SỐ 202
KINH HIỀN NGU
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, xứ Kinh châu, quận Cao xương,
Sa-môn Tuệ Giác và các vị khác cùng dịch.

Việt dịch:  Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 5

Phẩm 26: HAI VỢ CHỒNG NGHÈO THÍ VẢI ĐƯỢC HIỆN BÁO

Tôi nghe như thế này:

Thuở nọ, Đức Phật ở tại tinh xá Kỳ hoàn, vườn Kỳ-đà Cấp cô  độc, cùng với chúng đại Tỳ-kheo vây quanh nghe Phật thuyết pháp. Lúc bấy giờ, trong nước có một vị trưởng giả. Vợ ông mang thai sinh một đứa con gái dung mạo đoan chính, sắc đẹp lạ thường. Khi sinh ra, đã có một miếng lụa trắng quấn quanh thân mình. Cha mẹ thấy thế bèn mời thầy đến bói tướng. Thầy tướng nói:

– Rất tốt, có phước đức rất lớn.

Nhân đó đặt tên đức bé là Thúc Ly. Khi Thúc Ly trưởng thành thì miếng lụa cũng lớn theo thân. Cô rất xinh đẹp, nên trong nước xa gần tranh nhau đến cầu hôn. Cha mẹ cô thầm nghĩ: “Con gái tuổi đã lớn, phải nên gả chồng.” Họ liền nhờ một người thợ làm một xâu chuỗi anh lạc. Thúc Ly thấy thế hỏi cha:

– Làm thứ vàng bạc này để làm gì?

Người cha nói:

– Con đã lớn tuổi muốn gả chồng cho con, nên cha làm xâu chuỗi này.

Cô gái thưa cha rằng:

– Con muốn xuất gia, không muốn đi lấy chồng. Cha mẹ thương con nên không muốn trái ý, bèn tìm một xấp vải để may y. Đứa con gái thấy thế lại hỏi:

– Cha làm việc gì thế?

Đáp:

– May y áo cho con.

Cô thưa cha mẹ rằng:

– Tấm vải con đang mặc đây là đủ rồi, không cần phải làm thêm nữa, chỉ mong cha dẫn con đến nơi Đức Phật ngự. Cha mẹ cô liền dẫn cô đến nơi Đức Phật cúi đầu làm lễ cầu xin xuất gia cho con. Đức Phật nói:

– Thiện lai!

Tự nhiên tóc trên đầu cơ rơi rụng, tấm lụa trên mình biến thành ca-sa ngũ điều. Đức Phật giao cô cho bà Đại Ái Đạo làm Tỳ-kheo-ni. Cô tu hành tinh tấn, chẳng bao lâu thì chứng quả A-la-hán. Ngài A-nan thấy thế bạch Đức Phật:

– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni Thúc Ly, vốn gieo trồng công đức gì nay được sinh vào nhà trưởng giả. Khi sinh đã có mảnh lụa quấn thân, xuất gia không bao lâu thì chứng quả A-la-hán?  Đức Phật bảo A-nan:

– Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ông nói về việc đó.

A-nan thưa:

– Vâng, con xin lắng nghe.

Đức Phật nói:

– Vào đời quá khứ lâu xa, có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi, cùng các đệ tử du hóa rộng độ tất cả. Thời bấy giờ vua quan, dân chúng thiết trai cúng dường rất đông và mở đại hội thỉnh Đức Phật thuyết pháp.

Có một vị Tỳ-kheo thường đi khuyến hóa, khuyên mọi người đến nơi Đức Phật nghe pháp, bố thí. Lúc bấy giờ có người con gái tên Đàn-nhị-già rất nghèo khốn, hai vợ chồng chỉ dùng chung có một mảnh vải, nếu chồng đi ra ngoài thì dùng vải ấy mà đi, còn người vợ trần truồng ngồi trong đống cỏ khô. Nếu người vợ dùng tấm vải đi ra ngoài xin ăn thì người chồng cũng chịu trần truồng như thế. Vị Tỳ-kheo đi khuyến hóa lần lượt đi đến nhà cô, trông thấy người nữ, nhân đó khuyên:

– Đức Phật ra đời rất khó gặp, kinh pháp rất khó được nghe, thân người khó được, cô nên đến nghe pháp, cô nên bố thí và rộng nói về quả báo của xan tham, bố thí…

Người nữ bạch rằng:

– Xin Đại đức chờ giây lát.

Cô trở vào nhà, nói với chồng:

– Bên ngoài có một vị Sa-môn khuyên em nên gặp Phật, nghe pháp và bố thí. Em nghĩ có lẽ đời trước không chịu bố thí cho nên đời này nghèo khổ, bây giờ phải làm cách gì để gieo nhân lành cho đời sau.

Người chồng nói:

– Nhà chúng ta nghèo khốn như vầy, dù có tấm lòng, nhưng biết lấy gì để bố thí bây giờ?

Người vợ nói:

– Đời trước không bố thí nên đời này khốn khổ, bây giờ lại không gieo nhân, thì đời sau không biết sinh vào chốn nào. Anh nên nghe em, chúng ta quyết bố thí. Người chồng thầm nghĩ: “Hay là vợ mình có chút ít của riêng,  thôi ta nên nghe theo”, liền nói với vợ:

– Em muốn bố thí thì cứ bố thí.

Cô nói:

– Ý em muốn dùng tấm vải này để bố thí.

Người chồng nói:

– Anh và em chỉ có một tấm vải để dùng chung, đi ra vào xin ăn cũng nhờ nó mà duy trì cuộc sống, hôm nay nếu đem đi cúng thí đều phải đành chịu chết sao? Xin em nên tìm cách nào khác.

Người vợ nói:

– Đời người ai cũng chết, nếu nay không cúng thí rồi cũng sẽ chết, thà cúng thí mà chết thì còn hy vọng ở đời sau, còn không cúng thí mà chết, đời sau biết nương cậy vào đâu. Người chồng vui vẻ nói:

– Chúng ta giữ lấy phần chết đem cúng thí cầu phước lành.

Người vợ liền trở ra, bạch vị Tỳ-kheo rằng:

– Đại đức xin ngài đứng dưới mái nhà, con sẽ bố thí.

Vị Tỳ-kheo đáp:

– Nếu người muốn thí nên đối mặt mà cúng thí, tôi sẽ vì cô mà chú nguyện. Thúc Ly (Đàn-nhị-già) thưa:

– Tôi chỉ có tấm vải này, trong đây không có vật gì khác. Thân thể người nữ xấu ác không nên ra khỏi đây. Cô liền trở vào trong, cởi tấm vải trên thân, đưa ra ngoài cho vị Tỳ-kheo. Vị Tỳ-kheo chú nguyện và đem về nơi Đức Phật ngự. Đức Phật bảo vị Tỳ-kheo đem tấm vải đến đây. Tỳ-kheo đưa cho Đức Phật, tự tay Đức Phật nhận tấm vải ô uế.

Bấy giờ vua chúa và đại chúng ai cũng có tâm chê trách Đức Phật thọ nhận tấm vải nhơ bẩn đó. Đức Phật biết tâm đại chúng nên nói với họ:

– Ta xem trong đại hội này, bố thí thanh tịnh không ai hơn người cúng thí tấm vải này.

Đại chúng nghe rồi không ai không tỏ vẻ sợ hãi. Các bà phu nhân vui mừng cởi đồ trang sức đang đeo trên thân, chuỗi anh lạc, y báu… đem cho vợ chồng Đàn-nhị-già. Đức vua cũng hoan hỷ, cởi y phục trên thân, tặng cho chồng cô Đàn-nhị-già và ra lệnh những người  đến dự hội của Đức Phật Tỳ-bà-thi, nên rộng vì đại chúng thuyết pháp vi diệu. Lúc bấy giờ, đại chúng tham dự hội được độ rất nhiều.

Đức Phật bảo:

– Này A-nan, nên biết, người đàn bà nghèo khổ tên Đàn-nhị-già đó chính là tiền thân của Tỳ-kheo-ni Thúc Ly ngày nay. Do đời trước dùng tâm thanh tịnh cúng thí tấm vải, nên chín mươi mốt kiếp, sinh ra bất cứ nơi nào vị ấy đều có được tấm vải che thân cùng sinh ra. Do vui mừng được gieo duyên với Đức Phật đó, nghe pháp sâu xa vi diệu, cầu mong giải thoát, nên kiếp này gặp được Ta, thành A-la-hán. Cho nên các ông phải cần tinh tấn nghe pháp, bố thí. Lúc Đức Phật thuyết xong chuyện tiền kiếp này, người trong chúng đắc đạo, không ai chẳng vui mừng kính lễ phụng hành.