng tác, sở tác hữu vi sự nghiệp hiện ra, đối với các thứ ấy khởi các vọng tưởng phân biệt chấp chặt! Chẳng có thế đế riêng. Phật lại nghĩ các kẻ ngu mê muội rằng: Làm sao có thể lìa nhân ngã, pháp ngã và lìa lỗi nhân duyên năng tác, sở tác. Lại nghĩ rằng làm sao có thể giác vọng tưởng đều tự tâm lượng, mà được thân tâm chuyển biến, rốt ráo hiểu rõ tất cả trí địa, đến cảnh giới tự chứng của Như lai. Lìa năm pháp, ba tự tánh, sự kiến vọng tưởng, sự tức danh tướng, kiến tức vọng tưởng, đã khởi niệm như thế, nên ta nói vọng tưởng từ chấp đắm các thứ luống dối chẳng thật mà sinh. Biết nghĩa như thật, nghĩa là có thể như thế mà hiểu rõ nghĩa như thật, thì được giải thoát dứt các vọng tưởng.

27. Phật nói tụng để nhắc lại ý nghĩ ở trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

a) “Các nhân cùng với duyên
Từ đây sinh thế gian
Vọng tưởng chấp bốn câu
Chẳng biết rõ ngã sở
Thế gian chẳng có sinh
Cũng lại chẳng bất sinh
Không từ hữu vô sinh
Cũng chẳng phi hữu vô
Các nhân và các duyên
Vì sao ngu vọng tưởng
Chẳng có cũng chẳng không
Cũng lại chẳng có không
Như lai quán thế gian
Tâm chuyển được vô ngã
Tất cả tánh bất sinh
Vì do từ duyên sinh
Tất cả duyên tạo ra
Tạo ra chẳng tự có
Sự chẳng tự sinh sự
Hữu có lỗi hai sự
Vô có lỗi hai sự
Chẳng có tánh thật có.”

Kệ từ đầu cho đến chẳng có tánh thật có, trong bài kệ, lỗi tạo ra nhân duyên, các nhân và các duyên, v.v… nghĩa là các pháp thế gian đều từ nhân duyên sinh, nhưng vọng tưởng là do chấp đắm pháp nhân duyên bốn câu hữu vô, v.v… Không biết lý mà Như lai thông hiểu, thế gian chẳng có sinh trở xuống là lìa tánh chấp bốn câu, nghĩa là các pháp vốn không có bốn tánh. Lại nói rằng: các nhân và các duyên v.v… vẫn tránh lỗi lầm trước, nghĩa là các pháp vốn không, vì sao kẻ ngu đối với pháp đó mà sinh vọng tưởng, chẳng những vốn không có tánh chấp bốn câu hữu vô mà cũng không chấp tướng bốn câu phi hữu phi vô, đầy đủ tánh tướng hai không như trong Đại luận. Nếu quán sát được như thế thì chuyển hai thứ chấp tánh tướng kia, được nhập trí người vô ngã, pháp vô ngã. Nhưng tánh thật chẳng sinh, từ duyên nên có, các pháp này đã từ duyên sinh thì pháp không tự thể. Lại nói rằng: sự không tự sinh sự thì sự tức quả. Hễ là pháp sở sinh có nhân thì có quả, như nghiệp nhân chiêu cảm quả sinh tử. Nhân kia vốn bất sinh thì quả đâu thể tự sinh quả, nếu không có quả tự sinh quả thì có lỗi hai sự, nhậm vận lìa tánh chấp có không, cho nên nói chẳng có tánh thật có.

b) “Quán các pháp hữu vi
Lìa phan duyên sở duyên
Tâm lượng của vô tâm
Ta gọi là tâm lượng
Lượng là chỗ tự tánh
Duyên sinh hai đều lìa
Tánh rốt ráo diệu tịnh
Ta gọi là tâm lượng”.

Từ đây đến cuối, trong bài tụng giác tự vọng tưởng tâm lượng hiển hiện cảnh giới tự giác của Như lai. Tám câu này nói lược về tâm lượng, không biết rõ các pháp duy tâm thì có cảnh sở duyên. Dùng chánh trí quán sát lìa tâm năng duyên, cảnh sở duyên. Đã lìa năng sở thì không có tâm phân biệt, đó gọi là duy tâm. Cho nên nói là tâm lượng. Tuy hiểu rõ các pháp duy tâm nhưng còn có tánh chấp đối cảnh, chưa thể quên niệm năng duyên thì duyên tánh đều phải lìa mới gọi là rốt ráo tâm lượng trong Như lai tạng tâm. Duyên tánh, duyên là năng duyên, tánh là là pháp sở duyên.

c) “Lập bày ngã thế đế
Ấy là việc không thật
Các ấm thân lập bày
Vô sự cũng như thế
Có bốn thứ bình đẳng
Tướng và nhân tánh sinh
Thứ ba vô ngã thảy
Thứ tư tu, người tu”.

Dưới đây nêu bày rộng về tâm lượng. Ngã thế đế là chấp nhân. Các ấm, ấm là chấp pháp. Nhưng hai thứ chấp này do tự tướng, cộng tướng cầu không thật sự để được, thì pháp đều bình đẳng, cho nên có bốn thứ chấp bình đẳng. Tướng là năm ấm, thì tướng và phi tướng bình đẳng. Tướng phải có nhân, nhân tánh và quả tánh bình đẳng, nhân quả đầy đủ nên có ngã, ngã và vô ngã bình đẳng. Hiểu rõ được vô ngã gọi là tu, thì hữu tu và vô tu bình đẳng.

d) “Thói quen vọng tưởng chuyển
Có các thứ tâm sinh
Cảnh giới hiện bên ngoài
Là tâm lượng thế tục
Hiện ngoài chẳng thật có
Tâm thấy các thứ kia
Dựng lập làm thân tài
Ta nói là tâm lượng”.

Vọng tưởng v.v… do vọng tưởng từ vô thỉ huân tập, thứ lớp chuyển sinh các thứ tâm thức, vọng tâm đã thấy có cảnh giới bên ngoài, đây là tâm lượng thế tục. Nhưng cảnh bên ngoài vốn không, do tâm chấp chặt mà thấy các tướng, tức năm trần v.v… Thân tài lập ra, nghĩa là năm thức thân tài tức vọng tưởng tâm lượng.

e) “Lìa tất cả các kiến.
Và lìa tưởng, sở tưởng
Không đắm cũng bất sinh
Ta nói là tâm lượng
Phi tánh, chẳng phi tánh
Tánh, phi tánh đều lìa
Là tâm giải thoát kia
Ta nói là tâm lượng
Như như và mé không,
Niết-bàn và pháp giới
Các thứ thân ý sinh,
Ta nói là tâm lượng”.

Bốn câu đầu nói nếu lìa được chấp nhân ngã chấp pháp ngã, lìa năng tưởng, sở tưởng, thì vô đắc vô sinh, đó gọi là tâm lượng chánh trí. Trong bốn câu nói lìa tánh chấp bốn câu hữu vô và lìa tâm năng lìa, cũng tức là tâm lượng chánh trí. Phi tánh tức phi hữu, phi phi tánh tức phi vô tánh. Phi tánh tức hữu vô, như Kinh Nhập Lăng-già chép. Bốn câu sau nói như như tức chân như. Mé không tức mé thật. Niết-bàn tức rốt ráo Đại Niết-bàn, Pháp giới tức pháp giới Phật, đây đều là một thể mà khác tên. Do lìa danh tướng vọng tưởng trước đến chỗ chánh trí. Do cùng cực chân như mé thật mà trụ trong pháp giới Niết-bàn năng thị hiện các thứ thân ý sinh, độ thoát chúng sinh, đó là tâm lượng Đệ nhất nghĩa tâm của Như lai.

28. Nói về ngữ:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn nói Đại Bồ-tát phải hiểu rành về ngữ, nghĩa. Thế nào là Bồtát hiểu rành ngữ, nghĩa? Thế nào là ngữ? Thế nào là nghĩa? Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Thế tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Thế nào là ngữ? Nghĩa là lời nói và vọng tưởng hòa hợp, nương vào cổ, họng, môi, lưỡi, răng, nướu, cằm, má, nhân đó ta nói lời nói vọng tưởng thói quen chấp chặt sinh, đó gọi là ngữ. “Như trước nói như như và pháp giới v.v… có câu hỏi khéo ngữ, khéo nghĩa”. Trong đây trước nói về ngữ, nghĩa là lời nói vọng tưởng v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Ngữ, có chỗ nói rằng do phân biệt thói quen làm nhân, nương vào cổ họng, môi, lưỡi… mà phát ra các âm thanh, tướng văn tự đối với bàn nói, đó gọi là ngữ.

29. Hiểu ràng về nghĩa:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là nghĩa? Nghĩa là lìa tất cả sự vọng tưởng, sự nói năng, đó gọi là nghĩa. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát đối với nghĩa như thế ở riêng chỗ vắng vẻ văn tư tu tuệ, duyên tự biết rõ, hướng đến thành Niết-bàn, thói quen chuyển biến rồi, cảnh giới tự giác quán xét nghĩa tướng khoảng giữa các địa mà thắng tiến, đó gọi là Đại Bồ-tát rành về nghĩa”. Nghĩa do ngữ hiển bày, nếu theo ngữ mà sinh kiến chấp thì chẳng những mất nghĩa mà còn quên danh cho nên thuận theo lìa tướng vọng tưởng và tướng lời nói, phải do khế chứng mới gọi là hiểu rành về nghĩa, cho nên ở đây nói về đạo tu chứng. Nói ở một mình nơi vắng lặng văn tư tu tuệ, đối với chân như pháp giới, tùy danh nghĩa mà kia nghe, tư tu quán sát, duyên tự giác trí, thú hướng Niết-bàn, chuyển vọng tưởng thói quen đã nói ở trước trở về cảnh giới tự giác, thực hành hành tướng thắng tướng ở các địa, đó gọi là hiểu rành về nghĩa.

30. Hiểu ràng về ngữ hiểu rành về nghĩa:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Bồ-tát hiểu rành về ngữ nghĩa, quán ngữ và nghĩa chẳng khác, chẳng phải chẳng khác. Quán nghĩa và ngữ cũng giống như thế. Nếu ngữ khác với nghĩa thì chẳng do ngữ mà nói về nghĩa, nhờ ngữ nhập nghĩa như đèn soi cảnh sắc”. Ngữ là ngôn giáo năng thuyên, nghĩa là nghĩa lý sở thuyên, nghĩa là khéo hiểu rằng thuyên là thông đạt sở thuyên, khéo hiểu sở thuyên thông đạt năng thuyên. Vì y theo lời nói Đại thừa tuy có năng thuyên, sở thuyên, mà năng sở không hai, nên nói chẳng phải khác chẳng phải chẳng khác. Nghĩa tuy vọng ngôn phi ngôn không thể giải thích nghĩa, nhưng phải nhờ ngôn mà nhập vào nơi nghĩa, như đèn chiếu soi sắc, Kinh Nhập Lăng-già chép: thí như có người dùng dèn chiếu soi các vật, biết vật này ở chỗ ấy chỗ ấy, nghĩa là nói tánh văn tự lìa tức là giải thoát, đó gọi là hiểu rành về ngữ, rành về nghĩa.

31. Chẳng thể nói thật có, chẳng thể nói thật không:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Chẳng sinh chẳng diệt, tự tánh, Niếtbàn, ba thừa, Nhất thừa, tâm, tự tánh… Như nương ngôn nói nghĩa chấp đắm, rơi vào chấp dựng lập và chê bai, khác dựng lập khác vọng tưởng, các thứ vọng tưởng như huyễn hiện. Thí như các thứ huyễn, chúng sinh phàm ngu cho là khác vọng tưởng, chẳng phải Thánh hiền”: Đoạn này nói tùy theo lỗi chấp đắm lời nói, như bất sinh bất diệt v.v… tuy đều là lý tánh danh ngôn nhưng nếu nói thật có thì rơi vào chấp thường, nếu nói thật không thì rơi vào chấp đoạn, huống chi các thứ khác ư! Khác dựng lập, khác vọng tưởng, nghĩa là nhờ lời nói mà dựng lập khác nhau mà khởi khác vọng tưởng chấp chặt, như thấy việc huyễn chấp cho là thật, đó là kẻ ngu chấp, chẳng phải Thánh hiền.

32. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Nói năng vọng tưởng kia
Dựng lập ra các pháp
Vì sự dựng lập kia
Chết rơi vào địa ngục
Trong ấm không có ngã
Ấm chẳng tức là ngã
Chẳng luống dối tưởng kia
Cùng lại chẳng vô ngã
Tất cả đều có tánh
Như phàm ngu vọng tưởng
Nếu thấy biết như thế
Tất cả nên thấy đế
Tất cả pháp vô tánh
Tịnh uế đều không có
Chẳng thật như kia thấy
Cũng không, chẳng thật có.

Trong bốn câu đầu, ý nói lỗi nương lời nói mà sanh kiến chấp không tránh khỏi quả báo ác. Nói trong ấm không có ngã v.v… đây là chấp của ngoại đạo. Hợp với cái gọi là trong ấm có ngã, trong ngã có ấm, tức ấm là ngã, lìa ấm là ngã, không nluống dối tưởng kia… nghĩa là tuy không như tà kiến của ngoại đạo kia đối với lời nói chấp đắm các thứ đều là ngã. Tất cả đều có tánh là chấp thường. Nếu nói tất cả pháp thật có tánh thì lẽ ra phải thấy đế, kia không thấy đế mà nói có tánh thì đó là thấy vọng mà thôi. Lại nói tất cả pháp vô tánh là chấp đoạn, đoạn thì tịnh uế không có, nên chẳng riêng ý này, nghĩa là không thật, v.v…chẳng như kia thấy v.v…

33. Phân biệt về sự chân vọng của các pháp:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Nay sẽ nói về Tướng trí thức, nếu khéo phân biệt tướng trí và thức thì ông và các Bồ-tát sẽ thông đạt tướng trí thức, chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Đại Tuệ! Trí kia có ba thứ: Đó là trí thế gian. Trí xuất thế gian và xuất thế gian thượng thượng. Thế nào là trí thế gian? Nghĩa là tất cả ngoại đạo, phàm phu chấp đắm hữu vô. Thế nào là trí xuất thế gian? Nghĩa là tất cả Thanh văn, Duyên giác rơi vào chấp đắm hy vọng tự tướng, cộng tướng. Thế nào là trí xuất thế gian thượng thượng? Nghĩa là các Đức Phật, Bồtát quán pháp không thật có, thấy chẳng sinh chẳng diệt, lìa các thứ có không. Như lai địa người pháp vô ngã, duyên tự đắc mà sinh”. Phân biệt về sự chân vọng của các pháp, nói về sự đúng sai của ngữ nghĩa, chẳng chuộng trí thức cho nên Như lai không đợi hỏi mà tự nói. Nhưng trí thức này có chung có riêng, nghĩa thấy trong văn. Ban đầu nói trí có ba thứ, y theo thế gian, xuất thế gian năng tri mà nói. Thế trí nói ngoại đạo, phàm người xuất gia không bẩm thọ giáo Pháp Phật thì đều gọi là ngoại đạo; trí kia cùng cực tuy đến phi tưởng, nhưng vọng chấp kia không ngoài hữu vô nên chỉ gọi là thế trí. Trong trí xuất thế, nói Nhị thừa rơi vào tự tướng, cộng tướng, do Nhị thừa quán sát ấm giới nhập, nhân duyên bốn đế, không ra ngoài trí tướng chung riêng. Nhàm chán sinh tử, ưa thích Niết-bàn, cho nên nói chấp đắm hy vọng. Trí xuất thế gian thượng thượng nói về quán pháp không thật có, nghĩa là các Đức Phật, Bồ-tát dùng trí thượng thượng, chiếu rõ các pháp đều rốt ráo không, vốn bất sinh diệt, lìa tướng có không, đến địa giác ngộ rốt ráo, lại không có sắc tướng kia đây, đâu có hai ngã, tự giác Thánh trí này không từ bên ngoài mà được.

34. Phân biệt trí và thức:

Này “Đại Tuệ! Sinh diệt kia là thức, chẳng sinh chẳng diệt là trí. Lại rơi vào tướng, vô tướng, và rơi vào các tướng hữu vô, vì thức này siêu việt tướng hữu vô là trí. Lại nữa, tướng nuôi lớn là thức, chẳng phải tướng nuôi lớn là trí”, đây là y cứ ba thức ba trí mà đối chọn, nói pháp sinh diệt thuộc chín cõi là thức, pháp bất sinh diệt thuộc cõi Phật là trí. Tướng vô tướng, tướng thì nói có, vô tướng thì nói không. Do chín cõi không ngoài hai bên hữu vô, rơi vào không hữu là thức, siêu việt không hữu là trí. Nói nhân tướng là nói theo quả, nuôi lớn là thức, chính là nói cứ người pháp vô ngã ở trước nói. Văn có chỗ nói sắc v.v… nuôi lớn tâm, hễ mượn trần bên ngoài nuôi dưỡng bên trong là thức, không có sự 08 giúp đỡ mà tự được ở bên trong là trí.

35. Nói về ba thứ trí:

“Lại nữa có ba thứ trí, đó là trí sinh diệt, trí tự cộng tướng và trí bất sinh bất diệt. Lại nữa, tướng vô ngại là trí, cảnh giới, các tướng chướng ngại là thức. Lại nữa, tướng ba việc hòa hợp sinh phương tiện là thức, tướng vô sự phương tiện tự tánh là trí. Lại nữa, đắc tướng là thức, không đắc tướng là trí. Cảnh giới tự đắc Thánh trí chẳng ra chẳng vào, cho nên như trăng đáy nước”: Đây là ba thứ trí, là nói theo sự hiểu biết của một người, y theo văn bài kệ sau, tức ba thứ mà Như lai biết: Biết sinh diệt là trí Nhất thiết. Biết tự tướng, cộng tướng là trí đạo chủng, biết bất sinh bất diệt là trí Nhất thiết chủng. Chỉ một trí Phật mà có ba dụng, gọi là ba trí. Lại nói tướng vô ngại là trí, nghĩa là đối với ba trí trước, nhất tâm dung hòa dứt bỏ tướng vô nhiễm ngại, gọi là trí, trái lại thì gọi là thức. Lại nói ba việc v.v… ba việc tức căn, trần và ngã. Hòa hợp tương ưng mà sinh gọi là thức, vì đây không biết tướng của tự tánh. Nếu biết tánh tướng thì một niệm linh tri không nhờ duyên sinh cho nên nói vô sự phương tiện tự tánh tướng là trí, lại nói đắc tướng, không đắc tướng là thức trí, tướng tức là tướng của tánh tướng, tướng chỉ là một, mà có sự khác nhau về lìa không lìa, cho nên nói đắc, không đắc. Tự dắc, nghĩa là Như lai tự đắc cảnh giới Thánh trí. Vì không dùng danh tướng hình dáng, nên nói chẳng ra chẳng vào, như trăng đáy nước.

36. Đức Phật nói kệ để nhắc lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Nhóm họp nghiệp thành thức
Chẳng nhóm họp là trí
Quán sát tất cả pháp
Thông đạt không thật có
Liền được sức tự tại
Nên gọi tên là tuệ
Buộc cảnh giới là tâm
Giác tưởng sinh là trí
Không thật có và thắng
Trí tuệ từ ấy sinh”.

Nói nhóm họp nghiệp, nhóm là chọn lấy, họp là gom lại. Do căn đối đối trần mà sinh chấp đắm, khởi nghiệp thiện ác chiêu cảm sinh tử, đó gọi là Thức. Hiểu rõ căn trần bặt dứt đối đãi, vật ngã đều quên, bất sinh chấp chặt, gọi là trí, như vậy quán sát nhân duyên sinh pháp, đương thể tức không, giải thoát tự tại, gọi là thượng thượng trí tuệ tức trí. Ngoài tâm không có cảnh, không hiểu rõ duy tâm, bị cảnh xoay chuyển, đó gọi là trói buộc, tâm tức là thức. Giác được vọng tâm này thì gọi là trí.

Không thật có trở xuống hai câu, nghĩa thấy đã giải thích ở trước.

37. Chuyển thức thành trí:

“Tâm ý cùng với thức
Xa lìa tưởng tư duy
Được pháp không nghĩ tưởng,
Phật tử chẳng Thanh văn
Nhẫn tịch tịnh thắng tiến.
Trí thanh tịnh Như lai
Sinh ra nghĩa thiện thắng,
Việc làm đều xa lìa”.

Tâm ý và thức gọi chung là Thức, trí xa lìa pháp nghĩ tưởng, được pháp không nghĩ tưởng, thì chuyển thức thành trí. Đây là Bồ-tát chứ chẳng phải Thanh văn. Ở đây là chỗ ban đầu của trí. Nhẫn tịch tịnh thắng tiến tức trí nhẫn vắng lặng của Như lai. Đây là chỗ cuối cùng của trí. Trí thanh tịnh này từ Đệ nhất nghĩa thiện thắng sinh ra nên những việc đã làm thảy đều xa lìa.

38. Ba sở trí là do Như lai khai phát: “Ta có ba thứ trí

Thánh mở bày chân thật
Đối kia suy nghĩ tưởng
Đều nhiếp thọ các tánh
Hai thừa chẳng tương ưng
Trí lìa các sở hữu
Chấp đắm nơi tự tánh
Từ các Thanh văn sinh
Vượt qua các tâm lượng
Như lai trí thanh tịnh”.

Ba thứ trí v.v… bài tụng trên nói ba sở tri là do Như lai khai phát cho nên các pháp sinh diệt sở tri cũng đều chân thật. Đại luận chép rằng ba trí là nhất tâm. Đối kia suy nghĩ tưởng v.v… lại nêu ra hai trí ở trước để nói lên trí thượng thượng. Nghĩa là phàm phu kia do vọng tưởng phải chịu các sinh diệt, hàng người thừa trái lại cho nên không tương ưng, lìa các sở hữu mà lại chấp chặt tự tánh thì là trí hai thừa mà thôi. Nếu trí Như lai cùng tột thanh tịnh thì vượt ngoài tất cả tâm lượng.

39. Ngoại đạo vọng chấp chín thứ chuyển biến luận:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! ngoại đạo có chín thứ chuyển biến luận, ngoại đạo chuyển biến kiến chấp sinh, đó là hình xứ chuyển biến, tướng chuyển biến, nhân chuyển biến, thành chuyển biến, kiến chuyển biến, tánh chuyển biến, duyên phân minh chuyển biến, sở tác phân minh chuyển biến, và sự chuyển biến. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là chín thứ kiến chấp chuyển biến, các ngoại đạo do đó khởi chấp hữu vô, sinh chuyển biến luận. Thế nào gọi là hình xứ chuyển biến? Nghĩa là hình xứ thấy khác, thí như vàng biến thành các vật khác thì có các thứ hình xứ hiển hiện, chẳng phải tánh vàng có thay đổi. Tất cả tánh thay đổi cũng giống như thế. Hoặc có ngoại đạo khởi vọng tưởng như thế, cho đến vọng tưởng sự biến, vì vọng tưởng kia chẳng phải như, chẳng phải khác”. Đây là ngoại đạo vọng chấp chín thứ chuyển biến luận, đó là hình tướng, nhân, thành… không ra ngoài các pháp bốn đại, năm ấm… ngoại đạo thấy kia sinh diệt tướng khác cho nên chấp có chuyển biến, mà chánh giáo thì gọi là duyên sinh, là như huyễn, là tự tâm hiện, ngoại tánh phi tánh là bất biến v.v… Nhưng không hề có luận thuyết chắc chắn. Ở đây thì tá chánh, được mất đều phân biệt. Hình là thân hình, tướng là tướng sinh trụ diệt, nhân là nhân sở tác, thành là quả sở thành; kiến là theo vật thay đổi, tánh là đời đời không thay đổi; duyên là nhân duyên biến diệt, Tác là tạo tác vô thường, sự là các pháp hữu vi. Đây là chín thứ. Nói nhân là nghĩ là có không, nghĩa là từ không mà có, hoặc là từ có mà không, đều do tướng chuyển biến không ra ngoài có không. Vì sao ở dưới giải thích hinh xứ chuyển biến? Vì bốn đại các căn hình chất xứ, ngoại đạo thấy hình tướng tuy thời chuyển biến khác nhau, nghĩa là có chuyển biến mà không biết tánh không hề chuyển biến, vàng biến thành các vật, các vât tuy có khác nhau, nhưng tánh vàng không thay đổi. Lại nói rằng tất cả tánh biến chuyển cũng giống như vậy. Tánh tức là pháp. Nói tất cả pháp tuy thay đổi mà tánh không hề thay đổi cũng giống như vậy. Hoặc có ngoại đạo v.v… là tổng kết bác bỏ kiến chấp của ngoại đạo. Nói vọng tưởng kia chẳng phải như, chẳng phải khác, nghĩa là đối với chẳng phải như, chẳng phải khác kia mà sinh vọng tưởng phân biệt cho nên có sự khác nhau về các thứ chuyển biến.

40. Bác bỏ ngoại đạo chấp tánh chuyển biến:

“Tất cả tánh chuyển biến như thế nên biết như sữa, lạc, rượu, trái cây… đã chín. Ngoại đạo chuyển biến vọng tưởng, họ cũng không có chuyển biến. Hoặc có hoặc không tự tâm hiện ra tánh phi tánh. Này Đại Tuệ! Chúng sinh phàm ngu như thế tự vọng tưởng tu tập sinh. Này Đại Tuệ! Không có pháp hoặc sinh hoặc diệt, như thấy mộng huyễn sắc sinh”. Như thế tất cả tánh trở xuống là phá ngoại đạo chấp tánh chuyển biến. Trước dùng ví dụ nói rằng phải biết, là răn bảo người học, phải biết kia chấp như sữa, lạc, rượu, trái cây… thứ lớp dần dần chín, kiến chấp của ngoại đạo cũng giống như vậy, nói theo lý mà nói thì vốn chẳng có thật, cho nên nói kia cũng không có chuyển biến, nhưng thật thì các pháp hữu vô v.v… đều do tự tâm hiện. Ngoại tánh phi tánh, là nói không có vật bên ngoài. Phàm ngu trở xuống, Kinh Nhập Lăng-già chép: Đều là phàm phu ngu muội từ thói quen phân biệt của mình mà sinh khởi, thật không có một pháp hoặc sinh hoặc diệt, như do mộng huyễn mà thấy các sắc, như gái bất dục nói có sinh tử, thế thì đối với sinh diệt mà bất sinh tà kiến là thế đế, thấy sinh diệt mà khởi chấp chặt là ngoại đạo. Thấy như mộng huyễn là do tu quán mà thông suốt, nên thấy các pháp đều tự tâm hiện. Biết rõ ngoại tánh phi tánh là luận thuyết chánh của kinh này.

41. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Hình xứ thời, chuyển biến
Bốn đại chủng các căn
Trung ấm thứ lớp sinh
Vọng tưởng chẳng minh trí
Tối thắng đối duyên khởi
Chẳng nluống dối tưởng kia
Nhưng duyên khởi thế gian
Như thành Càn-thát-bà”.

Bốn câu trước là nói tà chấp chuyển biến của ngoại đạo, nhưng đều là vọng tưởng phân biệt, kiến chấp chẳng phải minh trí. Bốn câu sau nói pháp do nhân duyên sinh do Đức Như lai nói tuy khác với kiến chấp của ngoại đạo nhưng cũng đều không thật tánh, cho nên nói như thành Càn-thát-bà.

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho chúng con nghe ý nghĩa tất cả pháp nối nhau và nghĩa giải thoát. Nếu khéo phân biệt tướng tất cả pháp nối nhau và không nối nhau thì con và các Bồ-tát khéo hiểu phương tiện khéo léo tất cả không rơi vào chấp đắm nối nhau như nghĩa đã nói, khéo đối với tất cả các pháp, tướng nối nhau không nối nhau, và lìa lời nói văn tự vọng tưởng, đến khắp tất cả cõi nước của các Đức Phật, vô lượng Đại chúng năng lực tự tại thông, được ấn tổng trì, các thứ biến hóa, ánh sáng chiếu soi, giác tuệ khéo nhập mười vô tận cú, không có hạnh phương tiện, ví như mặt trời, mặt trăng, ma-ni, bốn đại. Đối với tất cả địa lìa kiến chấp 12 tướng vọng tưởng của mình, thấy tất cả pháp như mộng, huyễn v.v… nhập thân Phật địa. Đối với tất cả chúng sinh giới tùy sự mong mỏi của họ mà nói pháp dẫn đường cho họ, đều khiến họ an trụ tất cả pháp như mộng, huyễn… lìa các thứ hữu vô và vọng tưởng sinh diệt, nghĩa của các lời nói khúc, thân kia càng thêm tốt đẹp”. Như lai nói pháp vì muốn chúng sinh biết rõ các pháp vốn không có tánh chấp, mà đối với lời nói khởi kiến chấp, gọi là tướng nối nhau, hoặc đối với văn tự tánh lìa gọi là không nối nhau, tức là sự giải thoát. Nối nhau, không nối nhau đây là căn bản của sinh tử giải thoát, cho nên Đại Tuệ cầu thỉnh nói nghĩa này. Nếu khéo phân biệt… nghĩa là Như lai vì khéo phân biệt hai thứ tướng này nên có thể khéo hiểu pháp này. Không rơi vào chấp đắm nối nhau như nghĩa đã nói và lìa lời nói văn tự luống dối phân biệt vọng tưởng, tức là phân biệt. Cho nên có thể đến khắp tất cả cõi Phật, tùy phương mà tiến đạo. Nói năng lực thần thông, ấn tổng trì, tức là pháp môn công đức đã được. Các thứ biến hóa… là nói khởi hóa dụng, phát ra ánh sáng chiếu soi các vật, khéo nhập Phật tuệ đầy đủ mười nguyện lớn, câu vô tận tức là nguyện. Nói không có hạnh phương tiện, tức là công hạnh vô tác. Ví như mặt trời, mặt trăng giữa không chẳng chỗ nương, như ngọc ma-ni tùy màu mà hiện, chứ không có tự tánh, như đất, nước, gió, lửa trùm khắp mà không ngăn ngại. Đây đều là tướng hóa đạo của Bồ-tát, cho đến trải qua các địa, lìa các vọng tưởng từng phần, thấy suốt các pháp như huyễn, như mộng, nhập Phật địa thành thân pháp tánh. Ứng hóa cùng khắp, tùy chúng sinh nói pháp, dần dần dẫn vào trong thật. Cũng rõ các pháp như huyễn, lìa kiến chấp hữu vô, dứt chấp sinh diệt, không đắm lời nói. Về sau công đức hóa độ quy về mình thì thân tướng kia càng thêm tốt đẹp.

42. Nói về chấp đắm nối nhau:

“Phật bảo Đại Tuệ: lành thay! Lành thay! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Vô lượng tất cả pháp, như nghĩa đã nói, chấp đắm nối nhau. Cái gọi là tướng chấp đắm nối nhau, duyên chấp đắm nối nhau, tánh phi tánh chấp đắm nối nhau, sinh bất sinh vọng tưởng chấp đắm nối nhau, diệt bất diệt vọng tưởng chấp đắm nối nhau, thừa phi thừa vọng tưởng chấp đắm nối nhau, hữu vi vô vi vọng tưởng chấp đắm nối nhau, địa địa tự tướng vọng tướng chấp đắm nối nhau, tự vọng tưởng Vô gián vọng tưởng chấp đắm nối nhau, hữu vô phẩm ngoại đạo y vọng tưởng chấp đắm nối nhau, Tam thừa Nhất thừa Vô gián vọng tưởng chấp đắm nối nhau”. Trong đây đáp trước hết nêu lên các tướng nối nhau. Nói vô lượng v.v… Nghĩa là mười giới, y báo chánh báo, sắc tâm trong mười cõi. Bắt đầu ở lời nói, cuối cùng ở không lời nói, dứt bỏ tâm chấp chặt kia, vì không thích hợp cho nên chẳng nối nhau. Vì thế nói như nghĩa đã nói chấp đắm nối nhau, nghĩa là tùy theo lời mà sinh hiểu biết. Trong đây nói, ban đầu y theo pháp thế gian, nghĩa là tướng tức năm ấm, duyên là sở duyên trần cảnh. Tánh phi tánh tức hữu vô, sinh bất sinh tức sinh tử, diệt bất diệt tức vắng lặng, không vắng lặng. Thừa phi thừa tức nội giáo và với ngoại đạo. Nói thừa nghĩa là vận tải, Đại thừa, Tiểu thừa thì năng chuyên chở chúng sinh vượt khỏi sinh tử mà đến Niết-bàn, ngoại đạo sở thừa không thể chuyên chở chúng sinh vượt khỏi sinh tử, nên gọi là phi thừa. Hữu vi, vô vi tức là pháp thế gian, xuất thế gian, cũng tác và vô tác. Địa địa tự tướng nghĩa là phân biệt danh tướng các địa. Tự vọng tưởng Vô gián, Kinh Nhập Lăng-già chép: Tự phân biệt chấp đắm hiện chứng, đó là pháp ái, là căn bản mà ngoại đạo chấp đắm về phẩm Hữu vô. Tam thừa Nhất thừa Vô gián, nghĩa là đối với Đại thừa giáo, Tiểu thừa giáo phân biệt không xen hở.

43. Tổng kết bác bỏ các vọng tưởng chấp đắm:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Đây và chúng sinh phàm ngu khác, tự vọng tưởng nối nhau. Do sự nối nhau này nên phàm ngu vọng tưởng như tằm làm kén, do tơ vọng tưởng tự trói, trói người, tướng có, không có nối nhau chấp đắm”. Đây là tổng kết bác bỏ các vọng tưởng chấp đắm trước đó. Đây và chúng sinh phàm ngu khác, là chỉ cho đệ tử trong nội giáo chấp còn nhẹ, các phàm phu khác, là chỉ cho ngoại đạo kia chấp rất nặng, cho nên nói phàm ngu vọng tưởng, như tằm làm kén, dùng vọng tưởng trói mình và trói người, không thể tự thoát được, cuối cùng rơi vào kiến chấp hữu vô, đoạn thường mà thôi!

44. Không có tướng nối nhau và chẳng nối nhau:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Trong ấy cũng không có tướng nối nhau và chẳng nối nhau, vì thấy tất cả pháp vắng lặng nên vọng tưởng chẳng sinh. Đại Bồ-tát thấy tất cả pháp vắng lặng. Lại nữa Này Đại Tuệ! Giác ngoại tánh phi tánh, tự tâm hiện tướng không thật có, thuận theo quán sát tự tâm hiện lượng, hữu vô tất cả tánh vô tướng, thấy nối nhau vắng lặng. Cho nên đối với tất cả pháp không nối nhau, tướng chẳng nối nhau. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Trong ấy không có hoặc trói hoặc mở, những người rơi vào sự giác tri không đúng như thật thì thấy có trói, có mở. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp hữu, vô hữu, không có chúng sinh thật có”. Trong đây văn có ba đoạn: Nói trong ấy v.v… tức chỉ tướng nối nhau không nối nhau ở trước, nghĩa là không có hai tướng này, do Bồ-tát thấy tất cả pháp trụ vắng lặng. Cho nên kinh nói: các pháp tướng xưa nay vốn vắng lặng, còn các pháp thế gian sinh diệt trôi chảy, làm sao thấy được sự vắng lặng kia; cho nên nói giác ngoại tánh phi tánh… nghĩa là hiểu rõ các pháp duy tâm, ngoài tâm không có pháp, quán như vậy có thể thấy pháp tướng hữu vô, thảy đều vắng lặng. Cho nên không có tướng nối nhau không nối nhau. Nói không có trói buộc, là do tướng nối nhau không nối nhau trước đều gọi là buộc, chỉ có quán trí vắng lặng mới gọi là mở. Nhưng trong như thật lý vốn không có buộc mở, sở dĩ có buộc, có mở là không chấp lý này. Đã nêu giải thích nói tất cả pháp hoặc có hoặc không, tìm cầu thể tánh kia đều không thật có. Cho nên nói chẳng có chúng sinh thật có.

45. Tham, sân, si là nhân nối nhau năm đường là quả nối nhau:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Kẻ ngu có ba thứ nối nhau: đó là tham, sân, si và ái, vị lai có hỷ ái, đều do sự nối nhau này nên có sự thù hướng nối nhau, nối nhau là tiếp nối trong năm đường. Này Đại Tuệ! Nối nhau dứt thì không có tướng nối nhau, không nối nhau. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Ba duyên hòa hợp, làm phương tiện chấp đắm, nên thức nối nhau không xen hở sinh ra. Phương tiện chấp chặt thì có nối nhau. Ba duyên hòa hợp thức dứt thì được ba giải thoát, tất cả sự nối nhau chẳng sinh”. Tham sân si là nhân nối nhau. Năm đường là quả nối nhau. Do nhân quá khứ thành quả hiện tại. Hiện tại làm nhân lại chiêu cảm quả báo đời vị lai. Nói ái đời vị lai, nghĩa là tham ái đời sau như ý quả báo cùng chung với hỷ ái. Do ba độc này nối nhau nên có sự trôi lăn trong các đường. Nói đường, là sáu đường, vì Tu-la ở khắp năm đường nên chỉ nói năm đường. Nói nối nhau dứt, nghĩa là ba độc dứt thì lìa năm đường, nghĩa là nhân diệt thì quả diệt. Lại nói không có sự nối nhau không nối nhau, cũng gọi là không buộc, không mở, tức cảnh và trí đều luống dối. Ba duyên hòa hợp v.v… nói ngoại dạo vọng chấp ba duyên căn, trần, ngã hòa hợp, các thức thứ lớp nối nhau mà sinh. Lại nói phương tiện chấp chặt, là có chấp đắm thì nối nhau không xen hở. Nếu hiểu rõ ba duyên, lìa các chấp đắm, được ba thứ giải thoát thì nối nhau bất sinh. Ba giải thoát là tánh tịnh giải thoát, Viên tịnh giải thoát và phương tiện tịnh giải thoát. Vì hiểu rõ ba duyên thì ba giải thoát chẳng phải có riêng.

46. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Vọng tưởng không chân thật
Là nói tướng nối nhau
Nếu biết chân thật kia
Lưới nối nhau sẽ dứt
Đối các tánh không biết
Tùy lời nói nhiếp thọ
Thí như con tằm kia
Nhả tơ mà tự trói
Kẻ ngu vọng tưởng trói
Không quán sát nối nhau”.

Sự nối nhau, không nối nhau trong bài tụng này, không ngoài chân vọng. Vọng thì nối nhau, chân thì không nối nhau. Nếu hiểu rõ vọng tức chân thì các pháp như một, đâu có nối nhau và không nối nhau! Nếu đối với các pháp không biết tùy ngữ mà chấp đắm, như tằm nhả tơ tự trói mình, trói người, không xen hở, do không quán sát, trái lại nếu quán nối nhau thì làm gì có.

 

LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO
KINH CHÚ GIẢI

QUYỂN 3
(Phần 2)

1. Ý Bồ-tát Đại Tuệ cho rằng tất cả pháp vô tự tánh:

Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Như Thế tôn nói: “Do các thứ vọng tưởng làm, vọng tưởng các tánh, chăng phải có tự tánh kia, chỉ là vọng tưởng tự tánh thôi! Bạch Đức Thế tôn! Nếu chỉ là tự tánh vọng tưởng, chẳng phải tánh, tự tánh đối đãi nhau, chẳng phải Thế tôn nói như vầy phiền não thanh tịnh, không có tánh lỗi chăng! Vì tất cả pháp do vọng tưởng tự tánh phi tánh”. Như Thế tôn nói… Đây là Đại Tuệ lãnh ý Như lai nói về các vọng tưởng, làm nguyên nhân đầu cho nghi vấn. Kia kia là nói các vọng tưởng kia. Nhưng các pháp vốn không có thật tánh, chỉ do vọng tưởng mà thôi! Nhưng Đại Tuệ còn có nghi, nói nếu chỉ là vọng tưởng tự tánh, chẳng phải các pháp có tự tánh, tự tánh này đối đãi với chẳng phải tự tánh, đâu chẳng phải Thế tôn nói các pháp nhiễm tịnh dều không thật tánh ư! Ý Đại Tuệ cho rằng tất cả pháp vô tự tánh, vọng tưởng có tự tánh là khó.

2. Có tự tánh là sai:

“Phật bảo Đại Tuệ: Đúng thế, đúng thế, như ông đã nói. Này Đại Tuệ! chẳng phải như kẻ ngu tánh tự tánh vọng tưởng chân thật, tự tánh vọng tưởng này chẳng có tướng tánh tự tánh”. Trong đây đáp trước có nói như thế, nghĩa là các pháp không có tự tánh gọi đó là vọng tưởng. Có tự tánh là sai, chẳng như kẻ ngu v.v… Nói không đồng với phàm phu kia vọng tưởng chấp tánh tự tánh cho là chân thật. Lại nói rằng vọng tưởng tự tánh này, v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Đây chỉ là vọng chấp, không có tánh tướng.

3. Nói có tánh tự tánh là hiển lý:

Này “Đại Tuệ! Như Thánh trí có tánh tự tánh, Thánh tri, Thánh kiến, Thánh tuệ nhãn. Cũng thế, Thánh tự tánh tri. Đại Tuệ bạch Phật: nếu bậc Thánh dùng Thánh tri kiến Thánh tuệ nhãn, chẳng phải thiên nhãn, chẳng phải nhục nhãn, tánh tự tánh biết như thế, chẳng phải nluống dối tưởng của kẻ ngu. Bạch Đức Thế tôn! Làm thế nào kẻ ngu lìa được vọng tưởng ấy. Vì chẳng giác việc Thánh tánh. Bạch Đức Thế tôn! Họ cũng chẳng điên đảo, chẳng phải không điên đảo. Vì sao? Vì họ chẳng giác Thánh sự tánh tự tánh, vì chẳng thấy lìa tướng hữu vô”. Trên đây là nói tự tánh phi tánh là bỏ tình. Đây nói có tánh tự tánh là hiển lý. Nhưng lý tánh như thật này, chẳng phải là Phật trí, Phật nhãn, chẳng thể thấy biết nên nói Thánh trí Thánh kiến v.v… Phật đã dùng cảnh giới tự chứng nêu bày, Đại Tuệ liền lãnh ngộ ý chỉ này. Lại thưa hỏi rằng: Nếu quả như Thánh tri kiến, chẳng phải tri kiến của phàm phu, cho nên nói chẳng phải thiên nhãn, chẳng phải nhục nhãn v.v… Do đó lại nghi và vặn hỏi rằng: Kẻ ngu đã không thể hiểu biết Thánh sự tự tánh thì làm sao lìa được vọng tưởng có thể hiểu rõ lý này! Do ở trên nói Thánh phàm chỗ thấy khác nhau, cho nên nói họ cũng chẳng phải điên đảo, cũng chẳng phải không điên đảo. Lại tự nêu giải thích nói rằng do chẳng giác Thánh sự tự tánh, là nói phàm phu chẳng phải không điên đảo; vì chẳng thấy lìa tướng hữu vô, nói bậc Thánh chẳng điên đảo. Vì chỗ thấy của bậc Thánh chẳng có gì là không chân thật, không thấy có một pháp nào xả bỏ.

4. Biết đúng như thật vọng tưởng không thật:

“Thế tôn! Bậc Thánh cũng chẳng như thế thấy như việc vọng tưởng, vì chẳng lấy cảnh giới tự tướng làm cảnh giới. Thế tôn! Kia cũng là tướng tánh tự tánh, vọng tưởng tự tánh như thế hiện, vì chẳng nói nhân, vô nhân, nghĩa là rơi vào chấp tánh tướng. Cảnh giới khác chẳng phải như kia v.v… như thế mắc lỗi vô cùng. Bạch Đức Thế tôn! Vì chẳng giác tướng của tánh tự tánh. Bạch Đức Thế tôn! Cũng chẳng phải vọng tưởng tự tánh do tướng của tánh tự tánh. Kia vì sao lại vọng tưởng chẳng phải vọng tưởng, như thật biết vọng tưởng. Bậc Thánh cũng không như vậy v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Bậc Thánh cũng không như phàm, chỗ phân biệt như vậy mà được, vì chẳng lấy cảnh giới tự tướng làm cảnh giới. Kia cũng tánh tự tánh, là nói bậc Thánh cũng có tánh tướng chân thật, bậc Thánh đã có tánh ấy, kẻ ngu ngu cố nhiên cũng có, cho nên nói vọng tưởng tự tánh như thế hiện. Nhưng tánh tướng Như lai chân thật lìa nhân duyên và vô nhân tánh, mà phàm ngu vọng tưởng tự tánh thì rơi vào kiếp chấp tánh tướng. Cảnh giới tu hành của bậc Thánh đã khác với phàm phu thì không như kia rơi vào cái thấy tánh tướng, mắc lỗi vô cùng. Do không thể giác biết rõ tướng tánh tự tánh, cũng chẳng phải vọng tánh tưởng tự v.v… nói tánh tướng các pháp không do đâu mà phân biệt, thì tại sao nói phân biệt mà có ư! Cho nên tổng kết vặn hỏi rằng: Phàm phu kia vì sao được vọng tưởng phi vọng tưởng, biết đúng như thật vọng tưởng không thật?

5.Cái thấy sai lầm của phàm phu:

Bạch Đức Thế tôn! Vọng tưởng khác, tướng tự tánh khác. Bạch Đức Thế tôn! Không có nhân tương tự tướng vọng tưởng tự tánh, kia vì sao mỗi mỗi chẳng vọng tưởng? Kẻ ngu không biết đúng như thật. Nhưng Phật vì chúng sinh lìa vọng tưởng nên nói như tướng vọng tưởng, chẳng như thật có. Bạch Đức Thế tôn! Vì sao ngăn chúng sinh có kiến chấp hữu vô, sự tự tánh chấp đắm, cảnh giới sở hành của Thánh trí chấp đắm rơi vào chấp hữu? Nói không pháp phi tánh, mà nói việc Thánh trí tự tánh. Nói vọng tưởng khác v.v… nghĩa là phàm phu phân biệt có khác, thấy các pháp tánh tướng có khác. Nói không có nhân tương tự, nghĩa là vì chỗ thấy không tương tợ. Các pháp đâu có thường mà tự cho rằng khác, chẳng khác. Mỗi mỗi là các pháp. Chỉ vì phàm ngu không thể giác biết đúng như thật! Nhưng Như lai nói các pháp như vậy, vì muốn cho chúng sinh lìa vọng tưởng, hiểu rõ các pháp đều chẳng thật có. Vì sao Thế tôn! ngăn chúng sinh v.v… là nói vì sao Thế tôn ngăn các chúng sinh không nên chấp đắm có không, mà sao lại chấp đắm cảnh giới Thánh trí rơi vào chấp có. Vì sao không nói pháp vắng lặng mà nói việc Thánh trí tự tánh ư!

6. Trụ trong cái không mầu nhiệm rốt ráo:

“Phật bảo Đại Tuệ: Chẳng phải ta nói pháp không phi tánh, cũng chẳng rơi vào chấp có, nói việc Thánh trí tự tánh. Nhưng vì muốn cho chúng sinh lìa câu sợ hãi. Chúng sinh từ vô thỉ đến nay chấp đắm tướng tánh tự tánh, Thánh trí sự tự tánh, chấp đắm tướng kiến nói pháp không. Này Đại Tuệ! Ta không nói tướng tánh tự tánh. Này Đại Tuệ! Ta chỉ trụ tự được không pháp như thật, lìa hoặc loạn tướng kiến, lìa kiến chấp tự tâm hiện ra tánh phi tánh, được ba môn giải thoát, ấn như thật ấn mà ấn, đối với tánh tự tánh được duyên tự giác quán sát trụ, lìa tướng chấp hữu vô”. Trong đây đáp, trước hết nêu vặn hỏi kia nói lìa câu sợ hãi, nghĩa là chúng sinh nghe bất sinh sợ hãi, nghe có sinh chấp đắm nên nói việc tự tánh Thánh trí để dẫn dắt. Nhưng việc Thánh trí tất nhiên chẳng phải có không, mà chấp có chính là nói không pháp để trị. Cho nên biết nói không nói có đều vì chúng sinh, thật ra Phật không hề nói có thật pháp. Cho nên nói rằng: ta không nói tướng tánh tự tánh, tức nêu bày pháp tự chứng rằng: Chỉ ta trụ được pháp không đúng như thật, tức vốn trụ trong cái không mầu nhiệm rốt ráo, không rơi vào tà kiến điên đảo hoặc loạn, mà thường ở Trung đạo, cho nên lìa các kiến chấp tự tâm hiện tánh phi tánh, liền được chứng ngộ ba thứ giải thoát, đạt được ấn chứng như thật, thấy pháp tự tánh, biết rõ cảnh giới bậc Thánh, lìa tất cả các sự chấp đắm hữu vô.

7. Nói về lý do không nên lập tông:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Tất cả pháp chẳng sinh, Đại Bồ-tát chẳng nên lập tông ấy, vì tông tất cả tánh phi tánh và vì nhân sinh tướng kia nói tất cả pháp chẳng sinh làm tông, tông kia sẽ hoại. Tông kia tất cả pháp chẳng sinh, tông kia sẽ hoại, vì tông có đối đãi mà sinh. Lại vì tông kia bất sinh, nhập tất cả pháp. Vì tướng bất hoại chẳng sinh lập tất cả pháp bất sinh làm tông, thì thuyết kia sẽ hoại. Này Đại Tuệ! Có không chẳng sinh làm tông, tông kia vào tất cả tánh tướng hữu vô chẳng thật có. Này Đại Tuệ! Nếu làm cho tông kia bất sinh thì dùng tất cả tánh bất sinh mà lập tông, như Thế tông kia hoại, vì tánh tướng hữu vô chẳng sinh, chẳng nên lập tông. Vì năm phần luận nhiều lỗi, vì xoay vần nhân tướng khác, và vì tạo tác, chẳng nên lập tông phần, cho rằng tất cả pháp bất sinh, như thế tất cả pháp không, như thế tất cả pháp vô tự tánh, chẳng nên lập tông”. Ở trên nói vọng tưởng và Thánh trí đều không, chính là chân vọng đều quên bỏ, là nghĩa bất sinh, sợ Bồ-tát lập đây làm tông, lẫn lộn đối với chấp đắm của ngoại đạo, cho nên nói dùng đây để bác bỏ. Nói tất cả pháp bất sinh thì nói tưởng đều dứt bặt. Nói đã chẳng đúng thì huống chi lập tông sai ư! Như ngoại đạo kia lập bất sinh tông, trái lại sinh cành lá, cho nên nói chẳng nên lập làm tông. Vì sao? Trở xuống là giải thích nghĩa kia, vì tông tất cả tánh phi tánh, ý nói tông phải có chủ. Nếu tông tất cả tánh, tánh tự phi tánh, thì nghĩa tông ở đâu? Hễ nói bất sinh thì phải có nhân sinh lập, đã có đối đãi thì bất sinh, thành nghĩa sinh tử hoại bất sinh, nên kia chẳng nên lập tông là một. Lại nữa tông kia bất sinh, sẽ nhập vào tất cả pháp. Nói nghĩa bất sinh này trùm khắp tất cả các pháp thế gian. Nói vì tướng bất hoại chẳng sinh, Kinh Nhập Lăng-già chép: tướng bất sinh cũng chẳng sinh, nói các pháp đều vốn bất sinh đâu đợi lập ư! Cho nên thuyết kia sẽ hoại, nên kia chẳng nên lập tông là hai. Nói hữu vô bất sinh, trước cho là vô vi bất sinh, ở đây là chuyển sang chấp hữu vô đều bất sinh. Nói nhập tất cả tánh, tánh tức pháp, nghĩa là hữu vô bất sinh, cũng trùm khắp tất cả pháp, đều lìa tướng hữu vô, dù có chuyển sang chấp tánh tướng hữu vô, đều không thể được, đây cũng là nghĩa bất sinh, kia không nên lập tông là ba. Năm phần luận nhiều lỗi, nghĩa của năm phần luận thấy chú giải ở trước. Nhiều lỗi chỉ ra ba lỗi của tông, nhân, dụ. Ban đầu “tông” có chín lỗi, đó là: hiện lượng trái nhau, Thánh giáo trái nhau, thế gian trái nhau, tỷ lượng trái nhau, tự ngữ trái nhau, phù hợp nhau cùng cực, năng biệt không cùng cực, sở diệt không cùng cực và câu biệt không cùng cực. Kế là “nhân” có mười bốn lỗi, đó là: Trùm khắp là y theo pháp tánh. Trong tướng ban đầu có bốn thứ không thành: Tùy một không thành, Sở y không thành, Lưỡng câu không thành. Do dự không thành. Hai tướng sau cộng chung có mười lỗi. Có sáu thứ bất định đó là: đồng phần dị toàn bất định, dị phần đồng toàn bất định, câu phẩm nhất phần chuyển bất định, cộng bất định, bất cộng bất định và quyết định trái nhau bất định. Có bốn thứ trái nhau: Pháp tự tướng trái nhau, Pháp khác nhau trái nhau, hữu pháp tự tướng trái nhau, Hữu pháp khác nhau trái nhau. Ba đồng “dụ” có năm lỗi, trong dụ riêng có năm lỗi. Trong đồng dụ chép: Sở lập bất thành, năng lập bất thành, câu bất thành, vô hợp, đảo hợp. Trong dụ riêng chép: Năng lập bất khiển, sở lập bất khiển, câu bất khiển, bất ly, Đảo ly. Gồm ba mươi ba lỗi, lần lượt nhân tướng khác, là nói kia chuyển chấp nhân tướng khác nhau và rơi vào hữu vi hữu tác, kia không nên lập tông là bốn. Lại cho rằng tất cả pháp bất sinh, lại nói không, lại nói vô tự tánh. Ba thứ này nếu mỗi mỗi lập tông thì có nhiều tông, vì thế kia không nên lập tông là năm.

8. Nói vì sao lập tông là trái:

“Này Đại Tuệ! Nhưng Đại Bồ-tát nói tất cả pháp như huyễn mộng, vì hiện tướng và chẳng hiện tướng và vì thấy lỗi của giác tưởng, nên nói tất cả pháp tánh như huyễn mộng. Chớ giúp cho kia sinh sợ hãi, lìa bỏ kinh Đại thừa”. Trên đã bác bỏ lập tông là trái. Ở đây nói về việc đó, cho nên nói với Đại Tuệ rằng: nên nói tất cả pháp như huyễn mộng, tướng hiện và chẳng hiện. Hiện chẳng hiện nghĩa là chẳng thật có. Và giúp cho chúng sinh xa lìa lỗi thấy, nghe, hay, biết. Lại nói rằng: Phải nói rằng dứt trừ vì kẻ ngu, vì kẻ ngu rơi vào cái thấy có không. chẳng nói như huyễn mộng thì không lìa hai kiến chấp kia. Lại sợ căn cơ Tiểu thừa nghe bất hữu bất vô này mà sinh sợ hãi, không theo Đại thừa nên răn bảo rằng: chớ để họ kinh sợ, xa lìa Đại thừa, ý khiến cho Bồ-tát tùy theo căn cơ mà nói pháp.

9. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

a) Tất cả pháp bất sinh, vốn vô tự tánh:

Vô tự tánh, không nói
Không sự, không nối nhau
Kẻ ngu kia vọng tưởng
Như ác giác thây chết
Tất cả pháp bất sinh
Chẳng phải tông ngoại đạo
Rốt ráo, không chỗ sinh
Tánh duyên được thành tựu
Tất cả pháp bất sinh
Người trí không khởi tướng
Vì tông kia nhân sinh
Người giác đều dứt trừ.

Bài tụng trên nói tất cả pháp bất sinh, nói tất cả pháp vốn vô tự tánh, đâu có lời nói, không lời nói thì vô sự, vô sự thì không có tướng nối nhau. Đây là từ đầu đến cuối đều bất sinh, chỉ do kẻ ngu kia vọng tưởng phân biệt lập tông bất sinh, vì kia vô tri ác giác như thây chết, nên Phật nói tất cả pháp bất sinh, đâu phải ngoại đạo kia lập tông bất sinh. Đến rốt ráo không có chỗ sinh… là nói tánh vốn bất sinh do nhân duyên mà sinh. Nhân duyên còn không thật có thì các pháp đâu có sinh ư! Nhưng người có trí tuệ còn không nghĩ là bất sinh, đâu có nghi là sinh, tông kia nói bất sinh, là nhân sinh mà có bất sinh, đó là có đối đãi. Người giác ngộ thì không có kiến chấp này, cho nên nói đều trừ diệt.

b) Dụ cho chẳng có mà có:

“Thí như mắt có màng
Vọng thấy tướng tóc rũ
Chấp đắm tánh cũng vậy
Kẻ ngu tà vọng tưởng
Lập bày ra ba cõi
Không có sự tự tánh
Lập bày việc tự tánh
Suy nghĩ sanh vọng tưởng
Tướng sự lập ngôn giáo
Ý loạn rất lăng xăng
Phật tử khéo thoát ra
Xa lìa các vọng tưởng”.

Thí như mắt có màng v.v… là nói sự khác nhau giữa chánh và tà. Mắt bệnh tóc rũ đều thấy ở trước đã có chú giải. Dụ cho chẳng có mà có. Ba hữu tức ba cõi, nghĩa là ba cõi vốn không, cho nên nói lập bày ra ba cõi, không có sự tự tánh. Lập ra là lập ra. Do vọng tưởng mà có lập bày, do đó Như lai lập ra ngôn giáo để giáo hóa, nghĩa là chỉ dùng danh tự giả huyễn để dẫn dắt chúng sinh, mà chúng sinh không thông đạt, trái lại đối với ngôn giáo khởi tâm phân biệt, loạn động tâm thức, cho nên nói ý loạn rất lăng xăng, chỉ có Bồ-tát mới xa lìa được lỗi này để vượt ra ba cõi.

c) Bồ-tát thấy được hữu vô bình đẳng thì thành quả Phật:

“Chẳng phải nước, tưởng nước
Đây từ khát ái sinh
Kẻ ngu lầm như thế,
Thánh thấy đó chẳng đúng
Bậc Thánh thấy thanh tịnh
Ba thoát, Tam-muội sinh
Xa lìa sự sinh diệt
Dạo trong vô sở hữu
Tu hành vô sở hữu
Cũng vô tánh, phi tánh
Tánh phi tánh bình đẳng
Từ đây sinh quả Thánh”.

Chẳng phải nước tưởng nước, là nói chẳng phải nước mà vọng tưởng là nước, vì khát cho nên như vậy. Cũng như nai khát nước thấy bóng nắng tưởng nước, bèn rong ruổi chạy đến tìm nước uống. Đây là dụ cho kẻ ngu chẳng có mà chấp có, bậc Thánh thấy đó không. Bởi bậc Thánh dùng Thánh trí quán thấy tướng ba cõi, không có phiền não sinh tử cho nên nói là thanh tịnh. Tam thoát tuệ là Tam-muội định. Định tuệ đã sinh, thoát ra sinh diệt, dạo trong vô sở hữu, vô sở hữu tức rốt ráo không. Nói tu hành vô sở hữu, Bồ-tát tu được như vậy, cũng khế hợp với lý phi hữu phi vô, cho nên nói cũng vô tánh phi tánh, như vậy thì hữu vô bình đẳng, thành quả Phật.

d) Phá hoại được chấp kia trở lại lý bản tâm bình đẳng:

Thế nào tánh phi tánh?
Thế nào là bình đẳng?
Rằng tâm kia chẳng biết
Trong ngoài rất xao động
Nếu phá hoại được kia
Tâm sẽ thấy bình đẳng.

Đức Phật tự nêu ra để giải thích, ý nói hữu vô bình đẳng, Thánh phàm như một, do mê ngộ nên có khác, mê thì chẳng biết ngoài tâm không có pháp, do gió cảnh giới làm xao động, ngộ thì dứt bỏ được kiến chấp kia, trở lại lý bản tâm bình đẳng.

10. Chỗ lập bày đều là vọng tưởng giả danh:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn nói như việc phan duyên trí tuệ chẳng được, đó là thi thiết lượng, kiến lập, sở nhiếp thọ chẳng có tánh, năng nhiếp thọ cũng chẳng có tánh. Do không nhiếp thọ cho nên trí chẳng sinh, chỉ là đặt tên mà thôi.” Do ở trên nói lìa phan duyên gọi là trí, lại dùng trí tuệ chẳng được thưa hỏi. Như Thế tôn nói việc phan duyên là nói trần cảnh thế gian, chính là việc mà kẻ ngu duyên theo. Dùng chánh trí quán sát đều không thật có, nên nói không được, đó là thi thiết lượng lập ra. Thi thiết tức là cảnh giới vọng tưởng dựng lập ở trước, cảnh giới đã không thật có, thì năng thủ, sở thủ cả hai đều không, cho nên nói trí thì bất sinh. Chỗ lập bày đều là vọng tưởng giả danh mà thôi.

11. Trí tuệ không thật có:

“Thế tôn? Vì sao tánh bất giác nên tự tướng, cộng tướng, khác, chẳng khác, mà người trí chẳng được ư! Vì tự tướng, cộng tướng, các thứ tướng, tánh tự tánh che khuất cho nên trí chẳng được! Vì núi đá, tường vách, nước, lửa, gió ngăn che mà người trí chẳng được hay sao! Vì rất xa hay rất gần mà người trí chẳng được ư? Vì già trẻ, mù lòa, các căn không đủ mà người trí chẳng được ư?” Bạch Đức Thế tôn! Nếu bất giác tự tướng, cộng tướng, khác, chẳng khác mà người trí chẳng được thì không nên nói trí, nên nói không trí, vì có việc không thật có. Nếu lại các thứ tự tướng, cộng tướng, tướng của tánh, tự tánh che khuất mà người trí chẳng được thì kia cũng vô trí, chẳng phải là trí. Bạch Đức Thế tôn! Vì có sở tri nên trí sinh, chẳng phải vô tánh, hiểu sở tri nên gọi là trí. Nếu núi đá, tường vách, đất nước, lửa gió rất xa hay rất gần, già trẻ mù lòa các căn chẳng đủ, mà trí chẳng sinh thì đây cũng chẳng phải trí, nên gọi là vô trí, vì có việc không thể thật có.

Đoạn trên đây nói trí tuệ không thật có, tất nhiên đã giải thích, sợ người học chưa hiểu nên lặp lại vài nghi vấn ý muốn cho họ phá trừ vọng trí để hiển bày chân trí. Mỗi vọng chấp thưa hỏi kỹ càng, ban đầu vì không học tánh của tự tướng cộng tướng… nghĩa là các pháp ấm, giới, nhập… đều không hiểu biết có tự tướng, cộng tướng, khác, chẳng khác. Cho nên nói trí không thật có. Lại nói vì tự tướng, cộng tướng, các thứ tướng, tánh, tự tánh che khuất, không được gọi là trí, như vặn hỏi các ở dưới thì trí không gọi là trí. Văn có nêu rõ không giải thích.

12. Bác bỏ câu hỏi ở trên:

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Chẳng phải như thế mà không trí, lẽ ra là trí, chẳng phải không trí, ta chẳng nói che lấp như thế. Việc phan duyên trí tuệ chẳng thật có, ấy là lượng thi thiết dựng lập. Giác tự tâm hiện lượng, hữu vô có ngoại tánh phi tánh, biết mà sự chẳng thật có. Vì chẳng thật có nên trí tuệ đối với trí chướng bất sinh. Thuận theo ba môn giải thoát, trí cũng chẳng thật có. Chẳng phải vọng tưởng từ vô thỉ tánh, phi tánh, thói quen luống dối, hiểu biết như thế, đây biết kia chẳng biết”. Trong đây đáp nói là chẳng đúng, là bác bỏ vặn hỏi kia. Nói vô trí tức là trí, phi trí mà trí thể cũng không thật có, cho nên nói phi phi trí. Nếu theo Đại luận thì vô trí là không, đáng lẽ trí này là giả. Phi phi trí là trí Trung đạo. Ba trí như thế được trong một tâm, đắc mà không đắc, đó gọi là trí tuệ bất đắc. Ta chẳng nói che lấp như thế, ý Phật dạy ta nói như thế, là hiển bày chẳng che lấp. Tuy cũng thường có thuyết che lấp, như văn sau có nói… Nhưng, thích hợp với ẩn thì ẩn, thích hợp với hiển thì hiển. Ở đây chẳng phải ẩn. Giác tự tâm hiện lượng trở xuống chính là hiển bày chân trí, nghĩa là hiểu rõ cảnh hữu vô do tự tâm hiện. Ngoại tánh phi tánh, là các pháp vốn không, như vậy mà biết, biết mà không biết, đó gọi là sự chẳng thật có, sự tức là cảnh, cảnh đã không thật có thì trí cũng bất sinh. Sở tri là trí chướng. Nhập ba môn giải thoát trí thể cũng mất. Chẳng vọng tưởng là phân biệt với biết vọng, nghĩa là chẳng phải như tất cả phàm phu vọng tưởng huân tập luống dối có không từ vô thỉ đến pháp trí, biết các pháp duy tâm, biết sự vật kia mà không biết tự tánh, thì mất trí ở vật, nên nói đây biết kia chẳng biết.

13. Do phân biệt nên đối với pháp bên ngoài hữu vô quán chẳng thật có mà sinh chấp đoạn:

“Cho nên đối với việc bên ngoài, chỗ nơi, tướng tánh, vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt. Tự tâm hiện lượng, dựng lập, nói tướng ngã, ngã sở nhiếp thọ chấp đắm. Chẳng giác tự tâm hiện lượng, đối với trí sở tri mà khởi vọng tưởng. Vọng tưởng nên ngoại tánh, phi tánh, quán sát chẳng được, nương vào chấp đoạn”. Đây là nương văn trên mà nói, nghĩa là kia vọng biết đối cảnh giới bên ngoài, hình tướng hữu vô, phân biệt không dứt, đây là đối với tự tâm hiện lượng vọng tự lập ra, chấp nhân ngã, pháp ngã mà sinh chấp đắm, do không giác biết là tự tâm lượng nên đối với cảnh bên ngoài ở trước vọng tưởng chẳng dứt rơi vào chấp thường, đối với hậu trí thể năng sở không quên, chuyển thành trí chướng mà khởi phân biệt. Do phân biệt nên đối với ngoại pháp hữu vô quán sát chẳng thật có, mà sinh chấp đoạn.

14. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng: 

“Có các việc phan duyên
Trí tuệ chẳng quán sát
Đây vô trí, phi trí
Nói cho người vọng tưởng
Đối tánh tướng chẳng khác
Trí tuệ chẳng quán sát
Chướng ngại và xa gần
Đó gọi là tà trí
Già trẻ các căn tối
Mà trí tuệ chẳng sinh
Thật sự có trí chướn
Ấy cũng gọi tà trí”.

Có cảnh để duyên, là trí phàm phu, biết rõ cảnh duy tâm là trí của chánh trí. Chánh trí thì vô duyên mà duyên, đó gọi là vô trí. Vì vô trí này là phi trí, là nói vọng tưởng của phàm phu. Bài tụng trên nói về ý nghĩa trí tuệ không thật có, đối với tánh tướng chẳng khác, trí tuệ chẳng quán sát, tự tướng, cộng tướng khác, chẳng khác trong bài tụng này. Ý nói không quán sát, tức là trí tuệ không thật có, còn các điều khác đều có thể thấy trong bài tụng.

15. Lại nói về tông thông và thuyết thông:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si luống dối từ vô thỉ, bị ác tà vọng tưởng xoay chuyển. Khi bị xoay chuyển thì tự tông thông và thuyết thông không khéo hiểu biết, vì chấp tánh tướng bên ngoài do tự tâm hiện nên chấp thuyết phương tiện, đối với tướng chung thanh tịnh bốn câu của tự tông chẳng khéo phân biệt. Đại Tuệ bạch Phật: Thật như Thế tôn dạy, xin Thế tôn phân biệt thuyết thông và tông thông. Con và các Đại Bồ-tát hiểu rõ hai thông, phàm phu, Thanh văn, Duyên giác đời sau nghe được sẽ hết lầm lạc”. Tướng tông thông, thuyết thông trước đã nói rồi, ở đây lại nói là vì sao? Trước chung ba thừa chỉ có Phật. Lại nữa trước vì chúng thỉnh, ở đây Phật tự nói. Nói phàm phu ngu si, nghĩa là hai pháp này ở phàm chưa hề không có, chỉ vì bị mê chuyển cho nên toàn thể không biết. Xoay chuyển, nghĩa là quên mình nên chạy theo trong chạy theo ngoài, chỉ vì chấp tướng cảnh giới bên ngoài do tự tâm hiện, cũng chấp phương tiện lời nói cho nên đối với tướng chung thanh tịnh của tự tâm tông vốn lìa bốn câu mà không thể hiểu rõ. Bấy giờ Đại Tuệ do đó mà thưa hỏi. Nói không lầm lỗi, nghĩa là tông thông mà thuyết không thông, lỗi ấy là do hóa đạo, thuyết thông mà tông không thông. Lỗi ấy là do tự hành, cả hai đều thông thì không gọi là lỗi.

16. Lại nói về tông thông và thuyết thông:

Phật bảo Đại Tuệ: lành thay! Lành thay! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Các Đức Như lai trong ba đời có hai thứ pháp thông, do là thuyết thông và tự tông thông. Thuyết thông là tùy theo sự thích ứng với tâm chúng sinh, nói cho nghe các thứ khế kinh, đó gọi là thuyết thông. Tự tông thông, nghĩa là người tu hành lìa tự tâm hiện các thứ vọng tưởng, nghĩa là chẳng rơi vào loại một, khác, chung, chẳng chung, vượt khỏi tất cả tâm ý, ý thức, cảnh của bậc Thánh tự giác, lìa nhân thành kiến, tướng. Tất cả ngoại đạo Thanh văn, Duyên giác rơi vào hai bên đều không thể biết. Ta nói đó là pháp tự tông thông. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là tướng tự tông thông và thuyết thông, ông và các Đại Bồ-tát khác phải nên tu học”. Trong đây đáp rằng Như lai ba đời có hai thông, hiểu rõ pháp tự hành hóa tha của các Đức Phật đều giống nhau. Trước nói về thuyết thông. Nói các khế kinh, tức chín bộ trước gồm nhiếp tất cả pháp cho nên nói các loại, nhưng cuối cùng quy về khế lý, khế cơ nên gọi là Khế kinh. Kế là nói về tông thông, pháp tự chứng vốn không thể nói, cho nên nương vào người tu để nói lên tướng kia. Nói lìa tự tâm hiện các thứ vọng tưởng… Nghĩa là không rơi vào bốn câu một, khác v.v… thì vọng tưởng không hành. Vọng tưởng không hành thì vượt ngoài tất cả tâm thức, đến cảnh giới của bậc Thánh tự giác. Nói lìa nhân thành kiến tướng, nhân thành tức nhân thành giả, nghĩa là ý căn đối với pháp trần mà khởi lên kiến chấp phân biệt. Lìa là lìa kiến chấp này. Nhưng pháp Như lai tự chứng, chẳng phải là năng tri sở tri tà ngoại thiên tiểu chấp đắm hai bên có không. Chỉ có Bồ-tát Đại thừa mới có khả năng tu chứng, cho nên răn bảo phải nên tu học.

17. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Ta nói hai thứ thông
Tông thông và lời nói
Thuyết trao người mới học
Tông vì người tu hành”.

Người mới học là người sơ cơ, đã hiểu thuyết thông chưa hẳn là ở sơ cơ, vì đối với tông thông mà nói đó thôi! Tông thông tuy là tu hành, mà nói tự chứng.

18. Đối với luận thuyết thế gian cẩn thận chớ gần gũi:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn một hôm nói rằng các luận thế gian các thứ giảng nói dè dặt chớ gần gũi. Nếu gần gũi thì nhiễm phải tham dục, chẳng thọ nhận pháp. Bạch Đức Thế tôn! Vì sao nói như thế? Phật bảo Đại Tuệ: Ngôn luận thế gian các thứ cú vị, nhân duyên thí dụ, gom nhóm trang nghiêm, dụ dẫn dối gạt kẻ phàm phu ngu si, không vào được chân thật tự thông, không giác ngộ tất cả pháp, vọng tưởng điên đảo rơi vào hai bên. Kẻ phàm ngu si hoặc mà tự phá hoại, tiếp nối sinh trong các cõi không được giải thoát, không thể giác biết tự tâm hiện lượng, chẳng lìa ngoại tánh, tự tánh, vọng tưởng chấp đắm.Cho nên ngôn luận thế gian các thứ giảng nói chẳng thoát khỏi sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não, dối gạt mê loạn”. Xét rằng luận có luận thế gian, luận xuất thế gian, cho nên đạo có chánh có tà, tuy không lập hai mà chưa hề không cùng đi chung ở thế gian, cho nên Như lai răn bảo đối với luận thế gian cẩn thận chớ gần gũi. Đại Tuệ do đó mà đặt câu hỏi nói Thế luận tức ngoại đạo Lôgià-da-đà, Hán dịch là Tả thế, cũng dịch là Ác luận. Luận này văn từ trau chuốt làm mê hoặc kẻ phàm ngu. Có gần gũi chỉ chấp nhận tài dục ở thế gian, không được pháp lợi. Trong đây đáp trước là bác bỏ sự sai lầm kia, vì ngôn luận của họ không giải thích chánh lý, không vào được địa chân thật tự thông, cuối cùng trở về hai bên mà thôi! Phàm ngu si hoặc trở xuống là nói về sự sai lầm của thọ tập, vì tự phá hoại chánh kiến, tiếp nối sinh tử trong các cõi, không do đâu giải thoát trở xuống là tướng các lỗi, rất dễ thấy.

19. Dẫn việc để chứng minh có lỗi:

Này “Đại Tuệ! Thích-đề-hoàn-nhân, giải thích rộng các luận, tự soạn Thanh luận. Thế luận kia có một người đệ tử giữ gìn hình tượng rồng, đến cung trời Đế-thích lập ra luận tông, mục đích là phá hoại bánh xe ngàn căm của trời Đế-thích. Nếu tôi thua thì xin chặt đầu để tạ lỗi. Nói lời cam kiết ấy rồi liền dùng pháp Đế-thích đè áp Đế-thích, Đế-thích thua liền phá bánh xe kia, rồi ông ta liền trở về nhân gian. Như thế Này Đại Tuệ! Ngôn luận thế gian nhân dụ trang nghiêm, dù cho súc sinh cũng hay dùng các thứ cú vị làm hoặc loạn các trời và Atu-la dính mắc trong kiến chấp sinh diệt, huống chi là loài người. Cho nên Này Đại Tuệ! Ngôn luận thế gian nên phải xa lìa, vì làm cho chuốc lấy nhân sinh khổ, dè dặt chớ gần gũi”. Đoạn này dẫn việc chứng lỗi. Thích-đề-hoàn-nhân, là tên khác của trời Đế-thích. Giữ hình tượng rồng nghĩa là biến thành thân rồng. Giao kiết Kinh Nhập Lăng-già chép: Giao kiết rằng: Này Kiều-thi-ca! Ta luận với ông, nếu ông thua thì phải phá bánh xe ngàn căm của Đế-thích. Nếu tôi thua thì xin chặt đầu để tạ lỗi đã thua. Liền dùng pháp Đế-thích, nghĩa là liền dùng pháp mà trời Đế-thích dùng để soạn luận mà vẫn nạn. Rơi và chỗ thua tức là không thắng, nghĩa là Đế-thích không thắng. Cho đến súc sinh, như loại biến thành thân rồng. Lại nói nên phải xa lìa luận thế gian, nghĩa là luận kia làm hại như vậy, có thể không thân trọng hay sao?

20. Nói về cảnh giới giác tưởng của thân:

Này Đại Tuệ! Thế luận, chỉ nói cảnh giới giác tưởng của thân mà thôi này. Này Đại Tuệ! Thế luận kia có đến trăm ngàn, chỉ ở thời sau, sau năm mươi năm sẽ phá hoại kiết tập, ác giác chấp người hưng thạnh, nên đệ tử ác thọ nhận như thế. Này Đại Tuệ! Thế luận phá hoại kiết tập, các thứ cú vị, nhân dụ trang nghiêm, nói việc ngoại đạo, tự đắm nhân duyên, không có tự thông. Này Đại Tuệ! các ngoại đạo kia, không tự thông luận, đối các thế luận nói rộng vô lượng trăm ngàn sự môn, không có tự thông, cũng không tự biết thế luận ngu sĩ”. Thế luận trở xuống là nêu lại luận kia để lập ra. Cảnh giới thân giác, nghĩa là cảnh giác tưởng của thân năm ấm. Tuy thế luận kia có đến trăm ngàn nhưng cùng cực tông thú kia không lìa tình thức đâu biết có chí đạo. Năm mươi năm sau phá hoại kiết tập, xét Luận Kim Cương Công Đức Thi nói tuổi thọ con người sống đến trăm tuổi chia làm hai phần: Năm mươi năm đầu giáo lực tăng trưởng, năm mươi năm sau giáo lực dần dần suy yếu. Nói khi chánh pháp sắp diệt, hoặc sẽ nói năm trăm năm sau, chữ mười sợ là lầm, phá hoại sự kiết tập chánh giáo của Như lai, vì ác giác điên đảo khổ nhân tà kiến hưng thạnh, nên các loại ác đảng thọ tập thuyết kia, tự chịu chìm đắm. Như thế trở xuống là kết thúc bác bỏ, nói chấp đắm nhân duyên của mình, như giác tưởng của thân đã nói mà thôi, không thể dùng lý tự thông nên nói không có tự thông. Do không thể tự thông, tuy nói rộng trăm ngàn sự môn, cũng không hơn việc hoặc loạn thế pháp này kia không tự biết, thật là đáng thương!

21. Nêu lên chánh giáo:

“Khi ấy, Đại Tuệ bạch Phật rằng. Bạch Đức Thế tôn! Nếu ngoại đạo thế luận các thứ cú vị nhân dụ trang nghiêm không có tự thông, từ việc chấp đắm, Thế tôn cũng nói thế luận, vì các chúng, trời người A-tula nơi khác đến pháp hội nói rộng vô lượng các cú vị, cũng chẳng phải tự thông ư! Có nhập vào số trí tuệ lời nói của ngoại đạo chăng! Phật bảo Đại Tuệ: ta chẳng nói thế luận, cũng không đến đi, chỉ nói chẳng đến chẳng đi. Này Đại Tuệ! đến là đến chỗ nhóm họp sinh, đi là tan hoại. Chẳng đến chẳng đi là chẳng sinh chăng diệt. Nghĩa nói ra chẳng rơi vào trong số Thế luận vọng tưởng. Vì sao? Vì nghĩa là chẳng chấp đắm ngoại tánh phi tánh chỗ tự tâm hiện ra, vọng tưởng hai bên không thể xoay chuyển. Tướng cảnh phi tánh, giác tự tâm hiện thì tự tâm hiện vọng tưởng bất sinh. Vọng tưởng bất sinh thì không, vô tướng, vô tác nhập vào ba môn giải thoát, gọi là giải thoát”.

Đây là nêu lên chánh giáo. Ban đầu Đại Tuệ hỏi lại: Như lai nói cũng đồng với Thế luận, gồm có hai câu hỏi, như văn nói v.v… Như vì các chúng trời, người ở phương khác mà nói rộng các pháp, thì tùy ý và lời của họ, đâu chẳng phải nghĩa tự thông. Ta chẳng nói Thế luận, vì Thế luận nói đến đi, Phật chỉ nói không đi không đến. Đến là đến chỗ nhóm họp sinh, nghĩa là đến thì các duyên hòa hợp mà sinh. Đi là nói tan hoại, nghĩa là đi thì duyên tan mà diệt mất. Phật nói khác là nói chẳng đi chẳng đến, tức bất sinh không diệt, chính là chỗ thông của ta. Đáp câu hỏi thứ hai: Chẳng rơi vào số vọng tưởng Thế luận, tức ngoại đạo phân biệt hữu vô là số vọng tưởng, lại tự nêu lên giải thích, nói không chấp hai bên, vì không chấp nên vọng tưởng hữu vô chẳng thể xoay chuyển, vì cảnh giới tự tưởng chẳng có tánh, chẳng có tánh tức là không, thì có gì mà chuyển. Lại nói giác tự tâm hiện, đã hiễu rõ các pháp duy tâm, thì vọng tưởng từ đâu mà sinh. Do bất sinh nên không nhập vào ba môn giải thoát. Không là tánh không. Vô tướng là tướng không. Vô tác là tánh tướng đều không, tâm không có sở tác. Vô tác còn gọi là vô nguyện, nghĩa là không nguyện cầu.

22. Dẫn luận phân tích rộng về tà chánh:

Này “Đại Tuệ! Ta nhớ một thuở nọ ta trụ ở một nơi, có Bà-la-môn Thế luận đến chỗ ta, không hỏi thăm sức khỏe mà hỏi ta rằng: “Cùđàm! Tất cả tạo ra chăng?” Ta đáp: “Bà là môn! Tất cả có tạo ra, ấy là luận thứ nhất”. Bà-la-môn Kia lại hỏi rằng: “Tất cả chẳng phải tạo ra chăng?”. Ta lại đáp: “Tất cả chẳng tạo ra là thế luận thứ hai”. Bà-lamôn kia lại hỏi rằng: “Tất cả là thường chăng? Tất cả là vô thường phải chăng? Tất cả là sinh phải chăng? Tất cả là chẳng sinh phải chăng!” Ta đáp rằng: “Đó là Thế luận thứ sáu”. Này Đại Tuệ! Kia lại hỏi ta rằng. “Tất cả là một chăng? Tất cả là khác phải chăng? Tất cả là đồng phải chăng? Tất cả là chẳng đồng phải chăng? Tất cả nhân các thứ thọ sinh hiện phải chăng?” Ta đáp rằng “Đó là thế luận thứ mười một”. Này Đại Tuệ! Bà-la-môn kia lại hỏi rằng: “Tất cả là vô ký phải chăng? Tất cả là ký chăng? Có ngã phải chăng? Không ngã chăng? Có đời nay phải chăng? Không có đời này phải chăng? Có đời khác phải chăng? Không có đời khác phải chăng? Có giải thoát phải chăng? Không giải thoát phải chăng? Tất cả là sát-na phải chăng? Tất cả chẳng phải sát-na phải chăng? Là Hư không phải chăng? Chẳng phải số diệt phải chăng? Niếtbàn chăng? Cù-đàm! Tạo chăng? Chẳng tạo phải chăng? Có trung ấm chăng? Không có trung ấm phải chăng?” Này Đại Tuệ! Ta đáp rằng: “Nói như thế đều là luận thế gian, điều mà ta chẳng nói chính là thế luận của ông”.

Đây là dẫn luận phân tích rộng về tà chánh. Bà-la-môn là tiếng Phạm, nói đủ là Bà-la-hạ-ma-noa, Hán dịch là Tịnh dẫn, cũng dịch là Tịnh hạnh, tự xưng là Tổ từ trong miệng Phạm thiên sinh ra, từ đó mà có họ Phạm, như Phạm chí tức là chủng loại này, chỉ năm xứ Thiên-trúc có, các nước khác không có, lại dịch là Ngoại ý, loại này chỉ có trong kinh sách, đời noi theo nghiệp ấy. Hoặc tại gia hoặc xuất gia, ỷ vào chú thuật của mình mà ngạo mạn. Nói: chẳng hỏi có rảnh rang hay không, không nhàn giống như rảnh rang. Nghi thức thưa hỏi phải đợi lúc rảnh rang, đúng như lễ có lời thưa hỏi, mà kia mạn tự nhiên đến hỏi, do đó mới trách, Bà-la-môn kia hỏi tuy nhiều nhưng đại khái chỉ đáp một Thế luận, do đó bác bỏ. Nói như thế, đều là thế luận tình kiến. Lại nói chẳng phải ta nói, đó là Thế luận của ông, của ngoại đạo.

23. Các thứ luống dối vọng tưởng, các thứ thói quen xấu ác từ vô thỉ là nhân của ba cõi:

“Ta chỉ nói luống dối vọng tưởng thói quen các thứ xấu ác từ vô thỉ là nhân của ba cõi. Không thể giác biết tự tâm hiện lượng mà sinh vọng tưởng phan duyên ngoại tánh, như pháp ngoại đạo, nghĩa các căn của ta ba thứ hòa hợp thức sinh, ta không như thế. Bà-la-môn! Ta không nói nhân, không nói vô nhân, chỉ nói vọng tưởng tánh năng nhiếp, sở nhiếp lập bày duyên khởi. Chẳng phải ông và những người khác rơi và thọ ngã nối nhau mà giác biết được. Này Đại Tuệ! Niết-bàn, hư không diệt, chẳng có ba thứ, chỉ có số ba mà thôi. Đây là Đức Phật tự nêu lên chánh giáo, không ra ngoài ba đường: Vô thỉ đến thói quen phiền não đạo, các thứ nghiệp đạo ác, Ba hữu khổ đạo. Nhân: nghĩa là phiền não nghiệp ác là nhân của đường khổ. Do không thể giác biết các pháp duy tâm hiện ra nên đối với các pháp bên ngoài kia sinh khởi vọng tưởng phan duyên, đây là thuyết nhân duyên chân chính, ngoại đạo không biết được. Lại nói rằng: Như pháp ngoại đạo, lại nêu ngoại đạo kia chấp để nêu thuyết mình. Hỏi ta nghĩa các căn, ba thứ hòa hợp biết sinh, nghĩa là ta và căn cảnh, ba duyên hòa hợp mà biết sinh, tri tức là thức, Phật nói khác. Cho nên nói: Ta không nói nhân, không nói vô nhân, nhân tức là nhân duyên, vô nhân thức là tự nhiên, chỉ nương vọng tâm làm năng thủ sở thủ, mà nói duyên khởi. Ông và các ngoại đạo khác đắm chấp ngã, không dứt bỏ, thì chẳng thể đo lường được. Nói Niết-bàn, hư không diệt, văn dường như cô khởi, và xét câu hỏi của Đại Tuệ, nghĩa là Như lai nói cũng đồng với Số luận của ngoại đạo, chính bảo rằng: ba thứ vô vi, chỉ số có ba như chẳng phải có ba: nghĩa của ba thứ vô vi có chú thích ở trước.

24. Như lai thuật lại câu hỏi của Bà-la-môn và lời Phật đáp:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Khi ấy Bà-la-môn Thế luận hỏi ta: Vì nghiệp nhân si ái mà có ba cõi hay vì vô nhân? Ta đáp rằng: hai thứ ấy cũng là Thế luận. Kia lại hỏi rằng: tất cả tánh đều nhập vào tự tướng, cộng tướng chăng? Ta lại đáp: đó cũng là Thế luận Bà-la-môn, cho đến ý chạy theo vọng chấp ngoại trần đều là Thế luận. Lại nữa Này Đại Tuệ! Khi ấy, Thế luận Bà-la-môn lại hỏi ta: Có pháp nào chẳng phải Thế luận chăng? Ta đứng đầu tất cả ngoại đạo nói các cú vị nhân duyên thí dụ trang nghiêm. Ta lại đáp: Bà-la-môn! Có, mà chẳng phải ông có, chẳng phải làm, chẳng phải tông, chẳng phải nói, chẳng phải không nói, các thứ cú vị, đều nhờ thí dụ trang nghiêm. Bà-la-môn hỏi: pháp gì chẳng phải Thế luận? Chẳng phải chẳng tông? Chẳng phải chẳng nói? Ta đáp rằng: Bà-la-môn! Có pháp chẳng phải Thế luận, là pháp mà ông và các ngoại đạo không thể biết. Vì ngoại tánh chẳng thật, vọng tưởng luống dối chấp đắm, nghĩa là vọng tưởng chẳng sinh thì giác liễu hữu vô, tự tâm hiện lượng, vọng tưởng bất sinh, chẳng nhận ngoại trần thì vọng tưởng dứt hẳn, đó gọi là chẳng phải Thế luận. Đây là pháp của ta, ông chẳng có. Bà-la-môn! Nói lược thức kia, hoặc đến, hoặc đi, hoặc sinh, hoặc tử, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc chìm, hoặc hiện, hoặc xúc, hoặc chấp các tướng, hoặc hòa hợp nối nhau, hoặc ái, hoặc nhân chấp đắm. Bà-la môn! Sự so sánh ấy là Thế luận của ông, ta chẳng có. Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Thế luận hỏi như thế, ta đáp như thế, Bà-la-môn liền im lặng, chẳng từ biệt mà bỏ đi. Kia suy xét chỗ tự thông, nghĩ rằng: Samôn đệ tử Phật Thích-ca ra ngoài sự thông thường nói vô sinh, vô tướng, vô nhân, giác tự vọng tưởng hiện tướng vọng tưởng chẳng sinh”.

Đây là Như lai thuật lại câu hỏi của Bà-la-môn và lời Phật đáp cho Đại Tuệ nghe. Nhưng câu hỏi của ông ta kèm hai ba nghĩa của Phật dùng làm đầu mối câu hỏi, Đức Phật đều đáp là Thế luận. Đây chính là y theo chỗ biết kia, phàm ý thức rong ruổi theo trần, vọng sinh chấp đắm, không phân tà chánh, đều là Thế luận, giúp cho họ không được bỏ lời, do đó phải chặn đứng. Kia luận đã đuối lý, tùy theo điều chẳng phải thế luận thưa hỏi. Như lai nói có, chẳng phải điều ông có, chẳng phải làm, chẳng phải tông, chẳng phải thuyết, cho đến các thí dụ trang nghiêm đều nói là chẳng phải, nghĩa là khác với luận của ông ta. Tuy chỉ bày nhỏ nhiệm nhưng cuối cùng chưa nói chỗ thật, Bà-la-môn kia một lần nữa thưa hỏi rằng: những gì là không phải chẳng tông, không phải chẳng thuyết? Chính lại dè dặt nói rằng: chẳng phải điều ông biết, vì kia đối với pháp ngoài vọng tưởng chấp đắm, chẳng những không thể tín nhập mà cũng tùy lời sinh giải tăng thêm lỗi kiến chấp kia, cho nên vặn hỏi. Song sau bảo rằng: nghĩa là vọng tưởng chẳng sinh giúp cho họ hiểu rõ hữu vô đều tự tâm hiện, nên vọng tưởng chẳng sinh, chẳng theo trần bên ngoài thì vọng tưởng dứt hẳn, đó gọi là chẳng phải Thế luận. Mới biết các Đức Phật ba đời, đầu tiên không có một pháp cho người, chỉ khiến vọng tưởng bất sinh, thì thiên chân diệu tánh không xa cách mà được lại. Đã nói về chánh luận lại bác bỏ chỗ sai kia. Tự lược nói thức kia, hoặc đến, hoặc đi, cho đến hoặc do chấp đắm đều là chấp vọng thức của ngoại đạo kia. Luận kia đã bị bẻ gãy nên họ hổ thẹn bỏ đi, cũng không chịu nhún nhường, mà còn nói suy xét chỗ tự thông. Lại nói rằng: Sa-môn đệ tử Phật Thích-ca vượt ngoài thông thường, đây đều là ngoại đạo lui sụt mà có xét lời nói, dùng lời Phật nói cầu mong cho mình mà không được, mới biết rằng vượt ngoài tự thông mà nói vô sinh, vô tướng, v.v… quán xét sự lãnh ngộ kia cũng đủ để thấy kia có sở đắc.

25. Tổng kết chỉ ra chỗ hỏi đáp:

Này “Đại Tuệ! Đây là điều ông hỏi ta, vì sao ta nói gần gũi Thế luận các thứ nói năng thì chạy theo tham dục, chẳng nghe chánh pháp. Đại Tuệ bạch phật rằng: chạy theo tham dục và pháp có cú nghĩa gì? Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! ông mới có khả năng vì chúng sinh đời sau suy nghĩ thưa hỏi cú nghĩa như thế. Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghĩ ta, sẽ nói cho nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: nói tham, hoặc lấy, hoặc bỏ, hoặc xúc, hoặc vị, bám chặt trần bên ngoài, rơi vào kiến chấp hai bên. Lại sinh khổ ấm sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não. Các họa hoạn như thế đều từ ái mà sinh. Đây do gần gũi thế luận và người thực hành theo thế luận. Ta và các Đức Phật gọi là tham, đó gọi là chạy theo tham dục, không thực hành theo pháp”. Đây là tổng kết chỉ ra chỗ hỏi chỗ đáp. Đại Tuệ nhân đây lại hỏi nghĩa tham dục và pháp. Trong đây đáp dùng lấy bỏ v.v… làm tham. Tham tức phiền não, do tham cho nên bị trói buộc, chấp chặt ngoại trần v.v… tức tổng kết nghiệp. Lại sinh khổ ấm v.v… là khổ đạo, nhưng đều lấy ái làm gốc. Ái lại do gần gũi Thế luận, và Thế luận giả tức người. Đều năng nhiếp khiến sinh tham, vì thế nói chạy theo tham dục. Nói không thực hành theo pháp, là không chấp nhận chánh pháp.

26. Nói về thực hành theo pháp:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là thực hành theo pháp? Nghĩa là khéo hiểu biết tự tâm hiện lượng, thấy tướng người vô ngã và pháp vô ngã, vọng tưởng chẳng sinh. Khéo biết tiến lên địa trên, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả các Đức Phật dùng trí tuệ quán đảnh, thực hành đầy đủ mười câu vô tận, đối tất cả pháp không khai phát tự tại, đó gọi là pháp. Cái gọi là chẳng rơi vào tất cả kiến chấp, tất cả luống dối, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh, tất cả hai bên. Này Đại Tuệ! Có nhiều ngoại đạo si mê, chẳng rơi vào hai bên hoặc thường, hoặc đoạn. Chẳng phải người thông minh thì nghe luận vô nhân liền khởi chấp thường, ngoài hoại nhân duyên phi tánh thì khởi chấp đoạn. Này Đại Tuệ! Ta chẳng thấy sinh trụ diệt, gọi là pháp. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ông và các Đại Bồ-tát khác phải nên tu học”. Đây đáp thực hành theo pháp, hỏi rằng khéo giác biết v.v… là nói chấp nhận có pháp riêng, tức là hiểu biết chỉ do tâm hiện ra. Chấp hai vô ngã không chấp nơi tướng, lìa các sự phân biệt khéo biết hành tướng của các địa, lìa tâm, ý, ý thức, được các Đức Phật quán đảnh, đầy đủ thọ hạnh mười đại nguyện, đối với tất cả pháp đều được tự tại, đó gọi là pháp lợi. Lại nói rằng không rơi vào tất cả kiến chấp v.v… nghĩa là lìa vọng tưởng hiển bày tự tánh. Phần nhiều ngoại đạo v.v… hễ rơi vào kiến chấp một bên đều là pháp của người ngu. Chẳng phải người thông minh nghĩa là tà kiến đoạn trường. Chẳng phải luận vô nhân của người thông minh Tiểu thừa, nghĩa là tứ bốn đại tánh thường, không nương nhân mà thành, cho nên rơi vào chấp thường. Hoặc chấp nhân bên ngoài hoại diệt, chấp nhân duyên phi tánh thì thành chấp đoạn. Lại nói rằng: ta không thấy sinh trụ diệt, nên sinh mà chẳng sinh, trụ chẳng trụ, diệt mà chẳng diệt, thì khác với đoạn thường, đó gọi là Pháp. Kết thúc khuyên rất dễ hiểu.

27. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Tất cả thế gian luận
Ngoại đạo nói luống dối
Vọng thấy tác, sở tác
Kia thì không tự tông
Chỉ ta một tự tông
Lìa bỏ tác, sở tác
Nói các đệ tử nghe
Xa lìa các thế luận
Tâm lượng không thể thấy
Chẳng quán sát hai tâm
Nhiếp, sở nhiếp phi tánh
Hai Đoạn thường đều lìa
Cho đến tâm trôi lăn
Thảy đều là thế luận
Vọng tưởng chẳng xoay chuyển
Người này thấy tự tâm
Khi đến là việc sinh
Khi đi cho là mất
Biết rành việc đi đến
Vọng tưởng chẳng còn sinh.
Hữu thường và vô thường,
Sở tác, vô sở tác
Đời này đời khác thảy
Đây đều thế luận thông.

Bốn câu đầu nói Thế luận chấp tác, sở tác, chẳng biết do tâm hiện lượng nên dùng hữu vô làm tông. Nói tác sở tác, tác là năng tác, sở là pháp sở tác, như chấp Phạm thiên do bụi nhỏ sinh. Chỉ ta v.v… Phật nói chỉ ta dùng tự tâm làm tông, lìa bỏ vọng tưởng, năng tác, sở tác, nói chánh pháp này cho các đệ tử nghe giúp cho họ không huân tập Thế luận. Tâm lượng không thể thấy là do tâm lìa tánh chấp, không thể dùng kiến chấp hữu vô, không thể dùng năng nhiếp, sở nhiếp, đó gọi là đoạn thường đều lìa. Hai tâm tức kiến chấp hữu vô. Tâm bị đoạn thường xoay chuyển thì gọi là thế luận. Tâm lìa phân biệt thì không bị xoay chuyển, đó gọi là thấy rõ tự tâm. Nếu ngoại đạo kia chấp đến là việc sinh, đi là việc diệt, tức là việc sinh diệt. Bất hiện tức là diệt. Bồtát nói không đến không đi thì bất sinh không diệt, cho nên nói biết rõ việc đi đến, vọng tưởng chẳng còn sinh. Bốn câu sau chỉ nói thế luận, như văn rất dễ hiểu.

28. Tổng kết bác bỏ các chấp:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cái gọi là Niết-bàn, nói những pháp gì gọi là Niết-bàn, mà các ngoại đạo đều khởi vọng tưởng? Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ ta sẽ nói cho ông nghe. Như các ngoại đoại vọng tưởng Niết-bàn, chẳng phải vọng tưởng kia thuận theo Niết-bàn. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Hoặc có ngoại đạo ấm, giới, nhập, diệt, cảnh giới lìa dục, thấy pháp vô thường, các thứ tâm, tâm sở chẳng sinh, chẳng nghĩ cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, các thọ ấm hết, như ngọn đèn tắt, như hạt giống hư, vọng tưởng chẳng sinh, đối với các pháp này nghĩ là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Chẳng phải do kiến hoại gọi là Niết-bàn”. Trước nói về Niết-bàn mà Nhị thừa đắc và ngoại đạo, lấy vọng tưởng thức diệt làm Niết-bàn, phân biệt rõ này. Đại Tuệ đối với điều này lại có lời thưa hỏi, sợ lý chưa cùng thấy rõ chưa tận, hoặc rơi vào tà kiến thì đạo rốt ráo giải thoát, thành vô thượng Bồ-đề, lại bị xâm tổn, pháp thân tuệ mạng vốn có không đắc mà hiển, đây là nỗi lo âu của Đại Tuệ, chẳng thể không thưa hỏi lại. Như lai bèn bảo rằng: hoặc có ngoại đạo ấm, giới, nhập diệt, nghĩ là Niết-bàn, xét trong luận Đề-bà giải thích. Ngoại đạo vọng chấp Niết-bàn có hai mươi thứ, đây là Niết-bàn thứ nhất. Luận nói rằng. Các thọ ấm hết, như ngọn đèn tắt, hạt giống hư, như ngọn gió ngừng, gọi là Niết-bàn. Văn này lại nói: Cảnh giới lìa dục v.v… nghĩa là đối với cảnh giới sáu trần không ô nhiễm nên gọi là lìa dục, thấy các pháp vô thường, không khởi tâm, tâm sở, vì chẳng nghĩ cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, các thọ ấm hết, như ngọn đèn tắt, như hạt giống hư. Thọ diệt thì tưởng diệt, cho nên nói vọng tưởng chẳng sinh, vả lại y theo tưởng diệt mà nói như vậy, thật ra kiến tưởng không dứt nên bác bỏ rằng, chẳng phải dùng kiến hoại làm Niết-bàn, đây là tổng kết bác bỏ các chấp.

29. Đây là loại Niết-bàn thứ hai mà ngoại đạo nói:

“Này Đại Tuệ! Hoặc từ nơi này đến nơi khác gọi là giải thoát, cảnh giới tưởng diệt giống như gió dừng, hoặc do năng giác, sở giác thấy hoại gọi là giải thoát, hoặc thấy thường vô thường nghĩ là giải thoát, hoặc thấy các tướng chiêu cảm nhân sinh khổ, suy nghĩ việc ấy rồi, chẳng khéo giác biết tự tâm hiện lượng, kinh sợ đối với tướng mà chấp vô tướng, rất sinh yêu thích nghĩ là Niết-bàn”. Từ nơi này đến nơi kia ấy, luận nói rằng: đây là Niết-bàn thứ hai mà ngoại đạo nói. Ban đầu có nơi chốn từ nơi chốn sinh thế gian và loài người, người sinh trời đất, thứ lớp diệt hết, trở vào trong chỗ đó. Nói nơi chốn là thường, gọi là nhân Niết-bàn, có chỗ gọi phương, giống như phương sở, cũng là kia đây, nghĩa là từ kia đến đây không mất bản tánh. Lại nói rằng: cảnh giới tưởng diệt cũng như gió dừng. Thuyết mới nói rằng: phong tiên ngoại đạo, chấp gió có khả năng sinh sát muôn vật, nói tánh gió thường gọi là Niết-bàn, có chỗ nói rằng gió dừng thì không còn dấu vết. Nói năng giác, sở giác v.v… ngoại đạo nói giác nhiều gọi là giác tưởng. Kinh Nhập Lăng-già chép: Không thấy năng giác, sở giác gọi là Niết-bàn, thấy hoại tức không thấy. Nói thường, vô thường v.v… xét trong luận, ngoại đạo nói: Sự gọi là Y-xa-na, hình không thể thấy trùm khắp tất cả mọi nơi, có khả năng sinh ra muôn vật, năng sinh là thường, gọi là Niết-bàn, vật sở sinh tức gọi là vô thường, giải thoát và Niết-bàn tên khác mà nghĩa đồng. Nói các tướng tưởng, v.v… đây là dùng tướng tưởng là nhân khổ, không biết tướng tức do tự tâm hiện, bỏ chấp tướng mà đắm vô tướng, đối với sự yêu thích này cho là Niết-bàn.

30. Tất cả đều hết cho là Niết-bàn:

“Hoặc có khi giác biết các pháp trong ngoài, tự tướng, cộng tướng quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh bất hoại, nghĩ là Niết-bàn. Hoặc cho là ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng tất cả pháp hoại, nghĩ là Niết-bàn, hoặc ngoại đạo ác thiêu đốt trí tuệ, thấy tự tánh và sĩ phu hai bên có ngăn cách, sĩ phu hiện ra gọi là tự tánh, như loại Minh sơ tỷ nói cầu-na chuyển biến, Niết-bàn. Nói phước chẳng phải phước v.v… hoặc nói các phiền não hết, hoặc cho rằng trí tuệ, hoặc thấy tự tại là chân thật người tạo ra sinh tử, nghĩ là Niết-bàn”. Nói giác biết các pháp trong ngoài, tức giác tưởng phân biệt các pháp căn trần v.v… tự tướng, cộng tướng, khác nhau giữa ba đời, tánh thần ngã chẳng hoại cho là Niết-bàn. Nói nhân ngã v.v… vọng cho rằng pháp bốn tướng hoại diệt cho là Niết-bàn. Nói trí tuệ ác thiêu đốt, đây chính là ác kiến thiêu đốt diệt trừ chánh trí, gốc của tự tánh ngã kiến. Sĩ phu là một trong mười sáu tri kiến, hai thứ có gián cách, gián là khác vậy. Nghĩa là tự tánh kia và sĩ phu hai bên có cách gián khác nhau. Nhưng tự tánh từ sĩ phu mà ra, giống như Minh sơ sinh giác. Hoặc nói hai cái có từ sơ sinh giác là một cái có từ trần sinh đại là một cái có, ý văn không nhất quán. Nếu thuyết theo kia thì không hợp. Lại nói như Minh sơ tỷ. Nói cầu-na chuyển biến v.v… nghĩa là nương tự tánh chuyển biến có khả năng tạo ra các pháp, cho là Niếtbàn. Nói phước chẳng phải phước v.v… là chẳng phải tội phước, nghĩa là tội phước đều hết, tất cả đều hết cho là Niết-bàn. Nói phiền não hết v.v… Xét trong luận, phiền não và trí tuệ vốn là một, chấp cho là phiền não hết, nương trí tuệ gọi là Niết-bàn. Hoặc thấy tự tại v.v… luận chép: Trời Tự Tại có khả năng tạo tác chúng sinh sinh tử, năng tác gọi thường là Niết-bàn.

31. Chấp tự nhiên là Niết-bàn:

“Có Chỗ cho rằng xoay vần sinh nhau. Sinh tử không còn nhân khác, như thế tức là chấp chặt nhân, mà kia ngu si không thể giác biết, vì không biết nên nghĩ là Niết-bàn. Hoặc có ngoại đạo nói được đạo chân đế, nghĩ là Niết-bàn, hoặc thấy công đức và công đức sở khởi, hòa hợp một khác, đồng chẳng đồng, nghĩ là Niết-bàn, hoặc thấy tự tánh sở khởi chim công nhiều màu sắc, các thứ vật báu và tánh gai nhọn v.v…, thấy rồi nghĩ là Niết-bàn”. Nói xoay vần sinh nhau là vọng chấp của Luận sư Ni-kiền-tử, kiếp sơ sinh một nam một nữ, khi kia hòa hợp xoay vần sinh nhau, tất cả vật hoại lại trở về chỗ kia, nghĩa là ngoài ra không còn có nhân khác, họ không biết chấp đắm như vậy là nhân quả sinh tử, mà kẻ ngu si kia không biết, cho là Niết-bàn. Nói được đạo chân đế… luận sư Tăng-khư chấp hai mươi lăm đế từ Minh sơ sinh, nói là chứng đạo chân thật cho là Niết-bàn. Hoặc thấy công đức, các gọi là công đức của ngoại đạo thì thường chỉ cho khổ hạnh, vẫn ở chỗ ấy khởi hòa hợp, khởi chấp bốn câu cho là Niết-bàn. Hoặc thấy tự tánh v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Hoặc chấp các vật từ tự nhiên sinh, máu sắc chim Công và gai nhọn, chỗ sinh châu báu xuất ra các thứ báu. Các việc như thế thì ai có thể làm liền chấp tự nhiên cho là Niết-bàn.

32. Ngoại đạo thấy các thứ vọng chấp là Niết-bàn:

Này “Đại Tuệ! Hoặc có người giác hai mươi lăm chân thật, hoặc vua giữ gìn đất nước nhận Lục đức luận nghĩ là Niết-bàn. Hoặc thấy “thời” là tác giả, thời tiết thế gian, người giác như thế nghĩ là Niết-bàn, thời có thay đổi nhưng tác giả không thay đổi, người giác như thế v.v… cho là Niết-bàn. Nói tánh phi tánh. Kinh Nhập Lăng-già chép: Hoặc chấp có vật hoặc chấp không vật, hoặc chấp có vật, không vật, cùng cho là Niết-bàn. Đây gọi là tánh tánh tức pháp pháp tức vật. Nói có giác v.v… nghĩa là muôn vật là dao động, Niết-bàn là vắng lặng, hai thứ này không khác nhau cho là Niết-bàn. Trên đã nói ngoại đạo các thứ vọng chấp thấy là Niết-bàn. Đầy đủ như trong luận Đề-bà… có giải thích rộng tướng ấy.

33. Tổng kết bác bỏ:

“Có các thứ vọng tưởng như thế, ngoại đạo nói ra bất thành sở thành, người trí dứt bỏ. Này Đại Tuệ! Như thế tất cả đều rơi vào hai bên, nghĩ là Niết-bàn. Các Niết-bàn vọng tưởng như thế, trong ấy đều không có hoặc sinh, hoặc diệt. Này Đại Tuệ! mỗi thứ Niết-bàn của ngoại đạo kia họ tự soạn luận. Trí tuệ quán sát đều không có chỗ lập, nluống dối tưởng kia, tâm ý đến đi, trôi giạt xao động, tất cả không có được người nào Niết-bàn”. Đoạn văn này tổng kết bác bỏ gồm có năm:

1. Nói bất thành sở thành, vì kia đều là vọng tưởng tuy chấp Niếtbàn mà không thành Niết-bàn, bị người trí dứt bỏ. 2. Lại nói: như vậy tất cả đều rơi vào hai bên. 3. Do kia vọng chấp sinh diệt mà thật pháp kia không hề sinh diệt. 4. Nhưng điều họ chấp đều là tà luận, dùng chánh trí quán sát không chỗ thành lập. 5. Lại vì tâm tưởng kia trôi giạt xao động nương tánh Niết-bàn, cho nên không có đắc Niết-bàn. Do sự giải thích này đủ để nói lên vọng kia.

34. Đối với tà mà hiển bày chánh:

Này “Đại Tuệ! Như ta nói Niết-bàn là khéo giác biết tự tâm hiện tượng, chẳng mê đắm tánh bên ngoài, lìa bốn câu thấy chỗ như thật, chẳng rơi vào tự tâm hiện, vọng tưởng hai bên, năng nhiếp sở nhiếp không thật có, tất cả độ lượng không thấy được thành, kẻ ngu đối với chân thật không nên chấp nhận, buông bỏ kia rồi được tự giác Thánh pháp. Biết hai vô ngã lìa hai phiền não, dứt sạch hai chướng, lìa hai hẳn hai sinh tử, thẳng tiến lên vào Như lai địa, các Tam-muội sâu xa như bóng, như huyễn v.v… lìa tâm, ý, ý thức gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát khác phải nên tu học, phải mau xa lìa tất cả kiến chấp Niết-bàn của ngoại đạo”. Như ta nói v.v… là đối tà mà hiển bày chánh. Văn kia cũng có năm: 1. Nghĩa là khéo giác biết tự tâm hiện lượng, chẳng mê đắm tánh bên ngoài. 2. Lìa bốn câu chỗ thấy như thật. 3. Không rơi vào tự tâm hiện, vọng tưởng hai bên, thì năng chấp, sở chấp không thật có. . Tất cả độ lượng không chấp được thành, là nói rõ Niết-bàn Như lai vượt ngoài tà thuyết của ngoại đạo. . Độ lượng tức số. Kẻ ngu đối với chân thật không nên chấp nhận, ngu tức quên, là quên lý chân thật, tùy theo chỗ thấy, không nên chấp đắm. Nói dứt bỏ kia rồi, nghĩa là dứt bỏ vọng kiến kia rồi thì được pháp tự giác Thánh trí, biết người pháp vô ngã, lìa hai hoặc chung riêng, trừ hoặc chướng, trí chướng, lìa sinh tử phần đoạn, sinh tử biến dịch, dần dần trải qua các địa, đạt đến Phật địa. Đây đều là pháp sở chứng. Tam-muội sâu như bóng, như huyễn lìa tâm, ý, ý thức, đều có khả năng hiển bày Niết-bàn. Cuối cùng luận về ba đức Niết-bàn, cái gọi nói là tạng bí mật của Như lai. Như ba điểm của chữ y, ba mắt của Thiên chủ, không ngang không dọc, dứt bặt suy tư nói năng, an trụ như vậy gọi là rốt ráo Niết-bàn, cho nên khuyên bảo người học nên phải tu hành, phải lìa kiến chấp Niếtbàn của ngoại đạo.

35. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Ngoại đạo chấp Niết-bàn
Họ đều khởi vọng tưởng
Đây từ tâm tưởng sinh
Không phương tiện giải thoát
Người ngu tự trói buộc
Xa lìa phương tiện khéo
Ngoại đạo tưởng giải thoát
Giải thoát chẳng hề sinh
Các trí đều khác đường
Ngoại đạo chỗ thấy thông
Kia đều không giải thoát
Vì ngu si vọng tưởng”.

Bài tụng trên nói về kiến chấp vọng tưởng Niết-bàn của ngoại đạo. Nói họ đều, như văn trước đã nêu. Có hai mươi mốt thứ khác nhau, nhưng đều khởi tâm tưởng tà tập. Nói không có phương tiện giải thoát, muốn cởi bỏ sự trói buộc của sinh tử mà được giải thoát, không khéo léo thực hành phương tiện thì không được. Đã không có phương tiện giải thoát thì đâu thể nhập Niết-bàn. Ngu là ngu mê, do ngu mê nên không hiểu điều đã chấp. Tà kiến là sự trói buộc của phiền não sinh tử, cho nên lìa bỏ phương tiện khéo léo mà muốn cầu giải thoát thì không bao giờ được. Các trí là nói bốn trường hợp , các ngoại đạo khổ hạnh thành lập được thông trí, đó là vọng chẳng phải chân.

36. Tổng kết bác bỏ các chấp của ngoại đạo:

“Tất cả ngoại đạo si
Vọng chấp tác sở tác
Phẩm luận hữu, vô hữu
Kia đều không giải thoát
Phàm ngu ưa vọng tưởng
Chẳng nghe tuệ chân thật
Lời nói gốc ba khổ
Chân thật diệt nhân khổ
Thí như bóng trong gương
Tuy hiện mà chẳng có
Đối gương tâm vọng tưởng
Kẻ ngu thấy có hai
Chẳng biết tâm và duyên
Ắt khởi hai vọng tưởng
Rõ tâm và cảnh giới
Vọng tưởng sẽ chẳng sinh
Tâm ấy là các thứ
Xa lìa tướng, sở tướng
Việc hiện mà không hiện
Như ngu kia vọng tưởng”.

Tất cả ngoại đạo si vọng thấy tác, sở tác, hai câu này là tổng kết bác bỏ các chấp của ngoại đạo. Hữu, vô hữu trở xuống là nói vọng tưởng chân thật, nghĩa là vọng tưởng vượt ra ngoài ngôn luận, là gốc của ba khổ. Chân thật trái với vọng tưởng, cho nên vì diệt nhân của khổ, ý muốn giúp cho phàm phu bỏ mê về ngộ. Lại dùng ví dụ hiển bày, gương dụ cho tâm, bóng dụ cho gương, phàm phu không thể hiểu cảnh do tâm tạo, cho nên chấp ngoài tâm có pháp mà sanh phân biệt, như thấy bóng trong gương mà nghĩ là thật, chính là thấy có hai, nên nói chẳng biết tâm và duyên thì sẽ khởi hai vọng tưởng. Duyên tức là cảnh. Nếu hiểu tâm cảnh như một thì vọng từ đâu sinh khởi. Tâm trở xuống bốn câu, hợp với ví dụ bóng trong gương ở trên. Các cảnh. Đã biết các cảnh duy tâm thì không có năng tướng, sở tướng. Sự tức cảnh, nói sự hiện cảnh, như bóng trong gương không thật, nhưng kẻ ngu mê không hiểu, tự sinh phân biệt mà thôi.

37. Ba cõi, sáu đường sinh tử đều không thật thể:

“Ba cõi chỉ vọng tưởng
Nghĩa ngoài đều không có
Vọng tướng các thứ hiện
Phàm ngu không thể rõ
Các kinh nói vọng tưởng
Đều chẳng ngoài tên gọi
Nếu xa lìa lời nói
Cũng không có sở thuyết”.

Ba hữu là ba cõi, nghĩa ngoài tức cảnh bên ngoài. Nghĩa là ba cõi, sáu đường sinh tử đều không thật thể, chỉ do vọng tưởng chấp các thứ cảnh bên ngoài này, cho nên nói phàm ngu không thể hiểu. Đây là tổng kết lỗi của mê vọng. Nhưng Như lai nói các pháp đều chor ằng các chúng sinh do vọng tưởng nên chìm đắm trong sinh tử, ý muốn cho chúng sinh bỏ vọng về chân, an trụ Niết-bàn. Nhưng chúng sinh chấp chặt danh tự lời nói, không thể quên lời được ý, nếu hiểu lời nói mà không lời nói, thì pháp sở thuyết cũng không thật có, như được cá quên nôm. Đây là ý nghĩa sâu xa của Như lai dạy người.