SỐ 190
KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Xà-na-quật-đa, người Ấn độ
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 20 – 21

Phẩm 25: SỨ GIẢ CỦA NHÀ VUA ĐI TÌM THÁI TỬ

Thưở ấy, Quốc sư Bà-la-môn và một đại thần vâng lệnh Đại vương Tịnh Phạn, họ buồn bã tủi khóc rơi lệ, liền bố trí xe ngựa nghiêm chỉnh hoàn bị, với tư cách thừa thế lực oai đức của Đại vương, khởi hành từ thành Ca-tỳ-la, ra khỏi thành tìm dấu tích đuổi theo Bồ-tát, chẳng bao lâu đã đến khu vực Tiên nhân Bạt-già-bà.

Tiên nhân Bạt-già-bà xa xa trông thấy đoàn sứ giả nhà vua lần lần tiến gần lại, Tiên nhân liền đứng dậy bước ra đón tiếp và nói:

-Hân hạnh thay Nhân giả đến đây! Không biết lý do gì quý ngài bỗng nhiên đến khu rừng này? Xin quý ngài vui lòng cho biết, xin mời quý ngài dừng chân giây lát, tạm ngồi trên tấm thảm cỏ này giải khát, rồi tôi sẽ thết đãi đủ thứ quả ngon nước ngọt tươi mát, các ngài mặc tình thọ dụng.

Hai sứ giả liền đảnh lễ dưới chân vị Tiên Bạt-già-bà, đảnh lế rồi lui về ngồi một bên. An tọa xong, Tiên Bạt-già-bà vấn an sức khỏe hai sứ giả nhà vua.

Khi ấy đại thần cắt ngang lời nói của Tiên Bạt-già-bà rồi nói: -Thưa Đại Tiên tôn sư, chúng tôi được Đại vương Tịnh Phạn dòng Cam Giá sai đến đây, tôi là đại thần của nhà vua, còn vị kia là Đại Bà-la-môn Tôn sư của nhà vua. Nhà vua dòng Cam Giá có một Thái tử quý danh là Tất-đạt-đa. Do Thái tử sợ cảnh sinh, già, bệnh, chết, nên bỏ vương cung vào núi chí cầu giải thoát, nghe đồn rằng Thái tử đã đến xứ này. Đó là lý do chúng tôi đến đây.

Tiên Bạt-già-bà nghe hai sứ giả nói như vậy, liền đáp:

-Vị Trượng phu Tối thượng đầy đủ công đức to lớn ấy đã từng đến đây. Sau khi Ngài đến đây hỏi pháp tu tập của tôi, tôi thật sự y theo giáo pháp trình bày cho Ngài nghe. Ngài nghe xong liền nói: “Đây tuy là giáo pháp vượt lên trên thế gian, nhưng sau này vẫn trở lại trong sinh tử, chẳng phải phương pháp rốt ráo. Ngài chê giáo pháp của tôi, bỏ đi nơi khác để cầu đạo thoát ly sinh tử. Nay Ngài đang hướng về chỗ ở của Tiên A-la-la.

Rồi Tiên nhân nói kệ:

Tối thượng Trượng phu công đức lớn
Đến ta nghe pháp cho chẳng thật
Chí cầu Niết-bàn quả tối thượng
Bỏ ta hướng đến chỗ A-la.

Hai sứ giả đại thần và Quốc sư đại Bà-la-môn, sau khi nghe Tiên Bạt-già-bà nói, do họ dốc lòng ân cần kính trọng đối với Đại vương Tịnh Phạn, nên không biết mỏi mệt, không chút trễ nãi, không kịp ăn quả ngọt uống nước ngon của Tiên nhân thết đãi, họ y theo lời nói của Bạt-già-bà cùng nhau vội vã ra đi, tìm về hướng Bồ-tát, lần lần chẳng mấy chốc họ đã tìm ra khu rừng Bồ-tát đang ở. Từ xa hai sứ giả trông thấy Bồ-tát đang ngồi trên thảm cỏ dưới cội cây trong khu rừng, Ngài đã cởi bỏ tất cẩ đồ trang sức quý báu: bảo châu, anh lạc… mà tự thân phóng ra hào quang chiếu sáng rực rỡ tỏa khắp cánh rừng, trông thật trang nghiêm, ví như mặt trời xuất hiện giữa đám mây, chiếu sáng cả trời đất. Sứ giả thấy quang cảnh như vậy, liền bước xuống xe, đi bộ chậm rãi hướng về phía Bồ-tát, đến nơi đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi đồng xướng lên:

-Cúi xin Thánh tử, Ngài luôn luôn được an lành. Rồi họ đứng nép một bên về phía trước Bồ-tát. Bồ-tát hỏi thăm hai vị sứ giả, Ngài tùy theo mỗi việc khó nhọc đã trải qua mà tỏ lời an ủi cảm tạ. Sau khi hỏi thăm an ủi rồi, Bồ-tát cho phép hai sứ giả ngồi gần kề bên.

Hai sứ sứ giả an tọa xong, liền thưa Bồ-tát:

-Thưa Thái tử Đại trí, phụ vương Ngài là Đại vương Tịnh Phạn, : do quá yêu thương kính mến Thái tử, nên rất buồn rầu khổ não. VÌ sao như vậy? Vì ngày Bồ-tát bỏ vương cung xuất gia, Đại vương nghe tin ấy đang đứng bỗng nhiên ngã xỉu xuống đất, hồn xiêu phách lạc hoàn toàn bất tỉnh, quần thần dùng nước rưới lên mình Ngài hồi lâu mới tỉnh, sau khi hồi phục tinh thần Đại vương quá ư thương nhớ Thái tử, nước mắt tuôn trào ràn rụa cả mặt. Do tình trạng như vậy, ngày nay Đại vương ra lệnh hai chúng tôi đi tìm Thánh tử, cúi xin Thánh tử chánh tâm lắng nghe sắc lệnh của Đại vương ban ra thế này:

“Trẫm cũng biết rằng tâm Thánh tử ưa thích chánh pháp, cũng biết Thánh tử không thích vương cung, quyết định xuất gia cầu vô thượng đạo. Việc ấy tuy đúng, nhưng nay chẳng phải là lúc Thánh tử vào rừng. Trẫm thẤy Thái tử vào rừng không đúng lúc, do đó Trẫm hết sức ưu sầu đau khổ, toàn thân bị phiền muộn đốt cháy giống như lửa hồng phừng phực thiêu cả cánh rừng bát ngát. Nay Thái tử nên từ bỏ ý ấy đi, trở về sống nơi vương cung với Trẫm. Thái tử tạm thời xả bỏ tâm ái pháp, nhận lấy tấm lòng quý trọng của cha. Nếu được như vậy là pháp hạnh của Thái tử. Còn con không về gặp mặt cha, thì nỗi đau của cha lại càng thêm mãnh liệt. Ví như dòng nước đại hà chảy suốt quanh năm, tình cờ trong nhất thời hai bờ sông bị vỡ, làm cho dòng nước tự nhiên gián đoạn; lại như trận cuồng phong thổi tan đám mây lớn; ví như khí trời oi bức thiêu hủy đồng cỏ khô; ví như tháng trời đại hạn làm khô cạn các dòng sông; ví như trận mưa đá làm gãy đổ lúa mạ mùa xuân.

“Này đứa con yêu quý, tâm cha ngày nay cũng vậy! Do vì mơ tưởng thương nhớ đến con, tâm cha quá đau khổ như bị nước sôi, như lửa thiêu đốt làm ruột gan tan nát. Do vậy con phải hồi tâm trở lại vương cung; nhận lãnh ngôi vua trị vì thiên hạ. Còn nếu con muốn để lại đời sau lời bình phẩm, thì tùy ý con vào rừng cầu pháp.”

Vua Tịnh Phạn nói: ‘Con trí tuệ của cha, con đang sống với thân tộc mà không có tâm thương mến thân tộc. Con nên thuận ý cha trở về sống trong hoàng cung, chớ để cha ngày nay vì con mà phải chịu Ưu sầu khổ não, sẽ hại đến tính mạng.

“Này con yêu quý, người hành pháp đối với tất cả chúng sinh đều phải phát tâm từ bi, như vậy mới gọi là hành pháp. Đâu chỉ ở một mình trong rừng sâu mới gọi là hành pháp? Trước đây cha từng nghe, từ xưa đến nay, có nhiều người tại gia, thân không bỏ các đồ trang sức như chuỗi anh lạc… không cạo bỏ râu tóc vẫn đầy đủ công đức cầu giải thoát, ở tại gia cũng đắc pháp. Hành giả tu tập pháp hạnh giải thoát chỉ cần có trí tuệ và tinh tấn, như vậy là chánh nhân giải thoát. Vì con, cha sẽ trình bày sơ lược: Xưa có Nhân giả tên Tùy Thường, có Nhân giả tên Lực Kim Cang, có Nhân giả tên Đa Hữu, có Nhân giả tên Lưu Hành, có Nhân giả tên Đại Phú, có Nhân giả tên Biên Thiên, lại có vua nước Tỳ-đề-ha tên Năng Sinh Da-da-để (đời Tùy dịch là Hành Hành), có Nhân giả tên Tịnh Tiên, lại có vua Ma-la (đời Tùy dịch là Tác Hỷ) có vô lượng vô biên các vị vua tu tại gia như vậy đều được giải thoát. Con phải biết ở tại gia cầu pháp giải thoát cũng được thành tựu, hà tất phải xuất gia. Do vậy, con phải mau mau trở về nhà để hoàn thành hai nguyện: Một là con được hưởng thú vui năm dục, hai là để cha thường được an vui.

“Phàm người đời lên ngôi vua có tài năng trí tuệ làm đúng theo nguyện vọng của nhân dân gọi là minh quân, cha sẽ làm cho con đạt được hoàn toàn nguyện vọng ấy. Theo người đời, một vị vua khó từ bỏ vương vị, vì con ta làm được việc khó này, bằng cách làm lễ quán đảnh trao vương vị cho con. Nếu do nhân duyên này mà con xây dựng được sơn hà xã tắc, thì cha lấy làm hạnh phúc, bỏ quần thần, thế tục ngay, xuất gia vào núi cầu đạo.

“Vua đã nói kệ:

Ngôi vua, thân thuộc khó từ bỏ
Nay đều cắt bỏ trao Thái tử
Thấy con có khả năng trị nước
Ta sẽ hoan hỷ vào thâm sơn. ”

Sau khi đại thần và Quốc sư Bà-la-môn đọc lại bài kệ của vua Tịnh Phạn, hai vị đại sứ khép nép thăm hỏi Bồ-tát xong rồi, lại đưa ra ba sự việc để can gián Thái tử:

-Thưa Đại trí Thánh tử, phụ vương Tịnh Phạn của Thánh tử truyền cho hạ thần những lời chua xót này với giọng điệu nghẹn ngào đôi mắt rơi lệ. Ngày nay Ngài đã nghe sắc lệnh của phụ vương như vậy, đáng ra Ngài phải cung kính vâng theo sắc lệnh của cha mình không được trái ý. Phụ vương của Thánh tử ngày nay đã chìm sâu vào dòng sông đau khổ, mà không có người cứu vớt lên bờ trí. Một mình Thánh tử mới có khả năng cứu vớt Đại vương ra khỏi biển khổ. Như có người rơi vào chỗ nước sâu thăm thẳm, chỉ có người lái thuyền giỏi mới vớt được người này.

Vị Sứ giả kia nói:

-Đúng vậy! Đúng vậy! Phụ vương của Thánh tử ngày nay chìm sâu trong biển cả đau khổ, lại không có người cứu nạn, chỉ một mình Thánh tử mới có khả năng làm việc ấy mà thôi. Lại nữa, khi Thánh tử còn bé nhỏ, chỉ có di mẫu Kiều-đàm-di là người chăm sóc nuôi dưỡng, mà bà lại là dì ruột của Thánh tử, đừng để bà cô quạnh, đến nổi chết mất. Ngày nay, vì nhớ nghĩ đến Ngài, bà buồn rầu kêu khóc hết sức đau khổ, như trâu mẹ mất con. Như vậy! Đúng vậy! Phu nhân Kiều-đàm-di vì không thấy Thánh tử nên buồn rầu, luôn luôn đau khổ kêu khóc tức tưởi. Vì vậy xin Thánh tử nghĩ lại ân dưỡng dục của bà thuở trước, như trâu mẹ luyến ái trâu con mà chẳng nên xa lìa. Phụ nữ quyến thuộc trong cung thương nhớ Thánh tử cũng như vậy.

Lại nữa, tất cả thần dân nam nữ già trẻ thuộc dòng họ Thích trong thành Ca-tỳ-la vì thương nhớ Thánh tử, tâm họ bị lửa khổ não thiêu đốt. Vì vậy, nay xin Thánh tử trở về hoàng cung để gặp lại họ.

Ví như mặt đất đang bị thiêu đốt, được chư Thiên giáng xuống trận mưa lớn dập tắt ngọn lửa khổ não.

Bấy giờ Bồ-tát nghe sứ giả của phụ vương trình bày như vậy, suy nghĩ một chút để điều hòa hơi thở, thân tâm an định rồi bảo sứ giả:

-Ta cũng đã biết, mọi người cha đều có tâm yêu thương con. Ta biết Đại vương Tịnh Phạn thân phụ của Ta, đối với Ta ngài hết sức thương nhớ. Nhưng Ta đang sợ sinh lão bệnh tử nơi thế gian, thấy mình đang bị chìm làm sao cứu được người chìm đắm. Do đó, muốn thoát khỏi luân hồi, trước tiên Ta phải tạm xa lánh quyến thuộc. Ai lại muốn sông xa lìa thân ái mà không muốn đoàn tụ.

Nếu trong thế gian không có sự ly biệt ân ái, thì thử hỏi ai lại không thích ở trong thế gian. Tuy cùng thân quyến sống đoàn tụ, lâu dài đi nữa, rồi cũng có ngày biệt ly. Do vậy, ngày nay Ta xả bỏ thân tộc, kể cả cha mẹ thân yêu, chí cầu Bồ-đề.

Theo như lời trình bày của hai vị, vì thương nhớ Ta khiến phụ vương buồn phiền khổ não vô cùng. Nghe lời nói của các ông, Ta thật không lưu luyến ân ái. Tại vì sao? Ví như có người ở trong giấc ngủ, mộng thấy thân bằng quyến thuộc đoàn tụ hội họp, thức dậy vẫn thấy biệt ly. Nếu phàm phu không hiểu đó là giấc mộng, tâm sinh thương nhớ, đó là hạng chúng sinh ngu si vô trí. Nếu là người trí, thì suy nghĩ: “Sự đoàn tụ gia đình quyến thuộc như khách đi đường, các lữ hành đồng một lộ trình kết bạn cùng nhau đi, theo nhau xa gần, khi đến nơi rồi, đều chia tay nhau về nhà.”

Do ý nghĩa như vậy, tất cả quyến thuộc thân yêu, có đoàn tụ thì có phân ly, cần gì phải ưu sầu khổ não. Lại trong quá khứ đã từng làm quyến thuộc với nhau, rồi xả bỏ đưa đến ngày nay, lại bỏ quyến thuộc đời này để sang đời sau, rồi bỏ quyến thuộc đời sau để sang đời sau nữa, cùng nhau xả bỏ theo tuần tự xoay như vậy. Tâm ái luyến quyến thuộc này từ đâu đến, rồi nó sẽ đi về đâu? Phàm người thế gian bắt đầu từ khi thọ thai đến bất cứ ở đâu, trong từng thời gian ngắn nhất đều có quỷ cướp mạng sống bên mình. Như vậy, tại sao nói đúng lúc với không đúng lúc mà ra sắc lệnh với ta: “Này con, lúc này không phải là thời điểm vào rừng cầu đạo, huống chi đây là lúc ở cung điện hưởng thụ ngũ dục!” Nếu hỏi Ta đúng thời và không đúng thời, Ta sẽ nói sơ lược. Tại sao? Trong tất cả thời gian, con quỷ cướp mạng sống luôn luôn ở bên chúng sinh, không rời. Do vậy, Ta muốn xa lìa cảnh sinh, già, bệnh, chết. Vì vậy, không lúc nào là không đúng.

Bồ-tát lại nói:

-Phụ vương bảo Ta hễ con về cha sẽ làm lễ quán đảnh trao vương vị. Phụ vương của Ta đã có tâm quảng đại, đối với việc khó làm mà ngài đã cho Ta một cách dễ dàng, điều đáng tiếc là chướng ngại đường tu tập của Ta, nên Ta không muốn nhận lãnh ngôi vua, thân ái ràng buộc, không phải là con đường giải thoát. Như người bệnh nặng không muốn ăn thức ăn ngon, tại sao người trí lại tham dục lạc ở đời. Kẻ vô trí bị vọng tưởng với thân ngu si chuốc lấy đại khổ, nên mới chịu nhận lãnh vương vị. Một khi đã ở ngôi vua thì buông lung phóng dật, ham mê tửu sắc không thể xa lìa. Ví như ngôi nhà bằng vàng bị ngọn lửa hồng thiêu đốt; ví như nước ngon pha với độc dược; ví như ao hoa lại có loài giao long. Đúng vậy! Đúng vậy! Người hưởng khoái lạc ngôi vua bị say đắm tâm ý, các tai hại liền kề mà không hay biết! Vì vậy, Ta không thích làm vua, nó không phải pháp giải thoát.

Rồi Ngài nói kệ:

Ví như nhà vàng tràn ngập lửa
Như uống nước ngon hòa độc dược
Như ao đầy hoa có giao long
Ngôi vua sung sướng rồi đau khổ.

Bồ-tát nói kệ rồi lại bảo:

-Vì lý do đó, các vua đời xưa lên ngôi, đang lúc tuổi trẻ trị dân, hưởng lạc, đến khi tuổi già nhàm chán ngũ dục, mới bỏ cung điện vào núi tu tập. Phàm người đã vào núi rừng tu tập, thà ăn cỏ để sống không chịu ở cung điện, thọ hưởng thú vui ngũ dục, như nuôi rắn độc, sau chuốc lấy tai vạ. Khi mới hưởng dục lạc không biết tai vạ, sau sân hận nổi lên làm hại đến thân. Thà bỏ nhà vào rừng núi tu hành, chẳng nên bỏ rừng núi trở về nhà. Tại sao như vậy? Vì bị chư Hiền thánh đời trước chê trách.

Ngày nay Ta đã sinh vào nhà đạo đức, nên tu pháp thiện, chẳng nên như người ngu si tâm tự buông lung làm điều bất thiện. Đã cạo bỏ râu tóc, thân mặc ca-sa, chỉ ở trong núi học tập tu đạo. Còn kẻ không biết xấu hổ cởi bỏ ca-sa, như vậy gọi là người ngu si không biết hổ thẹn, hoặc họ vì tham sân si, hay sợ người khác, mà lại thoái lui.

Ta ngày nay dù cung điện của trời Đế Thích cũng chẳng ham muốn, huống nữa là trở về cung điện của mình. Ví như có người được thức ăn ngon, sau khi ăn rồi ói mửa trên đất, dầu họ muốn ăn lại, thử hỏi có thể ăn được hay không?

Đúng như vậy! Như vậy, nếu người đã xả bỏ ngũ dục xuất gia, lại bị nghịch cảnh gì đó muốn trở về nhà cũng thế.
Như có người ra khỏi nhà lửa lại muốn trở vào nhà ấy. Đúng như vậy! Như vậy, người đã thấy tai vạ của thế tục, nên bỏ hình thức thế gian vào núi cầu đạo, nếu trở về nhà cũng thế.

Rồi Ngài nói kệ:

Như người chạy ra khỏi nhà lửa
Rồi lại bỗng nhiên vào nhà ấy
Thấy đời đau khổ bỏ xuất gia
Bỏ rừng hoàn tục cũng như vậy.

Bồ-tát nói kệ rồi, lại bảo hai sứ giả:

-Vừa rồi hai ông trình bày lời dạy của Phụ vương Ta: “Các vua đời trước ở tại gia tu tập cũng được giải thoát.” Điều này không thể có. Vì sao? Vì hai trường hợp này hết sức trái ngược. Tại sao? Người cầu đạo giải thoát tâm họ an định, ở nơi yên tĩnh mới là chỗ thích nghi. Nếu ở trong cung thì mặc tình hưởng thụ ngũ dục; lúc ra ngoài trị dân, thì phải giận dữ quở phạt đánh đập. Trong tâm người giải thoát không có việc này.

Đối với người ý muốn vui cảnh vô vi tịch tĩnh, họ không tham vương vị thế gian, dầu khi tại vị cần phải xa lìa, nếu ưa thích ngôi vua thì tâm ý của người này không thể tịch tĩnh. Nếu muốn an định mà lại tham việc đời, thì hai việc này mâu thuẫn nhau, cách xa như trời với vực. Như nước lửa không thể hòa hợp. Đúng như vậy! Như vậy! Như người cầu pháp giải thoát mà tham đắm ngũ dục, không thể có việc đó.

Ta xác định rằng các vị vua đời trước đã xả vương vị rồi, sau đó mới được an định trong tịch tĩnh. Nếu khi còn ở vương vị giáo hóa dân chúng, trí tuệ chưa đầy đủ cần phải dụng tâm học tập pháp trị dân, đâu thể chuyên học pháp giải thoát. Việc ấy tuy là như vậy, nhưng tùy ý các vua đời trước, hoặc cầu giải thoát, hoặc thọ ngũ dục. Còn Ta ngày nay không như vậy, chẳng học theo các vua, cũng lại chưa từng có tâm như vậy. Ta nay dứt khoát bẻ gãy khóa dục ở tại gia, không còn tham đắm ngũ dục thế gian, chí cầu giải thoát, đâu được hoàn tục.

Khi ấy, nghe Bồ-tát tỏ bày tâm chuyên chính không còn tham đắm thế gian hết sức chân thật như vậy, hai sứ giả lại cùng nhau kính bạch Bồ-tát:

-Tâu Đại thánh Vương tử, ngày nay Ngài phát lời thệ nguyện cầu pháp vô thượng, đó là điều chân thật không trái đạo lý, nhưng việc này chưa phải lúc. Tại sao? Vì ngày nay phụ vương của Thánh tử ưu sầu khổ não như vậy. Nếu tâm của Thánh tử trái với hiếu đạo, thì trái chánh pháp.

Rồi họ nói kệ:

Nay cầu pháp tạng thật lợi ích
Tuy có chánh lý, chưa hợp thời
Phụ vương sầu khổ tâm thống thiết
Trái với đạo hiếu, cầu đạo chi?

Hai sứ giả nói kệ rồi, lại bạch Thánh tử:

-Thưa Đại vương Thánh tử, theo thiển kiến chúng tôi, nếu cho tài lợi và ngũ dục thế gian không phải phương tiện tốt đẹp. Quan niệm này chưa phải là phương pháp quán sát chính xác. Ngày nay Thánh tử chưa biết nguyên nhân thì làm sao cầu kết quả? Hiện tại được phước báo mà lại bỏ đi, để tìm quả báo trong tương lai!

Thưa Đại thánh Vương tử, phàm tất cả sách vở thế gian đều có trình bày nhiều cách; có người chủ trương có đời vị lai; có người chủ trương không có đời vị lai. Đối với hai sự việc này rất có nhiều người phân vân. Do vậy Thánh tử đã được quả báo tốt thì nên thụ hưởng. Nếu giả sử thuyết không có vị lai là đúng, thì Thánh tử cần gì phải siêng năng cầu đạo giải thoát!

Lại có người cho rằng các việc thiện ác nơi thế gian này, quyết định sẽ lãnh hậu quá trong đời vị lai, do vậy siêng năng tu hành cầu đạo giải thoát. Quan niệm như vậy là kẻ ngu si. Giả sử các căn hủy hoại, xa lìa thân ái, oán ghét gặp nhau, cảnh hội họp, biệt ly đều là tự nhiên, kể cả sinh lão bệnh tử, thì cần gì phải nhờ vào nhân duyên siêng năng làm việc mà có. Phải biết vấn đề này không thật có. Lại khi ở trong thai, tay, chân, lưng, ngực, bụng, tóc, móng, các mạch, chi tiết… tự nhiên mà thành. Hoặc có người được thân thể rồi, trở lại bị hủy hoại. Hoặc có người nói: “Đã hủy hoại rồi, lại tự nhiên được thành tựu.” Cho nên trong các sách vở đời trước có nói: “Đầu gai nhọn như kim ai mài nó, chim thú đủ sắc lông ai người nào vẽ, vấn đề này tự nhiên không có tác giả, lại không thể muốn mà thành được. Tất cả sự vật trên thế gian không phải tùy tâm mà chuyển biến.”

Có kệ nói:

Đầu gai nhọn hoắc ai mài nó
Chim thú đủ màu nào có vẽ
Mỗi loài tùy nghiệp tự đổi thay
Sự vật thế gian không tác giả.

Lại có người cho rằng trời Tự tại là tác giả tạo ra mọi vật ở thế gian này. Nếu tự nhiên vậy, thì con người cũng chẳng cần khổ nhọc tạo nghiệp. Khi ấy phải chăng do nhân duyên đó lưu chuyển đưa đến, khi ra đi phải chăng cũng do nhân duyên ấy luân chuyển tự đi.

Lại có người cho rằng do phân biệt nên tướng “Ngã” phát sinh, cho nên thọ lấy hữu và hữu bị tiêu diệt cũng vậy. Nếu khi thọ lấy hữu chẳng do tìm cầu mà tự nhiên lãnh thọ, thì khi hữu hoại diệt, tự nhiên tiêu diệt không nhờ vào sức khác.

Lại có người cho rằng thế gian khi muốn thọ thân người, nếu cha họ không mắc nợ người khác liền được sinh làm người. Sinh lên trời hay làm tiên đều như vậy. Nếu muốn sinh vào ba chỗ này mà không mắc nợ người khác, thì họ không cần dụng công khó nhọc, cứ cầu thì tự nhiên sinh vào chỗ mình muốn. Việc giải thoát cũng như vậy. Trong các kinh điển đều trình bày đầy đủ những phương pháp như vậy, mỗi người đều được giải thoát. Người trí khi cầu cảnh giới tốt đẹp, nhất định phải tổn hại tâm lực. Do vậy, chúng tôi biết Thánh tử muốn Cầu giải thoát, cứ y vào lý, vào phương pháp của các sách vở đời trước đã nói để cầu con đường giải thoát. Nếu ai y như vậy, nhất định được giải thoát không nghi ngờ gì nữa.

Đại vương Tịnh Phạn, từ phụ của Thánh tử, vì yêu mến Thánh tử mà mang lấy sầu khổ, khổ này cần được giải trừ. Khi Thánh tử về lại cung, nếu trong ý cho cung điện là tai vạ cần phải xa lìa thì chẳng nên ám ảnh như vậy. Vì sao? Vì các Tiên vương đời trước bỏ hoàng cung ra đi, vào rừng núi tu hành, sau trở về cung điện của mình. Các vua ấy đều có danh hiệu là vua Am-bà-lê-sa (Tùy dịch Hư Không Tiễn), người đã bỏ cung điện vào núi tu hành, sau bá quan thần can gián khuyến dụ, quần thần tả hữu trước sau hộ vệ đưa vua trở về cung. Vua La-ma (Tùy dịch Năng Hỷ), người thấy quốc gia bị kẻ ác sách nhiễu, họ giết hại lẫn nhau chiếm cứ đất đai, nhà vua không nỡ đứng xem, nên từ bỏ núi rừng trở về triều chính đem chánh pháp ủng bảo vệ quốc gia. Lại nữa, thuở xưa tại thành Da-ly có một Đại vương tên là Đồ-lô-ma (Tùy dịch là Thọ) cũng từ bỏ núi rừng trở về bổn quốc bảo vệ dân chúng. Xưa có một Tiên nhân Phạm chí tên là Bà-chỉ-lê-đê (Tùy dịch là Ly Ngôn), lại có vua Chỉ-đề-bà (Tùy dịch Hỷ Thiên), lại có vua Đạt-ma-da-xá (Tùy dịch Pháp Xứng), vô lượng vô biên chư Tiên Phạm chí và các vua đều rời bỏ núi rừng trở về cung điện của mình, vỗ về dân chúng cai trị quốc gia. Do vậy, Thánh tử đã nghe việc làm của các vua đời trước, ngày nay Ngài nên trở về hoàng cung không có gì buồn khổ.

Rồi họ nói kệ:

Đây là danh hiệu các vua xưa
Đều bỏ thể nữ vào sơn lâm
Sau đều bỏ núi về vương cung
Thánh tử nay về nào có lỗi.

Lúc ấy, Bồ-tát nghe hai sứ giả nói những lời như vậy, liền bảo vị đại thần và Quốc sư Bà-la-môn:

-Vấn đề có hay không, nghi hay không nghi ta tự biết rõ. Nhưng hai vấn đề này nó có lý đúng của nó, dù ẩn hay hiện Ta đều chấp nhận. Nghe lời truyền lại đã không có nguồn gốc, do đâu mà tin được. Người có trí chẳng nên y vào lời không thật mà thực hành. Như người mù muốn đi đường, đã không có người dẫn, lại không thấy đúng làm sao đi được. Tâm không xác quyết, thì dù tốt hay xấu cũng như người mù ngu si kia. Đối với pháp thanh tịnh, thấy chẳng thanh tịnh, do vì vô trí. Nay thà Ta phát tâm tinh tấn dầu rằng chưa đắc quả, đành theo quả báo chịu nhiều khổ đau, thật chẳng ở trong vũng bùn lầy ngũ dục bị các bậc Thánh chê trách mà mê muội dục lạc nhất thời.

Theo lời các ông trình bày, từ xưa đến nay có các vua Hư Không Tiễn, vua Năng Tác Hỷ đều từ giã núi rừng để trở về hoàng cung. Đối với các vua này, Ta chẳng lấy đó để chứng minh cho sự giải thoát. Vì sao? Vì các vua này do sự học tập của họ, khi hết thần thông lại không có một pháp tu khổ hạnh nào khác, do vậy họ trở về hoàng cung.

Các ông ngày nay đối với Ta chớ có ý nghĩ như vậy. Ta đã lập nguyện: “Giả sử mặt trời mặt trăng rơi xuống quả đất này, núi Tuyết hùng vĩ kia dù có dời đi nơi khác, nếu Ta chưa chứng được trân bảo của chánh pháp, vì tham thế sự đem thân phàm phu này trở về hoàng cung thì không có việc như vậy.” Ta thà nhảy vào hầm lửa to lớn đang ngùn ngụt bốc cháy dữ dội, chẳng được tự lợi mà trở về hoàng cung, không có việc như vậy.

Khi tát phát lời thệ nguyện xong, Bồ-tát rời khỏi chỗ ngồi từ biệt hai sứ giả, ra khỏi khu rừng, một mình lên đường.

Khi ấy hai sứ giả nghe Bồ-tát nói lời như vậy, đồng thời thấy Ngài phát lời thệ nguyện dứt khoát rời bỏ thân tộc, biết chắc chắn Ngài không trở lại hoàng cung, cả người ngã xỉu, rồi đứng dậy cất tiếng khóc vang, nước mắt tuôn trào ướt cả mặt mày và cố đuổi theo Bồ-tát. Khi ấy do oai đức của Bồ-tát quá lớn, hào quang trong thân chiếu ra giống như ánh sáng mặt trời chói lọi, làm lòa đôi mắt hai sứ giả, nên không thể nào thấy thân Bồ-tát để theo kịp được.

Lúc ấy sứ giả vọng tiếng kêu Bồ-tát:

-Cúi xin Thánh tử chớ có ý chí cứng rắn như vậy, mong Ngài thương tưởng tâm ái mộ của chúng tôi, tâm yêu mến của chúng tôi không thể phai nhòa, không thể xa rời Thánh tử để về.

Hai sứ giả vừa ái mộ Thánh tử vừa kính trọng hướng về Đại vương Tịnh Phạn. Vì lý do đó hai người theo Bồ-tát khắp mọi nơi, hoặc đứng, hoặc trông, hoặc đi, hoặc chạy. Rồi hai sứ giả ra lệnh; riêng cho bốn kẻ tùy tùng âm thầm theo hầu cận sau Thánh tử: “Các người không được rời bỏ Thánh tử, hãy theo dõi Ngài đến nơi nào.”

Dặn dò như vậy rồi, trong tâm sứ giả lúc ấy sầu não đau khổ vô cùng, khóc than thảm thiết, cùng nhau thảo luận: “Giờ đây chúng ta làm thế nào trở về hoàng thành gặp mặt Đại vương, tâm tình của Ngài quá đau khổ vì nhớ Thánh tử! Lời của chúng ta làm sao tâu lên Đại vương! Khi đến gặp Đại vương, lại biết nói lời gì đây để giải tỏa được tâm phiền muộn của Ngài.”

Có kệ nói:

Hai sứ nhà vua biết Thánh tử
Quyết định không về nơi nội cung
Biệt phái bốn người theo Thánh tử
Về gặp nhà vua biết nói sao.