SỐ 228
KINH PHẬT MẪU XUẤT SINH TAM PHÁP TẠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
Dịch Phạn ra Hán: Đời Triệu Tống, Tam tạng Pháp sư Thi Hộ
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 22-23

Phẩm 28: NHÂN DUYÊN TÁN HOA

Bấy giờ trong chúng Thiên tử của cõi trời Tam thập tam, mỗi người đều đem hoa Mạn-đà-la, hoa Đại Mạn-đà-la, đến chỗ Đức Phật tung lên cúng dường.

Lúc ấy, có sáu vạn vị Bí-sô trong đạo tràng đứng dậy bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính. Nhờ sức oai thần của Phật nên tự nhiên trong tay mỗi người đều nắm đầy hoa Mạn-đà-la, hoa đại Mạn-đà-la họ dùng hoa ấy tung lên cúng dường Phật, rồi cùng nhau thưa:

–Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con đều tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, đều thực hành hạnh vô thượng thù thắng như vậy.

Khi ấy, từ miệng Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn đủ các màu xanh, vàng, đỏ, trắng,… chiếu khắp vô lượng, vô biên cõi Phật cho đến cõi Phạm thiên rồi trở về nhiễu quanh Phật ba vòng và nhập vào đỉnh đầu Ngài.

Tôn giả A-nan rời tòa đứng dậy, đắp y bày vai phải, gối quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật bạch:

–Vì nhân duyên gì Thế Tôn phóng ánh sáng ấy. Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác không bao giờ phóng ánh sáng vô cớ.

Phật bảo A-nan:

–Nên biết vào thời vị lai trong kiếp Tinh tú, sáu vạn Bí-sô này đều thành Phật xuất hiện ở đời cùng một hiệu là Tán Hoa Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Những Đức Như Lai ấy đều sống lâu hai vạn kiếp, chánh pháp trụ cũng thế hai vạn kiếp và số lượng đệ tử Thanh văn và các Ngài đồng nhau.

A-nan nên biết! Từ đây trở đi sinh ra nơi nào sáu vạn Bí-sô này đều ở trong Phật pháp, xuất gia tu học đến thành ấp nào các vị ấy cũng đều giảng thuyết chánh pháp cho mọi người và những nơi thuyết giảng các cõi trời đều mưa hoa năm sắc cúng dường. Những Bí-sô này làm lợi ích khắp nơi cho đến khi thành chánh giác.

A-nan! Đại Bồ-tát nào muốn thực hiện hạnh tối thượng ấy thì phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa này.

Vả lại, này A-nan! Người nào có thể hành Bát-nhã ba-la-mậtđa ấy, đều là từ cõi người hoặc từ cõi trời Đâu-suất sinh đến đây. Vì sao? Vì ở những cõi ấy dễ tu pháp này hơn.

Lại nữa, A-nan! Đại Bồ-tát nào hành pháp môn Bát-nhã ba-lamật-đa này nên biết vị ấy, thường được các Đức Phật quan tâm.

Lại nữa, A-nan! Đại Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, tư duy cho đến sao chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này, rồi chỉ dạy, truyền trao cho người khác đúng như pháp, đạt được lợi ích và niềm vui của chánh pháp. Người hành được như vậy, nên biết đó là Đại Bồ-tát đã trồng căn lành sâu dày, không giống như căn lành của hàng Thanh văn, Duyên giác. Vì thiện căn của Bát-nhã ba-la-mật-đa vượt hơn hết.

Lại nữa, A-nan! Đại Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, tư duy giảng thuyết cho đến sao chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này, chính vì vị ấy thường được gần gũi các Đức Phật hiện tại và được tiếp nhận chánh pháp.

Lại nữa, A-nan! Đại Bồ-tát nào nghe pháp môn này mà không trái nghịch, hủy báng. Nên biết, trong đời trước vị ấy đã trồng căn lành. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đó có thể thành tựu Vô thượng Bồ-đề. A-nan, thế nên, hôm nay đối trước tất cả đại chúng Trời, Người, A-tu-la trong thế gian, ta đem chánh pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này phó chúc cho ông, ông nên ghi nhớ, thọ trì, diễn thuyết truyền bá làm cho chánh pháp trường tồn không bị đoạn tuyệt.

A-nan! Trong tất cả pháp của ta thuyết, chánh pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa là không thể mất. Nếu người nào thọ trì pháp môn này bị quên mất, hoặc lẫn lộn, cho đến mất một chữ một câu, thì tội ấy rất nặng. Vì người đó không làm cho ta vui. Đối với những pháp khác có gì thiếu sót thì tội còn nhẹ. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa vi diệu sâu xa. Người nào đối với pháp môn này không tôn trọng cung kính, lễ bái, cúng dường thì nên biết người ấy đối với các Đức Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng vậy. Người ấy không làm cho ta vui. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa chính là mẹ của các Đức Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai, Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy sinh ra chư Phật và Nhất thiết trí.

A-nan! Thế nên hiện nay, ta đem chánh pháp Bát-nhã ba-lamật-đa phó chúc cho ông, gặp lúc chánh pháp gần diệt thì ông nên thọ trì, giảng thuyết, truyền bá làm cho được trường tồn.

Vả lại, đối với các pháp ấy và chữ nghĩa, văn cú ông nên ghi nhớ rõ ràng không để quên mất và tư duy tu tập đúng như lý, rồi giải thích nghĩa ấy cho mọi người, khuyên họ thọ trì, đọc tụng và sao chép. Vì chính Bát-nhã ba-la-mật-đa này là Pháp thân của chư Phật trong ba thời.

Lại nữa, A-nan! Người nào hoan hỷ trân trọng, tôn kính, lễ bái cúng dường ta thì chính người đó sẽ có tâm này và họ sẽ trân trọng, tôn kính lễ bái cúng dường pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Người cúng dường như thế như cúng dường ta và chư Phật trong ba thời.

Lại nữa, A-nan! Ai đã hết lòng vì pháp của ta mà vui mừng kính trọng không xa rời nó thì nên hết lòng ghi nhớ, thọ trì, tuyên dương, truyền bá Bát-nhã ba-la-mật-đa này không để bị đoạn diệt.

A-nan! Nay ta đem nhân duyên chúc lụy này phó chúc cho ông. Đó chỉ là tóm lược nếu muốn diễn rộng ra thì một kiếp cho đến trăm ngàn ức kiếp nói cũng không hết.

Lại nữa, A-nan! Trong ba thời có các Đức Phật làm bậc Thầy

của Trời, Người, A-tu-la trong thế gian. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng thế là Thầy của tất cả… vì Bát-nhã ba-la-mật-đa có nhân duyên lớn làm lợi ích lớn cho Trời, Người, A-tu-la trong thế gian.

Lại nữa, A-nan! Người nào thể nhập pháp môn này rồi luôn thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, tư duy, diễn thuyết cho đến sao chép thì chính người ấy đã được sự giáo hóa của ta và cũng chính là người không còn xa Phật, Pháp, Tăng, ngược lại có thể hỗ trợ cho Vô thượng Bồđề của các Đức Phật trong ba thời. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ-đề của chư Phật đều phát sinh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

A-nan thế nên Đại Bồ-tát muốn thành tựu Vô thượng Bồ-đề thì phải thông đạt các pháp Ba-la-mật-đa. Học các pháp Ba-la-mật-đa ấy là học Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể phát sinh các pháp Ba-la-mật-đa. Hơn nữa, Bát-nhã ba-la-mật-đa này là mẹ của các Bồ-tát, thế nên các pháp Ba-la-mật-đa cũng có thể phát sinh Vô thượng Bồ-đề. Vì các pháp Ba-la-mật-đa đều đến từ Bátnhã ba-la-mật-đa. Do Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy sinh các pháp Ba-lamật-đa và cũng có khả năng hỗ trợ cho Vô thượng Bồ-đề. Thế nên, những Đại Bồ-tát muốn thành tựu Vô thượng Bồ-đề thì phải học thông suốt các pháp Ba-la-mật-đa.

Còn nữa, A-nan! Ông nên lắng nghe! Hôm nay, lần thứ hai, lần thứ ba ta đem chánh pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này phó chúc cho ông, ông nên ghi nhớ, thọ trì, thận trọng đừng để quên mất, lúc chánh pháp bị mai một thì ông nên giữ gìn, tuyên dương truyền bá để chánh pháp được trường tồn. Bát-nhã ba-la-mật-đa này chính là Pháp tạng vô tận của các Đức Phật. Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong quá khứ đã diễn thuyết Pháp tạng vô tận này cho các chúng sinh để họ đều đắc thành quả vị Vô thượng Bồđề. Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở hiện tại mười phương a-tăng-kỳ thế giới và vị lai cũng vì tất cả chúng sinh mà diễn thuyết pháp tạng vô tận để đạt quả vị như vậy.

Lại nữa, A-nan! Nếu người ở hàng Thanh văn đem pháp Thanh văn thuyết giảng cho tất cả chúng sinh trong tam thiên thế giới làm cho họ đều chứng quả vị A-la-hán, thì phước lợi ấy có thật.

Này A-nan! Ông hiểu thế nào? Công đức bố thí, trì giới, thiền định…, của những vị ấy có nhiều không?

A-nan bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!

Phật nói:

–A-nan! Phước kia tuy nhiều, nhưng không bằng Bồ-tát dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa tu một trong những pháp ấy, rồi tuyên thuyết cho các chúng sinh, phước của vị ấy rất nhiều. Hơn nữa, Đại Bồ-tát ấy có thể đem pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này thuyết giảng cho những Đại Bồ-tát khác trong một ngày thì được phước gấp đôi.

A-nan! Bồ-tát nào ở chừng một ngày, hay một buổi, hoặc một giờ, hoặc trong khoảnh khắc…, cho đến trong một sát-na đem pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này giảng thuyết cho những Bồ-tát khác, nên biết phước của vị ấy cũng gấp đôi.

A-nan! Đại Bồ-tát nào thường bố thí pháp cho chúng sinh như thế thì không ai có thể đem thiện căn, phước đức của hàng Thanh văn, Duyên giác mà so sánh được. Vì Đại Bồ-tát ấy không còn thoái chuyển đạo Vô thượng Bồ-đề.

*********

Khi thuyết giảng chánh pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này, giữa đại hội gồm đủ các chúng Đại Bồ-tát, Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Người, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-lagià và Nhân phi nhân…, Đức Thế Tôn biểu hiện tướng thần thông. Nhờ oai thần của Phật, nên mọi người đều được thấy A-súc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong đại hội đầy đủ vô lượng công đức không thể nghĩ bàn, giống như biển sâu không lay động. Hàng Đại Bồ-tát, A-la-hán cõi ấy giống như đại Long vương, đã đoạn các lậu hoặc không còn phiền não, tâm và tuệ hoàn toàn giải thoát, việc làm đã xong, bỏ mọi gánh nặng hoàn toàn vô ngã, dứt hết các kết sử, chánh trí phát quang, tâm được tự tại và đầy đủ các công đức. Còn có vô lượng chúng sinh vây quanh như: Bí-sô, Bí-sôni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và tám bộ chúng Trời, Rồng… cho đến được thấy các tướng trang nghiêm ở cõi Phật A-súc. Tuy chúng hội cho rằng tướng ấy là điều hiếm có, muốn chiêm ngưỡng nhưng không biết hình ảnh ấy từ đâu đến. Bấy giờ, Đức Thế Tôn thu hồi thần lực, bỗng nhiên chúng hội không còn thấy Đức Phật A-súc Như Lai và các tướng kia nữa.

Cùng lúc ấy, Thế Tôn bảo A-nan:

–Cả chúng hội này đều không còn thấy Đức A-súc Như Lai và các tướng ấy nữa. Ông nên biết các pháp cũng vậy, không thể đối nhau với mắt, pháp không thể đối pháp, pháp không thể thấy pháp. Thế nên chúng không từ đâu đến và cũng không đi về đâu.

Này A-nan! Vì tất cả pháp không có người biết, không có

người thấy và cũng không có ai tạo tác cả. Vì sao? Vì các pháp như hư không, không phân biệt, các pháp sâu xa không thể nghĩ bàn. Ví như nhà ảo thuật không theo nhận các pháp, vì các pháp không chắc chắn, các pháp không có thọ nhận cũng vậy.

Này A-nan! Những Đại Bồ-tát hành như thế chính là hành Bátnhã ba-la-mật-đa. Nhưng trong ấy cũng không có pháp chấp trước. Ai học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật-đa và học như thế thì có thể trọn vẹn các pháp học.

Lại nữa, A-nan! Đại Bồ-tát nào muốn thành tựu Vô thượng Bồđề phải nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Vì đối với các môn học thì Bát-nhã ba-la-mật-đa là cao lớn hơn hết, thù thắng vi diệu hơn hết, không còn pháp gì cao hơn, không pháp nào bằng và hoàn toàn không gì sánh bằng. Nó thường làm lợi ích an vui cho thế gian, người không nơi nương tựa làm chỗ nương tựa. Người học như thế thì được chư Phật chấp thuận và khen ngợi.

Này A-nan! Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác học pháp ấy rồi dùng ngón chân ấn xuống có thể làm chấn động cả tam thiên thế giới, cho đến mỗi bước chân đều có thể hiện các tướng thần thông, vì chư Phật có đầy đủ vô lượng công đức thù thắng.

Lại nữa, A-nan! Các Đức Phật học Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy, nên đối với các pháp trong ba thời, hiểu biết không gì trở ngại.

A-nan! Thế nên ta nói người học Bát-nhã ba-la-mật-đa là cao lớn hơn hết, vi diệu thù thắng hơn hết, không còn pháp gì cao hơn, không pháp nào bằng và hoàn toàn không có gì sánh bằng. Ông nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa vô cùng vô tận, không có bờ bến. Ai muốn đo lường Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chính là đo lường hư không. Vì sao? Vì hư không vô lượng nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng, hư không vô tận nên Bát-nhã ba-la-mật-đa vô tận, hư không bao la nên Bát-nhã ba-la-mật-đa bao la.

A-nan! Ta không nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có hạn lượng vì danh từ các pháp có giới hạn, Bát-nhã ba-la-mật-đa không phải như thế nên không có giới hạn.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Vì nguyên nhân gì Ngài nói Bát-nhã bala-mật-đa không có hạn lượng?

Phật đáp:

–A-nan! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa vô tận nên không có hạn lượng, Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa nên không có hạn lượng. Do vô tận và xa lìa nên pháp không thể nắm bắt với sự không thể nắm bắt thì làm gì có hạn lượng. Thế nên, ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa không hạn lượng. A-nan! Chư Phật Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thuở quá khứ đều sinh ra từ Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên Bát-nhã ba-la-mậtđa vô tận. Chư Phật Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở đời vị lai và hiện tại cũng vậy, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô tận.

A-nan! Ta cũng sinh ra từ Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì Bát-nhã bala-mật-đa vô tận. Chính nguyên nhân đó, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa đã vô tận, đang vô tận và sẽ vô tận. Vì sao? Vì hư không tận thì Bátnhã ba-la-mật-đa mới tận. A-nan, thế nên ta nói Bát-nhã ba-la-mậtđa vô tận.

Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề nghĩ: “Ta nên hỏi về ý nghĩa sâu xa mà Đức Phật vừa nói.” Nghĩ rồi Tôn giả bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa vô tận chăng?

Phật đáp:

–Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật-đa vô tận. Vì sao? Vì tất cả pháp không sinh giống như hư không nên vô tận.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp là không sinh thì Bátnhã ba-la-mật-đa sẽ sinh như thế nào?

Phật đáp:

–Tu-bồ-đề! Vì sắc vô tận nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh như thế; thọ, tưởng, hành, thức vô tận nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng sinh như thế. Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hiểu biết như vậy nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh cũng vậy. Hơn nữa, Đại Bồ-tát cũng nên quán: vô minh, hành, thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh cho đến lão tử ưu bi khổ não đều vô tận thì Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng sinh như thế.

Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nào dùng pháp vô tận ấy quán chiếu duyên sinh thì vị ấy chính là người tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, không dừng lại ở quả vị Thanh văn, Duyên giác mà quyết định chứng Vô thượng Bồ-đề và an trụ Nhất thiết trí. Khi ngồi đạo tràng Bồ-tát nên quán chiếu pháp duyên sinh như vậy, quán rồi không rơi vào hai biên không trụ vào trung đạo, đó là pháp Bất cộng của Bồ-tát. Người quán như thế sẽ đạt được trí Nhất thiết trí.

Tu-bồ-đề! Nếu Đại Bồ-tát bị thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề, thì vị ấy không thể thành tựu phương tiện thiện xảo, cũng không thể biết. Thế nào là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa? Thế nào là pháp vô tận sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa? Thế nào gọi là dùng pháp vô tận quán chiếu các duyên sinh?

Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nào không còn thoái chuyển Vô thượng Bồ-đề thì mới có thể thành tựu phương tiện thiện xảo và cũng có thể hiểu biết. Đại Bồ-tát hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng pháp vô tận phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa và cũng dùng pháp vô tận ấy quán chiếu các duyên sinh.

Tu-bồ-đề! Khi Đại Bồ-tát quán chiếu các duyên sinh như thế thì không thấy có pháp chẳng do duyên sinh, không thấy có pháp thường, pháp cứu cánh, pháp kiên cố, cũng không thấy có người tạo tác và người tiếp nhận.

Tu-bồ-đề! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và niệm pháp vô tận như thế thì phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa như lý, đến lược dùng pháp vô tận quán chiếu các duyên sinh thì vị ấy không thấy sắc; không thấy thọ, tưởng, hành, thức; lại cũng không thấy vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, hữu, sinh, lão, tử, ưu bi khổ não và không thấy cõi Phật này, cõi Phật kia, cũng không thấy có pháp của cõi Phật này và không thấy có pháp của cõi Phật kia.

Tu-bồ-đề! Lúc Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thì tâm của ma ác rất kinh sợ, ưu sầu, khổ não.

Tu-bồ-đề! Ví như người có cha mẹ qua đời, họ rất thương tiếc đau buồn khổ não, tâm trạng của ma cũng vậy.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Chỉ một ma ác sinh khổ não hay tất cả các ma ác đều khổ não?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thì tất cả ma ác trong tam thiên thế giới đều ưu sầu khổ não, bọn chúng đều không thể ngồi yên nơi tòa mình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hành Bátnhã ba-la-mật-đa ấy thì tất cả Trời, Người, A-tu-la trong thế gian không thể lay chuyển được và tất cả ma ác không thể quản thúc.

Tu-bồ-đề! Thế nên Đại Bồ-tát muốn thành tựu Vô thượng Bồđề thì phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhờ hành Bát-nhã ba-lamật-đa này nên Đại Bồ-tát được viên mãn các pháp Ba-la-mật-đa như: Bố thí ba-la-mật-đa, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật. Các pháp Ba-la-mật-đa đã được viên mãn, đồng thời các pháp thiện cũng viên mãn, bên cạnh đó tất cả phương tiện và nguyện lực cũng đều đầy đủ.

Hơn nữa, Tu-bồ-đề! Nếu Đại Bồ-tát muốn quy nạp các phương tiện quyền xảo thì nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa này, lại còn phải niệm pháp vô tận phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa như lý. Lúc hành và niệm như thế, Đại Bồ-tát bắt đầu sinh tâm như vầy: Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp khắp các thế giới a-tăng-kỳ trong mười phương, Nhất thiết trí của các Ngài phát sinh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chư Phật đã thành tựu ta cũng sẽ thành tựu như vậy.

Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngay khoảnh khắc ấy sinh tâm như thế thì vượt hơn công đức của các Bồ-tát khác, họ phải trải qua hằng hà sa kiếp bố thí. Ông nên biết, vị ấy đã đứng đầu vào hàng không thoái chuyển và được các Đức Phật hộ niệm.

Tu-bồ-đề! Ông nên biết, Đại Bồ-tát trong khoảnh khắc sinh tâm như thế, đầy đủ các công đức như thế, hoặc những vị một ngày hay hơn một ngày sinh tâm như thế, đều được các Đức Phật hộ niệm, những nơi sinh ra đều là cõi Phật, đầy đủ các công đức, được các Ngài khen ngợi, ở khắp mọi nơi là lợi ích lớn cho chúng sinh.

Tu-bồ-đề! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh tâm như thế và còn niệm về pháp vô tận phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa như lý. Như Bồ-tát Hương Tượng ở cõi Phật A-súc hành Bát-nhã bala-mật-đa và tu phạm hạnh, những Đại Bồ-tát ở cõi ta cũng thế.