SỐ 222
KINH QUANG TÁN
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 10

Phẩm 25: VẤN

Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân, bốn Thiên vương, các trời Diệm, các trời Đâu-thuật, các trời Ni-ma-la, các trời Ba-la-ni-mật, các trời Phạm, các trời Ca-di, các trời Thủ-đà-vệ, cùng vô số ức trăm ngàn thiên nhân trong tam thiên đại thiên thế giới, chư Thiên nhân này do phước đức đời trước nên ánh sáng rực rỡ, nhưng so với Như Lai thì ánh sáng của Ngài gấp trăm ức ngàn ức vạn lần, gấp hơn ức vạn lần. Ngài là bậc Tôn quý, là bậc Cao thượng, là bậc không ai sánh bằng, là bậc không ai so sánh, không gì là chẳng thông đạt.

Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân thưa với Hiền giả Tu-bồ-đề:

–Nay bốn Thiên vương, chư Thiên Thủ-đà-vệ… đều đến dự đại hội, muốn nghe Hiền giả Tu-bồ-đề nói pháp Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát an trụ trong Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Nên hành như thế nào?

Ngài Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

–Chư Thiên tử muốn nghe, tôi sẽ nói.

Ngài Tu-bồ-đề nương oai thần của Đức Phật, nhờ ân Đức Phật trợ giúp để nói Bát-nhã ba-la-mật, ứng với sự lập hạnh của các Bồtát. Ngài Tu-bồ-đề nói:

–Vị Thiên tử nào chưa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác thì nay nên phát. Vị nào vào chánh kiến Thanh văn thì chẳng thể phát tâm đại đạo. Vì sao? Vì đã bít lấp đường sinh tử. Nhưng tôi chính thức khiến cho những người này hành đạo Bồ-tát. Tôi nhân danh niềm vui của họ để khuyến trợ làm cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tôi không bao giờ đoạn mất công đức của họ. Tôi muốn làm cho họ chọn pháp trung đạo tôn quý, chính là muốn cho họ đạt Phật đạo vô thượng.

Ngài Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

–Vừa rồi, ông hỏi, Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Tâm trí Nhất thiết của Đại Bồ-tát chẳng chấp sắc có thường hoặc vô thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng chấp họa hoạn về bệnh tật lo sầu, có hại, không hại, có ràng buộc, không ràng buộc, có độ thoát, không độ thoát, hoại diệt sự sợ hãi thường gặp, đạt đến thân rỗng không, rốt ráo không còn tin gì, không tranh tụng, cũng không nhớ nghĩ, không có điên đảo. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; địa, thủy, hỏa, phong, không, thức chẳng thấy có thường, vô thường, có ngã, vô ngã, hoặc khổ, hoặc vui và các hoạn nạn tật bệnh lo sầu. Đối với các loại thanh sắc, không nhớ nghĩ, cũng không điên đảo. Năm ấm, sáu suy và các thức chủng tịch nhiên, không thật. Các điều tưởng nghĩ, xét theo Phật pháp, đều là điên đảo.

Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát muốn tương ưng tâm trí Nhất thiết để hành Thí ba-la-mật thì không chấp trước, hành Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền đều không chấp trước.

Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, quán sát các pháp, biết rõ các pháp, biết rõ các pháp lần lượt là nhân duyên thành tựu cho nhau, được đầy đủ rồi, lần lượt hình thành sự hiểu biết về các pháp là không có tôi ta, cũng không có thân. Bồtát dùng điều đó để khuyến trợ đạo tâm. Cái đạo tâm ấy cũng không sở hữu.

Ngài Tu-bồ-đề nói với Câu-dực:

–Khuyến trợ đạo tâm biết không sở hữu tức là biết đạo tâm. Mà không sở hữu thì chẳng thể nắm bắt được. Nếu khuyến trợ đạo tâm, chẳng nắm bắt được thì, này Câu-dực! Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, quán tất cả các pháp chẳng thấy các pháp là cái có thể nắm bắt được.

Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Thế nào là khuyến trợ đạo tâm mà không sở hữu? Thế nào là khuyến trợ đạo tâm mà chẳng thể nắm bắt được? Thế nào là khuyến trợ đạo tâm không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được?

Ngài Tu-bồ-đề trả lời Thích Đề-hoàn Nhân:

–Này Câu-dực! Tâm khuyến trợ ấy cùng với tâm vốn là đạo tâm. Như vậy thì không có tâm nào khác. Không có tâm thì dùng không tâm mà khuyến trợ, không có không niệm, dùng không niệm để khuyến trợ. Nếu không tâm thì dùng không tâm, không có niệm thì dùng không có niệm tức là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát.

Đức Phật dạy:

–Hay thay, hay thay! Này Tu-bồ-đề! Nếu có thể khuyến trợ Đại Bồ-tát thì mới nói Bát-nhã ba-la-mật như vậy.

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con đem thân mình báo đáp công ân của Phật, hành sự nhiều lần. Vì sao? Vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ khiến các đệ tử vì các Bồ-tát nói Bát-nhã ba-la-mật. Thuở quá khứ, chư Phật vì các Bồ-tát khuyến trợ giảng nói sáu pháp Ba-la-mật, các Ngài tuần tự khen ngợi, dẫn dụ tiến tới, khuyến hóa kiến lập đạo phẩm ấy. Thuở ấy, Thế Tôn vốn cùng với các Bồ-tát hưng khởi sáu pháp Ba-la-mật, đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thành không thoái chuyển.

Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nay con cũng như thế, sẽ

khuyến trợ các Đại Bồ-tát phát khởi sự tin ưa thọ trì sáu pháp Ba-lamật, khai hóa kiến lập Phật đạo. Con đã thọ trì rồi, đã khiến họ ưa thích rồi, ân cần khuyến lập sẽ khiến cho Đại Bồ-tát mau thành tựu Vô thượng Bồ-đề không thoái chuyển.

Ngài Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

–Này Câu-dực! Hãy lắng nghe! Vừa rồi ông hỏi, Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật thế nào mà không chỗ trú?

Này Câu-dực! Cái gọi là sắc thì sắc đó tức là không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại là không. Cái gọi là Bồ-tát thì Bồ-tát là không. Vì sắc là không cho nên Bồ-tát là không, không có hai, cũng không nhiều. Vì thọ, tưởng, hành, thức là không nên Bồ-tát cũng là không, không có hai, cũng không nhiều.

Này Câu-dực! Đó là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật.

Lại nữa, này Câu-dực! Cái gọi là nhãn thì nhãn tức là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế. Cái gọi là Bồ-tát thì Bồ-tát cũng là không. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là không cho nên Bồ-tát cũng là không, không có hai, cũng không có nhiều. Địa, thủy, hỏa, phong là không vì vậy Bồ-tát cũng là không. Sáu sự trong thân đều không sở hữu, gốc ngọn đều là không, cũng không có hai, cũng không có nhiều.

Này Câu-dực! Như vậy là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã bala-mật.

Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, hiểu rõ si là không, sắc, lục nhập, cánh, lạc, thống, ái, thọ, hữu, sinh lão bệnh tử cũng lại là không. Vì mười hai nhân duyên diệt hết cho nên gọi là không. Mười hai nhân duyên là không cho nên Bồ-tát cũng là không, không có hai, cũng không có nhiều.

Này Câu-dực! Như vậy là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã bala-mật.

Lại nữa, Câu-dực! Vì Thí ba-la-mật là không nên Bồ-tát là không. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại là không. Vì sáu pháp Ba-la-mật là không nên Bồ-tát là không. Đó là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật.

Lại nữa, này Câu-dực! Pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không đều là không cho nên Bồ-tát cũng là không. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni đều là không cho nên Bồ-tát là không. Sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm đều là không, bảy không là không, pháp của chư Phật là không, các môn Tam-muội là không, môn Đà-la-ni là không, không có hai, cũng không có nhiều.

Này Câu-dực! Đó là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật.

Lại nữa, này Câu-dực! Trí Nhất thiết là không. Vì trí Nhất thiết

là không nên Bồ-tát cũng là không. Trí Nhất thiết là không và Bồtát cũng là không cho nên đều không có hai, không có nhiều.

Này Câu-dực! Đó là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật.

Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Ngài Tu-bồ-đề trả lời:

–Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên trụ trong sắc, chẳng nên trụ trong thọ, tưởng, hành, thức, chẳng nên trụ trong nhãn xúc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế, không xúc, không trụ. Địa, thủy, hỏa, phong cũng không xúc, cũng không trụ. Chẳng nên trụ Ý chỉ, Ý đoạn, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo. Chẳng nên trụ trí Nhất thiết. Chẳng nên trụ Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, Ala-hán, Bích-chi-phật và Phật đạo. Chẳng nên trụ có thường, vô thường của sắc. Chẳng nên trụ có thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng nên trụ khổ, vui của sắc. Chẳng nên trụ tịnh, bất tịnh của sắc. Chẳng nên trụ ngã sở, chẳng phải ngã sở của sắc. Chẳng nên trụ không, bất không của sắc. Chẳng nên trụ tịch tĩnh, bất tịch tĩnh của sắc. Chẳng nên trụ không thật, không không thật. Chẳng nên trụ có Tu-đà-hoàn, không có Tu-đà-hoàn. Chẳng nên trụ có Tư-đà-hàm, không có Tư-đà-hàm. Chẳng nên trụ có A-na-hàm, không có A-na-hàm. Chẳng nên trụ có A-la-hán, không có A-la-hán. Chẳng nên trụ có Bích-chi-phật, không có Bích-chi-phật. Chẳng nên trụ có Phật, không có Phật. Chẳng nên trụ bốn đạo Thế Tôn, Bíchchi-phật, Phật Thế Tôn.

Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên trụ trụ địa Bồ-tát thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười, từ lúc mới phát tâm cho đến không thoái chuyển, cũng không chỗ trụ. Bồ-tát chẳng nên trụ đầy đủ Thí ba-la-mật, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế; chẳng nên trụ ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật.

Đại Bồ-tát chẳng nên nghĩ thế nào? Đó là “Ta nhập pháp Bồtát. Ta nhập địa không thoái chuyển.” Chẳng nên khởi trụ như thế.

Đại Bồ-tát chẳng nên trụ năm Thần thông, cũng chẳng nên trụ năm Thần thông của Bồ-tát. Đã đắc năm thần thông rồi đến vô số vô số cõi nước chư Phật, chiêm ngưỡng chư Phật Thiên Trung Thiên, cúi đầu làm lễ, lắng nghe thuyết pháp, như pháp đã thọ, nói lại cho hội chúng.

Đại Bồ-tát chẳng nên khởi trụ này: “Như cõi nước mà Đức Phật Thiên Trung Thiên đã biến hiện, ta sẽ hóa hiện thế giới như thế.”

Đại Bồ-tát chẳng nên khởi trụ thế giới này: “Ta sẽ khai hóa tất cả chúng sinh.

Chẳng nên nghĩ: “Ta sẽ trụ ở vô số vô số thế giới, chiêm ngưỡng chư Như Lai, cúng dường hoa hương, hương bột, hương tạp, cờ phướn, lọng lụa.”

Chẳng nên nghĩ: “Ta sẽ khai hóa vô số vô số người, khiến khởi tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Bồ-tát chẳng nên nghĩ thế này: “Ta sẽ thành lập năm nhãn đầy đủ. Những gì là năm? Đó là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn.”

Chẳng nên nghĩ: “Ta sẽ khởi lập tất cả bình đẳng mới có thể thành tựu các môn Tam-muội, để dùng chúng tự vui.”

Chẳng nên nghĩ: “Đắc môn Đà-la-ni, mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, bốn sự bất hộ, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật.”

Chẳng nên nghĩ: “Ta sẽ đầy đủ đại Từ, đại Bi.”

Chẳng nên trụ ba mươi hai tướng, đầy đủ tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Chẳng nên trụ pháp Bát đẳng, dốc lòng tin thọ trì. Chẳng nên trụ Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật. Chẳng nên trụ Tu-đà-hoàn bảy lần chết, bảy lần sinh để giải thoát. Chẳng nên trụ “Phược kỳ” là một hạng chân nhân đứng đầu, hết các trần lao.

Chẳng trụ trong Niết-bàn của Tu-đà-hoàn. Chẳng nên trụ Tưđà-hàm. Vì sao? Vì tới lui trong thế gian để dứt hết khổ, vào diệt độ.

Chẳng nên trụ quả chứng A-na-hàm. Vì sao? Vì thành A-na-

hàm rồi liền ở trên cõi trời vào Niết-bàn.

Chẳng nên trụ quả chứng A-la-hán. Vì sao? Vì thành đạo A-lahán rồi liền trụ trong Vô dư Niết-bàn. Chẳng nên nhập Niết-bàn cho nên chẳng nên trụ. Niết-bàn của Bích-chi-phật vượt qua Niết-bàn địa Thanh văn, mhưng chẳng thể sánh kịp Niết-bàn của Phật. Vì vậy, chẳng nên trụ trong đạo của Bích-chi-phật. Chẳng nên trụ việc đạo, ở trong đạo tuệ mà không chấp trước.

Chẳng nên trụ trí Nhất thiết. Vì sao? Vì trí Nhất thiết hiểu rõ tất cả pháp, thành Đẳng chánh giác, dứt các kiết trần lao chướng ngại. Vì sao? Vì Như Lai thành Đẳng chánh giác liền chuyển pháp luân, tức là làm Phật sự độ vô số người chẳng thể tính đếm, khiến nhập Niết-bàn. Vì vậy, chẳng nên trụ trong Phật, trụ bốn Thần túc, dùng Tam-muội sắc tượng, loại Tam-muội vượt qua và tồn tại hằng hà sa số kiếp.

Chẳng nên trụ thọ mạng vô số. Chẳng nên trụ ba mươi hai tướng mà mỗi tướng cả trăm công đức được thành tự. Chẳng nên trụ hằng hà sa thế giới chư Phật. Chẳng nên trụ cõi Phật ở Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới và một cõi Phật. Chẳng nên trụ mười phương cõi Phật là một cõi. Chẳng nên trụ ngồi dưới cây Bồ-đề, vì cây ấy phát ra mùi hương, khiến cho chúng sinh nghe mùi hương này đúng như hương vị của nó, thì không bị dâm, nộ, si ràng buộc, chẳng phát ý Thanh văn, Bích-chi-phật mà đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bất kỳ chúng sinh nào nghe mùi hương này rồi thì thân, khẩu, ý đều không bệnh. Ở cõi Phật đó, cũng không chỗ trụ, tức không có âm thanh của sắc, không có âm thanh của thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng nên trụ âm thanh của Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật.

Chẳng nên trụ âm thanh của bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật.

Chẳng nên trụ âm thanh Niết-bàn của Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thành Đẳng Chánh Giác.

Này Câu-dực! Như trên là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng nên trụ vào những âm thanh vướng mắc này.

Bấy giờ Hiền giả Xá-lợi-phất, tâm tự nghĩ: “Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào?” Ngài Tu-bồ-đề biết tâm niệm của Xá-lợi-phất, liền nói với Xá-lợi-phất:

–Theo ý ông thì sao? Như Lai trụ ở chỗ nào?

Ngài Xá-lợi-phất trả lời ngài Tu-bồ-đề:

–Như Lai không chỗ trụ, chẳng phải không trụ. Phật không tâm, không sắc, chẳng trụ ở sắc; chẳng trụ thọ, tưởng, hành, thức, chẳng trụ cảnh giới hữu vi, chẳng trụ cảnh giới vô vi, chẳng trụ các Tam-muội không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, chẳng trụ trí Nhất thiết.

Ngài Tu-bồ-đề khen Xá-lợi-phất:

–Đúng vậy, đúng vậy! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên trụ như thế. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng có trụ, Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật nên trụ không có chỗ trụ như thế.

Bấy giờ trong hội các Thiên tử… đều nghĩ: “Lời nói, ý nghĩ của các Duyệt-xoa đều có thể hiểu rõ điều âm thanh phát ra. Nhưng lời nói của Tôn giả Tu-bồ-đề chẳng thể hiểu được.” Tu-bồ-đề biết tâm niệm của các Thiên tử, bảo họ:

–Chẳng biết ư?

Các Thiên tử trả lời:

–Dạ, chẳng biết!

Khi ấy Tôn giả Tu-bồ-đề vì các Thiên tử phân biệt nói:

–Không có một loại văn tự để có thể nói, chẳng thể phân biệt, cũng không người nghe. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật không có văn tự để nói, cũng không người nghe. Vì sao? Vì Như Lai không văn tự.

Này các Thiên tử! Ví dụ như Đức Như Lai hóa làm hóa nhân.

Có hóa nhân rồi, hóa làm bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di. Rồi vì bốn bộ chúng ấy nói pháp. Theo ý các Thiên tử thì sao? Có người nói, có người hiểu chăng?

Trả lời:

–Thưa không!

Ngài Tu-bồ-đề nói:

–Này các Thiên tử! Như thế tất cả các pháp cũng hóa hiện ra, không có người nói, không có người nghe. Ví như trong mộng nghe Phật nói kinh. Thế nào? Có người nói, có người nghe hiểu chăng?

Đáp:

–Thưa không!

Ngài Tu-bồ-đề nói:

–Tất cả các pháp đều như mộng, không có người nói, không có người nghe, không có người biết. Ví như hai vị Thiên tử đứng ở cửa địa ngục, khen ngợi Phật, Pháp, Tăng. Âm thanh của hai người cùng phát ra. Thế nào? Hai âm thanh ấy có hình thành âm thanh thứ hai chăng?

Đáp:

–Thưa không!

Ví như nhà ảo thuật ở ngã tư đường, hóa làm Như Lai nói pháp cho bốn bộ chúng. Thế nào? Có người nói pháp, có người nghe hiểu chăng?

Các Thiên tử lại nghĩ: “Bát-nhã ba-la-mật mà Tu-bồ-đề đã nói rất sâu xa, rất sâu xa, đạt đến chỗ thâm diệu!”

Ngài Tu-bồ-đề biết ý nghĩ của các Thiên tử, bảo với họ:

–Sắc chẳng phải chẳng sâu xa, chẳng phải vi diệu? Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chẳng sâu xa, chẳng phải vi diệu? Sắc chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu? Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu? Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế. Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-lamật chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu? Pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, trí Nhất thiết chẳng phải chẳng phải tự nhiên, sâu xa, vi diệu?

Khi ấy các Thiên tử nghĩ: “Người nói pháp chẳng quyết định sắc, thọ, tưởng, hành, thức chăng? Chẳng quyết định sáu pháp Ba-lamật, bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật chăng? Chẳng quyết định Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật chăng?”

Ngài Tu-bồ-đề biết tâm niệm của các Thiên tử, liền nói với họ. Này các Thiên tử, đúng vậy! Phật đạo không chứng đắc. Như Lai cũng chẳng thuyết pháp, cũng không có người nghe, cũng không có người hiểu. Ai muốn đắc quả chứng Tu-đà-hoàn, quả chứng Tư-đàhàm, quả chứng A-na-hàm, A-la-hán thì đừng rời trí nhẫn. Quả Bíchchi-phật cũng như vậy.

Này các Thiên tử! Như vậy, Đại Bồ-tát sơ phát tâm trụ Bát-nhã ba-la-mật không có nói năng, tức cũng chẳng nghe.